![]() |
Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm |
| |
| Tâm Tình | |
|
Chủ đề: NHÓM 12 YÊU THƯƠNG |
|
| << phần trước Trang of 161 phần sau >> |
| Người gởi | Nội dung |
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() Gởi ngày: 23/Oct/2015 lúc 12:52pm |
Định mệnh![]() _____________
Người đời thường nói “số trời” hay “thượng đế an bài”. Riêng tôi cho rằng định mệnh của tôi do
thượng đế đã định sẵn. Tuy nhiên tôi nghĩ, tôi có thể thay đổi tốt
hơn hoặc xấu hơn tùy theo ý nghĩ và việc làm của mình.
Tôi sanh ra đời trong gia đình nghèo, học muộn màng do chiến tranh.
Năm 1945, tôi học lớp ba, Nhật chiếm Đông Dương, tôi bị nghỉ học. Tiếp
tục ở nhà một vài năm, học lại rất trễ. Mỗi lần lên lớp phải làm
đơn xin miển tuổi, tức là xin bớt tuổi để học tiếp. Tôi không
mặc cảm là con nhà nghèo, trái lại tôi rất yêu đời, kính thầy, mến
bạn. Các thầy cô hiểu lầm tôi là con nhà giàu. Cho đến một hôm, tôi
mình trần, quần cụt, gánh hai chậu bông vạn thọ, tự tay tôi trồng,
tặng cho cô dạy Pháp văn. Lúc đó cô mới biết tôi là con nhà nghèo.
Mẹ tôi lúc nào cũng sát cánh bên tôi để theo dõi việc học của tôi.
Tuy bà mù chữ, nhưng không bao gìơ vắng mặt khi có cuộc họp PHHS. Ṃe
thông minh, nhưng không may mắn, phải buôn thúng bán mẹt ở đầu đường
xó chợ, bị đuổi chỗ nầy lại dời nơi khác.
Sau khi thi đậu THĐNC, các anh chị nhà giàu học tiếp lớp Đệ tam, một
số thi vào trường Cao đẳng; còn tôi nghỉ học và xin làm giáo viên
tại tỉnh Rạch Giá. Đây là thời gian kiếm chút tiền trả nợ cha mẹ
đồng thời lo luyện thi vào trường sư phạm. Tôi đậu vào trường sư phạm
cấp tốc Sàigòn.
Đến lúc nầy tôi vẫn nghĩ mình là con nhà nghèo, đâu dám lo chuyện
tình tự. Nhưng định mệnh đã cho tôi gặp nàng ngay lúc còn học
bậc trung học. Chúng tôi yêu nhau tha thiết nhưng trong sạch. Lúc tôi
đau,nàng chép bài hai lần để cho tôi có bài theo dõi. Lúc nàng đau
tôi cũng viết bài cho nàng. Nàng đau ban bạch, thứ bịnh dai dẳng
,phải nghỉ học cả tháng. Nàng rụng tóc, ốm gầy xương ra.
Nàng không chịu uống thuốc vì thuốc
bắc quá đắng. Chỉ có tôi vừa vỗ về, vừa đút từ muổng thuốc, nàng
mới chịu uống. Rồi Chúa thương tình cho nàng khỏe lại.
Tại Sàigòn, nàng học cao đẳng y tế (có lẽ 2 năm), còn tôi học sư
phạm cấp tốc một năm. Ngày chủ nhật tôi thường đến thăm nàng tại
bịnh viện Chợ Rẩy. Lần đầu, bạn nàng chỉ đứng xa nhìn rồi gọi
nàng ra. Ngay lần kế đến, cô ta lớn tiếng cố ý cho tôi nghe: “C. ơi,có
ông xã mầy đến thăm”. Tôi chẳng ngượng chút nào, lại cười đồng tình
chấp nhận.
Trong lúc đó, chị T. tìm đến nhà tôi thăm. Đây là nhà tôi ở nhờ, là
thầy dạy Pháp văn lớp đệ tứ. Vợ của thầy là bạn học cùng lớp với
tôi. Lúc thăm lại có chị K đi theo. Đây là một tai họa bất ngờ tin
tức được bay sang bịnh viện Chợ Rẩy, khiến tôi khổ sở vô cùng. Tôi
không biết phải làm sao cho nàng tin tôi. Nàng giận tôi không chịu ra
gặp mặt. Tôi kiên nhẫn chờ đợi một vài lần rôi nàng cũng tha. Nàng
nũng nịu nói nửa đùa nửa thật: “bạn em muốn mua anh đó. Nó nói,
bán bao nhiêu nó cũng mua. Nếu anh chịu thì tuần tới đến làm
giao kèo”.
Thật là “định mệnh”. Tôi về Rạch Gía dạy, lo cho đàn em đông, lo
trả nợ cho cha mẹ. Lúc lảnh lương giao hết tiền cho mẹ, không giữ lại
một đồng nào. Và thời gian cứ trôi qua. Mãi lo thân phận nhà
nghèo... Ban ngày dạy học, tối lo luyện thi để tìm tương lai đi lên.
Tôi quên bẳng đi người yêu cho đến một hôm, t̀ôi gặp chị nàng than
phiền: “Em H. ơi, tại sao con C. nó không chịu về Rạch Gíá, chị buồn
quá em ơi!”
Tôi giật mình tính lại đã 4 năm rồi, tôi không liên lạc với nàng. Lúc
đó tôi mới làm đám cưới được hai tháng. Tôi hy vọng nàng làm đám
cưới trước tôi, để tôi không bị mặc cảm. Còn như nàng làm sau tôi, tôi
cầu nguyện cho nàng có được người chồng thương yêu và tràn đầy
hạnh phúc.
Trần văn Hiếu |
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged |
|
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() Gởi ngày: 02/Nov/2015 lúc 9:21am |
chim bay về biển
Một mai chim bỏ bay về biển Ta đứng một mình ngó nhánh sông Ta khóc nhìn theo giòng nước chảy Nghe trăm ngọn sóng vỗ trong lòng (Sương Mai) Một cánh chim vừa bay ra biển, nhỏ dần rồi mất hút giữa mênh mông. Tôi mơ hồ như hình ảnh của chính mình đang tìm về quê cũ. Hình dung đến thành phố Nha trang xưa, nơi mà nếu không có biển sẽ không còn lãng mạn để người ta nhắc nhớ, đắm say, cũng có thể làm nhẹ đi ít nhiều tiếc nuối của nhưng người Nha trang xa xứ. Bờ biển cát từng chôn giấu những hang động tuổi thơ và ôm ấp dấu tích của bao cuộc tình thơ mộng, nước biển đã cuốn trôi đi, nhưng không thể xóa mất trong ký ức của nhiều cặp tình nhân mà bây giờ tóc ai cũng bạc. Âm thanh những ngọn sóng rì rào đã dệt nên những bài thơ, những bản tình ca từng làm khuấy động bao trái tim người, mà dư âm dường như vẫn còn vang vọng mãi. Nha trang đẹp đẽ, hiền hòa và thơ mộng đó bây giờ đã không còn nữa. Đã trở thành một Nha trang xa lạ, như thuộc về ai đó chứ không phải của mình. Đó là cảm nhận xót xa của đám bạn bè tôi, không chỉ người đã rời xa mà cả những người vẫn còn ở lại với Nhatrang, sống với Nhatrang gần trọn một đời.
Nhà văn Nguyễn xuân Hoàng, một đồng môn huynh trưởng cùng trường Võ Tánh, sau 15 năm trở lại Nhatrang, đã viết: “Mười lăm năm sau ngày ra khỏi nước, tôi quay trở về như một người xa lạ. Thành phố tôi đã ở thời tuổi nhỏ như nhỏ lại, những con đường quen đã xa lạ, tiếng sóng biển vọng lại âm thanh đều đặn kỳ quái của một vùng biển chết nào. Bãi cát không còn cái màu của thời tôi mới lớn và rừng dương đã bi xóa khỏi bản đồ trái tim. … tôi trở về nhìn lại biển xưa thấy không còn lại chút dấu vết nào của những ngày trốn học, những buổi trưa hạnh phúc nằm trên bãi cát, gối đầu lên hai cánh tay, đấp mặt bằng cành lá dừa, ngủ một giấc chờ đến giờ tan học lủi thủi trở về”( trích trong “Nhà Từ Đường” tháng 5.2013- trên VOA)
Một chị bạn , hiện định cư ở thành phố Seattle bên Mỹ. Năm 1954 là một cô bé 7 tuổi, di cư theo gia đình từ Hà nội vào Sài gòn. Ông bố là quân nhân, được bổ nhậm ra một đơn vị ở Nhatrang. Cô rất vui mừng được theo cha ra sống ở thành phố biển. Thi đậu vào lớp đệ thất trường Võ Tánh. Nhưng chỉ mấy năm sau lại bịn rịn bỏ lại bạn bè, theo bước chân cha ra tận Quảng Nam, rồi Huế. Sau này trở thành cô giáo trung học, lên cao nguyên sống với phố núi và đám học trò Kinh – Thượng, giữa chiến tranh vây bủa, may mắn sống còn trong lần di tản kinh hoàng trên con đường Tỉnh Lộ 7B.Vậy mà một thời tuổi thơ ngắn ngủi ở Nha trang lại là mảng quá khứ đẹp đẽ nhất. Trong ký ức và cả trong trái tim, chị đã dành ngăn lớn nhất cho Nha Trang . Sang Mỹ định cư khá lâu, chị háo hức trở về thăm Nha trang, để rồi “chỉ thấy lòng buồn rười rượi, bởi đang đi trên đất Nha trang mà cảm giác như mình là kẻ lạ, không tìm thấy bóng dáng Nha trang của mình ngày trước”. Hai người bạn học cùng lớp với tôi. Sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên và gần trọn một đời sống với Nhatrang. Trước 75 đều là thầy, cô giáo trung học, giờ chỉ âm thầm nhìn đời từng ngày trôi đi vô vị, viết những bài thơ buồn trước bao điều đổi thay ngao ngán. Họ ở lại với Nha trang cho đến hôm nay, sau bao nhiêu lần tưởng chừng Nha trang đã hất hủi, đuổi xô, không còn chỗ cho họ dung thân. Hai người bạn của tôi rất chí tình với bạn, sống chết với quê, vậy mà đã bao lần than thở: “không ra đi như mi, tớ ở lại với Nhatrang mà vẫn không tìm ra Nhatrang của bọn mình ngày trước! Không có gì đau hơn là sống trên chính đất nước mình mà cứ mãi hoài vọng một quê hương!” Và họ chỉ còn gặp lại Nhatrang trong ký ức, trong những bài thơ họ viết về một thời quá khứ, nghe chừng đã rất xa xưa như trong tiền kiếp:
chiều quá chén nửa đêm tỉnh giấc mảnh trăng khuya vòi või chờ ai trong cỏ ướt dế buồn thao thức giữa quê nhà sao mãi hoài hương. …
Từ buổi ấy đồng thu cỏ biếc nghe âm u gió tạt mùa xa người đứng giữa trời không – luyến tiếc nghĩ ngợi gì tóc rủ sương pha. …. Bao năm tìm lại con đường nẻo xanh ngần ngại nghe chừng rất xa chiều thu xứ ấy mù sa tình thu thuở ấy cũng là chiêm bao. (đ.ư.v)
Đám học trò bọn tôi thưở ấy, giờ tóc ai cũng bạc. Sau cuộc thăng trầm quá lớn, nhiều khi tưởng mình giờ là một người nào khác. Dù còn sống ở quê nhà hay lưu lạc tha phương, ai cũng đã phải trải qua một cuộc đổi đời bi thảm. Vết thương lớn, nhỏ trong lòng dường như vẫn chưa lành.
Lần trở lại Nha trang duy nhất để tìm bốc mộ thân phụ bên ngoài một trại tù “cải tạo”, cách đây đúng mười năm, tôi đi một mình trên những con đường xưa, nghe tiếng sóng vỗ xa xa mà trong lòng chỉ còn dội lại những dư âm ngày cũ. Tôi may mắn gặp lại vài ba người bạn học. Nhưng dường như tất cả đều nở nụ cười không trọn. Vui đó rồi buồn đó, bởi mỗi người một số kiếp long đong. Một thằng bạn rất thân,cùng học ba năm cuối ở trường Võ Tánh. To con, đẹp trai và học giỏi. Sau này cũng là bạn lính. Ở tù hơn bảy năm nên bạn bè ai cũng nghĩ là nó đã đi diện HO và đang nổi trôi nơi nào trên nước Mỹ, không ngờ tôi còn gặp lại nó ở Nhatrang. Mặc dù bây giờ nó không được phép ở lại trong ngôi nhà và thành phố Nha trang xưa của nó. Sau sáu tháng vào tù, căn nhà nhỏ của nó ở Nha trang bị tịch thu, cô vợ “Bắc Kỳ nho nhỏ” mang ba đứa con (mà đứa lớn nhất mới vừa năm tuổi) giao cho bà nội ở trên Thành, Diên Khánh, rồi sang sông…về đâu đó, không bao giờ trở lại. Bà nội thì già, mấy đứa nhỏ bấu víu vào ông chú, vừa tốt nghiệp kỹ sư Nông Lâm Súc, nhưng bởi có ông anh là “ngụy đang cải tạo”, nên đi làm phụ hồ cho một ông thợ nề là bác họ. Trong lúc phụ hồ sửa sang một bệnh viện, anh làm quen được một chị đầu bếp. Không biết tài ăn nói thế nào mà anh làm cô động lòng trắc ẩn, thương cảm hoàn cảnh mấy đứa cháu dại không mẹ không cha. Cô sẵn sàng làm mẹ nuôi. Với tất cả tiền bạc và tấm lòng, đã cưu mang ba đứa bé không thua gì một người mẹ. Ba đứa nhỏ lớn lên cứ tưởng cô là mẹ. Cái tình mẫu tử này sao mà hiếm hoi và bi tráng quá. Thì ra trong cái thời nhá nhem tình nghĩa ấy vẫn có những tấm lòng còn hơn cả những chữ Từ Bi viết trong mấy ngôi chùa. Bảy năm sau, thằng bạn tôi được thả về, cúi mình trước người con gái ân nhân để xin nói một lời tạ ơn. Cô nắm tay ngăn lại. Đúng giây phút ấy, bốn mắt nhìn nhau và cùng rơi lệ. Họ ôm nhau, yêu nhau rồi lấy nhau. Hôm gặp chị, tôi tò mò hỏi lý do nào chị lại yêu và lấy thằng bạn khốn cùng của tôi trong lúc chị còn con gái. Chị bảo vì không thể rời xa ba đứa nhỏ mà chị xem như con ruột của mình. Chính cái tình thương và sự gắn bó ấy mà chị trở thành vợ của ba nó. Còn tôi thì lại mơ màng suy ngẫm đến hai chữ duyên nợ của đất trời. Sau này chị làm đầu bếp cho một nhà hàng ở bờ biển Nha trang. Thằng bạn tôi và mấy đứa con vẫn sống trên Thành, vì với cái lý lịch đen, không thể xin được cái hộ khẩu trở về thành phố cũ. Còn chị vợ thì tiếc cái hộ khẩu ở thành phố, mà không muốn chuyển lên vùng quê Diên Khánh. Cũng chính vì Nha trang đã tạo nên cái hộ khẩu mỗi người mỗi nơi ấy, mà khi thằng bạn của tôi được gọi phỏng vấn xin đi theo diện HO, bị phái đoàn Mỹ từ chối, trả lại hồ sơ và sỉ vả một trận, vì nghĩ chị vợ tốt bụng này chỉ là vợ giả, trả tiền cho nó để được bỏ nước ra đi. Chuyện tình ngay mà lý gian ấy cũng đã làm vợ chồng tốn kém và khốn khổ một thời. Sau mấy lần khiếu nại, cái ân sủng cuối cùng là: chỉ có người cha và ba đứa con được ra đi vào đợt cuối HO. Còn chị vợ sẽ vĩnh viễn không bao giờ được bước chân đến Mỹ. Bạn tôi quyết định ở lại với người vợ ân tình, mà anh coi như ông trời đã sai xuống dương trần này để gánh vác cho mấy cha con. Bây giờ ba đứa con đã là người lớn. Thằng bạn tôi ở nhà chăm sóc ngôi từ đường, nuôi mấy con heo và nấu cơm cho con cho vợ. Chị ấy vẫn làm ở khách sạn dưới Nha Trang, tối lại chạy về Diên Khánh! Hôm đứa con gái lớn lấy chồng, chị khuyên mãi thằng bạn tôi mới báo tin cho bà mẹ ruột bạc tình, bây giờ đang lấy một ông chồng người Thụy Sĩ. Bà ấy cũng vác bộ mặt đầy son phấn trở về. Nhưng đứa con gái chỉ cho bà đến nhà hàng dự tiệc mà từ chối sự hiện diện của bà trong hôn lễ. Con bé bảo rằng, bà chỉ là một cái máy đẻ ra tôi, nhưng mẹ tôi chính là vợ của ba tôi bây giờ. Tôi rót một ly rượu mừng cho cả cái vô phúc lẫn cái diễm phúc của thằng bạn cũ, nhưng rót đến hai ly để mời vợ nó. Một ly mừng và một ly để nói hộ giùm tôi lòng biết ơn và ngưỡng mộ. Tôi quay sang bảo thằng bạn: Nó xua tay: Tôi đùa: Tôi choàng tay ôm vợ chồng nó mà nước mắt trào ra. Tôi nghĩ, nó vẫn còn tác phong của một thằng lính. Khi chia tay, nó ôm vai tôi buồn bã: -Mày thấy không, cái thành phố Nha trang mà tao sống cả một thời đẹp đẽ, giờ cũng phụ bạc tao, gây cho gia đình tao bao khốn khó! Từ ngày thuộc về bọn CS, Nhatrang với tao là một vùng đất xấu, lạ lẫm. Mày còn nhớ tác phẩm tiếng Pháp “Le domaine maudit” của ông thầy Cung Giũ Nguyên? Tôi thực sự chưa hiểu, chỉ thấy mơ hồ có một điều gì đó không ổn trong cách suy tư của nó. Nhưng tôi cảm được nỗi đau của nó.
Một cô bạn học từ những năm đệ ngũ, đệ tứ bên trường Văn Hóa. Một lần sang Mỹ thăm cô con gái là sư cô ở một ngôi chùa vùng Los Angeles, bất ngờ đọc được bài viết của tôi trong Đặc San Liên trường Võ Tánh & Nữ Trung Học Nha Trang, trong đó tôi có nhắc đến tên nàng, rồi lần mò tìm ra tông tích của tôi. Ngày xưa là một cô bé khá xinh và học giỏi. Sau này có thời làm phóng viên chiến trường. Ông chồng gốc Võ Bị Đà Lạt, chết một tháng trước ngày có chuyến bay theo diện HO, nên nàng và hai cô con gái không được đến Mỹ. Dắt con lưu lạc khắp nơi, với một số vốn liếng của mẹ cha để lại. Nàng bảo nhiều lúc nhớ Nhatrang lắm, thử quay về, nhưng rồi thấy lạc lõng, mọi thứ chỉ mới đây thôi mà sao giờ trở thành xa lạ quá. Cuối cùng, mẹ con quyết định mua một căn nhà bên cạnh Quan Âm Tự ở Sài Gòn xa lạ. Cô con gái út vừa học đại học vừa tu học trong chùa. Còn nàng thì tu tại gia và cũng là một nhà thơ. Hôm ngồi trên máy bay trở lại Bắc Âu, tôi đọc hết hai tập thơ của nàng ký tặng lúc chia tay. Có nhiều bài tiếc nhớ Nhatrang xưa. Nha trang của nàng và của đám bọn tôi. Nàng làm thơ Đường thật hay và cảm động. Tôi nghĩ, nếu Đức Phật mà đọc được thơ của nàng chắc cũng phải rơi nước mắt xuống tòa sen. Một thằng bạn khác cùng học trường Võ Tánh. Sau này gặp nhau trong cùng một đơn vị lính. Đánh giặc rất lì, nhưng luôn bị “đì” bởi bản tính ngang tàng không nể mặt cả cấp chỉ huy. Trong khi đang ở tù ngoài Bắc, chị vợ ở nhà chán chường cuộc sống, lội xuống biển Nha trang tự vẫn, để lại một thằng con trai năm tuồi. Nơi người ta tìm ra thi thể của chị, chính là bờ cát dấu tích yêu đương hẹn hò, thưở hai người mới quen nhau. Ra tù, không thể sống trên thành phố quê hương một thời đẹp đẽ giờ chỉ còn là mảnh đất thê lương tang tóc, mỗi ngày phải ám ảnh bởi cái chết đau đớn của người vợ trẻ đẹp dấu yêu, nó dắt mẹ già và đứa con thơ vượt biển. Sang Mỹ, nhờ mẹ chăm sóc cho đứa con, nó vừa đi làm vừa đi học. Được bạn bè khen, nó bảo: “chẳng phải tao siêng năng chăm chỉ gì đâu, nhưng vì không muốn còn có chút thì giờ rảnh rang nào để nghĩ ngợi mông lung, hồi tưởng về một quá khứ đau lòng”. Nó chưa bao giở về lại Nhatrang. Bạn bè ai cũng phục khi nó lấy được bằng Cao học Tâm Lý ( Master of Psychology) và có công việc làm lương cao, ổn định. Trong đám bạn bè bất hạnh, nó là đứa thành công nhất. Bỗng một ngày được tin nó chết. Chết đau đớn. Thuê phòng trong một khách sạn ở gần nhà, rồi đến đó dùng súng bắn vào đầu mình tự sát, để lại mấy lá thư. Tôi nhận được lá thư nó viết cho tôi, được cảnh sát giao lại, nét chữ đẹp đẽ ngay ngắn, chứng tỏ nó rất bình tĩnh trước khi tự kết liễu đời mình. “Xin lỗi mày, tao đi trước mà không kịp chia tay với mày. Bọn mình rồi sẽ như những con chim đã đến lúc phải bay về với biển. Mày đừng nghĩ là tao buồn. Tao vui lắm đó. Thôi thì tao đi trước để dọn chỗ cho bọn mày, đám bạn bè thân thiết nhất của tao. Chỉ có một điều tao tiếc và ân hận là đã không được chết ở chiến trường như bọn thằng Lâm, thằng Bê, thằng Pho, anh Tài, Đức”. Đọc xong thấy lòng đau đớn như có nhiều vết chém, vậy mà không biết vì sao tôi không khóc được. Những người tiễn đưa nó hôm ấy, hầu hết là bạn bè cùng đơn vị xưa, và một số bạn học cùng trường Võ Tánh Nha trang.
Năm ngoái, một chị bạn cùng trường Võ Tánh, cùng học Ban C sau tôi một năm, định cư ở Canada, cũng đã ra đi, sau hơn hai năm chống chọi với căn bệnh ung thư. Tôi và có lẽ hầu hết bạn bè Võ Tánh rất mến phục cô bạn có tấm lòng và rất khí khái này từ những năm 1962-1963. Mọi người đã ưu ái tặng chị biệt danh “Nữ hoàng xuống đường”. Luôn sống hết lòng với bạn bè và quê hương đất nước. Quyết liệt, kiên cường trước những bất công, bạo lực. Những ngày lâm bệnh, sớm ngộ Đạo Đất Trời, chị buông bỏ tha thứ hết những hờn giận ân oán riêng tư. Một thời gian trước khi mất, chị vẫn liên lạc trao đổi với tôi về những kỷ niệm Nha Trang, về tình hình chính trị ở quê nhà với nhiều hy vọng, và tiếc là không thể sống lâu hơn để chứng kiến ngày chế độ Công sản man rợ độc tài cáo chung trên quê hương. Chị ra đi, để lại bao thương tiếc cho gia đình, người thân và tất cả bạn bè. Chị mong muốn và dặn dò, sau khi chị mất xin gia đình hỏa thiêu và mang tro cốt của chị rải ở ngoài khơi Thái Bình Dương để hương linh của chị theo biển trôi về quê nhà, bên kia bờ đại dương, ở đó có bãi biển Nha trang thơ mộng, nơi chị sống cả một thời tuổi thơ và lớn lên với những vui buồn, vinh nhục.Tôi hình dung đây không phải là cánh hải âu mà là một cánh đại bàng hùng vĩ, đẹp đẽ vừa bay về với biển.
Cuối tháng 2/2013, trước khi trở về lại Bắc Âu, tôi bất ngờ nhận được hung tin: hiền thê của một anh bạn qua đời vì một chứng ung thư khó chữa. Chị là cựu nữ sinh Nữ Trung Học Nha Trang, và sau này là một người đàn bà tuyệt vời. Gia đình anh chị là một đại gia đình quân đội. Các con của chị đều là sĩ quan trong quân đội Hoa Kỳ, một cô con gái tốt nghiệp từ quân trường nổi tiếng West Point. Sau này đều trở thành những bác sĩ, luật sư. Phu quân của chị là một người bạn, người đàn anh của tôi ở trường Võ Tánh cũng như trong quân đội ngày trước. Con nhà giàu, đẹp trai và tính tình hào hoa vui tính. Là môt sĩ quan trẻ đầy phong độ khi tốt nghiệp từ trường Võ Bị Đà Lạt, đối tượng của nhiều cô con gái Nha trang thuở ấy. Ngày anh quyết định làm đám cưới với chị, chắc chắn có nhiều cô tốn khá nhiều nước mắt. Cuộc tình đẹp. Một gia đình thành công, hạnh phúc. Chị luôn bặt thiệp vui vẻ, hết lòng với bạn bè, đồng môn, đồng đội cũ của chồng. Nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Ai cũng quí mến chị. Vậy mà đùng một cái, chị ra đi, đột ngột chẳng ai ngờ. Hôm dự dám tang chị, rất nhiều bạn bè cùng khóa Võ Bị với anh và đồng môn thân quen thời Võ Tánh & Nữ Trung Học Nha trang, từ mọi nơi về tiễn biệt. Trong nhà nguyện không còn chỗ đứng. Anh chồng ốm nhom, tiều tụy. Khi nói lời chia buồn, tôi ôm đôi vai gầy gò mà thấy thương anh, tội nghiệp. Khuôn mặt hốc hác, đôi mắt quầng thâm. Tôi nghĩ là anh đã khóc thầm nhiều lắm, ở cái tuổi đã trải qua bao thăng trầm mất mát, tưởng như không còn nước mắt. Khi nhìn quan tài chị được đưa vào lò thiêu. Cửa lò đóng lại. Tôi tưởng tượng, lại thêm một cánh chim đẹp đẽ nữa vừa bay về với biển.
Tôi nghĩ rồi sẽ có môt ngày, thế hệ bọn tôi, những cô cậu học trò rời trường Võ Tánh vào những năm đầu thập niên 60, bây giờ đều đã trên tuổi 70, sẽ lần lượt ra đi. Tất cả cuối cùng rồi cũng là những cánh chim bay về với biển. Bỗng lòng tôi chợt thoáng lên một chút băn khoăn. Những cánh chim di xứ ấy sẽ bay trở về đâu, khi Nha Trang ngày xưa của họ đã thực sự không còn. Thành phố đã cho họ một thời tuổi thơ đẹp đẽ hoa mộng, nhưng cũng đã để lại trong lòng họ quá nhiều đớn đau, mất mát sau cuộc đổi đời. Những hang động tuổi thơ và dấu tích của những cuộc tình ngày xưa, tất cả giờ chỉ còn là cổ tích. Tôi nhớ lời thằng bạn còn ở lại Nha Trang, nhớ tới thầy tôi, nhà văn Cung Giũ Nguyên và tác phẩm Le Domaine Maudit viết từ năm 1961, như là một tiên tri của Thầy.
Phạm Tín An Ninh |
|
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged |
|
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 24227 |
![]() Gởi ngày: 04/Nov/2015 lúc 9:17am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged |
|
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 24227 |
![]() Gởi ngày: 06/Nov/2015 lúc 12:23pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged |
|
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 24227 |
![]() Gởi ngày: 12/Nov/2015 lúc 10:20am |
|
nguồn cội xót xa Đêm sẻ chia cùng những xót xa Tôi
quen Long từ lúc còn trong quân trường. Hai thằng có nhiều thứ khác
nhau. Cái tên Nguyễn Vĩnh Long của nó cũng đủ làm cho tôi cảm thấy cách
xa nó đến cả… vài trăm cây số. Nó cao lêu ngêu, tôi thuộc loại chỉ đủ
thước tấc đi lính. Mỗi lần xếp hàng diễn hành hát bài Đường Trường Xa,
nó cầm cờ đi hàng đầu, còn tôi ách ê hàng áp chót. Tôi ăn nói vụng về
nên thường thầm lặng còn nó thì giỏi lý sự nên nói hơi nhiều. Cái giọng
nam bộ của nó thường mở đầu bằng mấy tiếng chửi thề, nên tôi ngại nói
chuyện với nó. Dường như hai thằng chỉ có một điều giống nhau duy nhất :
Con nhà nghèo, gia đình lại ở quá xa, cho nên những ngày cuối tuần, hai
thằng đều mồ côi tại chỗ. Không ngờ chính cái điều giống nhau duy nhất
ấy mà sau này hai thằng trở thành bạn chí thân
Quả thật là nó có nhiều thứ khác
tôi, nói cho đúng là có nhiều cái hơn tôi. Ra trường nó đỗ cao, được
chọn về quân trường Đồng Đế, ngay tại quê tôi, làm huấn luyện viên, còn
tôi thuộc loại “lè phè” nên phải ra làm trung đội trưởng ở một sư đoàn
tận trên cao nguyên xa tít mịt mùng.
Sống xa nhau, nhưng cứ mỗi lần về
phép, hoặc có dịp dẫn quân qua thành phố Nha Trang là tôi ghé lại thăm
nó. Có khi ở chơi với nó cả tuần.
Hoạn lộ của Long coi bộ thênh
thang hơn tôi nhiều lắm. Phải nói thật là nó có tài, chứ không hề chạy
chọt, hay nhờ vã một ai. Làm huấn luyện viên, cán bộ, chỉ một thời gian
ngắn, nó được rút về làm Trưởng Phòng, rồi lên Trưởng Khối. Chức vụ cao,
cứ theo bản cấp số, nó lên lon lên lá vù vù. Còn tôi quanh năm đánh
đấm, nằm núi lội rừng, thương tích mấy lần cũng chỉ được mấy cái huy
chương, mà chẳng có dịp nào đeo trên nắp túi áo làm oai với mấy cô em
gái hậu phương.
Chỉ sau mấy năm, nó đã lên đến
quan ba. Tôi về phép đúng lúc ăn khao. Nó dặn dò tôi hai tháng nữa, cố
gắng dọt về đây làm phụ rể cho nó. Nó lấy vợ. Nghe nói vợ nó là trưởng
nữ của một nhà giàu nên đám cưới sẽ linh đình ghê lắm. Hai tháng sau
tôi đang đóng quân ở Lâm Đồng, năn nỉ ông Tiểu đòan trưởng xin ba ngày
phép, theo trực thăng của Phi Đoàn Thần Tượng 215 biệt phái, bay về
NhaTrang mừng đám cưới thằng bạn chí thân. Vào nhà nó trong cư xá khi
trời sắp tối. Cửa đóng im ỉm. Tôi vào cổng quân trường hỏi sĩ quan trực.
Ông cho biết Long đang còn ở trong văn phòng.
- Cái thằng này, lúc nào cũng
gương mẫu. Ngày mai cưới vợ mà bây giờ còn cặm cụi làm việc. Hèn gì nó
cứ lên lon lên chức là phải. Tôi nghĩ thầm trong bụng.
Đẩy cửa vào văn phòng, thấy nó
đang nằm dài trên bàn, mặt mày thiểu nảo. Tôi có linh tính là ngày mai
tôi không có cái vinh dự được làm phụ rể. Nó không nói năng gì và cũng
chẳng đưa tôi về cư xá mà lái xe chở tôi chạy một vòng xuống quán số 5
dưới bờ biển Nha Trang, uống mấy lon bia trút mọi điều ẩn ức:
- Đ.m. bà già dịch của con bồ tao không chịu gả con gái cho tao.
Lâu rồi, tôi mới nghe lại cái giọng chửi thề ngày xưa của nó. Tôi trố mắt nhìn nó chờ lời giải thích.
- Mày biết không, ông già tao
với mấy bà dì từ Vĩnh Long khăn gói ra đây. Sợ không môn đăng hộ đối,
tao phải nhờ ông đại tá chỉ huy phó dẫn nhà trai đến nói chuyện với ông
bà. Ông chồng thì vui vẻ tay bắt mặt mừng, tao thấy đời cũng còn lên
hương. Tới lúc mọi người đứng vào vị trí “thao diễn nghỉ”, bà vợ mới
nghiêm mặt phán cho một câu làm tao muốn xỉu luôn tại chỗ.
- Câu gì mà ghê gớm như lời chúc tết của “bác ” trước tết Mậu Thân vậy ? Tôi đùa.
- Bà hỏi ông già tao: Ông hỏi
con trai của ông, là lương tháng của cậu có đủ cho con gái tôi mua xà
phòng giặt quần lót nó hay không mà đòi cưới với hỏi.
Có vài lần đi chơi chung với Long
và cô vợ.. hụt này. Nàng trông cũng dễ thương, gốc Bắc Kỳ 54, nên giọng
Hà Thành còn “ngàn năm văn vật” lắm. Cha mẹ cô là chủ một hảng thầu có
máu mặt ở Nha Trang, nàng thì học xong tú tài thì theo nghiệp mẹ cha,
kinh doanh, làm chủ mấy tiệm may, mấy cái sạp vải trong chợ Đầm, và còn
làm thêm cái nghề tay trái là thầu cung cấp lễ phục cho khóa sinh
trường Đồng Đế. Chính cái nghề phụ này mà cô nàng gặp và mết Long, một
trưởng phòng trẻ tuổi cao ráo đẹp trai. Qua mấy năm tình yêu còn mặn
nồng hơn nước biển Nha Trang, nhưng biết bà mẹ chê lính nghèo, nên nàng
không dám mở lời. Cuối cùng thì nàng năn nỉ ông già. Cái đám hỏi là do
chính ông đưa đường chỉ lối. Ông hiền lành tốt bụng, nhưng kẹt là mọi
việc bà vợ đều nắm quyền. Mà đã là vợ nắm quyền thì cái nhà sẽ trở thành
vô phúc. Tôi đã từng nghĩ, miền Nam sụp đổ cũng có sự góp phần không
nhỏ của những bà vợ mấy ông lớn ưa nắm quyền chồng.
Sau đám hỏi bất thành, ông già nó
trở về Vĩnh Long, buồn và tủi thân nên bệnh cả mấy tháng trời. Nó bảo là
vẫn nặng tình với cô con gái, nhưng rất hận bà già Bắc kỳ giết giặc.
Tôi lên mặt dạy “chiến thuật” cho nó :
- Mày là lính văn phòng mà còn
bị chê, cỡ tao là lính tác chiến thì chắc chỉ phải đứng xa ngoài cửa.
Tao như mày thì một là áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung”, còn nếu
mày thấy con tim chưa đến nỗi lao đao, thì cứ tìm mục tiêu khác ngon
lành hơn mà “đột kích”. Mày là lính, đừng để mất mặt KBC.
Nó đập vai tôi cười méo mó.
Không biết có phải nhờ nó áp dụng
“triệt để” bài học chiến thuật tôi dạy lần trước, nên vừa “đột kích”được
mục tiêu nào mới, mà chỉ gần ba tháng sau nó lại nhờ một anh bạn phi
công Sao Mai L 19 từ Nhatrang lên bao vùng liên lạc nhắn tôi trên tần số
không lục : Ninh Kiều hạ san gấp ăn đám cưới của Victor Lima ở tango
hai lần Delta ( ám danh đàm thoại có nghĩa là Vĩnh Long ở trường Đồng
Đế). Báo hại lần này tôi phải nói dối với ông Chiến đoàn trưởng một lần
nữa, để bỏ rừng theo trực thăng vù về thành phố biển.
Nó đón tôi ở phi trường. Vừa gặp nó tôi đã “biểu dương thành tích” :
- Tao phục mày. Tao là dân đánh
đấm mà cũng chưa chiếm được mục tiêu mới trong vòng ba tháng, nhất là
sau một lần chiến bại còn thương tích đầy mình. Mày mà ra cầm quân chắc
cũng đã là “đại bàng”của tao từ lâu rồi.
Nó đấm vào bụng tôi một cái :
- Mục tiêu mục tiết cái con khỉ. Tao áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung” của mày đó.
Tôi tròn mắt :
- Tao còn phục tài mày hơn nữa. Cái gì mày cũng đáng là “sư phụ “của tao.
Đám cưới vội vã, nhưng cũng linh
đình. Có lẽ vì thế giá của ông bà thầu khoán. Chỉ có điều đại diện bên
nhà trai chỉ toàn là lính. Cha của Long thương thằng con, nhưng còn hận
đời đen bạc nên đành “vắng mặt có lý do”.
Sáu tháng sau tôi về phép ghé
thăm. Vợ chồng nó vẫn ở trong khu cư xá, nhưng được cấp ưu tiên một căn
rộng và khang trang hơn. Trong nhà bày biện sang trọng. Gặp tôi bất ngờ
nó mừng ra mặt, vì đúng lúc nó tổ chức ăn khao lên lon và lên chức,
nhưng lần này là chức… Cha, vì vợ nó vừa sinh đứa con trai đầu lòng.
Niềm vui của nó còn lớn hơn khi cha nó lặn lội từ Vĩnh Long ra thăm để
được bồng thằng cháu đích tôn. Nó nâng thằng con lên khoe với mọi người:
- Như vậy là tao cũng báo hiếu được cho ông già, vì sau này cũng có người bưng hình cho ổng.
Có người không hiểu hỏi bưng hình
làm gì. Nó giải thích: ” là khi nào ông già tao qui tiên, nó bưng hình
ổng đi trước quan tài đó “. Tôi thúc tay vào hông nó, bảo đừng nói điều
gỡ.
Chia tay, tôi nắm chặt tay hai vợ chồng nó :
- Mừng cho ông bà, tài lộc gì có đủ rồi đó nghe. Trong đám bạn nghèo, mày là thằng số một đó nghe Long.
Hai vợ chồng ôm lấy tôi cười rạng rỡ.
Sau cái ngày ăn mừng “chiến thắng”
của nó, thì trên chiến trường thực sự của tôi lại bắt đầu sôi động. Từ
Sông Mao, đơn vị tôi di chuyển khẩn cấp lên An Khê vào đúng chiều ba
mươi tết. Đánh một trận thần tốc, giải tỏa mấy cái chốt ở đèo An Khê
xong là trực chỉ lên phi trường Pleiku để không vận lên Kontum, giữa
“mùa hè đỏ lửa”.
Đầu tháng 3/75,sau khi Ban Mê
Thuột thất thủ, tôi được theo BTL Tiền Phương về Nha Trang trong kế
hoạch tái chiếm thành phố đất đỏ “bụi mù trời” này. Tôi ghé thăm vợ
chồng Long một lần vội vã, nhưng chỉ gặp nó, còn vợ con thì phải “di
tản” về ở với ông bà già ở đường Độc Lâp NhaTrang.
Một tuần sau, những người đầu tiên
sống sót từ dòng người di tản theo tỉnh lộ 7B về đến Nha Trang mang
không khí hốt hoảng bao trùm lên thành phố biển. Long liên lạc tôi qua
tần số vô tuyến, hẹn gặp gấp trước cổng Grand Hotel, đang được xử dụng
làm BTL tiền phương QĐII. Trên xe vừa bước xuống, nó bảo tôi đi với nó
tới Nam Việt Ngân Hàng ở góc đường Độc Lập – Nhà Thờ, dẫn theo một tiểu
đội lính.
Tôi vừa được Trung Tâm Hành Quân
cho hay: một số tù trong quân lao vừa phá cổng thoát ra ngoài, nên nghĩ
ngay đến chuyện có cướp ở ngân hàng. Tôi bảo nó :
- Lính tráng trong tình trạng ứng chiến, muốn đi đâu phải xin lệnh. Để tao vào nói với ông Tham Mưu Phó Hành Quân.
Nó ngăn tôi lại, ghé miệng vào tai tôi nói nhỏ :
- Tao nhờ mày việc riêng. Mày
có lính tráng dễ nói hơn tao. Tao mang cái phù hiệu quân trường, nói
không mạnh lắm. Bao nhiêu tiền vợ chồng tao đều gởi trong ngân hàng. Bây
giờ đến rút nó không cho, bảo phải vào ngân hàng chính trong Sài Gòn.
Tay giám đốc chi nhánh bảo là cả tiền bạc và sổ sách đã gởi đi Sài gòn
rồi. Nhưng tao không tin. Hơn nữa tao là lính tráng, đâu có muốn bỏ đi
Sài gòn lúc nào cũng được.
Tôi ngần ngừ, nhưng nghĩ nó là
thằng bạn thân, sống chết có nhau, hơn nữa nó nói có lý: của mình mình
lấy, có gì là phi pháp. Tôi vào nói nhỏ thằng bạn SQ trực trong TTHQ,
rồi lái xe chở nó đi, gọi hai chú lính trinh sát đi theo hộ tống.
Hai thằng nói nhỏ với mấy anh cảnh
sát gác cửa xin vào gặp ông giám đốc. Bắt tay chào hỏi xong tôi “dùng
tình cảm xuống nước nhỏ” :
Nhờ ông giám đốc đặc biệt giúp cho
anh bạn thân của tôi. Chắc ông cũng biết, đây là tiền buôn bán làm ăn
của vợ ảnh chứ chẳng phài thụt két tham nhũng gì đâu. Hơn nữa tụi tôi là
lính, phải đi theo đơn vị, đâu có biết lúc nào mới vào được Sài Gòn mà
rút tiền. Tôi biết là khó khăn cho ông, nhưng mong ông giúp đỡ đám nhà
binh tụi tôi trong cái cảnh dầu sôi lửa bỏng này.
Ông giám đốc nghiêm mặt chau mày suy nghĩ, rồi hạ giọng.
- Thực là khó cho tôi quá, vì
tôi phải làm theo lệnh của trung ương. Nhưng thôi được, nễ tình mấy anh,
tôi phải lấy quỹ dự trử an toàn ra mà phát cho anh. Nhưng xin các anh
đừng nói cho ai biết nghe.
Chúng tôi nói cám ơn đến mấy
tiếng. Và như để đáp lễ tôi cũng báo cho ông biết ( mà có lẽ người Nha
Trang nào cũng biết rồi) là tình hình nguy hiểm lắm, tù trong quân lao
đã thoát được ra ngoài. Ông phải đề phòng.
Trước đây tôi đã nghe nó khoe mấy
lần là con vợ Bắc kỳ của nó làm ăn rất giỏi, nhưng tôi cũng không ngờ
thằng bạn nghèo của tôi ngày xưa bây giờ lại có nhiều tiền đến như vậy.
Tôi không rõ bao nhiêu, nhưng thấy nó phải dùng đến năm, sáu thùng đạn
đại liên để chứa tiền. Xong còn nhờ đám tụi tôi hộ tống về trường Đồng
Đế. Tôi bảo sao không cất ở nhà ông bà già vợ mà đem vô chỗ lính tráng
làm gì. Nó lắc đầu :
- Tao chẳng bao giờ muốn dính dáng tới cái bà già Bắc kỳ giết giặc đó. Hơn nữa ở cư xá tao còn có lính tráng canh gác.
Hôm sau, Trung Tâm Hành Quân được
báo cáo là địch quân đã chọc thủng phòng tuyến cuối cùng của Lữ Đoàn Dù ở
Khánh Dương. Các Trung Tâm Huấn Luyện ở Dục Mỹ đã di tản về Cam Ranh.
Toà Lãnh Sự Mỹ cũng đã rời khỏi Nha Trang, và ông Tỉnh trưởng kiêm Tiểu
khu trưởng Khánh Hòa cũng đã biến mất từ lúc nào, không có mặt trong
buổi họp khẩn cấp sáng nay của Tiểu Khu. Tôi liên lạc với người bạn thân
trong TTHL Hải Quân, được biết chiến hạm 401 HQ sẽ ủi bãi tối nay để
di tản toàn bộ SVSQ /HQ vào Vũng Tàu hoặc Cát Lở. Anh ta cũng có trách
nhiệm phải đi theo. Tôi xin anh can thiệp dành cho mười chỗ để gởi vợ
con tôi và gia đình Long, còn tôi thì đi theo đơn vị vào Phan Rang. Anh
trả lời OK ngay.
Đồng hồ trên tay tôi chỉ 3 giờ 15
phút chiều. Tôi gọi vô tuyến cho Long, bảo nó cùng vợ con chuẩn bị sẳn
sàng tại cư xá. Tôi về Ninh Hòa đón vợ con vào rồi ghé đón gia đình nó
luôn. Chúng tôi hẹn gặp nhau lúc 6 giờ chiều.
Khi xe vừa xuống đèo Rù Rì, tôi
giật mình khi thấy xe cộ, dân, lính đủ loại nối đuôi hối hả chạy ngược
chiều về hướng Cam Ranh. Chỉ cái xe của tôi là đơn độc hướng về phía
Ninh Hoà. Tôi dành tay lái và bảo anh tài xế ôm súng ngồi bên cạnh. Anh
cũng là dân Ninh Hòa nên xin về với gia đình luôn, không muốn đi theo
tôi. Có một chi tiết nhỏ nhưng đã làm tôi cảm động và không bao giờ
quên: Khi tới ngả ba cải lộ tuyến Ninh Hòa, tôi thấy một chiếc xe đám
cưới, mà cô dâu là người láng giềng của bà xã tôi, và chú rể là một sĩ
quan pháo binh trẻ. Đôi tân hôn nhớn nhác hối hả chạy theo dòng xe định
mệnh. Trong những ngày trong tù, đôi khi tôi nghĩ tới cô dâu chú rể giờ
thứ 25 này và không biết tình duyên của họ giờ đã ra sao.
Khi chở vợ con trở lại Nha Trang,
từ quốc lộ rẽ vào trường Đồng Đế để đón gia đình Long như lời hẹn, tôi
chứng kiến một cảnh tượng thật thê lương: quân phục, súng ống vất dọc
đường, mấy ngôi nhà đang cháy, có vài ba xác chết. Khó khăn lắm tôi mới
lái xe tới được khu cư xá của Long. Nhà mở toang cửa, trong nhà vật dụng
ngổn ngang, không một bóng người. Tôi gọi Long trên máy vô tuyến, nhưng
không nghe lên tiếng. Tôi lo lắng cho nó khi nghĩ tới số tiền lớn của
nó mang về từ Ngân Hàng.
Vào Sài Gòn, sau khi sắp xếp nơi
ăn chốn ở cho vợ con xong, tôi ra Vũng Tàu trình diện lại đơn vị cũ. Tôi
tìm Long khắp nơi, nhưng không ai biết.
Rồi cái biến cố đau thương cũng
đến hồi kết cuộc: miền Nam thất thủ. Ngày 28 tháng 4, cả gia đình tôi có
mặt tại bến Bạch Đằng với mấy thằng bạn Hải Quân. Nhưng cuối cùng, tôi
không bước xuống tàu mà quyết định ở lại. Tôi không đành lòng bỏ quê
hương, và nhất là cha tôi, đang còn kẹt lại một mình ở quê nhà. Hơn nữa
dù sao đất nước cũng sẽ thống nhất hòa bình. Rồi Nam Bắc một nhà sẽ cùng
nhau xây dựng lại quê hương. Và cái suy nghĩ ngây thơ đó của tôi đã
được “người anh em một nhà” đãi ngộ bằng tám năm đọa đày trong các trại
tù “cải tạo” tận vùng Việt bắc. Vợ con ở nhà thì nheo nhóc, không được
phép làm một thứ công dân, dù chỉ là hạng bét.
Ra tù, không còn đất sống, tôi
phải liều thân dẫn vợ con vượt biển ra đi. Sau sáu năm định cư ở Na Uy,
cuộc sống gia đình tạm ổn định. Hai cô con gái may mắn được một trường
đại học bên Mỹ nhận, vợ chồng tôi đưa hai cháu sang Cali tìm nơi ăn chốn
ở, nhân tiện thăm đám bạn bè cùng đơn vị ngày xưa. Gặp thằng bạn này
thì nghe thêm tin tức của vài thằng bạn khác, đứa còn đứa mất, mỗi thằng
một cảnh long đong, và bất ngờ tôi biết được tin Long. Một thằng bạn
cùng đơn vị, khi mới chân ươt chân ráo từ trại tị nạn Bidong sang Mỹ,
được ông chủ gốc nhà binh ưu ái nhận vào làm trong một siêu thị trên
Michigan. Người chủ ấy chính là Long. Thằng bạn cho biết Long sang đây
từ năm 75, và có tài kinh doanh nên bây giờ đã là triệu phú. Anh ta rất
tốt với đám nhà binh lưu lạc sang đây. Biết ai là lính ngày xưa, Long
cũng đến thăm, giúp đỡ tận tình, nếu chưa có việc làm, anh sắp xếp vào
làm tại các siêu thị, nhà hàng của anh, đảm trách những công việc nhẹ
nhàng, lương bỗng cũng khá. Anh bạn lục lọi trong cuốn sổ tay tìm đuợc
số phôn gọi lên tìm, nhưng siêu thị đã bán cho chủ mới. Lần mò đến ba
hôm sau, chúng tôi gọi được Long. Vợ chồng nó làm chủ đến mấy cái siêu
thị, cây xăng ở tiểu bang Washington và một xưởng gỗ ở vùng Portland,
tiểu bang Oregon. Nó đúng là thằng bạn chí tình. Giàu nhưng không đổi
bạn. Nhận ra giọng nói của tôi trong điện thoại, nó hét lên mừng rỡ :
- Bây giờ mày đang ở đâu ? Mày
đi một mình hay có vợ con không ? Nghe tin mày vượt biên, tao tìm mày
khắp nước Mỹ mà không ra.
- Tao đang ở nhà người quen ở
Sacramento với bà xã và hai đứa con gái. Tao ở bên Âu châu qua, chứ có ở
Mỹ đâu mà mày tìm. Tôi trả lời
- Tao “búc” vé máy bay ngay bây giờ, tụi mày lên tao ngay chiều nay nghe.
- Không được, chiều nay tao đã
có hẹn ở San Jose, hơn nữa đâu có biết là gặp mày, nên tao đã mua vé đi
một vòng qua nhiều tiểu bang lắm. Chiều mai tụi tao bay lên Houston rồi
sang Florida, North Carolina và một vài nơi nữa, làm sao gặp mày bây
giờ.
Nó bảo tôi cho số phôn và nó sẽ
gọi lại sau năm phút. Nó hẹn gặp tôi tại phi trường San Jose. Nó bảo vợ
chồng nó có nhà nghỉ mát ở gần đó, rồi dặn tôi cứ ở nhà người quen đợi,
nó sẽ thuê xe đến đón. Vợ chồng nó sẽ đến San Jose bằng chuyến bay 5 giờ
chiều nay.
Tôi đón nó ở phòng đợi phi trường
cùng với vợ chồng thằng bạn khác ở San Jose mà tôi đã hẹn. Long nhận ra
tôi trước, còn nó thì khác xưa nhiều lắm, mập ra nhiều và trông bệ vệ
như một chính khách hơn là một thương gia. Nó ôm chặt lấy tôi quay mấy
vòng.
Sau khi ăn tối xong nó đưa bọn tôi
về nhà nghỉ mát của nó. Ngôi nhà nằm trên một ngọn đồi nhìn xuống cây
cầu nổi tiếng Golden Gate ở San Francisco. Ngôi nhà nhỏ, nhưng khá xinh
và được trang bị toàn là những thứ sang trọng, có đứa cháu và hai người
Mễ trông coi.
Hôm ấy, chúng tôi thức suốt đêm,
nhắc nhở bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, điểm danh lại đám bạn bè, tính xem
đứa mất đứa còn, đang trôi dạt nơi đâu. Hai đứa sụt sùi, Tôi kể cho nó
nghe hơn tám năm tù đày khốn khổ, vợ con nheo nhóc, và nhớ lại trước
ngày mất Nha Trang, như lời hẹn, khó khăn và nguy hiểm lắm tôi mới đến
được cư xá của trường Đồng Đế, nhưng không tìm thấy vơ chồng nó.
Nó rơm rớm nước mắt :
- Tao thường nhắc với vợ con
tao về mày, bảo tất cả phải nhớ ơn mày. Vì nhờ mày tao mới rút được tiền
ở ngân hàng Nam Việt hồi ấy. Và chính nhờ số tiền đó, khi đưa cả gia
đình tao và gia đình bà xã tao đến Cam Ranh, xe cộ chật cứng, cả đêm
không nhúc nhích được, tao trả giá cao mới mua được một chiếc tàu máy
rồi cả nhà chạy ra đệ thất hạm đội. Nếu không có tiền, chẳng hiểu bây
giờ tụi tao ra sao nữa.
Nghe nó nhắc gia đình vợ, tôi hỏi
bố mẹ vợ nó bây giờ ở đâu và sức khỏe ra sao. Nó bảo ông cụ thì mất hơn
năm năm rồi, bà già “bắc kỳ giết giặc” thì vẫn còn sống và ở San Jose
cũng gần đây thôi. Có lẽ nó vừa nhớ tới cái chuyện ngày xưa nên câu
chuyện trở nên sôi nổi :
- Lúc chạy bà cũng gần trắng
tay. Của chìm của nổi bỏ lại hết. Tao hận cái nghèo, hận chuyện ngày
xưa, nên qua đây tao đi làm đầu tắt mặt tối, kiếm một số vốn rồi ra kinh
doanh. Tao nghĩ ở cái xứ này chỉ có làm business thì mới sớm đổi đời.
Không ngờ tao có lộc trời, chỉ mấy năm sau tao có mấy cái nhà hàng, và
một siêu thị. Tao mua cho ông bà cái nhà cả triệu đô, nuôi đám con của
bã, em của bà xã tao, thằng nào cũng xong đại học, hai thằng ra bác sĩ,
còn con út học luật. Tao làm cho bà ấy thấy tiền bạc có nghĩa gì đâu,
mà ngày xưa bà khinh rẽ gia đình tao, làm cho ba tao buồn mà phát bệnh
luôn. Cả đời này tao cũng còn hận bà. Lo đầy đủ cho gia đình bà xong, vợ
chồng tao “move” lên Texas, rồi Washington DC, Michigan, Oregon và cuối
cùng thì tới đóng đô ở Washington State. Từ đó tao không muốn gặp bà ấy
nữa, vì mỗi lần gặp bà tao lại nghĩ đến nỗi hận của Ba tao. Chỉ có vợ
tao lâu lâu về thăm bà mà thôi.
Còn mấy đứa con của mầy ra sao, không nghe mầy nhắc tụi nó.
- Lúc tụi tao ra đi, chỉ có
thằng Đăng sáu tuổi và con Tâm mới lên bốn. Sang đây đổi tên thành Danny
và Tammy, Qua Mỹ, tuị tao chỉ có thêm thằng Kevin. Thằng Danny thì tốt
nghiệp luật ở Yale, đang làm cố vấn pháp luật cho hãng Boeing, con Tâm
thì ra trường Stanford ngay San Franciso này. Bây giờ làm SFO cho Bank
of America.
Mắt tôi sáng lên, mừng cho sự thành công của vợ chồng nó :
- Tao phục mày. Con cái mày giỏi quá. Tụi mày vừa được vinh dự lại vừa tha hồ hưởng phước.
Nó trợn mắt :
- Dự với phước cái con khỉ. Tụi
nó lấy vợ Mỹ, chồng Mỹ hết. Bây giờ tụi nó thành Mỹ hết rồi, mà lại là
thứ Mỹ thượng lưu trí thức. Vợ chồng tao cũng có chút hãnh diện, và các
cháu cũng rất lễ phép và biết nghe lời, nhưng vợ chồng tao cũng buồn
khi nghĩ là càng lúc tụi nó càng xa cái nguồn cội của mình.
Tôi đùa để an ủi nó :
- Que sera sera ! mày cứ khéo lo. Ở ngoài này đa số là vậy. Rồi đến khi lá rụng cũng sẽ về cội thôi.
Nó thở dài :
- Có còn cội đâu mà về. Chính
tao cũng không còn có cội, chứ nói chi tới con cháu. Cội của tao là ở
cái xứ nghèo Chợ Lách, Vĩnh Long bên Việt Nam kìa. Tao cũng đã tính mai
mốt về già, vợ chồng tao mang tiền về Việt nam sống. Nhưng khốn nỗi
chẳng còn chỗ để mà về nữa. Bà già tao, như mày biết, qua đời hồi tao
còn trung học. Ông già tao thì mất từ năm 78. Ở cái làng nghèo mà có một
thằng làm đến quan tư như tao là được xếp loại ác ôn ghê lắm. Tao đi
rồi, ở nhà ông già tao lãnh nợ cho tao. Bị bắt lên bắt xuống, hành hạ đủ
kiểu, nên phải chết sớm. Tao còn thằng em trai, lúc nó theo ông già tao
vào thăm tao trong Thủ Đức chắc mày còn nhớ. Hồi xưa nó chịu khó học
hành, hiền lành hiếu để lắm. Tao có mỗi nó là em, nên thương nó hết
mình, tiền bạc tao gởi về như nước. Không ngờ có nhiều tiền nó trở
chứng, bỏ vợ bỏ con xuống Sài gòn rượu chè bài bạc, sống hết với con này
tới con khác. Cuối cùng thì nó hút xì ke. Vợ nó bán cả nhà từ đường,
thu tóm tiền bạc dẫn đứa con trai đi biệt tích. Tao chưa về Việt nam,
nhưng ở đây có nhiều người đã về thăm, họ bảo là dường như bây giờ cái
xã hội ” kinh tế thị trường” ở bên nhà đã làm cho con người ta đổi thay
nhiều lắm. Đồng tiền nó đã xói mòn tất cả mọi thứ đạo đức ở quê nhà. Cái
xứ Chợ Lách khỉ ho cò gáy của tao bây giờ cũng đầy dẫy quán bia ôm. Cha
mẹ còn đem con gái bán cho đám Đài Loan, hay mấy mụ tú bà. Bọn cán bộ
thì đua nhau tham nhũng, sống phè phở trên đầu trên cổ dân đen. Có thằng
tiền bạc thừa mứa không biết làm gì, mang đi mua tiết trinh cả những
đứa con nít. Khốn nạn thật. Chính quyền trong nước cứ bảo những người ở
ngoài này là “khúc ruột ngàn dặm”, là ” một bộ phận không thể tách rời”
nhưng trong lòng thì vẫn còn mang nặng ghen tị thù hằn. Mày có đọc luật
nhà đất mơí nhất của chính quyền Cộng sản rồi chứ. “Người Việt ở nước
ngoài không được hưởng quyền thừa kế bất động sản, mà chỉ được hưởng
“giá trị” trên phần thừa kế đó mà thôi”. Tao rất sợ cái loại chữ nghĩa
này. Người chết nằm trong nghĩa trang Biên Hòa còn bị đập bia, phá mộ,
san bằng, huống hồ những thằng còn sống như tao với mày. Chỉ có những
thằng khùng mới tin được.
Ngưng vài phút, nốc cạn cốc Hennesy, nó ngẩng đầu lên nhìn tôi :
- Mày thấy không. Ngày xưa
nghèo thì bị người ta khinh rẻ. Bây giờ giàu có, tiền bạc không biết để
làm gì. Cuộc đời này khốn nạn thật. Sắc sắc không không ! Có lẽ tụi tao
sẽ đi tu.
Tôi ôm chặt vai nó :
- Thì mày còn bạn bè, mày còn
tụi tao đây. Có khi bạn già sống với nhau lại hay, vì mình dễ cảm thông,
dễ chia sẻ mọi nỗi niềm
Không ngờ lời nói chỉ cốt an ủi của tôi đã làm cho đôi mắt nó sáng lên :
- Hay là mày cho hai đứa con
mày ở lại đây với vợ chồng tao. Tụi tao hứa là sẽ coi nó như con tao.
Mấy cháu còn nói tiếng Việt giỏi quá, mà cũng lễ phép dễ thương. Nói
chuyện với tụi nó tao thấy sao mà gần gũi quá, nhất là bà xã tao cứ ôm
tụi nó mà nói đủ thứ chuyện dưới đất trên trời. Tao sẽ lo cho tụi nó vô
trường Stanford hay ít nhất là Birkely, chứ học mấy cái trường State đó
làm gì. Còn vợ chồng mày cứ sang đây, tao nhường lại cây xăng, hay một
cái nhà hàng. Mọi thứ đều free. Khi nào tụi mày giàu rồi thì từ từ trả
vốn cho tao cũng được. Để tụi mày còn sớm được cấp thẻ xanh nữa.
Tôi cảm động vỗ vai nó,
- Cám ơn mày. Mày là thằng bạn
lính chí tình. Nhưng các con tao sang đây đã lớn, bên Việt nam thì cũng
chẳng được nhà nước bọn Cộng sản cho phép học hành gì. Tụi nó học không
giỏi lắm, vào được State là tao mừng rồi. Tao chỉ mong ra trường tụi nó
kiếm việc gì đó làm, đủ để tự lo cho mình. Còn tụi tao có biết buôn bán
kinh doanh gì đâu. Tao ở lại sau tháng 4/75 nên thấy mọi thứ sao mà phù
du quá. Nhiều kẻ vong ơn, phản trắc quá. Con người đối xử với nhau sao
mà ác độc quá. May mà đám nhà binh tụi mình còn giữ được cái tình. Cái
này quý lắm, nên tụi mình cố mà giữ lấy, dừng để giàu nghèo nó làm mai
một. Thôi, để tụi tao về Na Uy làm tà tà cũng đủ sống. Hơn nữa tao cũng
thích ở cái xứ Bắc Âu hiền hòa yên tĩnh, hợp với những thằng chậm chạp
như tao. Và tao cũng còn tịnh dưỡng để chữa những vết thương khó mà lành
được trong lòng tao nữa.
Sáng hôm sau, khi mặt trời lên cao
trên đỉnh đồi, hai thằng mới chui vào phòng ngủ. Trước khi chợp mắt,
hồi tưởng lại ngày xưa, tôi thấy lòng lâng lâng tiếc nuối. Dù sống trong
nghèo khó, hiểm nguy, nhưng lòng lúc nào cũng vui, cũng thấy yêu đời.
Hình như lúc ấy cả đất trời và ai nấy cũng dễ thương, ở đâu con người
cũng nặng tình nặng nghĩa với nhau. Còn bây giờ quê hương tôi chỉ còn là
một “dòng sông tật nguyền” hay ” cánh đồng bất tận ” như hai nhà văn
nào đó trong nước đã viết về quê hương nguồn cội của mình .
Cali, ngày thanks giving
phạm tín an ninh
|
|
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged |
|
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() Gởi ngày: 16/Nov/2015 lúc 8:39am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged |
|
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 24227 |
![]() Gởi ngày: 19/Nov/2015 lúc 1:38pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged |
|
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 24227 |
![]() Gởi ngày: 21/Nov/2015 lúc 12:04pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged |
|
|
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() Gởi ngày: 25/Nov/2015 lúc 3:07am |
|
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|
IP Logged |
|
|
Lan Huynh
Senior Member
Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 24227 |
![]() Gởi ngày: 27/Nov/2015 lúc 9:49am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
IP Logged |
|
| << phần trước Trang of 161 phần sau >> |
|
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |
|