![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Tâm Tình | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 158 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |||||||||||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||
Có những niềm đau
![]() Tịnh cùng bốn tân binh, bị đưa đi đóng quân trên một mỏm đảo nhỏ, nằm chênh vênh, côi cút ngoài khơi vịnh Cam Ranh. Cả làng, đếm chưa tới trăm nóc gia, có mùi gió biển tanh tanh của cá phơi khô. Trú đóng hơn tuần, Tịnh bắt đầu chú ý con lợn và bầy gà, do lính Hậu cần nuôi. Sáu tháng quân trường, cơm cà mắm muối, thao trường cực nhọc, lại ít được thăm nuôi, gã nào cũng ốm tong teo như lão còng gió, đen đủi đến thảm thương. Được ăn lưng lửng, đã là ước mơ lớn của đời lính, nói chi miếng thịt! Đã từ lâu, ít nhất sáu tháng, Tịnh chưa hề biết tới mùi vị thịt gia súc. Ngoài rắn, giông, kỳ đà và những loài bò sát khác, con nào con nấy, bé tẻo như rẻo tay con nít, đút vào mồm chỉ một ‘nhát’ là xong, sau vài thủ thuật nấu nướng nhanh, gọn. Thức ăn chỉ là cá vụn ôi, bo bo, bột mì và mì sợi Trung Quốc trộn vào cơm. – Lính thế… Đánh đấm với chó! Vậy mà cũng huênh hoang ‘đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào’. Kỳ cục! – Thiện, thằng sinh viên đại học năm thứ 2, từng nói thế, vào ngày gắn lon binh nhì ra trường. Vì thế con lợn, bầy gà và… miếng thịt cứ ám ảnh Tịnh triền miên, cả trong giấc ngủ. Mỗi khi rảnh rỗi, lẽ ra vào làng cua đào, ghẹo gái, Tịnh hay đi lang thang, thơ thẩn trên đồi đá, nhìn ngắm trời nước vu vơ. Anh cố xua đuổi hình ảnh ám ảnh đó, những khi nhìn thấy con lợn cun cút bên chậu cám, đàn gà xôn xao vỗ cánh đá nhau nhặt nhạnh sát bếp. Hình hài thằng người như ma cà bông, gái nào chịu nhìn mà bày đặt cua đào với điếc? – Tịnh từng cay đắng nghĩ thế. Những bữa ăn có nước muối pha loãng với trái cà đỏ, nếm mặn chát đến lạc lẽo vô vị; và cá tuy không ôi, nhưng cơm không đủ, lại thiếu chất mỡ, vẫn cứ tiếp tục hành hạ Tịnh nhớ quay quắt miếng thịt tưởng tượng trong đầu. – Phải thịt nó! – Tịnh nắm tay quyết chắc như thế! Anh tự nghĩ và chưa biết phải xử trí ra sao. Buổi trưa, trời đứng gió, oi ám căn phòng. Mấy ngọn trúc đào thao thức cùng nắng đứng ủ rũ ngoài sân. Con chó cò, khoanh trắng, ghẻ lởm chởm đầy lưng nằm rỏ dãi, thở khò khè như bị suyễn kinh phong, sắp chết. Tịnh lò dò đi xuống nhà bếp tìm nước uống. Xuống khỏi con dốc đầy đá lởm chởm như ổ chuột, ngang lùm cây, Tịnh thấy hai gã tân binh đang ngồi chỉ chỏ, thì thầm. Tịnh len lén ngồi nép vào gốc cây cạnh đó, nghe ngóng. – Phải thanh toán nó mày ạ! Tớ thèm lắm rồi. – Một gã nói. – Bằng cách nào? Nghe nói, đây là của thủ trưởng. Tụi mình đụng vào là lớn chuyện đó. – Xì! Thế cũng nói. Nó vốn của hậu cần Tỉnh, tặng cho mỗi đơn vị bộ đội, khi còn bé tí. Chờ đến Tết thịt, gọi là bồi dưỡng cho lính. Từ khi nó ngày mỗi lớn, ông trưởng đồn cứ nói vơ vào, bảo của ông ấy. Mấy anh em đóng đồn trước mình nghe vậy, tức anh ách, nhưng không ai dám cãi. Tết sắp đến rồi, tụi mình phải có cái gì chén chứ. Tớ cũng thèm rỏ dãi đây. – A. Hai ông mãnh đang âm mưu chuyện tày trời. Tớ đi báo cáo, tớ lấy điểm, lập công! – Tịnh ló đầu, cười. – Thằng đồng chí quỷ quái, làm chúng ông hết hồn. Lại đây Tịnh. Tao biết, mày đâu phải thứ ăng-ten rỉ sét. – Gã tân binh tên Hùng, gọi Tịnh. Hồi còn ở quân trường, tân binh nào cũng biết Tịnh. Tịnh là dân học sinh được tuyển vào công an vũ trang đợt đầu tiên, sau giải phóng, năm 1976, vì gia đình có liên hệ cách mạng. Anh khá nổi tiếng về những phát biểu “linh tinh” trong các giờ chính trị. Lần khác, Tịnh đánh đồng đội vì miếng ăn, máu đổ xối xả trên thau cơm đầy rau, ở nhà ăn tập thể của lính. Với Tịnh, anh cần sự công bằng trong mọi hình thức chia xẻ, dù là miếng ăn – là miếng tồi tàn nhất. Tịnh đánh và thắng, dù anh thấp hơn gã kia cả cái đầu. Tịnh có nước liều của một con sói bị cùng đường, khó bứt thoát khi bị vứt vào đời – một đời sống vô cùng đói khát trong quân ngũ, sau thời chiến tranh nghèo nàn, tụt hậu; dù anh vốn nho nhã và có chút ít học thức. Tụi tân binh trong quân trường, từ đó, thường theo Tịnh, đêm đêm chun rào ra ngoài, hái cây trái của dân trồng, ăn cho đỡ đói. Nhưng tịnh không một gã nào dám tuyên bố những điều lếu láo về chính trị như Tịnh. Mấy thằng tân binh nể Tịnh, thương Tịnh là thế. Giờ về đây, cái đồn hẻo lánh, xa xôi này chứa toàn một lũ bất trị như Tịnh, từ ma cũ tới ma mới. Anh nào cũng gầm ghè nhau giữ miếng. Thỉnh thoảng, bực tức nhìn sự việc vây quanh, Tịnh phát ngông, phun một tràng tiếng Anh, chẳng ai hiểu nổi. Thằng sinh viên cười ngất, bảo: ‘Nó nói tiếng Mỹ dở như cứt!’ – Ông trưởng đồn giận như còng bị lấp lỗ, đi lại loay hoay chửi Tịnh và bắt viết kiểm điểm. Tịnh ‘vâng dạ’ lấy lệ, rồi kiếm cớ dông, rong chơi trên những mỏm đá ngoài khơi… – Ăn để sống, đó là chuyện thường tình của con người trên cõi đời này. Tìm cái có để mà ăn ngon, để khoái khẩu, cho cái ti tiện thèm thuồng của bản chất ham hố con người, mới là điều khó. Tụi mày ngộ chưa? – Tịnh bông đùa, đi đến ngồi xuống, bứt ngọn cỏ ống nhai nhai. – Con người ti tiện, vì thông minh hơn loài cầm thú, đánh mất sự dũng mãnh trong cái sự tìm ăn như loài hổ báo. Để có cái ăn ngon, con người bất chấp tất cả, ngay cả những điều tàn nhẫn nhất. -Thằng sinh viên lên tiếng. – Vậy đã nghĩ ra chưa, người oai phong? – Tao chưa nghĩ ra. Tao không thông minh như loài người. – A ha. Vậy mày là hổ? Con hổ này, tếu đếch chịu được. – Cả Tịnh và Hùng cùng cười, nhạo thằng sinh viên. Tịnh tiếp: – Đúng là thời mạt pháp! Con người chỉ nghĩ đến miếng ăn. Kiếm có cái gì đó đút tọng vào mồm cho đỡ đói, còn bày đặt ví von hổ với hiếc, liêm sỉ của con người. Chán mớ đời! Ba gã tân binh ngồi kháo chuyện một chốc, rồi bỏ về phòng. Trời vẫn đứng gió. Cái nóng buổi trưa, oi bức như đứng trong hầm than, làm Tịnh thấy khát nước. Dù đã có gió của biển, và Tịnh, đã là bạn của biển.
Đã là bạn của Biển, Tịnh thường dạo rong qua các gềnh đá của biển, của trời đất mênh mông, vô thủy vô biên. Tịnh thả đàn bò dưới chân dốc, cho chúng tự nhiên đi gặm những đóm cỏ vàng trên những mỏm đá nóng. Tịnh lom khom, luồn qua kẽ vách đá núi. Bên dưới, sóng vỗ, đánh ầm ầm vào gành. Nhìn những ngọn sóng bạc đầu ngoài khơi, đang kéo vào, lớp sau dồn lớp trước, Tịnh thấy sợ cái dữ tợn của trời đất mênh mông, biển nước bao la quá nhiệm mầu. Tịnh tưởng như đang sống trên một hoang đảo. Một mình! Tịnh trườn qua mỏm đá, treo cây súng, níu cành cây, quăng mình nhảy lên nhẹ nhàng. Bây giờ là đất với đá và rừng cây lưa thưa. Ở trên ngọn cây không cao lắm, một con khỉ đang ngồi ưu tư nhìn ra đại dương mênh mông xa thẳm. Thỉnh thoảng, nó đưa tay gãi gãi cái đít teo nhách, sần sùi và đỏ thắm như trái sim rừng mọc dại trên mỏm núi đá. Tịnh lấy súng, bò thật sát như trong quân trường đã dạy. Vừa đủ đích nhắm để bắn, Tịnh dựa vào một cây cổ thụ lớn. Tịnh nâng súng. Sáu chục thước. Tài bắn súng của Tịnh không tệ. Ngày ra trường, anh đã từng bắn trúng hai vòng tâm ở khoảng cách 150 mét. – Mày ‘đi’ là cái chắc! – Tịnh lầm bầm, tự tin đưa đầu ruồi vào mục tiêu quá gần. Con khỉ vẫn thản nhiên, làm trò khỉ vạch dái bắt rận. Bắt được mụ rận nào, nó bỏ vào miệng tóp tép nhai, mắt hấp háy ra chiều thống khoái. Tịnh phát giác con khỉ đã mấy ngày qua và anh đã cố công theo dõi dấu vết nó. Tịnh nghĩ, đây là một con khỉ nhà bứt dây, chạy thoát, lạc vào rừng cây thưa. Tịnh rà cò súng, đắn đo, chưa định bóp cò. Con khỉ, dường như ngửi được sự đe dọa, đâu đó trong giác quan chợt bừng thức sau những phút ưu tư, vu vơ. Nó chợt xoay mình, nhìn thằng người ốm o đang nâng súng nhắm nó. Vài giây trôi qua, Tịnh và con khỉ vẫn nhìn nhau đâu đấu. Trong một sát na nhà Phật, Tịnh định bóp cò, nhưng anh cố kìm hãm sự náo nức tuổi trẻ. Có lẽ, con khỉ đã biết khó thoát khỏi tay súng thằng người, đang đứng nhắm nó không xa mấy. Nó cúi gầm mặt, mắt lấm lét liếc nhìn Tịnh như van lơn. – Bắn đi Tịnh, cả mươi ký thịt tươi đấy! – Con quỷ đói khát, nằm trong thằng người của Tịnh xúi dục, sôi sục. Tịnh mân mê bá súng, chưa vội bắn. Ý nghĩ mâu thuẫn bắn giết, thương xót vẫn còn bám anh. – Sáu tháng mày chưa biết mùi thịt, đúng nghĩa của miếng thịt kia mà. Bắn đi! Bóp cò đi, Tịnh! Tao chắc chắn, khi mày bóp cò, con vật khốn nạn này sẽ quăng mình xuống ngay. – Con quỷ đói thôi thúc thêm. Tịnh định bóp cò. Thằng người lương tri lại nói: – Nó là một con khỉ đói, cô độc sống lang thang không bầy đàn. Nó cũng giống mình. Cả cái đảo đá hoang này, đâu có bao nhiêu cây trái để nó đói no. Nó cũng biết sợ đấy chứ? – Như vậy, cả hai thằng mình đều phải đói. Thời gian sáu tháng chưa đủ sao? Bắn nhanh đi Tịnh! – Con quỉ thôi thúc tiếp. Sóng vẫn vỗ ầm ì, bọt tung trắng xóa. Tịnh nâng súng lên trời. Ở đó, có trời, có thần linh tạo ra ma quỷ phá phách loài người; có những đám mây đang trôi nhanh mãi miết, thoạt nhìn là ma quỷ, thoáng biến thành tiên, rồi hóa ra chồn Tịnh xiết cò. Đạn nổ dòn dã như pháo Tết. Khi Tịnh nhìn xuống rừng cây lưa thưa, con khỉ đã biến mất tự bao giờ. Con quỷ đói đau khổ, kêu rêu: – Như vậy, là mày thua và mày sẽ đói, sẽ thèm ăn mãi mãi! – Có những cái thua, cái đói, lại là những niềm hạnh phúc lớn lao. – Tịnh an ủi. Khi Tịnh đi xuống một khoảng ngắn, thấy thằng sinh viên cắm đầu chạy lên. Mặt nó tái mét, nhìn Tịnh soi mói, thở hồng hộc. – Mày vừa bắn? Bắn chi, thằng lính? – Tao bắn đời! Cuộc đời trần tục này, cái gì mà chả muốn bắn. – Trời ơi, trời. Mày đúng là đồ chăn bò! Dĩ nhiên, là đời này cái gì cũng đáng bắn cả. Nhưng thằng chăn bò ơi! Mày chăn thế nào, mà bò với chủ, mạnh ai nấy đi phá đời thế này. Cả ba con bò, nó cày nát đám khoai của người ta ở dưới làng kia kìa. Trời ơi! Lính ơi là lính! Bò ơi là bò! – Thằng sinh viên dậm chân. – Tối nay tao khỏe rồi. Viết kiểm điểm, khỏi có gác! – Tịnh cười sảng khoái chạy xuống con dốc thoai thoải. Thằng sinh viên lò dò đi theo. Con dốc hơi cao, thằng sinh viên vừa đi, vừa thở. Nó chửi Tịnh và đi nghiêng nghiêng như kiểu còng quào leo đá. & – Báo cáo đồng chí! Tôi nghĩ, nhất định có lợn rừng đang quanh quẩn đồn này. – Tịnh gãi đầu, khi trình báo ông Thiếu tá, trưởng đồn công an. – Ở đây là đảo đá, làm gì có lợn rừng! Đồng chí đùa chắc? – Ông thiếu tá nhìn Tịnh chăm chăm, dò phản ứng thằng lính mới. – Báo cáo! Bữa trước viết kiểm điểm, tôi có nói tôi bắn lợn rừng, nhưng đồng chí cứ nhất định không tin, cứ vu tôi đi bắn bừa trên đảo. Tôi nghĩ lợn rừng nó ma mãnh lắm. Nó có thể húc, giết bò của ta như bỡn. Tôi phải triệt nó trước. Bây giờ nó xuất hiện ngay chuồng lợn của ta. Tịnh cùng ông thiếu tá đi xuống chuồng lợn. Tịnh chỉ những dấu chân còn hằn nét rõ rệt của những móng chân lợn rừng, bên ngoài chuồng con lợn nhà. Đám lính đi theo, nhìn Tịnh khâm phục. Ông thiếu tá cũng khâm phục sự xét đoán của Tịnh. Ông nhìn những vết chân lợn rõ nét, bảo: – Đúng là dấu chân con lợn rừng! Tớ bao năm chinh chiến trong rừng sâu, nhìn sơ qua là tớ biết ngay. Các đồng chí coi này. – Ông di di bàn chân cáu ghét đầy đất, tiếp. – Tớ còn biết đây chính là con lợn đực nữa đấy nhé. Con lợn của tớ giờ phát mã ‘con gái’, thằng lợn này nó muốn động cỡn đây. Quái nhỉ. Đảo đá mà cũng có lợn lòi? Tớ giao việc này cho đồng chí Tịnh. Phải diệt nó ngay! Còn vài hôm nữa là Tết, ta cũng cần có chất tươi… ăn Tết. Tớ dám chắc con lợn lòi này phải trên một tạ đấy nhé! Đêm. Trời vẫn nóng hâm hấp, dù đã cận Tết. Những vì sao chi chít lấp lánh ánh trời đêm. Đêm ở đảo đá sao quá nhiều sao? Nhưng không đủ rọi sáng nơi chuồng lợn nằm. – Lão thiếu tá có đoán ra cái trò này không nhỉ? – Hùng tay lăm le khẩu AK.47, nhìn màn đêm hỏi Tịnh. – Mày hãy để mắt vào cái chuồng lợn kia dùm tao. Khi thấy nó đi qua khỏi chuồng lợn nhà, hẵn bắn. Nhớ bắn xả vào chuồng, thế nào cũng trúng. Xuỵt! Có ai tới đó. Ông thiếu tá xuất hiện. Tịnh thấy run run, nhưng không thấy sợ. – Cái ăn sao mà nhục quá?! Ông yên lặng, nằm xuống cạnh Hùng, sau đôi câu thăm hỏi lấy lệ. Đêm thăm thẳm trôi. Tiếng ục ục của lợn kêu đâu đó trong màn đêm. Tịnh nhìn về hướng phát ra tiếng kêu. Cái bóng đen đi ngang như nhảy. Tịnh thấy tim đập mạnh hơn. Tim Tịnh nhoi nhói. “Cái ăn sao mà nhục quá!?” Tịnh kêu rêu trong họng. Anh cảm thấy hối tiếc trò chơi này. – Đi nhanh lên, chạy nhanh lên! – Lòng Tịnh thúc hối cái bóng đen kêu ục ục não nề, anh lo lắng. Ông thiếu tá nôn nóng, giật cây súng trên tay Hùng. Tịnh nhoài người định giật cây súng lại, ông thiếu tá đã xiết cò. Tiếng súng nổ dòn dã, như đã từng nổ bao năm qua trên quê hương đói nghèo này, trong những đêm đen. – Trúng tao rồi, Tịnh ơi! Cả đất trời sụp xuống trước mắt Tịnh. Ông trưởng đồn ngơ ngác nhìn vào màn đêm có tiếng kêu cứu thống khổ. Tịnh quì gối. Anh ôm đầu bật khóc, ngửa mặt nhìn những vì sao. 2. Tịnh cùng hai gã tân binh và một hạ sĩ quan lấy tàu vượt biên, sau đó hai hôm. Những ngày mới qua đảo, bị giam biệt lập trong một căn phòng tám thước hình vuông, chỉ có độc nhất một cánh cửa sổ nhìn ra ngoài trời, gần con lộ nhỏ bằng đất trải sỏi; để chờ ngày ra tòa án quân sự ở Palawan, Philippinnes. Trong những giấc ngủ vô thức, triền miên giữa ngày và đêm, Tịnh thường mơ thấy cái dáng đi xiên xiên như còng quào leo đá của thằng sinh viên, trong đêm bị bắn chết ngay chuồng lợn. Hùng thường hay đập dậy mỗi khi Tịnh nằm mơ, hắn nhăn nhó: – Lại mơ thấy thằng Thiện nữa à? Mày hãy sống, hãy làm việc cho mình. Trước mắt là làm sao, phải thoát ra khỏi cái nhà tù này cái đã! Hai thằng còn lại, nhìn Tịnh lắc đầu. Thắng nói: – Tao dắt mày đi, là để đi tìm một cái gì đó; đáng gọi là sống. Tao không dắt mày qua đây, để mày nhìn lại quá khứ mà âu sầu, khóc hận. Hãy cố gắng đứng lên mà sống, thằng lính! Tịnh ngồi bật dậy, ngơ ngác nhìn ra ngoài khung cửa sổ. Bây giờ đã là buổi trưa. Thời gian trong tù, sao mà dai dẳng như nghe một khúc nhạc buồn bất ưng. Cái nắng quái quỷ, vàng chảy hừng hực của xứ nhiệt đới như thiêu đốt, hắt xuống từ những mái tôn trên cao làm trán Tịnh ri rỉ đổ mồ hôi. Đã bốn ngày không được tắm, từ khi bước xuống chiếc tàu, rồi bị nhốt vào đây, thằng nào cũng hôi như chó cái hành kinh! Bên ngoài ‘căn tù’, một nhóm người Việt tị nạn đã ba hôm, từ khi nghe tin, vội tụ tập lại biểu tình bọn Tịnh. Họ tụ từng nhóm, đi qua lại xầm xì, những con mắt dòm ngó, xoi mói… Vài thanh niên trẻ cỡ tuổi bọn Tịnh, cùng một vài gã trung niên, giơ nắm đấm, rít răng ra dấu hăm dọa: – Tụi mày mà ra được, chúng ông đập chí chết! Đả đảo! – Đả đảo!- Tiếng người hô theo. – Đả đảo cái củ bìu! Làm như chỉ có mấy ông, mới được quyền vượt biên, còn tụi tui thì không à? – Hùng giơ tay, chỉ đám người bên ngoài. Đám người chợt hung lên, lồng lộn. Mấy gã lính Phi, đen như bọ hóng, lưng trần trùng trục, đang đứng gác, lấy súng hăm dọa, họ mới chịu im. Tịnh đứng kề bên Hùng, tay bấu chặt mấy chấn song sắt, nhìn ra ngoài, thèm khát được tự do đi lại như họ, nhưng lòng thấy buồn, tủi. Phải nói, anh buồn tởm mới đúng hơn. Anh thấy con người sao thay đổi nhanh chóng quá! Đồng cà lăm, bực mình nói: – Thôi, vào ăn cơm, Tịnh! Tịnh ngồi xuống, tiếng chửi rủa từ bên ngoài vẫn còn dư âm. Tịnh nhìn những đĩa đồ ăn đầy ắp do nhà bếp cung cấp riêng hàng ngày. Tịnh lấy cái bát, xới cơm để phần cho thằng sinh viên. Mỗi đứa gắp một thứ đồ ăn bỏ vào bát. Cái bát đầy ắp, có ngọn. – Mày bây giờ làm con ma no nê rồi nhé, Thiện! – Thắng nói trước khi và miếng cơm. Bốn thằng cắm cúi ăn. – Thức ăn thừa thãi, sao đời vẫn cay? – Tịnh thầm nhủ, và biết rằng mãi mãi, còn ở cuộc đời này, là còn thằng sinh viên trong tâm khảm anh. Tịnh và thằng sinh viên là đôi bạn thân khắn, khít nhất từ lúc còn ở quân trường. Ôi, một trò chơi trả giá quá đắt! Tịnh bỏ bát cơm, đứng dậy nhìn ra khung trời của nắng quái. Đám đông đã vãn, khi con người đói và biết sợ đói, với những đồ ăn người ta cấp cho. Họ hết hùng hổ như khi no đủ, rảnh rang. Tịnh nói, như gửi cho gió: – Sau này đi định cư, cứ 29 Tết ta, tụi mày nhớ mà cúng cho thằng Thiện, để nó không còn là con ma đói. Nhớ cúng cho nó con lợn thật lớn, dù bất cứ hoàn cảnh nào! – Mấy con mà chả được! Chỉ sợ, chừng đó rồi chính mày lại quên thằng bạn ma đói của mày! Một tháng sau đó, bọn Tịnh bất ngờ được đi định cư ở nước thứ ba. Sau buổi sáng, ra hầu tòa án quân sự Philippines, năm 1978, bọn Tịnh được lính hộ tống đưa thẳng ra phi trường, nơi có mấy chiếc máy bay DC-10 đợi. Họ chia bọn Tịnh ra làm hai nhóm, dẫn Tịnh cùng Hùng đến một chiếc máy bay đậu gần đó. Bọn Tịnh hoảng hốt khóc nức nở trong chia ly, dù trước kia đã là những thằng lính lì lợm bất cần đời. Bước lên thang máy chiếc máy bay, Tịnh dụi nước mắt, nhưng còn cố hét lớn: – Nhớ nha! Mỗi 29 Tết ta, nhớ cúng cho thằng Thiện một con lợn thật lớn! Họ định cư ở đâu, Tịnh không biết. Họ quen biết nhau, nhưng không thân và không biết gia cảnh nhau mấy, khi còn ở quân trường Nha Trang và một tháng đóng quân trên đảo đá vịnh Cam Ranh. Tịnh chỉ biết thoang thoáng, Thắng người Lương Sơn vùng biển, Đồng người Ninh Hòa bên kia đèo Rù Rì, của thành phố Nha Trang. Đó là lần cuối họ chia tay nhau và mất liên lạc từ đó. – Trong đói nghèo, con người thường nghĩ tới cái ăn cho thỏa đam mê khốn nạn hằng có ở đời thường. Khi sự thỏa thê đã đầy ắp, con người lại hay quên những khốn khó của thời thiếu ăn, trước kia. Người ta bắt đầu tìm kiếm kỷ niệm, qua miếng ăn, sự ăn, bằng những hình thức ghê tởm. Tịnh, hãy đọc bài này. – Hùng ném tờ Edmonton Sun qua Tịnh, giọng bực bội. Tịnh đọc lướt trên trang nhất tờ báo của thành phố cư ngụ. Cái tựa ‘Người Việt Nam ăn máu tươi’ làm Tịnh choáng váng. Bên dưới là những tấm ảnh chụp mấy đĩa tiết canh vịt làm chứng. Mấy ông tị nạn Việt, chơi trò bắt vịt trời ở công viên thành phố, về làm tiết canh vịt, bị cảnh sát theo dõi, bắt được, chụp hình. Những tin tức loại này, thỉnh thoảng, vẫn được đăng trên các trang báo địa phương như một hình thức sỉ nhục người tị nạn Việt Nam. Ở thành phố này mấy năm đầu, Tịnh và Hùng vẫn sống chung nhau. Họ cố công tìm kiếm Thắng và , nhưng vẫn biệt mù tăm cá! Tịnh vẫn nhớ biển của quê hương qua từng ngày tháng. Biển đã giúp Tịnh vượt thoát và biển cũng đã để lại trong anh một kỷ niệm xót xa của những ngày còn trẻ. Và bây giờ, Tịnh đã là bạn của tuyết. Những ngày cận Tết ta, dưới những cơn bão tuyết trù dập, hung hãn, Tịnh vẫn cố công lội bộ vào các chợ, lung, mua một con lợn thật lớn để cúng cho thằng sinh viên, nhưng tìm mãi vẫn chưa ra. Chính quyền Canada, cấm tuyệt đối bán những giò, lòng, đầu lợn, dù người Hoa đã ở đây khá lâu đời. Vì thế mỗi 29 Tết, Tịnh và Hùng thường cúng thằng sinh viên bằng những đĩa thịt lợn ê hề. Vài năm sau, Tịnh thấy xuất hiện những giò, xương lợn dân bản xứ để chất đống bỏ một góc tủ, ai muốn lấy cứ nhặt về. Nhưng đầu, huyết, tim gan phèo phổi thì tuyệt không thấy. Ban đầu, len lén mắt trước mắt sau, sợ người bản xứ nhìn thấy, cười, Tịnh lấy bốn cái giò lợn bỏ vào bịch ny-lon. Tịnh mua thêm những miếng thịt lớn, rồi sắp xếp, vẽ cái đầu lợn bằng giấy bản cứng giống như hình con lợn để cúng thằng sinh viên. Thời gian cứ thế trôi vùn vụt. Tịnh và Hùng cũng như bao gã con trai động cỡn đi tìm gái, cũng lập gia đình. Họ mua nhà sống gần nhau, xa thị tứ ồn ào của những đồng hương. Mỗi 29 Tết ta, Tịnh vẫn thường xuyên mua mọi thứ về cúng cho thằng sinh viên. Hùng đùa: – Bây giờ sướng nhé Thiện, chỉ thiếu cái đầu lợn thật cho mày. Rồi tao cũng sẽ cố tìm ra cái ‘thủ’ cho mày xem! Năm sau cận ngày Tết, Hùng hớn hở khoe: – Tịnh, tìm ra rồi! – Cái gì vậy? – Tịnh ngơ ngác nhìn Hùng. – Tao tìm ra chỗ bán nguyên con lợn rồi! Tịnh mừng, reo lên. Hùng nói: – Tụi da trắng này cũng quỉ quái lắm! Nó cũng ăn giò, lòng, đầu lợn như dân mình, nhưng nó khôn hơn biết lén lút giấu diếm. Mấy thằng Tây trong hãng tao làm đó! Ban đầu nghe tao nói nó la lên như nghe chuyện kinh khủng, nhổ nước bọt tùm lum. Sau mấy lần đi bar nhậu hỏi tới, tụi nó mới khai thật và chỉ tao cái chỗ này. Cuối tuần ấy, Hùng chở cả hai gia đình vào một nông trại của những người Đức di dân. Di dân nào khi sống xa xứ sở cũng thích sống quây quần; Họ sống ở đây lâu đời, biệt lập hẳn những cộng đồng khác. Công việc chính của họ là nông nghiệp với những cánh đồng lúa mạch cò bay thẳng cánh, với hàng đàn gia súc đủ loại. Sau khi cho mấy đứa nhỏ cỡi ngựa chạy băng băng trên những cánh đồng tuyết trắng xóa, Hùng trả tiền thuê ngựa và hỏi mua chục con gà cùng con lợn lớn. Gã nông dân người Đức to dềnh dàng với mái tóc màu đỏ râu ngô, nhìn bọn Tịnh đăm đăm. Gã gật đầu vào căn nhà gần đó, nhấc điện thoại gọi. Tịnh nhìn Hùng lo lắng: – Thôi rồi. Có lẽ nó kêu cảnh sát? Mặt Hùng tái mét, nhưng vẫn cố trấn an bạn. Tịnh chợt nhớ cái câu kêu rên trong họng cách đây gần mười năm – ‘Cái ăn sao mà nhục quá!’ – Vài phút sau, một gã Đức khác lái chiếc xe lớn, thấp – loại nhà nông thường dùng cho nông trại – chạy đến. Tịnh vuốt ngực hú vía! Bốn gã đàn ông, hai to lớn kềng càng như những đô vật, hai nhỏ thó như đôi nhái bén leo lên xe định chạy. Mấy thằng bé nhao nhao đòi đi cho bằng được. Gã da trắng cho thuê ngựa, mở sợi dây xích ngang hông xe cho lũ trẻ ùa lên. Đó là một căn nhà gạch lớn để nuôi lợn; lớn, như Tịnh chưa hề thấy trong đời. Tịnh đưa tay, chỉ thằng lợn to nhất trong muôn ngàn con lợn đang vùi mặt vào cái máng thức ăn. Thằng lợn nặng hơn tạ, bị gã da trắng kéo tai ra khỏi chuồng, dẫn đến một cây sồi, cột gần đó. Gã da trắng thoăn thoắt, cột cổ con lợn vào cây thật rành nghề. Gã xua tay đuổi mấy thằng bé trở ra xe. Bọn trẻ cứng đầu vẫn đứng xa xa nhìn con lợn bị cột vào trụ cây, rống lên từng hồi; có đứa vỗ tay. Gã da trắng hỏi: – Tụi mày lấy huyết? Tịnh lắc đầu lia lịa. Gã da trắng với tay lấy cái búa tạ, treo trên cây gần đó, gạt bọn Tịnh ra xa. Gã nhổ bãi nước bọt vào lòng bàn tay to như hai quả phật thủ, xoa xoa như đang thoa mỡ. Tịnh đứng chết sững, chưa kịp phản ứng; gã đã vung búa đập liên tục mấy nhát rõ to như đánh chày trên đầu con lợn. Con lợn rú lên hồng hộc từng hồi ai oán. Tịnh lấy tay bịt mắt, nhưng vẫn như thấy những tia máu bắn vọt đâu đó trên tuyết. Mấy đứa nhỏ la ré lên, chạy thẳng ra xe. Tịnh chợt nhớ đến Thiện – thằng sinh viên. Anh nhớ rõ nét cái hình ảnh của Thiện trong đêm định mệnh mà nó giả làm con lợn mươi năm về trước… Tiếng hộc hộc đã im, chỉ còn tiếng rên rỉ nho nhỏ. Tịnh mở mắt, thấy Hùng đứng trơ mặt như hóa thạch. Tịnh nhìn con lợn đang nằm thở thoi thóp, xoãi bốn chân chỉa thẳng lên trời, mắt hấp háy như muốn hỏi ông Thiên: Sao loài người vì miếng ăn mà tàn bạo quá quắt? Con lợn từ từ nhắm mắt, bốn chân giẫy bết bát trên tấm thảm trắng lam nham một màu đỏ loe loét. Tịnh khóc ục ục, kêu rêu trong họng, tiếng kêu mươi năm về trước. Chợt nhiên, Tịnh nôn thốc tháo. Tịnh ôm bụng nôn, thốc tháo đến mật xanh, mật vàng. Tịnh quì gối trên mảng tuyết trắng lốm đốm màu huyết bầm, cố móc miệng nôn ra tất cả những gì mà đất trời đã tạo nên cho cái cuộc đời đầy thi vị, vật chất gớm ghê này. Vất lại mớ tiền, mặc gã da trắng, đôi mắt xanh thăm thẳm màu trời đang há họng nhìn, Hùng dìu Tịnh chạy lết bết trên tuyết. Tịnh khóc hù hụ: – Thiện ơi, cho tao xin lỗi! 3. Tịnh trở về Việt Nam, sau hai mươi mốt năm. Được vài ngày, Tịnh kêu thằng em chở ra Lương Sơn tìm Thắng. Trời đất bao la biết đâu mà tìm, khi không biết địa chỉ rõ ràng? Nhưng, như có một thôi thúc vô hình, Tịnh vẫn cố tìm. Tịnh dò hỏi tới gần xế chiều cũng không tìm ra Thắng, sau bao “ông Thắng Việt kiều” mà anh nhìn ảnh họ do người thân đưa xem. Tịnh thất vọng. Cái làng Lương Sơn, cũng như bao làng khác sau hai mươi mấy năm thay đổi giờ sầm uất không khác gì một thị trấn đang lên. Một bà già bảo Tịnh: – Ở trong làng này, có một ông trung tá công an về hưu, cháu đến hỏi, may ra tìm được. Cái làng này biết bao người đã từng ra đi. Ông trung tá về hưu, giờ ngồi bán kẹo lạc trong căn nhà tranh lụp xụp gần mé biển của dân đánh cá trong làng. Ông phe phẩy cái quạt đuổi đàn nhặng đang đảo quanh những mảnh bánh cốm vàng ố. Ông khinh khỉnh, gần như lơ đễnh ngồi nghe Tịnh kể cái chuyến đi lịch sử của bốn gã công an vũ trang cách đây 21 năm về trước. Nghe xong, ông chìa tay ra bảo Tịnh cho tiền, mới chịu chỉ nhà Thắng. Ông kêu một thằng bé lấy xe đạp, dắt Tịnh đến nhà Thắng. Đã suốt ngày. Tịnh gặp quá nhiều cái cảnh bắt chẹt này, nên anh cũng không hy vọng lắm. Tịnh đã từng nghèo, từng đói khổ, anh biết cái cảm giác của những kẻ đến bước đường cùng. Tịnh nhủ đây là lần cuối, nếu tìm không ra, phải về. Trong cái chập choạng buổi chiều cuối năm ở một làng biển nghèo, Tịnh bước vào một căn nhà tranh, vách đất xập xệ. Người đàn bà tiếp Tịnh, xua tay đuổi đám con nít bu quanh trước cửa như ngày xem hội đình. Sau thủ tục trao đổi chủ khách, người đàn bà lấy một tấm ảnh đưa Tịnh xem. Đó là tấm ảnh của một gã đàn ông mập mạp, khuôn mặt được ông thợ ảnh chụp nghiêng nghiêng khó nhìn, đang đứng vái, cúng kiến hóa vàng giữa đất trời nước Úc. Trước mặt anh ta là một con lợn thui vàng thật lớn, nằm gọn gàng trong cái mâm có lót giấy gương đỏ thắm, cùng những cây trái xếp xung quanh nhìn rất trang trọng. Thật tình, Tịnh không nhìn ra người đàn ông này là ai! Sau bao dâu bể, trí nhớ Tịnh về Thắng, Đồng hầu như đã mất. Năm ấy, khi vượt biên Tịnh gần 19 tuổi, cái tuổi lo chưa tới và dễ quên. Bây giờ, Tịnh đã là gã trung niên có mấy cái răng rụng, má hóp theo thời gian. Trong ánh sáng mờ của ánh đèn điện vàng bợt bạt, Tịnh đành chịu thua, trả tấm ảnh cho người đàn bà, định kiếu. Người đàn bà chợt nhớ, nói: – Nó có viết mấy dòng sau tấm ảnh. Tịnh vội lấy tấm ảnh trên tay người đàn bà, lật ra mặt sau xem. Trong những hàng chữ li ti, Tịnh đọc: “Khi nào có người tên Tịnh, Hùng về đây hỏi, chị cứ chỉ con lợn em đang vái cúng, là tụi nó nhận ra em ngay.” & … Tịnh đi tới lui nơi phòng đợi của phi trường quốc tế Vancouver, trên tay cầm tấm ảnh của Thắng từ Úc châu gửi qua, sau một tuần Tịnh từ Việt Nam trở ra. Thắng bây giờ làm ở hãng hàng không dân dụng Úc, cư ngụ ở Sydney. Thật tình Tịnh không thể nào nhận ra Thắng sau 21 năm xa nhau. Ngay cả giọng nói của Thắng trong điện thoại cũng đã khác hẳn khi xưa. Cái giọng lơ lớ của người Việt lấy vợ Hoa đã ảnh hưởng anh. Dòng người tuôn ra ào ạt nhưng lặng lẽ khi chuyến bay trút xuống những con người. Tịnh chờ, cứ chờ mãi. Mười lăm phút trôi qua trong nôn nóng. Người cuối cùng rồi cũng ra. Đó là một gã đàn ông Á châu tầm thước, tóc bạc phếch một màu vôi. – Không phải. Làm gì già khú đế thế! – Tịnh nhủ, nhìn lại tấm ảnh của Thắng. Nhưng mà lạ! Tịnh liếc nhìn, biết gã đàn ông đang nhìn anh đăm đăm, rơm rớm nước mắt, nhưng gã cố nín quay mặt đi tiếp cho hết con hành lang nhỏ. Tịnh lại đợi! Đợi thêm mươi phút và bắt đầu thất vọng. – Có lẽ Thắng không qua? – Tịnh nhìn lên màn ảnh ti-vi biết chuyến bay đã đến được 45 phút. Tịnh vừa nôn nóng, vừa thất vọng. – Mày chờ ai vậy, Tịnh? – Gã đàn ông ban nãy đã đến đứng sau lưng Tịnh tự bao giờ, hỏi. Tịnh quay người, sững sờ nhìn. Không phải là Thắng! Vậy gã lạ mặt này là ai, mà biết tên Tịnh? Tịnh nói xin lỗi, định đi. Gã đàn ông gầm lên, giọng cà lăm: – Đuù mẹ! Mày khôông… nhìn ra taoo… hở Tịnh? Tịnh nhìn lên mái tóc bạc của gã đàn ông một chập, rồi ôm xiết gã: – Trời ơi, thằng cà lăm. Đồng! Chính là mày! Sao mày lại thế này? Họ ôm nhau, chảy nước mắt .Cả hai thằng đàn ông trung niên bá vai ôm nhau khóc giữa phi trường quốc tế lộng lẫy. Tịnh khóc, mà không biết vì sao anh khóc. Anh không bao giờ biết. Có những niềm đau không bao giờ biết!
Vũ Đình Kh. Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 28/Mar/2016 lúc 10:46am |
||||||||||||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23670 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||
Người chị họ
Vấn là bạn sách đèn từ thuở bé của Thạnh, anh của Trúc. Cha Trúc với mẹ Vấn là anh em cô cậu ruột. Do vậy, anh chị em Trúc dù lớn hay nhỏ đều là vai trên của Vấn. Với tình họ hàng ấy, Vấn vẫn hay đến nhà Trúc, nơi đầy đủ tiện nghi cho việc học hơn ở nhà để cùng học với Thạnh gần suốt tuổi học trò. Rất nhiều lần, nhất là vào dịp thi cử, Vấn ăn ngủ luôn tại nhà Trúc. Vấn chăm học, hiền lành, ít tiếp xúc với bạn gái. Trên mười tám tuổi Vấn vẫn chưa biết chuyện yêu đương. Cha Trúc vẫn hay đùa: “Có lẽ thằng Vấn sau này cha mẹ cưới vợ về cho cũng chẳng biết làm chi”.
Một lần thức học khuya, khi thấy người bần thần khó chịu, Vấn bước ra sân dạo một vòng. Vấn thấy phía xa hỏa châu soi sáng cả một góc trời và nghe rền tiếng súng. Bầu trời nơi ấy trông đẹp làm sao! Nếu không nghe tiếng súng thì ai có thể tưởng tượng nổi bao nhiêu cái chết thê thảm rợn người đang xảy ra ở đó! “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn!” Rồi đây Vấn cũng sẽ làm một chiến sĩ với những mất mát mà nghìn đời con người vẫn mắc phải. Ôi, cái ngây thơ trong trắng của chị Trúc đâu có thể tồn tại mãi? Trúc càng lớn càng được nhiều người chú ý. Rồi chị sẽ lấy chồng. Còn Vấn, thân xác này cũng có thể trở thành tro bụi trong một góc núi, xó rừng nào đó. Những thương cảm chị Trúc dành cho Vấn được bao nhiêu? Nó sẽ hao mòn rồi tan biến trong ký ức chị để nhường chỗ cho những mối bận rộn bên chồng con!
Mùi hương ngây ngây ngộ ngộ này chỉ có thể cảm nhận chứ không thể diễn tả bằng lời. Hàng trăm lần sát mặt vào đầu mẹ để nhổ tóc bạc Vấn có bao giờ nhận ra mùi hương đó đâu? Mái tóc đen óng ả như những gợn sóng của Trúc gợi cho Vấn một thoáng bùi ngùi. Rồi nó cũng sẽ xơ bấn như tóc mẹ. Tuổi đời trôi vùn vụt, lá xanh nào không vàng? Bất giác Vấn vuốt nhẹ lên tóc Trúc. Trúc khẽ động đậy nhưng không ngẩng đầu lên. Vấn thấy dạn hơn, tiếp tục vuốt nhẹ nhiều lần cho đến khi Trúc ngồi hẳn dậy.
Vấn rụt rè nhỏ nhẹ : - Tóc chị đúng là tóc mây! “Tóc mây sợi vắn sợi dài…” - Cậu muốn nói mây để đan giỏ thắt gióng hay mây trên trời? - Mây trên trời, chữ Hán gọi tóc mây là “vân mấn”. “Hiểu kính đản sầu vân mấn cải”. Soi gương buổi sáng bỗng dưng buồn vì thấy tóc thay màu đó chị.
Hai người im lặng một lúc, Vấn lại thở dài : - Nếu ngày kia chị đi lấy chồng chắc em buồn lắm. - Cậu nghĩ vẩn vơ lắm. Dù là cha mẹ hay anh em ruột cũng có ngày xa nhau. Đó là lẽ đời. Thôi, đi ngủ kẻo khuya rồi! - Khoan đã chị, em muốn hỏi chị một việc. - Cậu cứ hỏi đi. - Em nghe thằng Thức nó theo đuổi chị dữ lắm, chị nghĩ thế nào? - Vô duyên! Chị chưa nghĩ đến chuyện đó đâu. Nếu có gì chị cũng hỏi ý kiến cậu đã chứ! Cậu đi ngủ để dưỡng sức học bài thi, nghe lời chị.
- Chết cha, bức vẽ hôm nay nộp chị đã để sẵn giữa bàn lại quên mất. Giờ trở lại lấy chắc trễ quá! - Em đạp nhanh, để em đi lấy cho chị.
- Đừng nghịch nữa mấy chị ơi, cậu ấy trễ học rồi. - Binh bồ hả? Cho anh chị xa nhau luôn!
- Cho nó tởm, chừa cái thói đeo gái! - Cho nó từ nay gặp các chị là cúi mặt tránh luôn! - …
Buổi chiều về, Trúc hỏi Vấn: - Tụi nó ác quá! Cậu vô lớp có sao không? - Trễ hơn 20 phút. May gặp thầy Thường dạy Pháp văn quá hiền không thì cũng mệt. Từ nay em sợ đi ngang qua đó rồi. Thật là một kỷ niệm nhớ đời!
*
Vấn nghe qua choáng váng cả mặt mày. Nhưng Vấn cố làm tỉnh, đáp: - Tao thật chưa biết. Nhưng chị ấy lớn rồi, có vậy cũng tốt thôi!
- Ừ, đi hồi sáng. – Thạnh đáp vô tình.
- Sao mấy bữa nay cậu không tới nhà? Chị định đến nhà cậu đấy. Hay chiều nhé, cậu ghé nhà chị chơi, luôn tiện giải giúp chị một số bài toán cùng quốc văn.
- Mấy bữa nay em mệt mỏi quá, không muốn đi đâu, không muốn làm gì hết. Hường xen vào: - Lúc này thầy ra toán khó quá! Nhưng sao Trúc không nhờ anh Thạnh giải mà phải nhờ anh Vấn? - Hường không biết đó, anh Thạnh cứ giải cho tao mỗi bài là đầu tao u lên mấy cục. Nếu cậu Vấn không giúp, tao thà chịu điểm kém chứ không nhờ anh Thạnh.
- Nếu chiều thấy khỏe, em sẽ đến. Nhưng chưa chắc đâu nhé.
- Em nghĩ để chị có thì giờ ôn lại chuyến đi Đà Nẵng đấy chứ! - Ừ, bữa đó chị đi với mợ vô thăm cậu Túy đau nặng. Bây giờ cậu ấy đỡ rồi.
- Còn thằng Thức đi Đà Nẵng làm gì thế?
- Cái cậu này vô duyên thật! Anh Thức vô Đà nẵng đón xác người anh bị tử trận về. Cậu không thăm đám sao mà lại không biết? Bữa gặp ở bến xe nghe anh ấy nói chị mới biết đấy chứ.
- Chị lấy chồng rồi chẳng nghĩ tới ai hết. Em viết biết bao nhiêu thư chị cũng chẳng thèm trả lời.
Trúc cười nhăn nhó: - Trời ơi, cậu nói chi mà tệ rứa! Chị có lỗi thật nhưng cậu cũng phải hiểu cho chị chứ! Đã theo chồng, chị đâu còn khoảng trời riêng nào nữa? - Em nói vậy thôi. Thế anh chị thương nhau hồi nào mà em không hề biết? - Thương chi mà thương. Hai ông già bàn với nhau rồi làm như bắt cóc vậy. Chị hết đường đành buông xuôi cho số phận.
- Chị cũng không biết nói sao cho đúng nữa. Nói thật với cậu nằm bên chồng mà có khi chị ngỡ như nằm bên khúc gỗ.
Gia đình Phương có nề nếp nho phong và lại khá giả. Phương thông minh, đẹp trai, tính tình rộng rãi, sao chị Trúc lại nói như vậy?
- Chị nói đùa chứ! Phương đâu đến nỗi nào? - Chị đâu nói giỡn với cậu làm gì. Khi nào tiện chị sẽ nói cụ thể hơn. Bây giờ sắp vô học rồi, cậu cho chị gởi lời thăm mợ Bích.
Rồi mọi chuyện lại trôi qua. Sau này Trúc và Vấn còn nhiều lần gặp nhau, nhưng ai lo chuyện nấy, chẳng ai còn nhắc lại chuyện cũ nữa.
Thôi rồi! Chị Trúc!
Vấn rất ân hận vì Phương có nhắn cho Vấn biết anh bị bệnh. Vấn định chiều đó đi làm về sẽ tìm cách đến thăm. Không ngờ chuyện lại xảy ra nhanh quá. Vấn nghĩ mình thật có lỗi lớn với Phương và chị Trúc.
Khi ra tù Vấn mới rõ là Bích đã có vấn đề. Bích đã để hai đứa con lớn ở lại sống với ông bà nội, còn hai đứa nhỏ Bích đem theo về sống với cha mẹ mình. Cha mẹ Vấn không nói gì rõ lắm, nhưng theo nhận xét của Vấn thì hai ông bà không hài lòng về Bích. Những kẻ chung quanh thì người nói ngược, kẻ nói xuôi không ăn khớp nhau. Riêng Trúc có vẻ thông cảm hoàn cảnh Bích hơn hết. Trúc cho Vấn biết chỉ vì lo chạy ăn cho gia đình mà Bích bị kẻ bất chính lợi dụng. Bích về ngoại vì mặc cảm phạm lỗi, vì lòng tự ái đã bị tổn thương. Trúc khuyên Vấn nên tìm cách hàn gắn lại với Bích. Vấn nghe lời Trúc gặp Bích nhiều lần nhưng Bích vẫn từ chối: - Em đã có lỗi, em không còn xứng đáng với anh.
Thế rồi nhà ai nấy ở, việc ai nấy làm để nuôi con. Chị Trúc cũng tảo tần buôn bán lo cho ba đứa nhỏ ăn học.
Ngày tháng đang uể oải trôi thì bỗng thiên hạ xôn xao lên về chương trình xuất ngoại theo diện HO. Những điều kiện đòi hỏi để được xuất ngoại Vấn đều có đủ. Trường hợp Trúc có người bảo cũng đi được nhưng chưa ai thấy văn bản rõ ràng. Riêng Trúc lại không màng tìm hiểu đến chuyện đó.
Nhân một ngày giỗ chạp lớn có cả Trúc lẫn Vấn đi dự, bà con lại bàn tán chuyện đi Mỹ. Trước mặt mọi người, dì Sửu nói với Vấn: - Vấn này, tao nói thế này mày nghe có được không? Bây giờ con Bích không chịu đi với mày. Tao hỏi nó có chịu ly dị để mày lập hôn thú với người khác không thì nó bảo chịu, chỉ xin giữ một đứa con để hôm sớm mẹ con nương tựa nhau. Mày qua Mỹ rồi cứ thỉnh thoảng gởi cho mẹ con nó một ít tiền là tốt đẹp mọi bề. Ở đây mà có tiền thì con mày cũng ăn học nên người. Hiện nay những người đủ điều kiện đi mà thiếu đôi thiếu cặp đua nhau lập hôn thú với người khác thiếu chi đó, sao mày chưa tính dứt khoát cho sớm? Mày không nghe trâu chậm uống nước đục đó sao? Hay mày lập hôn thú với con Trúc cũng được, cho mẹ con nó đi luôn thể!
Một số người cau mặt phản đối. Dì Hợi lớn tiếng: - Chị Sửu nói gì kỳ vậy? Muốn loạn luân à? Chúng nó là chị em họ gần lắm mà!
Dì Sửu phân trần: - Tôi nói chưa hết ý. Tôi nói lập hôn thú là lập tạm thời để ra đi thôi. Qua đến Mỹ lại ly dị, chị vẫn phận chị, em vẫn phận em. Nhiều người khác đã làm rồi đó, có sao đâu? Tao nói thế con Trúc nghe có được không?
- Cám ơn cô đã giúp ý. Nhưng chuyện ra đi còn dài, đâu có gấp gáp gì. Nói thật, cháu cũng chẳng tha thiết gì lắm về chuyện ra đi.
Lòng xuân của Vấn lúc này như phơi phới đơm hoa. Vấn hẹn chị Trúc một buổi rộng rãi thì giờ để bàn chuyện đi Mỹ. - Chắc chị còn nhớ câu chuyện trong ngày giỗ chạp? - Cậu muốn làm theo lời cô Sửu hả? Theo cậu, chị có nên làm thế không? - Dạ, chính em muốn như vậy đó! - Rồi khi tới Mỹ mình sẽ làm gì nữa?
Vấn bối rối một lúc rồi nói: - Dạ, dạ, xin chị hiểu cho lòng em… Nếu chị ghét em thì cứ lập thủ tục xa cách. Còn không thì cứ sống như vậy…
- Chị đã đoán biết ý nghĩ của cậu. Chị không muốn cậu động não nhiều nên sẽ nói một cách rõ ràng dứt khoát. Đàn bà vốn nhạy cảm lắm. Chị đã biết tỏng tâm sự của cậu từ một tiếng thở dài của cậu thời học trò. Cũng không che giấu làm gì nữa, chính chị cũng có một thứ tình cảm tương tự. Nhưng chị em mình đã dùng lý trí, dựa vào sức mạnh luân lý xã hội để vượt qua nó, nên đã tránh được bao nhiêu rắc rối phiền hà. Kết quả đó phần lớn cũng nhờ vào phẩm chất, tâm hồn cao thượng của cậu. Thuở đó, nếu cậu tiến xa hơn một bước, không biết chị có cản trở nổi không. Bây giờ nếu chị lập hôn thú với cậu để tới phương tây, chốn xã hội xa lạ và tự do, tình trạng chị em mình sẽ đi về đâu? Cái hoài bão bị đè nén lâu ngày có cơ hội vùng dậy, không có sức mạnh xã hội can thiệp, liệu mình có giữ nổi không? Đành rằng mình có thể thỏa mãn chút ước vọng nhưng sẽ kéo theo bao nhiêu đổ nát. Con chị sẽ hết tin tưởng chị, con cậu sẽ coi thường cậu. Những đầu óc non nớt ấy nếu mất niềm tin, mất định hướng, tương lai chúng sẽ ra sao? Cậu hãy nghĩ lại đi! Bích nó đâu có phản cậu. Chẳng qua vì quá lo cho cậu và lũ con mà nó lỡ chân thôi. Cái họa đó khôn đằng trời cũng chưa chắc tránh được. Khi còn làm việc, cậu thanh liêm không có chút tư lợi phòng hờ. Khi cậu thất thế, vợ cậu phải khốn đốn để rồi phải vấp ngã. Người hiểu biết không ai cười cậu hết. Cậu có bổn phận phải chia xẽ nỗi đắng cay đó với Bích mới phải chứ! Hơn nữa, cậu với Phương là bạn bè, cậu muốn mang tiếng lợi dụng vợ bạn không đây? Rồi chị đây nữa, cái danh tiết giữ gìn lâu nay nỡ nào lại để tay cậu chôn vùi? Việc này có thể dẫn đến hủy hoại bao nhiêu tư tưởng đạo đức phương đông mà lũ trẻ lâu nay được vun mớm giáo dục. Đừng coi thường đạo đức phương đông! Nếu thiếu nó, con người sẽ sống hỗn loạn, nhơ nhớp, đau khổ hơn. Khi còn trẻ bồng bột, mình đã thoát được lưới tình, bây giờ đầu hai thứ tóc, gánh thêm trách nhiệm với con cháu, lẽ nào lại buông xuôi? “Chữ trinh còn một chút này, chẳng cầm cho vững lại dày cho tan”! Thúy Kiều sau mười lăm năm lưu lạc thân xác còn gì mà gọi là trinh? Chữ trinh mà cụ Nguyễn Du nói đây chính là trường hợp chúng mình đấy Vấn ạ. Đừng để người ta đánh giá mình quá thấp. Chị lúc nào cũng quí cậu như một viên trân châu. Gặp vận bỉ, ngọc có thể rơi lẫn vào bùn phân, nhưng không vì thế mà ngọc biến thành bùn phân. Chỉ cần qua một trận mưa lớn, bùn phân trôi hết, ngọc lại hoàn ngọc. Nếu cậu còn quí mến chị thì nên nghe lời chị. Bích đáng thương hơn đáng trách. Nếu cậu hàn gắn được với Bích không những lòng cao thượng của cậu được sáng tỏ mà còn là mối ơn phước lớn cho mấy cháu nữa!
- Dạ, em cám ơn chị đã cho em một bài học lớn. Ngày trước đọc các sách nói về liệt nữ em vẫn nửa tin nửa ngờ, nhưng bây giờ nhờ chị, em tin trong đó có nhiều chuyện thật. Em rất sung sướng có được một người chị cao cả. Nỗi lòng em cũng được giải tỏa rồi. Em sẽ gắng làm theo lời chị.
Ngô Viết Trọng Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 01/Apr/2016 lúc 2:45pm |
||||||||||||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||
NGƯỜI HỌC TRÒ ĐẠP XÍCH LÔ
Tôi gọi xích lô để được về thật nhanh với ngôi nhà ấm cúng, nơi có những đứa con kháu khỉnh, mà những ngày xa lòng tôi nôn nao nhớ. Một người đạp chiếc xích lô tiến lại. Dưới ánh điện nhập nhoà, tôi thấy đó là một thanh niên dáng dong dỏng, mặc chiếc áo sẫm màu vá nhiều miếng to, chiếc mũ lá rộng vành sụp xuống mặt. Cậu ta còn quá trẻ - tôi đoán vậy - Về phố Cửu Long bao nhiêu em? Tôi hỏi giá, vì nghe nói giá xe ban đêm gấp đôi ban ngày, vả lại túi tôi đã cạn sau chuyến đi dài. - Dạ mười ngàn . Chàng trai đáp một cách từ tốn và rất nhỏ. Tôi nghĩ, không phải đi bộ quãng đường hai cây số, mà chỉ mất chừng ấy tiền thì không nên đắn đo. Nhưng tôi có quyền mặc cả cơ mà: - Năm ngàn nhé! - Dạ. Tiếng “dạ” có vẻ nhỏ hơn. Tôi lên xe, thầm nghĩ chàng trai này dễ chịu thật, loại người chăm chỉ đây, chắc hoàn cảnh khó khăn nên mới phải làm lụng đêm hôm vất vả thế này. Thành phố ngủ say. Không có tiếng động nào ngoài tiếng xích xe nhịp đều đều theo đôi chân mải miết của chàng trai. Những vòm cây, những mái nhà tôi đã bao lần đi qua, dừng lại, ngắm nhìn, vậy mà trong đêm, tất cả trở nên lạ lẫm. Tất cả đột ngột hiện ra rồi lặng lẽ lùi vào vắng vẻ. Tôi yêu sự yên tĩnh này bằng một cảm xúc mới mẻ như lần đầu tiên tôi nhận ra cái thơ mộng của phố xá lúc đêm khuya. Tôi hít sâu vào lồng ngực, hưởng lấy chút không khí trong lành ẩm ướt hơi sương. Chưa kịp nghĩ ngợi gì thì xe đã dừng lại trước cảnh cổng sắt sơn xanh ẩn giữa bờ hoa giấy. Tôi trả tiền, chàng trai không nhận, chỉ vội vã quay xe, rồi nói, vẫn cái giọng rất nhỏ: - Cô về nghỉ ạ, em đi. Bây giờ tôi mới ngẩn nhìn chàng trai: - Phương! Tôi thốt lên ngạc nhiên, ngỡ ngàng nhận ra cậu học trò lớp 12A mà tôi đang chủ nhiệm. Không nói được gì thêm, tôi đứng trân trân giữa đường nhìn theo bóng Phương lẫn vào phố vắng. Một cảm giác xấu hổ làm tôi đau nhói. Tôi trách mình sao vô tình đến thế? Sao tôi không nhận ra Phương. Phải vì em mặc chiếc áo vá nhiều miếng to? Tôi lại còn mặc cả tiền bạc nữa chứ. Điều này có vẻ mâu thuẫn với những những gì hay ho mà tôi say sưa rao giảng trên lớp. Những ý nghĩ xót xa dày vò khiến tôi đứng ngoài phố một lúc lâu mới gọi người nhà mở cửa. Đêm ấy tôi trằn trọc cho đến khi đài phát thanh thành phố truyền đi bản nhạc quen thuộc đầu tiên trong ngày. * * * Tôi đến lớp với tâm trạng buồn khó tả. Câu chuyện hôm qua giúp tôi hiểu rằng không thể đánh giá học sinh một cách hời hợt, nông cạn. Năm mươi học sinh ngồi đây là năm mươi thế giới bí ẩn. Tâm hồn các em như cầu vồng bảy sắc mà ta bất chợt nhìn thấy nhờ những tia sáng mặt trời. Phương vẫn ngồi kia, góc cuối lớp, nét mặt không gì đổi khác, mà sao bây giờ tôi mới nhìn kỹ, cái mũi cao thẳng trên khuôn mặt khôi ngô, đôi mắt luôn ngời lên ánh nhìn thông minh và ngay thật. Bao giờ Phương cũng chỉnh tề với mái tóc gọn gàng, áo sơ mi tém trong chiếc quần xanh ngay ngắn. Cái dáng cao và nước da trắng làm nên vẻ thư sinh, khiến tôi không nhận ra em trong “vai” chàng trai đạp xích lô đêm qua. Tôi nhớ lại những cuộc họp hội đồng giáo dục, nhiều ý kiến phản ánh tình hình học sinh. Để tiếp tục cắp sách đến trường đối với các em không đơn giản chút nào. Có em phải bán trứng luộc trên tàu, bán hành rong ngoài bờ biển, gánh nước thuê, đạp xích lô… Tôi cho rằng đó là những thực tế không tránh khỏi của miền Nam sau giải phóng, nhưng lại đinh ninh rằng lớp tôi không có những trường hợp như vậy, bởi vì ánh mắt các em bình thản, vô tư lắm. Hoá ra lâu nay tôi toàn nhận xét học sinh theo cảm tính. Tôi có biết đâu, đằng sau tiếng cười hồn nhiên của các em là một cuộc sống đầy vất vả, lo toan. Tôi không thể làm ngơ trước một học trò như Phương được. Tôi phải tìm hiểu hoàn cảnh, tâm tư của em, ý nghĩ đó thúc bách tôi mạnh mẽ. Giờ nghỉ, tôi gọi Phương ra hành lang. - Hôm qua cô có lỗi là không nhận ra em. Cám ơn em đã đưa cô về nhà, nhưng tại sao em lại có vẻ tránh cô thế nhỉ? - Thưa cô, Em thực sự không muốn cô phải bận lòng nhiều vì chúng em… - Sao em phải đạp xích lô ban đêm? - Dạ, em thuê chiếc xích lô này. Chủ xe đi ban ngày, ban đêm họ nghỉ, cho thuê. - Đêm nào cũng vậy, còn thời gian nào mà nghỉ ngơi? - Thường lệ cứ 7 giờ tối, em đi các phố đón khách, sau đó lên ga chờ khách xuống tàu. Em về nhà lúc 2 giờ sáng ngủ đến 5 giờ dậy, đi học. - Ngủ ít vậy mà cô không thấy em ngủ gật? - Dạ, em quen rồi. - Cô còn mắc nợ em đấy, chủ nhật cô đến nhà thăm em được chứ? Phương “dạ” một tiếng rồi đi vào lớp, hoà trong đám học sinh đang gõ bàn hát ầm ĩ. Tôi nghĩ, em không thể sống vô tư. * * * Phương ở trong hẻm một khu phố lao động. Căn nhà chật chội, với những đồ vật sơ sài sắp đặt không được hợp lý lắm. Tất cả muốn nói rằng cái “hậu phương” của em chẳng có gì là vững chắc. Phương kéo ghế, mời tôi ngồi, cử chỉ chững chạc, lễ độ và tự nhiên, không có sự khúm núm mà tôi thường gặp ở một số học sinh. Vừa rót nước ra những chiếc ly thủy tinh, em vừa kể: “Bố em là lính, mất tích trước 1975. Mẹ
em cũng mới mất cách đây hai năm. Bệnh hen suyễn đã hành hạ bà suốt
cuộc đời. Cho đến giờ em vẫn không thể nào quên hình ảnh mẹ khô gầy, hố
mắt trũng sâu, đêm đêm không ngủ được, mẹ phải dựa lưng vào vách, há
miệng ra thở những hơi thở khò khè, nặng nhọc. Căn bệnh hiểm nghèo, nên
mọi sự chữa chạy đều vô hiệu. Mỗi lần lên cơn khó thở, mẹ co rúm người,
vật vã khổ sở. Mẹ bảo chỉ mong chết. Em ước mình là bác sĩ để cứu mẹ. Mẹ
mất, cuộc sống chúng em càng khó khăn. Hai đứa em nhỏ cũng đang tuổi ăn
học. Mấy lần em tính bỏ học, đi làm kiếm tiền nuôi các em, nhưng xa
lớp, xa các bạn, nhớ quá, không chịu nổi. Mới lại em ước mơ trở thành
bác sĩ nên phải cố gắng cô ạ…” Bây giờ thì tôi hiểu vì sao Phương học giỏi. Mỗi sự vươn lên để chiến thắng hoàn cảnh, đều có một động lực bên trong. Từ đó, mỗi khi giảng bài, tôi thường nhìn vào mắt em, ở đó niềm hy vọng đang cháy lên và tôi như được tiếp thêm sức mạnh. * * * Bẵng đi một thời gian dài, dễ đến bảy, tám năm, tôi đã là bà giáo thâm niên trong nghề. Bao nhiêu lớp học sinh đi qua cuộc đời, bao nhiêu gương mặt lưu lại trong tâm trí, có những điều bị xoá nhoà, lãng quên, có những niềm vui, nỗi buồn khắc sâu thành kỷ niệm. Tôi bắt đầu ngấm mệt, bắt đầu cảm nhận những bất cập và cả nỗi buồn của nghề dạy học. Một buổi sáng, sau khi dạy xong bốn tiết văn, tôi bước ra khỏi lớp bỗng thấy đầu choáng váng mắt nhoà đi, cổ họng đau cứng như có vật gì to lắm chẹn lại, ngực tức tựa hồ ai đem đặt vào đó một tảng đá. Tôi ho rũ và khạc ra một cục máu đỏ bầm to bằng đầu ngón tay. Không tin ở mắt mình, tôi nhìn kỹ lại, thì đúng là một cục máu. Tôi bàng hoàng kinh sợ, nghĩ đó là dấu hiệu của bệnh “lao” và rùng mình nhớ đến những đồng nghiệp của tôi đã chết vì lao phổi. Hai mươi năm cầm phấn, viết và nói, tôi đã hít không biết bao nhiêu vi trùng. Những hạt bụi trắng, li ti mà những người làm thơ, làm nhạc đã tha thiết ngợi ca. Tuổi trẻ vốn tin vào những gì đẹp đẽ. Tôi cũng một thời thi vị hoá bụi phấn. Cứ để mặc cho phấn nhuộm trắng bàn tay như một bông hoa huệ; Cứ để phấn bám đầy quần áo, rắc mịn màng lên tóc, bay vào mũi, vào miệng, đó mới thật sự yêu nghề, xả thân vì đạo. Cứ gào lên mà giảng, chẳng hề băn khoăn về hai lá phổi. Mấy lần thấy đau cuống họng, ngậm vài viên ômai ngòn ngọt, dìu dịu lại nói rất say sưa. Có lúc mệt lử tự dặn mình đừng hăng quá, phí sức, nói nhỏ lại, ít đi, chậm rãi hơn, nhưng gặp chỗ tâm đắc, hứng lên, lại thao thao bất tuyệt. Chợt nhớ mình quá đà thì cổ họng đã sưng tấy lên rồi. Lần này không thể xem thường, tôi phải đến bệnh viện. Phòng khám khá đông. Tôi lấy cuốn sách “Giáo dục con người chân chính” của Xu-khôm-lin-xki ra đọc, chờ đến phiên mình. - Chào cô ạ - Một người mặc áo bơ - lu trắng, mang kính cận, nhìn tôi, cười: - Thưa cô, cô khám bệnh ạ, cô có nhận ra em không? Trong giây lát, những gương mặt học trò lần lượt hiện lên trong trí nhớ. - A, Phương! – Tôi khẽ reo lên - Thế ra bây giờ em không tránh cô như dạo trước nữa. - Dạ. Sau khi tốt nghiệp đại học Y khoa, em về làm việc bệnh viện này. Thưa cô, mời cô vào phòng khám. Hôm ấy, chính Phương đã khám bệnh cho tôi, đôi mắt em nheo lại, đăm chiêu dõi theo từng nhịp thở của tôi qua chiếc ống nghe. S± bình tĩnh và thành thạo của Phương làm cho tôi hoàn toàn tin cậy. Tôi đâu còn là cô giáo của em như ngày nào trang nghiêm trên bục giảng. Tôi là bệnh nhân, còn em là thầy thuốc. Phương đưa tôi đến phòng khám tai mũi họng, khoa X quang chụp phổi. Cử chỉ của Phương khẩn trương, dứt khoát, tôi chỉ biết phục tùng như một cái máy. Sau đó, tôi đến ghế đá vườn hoa giữa bệnh viện ngồi chờ kết quả xét nghiệm. Một chiếc lá xanh non khẽ chạm vào tay tôi như một cử chỉ dịu dàng. Chẳng có cơn gió nào giật đi chiếc lá như trong truyện ca O. Henry. Vây quanh tôi là muôn nghìn con mắt lá, tràn trề hy vọng. Ngồi ở vườn hoa tôi có thể nhìn toàn cảnh bệnh viện. Một chiếc cáng đưa một bệnh nhân vừa chết xuống Nhà vĩnh biệt, những tiếng khóc dữ dội đi theo. Một anh thanh niên ngồi ở ghế đá bên cạnh nở một nụ cười sung sướng khi có người đến báo tin vợ anh vừa sinh con trai đầu lòng. Ở đây sự sống và cái chết diễn ra trong khoảnh khắc. Nếu có khi nào ta đứng trong khoảnh khắc ấy sẽ cảm nhận sâu sắc hơn hạnh phúc và khổ đau. Những người thầy thuốc là những chiến sĩ gan góc, họ đang chiến đấu âm thầm, giành lại sự sống, niềm hạnh phúc cho con người, mà sao bây giờ tôi mới thấm thía điều này. Phải chăng, chỉ lúc nào ta là bệnh nhân, bị nỗi đau thể xác dày vò, ta mới suy nghĩ về công lao của người thầy thuốc? Chị bạn tôi là bác sĩ phàn nàn rằng “nghề Y khổ sở lắm. Mổ bụng người, cắt cả khúc ruột thừa, mà tiền bồi dưỡng không bằng tiền trả cho anh thợ ngồi ở đầu đường vá cái ruột xe”. Ồ, thế thì nghề dạy học của tôi có hơn gì? Tiền bồi dưỡng cho một giờ dạy học ngoài tiêu chuẩn, gọi là giờ phụ trội, chỉ mua được một quả chanh. những chuyện như thế thật vô cùng, làm sao có thể ghi hết bằng vài trang truyện? Có điều là tôi, chị và tất cả mọi người vẫn sống, vẫn làm việc. Chúng ta là những trí thức không thể lạc quan theo kiểu A-Q nhưng chắc chắn còn có một sức mạnh vô hình nào quyết định sự sống của ta. Bát cơm, manh áo, chẳng đơn giản chút nào, nó làm ta chóng mặt. Nhưng đáng sợ hơn khi trái tim ngủ yên, bộ óc ngủ yên… Có những lúc tôi tưởng mình sắp ngã xuống giữa bục gíảng cao và vững chãi như cái điểm tựa kia. Nhưng rồi lòng tự trọng đã buộc tôi phải đứng lên với một tư thế đàng hoàng. Mỗi giờ dạy thất bại khiến tôi đau đớn hơn cả nỗi đau thể xác. Mỗi một giờ dạy thành công thì niềm hạnh phúc ùa đến ngập tràn, như được hồi sinh. có khác gì niềm vui của người thầy thuốc giành lại sự sống cho người bệnh từ tay thần chết… Có lẽ tôi sẽ còn nghĩ ngợi miên man nếu Phương chưa trở lại. Em cầm trong tay tấm phim to bằng trang giấy học sinh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy một phần cơ thể của mình trên hình ảnh, hồi hộp, lo âu. Chỉ một lời nói của Phương lúc này là quyết định phần đời còn lại của tôi. Nếu tôi bị lao phổi có nghĩa là tôi phải vĩnh viễn rời xa bục giảng. Phương giơ tấm phim lên, chỉ vào từng vùng sáng tối giải thích: - Thưa cô, kết quả xét nghiệm cho thấy
tình trạng sức khỏe của cô hiện thời không đáng lo ngại. Không có dấu
hiệu bệnh nguy hiểm. Cô chỉ bị yếu phổi. Hiện tượng ho ra máu là do viêm
họng, xung huyết. Cô cần được nghỉ ngơi ít ngày và sử dụng thuốc theo
chỉ dẫn, nếu thấy trong người còn mệt cô trở lại đây. Tôi run run đón lấy tấm phim từ tay Phương, khẽ nói “cám ơn em” mà nỗi xúc động như muốn vỡ òa. Phương tiễn tôi ra cổng bệnh viện. Quãng đường ngắn không cho phép cô trò nhắc nhiều về kỷ niệm, nhưng hình ảnh cậu học trò mặc chiếc áo vá nhiều miếng to, đạp xích lô và căn nhà chật chội trong hẻm hiển hiện trong tâm trí tôi. Sực nhớ điều gì tôi hỏi: - Hai em của Phương thế nào? - Dạ, tốt nghiệp đại học hết cả rồi cô ạ. Một đứa Bách khoa, một đứa kinh tế. - Ôi trời ! Giỏi quá. Làm thế nào mà nuôi nhau ăn học? - Dạ, cũng tự lao động kiếm sống thôi ạ. Chật vật, gian nan lắm, nhưng rồi cũng qua. - Em làm cô bất ngờ quá đấy Phương ạ. Sự thành đạt của các em là bài học làm người. - Em vẫn nhớ, khi giảng bài, cô thường nói: Hạnh phúc chỉ có thể đạt được bằng nghị lực vươn lên không ngừng. Tôi tin Phương thành thật, vì em nói điều đó sau những trải nghiệm của chính cuộc đời mình Chia tay Phương, tôi ra khỏi bệnh viện trong trạng thái nhẹ nhõm như chưa từng đau ốm. Phần vì Phương đã cho tôi biết tôi không bị lao phổi, nhưng lý do quan trọng hơn khiến tôi trở nên khỏe khoắn là vì tôi vừa được chứng kiến “thành quả” của mình. Người thầy giáo thường mang tâm sự buồn vì nghề dạy học vất vả, âm thầm nhưng chẳng bao giờ được nhìn thấy “sản phẩm”. Thì đây, sản phẩm của nghề dạy học là những con người, những thầy thuốc, kỹ sư, nghệ sĩ, nhà kinh tế, nhà lãnh đạo… Tôi sung sướng nhận ra, với tôi, không có chỗ đừng nào tốt đẹp hơn chỗ đứng trên bục giảng. Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 09/Apr/2016 lúc 10:03pm |
||||||||||||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||
Em bé “Napalm” ngày ấy và bây giờ,buồn vui lẫn lộn !Vài thập kỷ sau chiến tranh, những
vết sẹo vẫn hằn trên da thịt Kim Phúc, bé gái trong bức ảnh nổi tiếng
“Em bé napalm” ở Việt Nam năm 1972.
Đỗ Quyên (Nguồn: Zing) Đã nhiều năm trôi qua, “em bé Napalm” trong bức ảnh nổi tiếng ngày nào giờ đã có cuộc sống thanh bình bên chồng con tại đất nước Canada xa xôi.![]() Bức ảnh “Em bé Napalm” do Nick Ut, phóng viên hãng AP, chụp vào ngày 8/6/1972. Nhân vật chính trong bức ảnh là cô bé Phan Thị Kim Phúc cùng một số trẻ em Việt Nam vừa đi vừa khóc sau khi bom napalm dội xuống Trảng Bàng, Tây Ninh. Bức ảnh sau đó đã nổi tiếng toàn thế giới và giúp phóng viên Nick Ut giành giải thưởng Pulitzer danh giá trong lĩnh vực báo chí, năm 1973. ![]() Bức ảnh ghi lại cảnh nhiếp ảnh gia Nick Ut đang nói chuyện với Kim Phúc khi cô bé đang bị bỏng lưng sau cuộc tấn công bom napalm. Khi vụ tấn công xảy ra, Kim Phúc đã đang cùng gia đình tham dự 1 buổi lễ chùa. Nhớ lại thời điểm chụp bức ảnh, nhiếp ảnh gia Nick Ut cho biết giữa làn khói mờ của bom đạn, ông nhìn thấy 1 cô bé mình trần vừa chạy vừa hét lớn cùng những đứa trẻ khác. “Sao cô bé không mặc quần áo nhỉ?”, suy nghĩ lóe lên trong đầu và ông đã dùng máy ảnh chụp lại khoảnh khắc đó rồi hướng ống kính ra xa. “Tôi cứ nghĩ rằng cô bé sẽ chết mất, tôi mang nhiều nước tới rồi dội lên người cô bé. Cô bé hét lên “Nóng quá”, “Nóng quá”. Cô bé không muốn dội nước lên người mà chỉ muốn uống nước”. ![]() Năm 1989, Nick Ut đã tới Cuba và ghé thăm Kim Phúc. Đây là lần tương phùng đầu tiên của 2 người kể từ khi chiến tranh ở Việt Nam kết thúc. ![]() Cha mẹ của “em bé Napalm”, ông Phan Thanh Tung và bà Du Ngoc Nu đang cầm bức ảnh của con gái vào năm 1997. ![]() Nhiều năm trôi qua, “em bé Napalm” trong bức ảnh nổi tiếng ngày
nào giờ đã có cuộc sống thanh bình bên chồng con tại đất nước Canada xa
xôi.
|
||||||||||||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23670 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||
ĐỪNG TƯỞNG <<<<<<![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Apr/2016 lúc 12:54pm |
||||||||||||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23670 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||
Tình
Xưa Nghĩa Cũ
Người đàn ông xoay đầu nhìn và hỏi? _ Uống một chút nước nhá? Cô gái lắc đầu, mái tóc đong đưa. _ Dạ không. Mẫu đối thoại ngắn duy nhất của buổi trưa. Từng người lững thững đi, từng nhóm nhỏ tụ lại cười nói ngả nghiêng. Hành lang lại đầy người. Những giọt nước mắt từ đôi mắt phờ phạc thiếu ngủ của cô gái, rơi trên giấy gói bó hoa, từng giọt, từng giọt. Cô đưa ngón tay xoay vòng trên những giọt nước mắt, vết loang lớn dần dần. Người dàn ông hướng ánh mắt bắt lực nhìn. Ðưa bàn tay gân guốc, vuốt mhẹ mái tóc dài óng mượt. Cô gái đưa khăn tay lên chặm mắt, đôi vai run run thổn thức. Từ lúc đó cô không còn liếc mắt nhìn quanh không còn những phản ứng theo người đàn ông. Cô chỉ nhìn xuống sàn. Không nói nhưng có vẻ không còn tin vào những cú giật mình của người đàn ông nữa. Mặc cho người đàn ông đứng lên ngồi uống, mặc cho người đàn ông bồn chồn hụt hẫng. Càng lâu người đàn ông càng bối rối, đôi mắt đăm chiêu nhìn. Ông ta móc ra điếu thuốc cuối cùng, đưa lên môi ngậm. Bóp bao thuốc rỗng. Khi chiếc bao vuông vắn trở thành một cục giấy tròn nhỏ, người đàn ông xoay người bỏ vào thùng rác bên cạnh. Môi vẫn ngậm điếu thuốc chưa mồi. Cánh cửa lại rộng mở, nhả ra từng nhóm người, kẻ vội vã dõi mắt nhìn dáo dác, người nhởn nhơ, ngơ ngác nhìn. Bên cạnh những xe chở hành lý đầy ắp, lăn bánh nặng nề. Ðể lại trên khuôn mặt ngưòi đàn ông thêm những lo âu. Ông thôi không còn bồn chồn nôn nóng, và những khi nhìn ai thì có vẻ lừ đừ . Khi bóng đêm thấp thoáng bên ngoài khung cửa kính, ông ta lấy trong túi xách một cái bánh mì nhỏ, phần ăn để dành từ trên máy bay, gói cẩn thận trong khăn giấy. _ Ăn một tí nhá? _ Dạ không. Cô nghiêng người tìm chỗ tựa. Người đàn ông dang tay kéo vào, khoát tay lên vai, vỗ nhè nhẹ, nhìn xa vắng đôi mắt trở nên buồn, long lanh. _ Bố ơi! Nhỡ Mẹ không đến đón thì mình làm sao hở Bố? _ Sao lại không đến. Người đàn ông trả lời nhanh và chắc. _ Hãy cố thêm tí nữa nhá! Ông khe khẽ thở dài. Tuy nói vậy, nhưng trong lòng ông thật ra, ông còn nôn nao hơn cả con ông. Ông cũng đã nhiều lần tự hỏi " Nếu Bà không đến đón thì hai Bố con phải làm sao, trên đất nước xa lạ này. Tiền bạc thì chỉ có mấy chục bạc. Không quen ai ? ". Cô gái mỏi mệt, nhắm đôi mắt buồn hiu. Mái tóc loà xoà, những lọn tóc rối vương hờ hững trên vai người đàn ông. Tiếng nhạc văng vẳng phát ra từ chiếc loa treo trên vách tường. Giọng ca của người nữ ca sĩ da đen. Tiếng ca buồn buồn, như rên. Chắc cô có điều gì buồn lắm . Ru cô vào giấc ngủ. Bàn tay giữ bó hoa lỏng dần. Cánh tay cô buông thõng xuống. Bó hoa cô nâng niu rơi xuống sàn nhà. Tiếng động rất khẽ. Giật mình, mở đôi mắt đỏ hoe. Người đàn ông cúi lượm bó hoa để lên xe. Xoa nhẹ lên vai cô gái, cho gối đầu lên đùi mình. _ Ngủ một tí nưã đi. Giọng trầm trầm. Ðắp nhẹ chiếc áo vét lên người cô gái, dáng cong như con tôm kho. Ngưòi đàn ông cắn chặt môi dưới, nhìn nhưng hình như chẳng thấy gì. Cả hai đều dè xẻn lời nói. Người đàn ông mỏi mệt gục đầu thiu thiu ngủ. Những biến động trong lòng trải ra trên khuôn mặt ông, khi nhăn nhíu như những đau đớn nào đó đang dày vò ông. Khi ông nhếch môi, một nụ cười héo hon. Một hai tiếng nấc nho nhỏ làm cả thân người gầy của cô gái run run theo. Những giọt nước mắt đọng trên khóe, chảy theo khuôn mặt nghiêng nghiêng. Một vài tiếng động nhỏ đánh thức. Ông dõi mắt nhìn về phía cuối hành lang nơi dành cho người đến đón. Người lao công da đen đẩy xe lau xàn nhà, chậm rãi đi vào, cười chào. _ Good night Sir. Người đàn ông chào lại. Cúi đầu nhìn cô gái đang ngủ ngon. Ðưa điếu thuốc lên môi, thong thả mồi và hít từng hơi thật dài. Ðôi mắt đăm chiêu nhìn xa xôi theo làn khói thuốc bay lãng đãng. Lồng ngực ông căng lên, tiếng thở não nề tuôn ra, ông xìu xuống đôi mắt khép lại, những khi buồn ông vẫn hay làm như thế và mơ. Cứ như là trong đám khói thuốc kia ẩn hiện những hình ảnh vẫn theo ông. Một dĩ vãng dài nhằng, đầy dẫy những muộn phiền, những hạnh phúc, những đổ vỡ. Có vẻ bằng lòng điều gì đó, ông nhếch mép cười nửa nụ. Nụ cười ông dành dụm cho con gái ông, và mỗi khi nghĩ về thuở xưa. Thuở ấy. Ôi ! đẹp làm sao. Ði đến trường người đi trước kẻ đi sau, người đi trước tuy đi không nhanh nhưng người đi sau vẫn không bước kịp. Khoảng cách cứ như thế. Người đi trước có việc phải dừng lại thì người đi sau đành phải bước luôn. Trong lớp nhìn ngang là thấy nhau nhưng thấy nhau thì như bị điện giật, cho nên chỉ lén nhìn. Cho đến một hôm; Nàng đùa với bạn chạy từ ngoài cửa vào, chàng từ trong lớp chay ra đụng nhau, hoảng hồn nàng ôm chàng, chàng ôm nàng, ôm nhau thật chặt. Khi buông tay ra nàng khóc như cả cha lẫn mẹ vừa.... chết. Chuông reo vào lớp. Ngọc vẫn thút thít khóc. Thầy giáo hỏi chuyện gì? Nhao nhao một đám. _ Vũ ôm Tơ Ngọc nên Tơ Ngọc khóc đấy thầy. Thầy Phạt......ôm lại trừ đi thầy. _ Sao lại ôm người ta? _ Tai nạn lưu thông. _ Gớm chỉ giỏi nghịch. Từ đấy mỗi ngày vào lớp, ông nhận được những cái liếc, những cái háy cháy cả lòng. Gặp nhau ngoài đường chàng cúi đầu tránh. Trong lớp chàng chỉ nhìn thẳng phía trước. Ðang là người học giỏi. Chàng từ từ tuột dốc. Hạng năm. Hạng mười. Rồi gần áp chót. Mấy làn bị đuổi ra khỏi lớp. Bàn bè xầm xì. Nàng cũng thấy mình qúa đáng. Mắt lại tìm mắt. Loanh quanh những cái kiêu, cái nhỏng nhẽo của nàng mất mấy năm. Yêu nhau. Cưới nhau trước khi ông vào lính. Ngày ông đi tù, vợ ông mang thai. Ngày ông về gặp lại thì con gái ông tám tuổi. Vợ chồng xa nhau đến nay thời gian cũng gần bằng khoảng tuổi thuở mới yêu. Bây giờ bà ra sao nhỉ? Lâu quá không gặp. Nhưng chắc thế nào cũng nhận ra. Làm thế nào mà không nhận ra được. Ông tự nhủ lòng, và có vẻ vui ra. Mím môi ông gật gù cười. Những người ra nước ngoài lâu năm hình như ai cũng mập ra, đẹp hơn. Và chắc vợ ông cũng thế! Bà ngày xưa vốn đã đẹp. Người đàn bà mới đến dáng vội vã, bước những bước thật dài. Ðôi giầy cao gót gõ những tiếng dồn vang cả hành lang. Bà nhìn quanh, đôi mắt sáng dưới hai hàng lông mày đen đậm, mũi thanh cao, môi hồng nũng nịu. Trang phục sang, thật đẹp. Và như bà nhận ra bà đưa ngón tay chỉ về phía hai người. Khi đứng trước hai người bà cúi đầu chào và cười. Sự xuất hiện của người đàn bà như có luồng điện vô tình nào đó đã khích thích người đàn ông. Mừng rỡ, mở to đôi mắt ngạc nhiên nhìn người đàn bà mới đến. Ông khẽ lay vai cô gái. _ Linh thức dậy con. Linh vùng ngồi dậy ngơ ngác nhìn. Và nhìn chăm chăm người đàn bà đang đứng trước mặt, như cố moi tìm trong vùng trí nhớ. Cố gắng lắm, cô nhíu cả mày, cổ khô Linh nuốt nghẹn nghe ừng ực. Nhưng hình như Linh không nhận ra người đang đứng trước mặt mình là ai. Nên cô chỉ cúi đầu chào. Ðôi ba lần cô liếc mắt nhìn người đàn bà rồi nhìn bó hoa. Người đàn bà nói tiếp. _ Xin lỗi đã để hai Bố con chờ lâu quá. Vì cứ phải dời đi dời lại ngày đi đón. Nên ngày ông và cháu đến thì tôi đi công tác xa. Tôi cũng vừa xuống máy bay đấy. Trễ qúa. Người đàn bà vòng tay ôm vai cô gái cúi đầu hỏi: _ Cháu có mệt lắm không? Cô gái trả lời nhỏ, lẫn nụ cười héo: _ Dạ thưa không. Nhìn bó hoa Linh đang ôm trong lòng. Ðôi mắt bà chớp chớp. Mặc dù bà là người rất cứng rắn. Nắm tay Linh. _ Mình đi thôi. Ngưòi đàn ông đẩy xe đi phía sau, bước chậm theo hai người. Bây giờ ông mới ngẩng đầu nhìn ngắm chung quanh. Khi cả ba đứng bên cạnh chiếc xe hơi. Loại xe của những người giầu. Chiếc xe sang trọng, lầm lũi đi vào những con đường nhộn nhịp, tràn ngập áng đèn, người đàn ông im lặng. Người đàn bà bận rộn, hết làm việc này đến làm việc khác. Khi thì gọi điện thoại Chiếc xe kềnh kàng nhưng ngoan ngoãn dưới hai bàn tay trắng, những móng tay trau chuốt, lấp lánh ánh kim cương. Linh ngồi phía sau chồm người ra trước hỏi: _ Thưa Bác mẹ cháu vẫn khỏe chứ? Người đàn bà chỉ gật gù, không trả lời. Chăn chú nhìn về phía trước. Con đường như một giòng suối tràn ngập ánh sáng. Người đàn ông nhắm mắt tựa vào kính xe lim dim. Dù sao thì cũng đã có người đón. Xe chậm rãi vào bãi đậu của của một khu phố sầm uất. Người đàn bà mời: _ Mình vào ăn tối. Về đến nhà thì cũng khuya lắm. Cả hai bố con im lặng làm theo. Nhìn những món ăn ngon được dọn ra, đói thì cũng đói nhưng chẳng muốn ăn. Lòng dạ nào mà ăn. Hai người như vừa từ trên trời rơi xuống. Thỉnh thoảng người đàn ông nhìn sang người đàn bà rất nhanh. Bà cũng có vài nét quen. Nhưng mũi của vợ ông thì không đẹp bằng, môi thì cũng không mọng thắm như bà. Giọng nói thì có giống, nhưng trầm hơn. Nhưng vẫn có điều gì là lạ. Người đàn bà thì rất dạn dĩ, khi nhìn thì nhìn thẳng người đối diện, và khi nói cũng vậy. _ Ông và cháu ăn ít quá! Vậy để tôi bảo họ gói mang về. Người đàn ông ái ngại nói: _ Chúng tôi làm phiền bà quá. Bà cười thay cho câu trả lời. Rút trong bóp ra một tấm danh thiếp đưa cho người đàn ông, và một phong thư. _ Trong ấy có ít tiền để ông và cháu tiêu tạm. Người đàn ông gật đầu cám ơn. Cúi nhìn tấm danh thiếp. Luật sư. Camly Võ. Bên dưới có thêm mấy hàng chữ nhưng nhỏ qúa ông không mang kính nên không đọc được. Ông có nhiều điều muốn biết, nhưng ông cũng không hỏi gì. Bà là người có học. Dĩ nhiên bà hiểu trong đầu ông, trong đầu con gái ông nghĩ gì. Bà không nói vì bà không muốn nói. Nếu cần thì bà đã nói rồi. Hai bố con cám ơn những việc bà đã làm. Trên con đường về. Ông biết đây là con đường về. Nó sẽ đưa hai bố con ông về đâu, đến đâu? Nơi đó có những gì đang chờ. Ông cố gắng nén tiếng thở dài cứ muốn tuôn ra. _ Thưa Bác bao giờ thì Bác gặp mẹ cháu? _ Tôi cũng không biết. Tôi chưa gặp Mẹ cháu bao giờ!! Văn phòng của tôi nhận việc này, và giao cho tôi. Xe chạy ngang chạy ngược. Ðến đây thì ông không còn biết phương biết hướng nữa. Thả hồn lêng đêng với tiếng nhạc văng vẳng, thân ông ngả ngiêng theo giòng xe cộ. Xe chạy chậm dần.Lúc chạy lúc dừng Bà hạ kiếng xe, nghiêng đầu nhìn ra ngòai, lẩm nhẩm đọc. _ O.K. Ðây rồi. Bà nhoẻn miệng cười. Lùi xe, đậu gọn bên lề đường. Cả ba người loay hoay một hồi mới mở được cửa của căn nhà lưu động nho nhỏ. Bà Camly Võ ra về và hẹn sẽ gặp lại. Trong căn phòng nhỏ có mọi thứ cần thiết. Linh ngồi ở mé giường hai tay đan vào nhau, để trên đùi. Người đàn ông hai tay thọc trong túi quần đi tới đi lui. _ Linh đi tắm và thay áo quần đi con! Linh không trả lời cũng không đi. _ Bây giờ mình phải làm sao hở bố? Người đàn ông trần ngâm một lúc lâu. Quay lại nhìn con, nhưng không nói gì. Óng _ Bố. Con muốn giữ bó hoa này mãi Bố ạ. _ Ừ , để đấy Bố làm lại cho đẹp. Ði tắm nhanh lên, xong vào bố lau tóc cho. Ông lom khom người mở va ly cho con. Linh ôm trên tay mấy thứ cần dùng. Cô đi vào phòng tắm. Còn lại một mình. Ông ngồi lặng lẽ nhìn bóng mình xoi trên vách, và thèm một điếu thuốc. Có lẽ chưa lúc nào ông thèm thuốc lá như bây giờ. Chống cùi chỏ lên bàn tì trán lên tay, những sợi tóc muối tiêu lòa xòa. Những cơn đau bao tử đang dày vò, ông oằn người chịu đựng, mồ hôi ướt trán. Những câu hỏi đang giẫy dụa trong đầu, ông thở dài. Lưng ông cong, những nỗi buồn chất chồng. Ông gục đầu lên bàn như kẻ kiệt sức. _ Bố mệt lắm phải không? Bố ngậm kẹo sâm Bố nhá? Người đàn ông giật mình nhìn quanh. _Bố ơi! Bố vào giường nằm đi. Ông chậm rãi đứng dậy, ngả lưng xuống giường. Linh kéo chăn đắp cho bố. Cô quì bên cạnh thì thầm: _ Bố ngủ đi. Ông chớp đôi mắt đỏ mấy lần thay câu trả lời. Nhắm mắt tìm giấc ngủ. Ông mỉm cười khi hai bàn tay mát lạnh của con gái nắm chặt tay ông. Ông cố xua đuổi những ý nghĩ đang dày vò ông. Thấm mệt sau chuyến bay dài, chen lẫn những rối ren trong ngày, ông chìm vào giấc ngủ. Ðêm thâu lặng lẽ, cô gái ngồi nhìn chăm chăm vào khoảng không đen đen trước mặt, lẩm nhẩm đọc bài kinh đêm. Gió khuya lùa những cành dương liễu rủ phủ trên mái nhà xào xạc, như có ai thì thầm. Tiếng thở nặng nề, không đều, khi nặng khi nhẹ, khi thì như tiếng thở dài. _ Mẹ ơi ! Mẹ ở đâu? Võ Ðức Tiến. ![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Apr/2016 lúc 12:52pm |
||||||||||||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23670 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Apr/2016 lúc 7:04am |
||||||||||||||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7169 |
![]() ![]() ![]() |
|||||||||||||||
Ông Hải Quân
|
||||||||||||||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||||||||||||||||
![]() |
||||||||||||||||
<< phần trước Trang of 158 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |