Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: NHÓM 12 YÊU THƯƠNG Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 158 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 24/Mar/2016 lúc 10:11am

HỎI EM  <<<<<




Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 24/Mar/2016 lúc 10:20am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 28/Mar/2016 lúc 9:38am
Có những niềm đau




Tịnh cùng bốn tân binh, bị đưa đi đóng quân trên một mỏm đảo nhỏ, nằm chênh vênh, côi cút ngoài khơi vịnh Cam Ranh. Cả làng, đếm chưa tới trăm nóc gia, có mùi gió biển tanh tanh của cá phơi khô. Trú đóng hơn tuần, Tịnh bắt đầu chú ý con lợn và bầy gà, do lính Hậu cần nuôi.

Sáu tháng quân trường, cơm cà mắm muối, thao trường cực nhọc, lại ít được thăm nuôi, gã nào cũng ốm tong teo như lão còng gió, đen đủi đến thảm thương. Được ăn lưng lửng, đã là ước mơ lớn của đời lính, nói chi miếng thịt!

Đã từ lâu, ít nhất sáu tháng, Tịnh chưa hề biết tới mùi vị thịt gia súc. Ngoài rắn, giông, kỳ đà và những loài bò sát khác, con nào con nấy, bé tẻo như rẻo tay con nít, đút vào mồm chỉ một ‘nhát’ là xong, sau vài thủ thuật nấu nướng nhanh, gọn. Thức ăn chỉ là cá vụn ôi, bo bo, bột mì và mì sợi Trung Quốc trộn vào cơm.

– Lính thế… Đánh đấm với chó! Vậy mà cũng huênh hoang ‘đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào’. Kỳ cục! – Thiện, thằng sinh viên đại học năm thứ 2, từng nói thế, vào ngày gắn lon binh nhì ra trường.

Vì thế con lợn, bầy gà và… miếng thịt cứ ám ảnh Tịnh triền miên, cả trong giấc ngủ. Mỗi khi rảnh rỗi, lẽ ra vào làng cua đào, ghẹo gái, Tịnh hay đi lang thang, thơ thẩn trên đồi đá, nhìn ngắm trời nước vu vơ. Anh cố xua đuổi hình ảnh ám ảnh đó, những khi nhìn thấy con lợn cun cút bên chậu cám, đàn gà xôn xao vỗ cánh đá nhau nhặt nhạnh sát bếp.

Hình hài thằng người như ma cà bông, gái nào chịu nhìn mà bày đặt cua đào với điếc? – Tịnh từng cay đắng nghĩ thế.

Những bữa ăn có nước muối pha loãng với trái cà đỏ, nếm mặn chát đến lạc lẽo vô vị; và cá tuy không ôi, nhưng cơm không đủ, lại thiếu chất mỡ, vẫn cứ tiếp tục hành hạ Tịnh nhớ quay quắt miếng thịt tưởng tượng trong đầu.

– Phải thịt nó! – Tịnh nắm tay quyết chắc như thế! Anh tự nghĩ và chưa biết phải xử trí  ra sao.

Buổi trưa, trời đứng gió, oi ám căn phòng. Mấy ngọn trúc đào thao thức cùng nắng đứng ủ rũ ngoài sân. Con chó cò, khoanh trắng, ghẻ lởm chởm đầy lưng nằm rỏ dãi, thở khò khè như bị suyễn kinh phong, sắp chết. Tịnh lò dò đi xuống nhà bếp tìm nước uống. Xuống khỏi con dốc đầy đá lởm chởm như ổ chuột, ngang lùm cây, Tịnh thấy hai gã tân binh đang ngồi chỉ chỏ, thì thầm. Tịnh len lén ngồi nép vào gốc cây cạnh đó, nghe ngóng.

– Phải thanh toán nó mày ạ! Tớ thèm lắm rồi. – Một gã nói.

– Bằng cách nào? Nghe nói, đây là của thủ trưởng. Tụi mình đụng vào là lớn chuyện đó.

– Xì! Thế cũng nói. Nó vốn của hậu cần Tỉnh, tặng cho mỗi đơn vị bộ đội, khi còn bé tí. Chờ đến Tết thịt, gọi là bồi dưỡng cho lính. Từ khi nó ngày mỗi lớn, ông trưởng đồn cứ nói vơ vào, bảo của ông ấy. Mấy anh em đóng đồn trước mình nghe vậy, tức anh ách, nhưng không ai dám cãi. Tết sắp đến rồi, tụi mình phải có cái gì chén chứ. Tớ cũng thèm rỏ dãi đây.

– A. Hai ông mãnh đang âm mưu chuyện tày trời. Tớ đi báo cáo, tớ lấy điểm, lập công! – Tịnh ló đầu, cười.

– Thằng đồng chí quỷ quái, làm chúng ông hết hồn. Lại đây Tịnh. Tao biết, mày đâu phải thứ ăng-ten rỉ sét. – Gã tân binh tên Hùng, gọi Tịnh.

Hồi còn ở quân trường, tân binh nào cũng biết Tịnh. Tịnh là dân học sinh được tuyển vào công an vũ trang đợt đầu tiên, sau giải phóng, năm 1976, vì gia đình có liên hệ cách mạng. Anh khá nổi tiếng về những phát biểu “linh tinh”  trong các giờ chính trị. Lần khác, Tịnh đánh đồng đội vì miếng ăn, máu đổ xối xả trên thau cơm đầy rau, ở nhà ăn tập thể của lính. Với Tịnh, anh cần sự công bằng trong mọi hình thức chia xẻ, dù là miếng ăn – là miếng tồi tàn nhất. Tịnh đánh và thắng, dù anh thấp hơn gã kia cả cái đầu. Tịnh có nước liều của một con sói bị cùng đường, khó bứt thoát khi bị vứt vào đời – một đời sống vô cùng đói khát trong quân ngũ, sau thời chiến tranh nghèo nàn, tụt hậu; dù anh vốn nho nhã và có chút ít học thức. Tụi tân binh trong quân trường, từ đó, thường theo Tịnh, đêm đêm chun rào ra ngoài, hái cây trái của dân trồng, ăn cho đỡ đói. Nhưng tịnh không một gã nào dám tuyên bố những điều lếu láo về chính trị như Tịnh. Mấy thằng tân binh nể Tịnh, thương Tịnh là thế. Giờ về đây, cái đồn hẻo lánh, xa xôi này chứa toàn một lũ bất trị như Tịnh, từ ma cũ tới ma mới. Anh nào cũng gầm ghè nhau giữ miếng.

Thỉnh thoảng, bực tức nhìn sự việc vây quanh, Tịnh phát ngông, phun một tràng tiếng Anh, chẳng ai hiểu nổi.

Thằng sinh viên cười ngất, bảo: ‘Nó nói tiếng Mỹ dở như cứt!’ – Ông trưởng đồn giận như còng bị lấp lỗ, đi lại loay hoay chửi Tịnh và bắt viết kiểm điểm. Tịnh ‘vâng dạ’ lấy lệ, rồi kiếm cớ dông, rong chơi trên những mỏm đá ngoài khơi…

– Ăn để sống, đó là chuyện thường tình của con người trên cõi đời này. Tìm cái có để mà ăn ngon, để khoái khẩu, cho cái ti tiện thèm thuồng của bản chất ham hố con người, mới là điều khó. Tụi mày ngộ chưa? – Tịnh bông đùa, đi đến ngồi xuống, bứt ngọn cỏ ống nhai nhai.

– Con người ti tiện, vì thông minh hơn loài cầm thú, đánh mất sự dũng mãnh trong cái sự tìm ăn như loài hổ báo. Để có cái ăn ngon, con người bất chấp tất cả, ngay cả những điều tàn nhẫn nhất. -Thằng sinh viên lên tiếng.

– Vậy đã nghĩ ra chưa, người oai phong?

– Tao chưa nghĩ ra. Tao không thông minh như loài người.

– A ha. Vậy mày là hổ? Con hổ này, tếu đếch chịu được. – Cả Tịnh và Hùng cùng cười, nhạo thằng sinh viên. Tịnh tiếp:

– Đúng là thời mạt pháp! Con người chỉ nghĩ đến miếng ăn. Kiếm có cái gì đó đút tọng vào mồm cho đỡ đói, còn bày đặt ví von hổ với hiếc, liêm sỉ của con người. Chán mớ đời!

Ba gã tân binh ngồi kháo chuyện một chốc, rồi bỏ về phòng. Trời vẫn đứng gió. Cái nóng buổi trưa, oi bức như đứng trong hầm than, làm Tịnh thấy khát nước. Dù đã có gió của biển, và Tịnh, đã là bạn của biển.

 


      Đã là bạn của Biển, Tịnh thường dạo rong qua các gềnh đá của biển, của trời đất mênh mông, vô thủy vô biên.

Tịnh thả đàn bò dưới chân dốc, cho chúng tự nhiên đi gặm những đóm cỏ vàng trên những mỏm đá nóng.

Tịnh lom khom, luồn qua kẽ vách đá núi. Bên dưới, sóng vỗ, đánh ầm ầm vào gành. Nhìn những ngọn sóng bạc đầu ngoài khơi, đang kéo vào, lớp sau dồn lớp trước, Tịnh thấy sợ cái dữ tợn của trời đất mênh mông, biển nước bao la quá nhiệm mầu. Tịnh tưởng như đang sống trên một hoang đảo. Một mình! Tịnh trườn qua mỏm đá, treo cây súng, níu cành cây, quăng mình nhảy lên nhẹ nhàng.

Bây giờ là đất với đá và rừng cây lưa thưa.

Ở trên ngọn cây không cao lắm, một con khỉ đang ngồi ưu tư nhìn ra đại dương mênh mông xa thẳm. Thỉnh thoảng, nó đưa tay gãi gãi cái đít teo nhách, sần sùi và đỏ thắm như trái sim rừng mọc dại trên mỏm núi đá. Tịnh lấy súng, bò thật sát như trong quân trường đã dạy. Vừa đủ đích nhắm để bắn, Tịnh dựa vào một cây cổ thụ lớn. Tịnh nâng súng. Sáu chục thước. Tài bắn súng của Tịnh không tệ. Ngày ra trường, anh đã từng bắn trúng hai vòng tâm ở khoảng cách 150 mét.

– Mày ‘đi’ là cái chắc! – Tịnh lầm bầm, tự tin đưa đầu ruồi vào mục tiêu quá gần.

Con khỉ vẫn thản nhiên, làm trò khỉ vạch dái bắt rận. Bắt được mụ rận nào, nó bỏ vào miệng tóp tép nhai, mắt hấp háy ra chiều thống khoái.

Tịnh phát giác con khỉ đã mấy ngày qua và anh đã cố công theo dõi dấu vết nó. Tịnh nghĩ, đây là một con khỉ nhà bứt dây, chạy thoát, lạc vào rừng cây thưa.

Tịnh rà cò súng, đắn đo, chưa định bóp cò.

Con khỉ, dường như ngửi được sự đe dọa, đâu đó trong giác quan chợt bừng thức sau những phút ưu tư, vu vơ. Nó chợt xoay mình, nhìn thằng người ốm o đang nâng súng nhắm nó. Vài giây trôi qua, Tịnh và con khỉ vẫn nhìn nhau đâu đấu. Trong một sát na nhà Phật, Tịnh định bóp cò, nhưng anh cố kìm hãm sự náo nức tuổi trẻ. Có lẽ, con khỉ đã biết khó thoát khỏi tay súng thằng người, đang đứng nhắm nó không xa mấy. Nó cúi gầm mặt, mắt lấm lét liếc nhìn Tịnh như van lơn.

– Bắn đi Tịnh, cả mươi ký thịt tươi đấy! – Con quỷ đói khát, nằm trong thằng người của Tịnh xúi dục, sôi sục. Tịnh mân mê bá súng, chưa vội bắn. Ý nghĩ mâu thuẫn bắn giết, thương xót vẫn còn bám anh.

– Sáu tháng mày chưa biết mùi thịt, đúng nghĩa của miếng thịt kia mà. Bắn đi! Bóp cò đi, Tịnh! Tao chắc chắn, khi mày bóp cò, con vật khốn nạn này sẽ quăng mình xuống ngay. – Con quỷ đói thôi thúc thêm. Tịnh định bóp cò.

Thằng người lương tri lại nói:

– Nó là một con khỉ đói, cô độc sống lang thang không bầy đàn. Nó cũng giống mình. Cả cái đảo đá hoang này, đâu có bao nhiêu cây trái để nó đói no. Nó cũng biết sợ đấy chứ?

– Như vậy, cả hai thằng mình đều phải đói. Thời gian sáu tháng chưa đủ sao? Bắn nhanh đi Tịnh! – Con quỉ thôi thúc tiếp.

Sóng vẫn vỗ ầm ì, bọt tung trắng xóa.

Tịnh nâng súng lên trời. Ở đó, có trời, có thần linh tạo ra ma quỷ phá phách loài người; có những đám mây đang trôi nhanh mãi miết, thoạt nhìn là ma quỷ, thoáng biến thành tiên, rồi hóa ra chồn

Tịnh xiết cò.

Đạn nổ dòn dã như pháo Tết.

Khi Tịnh nhìn xuống rừng cây lưa thưa, con khỉ đã biến mất tự bao giờ.

Con quỷ đói đau khổ, kêu rêu:

– Như vậy, là mày thua và mày sẽ đói, sẽ thèm ăn mãi mãi!

– Có những cái thua, cái đói, lại là những niềm hạnh phúc lớn lao. – Tịnh an ủi.

Khi Tịnh đi xuống một khoảng ngắn, thấy thằng sinh viên cắm đầu chạy lên. Mặt nó tái mét, nhìn Tịnh soi mói, thở hồng hộc.

– Mày vừa bắn? Bắn chi, thằng lính?

– Tao bắn đời! Cuộc đời trần tục này, cái gì mà chả muốn bắn.

– Trời ơi, trời. Mày đúng là đồ chăn bò! Dĩ nhiên, là đời này cái gì cũng đáng bắn cả. Nhưng thằng chăn bò ơi! Mày chăn thế nào, mà bò với chủ, mạnh ai nấy đi phá đời thế này. Cả ba con bò, nó cày nát đám khoai của người ta ở dưới làng kia kìa. Trời ơi! Lính ơi là lính! Bò ơi là bò! – Thằng sinh viên dậm chân.

– Tối nay tao khỏe rồi. Viết kiểm điểm, khỏi có gác! – Tịnh cười sảng khoái chạy xuống con dốc thoai thoải. Thằng sinh viên lò dò đi theo. Con dốc hơi cao, thằng sinh viên vừa đi, vừa thở. Nó chửi Tịnh và đi nghiêng nghiêng như kiểu còng quào leo đá.                                                              &

– Báo cáo đồng chí! Tôi nghĩ, nhất định có lợn rừng đang quanh quẩn đồn này. – Tịnh gãi đầu, khi trình báo ông Thiếu tá, trưởng đồn công an.

– Ở đây là đảo đá, làm gì có lợn rừng! Đồng chí đùa chắc? – Ông thiếu tá nhìn Tịnh chăm chăm, dò phản ứng thằng lính mới.

– Báo cáo! Bữa trước viết kiểm điểm, tôi có nói tôi bắn lợn rừng, nhưng đồng chí cứ nhất định không tin, cứ vu tôi đi bắn bừa trên đảo. Tôi nghĩ lợn rừng nó ma mãnh lắm. Nó có thể húc, giết bò của ta như bỡn. Tôi phải triệt nó trước. Bây giờ nó xuất hiện ngay chuồng lợn của ta.

Tịnh cùng ông thiếu tá đi xuống chuồng lợn. Tịnh chỉ những dấu chân còn hằn nét rõ rệt của những móng chân lợn rừng, bên ngoài chuồng con lợn nhà. Đám lính đi theo, nhìn Tịnh khâm phục. Ông thiếu tá cũng khâm phục sự xét đoán của Tịnh. Ông nhìn những vết chân lợn rõ nét, bảo:

– Đúng là dấu chân con lợn rừng! Tớ bao năm chinh chiến trong rừng sâu, nhìn sơ qua là tớ biết ngay. Các đồng chí coi này. – Ông di di bàn chân cáu ghét đầy đất, tiếp. – Tớ còn biết đây chính là con lợn đực nữa đấy nhé. Con lợn của tớ giờ phát mã ‘con gái’, thằng lợn này nó muốn động cỡn đây. Quái nhỉ. Đảo đá mà cũng có lợn lòi? Tớ giao việc này cho đồng chí Tịnh. Phải diệt nó ngay! Còn vài hôm nữa là Tết, ta cũng cần có chất tươi… ăn Tết. Tớ dám chắc con lợn lòi này phải trên một tạ đấy nhé!

Đêm.

Trời vẫn nóng hâm hấp, dù đã cận Tết. Những vì sao chi chít lấp lánh ánh trời đêm. Đêm ở đảo đá sao quá nhiều sao? Nhưng không đủ rọi sáng nơi chuồng lợn nằm.

– Lão thiếu tá có đoán ra cái trò này không nhỉ? – Hùng tay lăm le khẩu AK.47, nhìn màn đêm hỏi Tịnh.

– Mày hãy để mắt vào cái chuồng lợn kia dùm tao. Khi thấy nó đi qua khỏi chuồng lợn nhà, hẵn bắn. Nhớ bắn xả vào chuồng, thế nào cũng trúng. Xuỵt! Có ai tới đó.

Ông thiếu tá xuất hiện. Tịnh thấy run run, nhưng không thấy sợ.

– Cái  ăn sao mà nhục quá?!

Ông yên lặng, nằm xuống cạnh Hùng, sau đôi câu thăm hỏi lấy lệ.

Đêm thăm thẳm trôi.

Tiếng ục ục của lợn kêu đâu đó trong màn đêm. Tịnh nhìn về hướng phát ra tiếng kêu. Cái bóng đen đi ngang như nhảy. Tịnh thấy tim đập mạnh hơn. Tim Tịnh nhoi nhói. “Cái ăn sao mà nhục quá!?” Tịnh kêu rêu trong họng. Anh cảm thấy hối tiếc trò chơi này.

– Đi nhanh lên, chạy nhanh lên! – Lòng Tịnh thúc hối cái bóng đen kêu ục ục não nề, anh lo lắng.

Ông thiếu tá nôn nóng, giật cây súng trên tay Hùng. Tịnh nhoài người định giật cây súng lại, ông thiếu tá đã xiết cò. Tiếng súng nổ dòn dã, như đã từng nổ bao năm qua trên quê hương đói nghèo này, trong những đêm đen.

– Trúng tao rồi, Tịnh ơi!

Cả đất trời sụp xuống trước mắt Tịnh. Ông trưởng đồn ngơ ngác nhìn vào màn đêm có tiếng kêu cứu thống khổ.

Tịnh quì gối. Anh ôm đầu bật khóc, ngửa mặt nhìn những vì sao.

2.


Tịnh cùng hai gã tân binh và một hạ sĩ quan lấy tàu vượt biên, sau đó hai hôm.

Những ngày mới qua đảo, bị giam biệt lập trong một căn phòng tám thước hình vuông, chỉ có độc nhất một cánh cửa sổ nhìn ra ngoài trời, gần con lộ nhỏ bằng đất trải sỏi; để chờ ngày ra tòa án quân sự ở Palawan, Philippinnes. Trong những giấc ngủ vô thức, triền miên giữa ngày và đêm, Tịnh thường mơ thấy cái dáng đi xiên xiên như còng quào leo đá của thằng sinh viên, trong đêm bị bắn chết ngay chuồng lợn. Hùng thường hay đập dậy mỗi khi Tịnh nằm mơ, hắn nhăn nhó:

– Lại mơ thấy thằng Thiện nữa à? Mày hãy sống, hãy làm việc cho mình. Trước mắt là làm sao, phải thoát ra khỏi cái nhà tù này cái đã!

Hai thằng còn lại, nhìn Tịnh lắc đầu. Thắng nói:

– Tao dắt mày đi, là để đi tìm một cái gì đó; đáng gọi là sống. Tao không dắt mày qua đây, để mày nhìn lại quá khứ mà âu sầu, khóc hận. Hãy cố gắng đứng lên mà sống, thằng lính!

Tịnh ngồi bật dậy, ngơ ngác nhìn ra ngoài khung cửa sổ.

Bây giờ đã là buổi trưa. Thời gian trong tù, sao mà dai dẳng như nghe một khúc nhạc buồn bất ưng. Cái nắng quái quỷ, vàng chảy hừng hực của xứ nhiệt đới như thiêu đốt, hắt xuống từ những mái tôn trên cao làm trán Tịnh ri rỉ đổ mồ hôi. Đã bốn ngày không được tắm, từ khi bước xuống chiếc tàu, rồi bị nhốt vào đây, thằng nào cũng hôi như chó cái hành kinh!

Bên ngoài ‘căn tù’, một nhóm người Việt tị nạn đã ba hôm, từ khi nghe tin, vội tụ tập lại biểu tình bọn Tịnh. Họ tụ từng nhóm, đi qua lại xầm xì, những con mắt dòm ngó, xoi mói… Vài thanh niên trẻ cỡ tuổi bọn Tịnh, cùng một vài gã trung niên, giơ nắm đấm, rít răng ra dấu hăm dọa:

– Tụi mày mà ra được, chúng ông đập chí chết! Đả đảo!

– Đả đảo!- Tiếng người hô theo.

– Đả đảo cái củ bìu! Làm như chỉ có mấy ông, mới được quyền vượt biên, còn tụi tui thì không à? – Hùng giơ tay, chỉ đám người bên ngoài.

Đám người chợt hung lên, lồng lộn. Mấy gã lính Phi, đen như bọ hóng, lưng trần trùng trục, đang đứng gác, lấy súng hăm dọa, họ mới chịu im. Tịnh đứng kề bên Hùng, tay bấu chặt mấy chấn song sắt, nhìn ra ngoài, thèm khát được tự do đi lại như họ, nhưng lòng thấy buồn, tủi. Phải nói, anh buồn tởm mới đúng hơn. Anh thấy con người sao thay đổi nhanh chóng quá! Đồng cà lăm, bực mình nói:

– Thôi, vào ăn cơm, Tịnh!

Tịnh ngồi xuống, tiếng chửi rủa từ bên ngoài vẫn còn dư âm. Tịnh nhìn những đĩa đồ ăn đầy ắp do nhà bếp cung cấp riêng hàng ngày. Tịnh lấy cái bát, xới cơm để phần cho thằng sinh viên. Mỗi đứa gắp một thứ đồ ăn bỏ vào bát. Cái bát đầy ắp, có ngọn.

– Mày bây giờ làm con ma no nê rồi nhé, Thiện! – Thắng nói trước khi và miếng cơm. Bốn thằng cắm cúi ăn.

– Thức ăn thừa thãi, sao đời vẫn cay? – Tịnh thầm nhủ, và biết rằng mãi mãi, còn ở cuộc đời này, là còn thằng sinh viên trong tâm khảm anh. Tịnh và thằng sinh viên là đôi bạn thân khắn, khít nhất từ lúc còn ở quân trường. Ôi, một trò chơi trả giá quá đắt! Tịnh bỏ bát cơm, đứng dậy nhìn ra khung trời của nắng quái. Đám đông đã vãn, khi con người đói và biết sợ đói, với những đồ ăn người ta cấp cho. Họ hết hùng hổ như khi no đủ, rảnh rang. Tịnh nói, như gửi cho gió:

– Sau này đi định cư, cứ 29 Tết ta, tụi mày nhớ mà cúng cho thằng Thiện, để nó không còn là con ma đói. Nhớ cúng cho nó con lợn thật lớn, dù bất cứ hoàn cảnh nào!

– Mấy con mà chả được! Chỉ sợ, chừng đó rồi chính mày lại quên thằng bạn ma đói của mày!

Một tháng sau đó, bọn Tịnh bất ngờ được đi định cư ở nước thứ ba.

Sau buổi sáng, ra hầu tòa án quân sự Philippines, năm 1978, bọn Tịnh được lính hộ tống đưa thẳng ra phi trường, nơi có mấy chiếc máy bay DC-10 đợi. Họ chia bọn Tịnh ra làm hai nhóm, dẫn Tịnh cùng Hùng đến một chiếc máy bay đậu gần đó. Bọn Tịnh hoảng hốt khóc nức nở trong chia ly, dù trước kia đã là những thằng lính lì lợm bất cần đời. Bước lên thang máy chiếc máy bay, Tịnh dụi nước mắt, nhưng còn cố hét lớn:

– Nhớ nha! Mỗi 29 Tết ta, nhớ cúng cho thằng Thiện một con lợn thật lớn!

Họ định cư ở đâu, Tịnh không biết.

Họ quen biết nhau, nhưng không thân và không biết gia cảnh nhau mấy, khi còn ở quân trường Nha Trang và một tháng đóng quân trên đảo đá vịnh Cam Ranh. Tịnh chỉ biết thoang thoáng, Thắng người Lương Sơn vùng biển, Đồng người Ninh Hòa bên kia đèo Rù Rì, của thành phố Nha Trang.

Đó là lần cuối họ chia tay nhau và mất liên lạc từ đó.

– Trong đói nghèo, con người thường nghĩ tới cái ăn cho thỏa đam mê khốn nạn hằng có ở đời thường. Khi sự thỏa thê đã đầy ắp, con người lại hay quên những khốn khó của thời thiếu ăn, trước kia. Người ta bắt đầu tìm kiếm kỷ niệm, qua miếng ăn, sự ăn, bằng những hình thức ghê tởm. Tịnh, hãy đọc bài này. – Hùng ném tờ Edmonton Sun qua Tịnh, giọng bực bội.

Tịnh đọc lướt trên trang nhất tờ báo của thành phố cư ngụ. Cái tựa ‘Người Việt Nam ăn máu tươi’ làm Tịnh choáng váng. Bên dưới là những tấm ảnh chụp mấy đĩa tiết canh vịt làm chứng. Mấy ông tị nạn Việt, chơi trò bắt vịt trời ở công viên thành phố, về làm tiết canh vịt, bị cảnh sát theo dõi, bắt được, chụp hình. Những tin tức loại này, thỉnh thoảng, vẫn được đăng trên các trang báo địa phương như một hình thức sỉ nhục người tị nạn Việt Nam.

Ở thành phố này mấy năm đầu, Tịnh và Hùng vẫn sống chung nhau. Họ cố công tìm kiếm Thắng và , nhưng vẫn biệt mù tăm cá!

Tịnh vẫn nhớ biển của quê hương qua từng ngày tháng. Biển đã giúp Tịnh vượt thoát và biển cũng đã để lại trong anh một kỷ niệm xót xa của những ngày còn trẻ.

Và bây giờ, Tịnh đã là bạn của tuyết.

Những ngày cận Tết ta, dưới những cơn bão tuyết trù dập, hung hãn, Tịnh vẫn cố công lội bộ vào các chợ, lung, mua một con lợn thật lớn để cúng cho thằng sinh viên, nhưng tìm mãi vẫn chưa ra.

Chính quyền  Canada, cấm tuyệt đối bán những giò, lòng, đầu lợn, dù người Hoa đã ở đây khá lâu đời. Vì thế mỗi 29 Tết, Tịnh và Hùng thường cúng thằng sinh viên bằng những đĩa thịt lợn ê hề. Vài năm sau, Tịnh thấy xuất hiện những giò, xương lợn dân bản xứ để chất đống bỏ một góc tủ, ai muốn lấy cứ nhặt về. Nhưng đầu, huyết, tim gan phèo phổi thì tuyệt không thấy. Ban đầu, len lén mắt trước mắt sau, sợ người bản xứ nhìn thấy, cười, Tịnh lấy bốn cái giò lợn bỏ vào bịch ny-lon. Tịnh mua thêm những miếng thịt lớn, rồi sắp xếp, vẽ cái đầu lợn bằng giấy bản cứng giống như hình con lợn để cúng thằng sinh viên.

Thời gian cứ thế trôi vùn vụt. Tịnh và Hùng cũng như bao gã con trai động cỡn đi tìm gái, cũng lập gia đình. Họ mua nhà sống gần nhau, xa thị tứ ồn ào của những đồng hương. Mỗi 29 Tết ta, Tịnh vẫn thường xuyên mua mọi thứ về cúng cho thằng sinh viên. Hùng đùa:

– Bây giờ sướng nhé Thiện, chỉ thiếu cái đầu lợn thật cho mày. Rồi tao cũng sẽ cố tìm ra cái ‘thủ’ cho mày xem!

Năm sau cận ngày Tết, Hùng hớn hở khoe:

– Tịnh, tìm ra rồi!

– Cái gì vậy? – Tịnh ngơ ngác nhìn Hùng.

– Tao tìm ra chỗ bán nguyên con lợn rồi!

Tịnh mừng, reo lên. Hùng nói:

– Tụi da trắng này cũng quỉ quái lắm! Nó cũng ăn giò, lòng, đầu lợn như dân mình, nhưng nó khôn hơn biết lén lút giấu diếm. Mấy thằng Tây trong hãng tao làm đó! Ban đầu nghe tao nói nó la lên như nghe chuyện kinh khủng, nhổ nước bọt tùm lum. Sau mấy lần đi bar nhậu hỏi tới, tụi nó mới khai thật và chỉ tao cái chỗ này.

Cuối tuần ấy, Hùng chở cả hai gia đình vào một nông trại của những người Đức di dân. Di dân nào khi sống xa xứ sở cũng thích sống quây quần; Họ sống ở đây lâu đời, biệt lập hẳn những cộng đồng khác. Công việc chính của họ là nông nghiệp với những cánh đồng lúa mạch cò bay thẳng cánh, với hàng đàn gia súc đủ loại.

Sau khi cho mấy đứa nhỏ cỡi ngựa chạy băng băng trên những cánh đồng tuyết trắng xóa, Hùng trả tiền thuê ngựa và hỏi mua chục con gà cùng con lợn lớn. Gã nông dân người Đức to dềnh dàng với mái tóc màu đỏ râu ngô, nhìn bọn Tịnh đăm đăm. Gã gật đầu vào căn nhà gần đó, nhấc điện thoại gọi. Tịnh nhìn Hùng lo lắng:

– Thôi rồi. Có lẽ nó kêu cảnh sát?

Mặt Hùng tái mét, nhưng vẫn cố trấn an bạn. Tịnh chợt nhớ cái câu kêu rên trong họng cách đây gần mười năm – ‘Cái ăn sao mà nhục quá!’ – Vài phút sau, một gã Đức khác lái chiếc xe lớn, thấp – loại nhà nông thường dùng cho nông trại – chạy đến. Tịnh vuốt ngực hú vía! Bốn gã đàn ông, hai to lớn kềng càng như những đô vật, hai nhỏ thó như đôi nhái bén leo lên xe định chạy. Mấy thằng bé nhao nhao đòi đi cho bằng được. Gã da trắng cho thuê ngựa, mở sợi dây xích ngang hông xe cho lũ trẻ ùa lên.

Đó là một căn nhà gạch lớn để nuôi lợn; lớn, như Tịnh chưa hề thấy trong đời. Tịnh đưa tay, chỉ thằng lợn to nhất trong muôn ngàn con lợn đang vùi mặt vào cái máng thức ăn. Thằng lợn nặng hơn tạ, bị gã da trắng kéo tai ra khỏi chuồng, dẫn đến một cây sồi, cột gần đó. Gã da trắng thoăn thoắt, cột cổ con lợn vào cây thật rành nghề. Gã xua tay đuổi mấy thằng bé trở ra xe. Bọn trẻ cứng đầu vẫn đứng xa xa nhìn con lợn bị cột vào trụ cây, rống lên từng hồi; có đứa vỗ tay. Gã da trắng hỏi:

– Tụi mày lấy huyết?

Tịnh lắc đầu lia lịa. Gã da trắng với tay lấy cái búa tạ, treo trên cây gần đó, gạt bọn Tịnh ra xa. Gã nhổ bãi nước bọt vào lòng bàn tay to như hai quả phật thủ, xoa xoa như đang thoa mỡ.

Tịnh đứng chết sững, chưa kịp phản ứng; gã đã vung búa đập liên tục mấy nhát rõ to như đánh chày trên đầu con lợn. Con lợn rú lên hồng hộc từng hồi ai oán. Tịnh lấy tay bịt mắt, nhưng vẫn như thấy những tia máu bắn vọt đâu đó trên tuyết. Mấy đứa nhỏ la ré lên, chạy thẳng ra xe.

Tịnh chợt nhớ đến Thiện – thằng sinh viên. Anh nhớ rõ nét cái hình ảnh của Thiện trong đêm định mệnh mà nó giả làm con lợn mươi năm về trước…

Tiếng hộc hộc đã im, chỉ còn tiếng rên rỉ nho nhỏ. Tịnh mở mắt, thấy Hùng đứng trơ mặt như hóa thạch. Tịnh nhìn con lợn đang nằm thở thoi thóp, xoãi bốn chân chỉa thẳng lên trời, mắt hấp háy như muốn hỏi ông Thiên: Sao loài người vì miếng ăn mà tàn bạo quá quắt? Con lợn từ từ nhắm mắt, bốn chân giẫy bết bát trên tấm thảm trắng lam nham một màu đỏ loe loét.

Tịnh khóc ục ục, kêu rêu trong họng, tiếng kêu mươi năm về trước. Chợt nhiên, Tịnh nôn thốc tháo. Tịnh ôm bụng nôn, thốc tháo đến mật xanh, mật vàng.

Tịnh quì gối trên mảng tuyết trắng lốm đốm màu huyết bầm, cố móc miệng nôn ra tất cả những gì mà đất trời đã tạo nên cho cái cuộc đời đầy thi vị, vật chất gớm ghê này.

Vất lại mớ tiền, mặc gã da trắng, đôi mắt xanh thăm thẳm màu trời đang há họng nhìn, Hùng dìu Tịnh chạy lết bết trên tuyết.

Tịnh khóc hù hụ:

– Thiện ơi, cho tao xin lỗi!

3.


Tịnh trở về Việt Nam, sau hai mươi mốt năm.

Được vài ngày, Tịnh kêu thằng em chở ra Lương Sơn tìm Thắng. Trời đất bao la biết đâu mà tìm, khi không biết địa chỉ rõ ràng? Nhưng, như có một thôi thúc vô hình, Tịnh vẫn cố tìm. Tịnh dò hỏi tới gần xế chiều cũng không tìm ra Thắng, sau bao “ông Thắng Việt kiều” mà anh nhìn ảnh họ do người thân đưa xem. Tịnh thất vọng. Cái làng Lương Sơn, cũng như bao làng khác sau hai mươi mấy năm thay đổi giờ sầm uất không khác gì một thị trấn đang lên. Một bà già bảo Tịnh:

– Ở trong làng này, có một ông trung tá công an về hưu, cháu đến hỏi, may ra tìm được. Cái làng này biết bao người đã từng ra đi.

Ông trung tá về hưu, giờ ngồi bán kẹo lạc trong căn nhà tranh lụp xụp gần mé biển của dân đánh cá trong làng. Ông phe phẩy cái quạt đuổi đàn nhặng đang đảo quanh những mảnh bánh cốm vàng ố. Ông khinh khỉnh, gần như lơ đễnh ngồi nghe Tịnh kể cái chuyến đi lịch sử của bốn gã công an vũ trang cách đây 21 năm về trước. Nghe xong, ông chìa tay ra bảo Tịnh cho tiền, mới chịu chỉ nhà Thắng. Ông kêu một thằng bé lấy xe đạp, dắt Tịnh đến nhà Thắng. Đã suốt ngày. Tịnh gặp quá nhiều cái cảnh bắt chẹt này, nên anh cũng không hy vọng lắm. Tịnh đã từng nghèo, từng đói khổ, anh biết cái cảm giác của những kẻ đến bước đường cùng. Tịnh nhủ đây là lần cuối, nếu tìm không ra, phải về.

Trong cái chập choạng buổi chiều cuối năm ở một làng biển nghèo, Tịnh bước vào một căn nhà tranh, vách đất xập xệ. Người đàn bà tiếp Tịnh, xua tay đuổi đám con nít bu quanh trước cửa như ngày xem hội đình. Sau thủ tục trao đổi chủ khách, người đàn bà lấy một tấm ảnh đưa Tịnh xem. Đó là tấm ảnh của một gã đàn ông mập mạp, khuôn mặt được ông thợ ảnh chụp nghiêng nghiêng khó nhìn, đang đứng vái, cúng kiến hóa vàng giữa đất trời nước Úc. Trước mặt anh ta là một con lợn thui vàng thật lớn, nằm gọn gàng trong cái mâm có lót giấy gương đỏ thắm, cùng những cây trái xếp xung quanh nhìn rất trang trọng. Thật tình, Tịnh không nhìn ra người đàn ông này là ai! Sau bao dâu bể, trí nhớ Tịnh về Thắng, Đồng hầu như đã mất. Năm ấy, khi vượt biên Tịnh gần 19 tuổi, cái tuổi lo chưa tới và dễ quên. Bây giờ, Tịnh đã là gã trung niên có mấy cái răng rụng, má hóp theo thời gian. Trong ánh sáng mờ của ánh đèn điện vàng bợt bạt, Tịnh đành chịu thua, trả tấm ảnh cho người đàn bà, định kiếu. Người đàn bà chợt nhớ, nói:

– Nó có viết mấy dòng sau tấm ảnh.

Tịnh vội lấy tấm ảnh trên tay người đàn bà, lật ra mặt sau xem. Trong những hàng chữ li ti, Tịnh đọc: “Khi nào có người tên Tịnh, Hùng về đây hỏi, chị cứ chỉ con lợn em đang vái cúng, là tụi nó nhận ra em ngay.”

&

… Tịnh đi tới lui nơi phòng đợi của phi trường quốc tế Vancouver, trên tay cầm tấm ảnh của Thắng từ Úc châu gửi qua, sau một tuần Tịnh từ Việt Nam trở ra. Thắng bây giờ làm ở hãng hàng không dân dụng Úc, cư ngụ ở Sydney. Thật tình Tịnh không thể nào nhận ra Thắng sau 21 năm xa nhau. Ngay cả giọng nói của Thắng trong điện thoại cũng đã khác hẳn khi xưa. Cái giọng lơ lớ của người Việt lấy vợ Hoa đã ảnh hưởng anh.

Dòng người tuôn ra ào ạt nhưng lặng lẽ khi chuyến bay trút xuống những con người. Tịnh chờ, cứ chờ mãi. Mười lăm phút trôi qua trong nôn nóng. Người cuối cùng rồi cũng ra. Đó là một gã đàn ông Á châu tầm thước, tóc bạc phếch một màu vôi.

– Không phải. Làm gì già khú đế thế! – Tịnh nhủ,  nhìn lại tấm ảnh của Thắng.

Nhưng mà lạ! Tịnh liếc nhìn, biết gã đàn ông đang nhìn anh đăm đăm, rơm rớm nước mắt, nhưng gã cố nín quay mặt đi tiếp cho hết con hành lang nhỏ. Tịnh lại đợi! Đợi thêm mươi phút và bắt đầu thất vọng.

– Có lẽ Thắng không qua? – Tịnh nhìn lên màn ảnh ti-vi biết chuyến bay đã đến được 45 phút. Tịnh vừa nôn nóng, vừa thất vọng.

– Mày chờ ai vậy, Tịnh? – Gã đàn ông ban nãy đã đến đứng sau lưng Tịnh tự bao giờ, hỏi. Tịnh quay người, sững sờ nhìn. Không phải là Thắng! Vậy gã lạ mặt này là ai, mà biết tên Tịnh? Tịnh nói xin lỗi, định đi.

Gã đàn ông gầm lên, giọng cà lăm:

– Đuù mẹ! Mày khôông… nhìn ra taoo… hở Tịnh?

Tịnh nhìn lên mái tóc bạc của gã đàn ông một chập, rồi ôm xiết gã:

– Trời ơi, thằng cà lăm. Đồng! Chính là mày! Sao mày lại thế này?

Họ ôm nhau, chảy nước mắt

.Cả hai thằng đàn ông trung niên bá vai ôm nhau khóc giữa phi trường quốc tế lộng lẫy.

Tịnh khóc, mà không biết vì sao anh khóc. Anh không bao giờ biết.

Có những niềm đau không bao giờ biết!

 

 

Vũ Đình Kh.



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 28/Mar/2016 lúc 10:46am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23670
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Apr/2016 lúc 1:09pm

Người chị họ

 

 


ảnh minh họa



 

Vấn là bạn sách đèn từ thuở bé của Thạnh, anh của Trúc. Cha Trúc với mẹ Vấn là anh em cô cậu ruột. Do vậy, anh chị em Trúc dù lớn hay nhỏ đều là vai trên của Vấn. Với tình họ hàng ấy, Vấn vẫn hay đến nhà Trúc, nơi đầy đủ tiện nghi cho việc học hơn ở nhà để cùng học với Thạnh gần suốt tuổi học trò. Rất nhiều lần, nhất là vào dịp thi cử, Vấn ăn ngủ luôn tại nhà Trúc. Vấn chăm học, hiền lành, ít tiếp xúc với bạn gái. Trên mười tám tuổi Vấn vẫn chưa biết chuyện yêu đương. Cha Trúc vẫn hay đùa: “Có lẽ thằng Vấn sau này cha mẹ cưới vợ về cho cũng chẳng biết làm chi”.


Thạnh rất lười trong việc kềm cặp, chỉ dạy bài vở cho các em. Vì thế, Vấn thường thay Thạnh làm việc ấy, dần dần thành thói quen. Trúc nhỏ hơn Vấn năm tuổi, học sau Vấn ba lớp, ít nói, dễ bảo, siêng lo việc vặt trong nhà. Năm lên mười bốn tuổi, sau một trận sốt gần chết, Trúc bỗng phát mã, trở nên xinh đẹp lạ. Càng lớn Trúc càng trở nên hiền thục đoan trang hơn người. Những chàng trai xa gần đã bắt đầu ngắm nghé Trúc, mong được lọt mắt xanh. Nhưng ai nói gì cũng mặc, Trúc chỉ cười, không tỏ ra thân thiện với ai hết.


Vấn giảng bài cho Trúc là chuyện không lạ, nhưng từ khi Trúc trổ mã, Vấn dần thấy lòng mình khác khác, có lúc chàng đâm ra ngại ngùng, bâng khuâng. Đã nhiều lần Vấn lén ngắm Trúc say sưa. Chàng cứ suy nghĩ vẩn vơ như tiếc rẻ một cái gì mong manh sắp mất. Những suy nghĩ này dần dần củng cố nơi Vấn một niềm sùng kính ở Trúc. Khi bạn bè muốn nhờ Vấn làm chim xanh dẫn mối, Vấn thường ậm ự rồi lờ đi. Họ không ngờ chính Vấn lại muốn độc quyền che chở đùm bọc người chị họ ấy. Thật tình Vấn không hề mang một ý tưởng vẩn đục nào đối với Trúc. Chàng sùng kính Trúc như một tên nô bộc trung thành đối với một nàng công chúa. Vấn rất hân hoan khi giúp được một việc gì cho Trúc. Thái độ chẳng thân thiện với ai của Trúc đã làm Vấn rất hài lòng.


Ở bàn học, Trúc vẫn hay ngồi đối diện với Vấn để tiện việc hỏi bài. Một buổi tối, Vấn đang chăm chú học bỗng cảm thấy như ai sờ soạng chân mình. Cái gì đó có vẻ mềm mát nhẹ nhàng mơn trớn tạo cho Vấn một cảm giác êm ái. Vấn đoán chừng là chị Trúc vô tình đưa chân chạm lên chân Vấn. Nhưng rồi Vấn càng ngạc nhiên thấy sự mân mê mơn trớn ấy cứ tiếp tục kéo dài làm cho Vấn cảm khoái tê mê. Chẳng lẽ chị Trúc dịu hiền của Vấn lại táo bạo đến thế sao? Vấn đang thắc mắc thì Trúc kêu buồn ngủ và đứng dậy bước đi mất. Vấn hết sức tiếc rẻ. Nhưng chàng lại ngạc nhiên vì thấy chân mình vẫn tiếp tục được vuốt ve mơn trớn. Chàng cúi xuống xem và bật cười, thì ra con chó nhỏ. Vấn lắc đầu mấy cái để xua đuổi những ý nghĩ thiếu thanh nhã. Chàng lẩm bẩm: Em xin lỗi chị, chút xíu nữa hiểu lầm. May quá! May quá!

 

Một lần thức học khuya, khi thấy người bần thần khó chịu, Vấn bước ra sân dạo một vòng. Vấn thấy phía xa hỏa châu soi sáng cả một góc trời và nghe rền tiếng súng. Bầu trời nơi ấy trông đẹp làm sao! Nếu không nghe tiếng súng thì ai có thể tưởng tượng nổi bao nhiêu cái chết thê thảm rợn người đang xảy ra ở đó! “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn!” Rồi đây Vấn cũng sẽ làm một chiến sĩ với những mất mát mà nghìn đời con người vẫn mắc phải. Ôi, cái ngây thơ trong trắng của chị Trúc đâu có thể tồn tại mãi? Trúc càng lớn càng được nhiều người chú ý. Rồi chị sẽ lấy chồng. Còn Vấn, thân xác này cũng có thể trở thành tro bụi trong một góc núi, xó rừng nào đó. Những thương cảm chị Trúc dành cho Vấn được bao nhiêu? Nó sẽ hao mòn rồi tan biến trong ký ức chị để nhường chỗ cho những mối bận rộn bên chồng con!


        Sau một hồi suy tưởng, Vấn trở vào nhà. Mọi người đã đi ngủ hết. Riêng Trúc còn ngồi bên bàn học nhưng kê trán trên cánh tay kê lên cuốn tự điển Việt ngữ mà ngủ. Vấn nhìn quanh rồi nhẹ bước lại gần, lặng lẽ ngắm Trúc. Dường như chàng cảm nhận được rốt ráo cái vẻ ngây thơ, thanh cao nơi Trúc. Một mùi hương gì ngây ngây ngộ ngộ len vào mũi Vấn. Chàng tò mò cúi xuống gần đầu Trúc và hít nhẹ: Quả thật là mùi hương tóc. Thì ra tóc con gái có mùi hương.

Mùi hương ngây ngây ngộ ngộ này chỉ có thể cảm nhận chứ không thể diễn tả bằng lời. Hàng trăm lần sát mặt vào đầu mẹ để nhổ tóc bạc Vấn có bao giờ nhận ra mùi hương đó đâu? Mái tóc đen óng ả như những gợn sóng của Trúc gợi cho Vấn một thoáng bùi ngùi. Rồi nó cũng sẽ xơ bấn như tóc mẹ. Tuổi đời trôi vùn vụt, lá xanh nào không vàng? Bất giác Vấn vuốt nhẹ lên tóc Trúc. Trúc khẽ động đậy nhưng không ngẩng đầu lên. Vấn thấy dạn hơn, tiếp tục vuốt nhẹ nhiều lần cho đến khi Trúc ngồi hẳn dậy.

 

Vấn rụt rè nhỏ nhẹ :

- Tóc chị đúng là tóc mây! “Tóc mây sợi vắn sợi dài…”

- Cậu muốn nói mây để đan giỏ thắt gióng hay mây trên trời?

- Mây trên trời, chữ Hán gọi tóc mây là “vân mấn”. “Hiểu kính đản sầu vân mấn cải”. Soi gương buổi sáng bỗng dưng buồn vì thấy tóc thay màu đó chị.

 

Hai người im lặng một lúc, Vấn lại thở dài :

- Nếu ngày kia chị đi lấy chồng chắc em buồn lắm.

- Cậu nghĩ vẩn vơ lắm. Dù là cha mẹ hay anh em ruột cũng có ngày xa nhau. Đó là lẽ đời. Thôi, đi ngủ kẻo khuya rồi!

- Khoan đã chị, em muốn hỏi chị một việc.

- Cậu cứ hỏi đi.

- Em nghe thằng Thức nó theo đuổi chị dữ lắm, chị nghĩ thế nào?

- Vô duyên! Chị chưa nghĩ đến chuyện đó đâu. Nếu có gì chị cũng hỏi ý kiến cậu đã chứ! Cậu đi ngủ để dưỡng sức học bài thi, nghe lời chị.


Niềm hân hoan dậy lên trong lòng Vấn. Thì ra Trúc tín nhiệm Vấn đến thế! Trước khi ngủ Vấn còn mang mang nghĩ về mùi hương tóc.


Sáng kia, Vấn cùng Trúc trên đường đến trường, được chừng hai cây số Trúc bỗng kêu lên:

- Chết cha, bức vẽ hôm nay nộp chị đã để sẵn giữa bàn lại quên mất. Giờ trở lại lấy chắc trễ quá!

- Em đạp nhanh, để em đi lấy cho chị.


Trúc chưa kịp nói gì Vấn đã quay xe phóng như gió. Vấn trở lại kịp Trúc khi gần tới cổng trường Đồng Khánh. Lúc đó kẻng báo chuẩn bị vào lớp bên trường Quốc Học cũng vang lên. Trường Quốc Học và trường Đồng Khánh chỉ cách nhau một con đường Nguyễn Trường Tộ rất hẹp. Hai trường cùng hướng mặt ra đại lộ Lê Lợi chạy dọc theo bờ sông Hương thơ mộng, luôn được phủ bóng mát của những cây phượng lâu đời. Để tránh sự lộn xộn cản trở lưu thông, trường Quốc Học qui định vào lớp sớm hơn trường Đồng Khánh nửa giờ. Cũng để phân biệt hiệu lệnh, trường Quốc Học báo giờ bằng kẻng trong khi trường Đồng Khánh lại báo giờ bằng trống. Sau khi trao bức vẽ cho Trúc, Vấn toan quay xe để sang trường mình, bỗng thấy xe bị ai níu lại. Thì ra mấy cô nữ sinh! Vấn chưa kịp hỏi thì phía trước lại có mấy cô khác ngáng xe cản đường. Các cô dần dần thắt chặt cả một vòng vây quanh Vấn mà cười đùa. Vấn không tài nào lách thoát ra được. Trúc đã vào cổng nhìn lui thấy vậy kêu lên :

- Đừng nghịch nữa mấy chị ơi, cậu ấy trễ học rồi.

- Binh bồ hả? Cho anh chị xa nhau luôn!


Trúc quê quá, nghẹn họng, đành dắt xe vào khóa lại. Vấn thì như con chuồn chuồn rách cánh lọt giữa ổ kiến. Những cô gái bình thường nhu mì, hiền dịu, không ngờ lại có lúc nghịch như lũ tinh nhền nhện. Một cô lẹ tay lôi cả vạt áo sơ mi Vấn đã bỏ vào quần ra ngoài. Vấn mồ hôi nhễ nhại, mặt mày tái mét, nhăn nhó chịu thua. Mãi đến lúc hồi trống chuẩn bị vào lớp của trường Đồng Khánh vang lên Vấn mới được giải thoát với nhiều tiếng cười đuổi theo:


- Mấy chị tha cho em đấy!

- Cho nó tởm, chừa cái thói đeo gái!

- Cho nó từ nay gặp các chị là cúi mặt tránh luôn!

- …

 

Buổi chiều về, Trúc hỏi Vấn:

- Tụi nó ác quá! Cậu vô lớp có sao không?

- Trễ hơn 20 phút. May gặp thầy Thường dạy Pháp văn quá hiền không thì cũng mệt. Từ nay em sợ đi ngang qua đó rồi. Thật là một kỷ niệm nhớ đời!

 

*


Buổi sáng nọ lúc ra chơi, Vấn đang thong thả dạo bước thì nghe mấy đứa bạn đang bàn chuyện Trúc. Vấn đi lại gần chúng.


- Này Vấn, có phải con Trúc chịu thằng Thức rồi không mày? Sáng nay tao thấy Thức và Trúc cùng mua vé xe đi Đà Nẵng với nhau tình lắm!

 

Vấn nghe qua choáng váng cả mặt mày. Nhưng Vấn cố làm tỉnh, đáp:

- Tao thật chưa biết. Nhưng chị ấy lớn rồi, có vậy cũng tốt thôi!


Miệng nói vậy nhưng Vấn đau điếng cả lòng. Thôi, xong rồi! Chị Trúc tệ đến thế sao? Thế mà chị nói có gì cũng hỏi ý kiến cậu đã! Vấn thẫn thờ đi vào lớp, gặp Thạnh trước hàng hiên.


- Chị Trúc đi Đà nẵng rồi hả anh Thạnh?

- Ừ, đi hồi sáng. – Thạnh đáp vô tình.


Vấn không hỏi thêm gì nữa. Chàng biết sáng nay Thức cũng không đến trường.


Thế rồi gần nửa tháng Vấn không đến nhà Trúc. Không những thế, Vấn tránh gặp luôn cả Thạnh. Ngày kia, khi đang cùng Phương đạp xe về nhà, Vấn thấy Trúc và Hường đạp xe đi trước mặt. Nếu đi một mình Vấn đã lẻn rồi, nhưng có Phương, Vấn không thể làm vậy. Phương lại cố ý xáp lại gần hai cô gái. Trúc thấy Vấn thì mừng rỡ ra mặt:

- Sao mấy bữa nay cậu không tới nhà? Chị định đến nhà cậu đấy. Hay chiều nhé, cậu ghé nhà chị chơi, luôn tiện giải giúp chị một số bài toán cùng quốc văn.


Vấn hững hờ nói:

- Mấy bữa nay em mệt mỏi quá, không muốn đi đâu, không muốn làm gì hết.

 

Hường xen vào:

- Lúc này thầy ra toán khó quá! Nhưng sao Trúc không nhờ anh Thạnh giải mà phải nhờ anh Vấn?

- Hường không biết đó, anh Thạnh cứ giải cho tao mỗi bài là đầu tao u lên mấy cục. Nếu cậu Vấn không giúp, tao thà chịu điểm kém chứ không nhờ anh Thạnh.


Vấn nghe Trúc nói thì động lòng nhưng chưa quên hết giận hờn:

- Nếu chiều thấy khỏe, em sẽ đến. Nhưng chưa chắc đâu nhé.


Buổi chiều Vấn không đến thật.


Hôm sau, khi đi học về đến nhà, Vấn thấy xe đạp Trúc đã dựng trong sân.


- Chị đợi nãy giờ. Cậu đã khỏe chưa? Sao chiều qua không lại?

- Em nghĩ để chị có thì giờ ôn lại chuyến đi Đà Nẵng đấy chứ!

- Ừ, bữa đó chị đi với mợ vô thăm cậu Túy đau nặng. Bây giờ cậu ấy đỡ rồi.


Vấn sượng sùng hỏi:

- Còn thằng Thức đi Đà Nẵng làm gì thế?


Bấy giờ Trúc mới vỡ lẽ. Nàng cười :

- Cái cậu này vô duyên thật! Anh Thức vô Đà nẵng đón xác người anh bị tử trận về. Cậu không thăm đám sao mà lại không biết? Bữa gặp ở bến xe nghe anh ấy nói chị mới biết đấy chứ.


Trúc đưa cho Vấn mấy cuốn sách Vấn ưa thích. Mặt Vấn lộ vẻ xúc động, thẹn thùng. Chàng đi ra cây khế ngọt sau vườn hái một mớ đem vào mời Trúc. Trúc vốn ưa khế ngọt. Nàng hồn nhiên nhai nhỏn nhoẻn trông cái miệng rất xinh. Vấn vờ vĩnh vừa nói tầm phào vừa nhìn Trúc ăn với vẻ mặt hân hoan. Hóa ra cái duyên của người đàn bà cũng hiển hiện luôn ở cái miệng lúc ăn nữa! Hèn gì ngày xưa An Lộc Sơn trong một buổi sáng phải thay mấy lần ngựa trạm vượt qua hàng ngàn dặm để hái trái vải đem về cho Dương Quí Phi ăn để ngắm!


Vấn tuy có ý ích kỷ với Trúc nhưng mộng ước cao nhất cũng chỉ gói ghém trong tình nghĩa nàng công chúa và tên nô bộc trung thành. Quá lắm Vấn chỉ nghĩ đến một nụ hôn cao khiết. Cái nết đứng đắn, hiền lành của Vấn đã thu hút được cảm tình mọi giới. Thật vậy, rất nhiều bà mẹ vẫn có ý muốn xây dựng Vấn với con cháu mình. Nhưng qua bao ngày tháng cả Vấn lẫn Trúc vẫn chẳng thấy ai có một người tình.


*


Rồi cũng đến ngày Vấn phải thôi học và chuẩn bị nhập ngũ. Ngày chia tay sắp đến, đầu óc Vấn cứ bị xoáy bởi những tình cảm ngang trái. Vấn muốn cố gắng nói với Trúc một điều gì. Một hôm biết Trúc nghỉ hai giờ chót, Vấn đến đón Trúc ngay trước cổng trường. Vấn ngập ngừng rủ Trúc đi xem phim. Trúc vui vẻ nhận lời. Thế nhưng vì bản chất thật thà thô vụng, suất phim hai giờ trôi qua mà ẩn tình của Vấn vẫn không lối thoát. Hai chị em lại đạp xe về. Lúc đó trời bỗng nổi mây rồi mưa tuôn dữ dội. Hai chị em may đến kịp cái quán nước dọc đường để trú ẩn. Buổi chiều bà chủ quán thường nghỉ bán sớm, quán không còn người. Trong quán chỉ có một cái chõng tre dành cho khách, chân chõng chôn cố định. Trời mưa to gió lớn, nước tạt cả ba phía quán. Chỉ còn được một đầu chõng ít bị ướt mà thôi. Cái ướt lạnh khiến hai chị em phải xích sát vào nhau. Trận mưa kéo dài cả giờ không thấy giảm bớt. Trúc co ro trông như một con mèo ướt. Vấn nhìn Trúc thương cảm. Trúc bấy giờ trông rũ rượi quá. Trong cái rũ rượi đó, Vấn vẫn nhìn thấy một vẻ đẹp huyền hoặc mong manh. Hơi hướm con gái và lòng ích kỷ đã nhen nhúm trong đầu óc Vấn chút tư tưởng vẩn đục. Vấn bỗng thèm khát được ôm Trúc.


- Chạng vạng rồi làm sao mà về đây?


Cái giọng vừa bi thương vừa ngọt ngào của Trúc đã thức tỉnh, chận đứng Vấn kịp thời. Cũng may mấy phút sau thì trời giảm mưa, dịu gió, rồi tạnh hẳn. Trên đường về Vấn lại thầm nhủ: May phước quá! Nếu không tạnh kịp, không biết chuyện gì sẽ xảy ra!


Chừng một tháng sau, Vấn vào trại nhập ngũ. Trong số những người đưa tiễn không có Trúc. Sau này Vấn có trách chuyện đó thì Trúc cho Vấn biết không đi đưa vì sợ lỡ xúc động có thể bị làm trò cười.


*


Nỗi buồn xa cách, nỗi cực nhọc đời lính, cảnh non xa nước lạ, đã khiến Vấn dễ dàng viết nhiều thư cho Trúc. Trúc cũng viết thư kể chuyện quê nhà khá đều cho Vấn. Sợ thiên hạ thấy cái quá lố của mình, Vấn cũng viết một số thư nói chuyện bâng quơ cho những người khác. Nội dung thư từ qua lại giữa Vấn và Trúc thường gói ghém nỗi niềm thương nhớ. Không một ai có lời lẽ buông thả, và cũng không ai nói đến một dự tính riêng.


Rồi thình lình Vấn không nhận được thư của Trúc nữa. Một tuần, hai tuần, rồi một tháng, hai tháng cứ trôi qua. Không còn kiên nhẫn được nữa, Vấn viết thư dò hỏi bạn bè. Thì ra Trúc đã lấy chồng! Chồng Trúc lại là Phương, bạn Vấn. Vui buồn không biết bày tỏ cùng ai nữa, chàng có cảm tưởng cuộc sống mình đã mất hết ý nghĩa. Còn đâu ánh mắt, nụ cười, giọng nói ngọt ngào thân yêu!


Một ý nghĩ bốc đồng lóe lên, Vấn đã cưới vợ một cách vội vàng. Chàng làm quen với Bích và tiến tới đi hỏi trong vòng một tuần. Hơn một tháng sau thì một lễ cưới đơn giản được tổ chức mà phía chàng chỉ có những người trong đơn vị tham dự. May mắn là Bích cũng hiền lành và rất chìu chồng. Đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh. Vợ chồng Vấn sống bên nhau rất đầm ấm. Bạn bè cứ đùa cuộc hôn nhân này là tình yêu đột xuất. Tuy đã tìm được hạnh phúc gia đình nhưng hình bóng Trúc vẫn không rời tâm khảm của Vấn. Vấn thường có những giấc mơ về Trúc, rất đẹp ban đầu nhưng phút chót bao giờ cũng hụt hẫng bùi ngùi.


Giữa cuộc sống phức tạp về mặt tâm tình của đời lính, nhiều khi Vấn lại thắc mắc cho chính mình. Sao chàng có một bản lĩnh phi thường đến thế nhỉ? Rõ ràng là mối tình đầu chàng đã dành cho Trúc. Thế mà qua bao dịp thuận lợi Vấn không hề lạm dụng, không hề xúc phạm đến Trúc. Phải chăng Vấn cũng là bậc thánh, đâu kém gì Quan Vân Trường ngày xưa!


Kỳ nghỉ phép về thăm nhà, Vấn đến nhà Trúc mấy lần nhưng không gặp. Một lần Vấn ghé trường học nơi Trúc dạy thì vừa lúc bãi ra chơi. Chào hỏi Trúc xong Vấn trách ngay:

 

- Chị lấy chồng rồi chẳng nghĩ tới ai hết. Em viết biết bao nhiêu thư chị cũng chẳng thèm trả lời.

 

Trúc cười nhăn nhó:

- Trời ơi, cậu nói chi mà tệ rứa! Chị có lỗi thật nhưng cậu cũng phải hiểu cho chị chứ! Đã theo chồng, chị đâu còn khoảng trời riêng nào nữa?

- Em nói vậy thôi. Thế anh chị thương nhau hồi nào mà em không hề biết?

- Thương chi mà thương. Hai ông già bàn với nhau rồi làm như bắt cóc vậy. Chị hết đường đành buông xuôi cho số phận.


- Bây giờ thì chắc anh chị sống hạnh phúc chứ?

- Chị cũng không biết nói sao cho đúng nữa. Nói thật với cậu nằm bên chồng mà có khi chị ngỡ như nằm bên khúc gỗ.


Thì ra lòng chị cay đắng đến thế. Lẽ nào? Vấn cũng biết khá rõ về Phương.

Gia đình Phương có nề nếp nho phong và lại khá giả. Phương thông minh, đẹp trai, tính tình rộng rãi, sao chị Trúc lại nói như vậy?

 

- Chị nói đùa chứ! Phương đâu đến nỗi nào?

- Chị đâu nói giỡn với cậu làm gì. Khi nào tiện chị sẽ nói cụ thể hơn. Bây giờ sắp vô học rồi, cậu cho chị gởi lời thăm mợ Bích.

 

Rồi mọi chuyện lại trôi qua. Sau này Trúc và Vấn còn nhiều lần gặp nhau, nhưng ai lo chuyện nấy, chẳng ai còn nhắc lại chuyện cũ nữa.


*


Khi miền Nam sụp đổ, Phương và Vấn vào tù chung một trại. Thời gian đầu Bích hay theo Trúc cùng đi thăm nuôi chồng. Nhưng chừng hơn một năm thì Bích không đi thăm nuôi Vấn nữa. Trúc vẫn đi thăm Phương đều và có khi thuận tiện gọi thăm luôn Vấn. Vấn hỏi về Bích thì Trúc bảo Bích làm ăn gặp khó khăn, lại hay đau ốm. Vấn rất lo buồn về chuyện đó. Chàng biết rõ Bích thật thà đôn hậu, không được lanh lợi khéo léo, nuôi bốn đứa con không phải là chuyện dễ. Vấn chỉ còn tin vào điểm tựa: Tứ thân phụ mẫu dù già cả vẫn còn nguyên vẹn. Họ có thể an ủi, giúp đỡ, chăm sóc các cháu phần nào.


Ở trong tù chết chóc là chuyện thường xảy ra, nhất là chết bệnh. Hầu hết tù nhân đều bị thiếu dinh dưỡng, lại luôn phải làm việc quá sức. Cán bộ y tế thiếu, thuốc men thiếu, trại lại qui định quá khắc khe, hẹp hòi về con số có thể nghỉ bệnh hàng ngày cho mỗi đội tù. Nếu đội được ấn định tối đa hai người nghỉ bệnh mà gặp ngày đội có sáu người ốm thì trong số đó có bốn người dù lết không nổi cũng phải ra hiện trường làm việc. Cho nên, có nhiều người chiều nay đi làm về than mệt, hôm sau có tên trong lệnh tha ra khỏi trại là chuyện rất thường. Nếu không phải vào dịp lễ lạt mà buổi sáng khi tù sửa soạn đi làm có đọc lệnh tha thì chắc chắn là tha người đã chết. Không rõ những người vô phước ấy có tính trong danh sách được nhà nước khoan hồng phổ biến trên báo chí hay không.


Sáng kia, khi nghe đọc một lệnh tha, Vấn bỗng giật nẩy mình: “…trại viên Nguyễn Đình Phương…”

 

Thôi rồi! Chị Trúc!

 

Vấn rất ân hận vì Phương có nhắn cho Vấn biết anh bị bệnh. Vấn định chiều đó đi làm về sẽ tìm cách đến thăm. Không ngờ chuyện lại xảy ra nhanh quá. Vấn nghĩ mình thật có lỗi lớn với Phương và chị Trúc.


Gần hai tháng sau Trúc lại lên thăm nuôi chồng. Thì ra cái tin Phương chết vẫn chưa về đến gia đình. Trúc gắng kềm hãm xúc động để xin thăm gặp Vấn. Trại vẫn có qui định cấm ngặt những kẻ vào thăm tù với dáng vẻ buồn bã hay khóc lóc. Dù báo tin dữ về cha mẹ hay vợ con, cả tù lẫn người thăm nếu để lộ chút xúc động là cuộc tiếp xúc bị cắt ngay. Vấn rất hổ thẹn vì chẳng biết gì nhiều về trường hợp của Phương để nói lại với chị Trúc. Phần quà mang theo Trúc đã giao hết cho Vấn. Chị khuyên Vấn cố gắng giữ gìn sức khỏe và hẹn có dịp sẽ lên thăm. Vấn hỏi về Bích và con cái thì Trúc chỉ cho biết gọn tất cả vẫn bình an, chỉ khó khăn về mặt kinh tế một chút. Vấn cũng đành tạm tin như vậy.


Gần một năm sau Trúc lại lên thăm Vấn. Cuộc thăm gặp rất ngắn. Trúc chỉ nói chuyện sơ lược. Nàng phải dành thì giờ đi thăm mộ Phương cho kịp trong ngày.


*

 

Khi ra tù Vấn mới rõ là Bích đã có vấn đề. Bích đã để hai đứa con lớn ở lại sống với ông bà nội, còn hai đứa nhỏ Bích đem theo về sống với cha mẹ mình. Cha mẹ Vấn không nói gì rõ lắm, nhưng theo nhận xét của Vấn thì hai ông bà không hài lòng về Bích. Những kẻ chung quanh thì người nói ngược, kẻ nói xuôi không ăn khớp nhau. Riêng Trúc có vẻ thông cảm hoàn cảnh Bích hơn hết. Trúc cho Vấn biết chỉ vì lo chạy ăn cho gia đình mà Bích bị kẻ bất chính lợi dụng. Bích về ngoại vì mặc cảm phạm lỗi, vì lòng tự ái đã bị tổn thương. Trúc khuyên Vấn nên tìm cách hàn gắn lại với Bích. Vấn nghe lời Trúc gặp Bích nhiều lần nhưng Bích vẫn từ chối:

- Em đã có lỗi, em không còn xứng đáng với anh.

 

Thế rồi nhà ai nấy ở, việc ai nấy làm để nuôi con. Chị Trúc cũng tảo tần buôn bán lo cho ba đứa nhỏ ăn học.


        *

 

Ngày tháng đang uể oải trôi thì bỗng thiên hạ xôn xao lên về chương trình xuất ngoại theo diện HO. Những điều kiện đòi hỏi để được xuất ngoại Vấn đều có đủ. Trường hợp Trúc có người bảo cũng đi được nhưng chưa ai thấy văn bản rõ ràng. Riêng Trúc lại không màng tìm hiểu đến chuyện đó.

 

Nhân một ngày giỗ chạp lớn có cả Trúc lẫn Vấn đi dự, bà con lại bàn tán chuyện đi Mỹ. Trước mặt mọi người, dì Sửu nói với Vấn:

- Vấn này, tao nói thế này mày nghe có được không? Bây giờ con Bích không chịu đi với mày. Tao hỏi nó có chịu ly dị để mày lập hôn thú với người khác không thì nó bảo chịu, chỉ xin giữ một đứa con để hôm sớm mẹ con nương tựa nhau. Mày qua Mỹ rồi cứ thỉnh thoảng gởi cho mẹ con nó một ít tiền là tốt đẹp mọi bề. Ở đây mà có tiền thì con mày cũng ăn học nên người. Hiện nay những người đủ điều kiện đi mà thiếu đôi thiếu cặp đua nhau lập hôn thú với người khác thiếu chi đó, sao mày chưa tính dứt khoát cho sớm? Mày không nghe trâu chậm uống nước đục đó sao? Hay mày lập hôn thú với con Trúc cũng được, cho mẹ con nó đi luôn thể!

 

Một số người cau mặt phản đối. Dì Hợi lớn tiếng:

- Chị Sửu nói gì kỳ vậy? Muốn loạn luân à? Chúng nó là chị em họ gần lắm mà!

 

Dì Sửu phân trần:

- Tôi nói chưa hết ý. Tôi nói lập hôn thú là lập tạm thời để ra đi thôi. Qua đến Mỹ lại ly dị, chị vẫn phận chị, em vẫn phận em. Nhiều người khác đã làm rồi đó, có sao đâu? Tao nói thế con Trúc nghe có được không?


Trúc đáp:

- Cám ơn cô đã giúp ý. Nhưng chuyện ra đi còn dài, đâu có gấp gáp gì. Nói thật, cháu cũng chẳng tha thiết gì lắm về chuyện ra đi.


Khi nghe dì Sửu gợi ý, Vấn tuy không nói gì nhưng trong đầu đã nẩy sinh những suy nghĩ mới. Trải qua bao năm bị bầm dập giữa biển đời tánh tình của Vấn đã trở nên thực tế hơn trước. Lời dì Sửu như một bó đuốc lớn soi đường trước lối đi mờ mịt đầy chông gai của Vấn. Bích vì tự ái không chịu đi, Vấn thì nghĩ mình vô tội sao lại phải xuống nước năn nỉ người có lỗi? Tại sao chàng không nắm bắt vận hội mới?


Rồi những ngày xanh đẹp như mơ của Vấn chập chờn sống dậy. Nào khi giảng bài, nào khi đạp xe song hành đến trường, nào khi ngắm chị Trúc nhai khế ngọt… Những kỷ niệm cứ vòng vòng trong đầu Vấn, khơi lên những cảm xúc bồi hồi, buồn buồn tủi tủi y như trong một cảnh mới đoàn viên sau bao ngày xa cách. Những chồi yêu bị lấp kín hơn ba mươi năm bỗng như xuyên thủng được lớp tuyết dày đang tan ra dưới ánh mặt trời. Mối tình đầu, vì liên hệ bà con, không thuận lẽ với truyền thống đạo đức dân tộc, Vấn đành cố nhịn mà lánh xa, nhưng làm sao quên được? Bây giờ cả hai đối tượng đều có một khoảng trời riêng khá rộng. Vấn đã có cơ hội để lộng giả thành chân. Vấn sẽ sống những ngày cuối đời hạnh phúc tràn trề…

 

Lòng xuân của Vấn lúc này như phơi phới đơm hoa. Vấn hẹn chị Trúc một buổi rộng rãi thì giờ để bàn chuyện đi Mỹ.

- Chắc chị còn nhớ câu chuyện trong ngày giỗ chạp?

- Cậu muốn làm theo lời cô Sửu hả?  Theo cậu, chị có nên làm thế không?

- Dạ, chính em muốn như vậy đó!

- Rồi khi tới Mỹ mình sẽ làm gì nữa?

 

Vấn bối rối một lúc rồi nói:

- Dạ, dạ, xin chị hiểu cho lòng em… Nếu chị ghét em thì cứ lập thủ tục xa cách. Còn không thì cứ sống như vậy…


Nói xong, Vấn hồi hộp chờ đợi phản ứng của Trúc. Nhưng Trúc thản nhiên:

- Chị đã đoán biết ý nghĩ của cậu. Chị không muốn cậu động não nhiều nên sẽ nói một cách rõ ràng dứt khoát. Đàn bà vốn nhạy cảm lắm. Chị đã biết tỏng tâm sự của cậu từ một tiếng thở dài của cậu thời học trò. Cũng không che giấu làm gì nữa, chính chị cũng có một thứ tình cảm tương tự. Nhưng chị em mình đã dùng lý trí, dựa vào sức mạnh luân lý xã hội để vượt qua nó, nên đã tránh được bao nhiêu rắc rối phiền hà. Kết quả đó phần lớn cũng nhờ vào phẩm chất, tâm hồn cao thượng của cậu. Thuở đó, nếu cậu tiến xa hơn một bước, không biết chị có cản trở nổi không. Bây giờ nếu chị lập hôn thú với cậu để tới phương tây, chốn xã hội xa lạ và tự do, tình trạng chị em mình sẽ đi về đâu? Cái hoài bão bị đè nén lâu ngày có cơ hội vùng dậy, không có sức mạnh xã hội can thiệp, liệu mình có giữ nổi không? Đành rằng mình có thể thỏa mãn chút ước vọng nhưng sẽ kéo theo bao nhiêu đổ nát. Con chị sẽ hết tin tưởng chị, con cậu sẽ coi thường cậu. Những đầu óc non nớt ấy nếu mất niềm tin, mất định hướng, tương lai chúng sẽ ra sao? Cậu hãy nghĩ lại đi! Bích nó đâu có phản cậu. Chẳng qua vì quá lo cho cậu và lũ con mà nó lỡ chân thôi. Cái họa đó khôn đằng trời cũng chưa chắc tránh được. Khi còn làm việc, cậu thanh liêm không có chút tư lợi phòng hờ. Khi cậu thất thế, vợ cậu phải khốn đốn để rồi phải vấp ngã. Người hiểu biết không ai cười cậu hết. Cậu có bổn phận phải chia xẽ nỗi đắng cay đó với Bích mới phải chứ! Hơn nữa, cậu với Phương là bạn bè, cậu muốn mang tiếng lợi dụng vợ bạn không đây? Rồi chị đây nữa, cái danh tiết giữ gìn lâu nay nỡ nào lại để tay cậu chôn vùi? Việc này có thể dẫn đến hủy hoại bao nhiêu tư tưởng đạo đức phương đông mà lũ trẻ lâu nay được vun mớm giáo dục. Đừng coi thường đạo đức phương đông! Nếu thiếu nó, con người sẽ sống hỗn loạn, nhơ nhớp, đau khổ hơn. Khi còn trẻ bồng bột, mình đã thoát được lưới tình, bây giờ đầu hai thứ tóc, gánh thêm trách nhiệm với con cháu, lẽ nào lại buông xuôi? “Chữ trinh còn một chút này, chẳng cầm cho vững lại dày cho tan”! Thúy Kiều sau mười lăm năm lưu lạc thân xác còn gì mà gọi là trinh? Chữ trinh mà cụ Nguyễn Du nói đây chính là trường hợp chúng mình đấy Vấn ạ. Đừng để người ta đánh giá mình quá thấp. Chị lúc nào cũng quí cậu như một viên trân châu. Gặp vận bỉ, ngọc có thể rơi lẫn vào bùn phân, nhưng không vì thế mà ngọc biến thành bùn phân. Chỉ cần qua một trận mưa lớn, bùn phân trôi hết, ngọc lại hoàn ngọc. Nếu cậu còn quí mến chị thì nên nghe lời chị. Bích đáng thương hơn đáng trách. Nếu cậu hàn gắn được với Bích không những lòng cao thượng của cậu được sáng tỏ mà còn là mối ơn phước lớn cho mấy cháu nữa!


Vấn ngồi lặng nghe Trúc nói với sự kinh ngạc thán phục. Cuối cùng, như cậu học trò trước cô giáo, Vấn cất giọng run run:

 

- Dạ, em cám ơn chị đã cho em một bài học lớn. Ngày trước đọc các sách nói về liệt nữ em vẫn nửa tin nửa ngờ, nhưng bây giờ nhờ chị, em tin trong đó có nhiều chuyện thật. Em rất sung sướng có được một người chị cao cả. Nỗi lòng em cũng được giải tỏa rồi. Em sẽ gắng làm theo lời chị.

 

 

Ngô Viết Trọng



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 01/Apr/2016 lúc 2:45pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 06/Apr/2016 lúc 3:28pm
TẠ ƠN NGƯỜI   <<<<<<




Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 06/Apr/2016 lúc 3:30pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 09/Apr/2016 lúc 9:57pm
NGƯỜI HỌC TRÒ ĐẠP XÍCH LÔ





Tôi gọi xích lô để được về thật nhanh với ngôi nhà ấm cúng, nơi có những đứa con kháu khỉnh, mà những ngày xa lòng tôi nôn nao nhớ. Một người đạp chiếc xích lô tiến lại. Dưới ánh điện nhập nhoà, tôi thấy đó là một thanh niên dáng dong dỏng, mặc chiếc áo sẫm màu vá nhiều miếng to, chiếc mũ lá rộng vành sụp xuống mặt. Cậu ta còn quá trẻ - tôi đoán vậy

- Về phố Cửu Long bao nhiêu em?
Tôi hỏi giá, vì nghe nói giá xe ban đêm gấp đôi ban ngày, vả lại túi tôi đã cạn sau chuyến đi dài.
- Dạ mười ngàn .

Chàng trai đáp một cách từ tốn và rất nhỏ. Tôi nghĩ, không phải đi bộ quãng đường hai cây số, mà chỉ mất chừng ấy tiền thì không nên đắn đo. Nhưng tôi có quyền mặc cả cơ mà:

- Năm ngàn nhé!
- Dạ.

Tiếng “dạ” có vẻ nhỏ hơn. Tôi lên xe, thầm nghĩ chàng trai này dễ chịu thật, loại người chăm chỉ đây, chắc hoàn cảnh khó khăn nên mới phải làm lụng đêm hôm vất vả thế này.

Thành phố ngủ say. Không có tiếng động nào ngoài tiếng xích xe nhịp đều đều theo đôi chân mải miết của chàng trai. Những vòm cây, những mái nhà tôi đã bao lần đi qua, dừng lại, ngắm nhìn, vậy mà trong đêm, tất cả trở nên lạ lẫm. Tất cả đột ngột hiện ra rồi lặng lẽ lùi vào vắng vẻ.

Tôi yêu sự yên tĩnh này bằng một cảm xúc mới mẻ như lần đầu tiên tôi nhận ra cái thơ mộng của phố xá lúc đêm khuya. Tôi hít sâu vào lồng ngực, hưởng lấy chút không khí trong lành ẩm ướt hơi sương. Chưa kịp nghĩ ngợi gì thì xe đã dừng lại trước cảnh cổng sắt sơn xanh ẩn giữa bờ hoa giấy. Tôi trả tiền, chàng trai không nhận, chỉ vội vã quay xe, rồi nói, vẫn cái giọng rất nhỏ:

- Cô về nghỉ ạ, em đi.
Bây giờ tôi mới ngẩn nhìn chàng trai:
- Phương!


Tôi thốt lên ngạc nhiên, ngỡ ngàng nhận ra cậu học trò lớp 12A mà tôi đang chủ nhiệm. Không nói được gì thêm, tôi đứng trân trân giữa đường nhìn theo bóng Phương lẫn vào phố vắng. Một cảm giác xấu hổ làm tôi đau nhói. Tôi trách mình sao vô tình đến thế? Sao tôi không nhận ra Phương. Phải vì em mặc chiếc áo vá nhiều miếng to? Tôi lại còn mặc cả tiền bạc nữa chứ. Điều này có vẻ mâu thuẫn với những những gì hay ho mà tôi say sưa rao giảng trên lớp. Những ý nghĩ xót xa dày vò khiến tôi đứng ngoài phố một lúc lâu mới gọi người nhà mở cửa. Đêm ấy tôi trằn trọc cho đến khi đài phát thanh thành phố truyền đi bản nhạc quen thuộc đầu tiên trong ngày.

* * *

Tôi đến lớp với tâm trạng buồn khó tả. Câu chuyện hôm qua giúp tôi hiểu rằng không thể đánh giá học sinh một cách hời hợt, nông cạn. Năm mươi học sinh ngồi đây là năm mươi thế giới bí ẩn. Tâm hồn các em như cầu vồng bảy sắc mà ta bất chợt nhìn thấy nhờ những tia sáng mặt trời.

Phương vẫn ngồi kia, góc cuối lớp, nét mặt không gì đổi khác, mà sao bây giờ tôi mới nhìn kỹ, cái mũi cao thẳng trên khuôn mặt khôi ngô, đôi mắt luôn ngời lên ánh nhìn thông minh và ngay thật. Bao giờ Phương cũng chỉnh tề với mái tóc gọn gàng, áo sơ mi tém trong chiếc quần xanh ngay ngắn. Cái dáng cao và nước da trắng làm nên vẻ thư sinh, khiến tôi không nhận ra em trong “vai” chàng trai đạp xích lô đêm qua.

Tôi nhớ lại những cuộc họp hội đồng giáo dục, nhiều ý kiến phản ánh tình hình học sinh. Để tiếp tục cắp sách đến trường đối với các em không đơn giản chút nào. Có em phải bán trứng luộc trên tàu, bán hành rong ngoài bờ biển, gánh nước thuê, đạp xích lô… Tôi cho rằng đó là những thực tế không tránh khỏi của miền Nam sau giải phóng, nhưng lại đinh ninh rằng lớp tôi không có những trường hợp như vậy, bởi vì ánh mắt các em bình thản, vô tư lắm. Hoá ra lâu nay tôi toàn nhận xét học sinh theo cảm tính. Tôi có biết đâu, đằng sau tiếng cười hồn nhiên của các em là một cuộc sống đầy vất vả, lo toan.

Tôi không thể làm ngơ trước một học trò như Phương được. Tôi phải tìm hiểu hoàn cảnh, tâm tư của em, ý nghĩ đó thúc bách tôi mạnh mẽ. Giờ nghỉ, tôi gọi Phương ra hành lang.

- Hôm qua cô có lỗi là không nhận ra em. Cám ơn em đã đưa cô về nhà, nhưng tại sao em lại có vẻ tránh cô thế nhỉ?
- Thưa cô, Em thực sự không muốn cô phải bận lòng nhiều vì chúng em…
- Sao em phải đạp xích lô ban đêm?
- Dạ, em thuê chiếc xích lô này. Chủ xe đi ban ngày, ban đêm họ nghỉ, cho thuê.
- Đêm nào cũng vậy, còn thời gian nào mà nghỉ ngơi?
- Thường lệ cứ 7 giờ tối, em đi các phố đón khách, sau đó lên ga chờ khách xuống tàu. Em về nhà lúc 2 giờ sáng ngủ đến 5 giờ dậy, đi học.
- Ngủ ít vậy mà cô không thấy em ngủ gật?
- Dạ, em quen rồi.
- Cô còn mắc nợ em đấy, chủ nhật cô đến nhà thăm em được chứ?

Phương “dạ” một tiếng rồi đi vào lớp, hoà trong đám học sinh đang gõ bàn hát ầm ĩ. Tôi nghĩ, em không thể sống vô tư.

* * *

Phương ở trong hẻm một khu phố lao động. Căn nhà chật chội, với những đồ vật sơ sài sắp đặt không được hợp lý lắm. Tất cả muốn nói rằng cái “hậu phương” của em chẳng có gì là vững chắc. Phương kéo ghế, mời tôi ngồi, cử chỉ chững chạc, lễ độ và tự nhiên, không có sự khúm núm mà tôi thường gặp ở một số học sinh. Vừa rót nước ra những chiếc ly thủy tinh, em vừa kể:

“Bố em là lính, mất tích trước 1975. Mẹ em cũng mới mất cách đây hai năm. Bệnh hen suyễn đã hành hạ bà suốt cuộc đời. Cho đến giờ em vẫn không thể nào quên hình ảnh mẹ khô gầy, hố mắt trũng sâu, đêm đêm không ngủ được, mẹ phải dựa lưng vào vách, há miệng ra thở những hơi thở khò khè, nặng nhọc. Căn bệnh hiểm nghèo, nên mọi sự chữa chạy đều vô hiệu. Mỗi lần lên cơn khó thở, mẹ co rúm người, vật vã khổ sở. Mẹ bảo chỉ mong chết. Em ước mình là bác sĩ để cứu mẹ. Mẹ mất, cuộc sống chúng em càng khó khăn. Hai đứa em nhỏ cũng đang tuổi ăn học. Mấy lần em tính bỏ học, đi làm kiếm tiền nuôi các em, nhưng xa lớp, xa các bạn, nhớ quá, không chịu nổi. Mới lại em ước mơ trở thành bác sĩ nên phải cố gắng cô ạ…”


Bây giờ thì tôi hiểu vì sao Phương học giỏi. Mỗi sự vươn lên để chiến thắng hoàn cảnh, đều có một động lực bên trong. Từ đó, mỗi khi giảng bài, tôi thường nhìn vào mắt em, ở đó niềm hy vọng đang cháy lên và tôi như được tiếp thêm sức mạnh.

* * *

Bẵng đi một thời gian dài, dễ đến bảy, tám năm, tôi đã là bà giáo thâm niên trong nghề. Bao nhiêu lớp học sinh đi qua cuộc đời, bao nhiêu gương mặt lưu lại trong tâm trí, có những điều bị xoá nhoà, lãng quên, có những niềm vui, nỗi buồn khắc sâu thành kỷ niệm. Tôi bắt đầu ngấm mệt, bắt đầu cảm nhận những bất cập và cả nỗi buồn của nghề dạy học.

Một buổi sáng, sau khi dạy xong bốn tiết văn, tôi bước ra khỏi lớp bỗng thấy đầu choáng váng mắt nhoà đi, cổ họng đau cứng như có vật gì to lắm chẹn lại, ngực tức tựa hồ ai đem đặt vào đó một tảng đá. Tôi ho rũ và khạc ra một cục máu đỏ bầm to bằng đầu ngón tay. Không tin ở mắt mình, tôi nhìn kỹ lại, thì đúng là một cục máu. Tôi bàng hoàng kinh sợ, nghĩ đó là dấu hiệu của bệnh “lao” và rùng mình nhớ đến những đồng nghiệp của tôi đã chết vì lao phổi. Hai mươi năm cầm phấn, viết và nói, tôi đã hít không biết bao nhiêu vi trùng. Những hạt bụi trắng, li ti mà những người làm thơ, làm nhạc đã tha thiết ngợi ca. Tuổi trẻ vốn tin vào những gì đẹp đẽ. Tôi cũng một thời thi vị hoá bụi phấn. Cứ để mặc cho phấn nhuộm trắng bàn tay như một bông hoa huệ; Cứ để phấn bám đầy quần áo, rắc mịn màng lên tóc, bay vào mũi, vào miệng, đó mới thật sự yêu nghề, xả thân vì đạo. Cứ gào lên mà giảng, chẳng hề băn khoăn về hai lá phổi. Mấy lần thấy đau cuống họng, ngậm vài viên ômai ngòn ngọt, dìu dịu lại nói rất say sưa. Có lúc mệt lử tự dặn mình đừng hăng quá, phí sức, nói nhỏ lại, ít đi, chậm rãi hơn, nhưng gặp chỗ tâm đắc, hứng lên, lại thao thao bất tuyệt. Chợt nhớ mình quá đà thì cổ họng đã sưng tấy lên rồi.

Lần này không thể xem thường, tôi phải đến bệnh viện. Phòng khám khá đông. Tôi lấy cuốn sách “Giáo dục con người chân chính” của Xu-khôm-lin-xki ra đọc, chờ đến phiên mình.

- Chào cô ạ - Một người mặc áo bơ - lu trắng, mang kính cận, nhìn tôi, cười:
- Thưa cô, cô khám bệnh ạ, cô có nhận ra em không?


Trong giây lát, những gương mặt học trò lần lượt hiện lên trong trí nhớ.

- A, Phương! – Tôi khẽ reo lên - Thế ra bây giờ em không tránh cô như dạo trước nữa.
- Dạ. Sau khi tốt nghiệp đại học Y khoa, em về làm việc bệnh viện này. Thưa cô, mời cô vào phòng khám.

Hôm ấy, chính Phương đã khám bệnh cho tôi, đôi mắt em nheo lại, đăm chiêu dõi theo từng nhịp thở của tôi qua chiếc ống nghe. S± bình tĩnh và thành thạo của Phương làm cho tôi hoàn toàn tin cậy. Tôi đâu còn là cô giáo của em như ngày nào trang nghiêm trên bục giảng. Tôi là bệnh nhân, còn em là thầy thuốc. Phương đưa tôi đến phòng khám tai mũi họng, khoa X quang chụp phổi. Cử chỉ của Phương khẩn trương, dứt khoát, tôi chỉ biết phục tùng như một cái máy. Sau đó, tôi đến ghế đá vườn hoa giữa bệnh viện ngồi chờ kết quả xét nghiệm. Một chiếc lá xanh non khẽ chạm vào tay tôi như một cử chỉ dịu dàng. Chẳng có cơn gió nào giật đi chiếc lá như trong truyện ca O. Henry. Vây quanh tôi là muôn nghìn con mắt lá, tràn trề hy vọng. Ngồi ở vườn hoa tôi có thể nhìn toàn cảnh bệnh viện. Một chiếc cáng đưa một bệnh nhân vừa chết xuống Nhà vĩnh biệt, những tiếng khóc dữ dội đi theo. Một anh thanh niên ngồi ở ghế đá bên cạnh nở một nụ cười sung sướng khi có người đến báo tin vợ anh vừa sinh con trai đầu lòng. Ở đây sự sống và cái chết diễn ra trong khoảnh khắc. Nếu có khi nào ta đứng trong khoảnh khắc ấy sẽ cảm nhận sâu sắc hơn hạnh phúc và khổ đau. Những người thầy thuốc là những chiến sĩ gan góc, họ đang chiến đấu âm thầm, giành lại sự sống, niềm hạnh phúc cho con người, mà sao bây giờ tôi mới thấm thía điều này. Phải chăng, chỉ lúc nào ta là bệnh nhân, bị nỗi đau thể xác dày vò, ta mới suy nghĩ về công lao của người thầy thuốc?

Chị bạn tôi là bác sĩ phàn nàn rằng “nghề Y khổ sở lắm. Mổ bụng người, cắt cả khúc ruột thừa, mà tiền bồi dưỡng không bằng tiền trả cho anh thợ ngồi ở đầu đường vá cái ruột xe”. Ồ, thế thì nghề dạy học của tôi có hơn gì? Tiền bồi dưỡng cho một giờ dạy học ngoài tiêu chuẩn, gọi là giờ phụ trội, chỉ mua được một quả chanh. những chuyện như thế thật vô cùng, làm sao có thể ghi hết bằng vài trang truyện? Có điều là tôi, chị và tất cả mọi người vẫn sống, vẫn làm việc. Chúng ta là những trí thức không thể lạc quan theo kiểu A-Q nhưng chắc chắn còn có một sức mạnh vô hình nào quyết định sự sống của ta. Bát cơm, manh áo, chẳng đơn giản chút nào, nó làm ta chóng mặt. Nhưng đáng sợ hơn khi trái tim ngủ yên, bộ óc ngủ yên…

Có những lúc tôi tưởng mình sắp ngã xuống giữa bục gíảng cao và vững chãi như cái điểm tựa kia. Nhưng rồi lòng tự trọng đã buộc tôi phải đứng lên với một tư thế đàng hoàng. Mỗi giờ dạy thất bại khiến tôi đau đớn hơn cả nỗi đau thể xác. Mỗi một giờ dạy thành công thì niềm hạnh phúc ùa đến ngập tràn, như được hồi sinh. có khác gì niềm vui của người thầy thuốc giành lại sự sống cho người bệnh từ tay thần chết…

Có lẽ tôi sẽ còn nghĩ ngợi miên man nếu Phương chưa trở lại. Em cầm trong tay tấm phim to bằng trang giấy học sinh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy một phần cơ thể của mình trên hình ảnh, hồi hộp, lo âu. Chỉ một lời nói của Phương lúc này là quyết định phần đời còn lại của tôi. Nếu tôi bị lao phổi có nghĩa là tôi phải vĩnh viễn rời xa bục giảng.

Phương giơ tấm phim lên, chỉ vào từng vùng sáng tối giải thích:

- Thưa cô, kết quả xét nghiệm cho thấy tình trạng sức khỏe của cô hiện thời không đáng lo ngại. Không có dấu hiệu bệnh nguy hiểm. Cô chỉ bị yếu phổi. Hiện tượng ho ra máu là do viêm họng, xung huyết. Cô cần được nghỉ ngơi ít ngày và sử dụng thuốc theo chỉ dẫn, nếu thấy trong người còn mệt cô trở lại đây.


Tôi run run đón lấy tấm phim từ tay Phương, khẽ nói “cám ơn em” mà nỗi xúc động như muốn vỡ òa.

Phương tiễn tôi ra cổng bệnh viện. Quãng đường ngắn không cho phép cô trò nhắc nhiều về kỷ niệm, nhưng hình ảnh cậu học trò mặc chiếc áo vá nhiều miếng to, đạp xích lô và căn nhà chật chội trong hẻm hiển hiện trong tâm trí tôi. Sực nhớ điều gì tôi hỏi:

- Hai em của Phương thế nào?
- Dạ, tốt nghiệp đại học hết cả rồi cô ạ. Một đứa Bách khoa, một đứa kinh tế.
- Ôi trời ! Giỏi quá. Làm thế nào mà nuôi nhau ăn học?
- Dạ, cũng tự lao động kiếm sống thôi ạ. Chật vật, gian nan lắm, nhưng rồi cũng qua.
- Em làm cô bất ngờ quá đấy Phương ạ. Sự thành đạt của các em là bài học làm người.
- Em vẫn nhớ, khi giảng bài, cô thường nói: Hạnh phúc chỉ có thể đạt được bằng nghị lực vươn lên không ngừng.

Tôi tin Phương thành thật, vì em nói điều đó sau những trải nghiệm của chính cuộc đời mình

Chia tay Phương, tôi ra khỏi bệnh viện trong trạng thái nhẹ nhõm như chưa từng đau ốm. Phần vì Phương đã cho tôi biết tôi không bị lao phổi, nhưng lý do quan trọng hơn khiến tôi trở nên khỏe khoắn là vì tôi vừa được chứng kiến “thành quả” của mình. Người thầy giáo thường mang tâm sự buồn vì nghề dạy học vất vả, âm thầm nhưng chẳng bao giờ được nhìn thấy “sản phẩm”. Thì đây, sản phẩm của nghề dạy học là những con người, những thầy thuốc, kỹ sư, nghệ sĩ, nhà kinh tế, nhà lãnh đạo…

Tôi sung sướng nhận ra, với tôi, không có chỗ đừng nào tốt đẹp hơn chỗ đứng trên bục giảng.



Lê Khánh Mai



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 09/Apr/2016 lúc 10:03pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 14/Apr/2016 lúc 10:45am

Em bé “Napalm” ngày ấy và bây giờ,buồn vui lẫn lộn !



Vài thập kỷ sau chiến tranh, những vết sẹo vẫn hằn trên da thịt Kim Phúc, bé gái trong bức ảnh nổi tiếng “Em bé napalm” ở Việt Nam năm 1972.

Trong%20ảnh%20
“Em bé napalm” do Nick Ut, phóng viên hãng AP, chụp ngày 8.6.1972. Trong ảnh, Phan Thị Kim Phúc cùng một số trẻ em Việt Nam vừa đi vừa khóc sau khi bom napalm dội xuống Trảng Bàng, Tây Ninh. Phúc lúc đó bị bỏng ở lưng. Bức hình giúp nhà báo của AP giành giải thưởng Pulitzer danh giá trong lĩnh vực báo chí, năm 1973. Ảnh: AP/Nick Ut
1
Kim Phúc và mẹ năm 1972, hai ngày sau khi bom napalm dội xuống Trảng Bàng. Hơn 40 năm trôi qua nhưng ký ức về những ngày chiến tranh vẫn chưa nguôi đối với nhân vật trong bức hình. Khi đó, cô cùng anh trai và những đứa trẻ khác chạy trốn bom napalm của Mỹ. Khói vàng bao phủ khắp nơi, lửa bén vào quần áo và khiến Phúc bỏng ở lưng. Cây cối xung quanh bỗng trở thành những ngọn đuốc hung dữ. Ảnh: AP
1
Nick Ut trở lại Trảng Bàng thăm Kim Phúc năm 1973. Sau khi chụp bức ảnh ngày 8/6/1972, phóng viên 21 tuổi đưa Kim Phúc tới bệnh viện. Tại đó, các bác sĩ cho hay, bé gái bị thương nặng và khó qua khỏi. “Nếu tôi không giúp và bé chết, tôi sẽ cảm thấy như giết chính mình”, phóng viên ảnh chia sẻ. Christopher Wain, phóng viên hãng ITN của Anh, đề nghị đưa Kim Phúc sang bệnh viện khác sau khi bác sĩ chẩn đoán bé nguy kịch. May mắn, cô đã qua khỏi. Ảnh: AP
1
Năm 1986, chính phủ Việt Nam cử Kim Phúc sang Cuba học ngành y. Phóng viên Nick Ut gặp lại cô gái trong bức ảnh lần đầu tiên vào năm 1989 tại Cuba. Ảnh: AP
1
Tại Cuba, Kim Phúc gặp Bùi Huy Toàn, một sinh viên Việt Nam. Phúc chưa bao giờ tin người đàn ông nào đó sẽ yêu cô bởi những vết sẹo chiến tranh khắp lưng và tay mình. Toàn chấp nhận tất cả và chọn cô làm vợ. Hai người kết hôn năm 1992. Ảnh: Daily Mail
1
Kim Phúc cùng con trai và chồng (phía sau).  Năm 1997, cô gái trong bức ảnh nổi tiếng thành lập Quỹ Kim Phúc tại Mỹ để hỗ trợ trẻ em trong chiến tranh (*). Ảnh: Daily Mail
1
Phan Thị Kim Phúc và phóng viên Nick Ut diện kiến Nữ hoàng Anh Elizabeth II tại London năm 2000. Ảnh: Daily Mail
1
Cuộc gặp gỡ của nhân vật chính và tác giả bức ảnh “Em bé napalm” năm 2012. Ảnh: AP

Đỗ Quyên (Nguồn: Zing)

Đã nhiều năm trôi qua, “em bé Napalm” trong bức ảnh nổi tiếng ngày nào giờ đã có cuộc sống thanh bình bên chồng con tại đất nước Canada xa xôi.


Bức ảnh “Em bé Napalm” do Nick Ut, phóng viên hãng AP, chụp vào ngày 8/6/1972. Nhân vật chính trong bức ảnh là cô bé Phan Thị Kim Phúc cùng một số trẻ em Việt Nam vừa đi vừa khóc sau khi bom napalm dội xuống Trảng Bàng, Tây Ninh. Bức ảnh sau đó đã nổi tiếng toàn thế giới và giúp phóng viên Nick Ut giành giải thưởng Pulitzer danh giá trong lĩnh vực báo chí, năm 1973.
 

Bức ảnh ghi lại cảnh nhiếp ảnh gia Nick Ut đang nói chuyện với Kim Phúc khi cô bé đang bị bỏng lưng sau cuộc tấn công bom napalm. Khi vụ tấn công xảy ra, Kim Phúc đã đang cùng gia đình tham dự 1 buổi lễ chùa. Nhớ lại thời điểm chụp bức ảnh, nhiếp ảnh gia Nick Ut cho biết giữa làn khói mờ của bom đạn, ông nhìn thấy 1 cô bé mình trần vừa chạy vừa hét lớn cùng những đứa trẻ khác. “Sao cô bé không mặc quần áo nhỉ?”, suy nghĩ lóe lên trong đầu và ông đã dùng máy ảnh chụp lại khoảnh khắc đó rồi hướng ống kính ra xa. “Tôi cứ nghĩ rằng cô bé sẽ chết mất, tôi mang nhiều nước tới rồi dội lên người cô bé. Cô bé hét lên “Nóng quá”, “Nóng quá”. Cô bé không muốn dội nước lên người mà chỉ muốn uống nước”.

 Năm 1989, Nick Ut đã tới Cuba và ghé thăm Kim Phúc. Đây là lần tương phùng đầu tiên của 2 người kể từ khi chiến tranh ở Việt Nam kết thúc.

Cha mẹ của “em bé Napalm”, ông Phan Thanh Tung và bà Du Ngoc Nu đang cầm bức ảnh của con gái vào năm 1997.
Nhiều năm trôi qua, “em bé Napalm” trong bức ảnh nổi tiếng ngày nào giờ đã có cuộc sống thanh bình bên chồng con tại đất nước Canada xa xôi.
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23670
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 18/Apr/2016 lúc 7:33am



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Apr/2016 lúc 12:54pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23670
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Apr/2016 lúc 12:36pm
Tình Xưa Nghĩa Cũ


Trên khuôn mặt người đàn ông hiện rõ những lo âu, những nôn nao, chờ đợi. Ðè nặng trong khuôn mặt xạm nắng, bóng loáng mồ hôi. Trên vầng trán, những nếp  nhăn, vẽ những đường hằn xâu hoắm. Mài tòc mầu muối tiêu, bồng bềnh, dáng người cao, gầy, chững chạc trong bộ đồ vét cũ. Tất cả đều gìa cỗi. Trừ đôi mắt sâu dưới hàng mi rậm vẫn sáng long lanh đầy tự tin, tỏa ra sức sống mãnh liệt. Có lẽ sự khác biệt là như thế. Nhưng vẫn không dấu được vẻ lúng túng giữa sự rộn rịp, giữa hành lang rộng lớn, giữa những người xa lạ. Người đàn ông đẩy chiếc xe chở hành lý to kềnh càng, trên xe vỏn vẹn hai cái valy nhỏ, một chiếc túi xách, bước từng bước dài thong thả. Cô gái mặc áo dài mầu trắng, rụt rè đi bên cạnh, tay ôm bó hoa. Một bó Cẩm Chướng, những cánh hoa nở rộ. Cả hai đứng lại ở một góc vắng người. Có vẻ chờ ai. Thỉnh thoảng người đàn ông xoay đầu từ từ nhìn bên phải, rồi nhìn bên trái. Dừng lại một lúc rồi lại nhìn từ trái sang phải. Cô gái kín đáo hơn chỉ liếc mắt thật nhanh. Thời gian như ngừng lại. Bỗng hai bàn tay của người đàn ông đang nắm chặt tay cầm, nắm chặt hơn, những sợi gân tay nổi lên, đôi mắt sáng hơn, cả thân người còm cõi vùng dậy chồm về phía trước, nhanh như một con báo. Nhìn thấy phản ứng của ông. Cô gái cũng giật mình mở to đôi mắt, dáng đứng thẳng hơn, bó hoa được ôm sát vào ngực, che lại những rung động theo hơi thở dồn trên lớp vải áo mỏng. Không lâu lắm, người đàn ông thở ra. Quay sang nhìn cô gái không nói gì. Ðôi vai chùn lại. Cúi nhìn nền gạch bóng loáng, hình như ông thấy cả những thất vọng của mình trải trên nền nhà. Ông ngẩng đầu nhìn lên trần nhà. Những người đi cùng chuyến bay đã được đón. Từng đôi, từng nhóm, ôm nhau mừng rỡ, những  người được tặng hoa cười rạng rỡ, họ hôn lên má của nhau, lên môi nhau, những ánh mắt chan chứa tình, long lanh. Vòng tay mở rộng. Ngả đầu lên vai. Hay tựa vào ngực nhau. Cô gái cúi đầu nhìn xuống chân. Hành lang nhộn nhịp còn trơ lại hai người. Thỉnh thoảng một vài người đi qua, bước những bước dài,vội vã. Người đàn ông đẩy chiếc xe qua một bên. Nhìn hàng ghế trống, rồi nhìn cô gái. Ông ngồi xuống lưng cong vòng. Cô gái vén vạt áo dài ngồi xuống bên cạnh. Ðể bó hoa lên đùi. Bó hoa cô nâng niu chăm sóc cẩn thận từ khi cô chọn mua. Hơn hai mươi giờ, vừa chờ dưới đất, vừa trên máy bay, chẳng mấy khi cô để bó hoa một mình. Cô thì thầm, vuốt ve rất nhẹ. Thỉnh thoảng ghé mũi hít. Liếc mắt nhìn người đàn ông đang thở từng hơi khói thuốc, pha lẫn tiếng thở dài. Cô gái cúi đầu vân vê những cánh hoa. Những ngón tay gầy xạm nắng. Mái tóc dài rủ xuống mỏi mệt.

Người đàn ông xoay đầu nhìn và hỏi?

_ Uống một chút nước nhá?

Cô gái lắc đầu, mái tóc đong đưa.

_ Dạ không. Mẫu đối thoại ngắn duy nhất của buổi trưa. Từng người lững thững đi, từng nhóm nhỏ tụ lại cười nói ngả nghiêng. Hành lang lại đầy người. Những giọt nước mắt từ đôi mắt phờ phạc thiếu ngủ của cô gái, rơi trên giấy gói bó hoa, từng giọt, từng giọt. Cô đưa ngón tay xoay vòng trên những giọt nước mắt, vết loang lớn dần dần. Người dàn ông hướng ánh mắt bắt lực nhìn. Ðưa bàn tay gân guốc, vuốt mhẹ mái tóc dài óng mượt. Cô gái đưa khăn tay lên chặm mắt, đôi vai run run thổn thức. Từ lúc đó cô không còn liếc mắt nhìn quanh không còn những phản ứng theo người đàn ông. Cô chỉ nhìn xuống sàn. Không nói nhưng có vẻ không còn tin vào những cú giật mình của người đàn ông nữa. Mặc cho người đàn ông đứng lên ngồi uống, mặc cho người đàn ông bồn chồn hụt hẫng. Càng lâu người đàn ông càng bối rối, đôi mắt đăm chiêu nhìn. Ông ta móc ra điếu thuốc cuối cùng, đưa lên môi ngậm. Bóp bao thuốc rỗng. Khi chiếc bao vuông vắn trở thành một cục giấy tròn nhỏ, người đàn ông xoay người bỏ vào thùng rác bên cạnh. Môi vẫn ngậm điếu thuốc chưa mồi. Cánh cửa lại rộng mở, nhả ra từng nhóm người, kẻ vội vã dõi mắt nhìn dáo dác, người nhởn nhơ, ngơ ngác nhìn. Bên cạnh những xe chở hành lý đầy ắp, lăn bánh nặng nề. Ðể lại trên khuôn mặt ngưòi đàn ông thêm những lo âu. Ông thôi không còn bồn chồn nôn nóng, và những khi nhìn ai thì có vẻ lừ đừ . Khi bóng đêm thấp thoáng bên ngoài khung cửa kính, ông ta lấy trong túi xách một cái bánh mì nhỏ, phần ăn để dành từ trên máy bay, gói cẩn thận trong khăn giấy.

_ Ăn một tí nhá?

_ Dạ không.

 Cô nghiêng người tìm chỗ tựa. Người đàn ông dang tay kéo vào, khoát tay lên vai, vỗ nhè nhẹ, nhìn xa vắng đôi mắt trở nên buồn, long lanh.

_  Bố ơi! Nhỡ Mẹ không đến đón thì mình làm sao hở Bố?

_ Sao lại không đến.

Người đàn ông trả lời nhanh và chắc.

 _ Hãy cố thêm tí nữa nhá!

Ông khe khẽ thở dài. Tuy nói vậy, nhưng trong lòng ông thật ra, ông còn nôn nao hơn cả con ông. Ông cũng đã nhiều lần tự hỏi " Nếu Bà không đến đón thì hai Bố con phải làm sao, trên đất nước xa lạ này. Tiền bạc thì chỉ có mấy chục bạc. Không quen ai ? ". Cô gái mỏi mệt, nhắm đôi mắt buồn hiu. Mái tóc loà xoà, những lọn tóc rối vương hờ hững trên vai người đàn ông. Tiếng nhạc văng vẳng phát ra từ chiếc loa treo trên vách tường. Giọng ca của người nữ ca sĩ da đen. Tiếng ca buồn buồn, như rên. Chắc cô có điều gì buồn lắm .  Ru cô vào giấc ngủ. Bàn tay giữ bó hoa lỏng dần. Cánh tay cô buông thõng xuống. Bó hoa cô nâng niu rơi xuống sàn nhà. Tiếng động rất khẽ. Giật mình, mở đôi mắt đỏ hoe. Người đàn ông cúi lượm bó hoa để lên xe. Xoa nhẹ lên vai cô gái, cho gối đầu lên đùi mình.

_ Ngủ một tí nưã đi. Giọng trầm trầm.

Ðắp nhẹ chiếc áo vét lên người cô gái, dáng cong như con tôm kho. Ngưòi đàn ông cắn chặt môi dưới, nhìn nhưng hình như chẳng thấy gì. Cả hai đều dè xẻn lời nói. Người đàn ông mỏi mệt gục đầu thiu thiu ngủ. Những biến động trong lòng trải ra trên khuôn mặt ông, khi nhăn nhíu như những đau đớn nào đó đang dày vò ông. Khi ông nhếch môi, một nụ cười héo hon. Một hai tiếng nấc nho nhỏ làm cả thân người gầy của cô gái run run theo. Những giọt nước mắt đọng trên khóe, chảy theo khuôn mặt nghiêng nghiêng. Một vài tiếng động nhỏ đánh thức. Ông dõi mắt nhìn về phía cuối hành lang nơi dành cho người đến đón. Người lao công da đen đẩy xe lau xàn nhà, chậm rãi đi vào, cười chào.

_ Good night  Sir.

Người đàn ông chào lại. Cúi đầu nhìn cô gái đang ngủ ngon. Ðưa điếu thuốc lên môi, thong thả mồi và hít từng hơi thật dài. Ðôi mắt đăm chiêu nhìn xa xôi theo làn khói thuốc bay lãng đãng. Lồng ngực ông căng lên, tiếng thở não nề tuôn ra, ông xìu xuống đôi mắt khép lại, những khi buồn ông vẫn hay làm như thế và mơ. Cứ như là trong đám khói thuốc kia ẩn hiện những hình ảnh vẫn theo ông. Một dĩ vãng dài nhằng, đầy dẫy những muộn phiền, những hạnh phúc, những đổ vỡ. Có vẻ bằng lòng điều gì đó, ông nhếch mép cười nửa nụ. Nụ cười ông dành dụm cho con gái ông, và mỗi khi nghĩ về thuở xưa. 

Thuở ấy. Ôi ! đẹp làm sao. Ði đến trường người đi trước kẻ đi sau, người đi trước tuy đi không nhanh nhưng người đi sau vẫn không bước kịp. Khoảng cách cứ như thế. Người đi trước có việc phải dừng lại thì người đi sau đành phải bước luôn. Trong lớp nhìn ngang là thấy nhau nhưng thấy nhau thì như bị điện giật, cho nên chỉ lén nhìn. Cho đến một hôm; Nàng đùa với bạn chạy từ ngoài cửa vào, chàng từ trong lớp chay ra đụng nhau, hoảng hồn nàng ôm chàng, chàng ôm nàng, ôm nhau thật chặt. Khi buông tay ra nàng khóc như cả cha  lẫn mẹ vừa.... chết. Chuông reo vào lớp. Ngọc vẫn thút thít khóc. Thầy giáo hỏi chuyện gì? Nhao nhao một đám.

_ Vũ ôm Tơ Ngọc nên Tơ Ngọc khóc đấy thầy. Thầy Phạt......ôm lại trừ đi thầy.

_ Sao lại ôm người ta?

_ Tai nạn lưu thông.

_ Gớm chỉ giỏi nghịch.

Từ đấy mỗi ngày vào lớp, ông nhận được những cái liếc, những cái háy cháy cả lòng. Gặp nhau ngoài đường chàng cúi đầu tránh. Trong lớp chàng chỉ nhìn thẳng phía trước. Ðang là người học giỏi. Chàng từ từ tuột dốc. Hạng năm. Hạng mười. Rồi gần áp chót. Mấy làn bị đuổi ra khỏi lớp. Bàn bè xầm xì. Nàng cũng thấy mình qúa đáng. Mắt lại tìm mắt.

Loanh quanh những cái kiêu, cái nhỏng nhẽo của nàng mất mấy năm. Yêu nhau. Cưới nhau trước khi ông vào lính. Ngày ông đi tù, vợ ông mang thai. Ngày ông về gặp lại thì con gái ông tám tuổi. Vợ chồng xa nhau đến nay thời gian cũng gần bằng khoảng tuổi thuở mới yêu. Bây giờ bà ra sao nhỉ? Lâu quá không gặp. Nhưng chắc thế nào cũng nhận ra. Làm thế nào mà không nhận ra được. Ông tự nhủ lòng, và có vẻ vui ra. Mím môi ông gật gù cười. Những người ra nước ngoài lâu năm hình như ai cũng mập ra, đẹp hơn. Và chắc vợ ông cũng thế! Bà ngày xưa vốn đã đẹp.

Người đàn bà mới đến dáng vội vã, bước những bước thật dài. Ðôi giầy cao gót  gõ những tiếng dồn vang cả hành lang. Bà nhìn quanh, đôi mắt sáng dưới hai hàng lông mày đen đậm, mũi thanh cao, môi hồng nũng nịu. Trang phục sang, thật đẹp. Và như bà nhận ra bà đưa ngón tay chỉ về phía hai người. Khi đứng trước hai người bà cúi đầu chào và cười. Sự xuất hiện của người đàn bà như có luồng điện vô tình nào đó đã khích thích người đàn ông. Mừng rỡ, mở to đôi mắt ngạc nhiên nhìn người đàn bà mới đến. Ông khẽ lay vai cô gái.

_ Linh thức dậy con. Linh vùng ngồi dậy ngơ ngác nhìn. Và nhìn chăm chăm người đàn bà đang đứng trước mặt, như cố moi tìm trong vùng trí nhớ. Cố gắng lắm, cô nhíu cả mày, cổ khô Linh nuốt nghẹn nghe ừng ực.  Nhưng hình như Linh không nhận ra người đang đứng trước mặt mình là ai. Nên cô chỉ cúi đầu chào. Ðôi ba lần cô liếc mắt nhìn người đàn bà rồi nhìn bó hoa.

Người đàn bà nói tiếp.

_ Xin lỗi đã để hai Bố con chờ lâu quá. Vì cứ phải dời đi dời lại ngày đi đón. Nên ngày ông và cháu đến thì tôi đi công tác xa. Tôi cũng vừa xuống máy bay đấy. Trễ qúa.

 Người đàn bà vòng tay ôm vai cô gái cúi đầu hỏi:     

_ Cháu có mệt lắm không?

Cô gái trả lời nhỏ, lẫn nụ cười héo:

_ Dạ thưa không.

Nhìn bó hoa Linh đang ôm trong lòng. Ðôi mắt bà chớp chớp. Mặc dù bà là người rất cứng rắn.

 Nắm tay Linh.

 _ Mình đi thôi.

Ngưòi đàn ông đẩy xe đi phía sau, bước chậm theo hai người. Bây giờ ông mới ngẩng đầu nhìn ngắm chung quanh. Khi cả ba đứng bên cạnh chiếc xe hơi. Loại xe của những người giầu. Chiếc xe sang trọng, lầm lũi đi vào những con đường nhộn nhịp, tràn ngập áng đèn, người đàn ông im lặng. Người đàn bà bận rộn, hết làm việc này đến làm việc khác. Khi thì gọi điện thoại Chiếc xe kềnh kàng nhưng ngoan ngoãn dưới hai bàn tay trắng, những móng tay trau chuốt, lấp lánh ánh kim cương. Linh ngồi phía sau chồm người ra trước hỏi:

_ Thưa Bác mẹ cháu vẫn khỏe chứ?

Người đàn bà chỉ gật gù, không trả lời. Chăn chú nhìn về phía trước. Con đường như một giòng suối tràn ngập ánh sáng. Người đàn ông nhắm mắt tựa vào kính xe lim dim. Dù sao thì cũng đã có người đón. Xe chậm rãi vào bãi đậu của của một khu phố sầm uất. Người đàn bà mời:

_ Mình vào ăn tối. Về đến nhà thì cũng khuya lắm.

Cả hai bố con im lặng làm theo. Nhìn những món ăn ngon được dọn ra, đói thì cũng đói nhưng chẳng muốn ăn. Lòng dạ nào mà ăn. Hai người như vừa từ trên trời rơi xuống.   Thỉnh thoảng người đàn ông nhìn sang người đàn bà rất nhanh. Bà cũng có vài nét quen. Nhưng mũi của vợ ông thì không đẹp bằng, môi thì cũng không mọng thắm như bà. Giọng nói thì có giống, nhưng trầm hơn. Nhưng vẫn có điều gì là lạ. Người đàn bà thì rất dạn dĩ, khi nhìn thì nhìn thẳng người đối diện, và khi nói cũng vậy.

  _ Ông và cháu ăn ít quá! Vậy để tôi bảo họ gói mang về.

Người đàn ông ái ngại nói:

 _ Chúng tôi làm phiền bà quá.

Bà cười thay cho câu trả lời. Rút trong bóp ra một tấm danh thiếp đưa cho người đàn ông, và một phong thư.

_ Trong ấy có ít tiền để ông và cháu tiêu tạm.

Người đàn ông gật đầu cám ơn. Cúi nhìn tấm danh thiếp. Luật sư. Camly Võ. Bên dưới có thêm mấy hàng chữ nhưng nhỏ qúa ông không mang kính nên không đọc được.

Ông có nhiều điều muốn biết, nhưng ông cũng không hỏi gì. Bà là người có học. Dĩ nhiên bà hiểu trong đầu ông, trong đầu con gái ông nghĩ gì. Bà không nói vì bà không muốn nói. Nếu cần thì bà đã nói rồi. Hai bố con cám ơn những việc bà đã làm. Trên con đường về. Ông biết đây là con đường về. Nó sẽ đưa hai bố con ông về đâu, đến đâu? Nơi đó có những gì đang chờ. Ông cố gắng nén tiếng thở dài cứ muốn tuôn ra.

_ Thưa Bác bao giờ thì Bác gặp mẹ cháu?

_ Tôi cũng không biết. Tôi chưa gặp Mẹ cháu bao giờ!! Văn phòng của tôi nhận việc này, và giao cho tôi.

Xe chạy ngang chạy ngược. Ðến đây thì ông không còn biết phương biết hướng nữa. Thả hồn lêng đêng với tiếng nhạc văng vẳng, thân ông ngả ngiêng theo giòng xe cộ. Xe chạy chậm dần.Lúc chạy lúc dừng Bà hạ kiếng xe, nghiêng đầu nhìn ra ngòai, lẩm nhẩm đọc.

_ O.K. Ðây rồi. Bà nhoẻn miệng cười. Lùi xe, đậu gọn bên lề đường.

Cả ba người loay hoay một hồi mới mở được cửa của căn nhà lưu động nho nhỏ.

 Bà Camly Võ ra về và hẹn sẽ gặp lại. Trong căn phòng nhỏ có mọi thứ cần thiết. Linh ngồi ở mé giường hai tay đan vào nhau, để trên đùi. Người đàn ông hai tay thọc trong túi quần đi tới đi lui.

 _ Linh đi tắm và thay áo quần đi con!

Linh không trả lời cũng không đi.

_ Bây giờ mình phải làm sao hở bố? Người đàn ông trần ngâm một lúc lâu. Quay lại nhìn con, nhưng không nói gì. Óng 

_ Bố. Con muốn giữ bó hoa này mãi Bố ạ.

_ Ừ , để đấy Bố làm lại cho đẹp. Ði tắm nhanh lên, xong vào bố lau tóc cho.

Ông lom khom người mở va ly cho con. Linh ôm trên tay mấy thứ cần dùng. Cô đi vào phòng tắm. Còn lại một mình. Ông ngồi lặng lẽ nhìn bóng mình xoi trên vách, và thèm một điếu thuốc. Có lẽ chưa lúc nào ông thèm thuốc lá như bây giờ. Chống cùi chỏ lên bàn tì trán lên tay, những sợi tóc muối tiêu lòa xòa. Những cơn đau bao tử đang dày vò, ông oằn người chịu đựng, mồ hôi ướt trán. Những câu hỏi đang giẫy dụa trong đầu, ông thở dài. Lưng ông cong, những nỗi buồn chất chồng. Ông gục đầu lên bàn như kẻ kiệt sức. 

_  Bố mệt lắm phải không? Bố ngậm kẹo sâm Bố nhá?

Người đàn ông giật mình nhìn quanh.

_Bố ơi! Bố vào giường nằm đi.

Ông chậm rãi đứng dậy, ngả lưng xuống giường. Linh kéo chăn đắp cho bố. Cô quì bên cạnh thì thầm:

_ Bố ngủ đi.

Ông chớp đôi mắt đỏ mấy lần thay câu trả lời. Nhắm mắt tìm giấc ngủ. Ông mỉm cười khi hai bàn tay mát lạnh của con gái nắm chặt tay ông. Ông cố xua đuổi những ý nghĩ đang dày vò ông. Thấm mệt sau chuyến bay dài, chen lẫn những rối ren trong ngày, ông chìm vào giấc ngủ. Ðêm thâu lặng lẽ, cô gái ngồi nhìn chăm chăm vào khoảng không đen đen trước mặt, lẩm nhẩm đọc bài  kinh đêm. Gió khuya lùa những cành dương liễu rủ phủ trên mái nhà xào xạc, như có ai thì thầm. Tiếng thở nặng nề, không đều, khi nặng khi nhẹ, khi thì như tiếng thở dài.

_ Mẹ ơi ! Mẹ ở đâu?
 

Võ Ðức Tiến.




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Apr/2016 lúc 12:52pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23670
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Apr/2016 lúc 7:02am



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Apr/2016 lúc 7:04am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7169
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 26/Apr/2016 lúc 2:07pm

Ông Hải Quân

 

ong%20hai%20quan%20vuot%20bienChiếc ghe nhỏ cũ và xấu có mái che lụp xụp đang lướt đi tới một khúc sông vắng, trên đường cũng vắng hoe cô quạnh chẳng thấy bóng người qua lại, xung quanh chiếc ghe toàn là cây bần, cây dừa nước và vô số các loài cây hoang dại um tùm làm hẹp và tối cả khúc sông, những loài cây dại mà Thư không biết tên dù Thư đã có thời học đại học khoa học môn thực vật Thư đã đi tới vùng Biên Hoàđể tìm hiểu về nhiều loại cây.
Trên bờ và dưới sông đều hoang vu im ắng như nhau, có lẽ nơi này hiếm khi ai qua lại.
Anh chèo ghe là dân địa phương đã rành rẽ chọn chỗ vắng vẻ nhất để cho chiếc ghe neo lại tạm trú, chiếc ghe nằm lọt trong bụi cây dại âm u.
Anh ta nói nhỏ dặn dò Thư:
- Anh nằm trong ghe đừng ló mặt ra ngoài nghen, đợi chiều tối chúng ta ra ghe lớn.
Thư vừa đùa vừa thật:
- Anh cứ nói to lên, dưới sông trên bờ chỉ có anh và tôi với ruồi muỗi chứ có ai nữa đâu mà phải thì thầm…
Anh chèo ghe cười lỏn lẻn:
- Cẩn thận cho chắc ăn mà anh Hai.
Thế rồi anh chèo ghe ngồi ở cuối ghe còn Thư nằm trong lòng ghe.
Thời gian chờ đợi cho chuyến vượt biên căng thẳng hồi hộp làm sao và thời gian trôi chậm làm sao.!.
Gía mà lúc này Thư có nổi hứng thay đổi ý định muốn trở vềnhà cũng không được nữa, vì Thư chẳng biết đường nào mà về, đường sông đường bộ đều hoang vu như nơi này đã bị cuộc đời lãng quên hoặc vô danh vô thừa nhận trong bản đồ đất nước Việt Nam và nhất là anh chèo ghe rõ ràng đang canh chừng Thư như canh chừng một tên tù binh...
Thư sẽ là hoa tiêu, là nhân vật cần thiết cho chuyến vượt biên này, người ta đã ưu ái cho Thư nên canh chừng Thư là đúng rồi. Tới giờ phút này Thư mà bỏ cuộc thì người ta cũng …dí dao bắt Thư lên ghe lên tàu cho bằng được, vì tổ chức một chuyến vượt biên mất bao công phu, bao sự sắp xếp mới đến ngày ra khơi...
Đánh đổi việc Thư làm hoa tiêu,Thư không phải trả tiền mà còn có thể mang theo một hai người thân nếu muốn, Thư định dắt đứa em gái đi nhưng bố đã ngậm ngùi cản lại:
- Tuy là người ta cho đi không, nhưng chuyện vượt biên bao nhiêu rủi ro, biết được hay thua mà vơ vào, thôi thì cứ lo cho thân con sống chết cũng đành.
Bố nói đúng, mạng Thư là “mạng cùi” thì sẵn sàng thí mạng.
Thư đến thành phố Mỹ Tho được chủ ghe sắp xếp cho ở nhà một người thân của họ, chủ nhà đưa Thư ít tiền tiêu vặt.
Hôm sau Thư ăn mặc nhưdân miệt vườn với bộ đồ cũ và đầu đội chiếc mũ tai bèo “thanh niên xung phong”cũng đã cũ bèo nhèo. Thư ra chợ Vòng Nhỏ ăn tô hủ tiếu Mỹ Tho rồi đi chuyến xe lôi ra bến phà Rạch Miểu, qua bên kia sông Thư như người khách đường xa vào ngồi quán nước để chờ người ra đón.
Người này đưa Thư xuống một chiếc ghe nhỏ chèo tay và đưa Thư đến đây. Bây giờ khoảng 2 giờ trưa, như vậy là Thư sẽ nằm chèo queo trong lòng ghe chật hẹp này thêm mấy tiếng đồng hồ nữa chờ đêm tối đến..
Thư gối tay lên đầu, mái tóc mới cắt ngắn. Chiều hôm trước ngày Thư đi Mỹ Tho chị Thái của Thư đã cắt tóc cho Thư.
Cửa tiệm cắt tóc và uốn tóc của chị Thái mở ra trước cửa nhàế ẩm khách vì chị mới đi học nghề và ra cửa tiệm nên bị hàng xóm chê tay nghề còn non. Sau 1975 chồng đi tù cải tạo chị lo học nghề may, rồi học nghề uốn tóc mà chẳng sống được với nghề nào.
Thư nghĩ nếu đi chuyến vượt biên này thành công thì sẽ giúp đỡgia đình để chị Thái đỡ vất vả hơn. Mẹ mất mấy chị em sống quây quần với nhau cùng với bố.
Chỉ trong một thời gian ngắn vài ba năm mà cuộc đời Thư đã qua bao thay đổi. Thư tốt nghiệp đại học sư phạm Sài Gòn và được bổ nhiệm về dạy học tại trường Phan Thanh Giản Cần Thơ năm 1974, sau 1975 trường đổi tên An Cư.
Năm 1979 Thư bị ép phải “tình nguyện” đi bộ đội. Những buổi họp tại trường người ta luôn hô hào khẩu hiệu: “Sẵn sàng đi bộ đội khi cần thiết”và gọi đích danh một số giáo viên để khuyến khích họ tình nguyện trong đó có Thư.
Các học sinh đoàn viên của trường cũng được phát động chiến dịch tình nguyện đi bộ đội.
Tình hình chiến sự đang gay gắt, quân Trung Quốc gây hấn ởmiền Bắc. Trong miền Nam thì bộ đội sang Campuchia để “giúp đỡ” quân sự cho người dân Campuchia thoát khỏi Khờ Me Đỏ.
Hôm trường An Cư tổ chức liên hoan mừng thày trò của trường tình nguyện đi bộ đội vượt chỉ tiêu, có một nam sinh lớp 11 trong số các em học sinh đoàn viên tình nguyện đi bộ đội đợt này đã hiên ngang ra hát giúp vui văn nghệ với bài “Hãy yên lòng mẹ ơi”. với điệu nhạc câu hát tưng bừng thúc giục như: “ …Ai…như giục lòng ta, mẹ ơi có nghe, núi sông vang dậy…”
Hát xong nó hân hoan cúi chào khán gỉa giữa tiếng vỗ tay cổvũ thì mẹ nó cầm chổi chà đứng chờ sẵn phía sau sân khấu, thằng con vừa vào là bà mẹ túm áo nó lại quật cho nó một trận chổi chà tơi bời:
- Mẹ ơi hãy yên lòng . Nè, nè…nè….
Mỗi tiếng “nè” là bà quật chổi vào người thằng con tới tấp hơn. Bà rít lên::
- Thằng con khờ ơi, ai biểu mày tình nguyện đi bộ đội hả?hả? Mày muốn phơi thây ở Campuchia hả? hả?.Hay mày muốn chết mất xác ở ngoài Bắc vì bọn Trung Quốc hả? hả??.
Thế mà chẳng hiểu bằng cách nào hôm thày trò lên đường đến trại huấn luyện quân sự ở Trà Bay huyệnThốt Nốt thằng nhỏ cũng hớn hở có mặt.
Còn Thư thì lòng dạ não nề.
Chị Thái từ Sài Gòn đến Trà Bay thăm Thư, chị buồn đau thương cho thằng em phải gĩa từ phấn bảng, giã từ lũ học trò. Hai chị em cùng toan tính nếu học xong khóa huấn luyện quân sự ở Trà Bay họ đưa Thư ra miền Bắc thì chưa biết tính sao, nếu sang Campuchia thì Thư sẽ tìm đường vượt biên bằng đường bộ đến Thái Lan., may ra tìm được bến bờ tự do còn hơn là vào sinh ra tử cho một chủ nghĩa mà Thư cũng như những người dân miền Nam Việt Nam đều chán ghét..
Tội nghiệp chị Thái một chuyến đi buồn mà còn gặp nạn, chịmua vé xe đò từ SàiGòn đến Cần Thơ gía chợ đen gấp đôi gấp ba gía chính thức, thằng cò mồi vé dẫn chị lên xe đò và đòi tiền ngay tại chỗ thay vì chị sẽ trảcho anh lơ xe đò khi xe chạy. Thế nên chị phải trả tiền đến 2 lần cho cái vé chợ đen
May mắn cho Thư, sau khoá huấn luyện quân sự ở Trà Bay trường An Cư đã gọi Thư về dạy học lại vì thiếu giáo viên. Thư không biết đâu là sự thật? hay là họ đã thử lòng Thư? Sau đó một thời gian trường đã đề nghị cho Thư làm hiệu trưởng một trường trung học ở Long Tuyền, cách thành phố Cần Thơ khoảng 12 km, không biết vì “thành tích” tình nguyện đi bộ đội của Thư hay vì Thư đã đạt danh hiệu giáo viên giỏi của tỉnh Hậu Giang?…
Thư không muốn nhận chức vụ này vì càng lớn chức càng nhiều ràng buộc và trách nhiệm mà mục đích của Thư là đang tìm đường vượt biên, luôn chờ thời đi vượt biên.
Thư có một bạn cùng chí hướng tên Tuấn tốt nghiệp cùng khóa đại học sư phạm, nhưng Tuấn bỏ dạy học làm nghề tự do cũng vì mục đích vượt biên. Tuấn là dân bản xứ Mỹ Tho đã đứng ra tổ chức chuyến vượt biên như rủ thêm một số bạnđồng hành, mua ghe thuyền cho đến máy móc. Toàn là “cây nhà lá vườn” kể cà tài công và hoa tiêu nên không tốn kém tiền bạc nhiều.
Thư là hoa tiêu dù nghiệp dư nhưng Tuấn tin cậy vào khả năng thông minh nhạy bén của bạn,. Thư học lóm “nghề” hoa tiêu từ một anh bạn là sĩquan hải quân đi tù cải tạo về, anh hải quân còn đưa cho Thư một cuốn sách bằng Anh Ngữ anh mang về sau chuyến sang Mỹ tu nghiệp. Với khả năng tiếng Anh Thư đã học xong ở Hội Việt Mỹ đường Mạc Đỉnh Chi Sài Gòn và nếu cần thì tra thêm tự điển thì đọc và hiểu cuốn sách này rành rọt không mấy khó khăn.
Để chắc ăn thêm Thư đã vào thư viện quốc gia ở đường Nguyễn Du Sài Gòn tìm đọc thêm những sách liên quan đến đi biển.
Thế là Thư tự tin đảm lãnh trách nhiệm làm hoa tiêu cho chuyến vượt biên “nhà nghèo” tự biên tự diễn này..
Từ Cần Thơ mỗi lần nghỉ dạy là Thư về Sài Gòn la cà ra khu chợ trời để tìm kiếm mua la bàn và bản đồ đường biển.
Dân chợ trời khôn khéo lắm, để không bị công an nghi vấn hay chất vấn họ chỉ bày bán những la bàn bộ binh, hướng đạo sinh đi trong rừng. Thưcũng phải khôn khéo và kín đáo hỏi họ về la bàn đi biển. Thế là cả người bán lẫn người mua đều biết tâm ý của nhau tuy không ai nói ra..
Dân chợ trời sau 1975 đủ mọi thành phần thượng vàng hạ cám, người bán đã dắt Thư về nhà đưa ra những la bàn Hải quân và bản đồ đi biển. Anh ta trình độ và sành sõi hỏi Thư đi biển đường nào thì sẽ bán bản đồ vùng ấy, vì biển mênh mông có nhiều hướng đi.rồi
bán cho Thư la bàn, bản đồ tốt đúng như Thư đang tìm kiếm.dĩ nhiên với gía rất đắt
Chuyến vượt biên này vào năm 1981 đã thất bại khi chưa ra tới cửa biển, cả đám vào tù ở huyện Long Đất Vũng Tàu, trong 8 tháng tù giam Thư đã quen thân với một anh tài công trẻ tuổi tên Đực nhà quê và thật thà. Đực là dân lái ghe mướn từthời mới lớn và được một chủ ghe trọng dụng làm tài công lái chuyến ghe đi vượt biên không may thất bại.
Từ trại giam ở Long Đất ra Thư thành kẻ tay trắng, không chỗdạy học, không hộ khẩu. Thư về Sài Gòn sống với gia đình, cha và các chị em cưu mang Thư, những ngày này thật hoang mang vô định và đôi khi tuyệt vọng.
Tuấn được gia đình lo cho ra tù sớm và sau đó lấy vợ, thừa hưởng nhiều tài sản ruộng vườn nhà vợ ở Mỹ Tho và không hào hứng chuyện vượt biên như lúc còn độc thân nữa..
Lúc này qua một bạn giáo viên quen thân dạy ở Cần Thơ Thư được biết thằng học trò tình nguyện cùng đi bộ đội với Thư, cái thằng bị mẹ cầm chổi chà đánh tơi tả sau hậu trường sân khấu hôm nhà trường ăn mừng đoàn quân tình nguyện vượt chỉ tiêu đã bỏ đơn vị, đảo ngũ trốn về nhà. Chắc nó đã thức tỉnh, đã ân hận không nghe theo lời mẹ.
Thằng học trò dĩ nhiên là bị mất hộ khẩu, bị lý lịch xấu chẳng khác gì Thư. Gia đình sẽ xoay sở ra sao cho nó? lấy lại cái hộ khẩu đã khó nói làm gì tẩy xóa được cái vết đen trong bản lý lịch đời nó.
Thày và trò đều lêu bêu như nhau, tương lai đen tối nhưnhau.
Con đường sống duy nhất của Thư là Thư tiếp tục vượt biên.
Biết Thư là hoa tiêu Đực đã giới thiệu cho Thư chuyến đi này với Đực và Đực vẫn là tài công. Hai anh em sẽ cùng một chuyến tàu định mệnh, sống chết có nhau như những ngày tháng trong tù chia sẻ từng miếng cơm khô, từng con cá mặn, từng buồn vui vặt vãnh chuyện đời.
****************
Khoảng 7-8 giờ tối thì tay chèo ghe bò đến chỗ Thư, lại thì thầm:
- Ta đi nghen anh Hai.
Lần này Thư thấy hồi hộp không đùa với anh ta được nữa.
Chiếc ghe lặng lẽ tách bến sông vắng để đến điểm hẹn gặp ghe lớn.
Trên ghe lớn đã có sẵn hơn 40 “hành khách” không biết họ đã đón lên từ nơi nào, từ lúc nào..
Khi Thư vừa bước lên ghe có một bà cất tiếng hỏi ngay với lòng tin tưởng và ngưỡng mộ:
- Ông là sĩ quan hải quân hả?
Thư đành …gật đầu vì chẳng có thì giờ đâu mà giải thích mà kểlể.trong phút giây căng thẳng và quan trọng này, mà nếu nói ra Thư là một thày giáo chắc không riêng chị đàn bà tò mò này mà biết đâu cả ghe đều hốt hoảng kinh sợ vì mạng sống của họ sẽ giao phó cho một người chỉ đứng trên bục giảng chưa hề đi biển lần nào ngoài chuyến vượt biên mới ra biển một chút đã bị tóm vào tù vừa rồi..
Anh Tình chủ ghe đến bên Thư dặn dò và một hai đều gọi Thư là“ông hải quân”. đầy tin cậy y như chị đàn bà kia.
Ghe rời sông ra cửa biển Bình Đại vào lúc 3 giờ sáng, tuy trời còn tối không nhìn thấy màu nước nhưng Thư biết vùng nước lợ chuyển tiếp giữa sông và biển nửa đục nửa trong, càng đi xa bờ nước càng xanh đậm.
Đến khi trời sáng rõ thì nhiều người trên ghe bỗng phát hiện ra có tàu đang đuổi theo, không biết đó là tàu của lính biên phòng hay tàu đánh cá của tư nhân? Nhưng dù tàu nào thì cũng là mối đe dọa nguy hiểm. Anh Tình đến bên Thư lo lắng giục gĩa:
- Ông hải Quân, có tàu đang đuổi theo mình, cho ghe vọt nhanh đi.
Thư nhìn ra sau thấy chiếc tàu lạ càng hiện rõ nên sau một thoáng suy nghĩ bèn quyết định:
- Anh Tình, không kịp đâu. Anh xem trên ghe mình có mang theo bất cứ cây gậy nào thì tận dụng hết chỉa ra sau ghe gỉa làm súng ống hù dọa chúng xem? rồi tới đâu mình tính tới đó.
Tình làm y lời, và còn kêu mấy thanh niên đứng trên khoang ra vẻ thách thức, ra vẻ như phe ta rất“ngầu”, đang có vũ khí và sẵn sàng chiến đấu.
Thế mà chiếc tàu kia rút lui thật, nó không tăng tốc độ đuổi theo nữa và khoảng cách càng lúc càng xa. Đúng là trời thương trời cứu..
Mọi người thở phào nhẹ nhỏm và suy đoán chắc chiếc tàu kia chẳng dám dấn thân vào nguy hiểm để lập công làm gì, mà bắt người vượt biên nhưbắt cóc bỏ dĩa, thua chuyến này thì họ lại đi những chuyến sau, cho tới khi nào không còn khả năng đi nữa thì mới chịu thôi.
Chiếc ghe lại tự tin vượt sóng, như một thủy thủ chuyên nghiệp Thư ghi nhật ký hải hành để theo dõi chuyến đi, Thư tính hướng cho Đực lái tàu đến Mã Lai, địa điểm càng gần thì càng rút ngắn sự hiểm nguy.
Chiếc ghe dài 12 mét, Thư đã vo tròn mớ giấy báo cho người đứngờ đầu ghe ném ra xa xa theo chiều ngang song song với mũi ghe và Thư theo dõi đồng hồ mất 8 giây rưỡi khi đuôi ghe gặp mớ giấy báo vo tròn đang trôi nổi bập bềnh ấy.. Thế là tốc độ ghe đi.12 mét mất 8 giây rưỡi.và Thư có thể tính ra tốc độ mỗi giờ bằng bài toán quy tắc tam xuất đơn giản..
Ban đêm biển mênh mông đen tối thăm thẳm đến rợn người, tầm nhìn bị hạn chế Thư đã ngắm một ánh sao chênh chếch với mũi ghe khoảng 45 độ và nói Đực cứ nhắm cái hướng khỏang 45 độ ấy mà đi với tốc độ chậm hơn ban ngày đểnếu có lạc đường thì cũng không lạc qúa xa rồi sáng mai sẽ chỉnh lại hướng đi chính xác..
Thư cho cột cái giẻ dướiđuôi ghe coi hướng gió, giẻ bay ngược chiều hay xuôi chiều, và mục đích ghe đi ngược hay xuôi chiều gió thì cứ lấy cái giẻ bay đó làm chuẩn..
Những điều này Thư đã đọc trong cuốn sách mang từ Mỹ về của anh hải quân cho, tất cả đều được Thư mang ra tận dụng thật hữu ích.
Sau 2 ngày trên biển thì gặp một tàu Thái Lan, họ chặn lại và từ tàu lớn họ xuống ghe uy hiếp mọi người lấy hết vàng bạc nữ trang nhưng không giết hay đánh đập ai. Có lẽ đây là một thương thuyền thấy ghe nhỏ vượt biên nên nổi lòng tham xông vào kiếm chác thêm. Một ông ra dáng chủ tàu lại biết nói bập bõm tiếng Anh thấy đám vượt biên nhớn nhác sợ hãi và có kẻ khóc lóc van xin đã thương cảm sao đó cho cả đám vượt biên lên tàu lớn ăn cơm với cá no nê xong mới trở lại ghe mình. Coi như mất của để “mua” được một bữa ăn no và ngon lành.
Thư đưa ông ta xem cuốn nhật ký hải hành, ông ta khen Thư đãđi đúng hướng và chúc tiếp tục đi đến Mã Lai thành công.
Sự may mắn này hi hữu hơn cả lúc chiếc ghe chỉa cây chỉa gậy làm súng gỉa và thoát nạn lúc ở cửa biển Bình Đại Mỹ Tho.
Hai ngày sau thì ghe đến bờ biển Mã Lai vào lúc tờ mờ sáng. Mọi người trên ghe la hét reo hò mừng rỡ
Thư ra lệnh cho Đực lái tà tà dọc bờ biển và nói mọi người cứyên tâm thong thả ngắm cảnh biển đẹp, cảnh thanh bình của Mã Lai đợi tới sáng sẽlên bờ để khỏi làm phiền chủ nhà.
Sau mấy ngày đêm mệt nhoài vì ít ngủ trên ghe, giờ phút này Thư bỗng cảm thấy khỏe hẳn lên, sức mạnh tinh thần thật là mãnh liệt. Thư vui thích ngắm những hàng dừa, hàng phi lao trên bãi biễn rồi lại nhìn những đợt sóng biển đang xô lên bờ trong buổi sáng vắng người êm ả.
Cũng là sóng, cũng là biển mà Thư từng thấy như biển Vũng Tàuở Việt Nam sao hôm nay biển Mã Lai lại đẹp đến thế, lạ lùng đến thế !
Cũng là bình minh trên biển sao bình minh nơi đây lại rực rỡvà tươi vui đến thế !.
Thư mừng vui thế nhưng khi nhìn ra biển xa chẳng biết chân trời nào là hướng quê nhà Thư bỗng ngậm ngùi. Thư chỉ muốn rời bỏ chế độ chứ không muốn rời bỏ quê hương Giờ này ở nhà chắc cha Thư, các chị em Thư đang nóng lòng lo lắng cho Thư lắm.
Thư thấy tiếc đã không có đứa em gái đi theo.
Khi trời sáng tỏ thì Đực phóng cho ghe vào sát bờ tối đa, người ta có thể cảm thấy đáy ghe đi lướt trên cát và khựng lại, mọi người rối rít lên bờ, có người sung sướng qùy xuống hôn lên mặt đất, có người quay ra biển khơi vái lậy cám ơn biển đã yên bình đưa đoàn người đến bến bờ tự do.
Thật vậy, có trải qua mấy ngày đêm trên biển khơi bao la, trên chiếc ghe nhỏ đơn sơ mới biết cái chết và sự sống gần kề mong manh thế nào.
Anh Tình đã mang theo một cái đục lớn, khi mọi người lên bờ xong anh đục cho chiếc ghe thủng đáy thủng vách vài chỗ để phòng hờ có những dân bản xứ không muốn người vượt biên đến đất nước họ đã đuổi mọi người xuống ghe ra biển trở lại đi đâu thì đi, như những tin đồn tin kể của những người vượt biên trước. Khi ghe hư hỏng không thể xử dụng được nữa thì họ phải chấp nhận dung chứa người vượt biên ở lại.
Chủ ghe Tình thật chu đáo.
Người ta xúm vào cám ơn tài công và hoa tiêu:
- Cám ơn anh Đực nhé, anh lái ghe suốt 5 ngày đêm trên biển thật khỏe thật tài.
- Anh Đực là tài công chuyên nghiệp có khác, nghe chủ ghe nói anh lái ghe từ hồi mười mấy tuổi phải không?
Bà đầu tiên gặp Thư bước xuống ghe đã hỏi “Ông là sĩ quan hải quân hả” . Bây giờ cũng là bà, lần này thì bà thoải mái hỏi dài dòng ::
- Cám ơn ông hải quân thật nhiều nghe, ông cũng chuyên nghiệp không thua gì anh tài công, chỉ đường ghe đi đúng y boong. Hồi đó ông đi hải quân được mấy năm? rồi ông đi tù cải tạo mấy năm? vợ con gì chưa? Sao không thấy mang theo?...
Một người phải ngắt lời bà:
- Bà hỏi cả chục thứ ông hải quân nghe điếc tai luôn biếtđâu mà trả lời.
Mấy người khác nhao nhao lên:
- Phải rồi, công ông hải quân lớn lắm đó, nếu hoa tiêu dởchỉ lầm đường thì tài công cũng chịu thua thôi, xăng dầu đâu mà đi tiếp? chưa kểsóng gió bão bùng.
- Bà nói lạ chưa? Ông ấy là dân hải quân thì phải rành đường biển chứ.
Anh Tình ra bắt tay tài công Đực xong liền bắt tay Thư với vẻ mặt tươi rói và trân trọng:
- Cám ơn ông hải quân.
Cho tới giờ này chủ ghe cũng không nhớ tên Thư, mà chỉ gọi Thư là “ông hải quân”
Thư thấy lúc này thuận tiện và thoải mái nhất để lên tiếng cải chính, nói lên sự thật:
- Anh Tình và bà con cô bác ơi, tôi không phải là hải quân.
Mọi người không tin:
- Ông hải quân giỡn hoài, tài đi biển rành rành mà.
- Ông hải quân.vui tính qúa trời.
Thư nghiêm trang và rành rọt tựkhai:
- Tôi nói thật tình một lần nữa tôi không phải lính hải quân. Tôi là nhà giáo, dạy học ở trường Phan Thanh Giản tức trường An Cư thành phố Cần Thơ..
- Nhưng trước khi vào nghề giáo chắc ông có đi lính hải quân ?
- Không hề, tôi chưa là lính tráng hải quân ngày nào cả.
Mọi người bật kêu lên:
- Úy trời, thày giáo mà dám chỉ đườngđi biển hả? Thày thiệt liều mạng …
- Trời thần thiên địa ơi, nếu tôi biết ông hoa tiêu là nhà giáo thì không dám đi chuyến vượt biên này rồi.
- Nghĩa là ông thày giáo chưa từngđi biển lần nào hả ??
Thư thành thật kể:
- Tôi chỉ đọc sách của một người bạn hải quân và đọc tài liệu đi biển trong thư viện. Thật ra tôi cũng có làm hoa tiêu một lần trong chuyến vượt biên nhưng ghe vừa khởi hành chưa ra tới biển thì bị bắt rồi.
Một bà giọng Bắc kỳ 54:
- Ối giiời ôi, thế ra chuyến đi vượt biên này mới là “thửnghiệm” đầu tay của ông đấy hả ? Gan ông to như cái đình.
Thư cũng ví von đáp lại bà Bắc kỳ54:
- Vâng, “cũng liều nhắm mắt đưa chân”, chuyến đầu tiên tôi thực sự thử tay nghề hoa tiêu từ A đến Z đấy bác ạ.
Một người khác hào hứng:
- Biết đâu nhờ vía của ông nhà giáo hiền lành mà ghe mình gặp hên 2 lần đó, súng giả mà hù được người ta, rồi bị cướp mà còn được cướp mời lên tàu cho ăn cơm với cá..
- Hèn gì trông tướng tá ông …hơi yếu, không có vẻ con nhà lính là bao, tôi cứ tưởng tại ông đi tù cải tạo về nên ốm o gầy mòn đi chứ.
Anh Tình gạt đi:
- Bà con cô bác ơi, chính tôi cũng không ngờ, nghe Đực giới thiệu hoa tiêu là tôi tin cậy ngay…mà thôi dù là ông thày giáo thì tài hoa tiêu của thày giáo cũng tuyệt vời, đã đưa chúng ta tới bến Mã Lai đúng như dự tính.
- Hoan hô ông hải quân…À quên hoan hô ông thày giáo hoa tiêu
Thư rủ vài người đàn ông khác đi quanh bờ biển để tìm gặp người bản xứ Mã Lai nhờ họ báo tin cho cảnh sát.. Một bà hỏi:
- Thày giáo ơi, gặp cảnh sát làm chi?
- Để khai báo với họ sự hiện diện của chúng ta trên đất nước họ rồi mới được đưa tới trại tị nạn nào đó. Tất cả bà con cứ tập hợp một chỗ đừngđi đâu xa nhé.
Trên tàu họ đã răm rắp tin cậy ông hải quân thì bây giờ trên bờ biển Mã Lai họ cũng tin cậy vào ông thày giáo trẻtuổi .
Đực cũng đi theo Thư, anh chàng nói với Thư:
- Thày giáo à, nếu khai báo gì thày khai cho em ở gần thày nhé, kể cả sau này đi định cư nước nào cho em theo thày luôn.
Mới ngày nào Đực và Thư là đôi bạn trong tù mù mịt tương lai, nay là đôi bạn trên xứ người tự do thoải mái, tương lai rộng mở phía trước. Chỉ một chuyến vượt biên có thể thay đổi cả cuộc đời.
Họ đi dọc theo bờ biển về phía vài người bản xứphía xa…
Biển bên cạnh họ, hiền hoà và thân thiện cùng với chân trời rạng ánh bình minh trên biển khơi lấp lánh tươi vui như đang chào đón họ, những người đi tìm tự do may mắn.



*Ghi thêm: Đây là câu truyện thật không chút hư cấu. Hi vọng những ai đi chung chuyến tàu vượt biên may mắn này đọc được bài này để nhớ lại kỷ niệm.
Nhân vật Thư trong thời gian tị nạn trên đảo Pulau Bidong đã dạy Anh Văn cho người tị nạn, vốn dĩ là nhà giáo tốt nghiệp đại học sư phạm nên thày giáo đã dạy học có phương pháp và hiệu qủa, lớp học luôn đông người. Khi Thư chuyển trại lên thủ đô Kuala Lumpur đợi chuyến bayđi Mỹ, ở đây 2 tháng Thư cũng dạy Anh Văn
Nhiều “học trò” không nhớ tên thày giáo đã thân mật gọi là “ông thày tóc quăn”
Cũng hi vọng những ai tị nạn trên đảo Bidong và Kuala Lumpur năm 1982 sẽ nhớ ra ông thày Anh Văn “tóc quăn” này
Còn anh tài công Đực sau đó đi Uc vì anh “rớt” phỏng vấn vào Mỹ.
Nhân vật “Ông Hải Quân” này là em của tác gỉa.
Thanh chia sẻ câu truyện này và cám ơn các bạn đã đọc.


Nguyễn Thị Thanh Dương

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 158 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.473 seconds.