Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Thơ Văn | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn |
Chủ đề: Luân Hoán với Giai Nhân | |
Người gởi | Nội dung |
tuyenlinh47
Groupie Tham gia ngày: 28/Apr/2013 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 44 |
Chủ đề: Luân Hoán với Giai Nhân Gởi ngày: 05/Oct/2013 lúc 9:33pm |
Luân Hoán với Giai Nhân
tuyền linh Nguyễn Văn Thơ 1.Phần Đời Luân Hoán tên thật là Lê Ngọc Châu, sinh ngày 10 tháng 01 năm 1941 ( năm Canh Thìn ) tại phố cổ Hội An. Cha anh là ông Lê Hoán và mẹ là bà Nguyễn Thị Luân. Bút hiệu Luân Hoán được ghép từ tên cha và tên mẹ của anh. Ngoài ra, anh còn các bút hiệu khác như: Châu Hải Châu- Cự Hải-Trần Gia Nam- Lý Phước Ninh- Lê Bảo Hoàng Quê nội Luân Hoán ở làng Liêm Lạc, Hòa Đa, Hòa Vang Quảng Nam, quê ngoại tại Vĩnh Điện, Điện Bàn Quảng Nam. Trong nhiều năm chiến tranh ( 1945 ) gia đình anh di tản về sống ở vùng Tiên Phước Quảng Nam. Vào năm 1951, gia đình anh lại di chuyển về sống tại Huyện Hòa Vang, và sau cùng về định cư tại Thành phố Đà Nẵng. Đến ngày 02 tháng 02 năm 1985, anh được người em trai bảo lãnh để qua sống tại Montreal Canada. Anh là cựu học sinh Trường Trung Học Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Tính tình Luân Hoán rất trầm lặng, ít nói, phong cách xề xòa, lè phè, rất rõ nét là một nhà thơ từ khi còn ngồi ghế nhà trường. Luân Hoán sống nội tâm nên ít thích nhóm họp, tiệc tùng nơi đám đông. Anh đam mê nhất là Thơ, ngoài ra Luân Hoán cũng thích hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh, nhưng Thi Ca vẫn là con đường chính anh chọn và theo đuổi cho đến bây giờ. Luân Hoán biết làm thơ từ nhỏ, từ lúc lên mười, nhưng là những bài thơ rất ngô nghê của tuổi thiếu niên, như bài Hàm Tiếu v..v… Luân Hoán bắt đầu viết chính thức từ năm 1960, thường có bài trên các báo: Gió Mới-Tuổi Xanh-Thời Nay- Phổ Thông-Bách Khoa-Văn Học-Mai- Ngàn Khơi- Kỷ Nguyên Mới-Văn-Trình Bày (trước 1975 ). Anh cũng có chân trong Ban Biên Tập các Tạp chí Văn học Sài Gòn ( 1964 – 1975 ) Từ khi chuyển về sống ở Canada, thơ anh cũng góp mặt trên nhiều báo tại hải ngoại. Tác phẩm đã xuất bản: Về Trời ( Văn Học-Sai Gòn, 1964 ) Trôi Sông ( Văn Học-Sai Gòn 1966 ) Chết Trong Lòng Người ( Ngưỡng Cửa, 1967 ) Viên Đạn Cho Người Yêu Dấu ( Thơ, 1969- tái bản 1995 ) Hòa Bình Ơi Hãy Đến ( Thơ, 1970, cùng Phạm Thế Mỹ và Lê Vĩnh Thọ ) Nén Hương Cho Bàn Chân Trái ( Thơ, 1970, với các bạn văn ) Thơ Tình ( in cùng Khắc Minh, nxb Thơ, 1970 ) Ca Dao Tình Yêu ( nxb Thơ, 1970, cùng Khắc Minh ) Lục Bát Ca ( cùng Lê Vĩnh Thọ và Vĩnh Điện, nxb Thơ, 1970 ) Rượu Hồng Đã Rót ( nxb Thơ, 1974, tái bản 1995 ). Từ khi qua định cư tại Canada, Luân Hoán cũng đã xuất bản khá nhiều sách, như: Ngơ Ngác Cõi Người, Đưa Nhau Về Đâu, Cám Ơn Đất Đá Trổ Thơ, Lòng Ta Hạt Bụi Vu Vơ Bám Hoài, Mời Em Lên Ngựa, Nuôi Thơm Chùm Kỷ Niệm Xanh, Cỏ Hoa Gối Đầu, Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ, Tác Gỉa Việt Nam ( Tự Điển dưới tên Lê Bảo Hoàng ) Ổ Tình Lận Lưng, Em Từ Lục Bát Bước Ra, Theo Gót Thơ, Thanh Thi….. 2. Thơ và Giai nhân Nói đến thơ của Luân Hoán thì bao la lắm, nói cả ngày cũng không hết, bao la như tình của anh đối với Giai Nhân vậy. Thơ Luân Hoán mang hơi thở rất riêng, không giống nhà thơ nào cả. Chính cái riêng đó làm cho tôi và các bạn cùng trang lứa, cùng Lớp cùng Trường mê mệt và luôn nhớ đến anh, như luôn nhớ đến thời hoa niên của mình – anh đúng nghĩa là một nhà thơ lớn của tuổi học trò. Anh làm thơ như đùa giỡn với thơ, trêu ghẹo ngôn ngữ. Những ngôn từ anh dùng trong thơ thật bình dị, chơn chất, y như đi đứng, ăn uống và tắm rửa hàng ngày. Thơ anh không trau chuốt, gọt giũa nhưng lại đầy sức sống, truyền cho người xem nhiều rung cảm . Chất ngọt ngào trong thơ Luân Hoán không phải vị ngọt của thứ đường đã được tinh luyện, mà là vị ngọt của cây mía lau mía đường nơi ruộng đồng thôn dã. Sự bình dị chân phương mà Luân Hoán có được trong thơ là cả một nghệ thuật, không phải ai cũng có thể viết được như thế. Nhờ tính chất chân phương này nên thơ Luân Hoán mang rất nhiều nhạc tính ( musicalite ). Tôi đã phổ nhạc thơ Luân Hoán rất nhiều, nhưng tiếc là điều kiện tài chánh chưa cho phép nên mới chỉ thu âm được ba bài ( Em và Thơ, Hỏi Thật và Bệnh Rình Hương Sắc ). Hy vọng một ngày gần đây, tôi sẽ trình làng tiếp những nhạc phẩm tôi đã phổ từ thơ Luân Hoán. Với Luân Hoán, thơ chính là hơi thở, luôn hít vào thở ra từng giây…từng phút…từng giờ…và cứ thế nối đuôi nhau không bao giờ dứt được. Bởi thế, thơ luôn theo anh cả lúc ăn, lúc thức giấc, lúc đi đường, lúc đứng đợi xe, lúc làm việc, và ngay cả lúc đang dạy học: tôi đứng lặng vài giây trên bục giảng giáo án thuộc lòng bỗng chốc lãng quên nét phấn lạc dòng chữ run mặt bảng trở lại bàn hồn nghe đã lênh đênh thôi tôi hiểu ra rồi em bé bỏng chẳng có gì mới lạ phải không em trái tim đựng bao nhiêu điều bí mật cũng chỉ là tôi đã chớm yêu em ( Điều Bí Ân Bình Thường ) Như tôi đã nói ở trên, thơ luôn theo anh, và anh luôn theo thơ, cũng như anh luôn theo gái vậy. Nếu suy nghĩ của tôi không quá chủ quan thì trên đời này không có giai nhân, Luân Hoán chẳng bao giờ có được thơ hay (?) Anh yêu mỹ nhân như yêu chính bản thân mình, có nhiều khi còn hơn thế, phải không Luân Hoán ? Vậy thì Luân Hoán biết đến mỹ nhân từ lúc naò ? Chúng ta cùng nghe anh thổ lộ: Khi gặp em độ chừng lên 8 Tôi chớm 10 rất đỗi ngô nghê Em quá đẹp bởi vì em lai Pháp Tôi lên rừng rồi trở xuống nhà quê ………………………………….. Tôi mỏi đớ nắm chân em lưỡng lự Tay vụng về tinh nghịch úp lung tung Em ú ớ nói gì như đang mớ Tôi khi không nghe nhịp máu lạ lùng Từ phút đó nằm thức hoài đến sáng Tưởng tượng ra nhiều chuyện chẳng đầu đuôi Da em ấm tôi hít hà ngột thở Nghe nhiều nơi rất khác lạ trên người ( Hàm Tiếu ) Đọc xong những câu thơ trên của Luân Hoán, tôi biết nhiều đọc giả sẽ thắc mắc và muốn đánh đòn Luân Hoán. Tại sao biết yêu sớm vậy ? Xin thưa, đây không phải là một tình yêu đúng nghĩa giữa đôi trai gái. Đây là một hiện tượng tâm sinh lý ở tuổi vị thành niên. Luân Hoán cũng như bao thiếu niên khác, do trong thời kỳ phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến những thay đổi tâm sinh lý, làm xuất hiện cảm giác, cảm xúc mới lạ đối với người khác phái. Vì Luân Hoán có tài biết làm thơ quá sớm nên Luân Hoán bộc bạch ra được, thế thôi, còn những em thiếu niên khác thì luôn giữ kín trong lòng. Dẫu sao, cũng cám ơn Luân Hoán, anh đã cho mọi người thưởng thức những câu thơ rất ngô nghê, rất thật và không kém phần dễ thương ( da em ấm tôi hít hà ngột thở- tay vụng về tinh nghịch úp lung tung ). Rất dễ thương ! Thơ của Luân Hoán luôn cuốn hút người đọc, thi phong thật đằm thắm, nhẹ nhàng, và rất diễm tình: mười sáu tuổi em tập làm thiếu nữ vai tóc thề áo lụa trắng bay bay quai nón đỏ ngậm hờ vành môi ướt vuông khăn thêu kín đáo xếp trong tay em đến lớp nắng theo đùa trên áo cặp che ngang ngực thơm ngát ngọc lan tay giở vở tưởng chừng như đệm nhạc hồn thanh xuân em lót xuống từng trang ( Điều Bí Ân Bình Thường ) Thơ anh không thể nói là không hay được, Luân Hoán dùng những từ ngữ rất mộc mạc, dung dị, nhưng cách dùng từ ngữ của anh rất uyển chuyển khiến thơ Luân Hoán luôn uốn lượn, bay bổng. Tiếng thơ anh chính là những cung bậc bổng trầm trong âm nhạc : Em từ bụi chuối bước ra Ánh trăng làm nũng chao qua ống quần Niềm vui giấu dưới bàn chân Vỡ theo sợi gió lâng lâng ngậm ngùi ( Trăng Đêm Nở Hoa ) Mỗi lần sắp sửa yêu ai Tự nhiên mặt mũi tóc tai lạ lùng Hình như có triệu vi trùng Ngo ngoe đòi được nhớ nhung với mình ( Triệu Chứng ) Hình như Luân Hoán thật sự đi vào con đường tình ái năm mười sáu tuổi, cái tuổi đầy mộng mơ, thêu hoa dệt gấm. Tuy nhiên, tình yêu thời bấy giờ của chúng tôi không thực tiễn như thời a còng (@) này, hễ yêu nhau là tự nhiên, tự do đủ mọi mặt, thậm chí có thể sống thử với nhau. Ở thế hệ chúng tôi, giữa đôi trai gái yêu nhau, chỉ biết nhìn mặt nhau, trao gởi những tình thư rất kín đáo, người nào bạo dạn lắm thì cũng chỉ biết nắm tay nhau là cùng. Tất cả nỗi lòng của mình đều được giấu kín, chẳng ai biết, ai hay. Cũng vì thế đã có những mối tình đơn phương rất tội nghiệp, chẳng hạn như tôi đây. Tôi thầm yêu trộm nhớ một cô nữ sinh học dưới tôi hai lớp, tôi học Đệ Ngũ, cô ta học Đệ Thất, chúng tôi cùng học tại Trường Trung Học Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Tôi và cô ta cùng cư trú trong Làng Nại Hiên, cùng chung đường về nhà sau khi tan trường, nhưng suốt mấy năm trời tôi không dám hé một lời. Tôi cũng không hiểu tại sao lại như vậy. Để cuối cùng, buồn tình, tôi viết một bài thơ gởi đăng trên báo Bán Nguyệt San Phong Lan và bỏ đi biệt xứ. Tôi còn nhớ, năm đó là cuối năm Đệ Nhị. Mối tình đầu đời của tôi gói gọn trong bài thơ sau: Áo tím em mang tự thuở nào ? Kinh kỳ ngập nắng rộn xôn xao Áo em lã lướt trong gió thoảng Hứng lại giùm ta chút máu trào Ta đến nơi đây nén dặm đường Mập mờ áo tím lướt trong sương Mắt em xanh quá là xanh quá ! Ta biết rồi ta sẽ đoạn trường Dáng liễu đong đưa tắm ánh hồng Mây buông lõa xõa cợt thu phong Trân Châu chừng tưởng là sương nhạt Em nỡ không mang chiếc áo hồng ? Lê gót tìm hoa thỏa ước mong Những tưởng em mang chiếc áo hồng Ngờ đâu em đắp lên màu tím Tím cả lòng ta mấy độ trông Mây xám chiều nay đổ xuống rồi Rớm sầu nguyệt lệ ánh sao rơi Đường về lối nhỏ hoa tim tím Cánh bướm bay qua tủi phận đời ( Aó Tím – Tuyền Linh ) Luân Hoán thì khác tôi, anh ấy bản lĩnh hơn tôi trong việc giao tiếp với phái nữ, chỉ hơn tôi thôi vì tôi quá nhát gái, chứ thật ra theo nhận xét của bạn bè thì Luân Hoán bạo thơ hơn bạo gái. Mối tình đầu đời của Luân Hoán chớm nở vào năm mười sáu tuổi, cũng mặn nồng trong cốt cách khù khờ của tuổi mới lớn : Thuở mới yêu em độ chừng mười bảy Sắc hương thơm đằm thắm nở nụ hoa Ta lụt lịt chỉ thua em một tuổi Sao khù khờ nhút nhát – nghĩ không ra ……………………………………….. Môi với lưỡi chưa một lần dám chạm Nước bọt nhau mặn nhạt ngọt ra sao Vào xi nê chỉ dính chùm mái tóc Và mười ngón tay siết thật khít khao ( Nụ Trăng Đầu Đời ) Hình như đường tình của bất cứ ai trong thế gian này cũng đều như nhau, mối tình đầu chẳng bao giờ bền vững cả, như một quy luật. Luân Hoán cũng không ngoại lệ. Anh đã chia tay mối tình đầu một cách bất ngờ, không rõ nguyên do, để lại trong ký ức bao nỗi nhớ ngu ngơ…dễ thương…khó tả : Yêu chẳng biết làm gì hơn ngoài nhớ Nhớ lạ kỳ, nhớ tưởng phát cuồng điên Mới chia tay vừa đến nhà đã viết Trao gởi cho nhau liên tiếp nỗi niềm Chữ chẳng nói thay lòng hay đều vụng Để bất ngờ chia biệt chẳng nguyên do Vết thương tình của nhau không hiện rõ Vì hình như hai đứa giỏi giả đò Giờ em đã là chim lồng quí phái Ngậm nụ trăng đầu hay nhả từ lâu ? Ta nhờ nuốt đã như là thi sĩ Nụ tình xưa thành nụ thơ nhạt màu ( Nụ Trăng Đầu Đời ) Thơ của Luân Hoán luôn gợi lên một hình ảnh rất đẹp của tuổi học trò, rất học trò. Những cử chỉ vụng dại nhưng ngọt ngào, ngây ngô nhưng sâu lắng. Anh dùng ngôn ngữ rất đẹp, rất trẻ con, rất đời thường nên người đọc dễ nhập tâm, thấm đẫm. Luân Hoán sắp xếp những từ ngữ bình dân này vào thơ một cách rất khoa học, làm cho thơ anh sinh động hẳn lên, khiến người đọc tưởng như đang thực sự sống với cảnh thơ, quên bẵng đi thế giới bên ngoài rẫy đầy gai góc : mang vào lớp bài thơ anh mới tặng khoe bạn bè cho chúng lác mắt chơi í mà chết, anh viết gì trong đó ? chuyện chúng mình? Em hổng chịu đâu anh phải viết chuyện con mèo con chó chuyện con chim con cá gì thôi hay cùng lắm chuyện trời mưa trời nắng chuyện chúng mình, kỳ lắm, thôi thôi… ( Nhõng Nhẽo – Đưa Nhau Về Đâu ) Rất hồn nhiên, trong sáng, chơn chất : mà thôi, chắc không được ba mẹ chẳng chịu đâu anh người dưng nước lã đâu phải…xì, còn lâu ( Tết Mười Sáu ) Rất thật thà, ngây ngô, dễ thương : em có nhớ trong sân trường bữa ấy cô giáo đau, ta được nghỉ giờ đầu rất tình cờ hai đứa chợt gặp nhau em mở cặp vội vàng trao quyển sách sợ bạn thấy ta kẹp vào dưới nách đi một hơi không kịp cám ơn em trốn vào cầu hối hả giở ra xem mảnh giấy nhỏ nét mực nghiêng nghiêng tím ( Trong Sân Trường Bữa Ấy ) Thơ Luân Hoán không mang tính ẩn dụ cao, thỉnh thoảng ta mới bắt gặp, nhưng những tình huống ẩn dụ trong thơ anh rất tinh tế. Thơ anh luôn phơi bày ra tất cả những ngõ ngách của tâm hồn mình, nhờ vậy thơ Luân Hoán dễ đi sâu vào lòng người đọc : tôi đã viết những gì trong lưu bút một đôi dòng tạm biệt vu vơ chiếc ảnh nhỏ tôi dán vào bên góc ghi khiêm nhường ba chữ đơn sơ khi chụp ảnh nào đâu tôi có khóc sao mắt buồn chan chứa bao la suốt niên khóa cùng chung trường chung lớp chung thầy cô, chung chúng bạn thân quen sao hình như vẫn vô cùng xa cách trai gái đôi đường cách trở chia ngăn …………………………………………… em có nhớ những lần đi du ngoạn em vui đùa nhí nhảnh như con chim không hiểu sao bỗng nhiên tôi buồn bã tiếng em cười nghe đau nhói trong tim sau ba tháng biết em còn đến lớp ? mùa hè này ai đi hỏi em không ? tập lưu bút của em tôi mở đó viết làm sao cho hết những chuyện lòng ( Lưu Bút – Đưa Nhau Về Đâu ) Có nhiều người cho rằng Thơ chỉ là Thơ, Thơ không là đời sống thực. Tôi thì không cho như vậy. Tôi không quá mẫn cảm với thơ Luân Hoán, nhưng tôi tâm đắc dòng thơ anh vì thơ anh kết hợp được thế giới hiện thực với thế giới tưởng tượng, cái hay trong thơ Luân Hoán là ở chỗ này. Vì rằng,thế giới hiện thực có giới hạn, trong khi thế giới tưởng tượng là vô hạn. Như các triết gia Tây phương đã nhận định, tưởng tượng làm sống lại những kỷ niệm và tôn giá trị niềm vui sướng mà những kỷ niệm ấy gợi lên. Tưởng tượng sáng tạo như Luân Hoán được đánh giá là rất tích cực, mang đến cho con người phương tiện để thoát khỏi những buồn rầu trong cuộc sống; làm cho con người hạnh phúc hơn trong thực tế, làm phong phú cảm xúc con người. Nghệ sĩ không thể không tưởng tượng trong khi sáng tác, bởi tưởng tượng là tự do vượt lên trên hiện tại, thực tại để trở về đó một cách sâu sắc hơn. Như Sigmund Freud đã nói: “ nghệ thuật cũng chính là một giấc mơ ( giấc mơ ban ngày ) Nghệ thuật là một cách để con người ghi lại những giấc mơ. Giấc mơ nghệ thuật giúp con người được sống nhiều cuộc đời, trải nghiệm nhiều tình huống, thỏa mãn những khát vọng không phải lúc nào cũng thực hiện được “ Vâng, đúng thế. Vậy chúng ta hãy cùng xem thế giới tưởng tượng của Luân Hoán khi ra Huế đi thi Tú Tài gặp các cô sinh viên ra sao : chào em lộng lẫy Luật Khoa cho tôi thay cái cặp da tầm thường kẻo không phí mất mùi hương em đang bỏ lại trên đường em đi xin thề tôi chẳng nói chi nằm ngoan trong ngón xuân thì trổ thơ ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) ………………………………………… chào em đài cát Văn Khoa cho tôi thế cái yên da em ngồi đường dài nhớ đạp thảnh thơi cho tôi uống trọn hương đời thơm tho xin thề không dám làm thơ chỉ thiêm thiếp mộng bên bờ tồn sinh ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) Dù thế giới tưởng tượng là vô hạn, nhưng không kết hợp được với thế giới hiện thực thì cũng chẳng có thơ hay. Chúng ta hãy nghe Luân Hoán ra Huế thi Tú Tài, ngồi đúng vào cái bàn có khắc tên các nữ sinh Đồng Khánh Huế. Anh nói gì đây : ngồi thi nhìn cái mặt bàn Thu, Sương, Bích, Thảo nhẹ nhàng hóa thơ ……………………………………………. không biết chỗ này ngày mấy buổi ai ngồi duỗi thẳng búp chân thơm cánh tay chắc hẳn tròn ghê lắm tựa nhẳn mặt bàn ửng nước thơm ………………………………….. này ả thơ cưng trường Đồng Khánh tay ta cầm bút trả bài thi hồn ta lơ lửng trong hương Huế đạt cả hai tay chẳng có chi ……………………………………... Vâng,” chẳng có chi “, và cậu học trò Lê Ngọc Châu, Trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng đã chẳng có chi, thi hỏng Tú Tài kỳ 1. Có thể nói rằng, Luân Hoán kết hợp thế giới hiện thực và thế giới tưởng tượng một cách rất nhuần nhuyễn, bởi trí tưởng tưởng cũng nằm trong vùng tâm thức cá nhân anh. Nói như John Lennon: “ Hiện thực để lại nhiều điều cho trí tưởng tượng “, Vâng, đúng thế. Ở bất cứ hình ảnh nào trong thơ Luân Hoán, cái nhìn của anh luôn xuyên suốt, vượt qua tất cả sự vật bằng trí tưởng tượng của mình, nhờ thế hình ảnh trong thơ anh luôn mỹ miều dễ cảm : ta đứng tựa trong hành lang lớp học trên lầu cao nhìn xuống mộng bâng khuâng lòng cúi theo từng ngọn tóc phân vân hôn rất nhẹ trên tóc thề đen nhánh môi em đỏ sao hình như quá lạnh răng trắng thơm níu giữ lấy hồn ta lưỡi rót thương tình rót mật đậm đà ta nương náu bên em bằng mộng tưởng bởi quá yêu nên ta giàu tưởng tượng)) ( Trong Sân Trường Bữa Ấy ) Tưởng tượng như thế này thì thú vị biết bao ! ngoắc kêu một bác xe lôi một mình mà tưởng đang ngồi với em quanh co xe chạy đã thèm bác phu nhỏ nhẹ:” thầy quên chỉ đường “ ( Nhật ký chặng đường Đà Nẵng – Sài Gòn ) Hoặc dặn dò vu vơ : nhớ đừng gục xuống mặt bàn gỗ hôn trộm má môi hoàng hậu ra ( Nhật Ký ) Nhờ trí tưởng tượng phong phú nên không gian thơ Luân Hoán rất rộng: ở trường học, ở ngoài phố, ở chợ, ở hồ bơi, ở bãi biển, ở sông ngòi, ở vùng quê, ở miếu đình, và nhất là ở trước cổng nhà của các mỹ nhân; chỗ nào có giai nhân là chỗ đó có thơ anh. Tất cả hình như đều đến rất bất chợt, không hẹn trước. Chính sự bất chợt này đã phát triển năng khiếu bẩm sinh của anh một cách mạnh mẽ, nhanh chóng và đưa thơ anh lên ngôi. Trong thơ Luân Hoán, thỉnh thoảng ta thấy anh muốn hóa thân ra nhiều ảnh hình như: mây, gió, hạt bụi, ánh nắng mặt trời, cái yên da xe đạp, cái cặp da nữ sinh, con tàu bập bềnh trên sóng biển…Nói chung, tất cả những gì có thể tiếp cận được với mỹ nhân là anh hóa thân ra thứ ấy, để ve vãn, để trêu cợt hay nói một cách thực tế hơn là để được thưởng thức mùi hương của người đẹp (?) : gáy ngà đỡ mái tóc cao rõ ràng có hạt bụi thao thức nằm mây cao chốc chốc muốn sa nắng soi từng góc thân hoa thiên thần câu thơ biết phận cù lần rút lui vào trái tim trần nằm mơ ( Thả Thơ Trên Biển ) chào em đài cát Văn Khoa cho tôi thế cái yên da em ngồi chào em lộng lẫy Luật Khoa cho tôi thay cái cặp da tầm thường ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) Luân Hoán hóa thân trong thơ thật đẹp, thật dễ thương, thật diễm tình : em nằm đắp nắng bãi chiều cồn hoa che ngọn thủy triều trắng phau tôi ngồi vốc cát xây lầu hóa thân thả triệu con tàu viễn mơ ngực em đè phải câu thơ còn nằm trong trái tim khờ dại tôi Một đôi lúc, trí tượng của anh vượt quá vùng hiện thực, anh vẫn cho ra đời những câu thơ rất ngộ nghĩnh : nằm nghiêng thừa cánh tay ôm nằm ngửa thiếu cánh tay thơm lạnh đùi nằm sấp bức rức cả người ngồi lên chạm mỹ nhân ngồi chung quanh ( Nhớ ) Như tôi đã nói ở trên, thơ Luân Hoán ít mang tính ẩn dụ, nhưng một đôi khi những bài thơ của anh mang tính ẩn dụ thì lại đầy sức sống : em ngồi trải cánh chân phơi nắng thơm nghiêng một góc trời săm se tôi ngồi đờ đẫn tay che com-chim-thơ-đội-mộng xòe cánh bay gió rình trong nách lá cây hồ đồ rơi trúng mình dây em mềm hoảng hồn, gió vãi hương lên thanh xuân cỏ biếc hai bên tôi nằm mon men tôi ướm tay thăm vô tình vướng phải cái dằm nhớ nhung ( Trên Đồi Cỏ ) Theo nhận định của tôi, thơ Luân Hoán và Giai Nhân luôn hòa quyện với nhau, có Giai Nhân là có thơ Luân Hoán và có thơ Luân Hoán là có hình bóng Giai Nhân. Hay nói một cách chính xác hơn, Giai Nhân chính là mạch nguồn của dòng thơ Luân Hoán. Trong lòng anh không lúc nào là không có hình bóng giai nhân ngự trị, bởi cõi lòng anh mênh mông quá như chính thơ anh tự nó đã lắm mênh mông. Chúng ta hãy đọc những câu thơ dưới đây sẽ hiểu anh hơn : chiều chiều luồn chợ Vườn Hoa trôi theo Đồng Khánh bám tà áo bay mắt hồng liệng cái ngoắt tay dắt qua Độc Lập dựa cây đèn đường chập chùng xuân ảnh vãi hương ngó ai lòng cũng yêu thương tức thì giả vờ châm thuốc nhâm nhi nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh mình ( Đà Nẵng – 1960 ) “ Nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh mình “. Vâng, thèm hơn thèm thuốc lá. Nhưng sự thèm khát của anh không phải là sắc dục, mà anh thèm hứng dòng mạch nguồn chảy ra từ tâm hồn mình. Bởi thế, cảm xúc anh lúc nào cũng tuôn trào để hóa thành thơ. Với anh, một ngày không làm được thơ kể như ngày ấy muốn bịnh. Anh tâm sự : làm thơ là để bình thường cái ta cứ thích đứng đường ngó em làm thơ là để lênh đênh trên giòng rảnh rỗi chợt quên mất mình làm thơ là để làm thinh im nghe ta tự tỏ tình với ta làm thơ là để dần dà trở thành ông thánh hóa ra ông khùng làm thơ là sống ung dung để cho óc khỏi lùng bùng nổi điên làm thơ là có đủ quyền ba hoa tưởng tượng đã ghiền mới thôi với ta, thơ như bầu hơi của hai lá phổi lôi thôi thở hoài ngày nào thơ chẳng lai rai kể như ngày đó coi mòi muốn đau ( Ta Phỏng Vấn Ta ) Đọc thơ Luân Hoán, ta cảm thấy thời gian như chậm lại, như chính cốt cách lè phè ngoài đời của anh. Với anh, thời gian luôn thong thả xuôi dòng, thong dong tự tại : trong đầu nhú chút vẩn vơ trong bụng vài ngọn chữ lơ mơ nằm kể như cái ổ lót xong nằm-ngồi-đi-đứng thong dong đẻ đều Vâng, anh đẻ ra thơ thật đều, thật nhiều. So với tỷ lệ thời gian, anh là một trong những nhà thơ Việt Nam có số lượng sách xuất bản nhiều nhất. Tôi nghĩ, thơ anh được đa số học sinh, sinh viên yêu thích. Riêng tôi, tôi rất tâm đắc dòng thơ trữ tình của anh nếu không muốn nói là đồng cảm. Thơ Luân Hoán không mang tính ước lệ, thơ anh rất gần với đời thường. Luân Hoán không sáng tạo ngôn ngữ nhưng anh sắp xếp ngôn ngữ rất uyển chuyển, mới lạ : em từ bụi chuối bước ra ánh trăng làm nũng chao qua ống quần hay: mỗi lần sắp sửa yêu ai tự nhiên mặt mũi tóc tai lạ lùng hình như có triêu vi trùng ngo ngoe đòi được nhớ nhung với mình Chỉ chừng đó con chữ, rất đời thường, nhưng anh đưa vào những ý tưởng thật mới lạ. Theo tôi, thơ anh luôn sống mãi với thời gian, nó như đã được thẩm định thời tính, nó chính là tiếng thời gian, tuy vô hình nhưng hiện hữu. Thơ của Luân Hoán đi từ cái không đến có, từ quên đến nhớ. Vâng, sau bao thăng trầm trong cuộc sống, vật lộn với cơm áo gao tiền, tha phương cầu thực, khi đọc được thơ anh, cả một Đà Nẵng lai hiện rõ trong tôi với bao hoài niệm. Từng con đường góc phố, từng hàng cây, từng những ngã tư, ngã ba hẹn hò, từng thôn xóm làng mạc, và nhất là hình ảnh những bóng hồng tha thướt một thời, tất cả đều đã được phát họa một cách rõ nét trong thơ anh. Tiện đây, tôi cũng xin phép các giai nhân một thời cùa Thành phố Đà Nẵng để ghi lại những dòng thơ trữ tình rất học trò và đầy tinh nghịch của Luân Hoán, một giọng thơ mà theo tôi nghĩ, các bạn ( xin phép được xưng hô như vậy cho thân mật ) khi đọc đến không khỏi phì cười lẫn bùi ngùi cho anh bạn học trò Lê Ngọc Châu. Phì cười vì nhìn được những cử chỉ rập rình như kẻ trộm của anh trước cổng nhà các bạn, và bùi ngùi khi thấy anh ghẹo gái thật nhiều nhưng rốt cuộc lại trắng tay. Nếu bạn nào chưa đọc, xin mời đọc những dòng này : người tôi yêu, ở Lầu Đèn cây cao lá rậm ánh trăng khó vào trèo rào, tôi lén dán thơ mạch tình dẫn những đường sao đi về người tôi yêu, ở Thanh Khê quanh năm cát đóng quân che hải triều buộc thơ, tôi thả thay diều sáng khoe khoang gió xẩm chiều về không người tôi yêu, ở Cầu Vồng hương luồn hẻm cỏ những vòng thanh xuân nhiều khi gió lạc dấu lưng treo thơ tôi ngóng ở từng ngã ba người tôi yêu, ở Tam Tòa con đường, bụi, tóc đuôi gà bay chung mắt thơ khuyến khích, nhắc chừng mê, xin tự tiện, nhưng…đừng ghé vô người tôi yêu, ở Thanh Bồ tiếng cười đọng góc nhà thờ nuôi mây ngày ngày tôi đợi gió bay thở ra một ngụm thơ đầy mái hiên người tôi yêu, ở Nại Hiên vông đồng đứng chốt hữu biên canh chừng giả đò giày vướng lai quần thò tay tôi lượm thơ từng búp xanh người tôi yêu, ở Thuận Thành mấy đường sắt rỉ cỏ xanh mòn dần bóng tôi cùng nắng lần quần đọng thành vết sẹo trong ngần nhớ nhung người tôi yêu, ở tứ tung Phước Ninh, Thạch Gián, Khuê Trung,Thanh Hà Hải Châu, An Hải, Xuân Hòa vun vun mấy cõi đất tà ma chôn hạt tình bén giữa môi son nở tôi, tôi nở những con thơ tình người tôi yêu, những con tinh ngo ngoe sống thật hiển linh muôn đời người tôi yêu, ở mọi nơi nhưng chưa có được một người yêu tôi ( Cõi Bén Tình Thơ ) Vào thập niên 60 – 70, không hiểu trời phú thế nào mà Đà Nẵng sản sinh ra nhiều mỹ nhân đến thế ! Như tôi đã nói ở trên, nơi nào có giai nhân là nơi đó có thơ Luân Hoán. Lúc bấy giờ, dòng thơ anh tuôn trào như thác đổ. Tôi thấy trên toàn cõi đất nước Việt Nam chúng ta, chưa có một tỉnh thành nào có nhiều giai nhân được thi nhân ưu ái như Thành Phố Đà Nãng cả. Có lẽ đó cũng là một nét đặc thù trong thơ Luân Hoán chăng ? Dựa theo thơ anh, tôi tính tất cả là 23 Nữ Sắc được anh đưa lên ngôi và bắt anh hầu hạ mệt nghỉ. Tiện đây, tôi cũng xin phép có vài lời với các giai nhân Thành Phố Đà Nẵng một thời. Khi viết bài này, tôi đưa mỹ danh của các bạn lên với ý nghĩ trang trọng, và xin các bạn hãy hãnh diện khi thấy mỹ danh mình được ngồi chểm chệ trên dòng thơ Luân Hoán- một dòng thơ mượt mà, trữ tình, sâu lắng. Như anh đã từng nói : trời sinh em, trời sinh thơ nếu không chẳng biết phải thờ em đâu trái tim dù rất là sâu chắc gì em được ở lâu đời đời ( Em và Thơ ) (*) (*) Bài Thơ này đã được phổ nhạc, các bạn muốn nghe hãy vào Google và tìm “ Tình Khúc Nguyễn Văn Thơ “ sẽ gặp. Vâng, đúng vậy, trái tim tuy sâu thật,nhưng trái tim rồi cũng sẽ chết theo người. Chỉ có thơ là sống đời với thời gian, mà thơ sống đời thì mỹ danh của các bạn cũng sống mãi…Xin được chúc mừng ! Vậy thì bây giờ, xin các bạn khe khẽ, theo gót anh chàng học trò Lệ Ngọc Châu để mục kích cái tật rình mò của anh ta như thế nào nhé! Tôi cũng xin thưa với các bạn ở đây, tôi chỉ ghi dấu bước đi của Lê Ngọc Châu qua các ngõ nhà của mỹ nhân để các bạn tiện theo dõi, tôi không tiện diễn giải nhân vật và địa danh nơi cư trú của các giai nhân. Nếu bạn nào muốn biết thật rõ từng chi tiết, xin tìm đọc bài của tác giả Nguyễn Đông Giang, với tựa đề:” Sống Đời Với Thơ “. Bây giờ chúng ta hãy cùng theo bước chân Luân Hoán : rập rình qua ngõ Minh Xuân liếc cho đỡ nhớ dải lưng lụa vàng nhìn nghiêng, nắng gác hành lang nhìn xéo, nắng giữ hai hàng sứ xanh long lanh mắt vượt qua thành vén màn hỏi nhỏ bức tranh treo tường… âm thầm gởi tặng mùi hương lên bàn tay vãi tiếng dương cầm buồn lòng tôi phiêu lãng mười phương bỗng vể ở trọ trên trường túc hoa thấp thỏm qua ngõ Như Thoa vòng cung Độc Lập nối qua Bạch Đằng phóng mắt lên nóc lầu đen lên bao lơn rọi thấy trăng Sơn Chà trầm hương từ cõi thịt da trải xanh ngọn gió ngấm ra sông Hàn bàn tay cầm vợt bóng bàn lỡ cho ai nắm lấm vàng tình thơ tôi ngồi dựa gốc cây mơ hóa thân thương nhớ thành tơ bắc cầu e dè qua ngõ Trân Châu cây vông đồng đứng phía sau nhắc chừng bởi ai lỡ thắt dây lưng lên voi làm sống bà Trưng thuở nào cho tình thức cũng chiêm bao cho tình ngủ cũng nhả thơ nhớ đời hàng rào chẳng phải mồng tơi ném thư không tới, vói lời chẳng qua thôi đành làm đóa sao sa rơi hoài chẳng lọt nóc nhà hoa lan ngập ngừng qua ngõ Lâm An mưa dông hộ tống hai bàn chân thơ tưởng như đang đến nhà thờ thủ lời xưng tội vẩn vơ trong lòng lỡ quên hái bậy nhành bông ngửa tay hứng giọt mưa trong ngỡ là cô em chưa vướng vòng hoa chuỗi kim cương nước khác xa mọi người trông qua cổng, thấy em cười chúa tha tôi tội yêu người sau lưng lò dò qua ngõ Bích Quân giú bàn tay ở túi quần, đăm chiêu loanh quanh trong bóng xẩm chiều nghe chân mày thả lời phiêu bồng chào ngu ngơ dừng bước cổng vào dòm anh khuyển rất bảnh bao cau mày co chân buộc lại dây giày tam sông, tứ núi…chút này ngán chi ngại em…lững thững quay đi bâng khuâng ngoái lại chung qui cũng là mon men qua ngõ Thu Hà dẫu lơi chân đạp cổng nhà cũng qua nắng chiều đang thở trên hoa hình như có bóng thướt tha vói nhìn quay đầu xe lại, khó tin nụ cười thơm ấy vô tình thật sao ? gáy ngà đỡ mái tóc cao rõ ràng có hạt bụi thao thức nằm váy thơ đang độ thong dong chiếc xe đạp bỗng phải lòng quên đi tà tà qua ngõ Quỳnh Chi hai hành lang gió thầm thì quanh năm nắng không vào lọt chỗ nằm hạt thơ đâu dễ bén mầm bên hoa mê người nhớ cái ngã ba Đông Kinh Nghĩa Thục rẽ qua Nguyễn Hoàng ba nhành nhan sắc đoan trang có khi nào thấy anh chàng ngu ngơ chỗ nào véo cũng ra thơ yêu ai chưa biết vu vơ để dành phất phơ qua ngõ Thúy Oanh một gian cư xá long lanh mắt cười ai cho phép một con ruồi yêu người hóa điểm son tươi bên cằm trang Kiều mở dưới gối nằm thơm lừng hương tóc trăng rằm ngủ quên cánh tay tròn mướt tơ mềm làm sao dám gối chỉ thèm vu vơ lỡ mang bệnh nghiện làm thơ ngại chi đôi phút bất ngờ tà tâm bâng khuâng qua ngõ Ái Cầm chợ Cây Me ngó, thì thầm trên vai chàng này coi cũng bảnh trai tiếc rằng thiếu bước chân dài trổ hoa phòng hồng đã chật tiếng ca một nhà thơ ở phương xa đã vào trời thừa bao nhiêu vị sao thừa thêm vị nữa chẳng sao đâu tình vẩn vơ vào cõi u minh Tây cười dưới mộ giật mình làm thinh lờ khờ qua ngõ Diệu Minh trèo tường sân vận động nhìn mây bay nhạc luồn theo những ngón tay xoay lưng ong những vòng quay vật vờ dáng hoa đài cát thanh cao bước dần ra khỏi vạt thơ mê tình lầm bầm tụng một câu kinh một câu kinh trị thất tình vô ngôn ngó quanh trời đất vẫn tròn ngả lưng đánh giấc thả hồn lưu linh lừng khừng qua ngõ Phước Ninh lolita hiện hiển linh cười cười giá bứng được cánh môi tươi lấy thơ lấp lại cho đời khỏi ghen tình yêu là cái mặt bằng xây bao gác gió lầu trăng, vẫn thừa hôn nhau từ sáng đến trưa từ chiều sang tối vẫn chưa thơm lòng đường Phan Than Giản cong cong cái chân đứng lại, cái lòng bâng khuâng buồn buồn qua ngõ mỹ nhân Qúy Phẩm, Thạch Trúc, Ý Vân, Bích Hà Xuân, Đông, Hồng, Phú, Phước, Nga… những môi, những mắt, những da thịt nồng những vồng đất biết trổ bông thuận, không, tôi cũng đã trồng ra thơ dài đời trôi nổi phất phơ sờ trong ngực áo vẫn thao thức tình gởi người thánh nữ siêu hình nụ hôn này để tạ tình thế gian nguyện đem theo xuống suối vàng ( Qua Ngõ Mỹ Nhân ) Từ đầu đến giờ, tất cả những hình ảnh giai nhân mà tôi đã đề cập qua bài viết, xem như là tảng băng nổi trong cuộc đời tình ái của Luân Hoán. Vậy phần băng chìm còn lại ra sao ? Trước khi xem phần băng chìm còn lại, tưởng cũng cần tìm hiểu quan điểm về tình yêu của Luân Hoán. Dựa trên đời sống thực tại, tôi thấy Luân Hoán loại bỏ tất cả mặt tiêu cực và anh phát huy mặt tích cực. Quan điểm của anh thật rõ ràng : đâu có yêu ai để thất tình chỉ toàn thinh thích những em xinh sóng là của biển vô cùng tận chưa tiến thêm lên đã quay mình cứ thế mà giàu những ước mơ nhiều khi còn bạo phổi làm thơ em Y, em X, em J nữa thật giả thành ra khá mơ hồ cho dẫu rằng yêu hay là không thất tình cao lắm cũng vài năm trái tim không hạn bao nhiêu chỗ nhưng dễ dầu chi em mãi nằm thơ thẩn nhiều khi chỉ vẽ trò mười thằng thi sĩ chín ngài cho nhớ thương bành trướng theo con chữ một gã dường như giỏi giả đò em cứ tha hồ hãnh diện đi trăm năm còn mãi nét xuân thì từ trong máu thịt người thi sĩ lắng đọng thơm tình ngọn tuyệt thi thơ mới cũ gì cũng có em dẫu “ tân hình thức “ cũng xêm xêm mắt môi mông ngực linh tinh nữa những thứ tình yêu vốn rất thèm tôi bảo chưa yêu, em có tin ? ghê chưa, tôi quá đỗi hợm mình nhưng thôi, tha thứ em yêu nhé em có tôi và tôi có em ( Yêu và Thất Tình ) Vâng, “ em có tôi và tôi có em. “ Có thể đây là bước ngoặt trong đời sống tình cảm của anh chăng ? Vậy ta thử tìm hiểu ra sao : ta đến trọ nhà em từ thuở em chưa qua hết tuổi mười ba bút mực thơm từng ngọn tóc đuôi gà miệng liếng thoắng vụng về như con sáo hoa cỏ dại mọc đầy trong túi áo gót chân hồng không mệt mỏi nhảy dây trái mù u chuyền thẻ chạy quanh tay em cười hát, ăn quà, vòi vĩnh mẹ chừng nấy việc dắt dìu em nhè nhẹ dạo vòng vòng trong thế giới ngây thơ… ( Chiều Mưa ) Như anh đã nói: “ sóng là của biển vô cùng tận chưa tiến thêm lên đã quay mình Vậy anh quay mình về đâu ? Thực tế đã cho ta thấy, anh quay về ở trọ nhà cô học trò chưa qua hết tuổi mười ba. Mà chẳng ai xa lạ cả, đó chính là người đẹp Lý Phước Ninh mà trước đây anh đã nhiều lần rập rình qua ngõ mỹ nhân. Ở đây, anh đã cho và nhận được nhiều hương tình trong vườn hoa tình ái. Cũng dễ hiểu thôi, bởi tình yêu là sự cuốn hút cả tâm hồn lẫn thể xác, và tình yêu đích thực chỉ có thể có khi đi từ hai phía. Rồi việc gì đến cũng phải đến, tảng băng nổi qua nắng cháy thời gian dần dần tan đi để nhường lại phần chìm nhô lên như một sự khởi đầu thách thức. Có thể nói rằng, suốt khoảng thời gian dài phất phơ qua ngõ mỹ nhân để rập rình, Luân Hoán đã cập bến tình với người đẹp Trần Thị Lý một cách êm ả. Nàng vừa là một người tình, vừa là tri kỷ, vừa là hiền thê mẫu mực đảm đang, lại vừa là nàng thơ của anh : tên em, tên một loài hoa thơm từ chạng vạng đậm đà suốt đêm cánh mỏng mảnh, hương mông mênh dịu dàng tẩm ướp hồn lên đời thường Dạ Lý Hương, Dạ Lý Hương cũng là bông Lý bình thường đơn sơ đứng góc sân, ẩn ven rào xác là thực vật, hồn thơ chập chùng ( Qúy Danh ) Nếu không quá lời thì tôi có thể nói rằng, Luân Hoán là một nhà thơ lớn của tuổi học trò, lãng mạn, đa tình nhưng rất chung thủy. Tới đây, tôi xin phép không diễn giải thơ anh nữa, tôi chỉ trích đưa lên những đoạn thơ mà tôi cho tự nó đã nói lên quá nhiều về một mối tình thuần hậu, trường cửu… em có biết em vẫn còn trẻ mãi bởi vì ta còn mãi mãi yêu em nối tay nhau đan từng sợi võng mềm ta kính cẩn mời em yêu ngã xuống chiều bát ngát mưa ngoài hiên phiêu lãng ( Chiều Mưa ) đóng cây đinh treo ảnh em lên vách nhìn mặt em cười trong ảnh muốn hôn xinh đẹp như ri sao mà lận đận theo ta làm gì hỡi ả mèo con ? ( Đưa Nhau Về Đâu ) năm tháng bình thường không chậm nhanh lúc nào em cũng rất xuân xanh tuy rằng sương tuyết trên nhành tóc chẳng ấm lòng thơm những hiền lành em vẫn là thơ của những thơ ngày xưa ta viết đến bây giờ cho dù bay bướm đôi ba bận tình vẫn về em hóa kiếp thơ ( Cho Lý ngày 61 ) trộn chút tình ta vào bột giặt vò nhẹ nhàng bởi sợ em đau vải còn đượm mùi thịt da em ngát tay bùi ngùi như đang vuốt ve nhau trông thau nước đục lờ những cáu bẩn ta bỗng thương lớp bụi nổi màng màng chúng là những nhọc nhằn em gánh chịu nuôi chồng con dài năm tháng gian nan ( Giặt Áo Quần Cho Vợ ) Thưa quý đọc giả, trong bài viết này, mục đích của tôi chỉ muốn đưa lên những hình ảnh giai nhân, không nhiều thì ít, cũng liên quan đến dòng thơ và đời sống tình cảm của nhà thơ Luân Hoán; chứ nếu phân tích về thơ anh thì còn nhiều điều tích cực phải nói lắm. Bởi, khi đọc qua thơ anh thì ta thấy rất bình thường, nhưng suy nghĩ cho kỹ thì sẽ tìm ra được nhiều điểm lạ. Điểm lạ lẫm nổi cộm nhất trong thơ anh là các con chữ và ý từ. Anh luôn sáng tạo ý tưởng mới để đưa vào các con chữ cũ. Tôi không biết có nên cho đây là sự cách tân hay không, nhưng chắc chắn là rất lạ lẫm. Tới đây, tôi xin mượn câu danh ngôn của M. Gorki để khép lại bài viết này : “ Trên thế gian này, chẳng có vị Thần nào đẹp hơn Thần Mặt Trời, chẳng có ngọn lửa nào kỳ diệu hơn Ngọn Lửa Tình Yêu “ ./. Sài Gòn 18.9.2013 tuyền linh Nguyễn Văn Thơ Email: tuyenlinh_nguyenthi@yahoo.com.vn Luân Hoán với Giai Nhân tuyền linh Nguyễn Văn Thơ 1.Phần Đời Luân Hoán tên thật là Lê Ngọc Châu, sinh ngày 10 tháng 01 năm 1941 ( năm Canh Thìn ) tại phố cổ Hội An. Cha anh là ông Lê Hoán và mẹ là bà Nguyễn Thị Luân. Bút hiệu Luân Hoán được ghép từ tên cha và tên mẹ của anh. Ngoài ra, anh còn các bút hiệu khác như: Châu Hải Châu- Cự Hải-Trần Gia Nam- Lý Phước Ninh- Lê Bảo Hoàng Quê nội Luân Hoán ở làng Liêm Lạc, Hòa Đa, Hòa Vang Quảng Nam, quê ngoại tại Vĩnh Điện, Điện Bàn Quảng Nam. Trong nhiều năm chiến tranh ( 1945 ) gia đình anh di tản về sống ở vùng Tiên Phước Quảng Nam. Vào năm 1951, gia đình anh lại di chuyển về sống tại Huyện Hòa Vang, và sau cùng về định cư tại Thành phố Đà Nẵng. Đến ngày 02 tháng 02 năm 1985, anh được người em trai bảo lãnh để qua sống tại Montreal Canada. Anh là cựu học sinh Trường Trung Học Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Tính tình Luân Hoán rất trầm lặng, ít nói, phong cách xề xòa, lè phè, rất rõ nét là một nhà thơ từ khi còn ngồi ghế nhà trường. Luân Hoán sống nội tâm nên ít thích nhóm họp, tiệc tùng nơi đám đông. Anh đam mê nhất là Thơ, ngoài ra Luân Hoán cũng thích hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh, nhưng Thi Ca vẫn là con đường chính anh chọn và theo đuổi cho đến bây giờ. Luân Hoán biết làm thơ từ nhỏ, từ lúc lên mười, nhưng là những bài thơ rất ngô nghê của tuổi thiếu niên, như bài Hàm Tiếu v..v… Luân Hoán bắt đầu viết chính thức từ năm 1960, thường có bài trên các báo: Gió Mới-Tuổi Xanh-Thời Nay- Phổ Thông-Bách Khoa-Văn Học-Mai- Ngàn Khơi- Kỷ Nguyên Mới-Văn-Trình Bày (trước 1975 ). Anh cũng có chân trong Ban Biên Tập các Tạp chí Văn học Sài Gòn ( 1964 – 1975 ) Từ khi chuyển về sống ở Canada, thơ anh cũng góp mặt trên nhiều báo tại hải ngoại. Tác phẩm đã xuất bản: Về Trời ( Văn Học-Sai Gòn, 1964 ) Trôi Sông ( Văn Học-Sai Gòn 1966 ) Chết Trong Lòng Người ( Ngưỡng Cửa, 1967 ) Viên Đạn Cho Người Yêu Dấu ( Thơ, 1969- tái bản 1995 ) Hòa Bình Ơi Hãy Đến ( Thơ, 1970, cùng Phạm Thế Mỹ và Lê Vĩnh Thọ ) Nén Hương Cho Bàn Chân Trái ( Thơ, 1970, với các bạn văn ) Thơ Tình ( in cùng Khắc Minh, nxb Thơ, 1970 ) Ca Dao Tình Yêu ( nxb Thơ, 1970, cùng Khắc Minh ) Lục Bát Ca ( cùng Lê Vĩnh Thọ và Vĩnh Điện, nxb Thơ, 1970 ) Rượu Hồng Đã Rót ( nxb Thơ, 1974, tái bản 1995 ). Từ khi qua định cư tại Canada, Luân Hoán cũng đã xuất bản khá nhiều sách, như: Ngơ Ngác Cõi Người, Đưa Nhau Về Đâu, Cám Ơn Đất Đá Trổ Thơ, Lòng Ta Hạt Bụi Vu Vơ Bám Hoài, Mời Em Lên Ngựa, Nuôi Thơm Chùm Kỷ Niệm Xanh, Cỏ Hoa Gối Đầu, Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ, Tác Gỉa Việt Nam ( Tự Điển dưới tên Lê Bảo Hoàng ) Ổ Tình Lận Lưng, Em Từ Lục Bát Bước Ra, Theo Gót Thơ, Thanh Thi….. 2. Thơ và Giai nhân Nói đến thơ của Luân Hoán thì bao la lắm, nói cả ngày cũng không hết, bao la như tình của anh đối với Giai Nhân vậy. Thơ Luân Hoán mang hơi thở rất riêng, không giống nhà thơ nào cả. Chính cái riêng đó làm cho tôi và các bạn cùng trang lứa, cùng Lớp cùng Trường mê mệt và luôn nhớ đến anh, như luôn nhớ đến thời hoa niên của mình – anh đúng nghĩa là một nhà thơ lớn của tuổi học trò. Anh làm thơ như đùa giỡn với thơ, trêu ghẹo ngôn ngữ. Những ngôn từ anh dùng trong thơ thật bình dị, chơn chất, y như đi đứng, ăn uống và tắm rửa hàng ngày. Thơ anh không trau chuốt, gọt giũa nhưng lại đầy sức sống, truyền cho người xem nhiều rung cảm . Chất ngọt ngào trong thơ Luân Hoán không phải vị ngọt của thứ đường đã được tinh luyện, mà là vị ngọt của cây mía lau mía đường nơi ruộng đồng thôn dã. Sự bình dị chân phương mà Luân Hoán có được trong thơ là cả một nghệ thuật, không phải ai cũng có thể viết được như thế. Nhờ tính chất chân phương này nên thơ Luân Hoán mang rất nhiều nhạc tính ( musicalite ). Tôi đã phổ nhạc thơ Luân Hoán rất nhiều, nhưng tiếc là điều kiện tài chánh chưa cho phép nên mới chỉ thu âm được ba bài ( Em và Thơ, Hỏi Thật và Bệnh Rình Hương Sắc ). Hy vọng một ngày gần đây, tôi sẽ trình làng tiếp những nhạc phẩm tôi đã phổ từ thơ Luân Hoán. Với Luân Hoán, thơ chính là hơi thở, luôn hít vào thở ra từng giây…từng phút…từng giờ…và cứ thế nối đuôi nhau không bao giờ dứt được. Bởi thế, thơ luôn theo anh cả lúc ăn, lúc thức giấc, lúc đi đường, lúc đứng đợi xe, lúc làm việc, và ngay cả lúc đang dạy học: tôi đứng lặng vài giây trên bục giảng giáo án thuộc lòng bỗng chốc lãng quên nét phấn lạc dòng chữ run mặt bảng trở lại bàn hồn nghe đã lênh đênh thôi tôi hiểu ra rồi em bé bỏng chẳng có gì mới lạ phải không em trái tim đựng bao nhiêu điều bí mật cũng chỉ là tôi đã chớm yêu em ( Điều Bí Ân Bình Thường ) Như tôi đã nói ở trên, thơ luôn theo anh, và anh luôn theo thơ, cũng như anh luôn theo gái vậy. Nếu suy nghĩ của tôi không quá chủ quan thì trên đời này không có giai nhân, Luân Hoán chẳng bao giờ có được thơ hay (?) Anh yêu mỹ nhân như yêu chính bản thân mình, có nhiều khi còn hơn thế, phải không Luân Hoán ? Vậy thì Luân Hoán biết đến mỹ nhân từ lúc naò ? Chúng ta cùng nghe anh thổ lộ: Khi gặp em độ chừng lên 8 Tôi chớm 10 rất đỗi ngô nghê Em quá đẹp bởi vì em lai Pháp Tôi lên rừng rồi trở xuống nhà quê ………………………………….. Tôi mỏi đớ nắm chân em lưỡng lự Tay vụng về tinh nghịch úp lung tung Em ú ớ nói gì như đang mớ Tôi khi không nghe nhịp máu lạ lùng Từ phút đó nằm thức hoài đến sáng Tưởng tượng ra nhiều chuyện chẳng đầu đuôi Da em ấm tôi hít hà ngột thở Nghe nhiều nơi rất khác lạ trên người ( Hàm Tiếu ) Đọc xong những câu thơ trên của Luân Hoán, tôi biết nhiều đọc giả sẽ thắc mắc và muốn đánh đòn Luân Hoán. Tại sao biết yêu sớm vậy ? Xin thưa, đây không phải là một tình yêu đúng nghĩa giữa đôi trai gái. Đây là một hiện tượng tâm sinh lý ở tuổi vị thành niên. Luân Hoán cũng như bao thiếu niên khác, do trong thời kỳ phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến những thay đổi tâm sinh lý, làm xuất hiện cảm giác, cảm xúc mới lạ đối với người khác phái. Vì Luân Hoán có tài biết làm thơ quá sớm nên Luân Hoán bộc bạch ra được, thế thôi, còn những em thiếu niên khác thì luôn giữ kín trong lòng. Dẫu sao, cũng cám ơn Luân Hoán, anh đã cho mọi người thưởng thức những câu thơ rất ngô nghê, rất thật và không kém phần dễ thương ( da em ấm tôi hít hà ngột thở- tay vụng về tinh nghịch úp lung tung ). Rất dễ thương ! Thơ của Luân Hoán luôn cuốn hút người đọc, thi phong thật đằm thắm, nhẹ nhàng, và rất diễm tình: mười sáu tuổi em tập làm thiếu nữ vai tóc thề áo lụa trắng bay bay quai nón đỏ ngậm hờ vành môi ướt vuông khăn thêu kín đáo xếp trong tay em đến lớp nắng theo đùa trên áo cặp che ngang ngực thơm ngát ngọc lan tay giở vở tưởng chừng như đệm nhạc hồn thanh xuân em lót xuống từng trang ( Điều Bí Ân Bình Thường ) Thơ anh không thể nói là không hay được, Luân Hoán dùng những từ ngữ rất mộc mạc, dung dị, nhưng cách dùng từ ngữ của anh rất uyển chuyển khiến thơ Luân Hoán luôn uốn lượn, bay bổng. Tiếng thơ anh chính là những cung bậc bổng trầm trong âm nhạc : Em từ bụi chuối bước ra Ánh trăng làm nũng chao qua ống quần Niềm vui giấu dưới bàn chân Vỡ theo sợi gió lâng lâng ngậm ngùi ( Trăng Đêm Nở Hoa ) Mỗi lần sắp sửa yêu ai Tự nhiên mặt mũi tóc tai lạ lùng Hình như có triệu vi trùng Ngo ngoe đòi được nhớ nhung với mình ( Triệu Chứng ) Hình như Luân Hoán thật sự đi vào con đường tình ái năm mười sáu tuổi, cái tuổi đầy mộng mơ, thêu hoa dệt gấm. Tuy nhiên, tình yêu thời bấy giờ của chúng tôi không thực tiễn như thời a còng (@) này, hễ yêu nhau là tự nhiên, tự do đủ mọi mặt, thậm chí có thể sống thử với nhau. Ở thế hệ chúng tôi, giữa đôi trai gái yêu nhau, chỉ biết nhìn mặt nhau, trao gởi những tình thư rất kín đáo, người nào bạo dạn lắm thì cũng chỉ biết nắm tay nhau là cùng. Tất cả nỗi lòng của mình đều được giấu kín, chẳng ai biết, ai hay. Cũng vì thế đã có những mối tình đơn phương rất tội nghiệp, chẳng hạn như tôi đây. Tôi thầm yêu trộm nhớ một cô nữ sinh học dưới tôi hai lớp, tôi học Đệ Ngũ, cô ta học Đệ Thất, chúng tôi cùng học tại Trường Trung Học Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Tôi và cô ta cùng cư trú trong Làng Nại Hiên, cùng chung đường về nhà sau khi tan trường, nhưng suốt mấy năm trời tôi không dám hé một lời. Tôi cũng không hiểu tại sao lại như vậy. Để cuối cùng, buồn tình, tôi viết một bài thơ gởi đăng trên báo Bán Nguyệt San Phong Lan và bỏ đi biệt xứ. Tôi còn nhớ, năm đó là cuối năm Đệ Nhị. Mối tình đầu đời của tôi gói gọn trong bài thơ sau: Áo tím em mang tự thuở nào ? Kinh kỳ ngập nắng rộn xôn xao Áo em lã lướt trong gió thoảng Hứng lại giùm ta chút máu trào Ta đến nơi đây nén dặm đường Mập mờ áo tím lướt trong sương Mắt em xanh quá là xanh quá ! Ta biết rồi ta sẽ đoạn trường Dáng liễu đong đưa tắm ánh hồng Mây buông lõa xõa cợt thu phong Trân Châu chừng tưởng là sương nhạt Em nỡ không mang chiếc áo hồng ? Lê gót tìm hoa thỏa ước mong Những tưởng em mang chiếc áo hồng Ngờ đâu em đắp lên màu tím Tím cả lòng ta mấy độ trông Mây xám chiều nay đổ xuống rồi Rớm sầu nguyệt lệ ánh sao rơi Đường về lối nhỏ hoa tim tím Cánh bướm bay qua tủi phận đời ( Aó Tím – Tuyền Linh ) Luân Hoán thì khác tôi, anh ấy bản lĩnh hơn tôi trong việc giao tiếp với phái nữ, chỉ hơn tôi thôi vì tôi quá nhát gái, chứ thật ra theo nhận xét của bạn bè thì Luân Hoán bạo thơ hơn bạo gái. Mối tình đầu đời của Luân Hoán chớm nở vào năm mười sáu tuổi, cũng mặn nồng trong cốt cách khù khờ của tuổi mới lớn : Thuở mới yêu em độ chừng mười bảy Sắc hương thơm đằm thắm nở nụ hoa Ta lụt lịt chỉ thua em một tuổi Sao khù khờ nhút nhát – nghĩ không ra ……………………………………….. Môi với lưỡi chưa một lần dám chạm Nước bọt nhau mặn nhạt ngọt ra sao Vào xi nê chỉ dính chùm mái tóc Và mười ngón tay siết thật khít khao ( Nụ Trăng Đầu Đời ) Hình như đường tình của bất cứ ai trong thế gian này cũng đều như nhau, mối tình đầu chẳng bao giờ bền vững cả, như một quy luật. Luân Hoán cũng không ngoại lệ. Anh đã chia tay mối tình đầu một cách bất ngờ, không rõ nguyên do, để lại trong ký ức bao nỗi nhớ ngu ngơ…dễ thương…khó tả : Yêu chẳng biết làm gì hơn ngoài nhớ Nhớ lạ kỳ, nhớ tưởng phát cuồng điên Mới chia tay vừa đến nhà đã viết Trao gởi cho nhau liên tiếp nỗi niềm Chữ chẳng nói thay lòng hay đều vụng Để bất ngờ chia biệt chẳng nguyên do Vết thương tình của nhau không hiện rõ Vì hình như hai đứa giỏi giả đò Giờ em đã là chim lồng quí phái Ngậm nụ trăng đầu hay nhả từ lâu ? Ta nhờ nuốt đã như là thi sĩ Nụ tình xưa thành nụ thơ nhạt màu ( Nụ Trăng Đầu Đời ) Thơ của Luân Hoán luôn gợi lên một hình ảnh rất đẹp của tuổi học trò, rất học trò. Những cử chỉ vụng dại nhưng ngọt ngào, ngây ngô nhưng sâu lắng. Anh dùng ngôn ngữ rất đẹp, rất trẻ con, rất đời thường nên người đọc dễ nhập tâm, thấm đẫm. Luân Hoán sắp xếp những từ ngữ bình dân này vào thơ một cách rất khoa học, làm cho thơ anh sinh động hẳn lên, khiến người đọc tưởng như đang thực sự sống với cảnh thơ, quên bẵng đi thế giới bên ngoài rẫy đầy gai góc : mang vào lớp bài thơ anh mới tặng khoe bạn bè cho chúng lác mắt chơi í mà chết, anh viết gì trong đó ? chuyện chúng mình? Em hổng chịu đâu anh phải viết chuyện con mèo con chó chuyện con chim con cá gì thôi hay cùng lắm chuyện trời mưa trời nắng chuyện chúng mình, kỳ lắm, thôi thôi… ( Nhõng Nhẽo – Đưa Nhau Về Đâu ) Rất hồn nhiên, trong sáng, chơn chất : mà thôi, chắc không được ba mẹ chẳng chịu đâu anh người dưng nước lã đâu phải…xì, còn lâu ( Tết Mười Sáu ) Rất thật thà, ngây ngô, dễ thương : em có nhớ trong sân trường bữa ấy cô giáo đau, ta được nghỉ giờ đầu rất tình cờ hai đứa chợt gặp nhau em mở cặp vội vàng trao quyển sách sợ bạn thấy ta kẹp vào dưới nách đi một hơi không kịp cám ơn em trốn vào cầu hối hả giở ra xem mảnh giấy nhỏ nét mực nghiêng nghiêng tím ( Trong Sân Trường Bữa Ấy ) Thơ Luân Hoán không mang tính ẩn dụ cao, thỉnh thoảng ta mới bắt gặp, nhưng những tình huống ẩn dụ trong thơ anh rất tinh tế. Thơ anh luôn phơi bày ra tất cả những ngõ ngách của tâm hồn mình, nhờ vậy thơ Luân Hoán dễ đi sâu vào lòng người đọc : tôi đã viết những gì trong lưu bút một đôi dòng tạm biệt vu vơ chiếc ảnh nhỏ tôi dán vào bên góc ghi khiêm nhường ba chữ đơn sơ khi chụp ảnh nào đâu tôi có khóc sao mắt buồn chan chứa bao la suốt niên khóa cùng chung trường chung lớp chung thầy cô, chung chúng bạn thân quen sao hình như vẫn vô cùng xa cách trai gái đôi đường cách trở chia ngăn …………………………………………… em có nhớ những lần đi du ngoạn em vui đùa nhí nhảnh như con chim không hiểu sao bỗng nhiên tôi buồn bã tiếng em cười nghe đau nhói trong tim sau ba tháng biết em còn đến lớp ? mùa hè này ai đi hỏi em không ? tập lưu bút của em tôi mở đó viết làm sao cho hết những chuyện lòng ( Lưu Bút – Đưa Nhau Về Đâu ) Có nhiều người cho rằng Thơ chỉ là Thơ, Thơ không là đời sống thực. Tôi thì không cho như vậy. Tôi không quá mẫn cảm với thơ Luân Hoán, nhưng tôi tâm đắc dòng thơ anh vì thơ anh kết hợp được thế giới hiện thực với thế giới tưởng tượng, cái hay trong thơ Luân Hoán là ở chỗ này. Vì rằng,thế giới hiện thực có giới hạn, trong khi thế giới tưởng tượng là vô hạn. Như các triết gia Tây phương đã nhận định, tưởng tượng làm sống lại những kỷ niệm và tôn giá trị niềm vui sướng mà những kỷ niệm ấy gợi lên. Tưởng tượng sáng tạo như Luân Hoán được đánh giá là rất tích cực, mang đến cho con người phương tiện để thoát khỏi những buồn rầu trong cuộc sống; làm cho con người hạnh phúc hơn trong thực tế, làm phong phú cảm xúc con người. Nghệ sĩ không thể không tưởng tượng trong khi sáng tác, bởi tưởng tượng là tự do vượt lên trên hiện tại, thực tại để trở về đó một cách sâu sắc hơn. Như Sigmund Freud đã nói: “ nghệ thuật cũng chính là một giấc mơ ( giấc mơ ban ngày ) Nghệ thuật là một cách để con người ghi lại những giấc mơ. Giấc mơ nghệ thuật giúp con người được sống nhiều cuộc đời, trải nghiệm nhiều tình huống, thỏa mãn những khát vọng không phải lúc nào cũng thực hiện được “ Vâng, đúng thế. Vậy chúng ta hãy cùng xem thế giới tưởng tượng của Luân Hoán khi ra Huế đi thi Tú Tài gặp các cô sinh viên ra sao : chào em lộng lẫy Luật Khoa cho tôi thay cái cặp da tầm thường kẻo không phí mất mùi hương em đang bỏ lại trên đường em đi xin thề tôi chẳng nói chi nằm ngoan trong ngón xuân thì trổ thơ ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) ………………………………………… chào em đài cát Văn Khoa cho tôi thế cái yên da em ngồi đường dài nhớ đạp thảnh thơi cho tôi uống trọn hương đời thơm tho xin thề không dám làm thơ chỉ thiêm thiếp mộng bên bờ tồn sinh ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) Dù thế giới tưởng tượng là vô hạn, nhưng không kết hợp được với thế giới hiện thực thì cũng chẳng có thơ hay. Chúng ta hãy nghe Luân Hoán ra Huế thi Tú Tài, ngồi đúng vào cái bàn có khắc tên các nữ sinh Đồng Khánh Huế. Anh nói gì đây : ngồi thi nhìn cái mặt bàn Thu, Sương, Bích, Thảo nhẹ nhàng hóa thơ ……………………………………………. không biết chỗ này ngày mấy buổi ai ngồi duỗi thẳng búp chân thơm cánh tay chắc hẳn tròn ghê lắm tựa nhẳn mặt bàn ửng nước thơm ………………………………….. này ả thơ cưng trường Đồng Khánh tay ta cầm bút trả bài thi hồn ta lơ lửng trong hương Huế đạt cả hai tay chẳng có chi ……………………………………... Vâng,” chẳng có chi “, và cậu học trò Lê Ngọc Châu, Trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng đã chẳng có chi, thi hỏng Tú Tài kỳ 1. Có thể nói rằng, Luân Hoán kết hợp thế giới hiện thực và thế giới tưởng tượng một cách rất nhuần nhuyễn, bởi trí tưởng tưởng cũng nằm trong vùng tâm thức cá nhân anh. Nói như John Lennon: “ Hiện thực để lại nhiều điều cho trí tưởng tượng “, Vâng, đúng thế. Ở bất cứ hình ảnh nào trong thơ Luân Hoán, cái nhìn của anh luôn xuyên suốt, vượt qua tất cả sự vật bằng trí tưởng tượng của mình, nhờ thế hình ảnh trong thơ anh luôn mỹ miều dễ cảm : ta đứng tựa trong hành lang lớp học trên lầu cao nhìn xuống mộng bâng khuâng lòng cúi theo từng ngọn tóc phân vân hôn rất nhẹ trên tóc thề đen nhánh môi em đỏ sao hình như quá lạnh răng trắng thơm níu giữ lấy hồn ta lưỡi rót thương tình rót mật đậm đà ta nương náu bên em bằng mộng tưởng bởi quá yêu nên ta giàu tưởng tượng)) ( Trong Sân Trường Bữa Ấy ) Tưởng tượng như thế này thì thú vị biết bao ! ngoắc kêu một bác xe lôi một mình mà tưởng đang ngồi với em quanh co xe chạy đã thèm bác phu nhỏ nhẹ:” thầy quên chỉ đường “ ( Nhật ký chặng đường Đà Nẵng – Sài Gòn ) Hoặc dặn dò vu vơ : nhớ đừng gục xuống mặt bàn gỗ hôn trộm má môi hoàng hậu ra ( Nhật Ký ) Nhờ trí tưởng tượng phong phú nên không gian thơ Luân Hoán rất rộng: ở trường học, ở ngoài phố, ở chợ, ở hồ bơi, ở bãi biển, ở sông ngòi, ở vùng quê, ở miếu đình, và nhất là ở trước cổng nhà của các mỹ nhân; chỗ nào có giai nhân là chỗ đó có thơ anh. Tất cả hình như đều đến rất bất chợt, không hẹn trước. Chính sự bất chợt này đã phát triển năng khiếu bẩm sinh của anh một cách mạnh mẽ, nhanh chóng và đưa thơ anh lên ngôi. Trong thơ Luân Hoán, thỉnh thoảng ta thấy anh muốn hóa thân ra nhiều ảnh hình như: mây, gió, hạt bụi, ánh nắng mặt trời, cái yên da xe đạp, cái cặp da nữ sinh, con tàu bập bềnh trên sóng biển…Nói chung, tất cả những gì có thể tiếp cận được với mỹ nhân là anh hóa thân ra thứ ấy, để ve vãn, để trêu cợt hay nói một cách thực tế hơn là để được thưởng thức mùi hương của người đẹp (?) : gáy ngà đỡ mái tóc cao rõ ràng có hạt bụi thao thức nằm mây cao chốc chốc muốn sa nắng soi từng góc thân hoa thiên thần câu thơ biết phận cù lần rút lui vào trái tim trần nằm mơ ( Thả Thơ Trên Biển ) chào em đài cát Văn Khoa cho tôi thế cái yên da em ngồi chào em lộng lẫy Luật Khoa cho tôi thay cái cặp da tầm thường ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) Luân Hoán hóa thân trong thơ thật đẹp, thật dễ thương, thật diễm tình : em nằm đắp nắng bãi chiều cồn hoa che ngọn thủy triều trắng phau tôi ngồi vốc cát xây lầu hóa thân thả triệu con tàu viễn mơ ngực em đè phải câu thơ còn nằm trong trái tim khờ dại tôi Một đôi lúc, trí tượng của anh vượt quá vùng hiện thực, anh vẫn cho ra đời những câu thơ rất ngộ nghĩnh : nằm nghiêng thừa cánh tay ôm nằm ngửa thiếu cánh tay thơm lạnh đùi nằm sấp bức rức cả người ngồi lên chạm mỹ nhân ngồi chung quanh ( Nhớ ) Như tôi đã nói ở trên, thơ Luân Hoán ít mang tính ẩn dụ, nhưng một đôi khi những bài thơ của anh mang tính ẩn dụ thì lại đầy sức sống : em ngồi trải cánh chân phơi nắng thơm nghiêng một góc trời săm se tôi ngồi đờ đẫn tay che com-chim-thơ-đội-mộng xòe cánh bay gió rình trong nách lá cây hồ đồ rơi trúng mình dây em mềm hoảng hồn, gió vãi hương lên thanh xuân cỏ biếc hai bên tôi nằm mon men tôi ướm tay thăm vô tình vướng phải cái dằm nhớ nhung ( Trên Đồi Cỏ ) Theo nhận định của tôi, thơ Luân Hoán và Giai Nhân luôn hòa quyện với nhau, có Giai Nhân là có thơ Luân Hoán và có thơ Luân Hoán là có hình bóng Giai Nhân. Hay nói một cách chính xác hơn, Giai Nhân chính là mạch nguồn của dòng thơ Luân Hoán. Trong lòng anh không lúc nào là không có hình bóng giai nhân ngự trị, bởi cõi lòng anh mênh mông quá như chính thơ anh tự nó đã lắm mênh mông. Chúng ta hãy đọc những câu thơ dưới đây sẽ hiểu anh hơn : chiều chiều luồn chợ Vườn Hoa trôi theo Đồng Khánh bám tà áo bay mắt hồng liệng cái ngoắt tay dắt qua Độc Lập dựa cây đèn đường chập chùng xuân ảnh vãi hương ngó ai lòng cũng yêu thương tức thì giả vờ châm thuốc nhâm nhi nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh mình ( Đà Nẵng – 1960 ) “ Nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh mình “. Vâng, thèm hơn thèm thuốc lá. Nhưng sự thèm khát của anh không phải là sắc dục, mà anh thèm hứng dòng mạch nguồn chảy ra từ tâm hồn mình. Bởi thế, cảm xúc anh lúc nào cũng tuôn trào để hóa thành thơ. Với anh, một ngày không làm được thơ kể như ngày ấy muốn bịnh. Anh tâm sự : làm thơ là để bình thường cái ta cứ thích đứng đường ngó em làm thơ là để lênh đênh trên giòng rảnh rỗi chợt quên mất mình làm thơ là để làm thinh im nghe ta tự tỏ tình với ta làm thơ là để dần dà trở thành ông thánh hóa ra ông khùng làm thơ là sống ung dung để cho óc khỏi lùng bùng nổi điên làm thơ là có đủ quyền ba hoa tưởng tượng đã ghiền mới thôi với ta, thơ như bầu hơi của hai lá phổi lôi thôi thở hoài ngày nào thơ chẳng lai rai kể như ngày đó coi mòi muốn đau ( Ta Phỏng Vấn Ta ) Đọc thơ Luân Hoán, ta cảm thấy thời gian như chậm lại, như chính cốt cách lè phè ngoài đời của anh. Với anh, thời gian luôn thong thả xuôi dòng, thong dong tự tại : trong đầu nhú chút vẩn vơ trong bụng vài ngọn chữ lơ mơ nằm kể như cái ổ lót xong nằm-ngồi-đi-đứng thong dong đẻ đều Vâng, anh đẻ ra thơ thật đều, thật nhiều. So với tỷ lệ thời gian, anh là một trong những nhà thơ Việt Nam có số lượng sách xuất bản nhiều nhất. Tôi nghĩ, thơ anh được đa số học sinh, sinh viên yêu thích. Riêng tôi, tôi rất tâm đắc dòng thơ trữ tình của anh nếu không muốn nói là đồng cảm. Thơ Luân Hoán không mang tính ước lệ, thơ anh rất gần với đời thường. Luân Hoán không sáng tạo ngôn ngữ nhưng anh sắp xếp ngôn ngữ rất uyển chuyển, mới lạ : em từ bụi chuối bước ra ánh trăng làm nũng chao qua ống quần hay: mỗi lần sắp sửa yêu ai tự nhiên mặt mũi tóc tai lạ lùng hình như có triêu vi trùng ngo ngoe đòi được nhớ nhung với mình Chỉ chừng đó con chữ, rất đời thường, nhưng anh đưa vào những ý tưởng thật mới lạ. Theo tôi, thơ anh luôn sống mãi với thời gian, nó như đã được thẩm định thời tính, nó chính là tiếng thời gian, tuy vô hình nhưng hiện hữu. Thơ của Luân Hoán đi từ cái không đến có, từ quên đến nhớ. Vâng, sau bao thăng trầm trong cuộc sống, vật lộn với cơm áo gao tiền, tha phương cầu thực, khi đọc được thơ anh, cả một Đà Nẵng lai hiện rõ trong tôi với bao hoài niệm. Từng con đường góc phố, từng hàng cây, từng những ngã tư, ngã ba hẹn hò, từng thôn xóm làng mạc, và nhất là hình ảnh những bóng hồng tha thướt một thời, tất cả đều đã được phát họa một cách rõ nét trong thơ anh. Tiện đây, tôi cũng xin phép các giai nhân một thời cùa Thành phố Đà Nẵng để ghi lại những dòng thơ trữ tình rất học trò và đầy tinh nghịch của Luân Hoán, một giọng thơ mà theo tôi nghĩ, các bạn ( xin phép được xưng hô như vậy cho thân mật ) khi đọc đến không khỏi phì cười lẫn bùi ngùi cho anh bạn học trò Lê Ngọc Châu. Phì cười vì nhìn được những cử chỉ rập rình như kẻ trộm của anh trước cổng nhà các bạn, và bùi ngùi khi thấy anh ghẹo gái thật nhiều nhưng rốt cuộc lại trắng tay. Nếu bạn nào chưa đọc, xin mời đọc những dòng này : người tôi yêu, ở Lầu Đèn cây cao lá rậm ánh trăng khó vào trèo rào, tôi lén dán thơ mạch tình dẫn những đường sao đi về người tôi yêu, ở Thanh Khê quanh năm cát đóng quân che hải triều buộc thơ, tôi thả thay diều sáng khoe khoang gió xẩm chiều về không người tôi yêu, ở Cầu Vồng hương luồn hẻm cỏ những vòng thanh xuân nhiều khi gió lạc dấu lưng treo thơ tôi ngóng ở từng ngã ba người tôi yêu, ở Tam Tòa con đường, bụi, tóc đuôi gà bay chung mắt thơ khuyến khích, nhắc chừng mê, xin tự tiện, nhưng…đừng ghé vô người tôi yêu, ở Thanh Bồ tiếng cười đọng góc nhà thờ nuôi mây ngày ngày tôi đợi gió bay thở ra một ngụm thơ đầy mái hiên người tôi yêu, ở Nại Hiên vông đồng đứng chốt hữu biên canh chừng giả đò giày vướng lai quần thò tay tôi lượm thơ từng búp xanh người tôi yêu, ở Thuận Thành mấy đường sắt rỉ cỏ xanh mòn dần bóng tôi cùng nắng lần quần đọng thành vết sẹo trong ngần nhớ nhung người tôi yêu, ở tứ tung Phước Ninh, Thạch Gián, Khuê Trung,Thanh Hà Hải Châu, An Hải, Xuân Hòa vun vun mấy cõi đất tà ma chôn hạt tình bén giữa môi son nở tôi, tôi nở những con thơ tình người tôi yêu, những con tinh ngo ngoe sống thật hiển linh muôn đời người tôi yêu, ở mọi nơi nhưng chưa có được một người yêu tôi ( Cõi Bén Tình Thơ ) Vào thập niên 60 – 70, không hiểu trời phú thế nào mà Đà Nẵng sản sinh ra nhiều mỹ nhân đến thế ! Như tôi đã nói ở trên, nơi nào có giai nhân là nơi đó có thơ Luân Hoán. Lúc bấy giờ, dòng thơ anh tuôn trào như thác đổ. Tôi thấy trên toàn cõi đất nước Việt Nam chúng ta, chưa có một tỉnh thành nào có nhiều giai nhân được thi nhân ưu ái như Thành Phố Đà Nãng cả. Có lẽ đó cũng là một nét đặc thù trong thơ Luân Hoán chăng ? Dựa theo thơ anh, tôi tính tất cả là 23 Nữ Sắc được anh đưa lên ngôi và bắt anh hầu hạ mệt nghỉ. Tiện đây, tôi cũng xin phép có vài lời với các giai nhân Thành Phố Đà Nẵng một thời. Khi viết bài này, tôi đưa mỹ danh của các bạn lên với ý nghĩ trang trọng, và xin các bạn hãy hãnh diện khi thấy mỹ danh mình được ngồi chểm chệ trên dòng thơ Luân Hoán- một dòng thơ mượt mà, trữ tình, sâu lắng. Như anh đã từng nói : trời sinh em, trời sinh thơ nếu không chẳng biết phải thờ em đâu trái tim dù rất là sâu chắc gì em được ở lâu đời đời ( Em và Thơ ) (*) (*) Bài Thơ này đã được phổ nhạc, các bạn muốn nghe hãy vào Google và tìm “ Tình Khúc Nguyễn Văn Thơ “ sẽ gặp. Vâng, đúng vậy, trái tim tuy sâu thật,nhưng trái tim rồi cũng sẽ chết theo người. Chỉ có thơ là sống đời với thời gian, mà thơ sống đời thì mỹ danh của các bạn cũng sống mãi…Xin được chúc mừng ! Vậy thì bây giờ, xin các bạn khe khẽ, theo gót anh chàng học trò Lệ Ngọc Châu để mục kích cái tật rình mò của anh ta như thế nào nhé! Tôi cũng xin thưa với các bạn ở đây, tôi chỉ ghi dấu bước đi của Lê Ngọc Châu qua các ngõ nhà của mỹ nhân để các bạn tiện theo dõi, tôi không tiện diễn giải nhân vật và địa danh nơi cư trú của các giai nhân. Nếu bạn nào muốn biết thật rõ từng chi tiết, xin tìm đọc bài của tác giả Nguyễn Đông Giang, với tựa đề:” Sống Đời Với Thơ “. Bây giờ chúng ta hãy cùng theo bước chân Luân Hoán : rập rình qua ngõ Minh Xuân liếc cho đỡ nhớ dải lưng lụa vàng nhìn nghiêng, nắng gác hành lang nhìn xéo, nắng giữ hai hàng sứ xanh long lanh mắt vượt qua thành vén màn hỏi nhỏ bức tranh treo tường… âm thầm gởi tặng mùi hương lên bàn tay vãi tiếng dương cầm buồn lòng tôi phiêu lãng mười phương bỗng vể ở trọ trên trường túc hoa thấp thỏm qua ngõ Như Thoa vòng cung Độc Lập nối qua Bạch Đằng phóng mắt lên nóc lầu đen lên bao lơn rọi thấy trăng Sơn Chà trầm hương từ cõi thịt da trải xanh ngọn gió ngấm ra sông Hàn bàn tay cầm vợt bóng bàn lỡ cho ai nắm lấm vàng tình thơ tôi ngồi dựa gốc cây mơ hóa thân thương nhớ thành tơ bắc cầu e dè qua ngõ Trân Châu cây vông đồng đứng phía sau nhắc chừng bởi ai lỡ thắt dây lưng lên voi làm sống bà Trưng thuở nào cho tình thức cũng chiêm bao cho tình ngủ cũng nhả thơ nhớ đời hàng rào chẳng phải mồng tơi ném thư không tới, vói lời chẳng qua thôi đành làm đóa sao sa rơi hoài chẳng lọt nóc nhà hoa lan ngập ngừng qua ngõ Lâm An mưa dông hộ tống hai bàn chân thơ tưởng như đang đến nhà thờ thủ lời xưng tội vẩn vơ trong lòng lỡ quên hái bậy nhành bông ngửa tay hứng giọt mưa trong ngỡ là cô em chưa vướng vòng hoa chuỗi kim cương nước khác xa mọi người trông qua cổng, thấy em cười chúa tha tôi tội yêu người sau lưng lò dò qua ngõ Bích Quân giú bàn tay ở túi quần, đăm chiêu loanh quanh trong bóng xẩm chiều nghe chân mày thả lời phiêu bồng chào ngu ngơ dừng bước cổng vào dòm anh khuyển rất bảnh bao cau mày co chân buộc lại dây giày tam sông, tứ núi…chút này ngán chi ngại em…lững thững quay đi bâng khuâng ngoái lại chung qui cũng là mon men qua ngõ Thu Hà dẫu lơi chân đạp cổng nhà cũng qua nắng chiều đang thở trên hoa hình như có bóng thướt tha vói nhìn quay đầu xe lại, khó tin nụ cười thơm ấy vô tình thật sao ? gáy ngà đỡ mái tóc cao rõ ràng có hạt bụi thao thức nằm váy thơ đang độ thong dong chiếc xe đạp bỗng phải lòng quên đi tà tà qua ngõ Quỳnh Chi hai hành lang gió thầm thì quanh năm nắng không vào lọt chỗ nằm hạt thơ đâu dễ bén mầm bên hoa mê người nhớ cái ngã ba Đông Kinh Nghĩa Thục rẽ qua Nguyễn Hoàng ba nhành nhan sắc đoan trang có khi nào thấy anh chàng ngu ngơ chỗ nào véo cũng ra thơ yêu ai chưa biết vu vơ để dành phất phơ qua ngõ Thúy Oanh một gian cư xá long lanh mắt cười ai cho phép một con ruồi yêu người hóa điểm son tươi bên cằm trang Kiều mở dưới gối nằm thơm lừng hương tóc trăng rằm ngủ quên cánh tay tròn mướt tơ mềm làm sao dám gối chỉ thèm vu vơ lỡ mang bệnh nghiện làm thơ ngại chi đôi phút bất ngờ tà tâm bâng khuâng qua ngõ Ái Cầm chợ Cây Me ngó, thì thầm trên vai chàng này coi cũng bảnh trai tiếc rằng thiếu bước chân dài trổ hoa phòng hồng đã chật tiếng ca một nhà thơ ở phương xa đã vào trời thừa bao nhiêu vị sao thừa thêm vị nữa chẳng sao đâu tình vẩn vơ vào cõi u minh Tây cười dưới mộ giật mình làm thinh lờ khờ qua ngõ Diệu Minh trèo tường sân vận động nhìn mây bay nhạc luồn theo những ngón tay xoay lưng ong những vòng quay vật vờ dáng hoa đài cát thanh cao bước dần ra khỏi vạt thơ mê tình lầm bầm tụng một câu kinh một câu kinh trị thất tình vô ngôn ngó quanh trời đất vẫn tròn ngả lưng đánh giấc thả hồn lưu linh lừng khừng qua ngõ Phước Ninh lolita hiện hiển linh cười cười giá bứng được cánh môi tươi lấy thơ lấp lại cho đời khỏi ghen tình yêu là cái mặt bằng xây bao gác gió lầu trăng, vẫn thừa hôn nhau từ sáng đến trưa từ chiều sang tối vẫn chưa thơm lòng đường Phan Than Giản cong cong cái chân đứng lại, cái lòng bâng khuâng buồn buồn qua ngõ mỹ nhân Qúy Phẩm, Thạch Trúc, Ý Vân, Bích Hà Xuân, Đông, Hồng, Phú, Phước, Nga… những môi, những mắt, những da thịt nồng những vồng đất biết trổ bông thuận, không, tôi cũng đã trồng ra thơ dài đời trôi nổi phất phơ sờ trong ngực áo vẫn thao thức tình gởi người thánh nữ siêu hình nụ hôn này để tạ tình thế gian nguyện đem theo xuống suối vàng ( Qua Ngõ Mỹ Nhân ) Từ đầu đến giờ, tất cả những hình ảnh giai nhân mà tôi đã đề cập qua bài viết, xem như là tảng băng nổi trong cuộc đời tình ái của Luân Hoán. Vậy phần băng chìm còn lại ra sao ? Trước khi xem phần băng chìm còn lại, tưởng cũng cần tìm hiểu quan điểm về tình yêu của Luân Hoán. Dựa trên đời sống thực tại, tôi thấy Luân Hoán loại bỏ tất cả mặt tiêu cực và anh phát huy mặt tích cực. Quan điểm của anh thật rõ ràng : đâu có yêu ai để thất tình chỉ toàn thinh thích những em xinh sóng là của biển vô cùng tận chưa tiến thêm lên đã quay mình cứ thế mà giàu những ước mơ nhiều khi còn bạo phổi làm thơ em Y, em X, em J nữa thật giả thành ra khá mơ hồ cho dẫu rằng yêu hay là không thất tình cao lắm cũng vài năm trái tim không hạn bao nhiêu chỗ nhưng dễ dầu chi em mãi nằm thơ thẩn nhiều khi chỉ vẽ trò mười thằng thi sĩ chín ngài cho nhớ thương bành trướng theo con chữ một gã dường như giỏi giả đò em cứ tha hồ hãnh diện đi trăm năm còn mãi nét xuân thì từ trong máu thịt người thi sĩ lắng đọng thơm tình ngọn tuyệt thi thơ mới cũ gì cũng có em dẫu “ tân hình thức “ cũng xêm xêm mắt môi mông ngực linh tinh nữa những thứ tình yêu vốn rất thèm tôi bảo chưa yêu, em có tin ? ghê chưa, tôi quá đỗi hợm mình nhưng thôi, tha thứ em yêu nhé em có tôi và tôi có em ( Yêu và Thất Tình ) Vâng, “ em có tôi và tôi có em. “ Có thể đây là bước ngoặt trong đời sống tình cảm của anh chăng ? Vậy ta thử tìm hiểu ra sao : ta đến trọ nhà em từ thuở em chưa qua hết tuổi mười ba bút mực thơm từng ngọn tóc đuôi gà miệng liếng thoắng vụng về như con sáo hoa cỏ dại mọc đầy trong túi áo gót chân hồng không mệt mỏi nhảy dây trái mù u chuyền thẻ chạy quanh tay em cười hát, ăn quà, vòi vĩnh mẹ chừng nấy việc dắt dìu em nhè nhẹ dạo vòng vòng trong thế giới ngây thơ… ( Chiều Mưa ) Như anh đã nói: “ sóng là của biển vô cùng tận chưa tiến thêm lên đã quay mình Vậy anh quay mình về đâu ? Thực tế đã cho ta thấy, anh quay về ở trọ nhà cô học trò chưa qua hết tuổi mười ba. Mà chẳng ai xa lạ cả, đó chính là người đẹp Lý Phước Ninh mà trước đây anh đã nhiều lần rập rình qua ngõ mỹ nhân. Ở đây, anh đã cho và nhận được nhiều hương tình trong vườn hoa tình ái. Cũng dễ hiểu thôi, bởi tình yêu là sự cuốn hút cả tâm hồn lẫn thể xác, và tình yêu đích thực chỉ có thể có khi đi từ hai phía. Rồi việc gì đến cũng phải đến, tảng băng nổi qua nắng cháy thời gian dần dần tan đi để nhường lại phần chìm nhô lên như một sự khởi đầu thách thức. Có thể nói rằng, suốt khoảng thời gian dài phất phơ qua ngõ mỹ nhân để rập rình, Luân Hoán đã cập bến tình với người đẹp Trần Thị Lý một cách êm ả. Nàng vừa là một người tình, vừa là tri kỷ, vừa là hiền thê mẫu mực đảm đang, lại vừa là nàng thơ của anh : tên em, tên một loài hoa thơm từ chạng vạng đậm đà suốt đêm cánh mỏng mảnh, hương mông mênh dịu dàng tẩm ướp hồn lên đời thường Dạ Lý Hương, Dạ Lý Hương cũng là bông Lý bình thường đơn sơ đứng góc sân, ẩn ven rào xác là thực vật, hồn thơ chập chùng ( Qúy Danh ) Nếu không quá lời thì tôi có thể nói rằng, Luân Hoán là một nhà thơ lớn của tuổi học trò, lãng mạn, đa tình nhưng rất chung thủy. Tới đây, tôi xin phép không diễn giải thơ anh nữa, tôi chỉ trích đưa lên những đoạn thơ mà tôi cho tự nó đã nói lên quá nhiều về một mối tình thuần hậu, trường cửu… em có biết em vẫn còn trẻ mãi bởi vì ta còn mãi mãi yêu em nối tay nhau đan từng sợi võng mềm ta kính cẩn mời em yêu ngã xuống chiều bát ngát mưa ngoài hiên phiêu lãng ( Chiều Mưa ) đóng cây đinh treo ảnh em lên vách nhìn mặt em cười trong ảnh muốn hôn xinh đẹp như ri sao mà lận đận theo ta làm gì hỡi ả mèo con ? ( Đưa Nhau Về Đâu ) năm tháng bình thường không chậm nhanh lúc nào em cũng rất xuân xanh tuy rằng sương tuyết trên nhành tóc chẳng ấm lòng thơm những hiền lành em vẫn là thơ của những thơ ngày xưa ta viết đến bây giờ cho dù bay bướm đôi ba bận tình vẫn về em hóa kiếp thơ ( Cho Lý ngày 61 ) trộn chút tình ta vào bột giặt vò nhẹ nhàng bởi sợ em đau vải còn đượm mùi thịt da em ngát tay bùi ngùi như đang vuốt ve nhau trông thau nước đục lờ những cáu bẩn ta bỗng thương lớp bụi nổi màng màng chúng là những nhọc nhằn em gánh chịu nuôi chồng con dài năm tháng gian nan ( Giặt Áo Quần Cho Vợ ) Thưa quý đọc giả, trong bài viết này, mục đích của tôi chỉ muốn đưa lên những hình ảnh giai nhân, không nhiều thì ít, cũng liên quan đến dòng thơ và đời sống tình cảm của nhà thơ Luân Hoán; chứ nếu phân tích về thơ anh thì còn nhiều điều tích cực phải nói lắm. Bởi, khi đọc qua thơ anh thì ta thấy rất bình thường, nhưng suy nghĩ cho kỹ thì sẽ tìm ra được nhiều điểm lạ. Điểm lạ lẫm nổi cộm nhất trong thơ anh là các con chữ và ý từ. Anh luôn sáng tạo ý tưởng mới để đưa vào các con chữ cũ. Tôi không biết có nên cho đây là sự cách tân hay không, nhưng chắc chắn là rất lạ lẫm. Tới đây, tôi xin mượn câu danh ngôn của M. Gorki để khép lại bài viết này : “ Trên thế gian này, chẳng có vị Thần nào đẹp hơn Thần Mặt Trời, chẳng có ngọn lửa nào kỳ diệu hơn Ngọn Lửa Tình Yêu “ ./. Sài Gòn 18.9.2013 tuyền linh Nguyễn Văn Thơ Email: tuyenlinh_nguyenthi@yahoo.com.vn Luân Hoán với Giai Nhân tuyền linh Nguyễn Văn Thơ 1.Phần Đời Luân Hoán tên thật là Lê Ngọc Châu, sinh ngày 10 tháng 01 năm 1941 ( năm Canh Thìn ) tại phố cổ Hội An. Cha anh là ông Lê Hoán và mẹ là bà Nguyễn Thị Luân. Bút hiệu Luân Hoán được ghép từ tên cha và tên mẹ của anh. Ngoài ra, anh còn các bút hiệu khác như: Châu Hải Châu- Cự Hải-Trần Gia Nam- Lý Phước Ninh- Lê Bảo Hoàng Quê nội Luân Hoán ở làng Liêm Lạc, Hòa Đa, Hòa Vang Quảng Nam, quê ngoại tại Vĩnh Điện, Điện Bàn Quảng Nam. Trong nhiều năm chiến tranh ( 1945 ) gia đình anh di tản về sống ở vùng Tiên Phước Quảng Nam. Vào năm 1951, gia đình anh lại di chuyển về sống tại Huyện Hòa Vang, và sau cùng về định cư tại Thành phố Đà Nẵng. Đến ngày 02 tháng 02 năm 1985, anh được người em trai bảo lãnh để qua sống tại Montreal Canada. Anh là cựu học sinh Trường Trung Học Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Tính tình Luân Hoán rất trầm lặng, ít nói, phong cách xề xòa, lè phè, rất rõ nét là một nhà thơ từ khi còn ngồi ghế nhà trường. Luân Hoán sống nội tâm nên ít thích nhóm họp, tiệc tùng nơi đám đông. Anh đam mê nhất là Thơ, ngoài ra Luân Hoán cũng thích hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh, nhưng Thi Ca vẫn là con đường chính anh chọn và theo đuổi cho đến bây giờ. Luân Hoán biết làm thơ từ nhỏ, từ lúc lên mười, nhưng là những bài thơ rất ngô nghê của tuổi thiếu niên, như bài Hàm Tiếu v..v… Luân Hoán bắt đầu viết chính thức từ năm 1960, thường có bài trên các báo: Gió Mới-Tuổi Xanh-Thời Nay- Phổ Thông-Bách Khoa-Văn Học-Mai- Ngàn Khơi- Kỷ Nguyên Mới-Văn-Trình Bày (trước 1975 ). Anh cũng có chân trong Ban Biên Tập các Tạp chí Văn học Sài Gòn ( 1964 – 1975 ) Từ khi chuyển về sống ở Canada, thơ anh cũng góp mặt trên nhiều báo tại hải ngoại. Tác phẩm đã xuất bản: Về Trời ( Văn Học-Sai Gòn, 1964 ) Trôi Sông ( Văn Học-Sai Gòn 1966 ) Chết Trong Lòng Người ( Ngưỡng Cửa, 1967 ) Viên Đạn Cho Người Yêu Dấu ( Thơ, 1969- tái bản 1995 ) Hòa Bình Ơi Hãy Đến ( Thơ, 1970, cùng Phạm Thế Mỹ và Lê Vĩnh Thọ ) Nén Hương Cho Bàn Chân Trái ( Thơ, 1970, với các bạn văn ) Thơ Tình ( in cùng Khắc Minh, nxb Thơ, 1970 ) Ca Dao Tình Yêu ( nxb Thơ, 1970, cùng Khắc Minh ) Lục Bát Ca ( cùng Lê Vĩnh Thọ và Vĩnh Điện, nxb Thơ, 1970 ) Rượu Hồng Đã Rót ( nxb Thơ, 1974, tái bản 1995 ). Từ khi qua định cư tại Canada, Luân Hoán cũng đã xuất bản khá nhiều sách, như: Ngơ Ngác Cõi Người, Đưa Nhau Về Đâu, Cám Ơn Đất Đá Trổ Thơ, Lòng Ta Hạt Bụi Vu Vơ Bám Hoài, Mời Em Lên Ngựa, Nuôi Thơm Chùm Kỷ Niệm Xanh, Cỏ Hoa Gối Đầu, Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ, Tác Gỉa Việt Nam ( Tự Điển dưới tên Lê Bảo Hoàng ) Ổ Tình Lận Lưng, Em Từ Lục Bát Bước Ra, Theo Gót Thơ, Thanh Thi….. 2. Thơ và Giai nhân Nói đến thơ của Luân Hoán thì bao la lắm, nói cả ngày cũng không hết, bao la như tình của anh đối với Giai Nhân vậy. Thơ Luân Hoán mang hơi thở rất riêng, không giống nhà thơ nào cả. Chính cái riêng đó làm cho tôi và các bạn cùng trang lứa, cùng Lớp cùng Trường mê mệt và luôn nhớ đến anh, như luôn nhớ đến thời hoa niên của mình – anh đúng nghĩa là một nhà thơ lớn của tuổi học trò. Anh làm thơ như đùa giỡn với thơ, trêu ghẹo ngôn ngữ. Những ngôn từ anh dùng trong thơ thật bình dị, chơn chất, y như đi đứng, ăn uống và tắm rửa hàng ngày. Thơ anh không trau chuốt, gọt giũa nhưng lại đầy sức sống, truyền cho người xem nhiều rung cảm . Chất ngọt ngào trong thơ Luân Hoán không phải vị ngọt của thứ đường đã được tinh luyện, mà là vị ngọt của cây mía lau mía đường nơi ruộng đồng thôn dã. Sự bình dị chân phương mà Luân Hoán có được trong thơ là cả một nghệ thuật, không phải ai cũng có thể viết được như thế. Nhờ tính chất chân phương này nên thơ Luân Hoán mang rất nhiều nhạc tính ( musicalite ). Tôi đã phổ nhạc thơ Luân Hoán rất nhiều, nhưng tiếc là điều kiện tài chánh chưa cho phép nên mới chỉ thu âm được ba bài ( Em và Thơ, Hỏi Thật và Bệnh Rình Hương Sắc ). Hy vọng một ngày gần đây, tôi sẽ trình làng tiếp những nhạc phẩm tôi đã phổ từ thơ Luân Hoán. Với Luân Hoán, thơ chính là hơi thở, luôn hít vào thở ra từng giây…từng phút…từng giờ…và cứ thế nối đuôi nhau không bao giờ dứt được. Bởi thế, thơ luôn theo anh cả lúc ăn, lúc thức giấc, lúc đi đường, lúc đứng đợi xe, lúc làm việc, và ngay cả lúc đang dạy học: tôi đứng lặng vài giây trên bục giảng giáo án thuộc lòng bỗng chốc lãng quên nét phấn lạc dòng chữ run mặt bảng trở lại bàn hồn nghe đã lênh đênh thôi tôi hiểu ra rồi em bé bỏng chẳng có gì mới lạ phải không em trái tim đựng bao nhiêu điều bí mật cũng chỉ là tôi đã chớm yêu em ( Điều Bí Ân Bình Thường ) Như tôi đã nói ở trên, thơ luôn theo anh, và anh luôn theo thơ, cũng như anh luôn theo gái vậy. Nếu suy nghĩ của tôi không quá chủ quan thì trên đời này không có giai nhân, Luân Hoán chẳng bao giờ có được thơ hay (?) Anh yêu mỹ nhân như yêu chính bản thân mình, có nhiều khi còn hơn thế, phải không Luân Hoán ? Vậy thì Luân Hoán biết đến mỹ nhân từ lúc naò ? Chúng ta cùng nghe anh thổ lộ: Khi gặp em độ chừng lên 8 Tôi chớm 10 rất đỗi ngô nghê Em quá đẹp bởi vì em lai Pháp Tôi lên rừng rồi trở xuống nhà quê ………………………………….. Tôi mỏi đớ nắm chân em lưỡng lự Tay vụng về tinh nghịch úp lung tung Em ú ớ nói gì như đang mớ Tôi khi không nghe nhịp máu lạ lùng Từ phút đó nằm thức hoài đến sáng Tưởng tượng ra nhiều chuyện chẳng đầu đuôi Da em ấm tôi hít hà ngột thở Nghe nhiều nơi rất khác lạ trên người ( Hàm Tiếu ) Đọc xong những câu thơ trên của Luân Hoán, tôi biết nhiều đọc giả sẽ thắc mắc và muốn đánh đòn Luân Hoán. Tại sao biết yêu sớm vậy ? Xin thưa, đây không phải là một tình yêu đúng nghĩa giữa đôi trai gái. Đây là một hiện tượng tâm sinh lý ở tuổi vị thành niên. Luân Hoán cũng như bao thiếu niên khác, do trong thời kỳ phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến những thay đổi tâm sinh lý, làm xuất hiện cảm giác, cảm xúc mới lạ đối với người khác phái. Vì Luân Hoán có tài biết làm thơ quá sớm nên Luân Hoán bộc bạch ra được, thế thôi, còn những em thiếu niên khác thì luôn giữ kín trong lòng. Dẫu sao, cũng cám ơn Luân Hoán, anh đã cho mọi người thưởng thức những câu thơ rất ngô nghê, rất thật và không kém phần dễ thương ( da em ấm tôi hít hà ngột thở- tay vụng về tinh nghịch úp lung tung ). Rất dễ thương ! Thơ của Luân Hoán luôn cuốn hút người đọc, thi phong thật đằm thắm, nhẹ nhàng, và rất diễm tình: mười sáu tuổi em tập làm thiếu nữ vai tóc thề áo lụa trắng bay bay quai nón đỏ ngậm hờ vành môi ướt vuông khăn thêu kín đáo xếp trong tay em đến lớp nắng theo đùa trên áo cặp che ngang ngực thơm ngát ngọc lan tay giở vở tưởng chừng như đệm nhạc hồn thanh xuân em lót xuống từng trang ( Điều Bí Ân Bình Thường ) Thơ anh không thể nói là không hay được, Luân Hoán dùng những từ ngữ rất mộc mạc, dung dị, nhưng cách dùng từ ngữ của anh rất uyển chuyển khiến thơ Luân Hoán luôn uốn lượn, bay bổng. Tiếng thơ anh chính là những cung bậc bổng trầm trong âm nhạc : Em từ bụi chuối bước ra Ánh trăng làm nũng chao qua ống quần Niềm vui giấu dưới bàn chân Vỡ theo sợi gió lâng lâng ngậm ngùi ( Trăng Đêm Nở Hoa ) Mỗi lần sắp sửa yêu ai Tự nhiên mặt mũi tóc tai lạ lùng Hình như có triệu vi trùng Ngo ngoe đòi được nhớ nhung với mình ( Triệu Chứng ) Hình như Luân Hoán thật sự đi vào con đường tình ái năm mười sáu tuổi, cái tuổi đầy mộng mơ, thêu hoa dệt gấm. Tuy nhiên, tình yêu thời bấy giờ của chúng tôi không thực tiễn như thời a còng (@) này, hễ yêu nhau là tự nhiên, tự do đủ mọi mặt, thậm chí có thể sống thử với nhau. Ở thế hệ chúng tôi, giữa đôi trai gái yêu nhau, chỉ biết nhìn mặt nhau, trao gởi những tình thư rất kín đáo, người nào bạo dạn lắm thì cũng chỉ biết nắm tay nhau là cùng. Tất cả nỗi lòng của mình đều được giấu kín, chẳng ai biết, ai hay. Cũng vì thế đã có những mối tình đơn phương rất tội nghiệp, chẳng hạn như tôi đây. Tôi thầm yêu trộm nhớ một cô nữ sinh học dưới tôi hai lớp, tôi học Đệ Ngũ, cô ta học Đệ Thất, chúng tôi cùng học tại Trường Trung Học Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Tôi và cô ta cùng cư trú trong Làng Nại Hiên, cùng chung đường về nhà sau khi tan trường, nhưng suốt mấy năm trời tôi không dám hé một lời. Tôi cũng không hiểu tại sao lại như vậy. Để cuối cùng, buồn tình, tôi viết một bài thơ gởi đăng trên báo Bán Nguyệt San Phong Lan và bỏ đi biệt xứ. Tôi còn nhớ, năm đó là cuối năm Đệ Nhị. Mối tình đầu đời của tôi gói gọn trong bài thơ sau: Áo tím em mang tự thuở nào ? Kinh kỳ ngập nắng rộn xôn xao Áo em lã lướt trong gió thoảng Hứng lại giùm ta chút máu trào Ta đến nơi đây nén dặm đường Mập mờ áo tím lướt trong sương Mắt em xanh quá là xanh quá ! Ta biết rồi ta sẽ đoạn trường Dáng liễu đong đưa tắm ánh hồng Mây buông lõa xõa cợt thu phong Trân Châu chừng tưởng là sương nhạt Em nỡ không mang chiếc áo hồng ? Lê gót tìm hoa thỏa ước mong Những tưởng em mang chiếc áo hồng Ngờ đâu em đắp lên màu tím Tím cả lòng ta mấy độ trông Mây xám chiều nay đổ xuống rồi Rớm sầu nguyệt lệ ánh sao rơi Đường về lối nhỏ hoa tim tím Cánh bướm bay qua tủi phận đời ( Aó Tím – Tuyền Linh ) Luân Hoán thì khác tôi, anh ấy bản lĩnh hơn tôi trong việc giao tiếp với phái nữ, chỉ hơn tôi thôi vì tôi quá nhát gái, chứ thật ra theo nhận xét của bạn bè thì Luân Hoán bạo thơ hơn bạo gái. Mối tình đầu đời của Luân Hoán chớm nở vào năm mười sáu tuổi, cũng mặn nồng trong cốt cách khù khờ của tuổi mới lớn : Thuở mới yêu em độ chừng mười bảy Sắc hương thơm đằm thắm nở nụ hoa Ta lụt lịt chỉ thua em một tuổi Sao khù khờ nhút nhát – nghĩ không ra ……………………………………….. Môi với lưỡi chưa một lần dám chạm Nước bọt nhau mặn nhạt ngọt ra sao Vào xi nê chỉ dính chùm mái tóc Và mười ngón tay siết thật khít khao ( Nụ Trăng Đầu Đời ) Hình như đường tình của bất cứ ai trong thế gian này cũng đều như nhau, mối tình đầu chẳng bao giờ bền vững cả, như một quy luật. Luân Hoán cũng không ngoại lệ. Anh đã chia tay mối tình đầu một cách bất ngờ, không rõ nguyên do, để lại trong ký ức bao nỗi nhớ ngu ngơ…dễ thương…khó tả : Yêu chẳng biết làm gì hơn ngoài nhớ Nhớ lạ kỳ, nhớ tưởng phát cuồng điên Mới chia tay vừa đến nhà đã viết Trao gởi cho nhau liên tiếp nỗi niềm Chữ chẳng nói thay lòng hay đều vụng Để bất ngờ chia biệt chẳng nguyên do Vết thương tình của nhau không hiện rõ Vì hình như hai đứa giỏi giả đò Giờ em đã là chim lồng quí phái Ngậm nụ trăng đầu hay nhả từ lâu ? Ta nhờ nuốt đã như là thi sĩ Nụ tình xưa thành nụ thơ nhạt màu ( Nụ Trăng Đầu Đời ) Thơ của Luân Hoán luôn gợi lên một hình ảnh rất đẹp của tuổi học trò, rất học trò. Những cử chỉ vụng dại nhưng ngọt ngào, ngây ngô nhưng sâu lắng. Anh dùng ngôn ngữ rất đẹp, rất trẻ con, rất đời thường nên người đọc dễ nhập tâm, thấm đẫm. Luân Hoán sắp xếp những từ ngữ bình dân này vào thơ một cách rất khoa học, làm cho thơ anh sinh động hẳn lên, khiến người đọc tưởng như đang thực sự sống với cảnh thơ, quên bẵng đi thế giới bên ngoài rẫy đầy gai góc : mang vào lớp bài thơ anh mới tặng khoe bạn bè cho chúng lác mắt chơi í mà chết, anh viết gì trong đó ? chuyện chúng mình? Em hổng chịu đâu anh phải viết chuyện con mèo con chó chuyện con chim con cá gì thôi hay cùng lắm chuyện trời mưa trời nắng chuyện chúng mình, kỳ lắm, thôi thôi… ( Nhõng Nhẽo – Đưa Nhau Về Đâu ) Rất hồn nhiên, trong sáng, chơn chất : mà thôi, chắc không được ba mẹ chẳng chịu đâu anh người dưng nước lã đâu phải…xì, còn lâu ( Tết Mười Sáu ) Rất thật thà, ngây ngô, dễ thương : em có nhớ trong sân trường bữa ấy cô giáo đau, ta được nghỉ giờ đầu rất tình cờ hai đứa chợt gặp nhau em mở cặp vội vàng trao quyển sách sợ bạn thấy ta kẹp vào dưới nách đi một hơi không kịp cám ơn em trốn vào cầu hối hả giở ra xem mảnh giấy nhỏ nét mực nghiêng nghiêng tím ( Trong Sân Trường Bữa Ấy ) Thơ Luân Hoán không mang tính ẩn dụ cao, thỉnh thoảng ta mới bắt gặp, nhưng những tình huống ẩn dụ trong thơ anh rất tinh tế. Thơ anh luôn phơi bày ra tất cả những ngõ ngách của tâm hồn mình, nhờ vậy thơ Luân Hoán dễ đi sâu vào lòng người đọc : tôi đã viết những gì trong lưu bút một đôi dòng tạm biệt vu vơ chiếc ảnh nhỏ tôi dán vào bên góc ghi khiêm nhường ba chữ đơn sơ khi chụp ảnh nào đâu tôi có khóc sao mắt buồn chan chứa bao la suốt niên khóa cùng chung trường chung lớp chung thầy cô, chung chúng bạn thân quen sao hình như vẫn vô cùng xa cách trai gái đôi đường cách trở chia ngăn …………………………………………… em có nhớ những lần đi du ngoạn em vui đùa nhí nhảnh như con chim không hiểu sao bỗng nhiên tôi buồn bã tiếng em cười nghe đau nhói trong tim sau ba tháng biết em còn đến lớp ? mùa hè này ai đi hỏi em không ? tập lưu bút của em tôi mở đó viết làm sao cho hết những chuyện lòng ( Lưu Bút – Đưa Nhau Về Đâu ) Có nhiều người cho rằng Thơ chỉ là Thơ, Thơ không là đời sống thực. Tôi thì không cho như vậy. Tôi không quá mẫn cảm với thơ Luân Hoán, nhưng tôi tâm đắc dòng thơ anh vì thơ anh kết hợp được thế giới hiện thực với thế giới tưởng tượng, cái hay trong thơ Luân Hoán là ở chỗ này. Vì rằng,thế giới hiện thực có giới hạn, trong khi thế giới tưởng tượng là vô hạn. Như các triết gia Tây phương đã nhận định, tưởng tượng làm sống lại những kỷ niệm và tôn giá trị niềm vui sướng mà những kỷ niệm ấy gợi lên. Tưởng tượng sáng tạo như Luân Hoán được đánh giá là rất tích cực, mang đến cho con người phương tiện để thoát khỏi những buồn rầu trong cuộc sống; làm cho con người hạnh phúc hơn trong thực tế, làm phong phú cảm xúc con người. Nghệ sĩ không thể không tưởng tượng trong khi sáng tác, bởi tưởng tượng là tự do vượt lên trên hiện tại, thực tại để trở về đó một cách sâu sắc hơn. Như Sigmund Freud đã nói: “ nghệ thuật cũng chính là một giấc mơ ( giấc mơ ban ngày ) Nghệ thuật là một cách để con người ghi lại những giấc mơ. Giấc mơ nghệ thuật giúp con người được sống nhiều cuộc đời, trải nghiệm nhiều tình huống, thỏa mãn những khát vọng không phải lúc nào cũng thực hiện được “ Vâng, đúng thế. Vậy chúng ta hãy cùng xem thế giới tưởng tượng của Luân Hoán khi ra Huế đi thi Tú Tài gặp các cô sinh viên ra sao : chào em lộng lẫy Luật Khoa cho tôi thay cái cặp da tầm thường kẻo không phí mất mùi hương em đang bỏ lại trên đường em đi xin thề tôi chẳng nói chi nằm ngoan trong ngón xuân thì trổ thơ ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) ………………………………………… chào em đài cát Văn Khoa cho tôi thế cái yên da em ngồi đường dài nhớ đạp thảnh thơi cho tôi uống trọn hương đời thơm tho xin thề không dám làm thơ chỉ thiêm thiếp mộng bên bờ tồn sinh ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) Dù thế giới tưởng tượng là vô hạn, nhưng không kết hợp được với thế giới hiện thực thì cũng chẳng có thơ hay. Chúng ta hãy nghe Luân Hoán ra Huế thi Tú Tài, ngồi đúng vào cái bàn có khắc tên các nữ sinh Đồng Khánh Huế. Anh nói gì đây : ngồi thi nhìn cái mặt bàn Thu, Sương, Bích, Thảo nhẹ nhàng hóa thơ ……………………………………………. không biết chỗ này ngày mấy buổi ai ngồi duỗi thẳng búp chân thơm cánh tay chắc hẳn tròn ghê lắm tựa nhẳn mặt bàn ửng nước thơm ………………………………….. này ả thơ cưng trường Đồng Khánh tay ta cầm bút trả bài thi hồn ta lơ lửng trong hương Huế đạt cả hai tay chẳng có chi ……………………………………... Vâng,” chẳng có chi “, và cậu học trò Lê Ngọc Châu, Trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng đã chẳng có chi, thi hỏng Tú Tài kỳ 1. Có thể nói rằng, Luân Hoán kết hợp thế giới hiện thực và thế giới tưởng tượng một cách rất nhuần nhuyễn, bởi trí tưởng tưởng cũng nằm trong vùng tâm thức cá nhân anh. Nói như John Lennon: “ Hiện thực để lại nhiều điều cho trí tưởng tượng “, Vâng, đúng thế. Ở bất cứ hình ảnh nào trong thơ Luân Hoán, cái nhìn của anh luôn xuyên suốt, vượt qua tất cả sự vật bằng trí tưởng tượng của mình, nhờ thế hình ảnh trong thơ anh luôn mỹ miều dễ cảm : ta đứng tựa trong hành lang lớp học trên lầu cao nhìn xuống mộng bâng khuâng lòng cúi theo từng ngọn tóc phân vân hôn rất nhẹ trên tóc thề đen nhánh môi em đỏ sao hình như quá lạnh răng trắng thơm níu giữ lấy hồn ta lưỡi rót thương tình rót mật đậm đà ta nương náu bên em bằng mộng tưởng bởi quá yêu nên ta giàu tưởng tượng)) ( Trong Sân Trường Bữa Ấy ) Tưởng tượng như thế này thì thú vị biết bao ! ngoắc kêu một bác xe lôi một mình mà tưởng đang ngồi với em quanh co xe chạy đã thèm bác phu nhỏ nhẹ:” thầy quên chỉ đường “ ( Nhật ký chặng đường Đà Nẵng – Sài Gòn ) Hoặc dặn dò vu vơ : nhớ đừng gục xuống mặt bàn gỗ hôn trộm má môi hoàng hậu ra ( Nhật Ký ) Nhờ trí tưởng tượng phong phú nên không gian thơ Luân Hoán rất rộng: ở trường học, ở ngoài phố, ở chợ, ở hồ bơi, ở bãi biển, ở sông ngòi, ở vùng quê, ở miếu đình, và nhất là ở trước cổng nhà của các mỹ nhân; chỗ nào có giai nhân là chỗ đó có thơ anh. Tất cả hình như đều đến rất bất chợt, không hẹn trước. Chính sự bất chợt này đã phát triển năng khiếu bẩm sinh của anh một cách mạnh mẽ, nhanh chóng và đưa thơ anh lên ngôi. Trong thơ Luân Hoán, thỉnh thoảng ta thấy anh muốn hóa thân ra nhiều ảnh hình như: mây, gió, hạt bụi, ánh nắng mặt trời, cái yên da xe đạp, cái cặp da nữ sinh, con tàu bập bềnh trên sóng biển…Nói chung, tất cả những gì có thể tiếp cận được với mỹ nhân là anh hóa thân ra thứ ấy, để ve vãn, để trêu cợt hay nói một cách thực tế hơn là để được thưởng thức mùi hương của người đẹp (?) : gáy ngà đỡ mái tóc cao rõ ràng có hạt bụi thao thức nằm mây cao chốc chốc muốn sa nắng soi từng góc thân hoa thiên thần câu thơ biết phận cù lần rút lui vào trái tim trần nằm mơ ( Thả Thơ Trên Biển ) chào em đài cát Văn Khoa cho tôi thế cái yên da em ngồi chào em lộng lẫy Luật Khoa cho tôi thay cái cặp da tầm thường ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) Luân Hoán hóa thân trong thơ thật đẹp, thật dễ thương, thật diễm tình : em nằm đắp nắng bãi chiều cồn hoa che ngọn thủy triều trắng phau tôi ngồi vốc cát xây lầu hóa thân thả triệu con tàu viễn mơ ngực em đè phải câu thơ còn nằm trong trái tim khờ dại tôi Một đôi lúc, trí tượng của anh vượt quá vùng hiện thực, anh vẫn cho ra đời những câu thơ rất ngộ nghĩnh : nằm nghiêng thừa cánh tay ôm nằm ngửa thiếu cánh tay thơm lạnh đùi nằm sấp bức rức cả người ngồi lên chạm mỹ nhân ngồi chung quanh ( Nhớ ) Như tôi đã nói ở trên, thơ Luân Hoán ít mang tính ẩn dụ, nhưng một đôi khi những bài thơ của anh mang tính ẩn dụ thì lại đầy sức sống : em ngồi trải cánh chân phơi nắng thơm nghiêng một góc trời săm se tôi ngồi đờ đẫn tay che com-chim-thơ-đội-mộng xòe cánh bay gió rình trong nách lá cây hồ đồ rơi trúng mình dây em mềm hoảng hồn, gió vãi hương lên thanh xuân cỏ biếc hai bên tôi nằm mon men tôi ướm tay thăm vô tình vướng phải cái dằm nhớ nhung ( Trên Đồi Cỏ ) Theo nhận định của tôi, thơ Luân Hoán và Giai Nhân luôn hòa quyện với nhau, có Giai Nhân là có thơ Luân Hoán và có thơ Luân Hoán là có hình bóng Giai Nhân. Hay nói một cách chính xác hơn, Giai Nhân chính là mạch nguồn của dòng thơ Luân Hoán. Trong lòng anh không lúc nào là không có hình bóng giai nhân ngự trị, bởi cõi lòng anh mênh mông quá như chính thơ anh tự nó đã lắm mênh mông. Chúng ta hãy đọc những câu thơ dưới đây sẽ hiểu anh hơn : chiều chiều luồn chợ Vườn Hoa trôi theo Đồng Khánh bám tà áo bay mắt hồng liệng cái ngoắt tay dắt qua Độc Lập dựa cây đèn đường chập chùng xuân ảnh vãi hương ngó ai lòng cũng yêu thương tức thì giả vờ châm thuốc nhâm nhi nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh mình ( Đà Nẵng – 1960 ) “ Nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh mình “. Vâng, thèm hơn thèm thuốc lá. Nhưng sự thèm khát của anh không phải là sắc dục, mà anh thèm hứng dòng mạch nguồn chảy ra từ tâm hồn mình. Bởi thế, cảm xúc anh lúc nào cũng tuôn trào để hóa thành thơ. Với anh, một ngày không làm được thơ kể như ngày ấy muốn bịnh. Anh tâm sự : làm thơ là để bình thường cái ta cứ thích đứng đường ngó em làm thơ là để lênh đênh trên giòng rảnh rỗi chợt quên mất mình làm thơ là để làm thinh im nghe ta tự tỏ tình với ta làm thơ là để dần dà trở thành ông thánh hóa ra ông khùng làm thơ là sống ung dung để cho óc khỏi lùng bùng nổi điên làm thơ là có đủ quyền ba hoa tưởng tượng đã ghiền mới thôi với ta, thơ như bầu hơi của hai lá phổi lôi thôi thở hoài ngày nào thơ chẳng lai rai kể như ngày đó coi mòi muốn đau ( Ta Phỏng Vấn Ta ) Đọc thơ Luân Hoán, ta cảm thấy thời gian như chậm lại, như chính cốt cách lè phè ngoài đời của anh. Với anh, thời gian luôn thong thả xuôi dòng, thong dong tự tại : trong đầu nhú chút vẩn vơ trong bụng vài ngọn chữ lơ mơ nằm kể như cái ổ lót xong nằm-ngồi-đi-đứng thong dong đẻ đều Vâng, anh đẻ ra thơ thật đều, thật nhiều. So với tỷ lệ thời gian, anh là một trong những nhà thơ Việt Nam có số lượng sách xuất bản nhiều nhất. Tôi nghĩ, thơ anh được đa số học sinh, sinh viên yêu thích. Riêng tôi, tôi rất tâm đắc dòng thơ trữ tình của anh nếu không muốn nói là đồng cảm. Thơ Luân Hoán không mang tính ước lệ, thơ anh rất gần với đời thường. Luân Hoán không sáng tạo ngôn ngữ nhưng anh sắp xếp ngôn ngữ rất uyển chuyển, mới lạ : em từ bụi chuối bước ra ánh trăng làm nũng chao qua ống quần hay: mỗi lần sắp sửa yêu ai tự nhiên mặt mũi tóc tai lạ lùng hình như có triêu vi trùng ngo ngoe đòi được nhớ nhung với mình Chỉ chừng đó con chữ, rất đời thường, nhưng anh đưa vào những ý tưởng thật mới lạ. Theo tôi, thơ anh luôn sống mãi với thời gian, nó như đã được thẩm định thời tính, nó chính là tiếng thời gian, tuy vô hình nhưng hiện hữu. Thơ của Luân Hoán đi từ cái không đến có, từ quên đến nhớ. Vâng, sau bao thăng trầm trong cuộc sống, vật lộn với cơm áo gao tiền, tha phương cầu thực, khi đọc được thơ anh, cả một Đà Nẵng lai hiện rõ trong tôi với bao hoài niệm. Từng con đường góc phố, từng hàng cây, từng những ngã tư, ngã ba hẹn hò, từng thôn xóm làng mạc, và nhất là hình ảnh những bóng hồng tha thướt một thời, tất cả đều đã được phát họa một cách rõ nét trong thơ anh. Tiện đây, tôi cũng xin phép các giai nhân một thời cùa Thành phố Đà Nẵng để ghi lại những dòng thơ trữ tình rất học trò và đầy tinh nghịch của Luân Hoán, một giọng thơ mà theo tôi nghĩ, các bạn ( xin phép được xưng hô như vậy cho thân mật ) khi đọc đến không khỏi phì cười lẫn bùi ngùi cho anh bạn học trò Lê Ngọc Châu. Phì cười vì nhìn được những cử chỉ rập rình như kẻ trộm của anh trước cổng nhà các bạn, và bùi ngùi khi thấy anh ghẹo gái thật nhiều nhưng rốt cuộc lại trắng tay. Nếu bạn nào chưa đọc, xin mời đọc những dòng này : người tôi yêu, ở Lầu Đèn cây cao lá rậm ánh trăng khó vào trèo rào, tôi lén dán thơ mạch tình dẫn những đường sao đi về người tôi yêu, ở Thanh Khê quanh năm cát đóng quân che hải triều buộc thơ, tôi thả thay diều sáng khoe khoang gió xẩm chiều về không người tôi yêu, ở Cầu Vồng hương luồn hẻm cỏ những vòng thanh xuân nhiều khi gió lạc dấu lưng treo thơ tôi ngóng ở từng ngã ba người tôi yêu, ở Tam Tòa con đường, bụi, tóc đuôi gà bay chung mắt thơ khuyến khích, nhắc chừng mê, xin tự tiện, nhưng…đừng ghé vô người tôi yêu, ở Thanh Bồ tiếng cười đọng góc nhà thờ nuôi mây ngày ngày tôi đợi gió bay thở ra một ngụm thơ đầy mái hiên người tôi yêu, ở Nại Hiên vông đồng đứng chốt hữu biên canh chừng giả đò giày vướng lai quần thò tay tôi lượm thơ từng búp xanh người tôi yêu, ở Thuận Thành mấy đường sắt rỉ cỏ xanh mòn dần bóng tôi cùng nắng lần quần đọng thành vết sẹo trong ngần nhớ nhung người tôi yêu, ở tứ tung Phước Ninh, Thạch Gián, Khuê Trung,Thanh Hà Hải Châu, An Hải, Xuân Hòa vun vun mấy cõi đất tà ma chôn hạt tình bén giữa môi son nở tôi, tôi nở những con thơ tình người tôi yêu, những con tinh ngo ngoe sống thật hiển linh muôn đời người tôi yêu, ở mọi nơi nhưng chưa có được một người yêu tôi ( Cõi Bén Tình Thơ ) Vào thập niên 60 – 70, không hiểu trời phú thế nào mà Đà Nẵng sản sinh ra nhiều mỹ nhân đến thế ! Như tôi đã nói ở trên, nơi nào có giai nhân là nơi đó có thơ Luân Hoán. Lúc bấy giờ, dòng thơ anh tuôn trào như thác đổ. Tôi thấy trên toàn cõi đất nước Việt Nam chúng ta, chưa có một tỉnh thành nào có nhiều giai nhân được thi nhân ưu ái như Thành Phố Đà Nãng cả. Có lẽ đó cũng là một nét đặc thù trong thơ Luân Hoán chăng ? Dựa theo thơ anh, tôi tính tất cả là 23 Nữ Sắc được anh đưa lên ngôi và bắt anh hầu hạ mệt nghỉ. Tiện đây, tôi cũng xin phép có vài lời với các giai nhân Thành Phố Đà Nẵng một thời. Khi viết bài này, tôi đưa mỹ danh của các bạn lên với ý nghĩ trang trọng, và xin các bạn hãy hãnh diện khi thấy mỹ danh mình được ngồi chểm chệ trên dòng thơ Luân Hoán- một dòng thơ mượt mà, trữ tình, sâu lắng. Như anh đã từng nói : trời sinh em, trời sinh thơ nếu không chẳng biết phải thờ em đâu trái tim dù rất là sâu chắc gì em được ở lâu đời đời ( Em và Thơ ) (*) (*) Bài Thơ này đã được phổ nhạc, các bạn muốn nghe hãy vào Google và tìm “ Tình Khúc Nguyễn Văn Thơ “ sẽ gặp. Vâng, đúng vậy, trái tim tuy sâu thật,nhưng trái tim rồi cũng sẽ chết theo người. Chỉ có thơ là sống đời với thời gian, mà thơ sống đời thì mỹ danh của các bạn cũng sống mãi…Xin được chúc mừng ! Vậy thì bây giờ, xin các bạn khe khẽ, theo gót anh chàng học trò Lệ Ngọc Châu để mục kích cái tật rình mò của anh ta như thế nào nhé! Tôi cũng xin thưa với các bạn ở đây, tôi chỉ ghi dấu bước đi của Lê Ngọc Châu qua các ngõ nhà của mỹ nhân để các bạn tiện theo dõi, tôi không tiện diễn giải nhân vật và địa danh nơi cư trú của các giai nhân. Nếu bạn nào muốn biết thật rõ từng chi tiết, xin tìm đọc bài của tác giả Nguyễn Đông Giang, với tựa đề:” Sống Đời Với Thơ “. Bây giờ chúng ta hãy cùng theo bước chân Luân Hoán : rập rình qua ngõ Minh Xuân liếc cho đỡ nhớ dải lưng lụa vàng nhìn nghiêng, nắng gác hành lang nhìn xéo, nắng giữ hai hàng sứ xanh long lanh mắt vượt qua thành vén màn hỏi nhỏ bức tranh treo tường… âm thầm gởi tặng mùi hương lên bàn tay vãi tiếng dương cầm buồn lòng tôi phiêu lãng mười phương bỗng vể ở trọ trên trường túc hoa thấp thỏm qua ngõ Như Thoa vòng cung Độc Lập nối qua Bạch Đằng phóng mắt lên nóc lầu đen lên bao lơn rọi thấy trăng Sơn Chà trầm hương từ cõi thịt da trải xanh ngọn gió ngấm ra sông Hàn bàn tay cầm vợt bóng bàn lỡ cho ai nắm lấm vàng tình thơ tôi ngồi dựa gốc cây mơ hóa thân thương nhớ thành tơ bắc cầu e dè qua ngõ Trân Châu cây vông đồng đứng phía sau nhắc chừng bởi ai lỡ thắt dây lưng lên voi làm sống bà Trưng thuở nào cho tình thức cũng chiêm bao cho tình ngủ cũng nhả thơ nhớ đời hàng rào chẳng phải mồng tơi ném thư không tới, vói lời chẳng qua thôi đành làm đóa sao sa rơi hoài chẳng lọt nóc nhà hoa lan ngập ngừng qua ngõ Lâm An mưa dông hộ tống hai bàn chân thơ tưởng như đang đến nhà thờ thủ lời xưng tội vẩn vơ trong lòng lỡ quên hái bậy nhành bông ngửa tay hứng giọt mưa trong ngỡ là cô em chưa vướng vòng hoa chuỗi kim cương nước khác xa mọi người trông qua cổng, thấy em cười chúa tha tôi tội yêu người sau lưng lò dò qua ngõ Bích Quân giú bàn tay ở túi quần, đăm chiêu loanh quanh trong bóng xẩm chiều nghe chân mày thả lời phiêu bồng chào ngu ngơ dừng bước cổng vào dòm anh khuyển rất bảnh bao cau mày co chân buộc lại dây giày tam sông, tứ núi…chút này ngán chi ngại em…lững thững quay đi bâng khuâng ngoái lại chung qui cũng là mon men qua ngõ Thu Hà dẫu lơi chân đạp cổng nhà cũng qua nắng chiều đang thở trên hoa hình như có bóng thướt tha vói nhìn quay đầu xe lại, khó tin nụ cười thơm ấy vô tình thật sao ? gáy ngà đỡ mái tóc cao rõ ràng có hạt bụi thao thức nằm váy thơ đang độ thong dong chiếc xe đạp bỗng phải lòng quên đi tà tà qua ngõ Quỳnh Chi hai hành lang gió thầm thì quanh năm nắng không vào lọt chỗ nằm hạt thơ đâu dễ bén mầm bên hoa mê người nhớ cái ngã ba Đông Kinh Nghĩa Thục rẽ qua Nguyễn Hoàng ba nhành nhan sắc đoan trang có khi nào thấy anh chàng ngu ngơ chỗ nào véo cũng ra thơ yêu ai chưa biết vu vơ để dành phất phơ qua ngõ Thúy Oanh một gian cư xá long lanh mắt cười ai cho phép một con ruồi yêu người hóa điểm son tươi bên cằm trang Kiều mở dưới gối nằm thơm lừng hương tóc trăng rằm ngủ quên cánh tay tròn mướt tơ mềm làm sao dám gối chỉ thèm vu vơ lỡ mang bệnh nghiện làm thơ ngại chi đôi phút bất ngờ tà tâm bâng khuâng qua ngõ Ái Cầm chợ Cây Me ngó, thì thầm trên vai chàng này coi cũng bảnh trai tiếc rằng thiếu bước chân dài trổ hoa phòng hồng đã chật tiếng ca một nhà thơ ở phương xa đã vào trời thừa bao nhiêu vị sao thừa thêm vị nữa chẳng sao đâu tình vẩn vơ vào cõi u minh Tây cười dưới mộ giật mình làm thinh lờ khờ qua ngõ Diệu Minh trèo tường sân vận động nhìn mây bay nhạc luồn theo những ngón tay xoay lưng ong những vòng quay vật vờ dáng hoa đài cát thanh cao bước dần ra khỏi vạt thơ mê tình lầm bầm tụng một câu kinh một câu kinh trị thất tình vô ngôn ngó quanh trời đất vẫn tròn ngả lưng đánh giấc thả hồn lưu linh lừng khừng qua ngõ Phước Ninh lolita hiện hiển linh cười cười giá bứng được cánh môi tươi lấy thơ lấp lại cho đời khỏi ghen tình yêu là cái mặt bằng xây bao gác gió lầu trăng, vẫn thừa hôn nhau từ sáng đến trưa từ chiều sang tối vẫn chưa thơm lòng đường Phan Than Giản cong cong cái chân đứng lại, cái lòng bâng khuâng buồn buồn qua ngõ mỹ nhân Qúy Phẩm, Thạch Trúc, Ý Vân, Bích Hà Xuân, Đông, Hồng, Phú, Phước, Nga… những môi, những mắt, những da thịt nồng những vồng đất biết trổ bông thuận, không, tôi cũng đã trồng ra thơ dài đời trôi nổi phất phơ sờ trong ngực áo vẫn thao thức tình gởi người thánh nữ siêu hình nụ hôn này để tạ tình thế gian nguyện đem theo xuống suối vàng ( Qua Ngõ Mỹ Nhân ) Từ đầu đến giờ, tất cả những hình ảnh giai nhân mà tôi đã đề cập qua bài viết, xem như là tảng băng nổi trong cuộc đời tình ái của Luân Hoán. Vậy phần băng chìm còn lại ra sao ? Trước khi xem phần băng chìm còn lại, tưởng cũng cần tìm hiểu quan điểm về tình yêu của Luân Hoán. Dựa trên đời sống thực tại, tôi thấy Luân Hoán loại bỏ tất cả mặt tiêu cực và anh phát huy mặt tích cực. Quan điểm của anh thật rõ ràng : đâu có yêu ai để thất tình chỉ toàn thinh thích những em xinh sóng là của biển vô cùng tận chưa tiến thêm lên đã quay mình cứ thế mà giàu những ước mơ nhiều khi còn bạo phổi làm thơ em Y, em X, em J nữa thật giả thành ra khá mơ hồ cho dẫu rằng yêu hay là không thất tình cao lắm cũng vài năm trái tim không hạn bao nhiêu chỗ nhưng dễ dầu chi em mãi nằm thơ thẩn nhiều khi chỉ vẽ trò mười thằng thi sĩ chín ngài cho nhớ thương bành trướng theo con chữ một gã dường như giỏi giả đò em cứ tha hồ hãnh diện đi trăm năm còn mãi nét xuân thì từ trong máu thịt người thi sĩ lắng đọng thơm tình ngọn tuyệt thi thơ mới cũ gì cũng có em dẫu “ tân hình thức “ cũng xêm xêm mắt môi mông ngực linh tinh nữa những thứ tình yêu vốn rất thèm tôi bảo chưa yêu, em có tin ? ghê chưa, tôi quá đỗi hợm mình nhưng thôi, tha thứ em yêu nhé em có tôi và tôi có em ( Yêu và Thất Tình ) Vâng, “ em có tôi và tôi có em. “ Có thể đây là bước ngoặt trong đời sống tình cảm của anh chăng ? Vậy ta thử tìm hiểu ra sao : ta đến trọ nhà em từ thuở em chưa qua hết tuổi mười ba bút mực thơm từng ngọn tóc đuôi gà miệng liếng thoắng vụng về như con sáo hoa cỏ dại mọc đầy trong túi áo gót chân hồng không mệt mỏi nhảy dây trái mù u chuyền thẻ chạy quanh tay em cười hát, ăn quà, vòi vĩnh mẹ chừng nấy việc dắt dìu em nhè nhẹ dạo vòng vòng trong thế giới ngây thơ… ( Chiều Mưa ) Như anh đã nói: “ sóng là của biển vô cùng tận chưa tiến thêm lên đã quay mình Vậy anh quay mình về đâu ? Thực tế đã cho ta thấy, anh quay về ở trọ nhà cô học trò chưa qua hết tuổi mười ba. Mà chẳng ai xa lạ cả, đó chính là người đẹp Lý Phước Ninh mà trước đây anh đã nhiều lần rập rình qua ngõ mỹ nhân. Ở đây, anh đã cho và nhận được nhiều hương tình trong vườn hoa tình ái. Cũng dễ hiểu thôi, bởi tình yêu là sự cuốn hút cả tâm hồn lẫn thể xác, và tình yêu đích thực chỉ có thể có khi đi từ hai phía. Rồi việc gì đến cũng phải đến, tảng băng nổi qua nắng cháy thời gian dần dần tan đi để nhường lại phần chìm nhô lên như một sự khởi đầu thách thức. Có thể nói rằng, suốt khoảng thời gian dài phất phơ qua ngõ mỹ nhân để rập rình, Luân Hoán đã cập bến tình với người đẹp Trần Thị Lý một cách êm ả. Nàng vừa là một người tình, vừa là tri kỷ, vừa là hiền thê mẫu mực đảm đang, lại vừa là nàng thơ của anh : tên em, tên một loài hoa thơm từ chạng vạng đậm đà suốt đêm cánh mỏng mảnh, hương mông mênh dịu dàng tẩm ướp hồn lên đời thường Dạ Lý Hương, Dạ Lý Hương cũng là bông Lý bình thường đơn sơ đứng góc sân, ẩn ven rào xác là thực vật, hồn thơ chập chùng ( Qúy Danh ) Nếu không quá lời thì tôi có thể nói rằng, Luân Hoán là một nhà thơ lớn của tuổi học trò, lãng mạn, đa tình nhưng rất chung thủy. Tới đây, tôi xin phép không diễn giải thơ anh nữa, tôi chỉ trích đưa lên những đoạn thơ mà tôi cho tự nó đã nói lên quá nhiều về một mối tình thuần hậu, trường cửu… em có biết em vẫn còn trẻ mãi bởi vì ta còn mãi mãi yêu em nối tay nhau đan từng sợi võng mềm ta kính cẩn mời em yêu ngã xuống chiều bát ngát mưa ngoài hiên phiêu lãng ( Chiều Mưa ) đóng cây đinh treo ảnh em lên vách nhìn mặt em cười trong ảnh muốn hôn xinh đẹp như ri sao mà lận đận theo ta làm gì hỡi ả mèo con ? ( Đưa Nhau Về Đâu ) năm tháng bình thường không chậm nhanh lúc nào em cũng rất xuân xanh tuy rằng sương tuyết trên nhành tóc chẳng ấm lòng thơm những hiền lành em vẫn là thơ của những thơ ngày xưa ta viết đến bây giờ cho dù bay bướm đôi ba bận tình vẫn về em hóa kiếp thơ ( Cho Lý ngày 61 ) trộn chút tình ta vào bột giặt vò nhẹ nhàng bởi sợ em đau vải còn đượm mùi thịt da em ngát tay bùi ngùi như đang vuốt ve nhau trông thau nước đục lờ những cáu bẩn ta bỗng thương lớp bụi nổi màng màng chúng là những nhọc nhằn em gánh chịu nuôi chồng con dài năm tháng gian nan ( Giặt Áo Quần Cho Vợ ) Thưa quý đọc giả, trong bài viết này, mục đích của tôi chỉ muốn đưa lên những hình ảnh giai nhân, không nhiều thì ít, cũng liên quan đến dòng thơ và đời sống tình cảm của nhà thơ Luân Hoán; chứ nếu phân tích về thơ anh thì còn nhiều điều tích cực phải nói lắm. Bởi, khi đọc qua thơ anh thì ta thấy rất bình thường, nhưng suy nghĩ cho kỹ thì sẽ tìm ra được nhiều điểm lạ. Điểm lạ lẫm nổi cộm nhất trong thơ anh là các con chữ và ý từ. Anh luôn sáng tạo ý tưởng mới để đưa vào các con chữ cũ. Tôi không biết có nên cho đây là sự cách tân hay không, nhưng chắc chắn là rất lạ lẫm. Tới đây, tôi xin mượn câu danh ngôn của M. Gorki để khép lại bài viết này : “ Trên thế gian này, chẳng có vị Thần nào đẹp hơn Thần Mặt Trời, chẳng có ngọn lửa nào kỳ diệu hơn Ngọn Lửa Tình Yêu “ ./. Sài Gòn 18.9.2013 tuyền linh Nguyễn Văn Thơ Email: tuyenlinh_nguyenthi@yahoo.com.vn Luân Hoán với Giai Nhân tuyền linh Nguyễn Văn Thơ 1.Phần Đời Luân Hoán tên thật là Lê Ngọc Châu, sinh ngày 10 tháng 01 năm 1941 ( năm Canh Thìn ) tại phố cổ Hội An. Cha anh là ông Lê Hoán và mẹ là bà Nguyễn Thị Luân. Bút hiệu Luân Hoán được ghép từ tên cha và tên mẹ của anh. Ngoài ra, anh còn các bút hiệu khác như: Châu Hải Châu- Cự Hải-Trần Gia Nam- Lý Phước Ninh- Lê Bảo Hoàng Quê nội Luân Hoán ở làng Liêm Lạc, Hòa Đa, Hòa Vang Quảng Nam, quê ngoại tại Vĩnh Điện, Điện Bàn Quảng Nam. Trong nhiều năm chiến tranh ( 1945 ) gia đình anh di tản về sống ở vùng Tiên Phước Quảng Nam. Vào năm 1951, gia đình anh lại di chuyển về sống tại Huyện Hòa Vang, và sau cùng về định cư tại Thành phố Đà Nẵng. Đến ngày 02 tháng 02 năm 1985, anh được người em trai bảo lãnh để qua sống tại Montreal Canada. Anh là cựu học sinh Trường Trung Học Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Tính tình Luân Hoán rất trầm lặng, ít nói, phong cách xề xòa, lè phè, rất rõ nét là một nhà thơ từ khi còn ngồi ghế nhà trường. Luân Hoán sống nội tâm nên ít thích nhóm họp, tiệc tùng nơi đám đông. Anh đam mê nhất là Thơ, ngoài ra Luân Hoán cũng thích hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh, nhưng Thi Ca vẫn là con đường chính anh chọn và theo đuổi cho đến bây giờ. Luân Hoán biết làm thơ từ nhỏ, từ lúc lên mười, nhưng là những bài thơ rất ngô nghê của tuổi thiếu niên, như bài Hàm Tiếu v..v… Luân Hoán bắt đầu viết chính thức từ năm 1960, thường có bài trên các báo: Gió Mới-Tuổi Xanh-Thời Nay- Phổ Thông-Bách Khoa-Văn Học-Mai- Ngàn Khơi- Kỷ Nguyên Mới-Văn-Trình Bày (trước 1975 ). Anh cũng có chân trong Ban Biên Tập các Tạp chí Văn học Sài Gòn ( 1964 – 1975 ) Từ khi chuyển về sống ở Canada, thơ anh cũng góp mặt trên nhiều báo tại hải ngoại. Tác phẩm đã xuất bản: Về Trời ( Văn Học-Sai Gòn, 1964 ) Trôi Sông ( Văn Học-Sai Gòn 1966 ) Chết Trong Lòng Người ( Ngưỡng Cửa, 1967 ) Viên Đạn Cho Người Yêu Dấu ( Thơ, 1969- tái bản 1995 ) Hòa Bình Ơi Hãy Đến ( Thơ, 1970, cùng Phạm Thế Mỹ và Lê Vĩnh Thọ ) Nén Hương Cho Bàn Chân Trái ( Thơ, 1970, với các bạn văn ) Thơ Tình ( in cùng Khắc Minh, nxb Thơ, 1970 ) Ca Dao Tình Yêu ( nxb Thơ, 1970, cùng Khắc Minh ) Lục Bát Ca ( cùng Lê Vĩnh Thọ và Vĩnh Điện, nxb Thơ, 1970 ) Rượu Hồng Đã Rót ( nxb Thơ, 1974, tái bản 1995 ). Từ khi qua định cư tại Canada, Luân Hoán cũng đã xuất bản khá nhiều sách, như: Ngơ Ngác Cõi Người, Đưa Nhau Về Đâu, Cám Ơn Đất Đá Trổ Thơ, Lòng Ta Hạt Bụi Vu Vơ Bám Hoài, Mời Em Lên Ngựa, Nuôi Thơm Chùm Kỷ Niệm Xanh, Cỏ Hoa Gối Đầu, Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ, Tác Gỉa Việt Nam ( Tự Điển dưới tên Lê Bảo Hoàng ) Ổ Tình Lận Lưng, Em Từ Lục Bát Bước Ra, Theo Gót Thơ, Thanh Thi….. 2. Thơ và Giai nhân Nói đến thơ của Luân Hoán thì bao la lắm, nói cả ngày cũng không hết, bao la như tình của anh đối với Giai Nhân vậy. Thơ Luân Hoán mang hơi thở rất riêng, không giống nhà thơ nào cả. Chính cái riêng đó làm cho tôi và các bạn cùng trang lứa, cùng Lớp cùng Trường mê mệt và luôn nhớ đến anh, như luôn nhớ đến thời hoa niên của mình – anh đúng nghĩa là một nhà thơ lớn của tuổi học trò. Anh làm thơ như đùa giỡn với thơ, trêu ghẹo ngôn ngữ. Những ngôn từ anh dùng trong thơ thật bình dị, chơn chất, y như đi đứng, ăn uống và tắm rửa hàng ngày. Thơ anh không trau chuốt, gọt giũa nhưng lại đầy sức sống, truyền cho người xem nhiều rung cảm . Chất ngọt ngào trong thơ Luân Hoán không phải vị ngọt của thứ đường đã được tinh luyện, mà là vị ngọt của cây mía lau mía đường nơi ruộng đồng thôn dã. Sự bình dị chân phương mà Luân Hoán có được trong thơ là cả một nghệ thuật, không phải ai cũng có thể viết được như thế. Nhờ tính chất chân phương này nên thơ Luân Hoán mang rất nhiều nhạc tính ( musicalite ). Tôi đã phổ nhạc thơ Luân Hoán rất nhiều, nhưng tiếc là điều kiện tài chánh chưa cho phép nên mới chỉ thu âm được ba bài ( Em và Thơ, Hỏi Thật và Bệnh Rình Hương Sắc ). Hy vọng một ngày gần đây, tôi sẽ trình làng tiếp những nhạc phẩm tôi đã phổ từ thơ Luân Hoán. Với Luân Hoán, thơ chính là hơi thở, luôn hít vào thở ra từng giây…từng phút…từng giờ…và cứ thế nối đuôi nhau không bao giờ dứt được. Bởi thế, thơ luôn theo anh cả lúc ăn, lúc thức giấc, lúc đi đường, lúc đứng đợi xe, lúc làm việc, và ngay cả lúc đang dạy học: tôi đứng lặng vài giây trên bục giảng giáo án thuộc lòng bỗng chốc lãng quên nét phấn lạc dòng chữ run mặt bảng trở lại bàn hồn nghe đã lênh đênh thôi tôi hiểu ra rồi em bé bỏng chẳng có gì mới lạ phải không em trái tim đựng bao nhiêu điều bí mật cũng chỉ là tôi đã chớm yêu em ( Điều Bí Ân Bình Thường ) Như tôi đã nói ở trên, thơ luôn theo anh, và anh luôn theo thơ, cũng như anh luôn theo gái vậy. Nếu suy nghĩ của tôi không quá chủ quan thì trên đời này không có giai nhân, Luân Hoán chẳng bao giờ có được thơ hay (?) Anh yêu mỹ nhân như yêu chính bản thân mình, có nhiều khi còn hơn thế, phải không Luân Hoán ? Vậy thì Luân Hoán biết đến mỹ nhân từ lúc naò ? Chúng ta cùng nghe anh thổ lộ: Khi gặp em độ chừng lên 8 Tôi chớm 10 rất đỗi ngô nghê Em quá đẹp bởi vì em lai Pháp Tôi lên rừng rồi trở xuống nhà quê ………………………………….. Tôi mỏi đớ nắm chân em lưỡng lự Tay vụng về tinh nghịch úp lung tung Em ú ớ nói gì như đang mớ Tôi khi không nghe nhịp máu lạ lùng Từ phút đó nằm thức hoài đến sáng Tưởng tượng ra nhiều chuyện chẳng đầu đuôi Da em ấm tôi hít hà ngột thở Nghe nhiều nơi rất khác lạ trên người ( Hàm Tiếu ) Đọc xong những câu thơ trên của Luân Hoán, tôi biết nhiều đọc giả sẽ thắc mắc và muốn đánh đòn Luân Hoán. Tại sao biết yêu sớm vậy ? Xin thưa, đây không phải là một tình yêu đúng nghĩa giữa đôi trai gái. Đây là một hiện tượng tâm sinh lý ở tuổi vị thành niên. Luân Hoán cũng như bao thiếu niên khác, do trong thời kỳ phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến những thay đổi tâm sinh lý, làm xuất hiện cảm giác, cảm xúc mới lạ đối với người khác phái. Vì Luân Hoán có tài biết làm thơ quá sớm nên Luân Hoán bộc bạch ra được, thế thôi, còn những em thiếu niên khác thì luôn giữ kín trong lòng. Dẫu sao, cũng cám ơn Luân Hoán, anh đã cho mọi người thưởng thức những câu thơ rất ngô nghê, rất thật và không kém phần dễ thương ( da em ấm tôi hít hà ngột thở- tay vụng về tinh nghịch úp lung tung ). Rất dễ thương ! Thơ của Luân Hoán luôn cuốn hút người đọc, thi phong thật đằm thắm, nhẹ nhàng, và rất diễm tình: mười sáu tuổi em tập làm thiếu nữ vai tóc thề áo lụa trắng bay bay quai nón đỏ ngậm hờ vành môi ướt vuông khăn thêu kín đáo xếp trong tay em đến lớp nắng theo đùa trên áo cặp che ngang ngực thơm ngát ngọc lan tay giở vở tưởng chừng như đệm nhạc hồn thanh xuân em lót xuống từng trang ( Điều Bí Ân Bình Thường ) Thơ anh không thể nói là không hay được, Luân Hoán dùng những từ ngữ rất mộc mạc, dung dị, nhưng cách dùng từ ngữ của anh rất uyển chuyển khiến thơ Luân Hoán luôn uốn lượn, bay bổng. Tiếng thơ anh chính là những cung bậc bổng trầm trong âm nhạc : Em từ bụi chuối bước ra Ánh trăng làm nũng chao qua ống quần Niềm vui giấu dưới bàn chân Vỡ theo sợi gió lâng lâng ngậm ngùi ( Trăng Đêm Nở Hoa ) Mỗi lần sắp sửa yêu ai Tự nhiên mặt mũi tóc tai lạ lùng Hình như có triệu vi trùng Ngo ngoe đòi được nhớ nhung với mình ( Triệu Chứng ) Hình như Luân Hoán thật sự đi vào con đường tình ái năm mười sáu tuổi, cái tuổi đầy mộng mơ, thêu hoa dệt gấm. Tuy nhiên, tình yêu thời bấy giờ của chúng tôi không thực tiễn như thời a còng (@) này, hễ yêu nhau là tự nhiên, tự do đủ mọi mặt, thậm chí có thể sống thử với nhau. Ở thế hệ chúng tôi, giữa đôi trai gái yêu nhau, chỉ biết nhìn mặt nhau, trao gởi những tình thư rất kín đáo, người nào bạo dạn lắm thì cũng chỉ biết nắm tay nhau là cùng. Tất cả nỗi lòng của mình đều được giấu kín, chẳng ai biết, ai hay. Cũng vì thế đã có những mối tình đơn phương rất tội nghiệp, chẳng hạn như tôi đây. Tôi thầm yêu trộm nhớ một cô nữ sinh học dưới tôi hai lớp, tôi học Đệ Ngũ, cô ta học Đệ Thất, chúng tôi cùng học tại Trường Trung Học Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Tôi và cô ta cùng cư trú trong Làng Nại Hiên, cùng chung đường về nhà sau khi tan trường, nhưng suốt mấy năm trời tôi không dám hé một lời. Tôi cũng không hiểu tại sao lại như vậy. Để cuối cùng, buồn tình, tôi viết một bài thơ gởi đăng trên báo Bán Nguyệt San Phong Lan và bỏ đi biệt xứ. Tôi còn nhớ, năm đó là cuối năm Đệ Nhị. Mối tình đầu đời của tôi gói gọn trong bài thơ sau: Áo tím em mang tự thuở nào ? Kinh kỳ ngập nắng rộn xôn xao Áo em lã lướt trong gió thoảng Hứng lại giùm ta chút máu trào Ta đến nơi đây nén dặm đường Mập mờ áo tím lướt trong sương Mắt em xanh quá là xanh quá ! Ta biết rồi ta sẽ đoạn trường Dáng liễu đong đưa tắm ánh hồng Mây buông lõa xõa cợt thu phong Trân Châu chừng tưởng là sương nhạt Em nỡ không mang chiếc áo hồng ? Lê gót tìm hoa thỏa ước mong Những tưởng em mang chiếc áo hồng Ngờ đâu em đắp lên màu tím Tím cả lòng ta mấy độ trông Mây xám chiều nay đổ xuống rồi Rớm sầu nguyệt lệ ánh sao rơi Đường về lối nhỏ hoa tim tím Cánh bướm bay qua tủi phận đời ( Aó Tím – Tuyền Linh ) Luân Hoán thì khác tôi, anh ấy bản lĩnh hơn tôi trong việc giao tiếp với phái nữ, chỉ hơn tôi thôi vì tôi quá nhát gái, chứ thật ra theo nhận xét của bạn bè thì Luân Hoán bạo thơ hơn bạo gái. Mối tình đầu đời của Luân Hoán chớm nở vào năm mười sáu tuổi, cũng mặn nồng trong cốt cách khù khờ của tuổi mới lớn : Thuở mới yêu em độ chừng mười bảy Sắc hương thơm đằm thắm nở nụ hoa Ta lụt lịt chỉ thua em một tuổi Sao khù khờ nhút nhát – nghĩ không ra ……………………………………….. Môi với lưỡi chưa một lần dám chạm Nước bọt nhau mặn nhạt ngọt ra sao Vào xi nê chỉ dính chùm mái tóc Và mười ngón tay siết thật khít khao ( Nụ Trăng Đầu Đời ) Hình như đường tình của bất cứ ai trong thế gian này cũng đều như nhau, mối tình đầu chẳng bao giờ bền vững cả, như một quy luật. Luân Hoán cũng không ngoại lệ. Anh đã chia tay mối tình đầu một cách bất ngờ, không rõ nguyên do, để lại trong ký ức bao nỗi nhớ ngu ngơ…dễ thương…khó tả : Yêu chẳng biết làm gì hơn ngoài nhớ Nhớ lạ kỳ, nhớ tưởng phát cuồng điên Mới chia tay vừa đến nhà đã viết Trao gởi cho nhau liên tiếp nỗi niềm Chữ chẳng nói thay lòng hay đều vụng Để bất ngờ chia biệt chẳng nguyên do Vết thương tình của nhau không hiện rõ Vì hình như hai đứa giỏi giả đò Giờ em đã là chim lồng quí phái Ngậm nụ trăng đầu hay nhả từ lâu ? Ta nhờ nuốt đã như là thi sĩ Nụ tình xưa thành nụ thơ nhạt màu ( Nụ Trăng Đầu Đời ) Thơ của Luân Hoán luôn gợi lên một hình ảnh rất đẹp của tuổi học trò, rất học trò. Những cử chỉ vụng dại nhưng ngọt ngào, ngây ngô nhưng sâu lắng. Anh dùng ngôn ngữ rất đẹp, rất trẻ con, rất đời thường nên người đọc dễ nhập tâm, thấm đẫm. Luân Hoán sắp xếp những từ ngữ bình dân này vào thơ một cách rất khoa học, làm cho thơ anh sinh động hẳn lên, khiến người đọc tưởng như đang thực sự sống với cảnh thơ, quên bẵng đi thế giới bên ngoài rẫy đầy gai góc : mang vào lớp bài thơ anh mới tặng khoe bạn bè cho chúng lác mắt chơi í mà chết, anh viết gì trong đó ? chuyện chúng mình? Em hổng chịu đâu anh phải viết chuyện con mèo con chó chuyện con chim con cá gì thôi hay cùng lắm chuyện trời mưa trời nắng chuyện chúng mình, kỳ lắm, thôi thôi… ( Nhõng Nhẽo – Đưa Nhau Về Đâu ) Rất hồn nhiên, trong sáng, chơn chất : mà thôi, chắc không được ba mẹ chẳng chịu đâu anh người dưng nước lã đâu phải…xì, còn lâu ( Tết Mười Sáu ) Rất thật thà, ngây ngô, dễ thương : em có nhớ trong sân trường bữa ấy cô giáo đau, ta được nghỉ giờ đầu rất tình cờ hai đứa chợt gặp nhau em mở cặp vội vàng trao quyển sách sợ bạn thấy ta kẹp vào dưới nách đi một hơi không kịp cám ơn em trốn vào cầu hối hả giở ra xem mảnh giấy nhỏ nét mực nghiêng nghiêng tím ( Trong Sân Trường Bữa Ấy ) Thơ Luân Hoán không mang tính ẩn dụ cao, thỉnh thoảng ta mới bắt gặp, nhưng những tình huống ẩn dụ trong thơ anh rất tinh tế. Thơ anh luôn phơi bày ra tất cả những ngõ ngách của tâm hồn mình, nhờ vậy thơ Luân Hoán dễ đi sâu vào lòng người đọc : tôi đã viết những gì trong lưu bút một đôi dòng tạm biệt vu vơ chiếc ảnh nhỏ tôi dán vào bên góc ghi khiêm nhường ba chữ đơn sơ khi chụp ảnh nào đâu tôi có khóc sao mắt buồn chan chứa bao la suốt niên khóa cùng chung trường chung lớp chung thầy cô, chung chúng bạn thân quen sao hình như vẫn vô cùng xa cách trai gái đôi đường cách trở chia ngăn …………………………………………… em có nhớ những lần đi du ngoạn em vui đùa nhí nhảnh như con chim không hiểu sao bỗng nhiên tôi buồn bã tiếng em cười nghe đau nhói trong tim sau ba tháng biết em còn đến lớp ? mùa hè này ai đi hỏi em không ? tập lưu bút của em tôi mở đó viết làm sao cho hết những chuyện lòng ( Lưu Bút – Đưa Nhau Về Đâu ) Có nhiều người cho rằng Thơ chỉ là Thơ, Thơ không là đời sống thực. Tôi thì không cho như vậy. Tôi không quá mẫn cảm với thơ Luân Hoán, nhưng tôi tâm đắc dòng thơ anh vì thơ anh kết hợp được thế giới hiện thực với thế giới tưởng tượng, cái hay trong thơ Luân Hoán là ở chỗ này. Vì rằng,thế giới hiện thực có giới hạn, trong khi thế giới tưởng tượng là vô hạn. Như các triết gia Tây phương đã nhận định, tưởng tượng làm sống lại những kỷ niệm và tôn giá trị niềm vui sướng mà những kỷ niệm ấy gợi lên. Tưởng tượng sáng tạo như Luân Hoán được đánh giá là rất tích cực, mang đến cho con người phương tiện để thoát khỏi những buồn rầu trong cuộc sống; làm cho con người hạnh phúc hơn trong thực tế, làm phong phú cảm xúc con người. Nghệ sĩ không thể không tưởng tượng trong khi sáng tác, bởi tưởng tượng là tự do vượt lên trên hiện tại, thực tại để trở về đó một cách sâu sắc hơn. Như Sigmund Freud đã nói: “ nghệ thuật cũng chính là một giấc mơ ( giấc mơ ban ngày ) Nghệ thuật là một cách để con người ghi lại những giấc mơ. Giấc mơ nghệ thuật giúp con người được sống nhiều cuộc đời, trải nghiệm nhiều tình huống, thỏa mãn những khát vọng không phải lúc nào cũng thực hiện được “ Vâng, đúng thế. Vậy chúng ta hãy cùng xem thế giới tưởng tượng của Luân Hoán khi ra Huế đi thi Tú Tài gặp các cô sinh viên ra sao : chào em lộng lẫy Luật Khoa cho tôi thay cái cặp da tầm thường kẻo không phí mất mùi hương em đang bỏ lại trên đường em đi xin thề tôi chẳng nói chi nằm ngoan trong ngón xuân thì trổ thơ ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) ………………………………………… chào em đài cát Văn Khoa cho tôi thế cái yên da em ngồi đường dài nhớ đạp thảnh thơi cho tôi uống trọn hương đời thơm tho xin thề không dám làm thơ chỉ thiêm thiếp mộng bên bờ tồn sinh ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) Dù thế giới tưởng tượng là vô hạn, nhưng không kết hợp được với thế giới hiện thực thì cũng chẳng có thơ hay. Chúng ta hãy nghe Luân Hoán ra Huế thi Tú Tài, ngồi đúng vào cái bàn có khắc tên các nữ sinh Đồng Khánh Huế. Anh nói gì đây : ngồi thi nhìn cái mặt bàn Thu, Sương, Bích, Thảo nhẹ nhàng hóa thơ ……………………………………………. không biết chỗ này ngày mấy buổi ai ngồi duỗi thẳng búp chân thơm cánh tay chắc hẳn tròn ghê lắm tựa nhẳn mặt bàn ửng nước thơm ………………………………….. này ả thơ cưng trường Đồng Khánh tay ta cầm bút trả bài thi hồn ta lơ lửng trong hương Huế đạt cả hai tay chẳng có chi ……………………………………... Vâng,” chẳng có chi “, và cậu học trò Lê Ngọc Châu, Trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng đã chẳng có chi, thi hỏng Tú Tài kỳ 1. Có thể nói rằng, Luân Hoán kết hợp thế giới hiện thực và thế giới tưởng tượng một cách rất nhuần nhuyễn, bởi trí tưởng tưởng cũng nằm trong vùng tâm thức cá nhân anh. Nói như John Lennon: “ Hiện thực để lại nhiều điều cho trí tưởng tượng “, Vâng, đúng thế. Ở bất cứ hình ảnh nào trong thơ Luân Hoán, cái nhìn của anh luôn xuyên suốt, vượt qua tất cả sự vật bằng trí tưởng tượng của mình, nhờ thế hình ảnh trong thơ anh luôn mỹ miều dễ cảm : ta đứng tựa trong hành lang lớp học trên lầu cao nhìn xuống mộng bâng khuâng lòng cúi theo từng ngọn tóc phân vân hôn rất nhẹ trên tóc thề đen nhánh môi em đỏ sao hình như quá lạnh răng trắng thơm níu giữ lấy hồn ta lưỡi rót thương tình rót mật đậm đà ta nương náu bên em bằng mộng tưởng bởi quá yêu nên ta giàu tưởng tượng)) ( Trong Sân Trường Bữa Ấy ) Tưởng tượng như thế này thì thú vị biết bao ! ngoắc kêu một bác xe lôi một mình mà tưởng đang ngồi với em quanh co xe chạy đã thèm bác phu nhỏ nhẹ:” thầy quên chỉ đường “ ( Nhật ký chặng đường Đà Nẵng – Sài Gòn ) Hoặc dặn dò vu vơ : nhớ đừng gục xuống mặt bàn gỗ hôn trộm má môi hoàng hậu ra ( Nhật Ký ) Nhờ trí tưởng tượng phong phú nên không gian thơ Luân Hoán rất rộng: ở trường học, ở ngoài phố, ở chợ, ở hồ bơi, ở bãi biển, ở sông ngòi, ở vùng quê, ở miếu đình, và nhất là ở trước cổng nhà của các mỹ nhân; chỗ nào có giai nhân là chỗ đó có thơ anh. Tất cả hình như đều đến rất bất chợt, không hẹn trước. Chính sự bất chợt này đã phát triển năng khiếu bẩm sinh của anh một cách mạnh mẽ, nhanh chóng và đưa thơ anh lên ngôi. Trong thơ Luân Hoán, thỉnh thoảng ta thấy anh muốn hóa thân ra nhiều ảnh hình như: mây, gió, hạt bụi, ánh nắng mặt trời, cái yên da xe đạp, cái cặp da nữ sinh, con tàu bập bềnh trên sóng biển…Nói chung, tất cả những gì có thể tiếp cận được với mỹ nhân là anh hóa thân ra thứ ấy, để ve vãn, để trêu cợt hay nói một cách thực tế hơn là để được thưởng thức mùi hương của người đẹp (?) : gáy ngà đỡ mái tóc cao rõ ràng có hạt bụi thao thức nằm mây cao chốc chốc muốn sa nắng soi từng góc thân hoa thiên thần câu thơ biết phận cù lần rút lui vào trái tim trần nằm mơ ( Thả Thơ Trên Biển ) chào em đài cát Văn Khoa cho tôi thế cái yên da em ngồi chào em lộng lẫy Luật Khoa cho tôi thay cái cặp da tầm thường ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) Luân Hoán hóa thân trong thơ thật đẹp, thật dễ thương, thật diễm tình : em nằm đắp nắng bãi chiều cồn hoa che ngọn thủy triều trắng phau tôi ngồi vốc cát xây lầu hóa thân thả triệu con tàu viễn mơ ngực em đè phải câu thơ còn nằm trong trái tim khờ dại tôi Một đôi lúc, trí tượng của anh vượt quá vùng hiện thực, anh vẫn cho ra đời những câu thơ rất ngộ nghĩnh : nằm nghiêng thừa cánh tay ôm nằm ngửa thiếu cánh tay thơm lạnh đùi nằm sấp bức rức cả người ngồi lên chạm mỹ nhân ngồi chung quanh ( Nhớ ) Như tôi đã nói ở trên, thơ Luân Hoán ít mang tính ẩn dụ, nhưng một đôi khi những bài thơ của anh mang tính ẩn dụ thì lại đầy sức sống : em ngồi trải cánh chân phơi nắng thơm nghiêng một góc trời săm se tôi ngồi đờ đẫn tay che com-chim-thơ-đội-mộng xòe cánh bay gió rình trong nách lá cây hồ đồ rơi trúng mình dây em mềm hoảng hồn, gió vãi hương lên thanh xuân cỏ biếc hai bên tôi nằm mon men tôi ướm tay thăm vô tình vướng phải cái dằm nhớ nhung ( Trên Đồi Cỏ ) Theo nhận định của tôi, thơ Luân Hoán và Giai Nhân luôn hòa quyện với nhau, có Giai Nhân là có thơ Luân Hoán và có thơ Luân Hoán là có hình bóng Giai Nhân. Hay nói một cách chính xác hơn, Giai Nhân chính là mạch nguồn của dòng thơ Luân Hoán. Trong lòng anh không lúc nào là không có hình bóng giai nhân ngự trị, bởi cõi lòng anh mênh mông quá như chính thơ anh tự nó đã lắm mênh mông. Chúng ta hãy đọc những câu thơ dưới đây sẽ hiểu anh hơn : chiều chiều luồn chợ Vườn Hoa trôi theo Đồng Khánh bám tà áo bay mắt hồng liệng cái ngoắt tay dắt qua Độc Lập dựa cây đèn đường chập chùng xuân ảnh vãi hương ngó ai lòng cũng yêu thương tức thì giả vờ châm thuốc nhâm nhi nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh mình ( Đà Nẵng – 1960 ) “ Nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh mình “. Vâng, thèm hơn thèm thuốc lá. Nhưng sự thèm khát của anh không phải là sắc dục, mà anh thèm hứng dòng mạch nguồn chảy ra từ tâm hồn mình. Bởi thế, cảm xúc anh lúc nào cũng tuôn trào để hóa thành thơ. Với anh, một ngày không làm được thơ kể như ngày ấy muốn bịnh. Anh tâm sự : làm thơ là để bình thường cái ta cứ thích đứng đường ngó em làm thơ là để lênh đênh trên giòng rảnh rỗi chợt quên mất mình làm thơ là để làm thinh im nghe ta tự tỏ tình với ta làm thơ là để dần dà trở thành ông thánh hóa ra ông khùng làm thơ là sống ung dung để cho óc khỏi lùng bùng nổi điên làm thơ là có đủ quyền ba hoa tưởng tượng đã ghiền mới thôi với ta, thơ như bầu hơi của hai lá phổi lôi thôi thở hoài ngày nào thơ chẳng lai rai kể như ngày đó coi mòi muốn đau ( Ta Phỏng Vấn Ta ) Đọc thơ Luân Hoán, ta cảm thấy thời gian như chậm lại, như chính cốt cách lè phè ngoài đời của anh. Với anh, thời gian luôn thong thả xuôi dòng, thong dong tự tại : trong đầu nhú chút vẩn vơ trong bụng vài ngọn chữ lơ mơ nằm kể như cái ổ lót xong nằm-ngồi-đi-đứng thong dong đẻ đều Vâng, anh đẻ ra thơ thật đều, thật nhiều. So với tỷ lệ thời gian, anh là một trong những nhà thơ Việt Nam có số lượng sách xuất bản nhiều nhất. Tôi nghĩ, thơ anh được đa số học sinh, sinh viên yêu thích. Riêng tôi, tôi rất tâm đắc dòng thơ trữ tình của anh nếu không muốn nói là đồng cảm. Thơ Luân Hoán không mang tính ước lệ, thơ anh rất gần với đời thường. Luân Hoán không sáng tạo ngôn ngữ nhưng anh sắp xếp ngôn ngữ rất uyển chuyển, mới lạ : em từ bụi chuối bước ra ánh trăng làm nũng chao qua ống quần hay: mỗi lần sắp sửa yêu ai tự nhiên mặt mũi tóc tai lạ lùng hình như có triêu vi trùng ngo ngoe đòi được nhớ nhung với mình Chỉ chừng đó con chữ, rất đời thường, nhưng anh đưa vào những ý tưởng thật mới lạ. Theo tôi, thơ anh luôn sống mãi với thời gian, nó như đã được thẩm định thời tính, nó chính là tiếng thời gian, tuy vô hình nhưng hiện hữu. Thơ của Luân Hoán đi từ cái không đến có, từ quên đến nhớ. Vâng, sau bao thăng trầm trong cuộc sống, vật lộn với cơm áo gao tiền, tha phương cầu thực, khi đọc được thơ anh, cả một Đà Nẵng lai hiện rõ trong tôi với bao hoài niệm. Từng con đường góc phố, từng hàng cây, từng những ngã tư, ngã ba hẹn hò, từng thôn xóm làng mạc, và nhất là hình ảnh những bóng hồng tha thướt một thời, tất cả đều đã được phát họa một cách rõ nét trong thơ anh. Tiện đây, tôi cũng xin phép các giai nhân một thời cùa Thành phố Đà Nẵng để ghi lại những dòng thơ trữ tình rất học trò và đầy tinh nghịch của Luân Hoán, một giọng thơ mà theo tôi nghĩ, các bạn ( xin phép được xưng hô như vậy cho thân mật ) khi đọc đến không khỏi phì cười lẫn bùi ngùi cho anh bạn học trò Lê Ngọc Châu. Phì cười vì nhìn được những cử chỉ rập rình như kẻ trộm của anh trước cổng nhà các bạn, và bùi ngùi khi thấy anh ghẹo gái thật nhiều nhưng rốt cuộc lại trắng tay. Nếu bạn nào chưa đọc, xin mời đọc những dòng này : người tôi yêu, ở Lầu Đèn cây cao lá rậm ánh trăng khó vào trèo rào, tôi lén dán thơ mạch tình dẫn những đường sao đi về người tôi yêu, ở Thanh Khê quanh năm cát đóng quân che hải triều buộc thơ, tôi thả thay diều sáng khoe khoang gió xẩm chiều về không người tôi yêu, ở Cầu Vồng hương luồn hẻm cỏ những vòng thanh xuân nhiều khi gió lạc dấu lưng treo thơ tôi ngóng ở từng ngã ba người tôi yêu, ở Tam Tòa con đường, bụi, tóc đuôi gà bay chung mắt thơ khuyến khích, nhắc chừng mê, xin tự tiện, nhưng…đừng ghé vô người tôi yêu, ở Thanh Bồ tiếng cười đọng góc nhà thờ nuôi mây ngày ngày tôi đợi gió bay thở ra một ngụm thơ đầy mái hiên người tôi yêu, ở Nại Hiên vông đồng đứng chốt hữu biên canh chừng giả đò giày vướng lai quần thò tay tôi lượm thơ từng búp xanh người tôi yêu, ở Thuận Thành mấy đường sắt rỉ cỏ xanh mòn dần bóng tôi cùng nắng lần quần đọng thành vết sẹo trong ngần nhớ nhung người tôi yêu, ở tứ tung Phước Ninh, Thạch Gián, Khuê Trung,Thanh Hà Hải Châu, An Hải, Xuân Hòa vun vun mấy cõi đất tà ma chôn hạt tình bén giữa môi son nở tôi, tôi nở những con thơ tình người tôi yêu, những con tinh ngo ngoe sống thật hiển linh muôn đời người tôi yêu, ở mọi nơi nhưng chưa có được một người yêu tôi ( Cõi Bén Tình Thơ ) Vào thập niên 60 – 70, không hiểu trời phú thế nào mà Đà Nẵng sản sinh ra nhiều mỹ nhân đến thế ! Như tôi đã nói ở trên, nơi nào có giai nhân là nơi đó có thơ Luân Hoán. Lúc bấy giờ, dòng thơ anh tuôn trào như thác đổ. Tôi thấy trên toàn cõi đất nước Việt Nam chúng ta, chưa có một tỉnh thành nào có nhiều giai nhân được thi nhân ưu ái như Thành Phố Đà Nãng cả. Có lẽ đó cũng là một nét đặc thù trong thơ Luân Hoán chăng ? Dựa theo thơ anh, tôi tính tất cả là 23 Nữ Sắc được anh đưa lên ngôi và bắt anh hầu hạ mệt nghỉ. Tiện đây, tôi cũng xin phép có vài lời với các giai nhân Thành Phố Đà Nẵng một thời. Khi viết bài này, tôi đưa mỹ danh của các bạn lên với ý nghĩ trang trọng, và xin các bạn hãy hãnh diện khi thấy mỹ danh mình được ngồi chểm chệ trên dòng thơ Luân Hoán- một dòng thơ mượt mà, trữ tình, sâu lắng. Như anh đã từng nói : trời sinh em, trời sinh thơ nếu không chẳng biết phải thờ em đâu trái tim dù rất là sâu chắc gì em được ở lâu đời đời ( Em và Thơ ) (*) (*) Bài Thơ này đã được phổ nhạc, các bạn muốn nghe hãy vào Google và tìm “ Tình Khúc Nguyễn Văn Thơ “ sẽ gặp. Vâng, đúng vậy, trái tim tuy sâu thật,nhưng trái tim rồi cũng sẽ chết theo người. Chỉ có thơ là sống đời với thời gian, mà thơ sống đời thì mỹ danh của các bạn cũng sống mãi…Xin được chúc mừng ! Vậy thì bây giờ, xin các bạn khe khẽ, theo gót anh chàng học trò Lệ Ngọc Châu để mục kích cái tật rình mò của anh ta như thế nào nhé! Tôi cũng xin thưa với các bạn ở đây, tôi chỉ ghi dấu bước đi của Lê Ngọc Châu qua các ngõ nhà của mỹ nhân để các bạn tiện theo dõi, tôi không tiện diễn giải nhân vật và địa danh nơi cư trú của các giai nhân. Nếu bạn nào muốn biết thật rõ từng chi tiết, xin tìm đọc bài của tác giả Nguyễn Đông Giang, với tựa đề:” Sống Đời Với Thơ “. Bây giờ chúng ta hãy cùng theo bước chân Luân Hoán : rập rình qua ngõ Minh Xuân liếc cho đỡ nhớ dải lưng lụa vàng nhìn nghiêng, nắng gác hành lang nhìn xéo, nắng giữ hai hàng sứ xanh long lanh mắt vượt qua thành vén màn hỏi nhỏ bức tranh treo tường… âm thầm gởi tặng mùi hương lên bàn tay vãi tiếng dương cầm buồn lòng tôi phiêu lãng mười phương bỗng vể ở trọ trên trường túc hoa thấp thỏm qua ngõ Như Thoa vòng cung Độc Lập nối qua Bạch Đằng phóng mắt lên nóc lầu đen lên bao lơn rọi thấy trăng Sơn Chà trầm hương từ cõi thịt da trải xanh ngọn gió ngấm ra sông Hàn bàn tay cầm vợt bóng bàn lỡ cho ai nắm lấm vàng tình thơ tôi ngồi dựa gốc cây mơ hóa thân thương nhớ thành tơ bắc cầu e dè qua ngõ Trân Châu cây vông đồng đứng phía sau nhắc chừng bởi ai lỡ thắt dây lưng lên voi làm sống bà Trưng thuở nào cho tình thức cũng chiêm bao cho tình ngủ cũng nhả thơ nhớ đời hàng rào chẳng phải mồng tơi ném thư không tới, vói lời chẳng qua thôi đành làm đóa sao sa rơi hoài chẳng lọt nóc nhà hoa lan ngập ngừng qua ngõ Lâm An mưa dông hộ tống hai bàn chân thơ tưởng như đang đến nhà thờ thủ lời xưng tội vẩn vơ trong lòng lỡ quên hái bậy nhành bông ngửa tay hứng giọt mưa trong ngỡ là cô em chưa vướng vòng hoa chuỗi kim cương nước khác xa mọi người trông qua cổng, thấy em cười chúa tha tôi tội yêu người sau lưng lò dò qua ngõ Bích Quân giú bàn tay ở túi quần, đăm chiêu loanh quanh trong bóng xẩm chiều nghe chân mày thả lời phiêu bồng chào ngu ngơ dừng bước cổng vào dòm anh khuyển rất bảnh bao cau mày co chân buộc lại dây giày tam sông, tứ núi…chút này ngán chi ngại em…lững thững quay đi bâng khuâng ngoái lại chung qui cũng là mon men qua ngõ Thu Hà dẫu lơi chân đạp cổng nhà cũng qua nắng chiều đang thở trên hoa hình như có bóng thướt tha vói nhìn quay đầu xe lại, khó tin nụ cười thơm ấy vô tình thật sao ? gáy ngà đỡ mái tóc cao rõ ràng có hạt bụi thao thức nằm váy thơ đang độ thong dong chiếc xe đạp bỗng phải lòng quên đi tà tà qua ngõ Quỳnh Chi hai hành lang gió thầm thì quanh năm nắng không vào lọt chỗ nằm hạt thơ đâu dễ bén mầm bên hoa mê người nhớ cái ngã ba Đông Kinh Nghĩa Thục rẽ qua Nguyễn Hoàng ba nhành nhan sắc đoan trang có khi nào thấy anh chàng ngu ngơ chỗ nào véo cũng ra thơ yêu ai chưa biết vu vơ để dành phất phơ qua ngõ Thúy Oanh một gian cư xá long lanh mắt cười ai cho phép một con ruồi yêu người hóa điểm son tươi bên cằm trang Kiều mở dưới gối nằm thơm lừng hương tóc trăng rằm ngủ quên cánh tay tròn mướt tơ mềm làm sao dám gối chỉ thèm vu vơ lỡ mang bệnh nghiện làm thơ ngại chi đôi phút bất ngờ tà tâm bâng khuâng qua ngõ Ái Cầm chợ Cây Me ngó, thì thầm trên vai chàng này coi cũng bảnh trai tiếc rằng thiếu bước chân dài trổ hoa phòng hồng đã chật tiếng ca một nhà thơ ở phương xa đã vào trời thừa bao nhiêu vị sao thừa thêm vị nữa chẳng sao đâu tình vẩn vơ vào cõi u minh Tây cười dưới mộ giật mình làm thinh lờ khờ qua ngõ Diệu Minh trèo tường sân vận động nhìn mây bay nhạc luồn theo những ngón tay xoay lưng ong những vòng quay vật vờ dáng hoa đài cát thanh cao bước dần ra khỏi vạt thơ mê tình lầm bầm tụng một câu kinh một câu kinh trị thất tình vô ngôn ngó quanh trời đất vẫn tròn ngả lưng đánh giấc thả hồn lưu linh lừng khừng qua ngõ Phước Ninh lolita hiện hiển linh cười cười giá bứng được cánh môi tươi lấy thơ lấp lại cho đời khỏi ghen tình yêu là cái mặt bằng xây bao gác gió lầu trăng, vẫn thừa hôn nhau từ sáng đến trưa từ chiều sang tối vẫn chưa thơm lòng đường Phan Than Giản cong cong cái chân đứng lại, cái lòng bâng khuâng buồn buồn qua ngõ mỹ nhân Qúy Phẩm, Thạch Trúc, Ý Vân, Bích Hà Xuân, Đông, Hồng, Phú, Phước, Nga… những môi, những mắt, những da thịt nồng những vồng đất biết trổ bông thuận, không, tôi cũng đã trồng ra thơ dài đời trôi nổi phất phơ sờ trong ngực áo vẫn thao thức tình gởi người thánh nữ siêu hình nụ hôn này để tạ tình thế gian nguyện đem theo xuống suối vàng ( Qua Ngõ Mỹ Nhân ) Từ đầu đến giờ, tất cả những hình ảnh giai nhân mà tôi đã đề cập qua bài viết, xem như là tảng băng nổi trong cuộc đời tình ái của Luân Hoán. Vậy phần băng chìm còn lại ra sao ? Trước khi xem phần băng chìm còn lại, tưởng cũng cần tìm hiểu quan điểm về tình yêu của Luân Hoán. Dựa trên đời sống thực tại, tôi thấy Luân Hoán loại bỏ tất cả mặt tiêu cực và anh phát huy mặt tích cực. Quan điểm của anh thật rõ ràng : đâu có yêu ai để thất tình chỉ toàn thinh thích những em xinh sóng là của biển vô cùng tận chưa tiến thêm lên đã quay mình cứ thế mà giàu những ước mơ nhiều khi còn bạo phổi làm thơ em Y, em X, em J nữa thật giả thành ra khá mơ hồ cho dẫu rằng yêu hay là không thất tình cao lắm cũng vài năm trái tim không hạn bao nhiêu chỗ nhưng dễ dầu chi em mãi nằm thơ thẩn nhiều khi chỉ vẽ trò mười thằng thi sĩ chín ngài cho nhớ thương bành trướng theo con chữ một gã dường như giỏi giả đò em cứ tha hồ hãnh diện đi trăm năm còn mãi nét xuân thì từ trong máu thịt người thi sĩ lắng đọng thơm tình ngọn tuyệt thi thơ mới cũ gì cũng có em dẫu “ tân hình thức “ cũng xêm xêm mắt môi mông ngực linh tinh nữa những thứ tình yêu vốn rất thèm tôi bảo chưa yêu, em có tin ? ghê chưa, tôi quá đỗi hợm mình nhưng thôi, tha thứ em yêu nhé em có tôi và tôi có em ( Yêu và Thất Tình ) Vâng, “ em có tôi và tôi có em. “ Có thể đây là bước ngoặt trong đời sống tình cảm của anh chăng ? Vậy ta thử tìm hiểu ra sao : ta đến trọ nhà em từ thuở em chưa qua hết tuổi mười ba bút mực thơm từng ngọn tóc đuôi gà miệng liếng thoắng vụng về như con sáo hoa cỏ dại mọc đầy trong túi áo gót chân hồng không mệt mỏi nhảy dây trái mù u chuyền thẻ chạy quanh tay em cười hát, ăn quà, vòi vĩnh mẹ chừng nấy việc dắt dìu em nhè nhẹ dạo vòng vòng trong thế giới ngây thơ… ( Chiều Mưa ) Như anh đã nói: “ sóng là của biển vô cùng tận chưa tiến thêm lên đã quay mình Vậy anh quay mình về đâu ? Thực tế đã cho ta thấy, anh quay về ở trọ nhà cô học trò chưa qua hết tuổi mười ba. Mà chẳng ai xa lạ cả, đó chính là người đẹp Lý Phước Ninh mà trước đây anh đã nhiều lần rập rình qua ngõ mỹ nhân. Ở đây, anh đã cho và nhận được nhiều hương tình trong vườn hoa tình ái. Cũng dễ hiểu thôi, bởi tình yêu là sự cuốn hút cả tâm hồn lẫn thể xác, và tình yêu đích thực chỉ có thể có khi đi từ hai phía. Rồi việc gì đến cũng phải đến, tảng băng nổi qua nắng cháy thời gian dần dần tan đi để nhường lại phần chìm nhô lên như một sự khởi đầu thách thức. Có thể nói rằng, suốt khoảng thời gian dài phất phơ qua ngõ mỹ nhân để rập rình, Luân Hoán đã cập bến tình với người đẹp Trần Thị Lý một cách êm ả. Nàng vừa là một người tình, vừa là tri kỷ, vừa là hiền thê mẫu mực đảm đang, lại vừa là nàng thơ của anh : tên em, tên một loài hoa thơm từ chạng vạng đậm đà suốt đêm cánh mỏng mảnh, hương mông mênh dịu dàng tẩm ướp hồn lên đời thường Dạ Lý Hương, Dạ Lý Hương cũng là bông Lý bình thường đơn sơ đứng góc sân, ẩn ven rào xác là thực vật, hồn thơ chập chùng ( Qúy Danh ) Nếu không quá lời thì tôi có thể nói rằng, Luân Hoán là một nhà thơ lớn của tuổi học trò, lãng mạn, đa tình nhưng rất chung thủy. Tới đây, tôi xin phép không diễn giải thơ anh nữa, tôi chỉ trích đưa lên những đoạn thơ mà tôi cho tự nó đã nói lên quá nhiều về một mối tình thuần hậu, trường cửu… em có biết em vẫn còn trẻ mãi bởi vì ta còn mãi mãi yêu em nối tay nhau đan từng sợi võng mềm ta kính cẩn mời em yêu ngã xuống chiều bát ngát mưa ngoài hiên phiêu lãng ( Chiều Mưa ) đóng cây đinh treo ảnh em lên vách nhìn mặt em cười trong ảnh muốn hôn xinh đẹp như ri sao mà lận đận theo ta làm gì hỡi ả mèo con ? ( Đưa Nhau Về Đâu ) năm tháng bình thường không chậm nhanh lúc nào em cũng rất xuân xanh tuy rằng sương tuyết trên nhành tóc chẳng ấm lòng thơm những hiền lành em vẫn là thơ của những thơ ngày xưa ta viết đến bây giờ cho dù bay bướm đôi ba bận tình vẫn về em hóa kiếp thơ ( Cho Lý ngày 61 ) trộn chút tình ta vào bột giặt vò nhẹ nhàng bởi sợ em đau vải còn đượm mùi thịt da em ngát tay bùi ngùi như đang vuốt ve nhau trông thau nước đục lờ những cáu bẩn ta bỗng thương lớp bụi nổi màng màng chúng là những nhọc nhằn em gánh chịu nuôi chồng con dài năm tháng gian nan ( Giặt Áo Quần Cho Vợ ) Thưa quý đọc giả, trong bài viết này, mục đích của tôi chỉ muốn đưa lên những hình ảnh giai nhân, không nhiều thì ít, cũng liên quan đến dòng thơ và đời sống tình cảm của nhà thơ Luân Hoán; chứ nếu phân tích về thơ anh thì còn nhiều điều tích cực phải nói lắm. Bởi, khi đọc qua thơ anh thì ta thấy rất bình thường, nhưng suy nghĩ cho kỹ thì sẽ tìm ra được nhiều điểm lạ. Điểm lạ lẫm nổi cộm nhất trong thơ anh là các con chữ và ý từ. Anh luôn sáng tạo ý tưởng mới để đưa vào các con chữ cũ. Tôi không biết có nên cho đây là sự cách tân hay không, nhưng chắc chắn là rất lạ lẫm. Tới đây, tôi xin mượn câu danh ngôn của M. Gorki để khép lại bài viết này : “ Trên thế gian này, chẳng có vị Thần nào đẹp hơn Thần Mặt Trời, chẳng có ngọn lửa nào kỳ diệu hơn Ngọn Lửa Tình Yêu “ ./. Sài Gòn 18.9.2013 tuyền linh Nguyễn Văn Thơ Email: tuyenlinh_nguyenthi@yahoo.com.vn Luân Hoán với Giai Nhân tuyền linh Nguyễn Văn Thơ 1.Phần Đời Luân Hoán tên thật là Lê Ngọc Châu, sinh ngày 10 tháng 01 năm 1941 ( năm Canh Thìn ) tại phố cổ Hội An. Cha anh là ông Lê Hoán và mẹ là bà Nguyễn Thị Luân. Bút hiệu Luân Hoán được ghép từ tên cha và tên mẹ của anh. Ngoài ra, anh còn các bút hiệu khác như: Châu Hải Châu- Cự Hải-Trần Gia Nam- Lý Phước Ninh- Lê Bảo Hoàng Quê nội Luân Hoán ở làng Liêm Lạc, Hòa Đa, Hòa Vang Quảng Nam, quê ngoại tại Vĩnh Điện, Điện Bàn Quảng Nam. Trong nhiều năm chiến tranh ( 1945 ) gia đình anh di tản về sống ở vùng Tiên Phước Quảng Nam. Vào năm 1951, gia đình anh lại di chuyển về sống tại Huyện Hòa Vang, và sau cùng về định cư tại Thành phố Đà Nẵng. Đến ngày 02 tháng 02 năm 1985, anh được người em trai bảo lãnh để qua sống tại Montreal Canada. Anh là cựu học sinh Trường Trung Học Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Tính tình Luân Hoán rất trầm lặng, ít nói, phong cách xề xòa, lè phè, rất rõ nét là một nhà thơ từ khi còn ngồi ghế nhà trường. Luân Hoán sống nội tâm nên ít thích nhóm họp, tiệc tùng nơi đám đông. Anh đam mê nhất là Thơ, ngoài ra Luân Hoán cũng thích hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh, nhưng Thi Ca vẫn là con đường chính anh chọn và theo đuổi cho đến bây giờ. Luân Hoán biết làm thơ từ nhỏ, từ lúc lên mười, nhưng là những bài thơ rất ngô nghê của tuổi thiếu niên, như bài Hàm Tiếu v..v… Luân Hoán bắt đầu viết chính thức từ năm 1960, thường có bài trên các báo: Gió Mới-Tuổi Xanh-Thời Nay- Phổ Thông-Bách Khoa-Văn Học-Mai- Ngàn Khơi- Kỷ Nguyên Mới-Văn-Trình Bày (trước 1975 ). Anh cũng có chân trong Ban Biên Tập các Tạp chí Văn học Sài Gòn ( 1964 – 1975 ) Từ khi chuyển về sống ở Canada, thơ anh cũng góp mặt trên nhiều báo tại hải ngoại. Tác phẩm đã xuất bản: Về Trời ( Văn Học-Sai Gòn, 1964 ) Trôi Sông ( Văn Học-Sai Gòn 1966 ) Chết Trong Lòng Người ( Ngưỡng Cửa, 1967 ) Viên Đạn Cho Người Yêu Dấu ( Thơ, 1969- tái bản 1995 ) Hòa Bình Ơi Hãy Đến ( Thơ, 1970, cùng Phạm Thế Mỹ và Lê Vĩnh Thọ ) Nén Hương Cho Bàn Chân Trái ( Thơ, 1970, với các bạn văn ) Thơ Tình ( in cùng Khắc Minh, nxb Thơ, 1970 ) Ca Dao Tình Yêu ( nxb Thơ, 1970, cùng Khắc Minh ) Lục Bát Ca ( cùng Lê Vĩnh Thọ và Vĩnh Điện, nxb Thơ, 1970 ) Rượu Hồng Đã Rót ( nxb Thơ, 1974, tái bản 1995 ). Từ khi qua định cư tại Canada, Luân Hoán cũng đã xuất bản khá nhiều sách, như: Ngơ Ngác Cõi Người, Đưa Nhau Về Đâu, Cám Ơn Đất Đá Trổ Thơ, Lòng Ta Hạt Bụi Vu Vơ Bám Hoài, Mời Em Lên Ngựa, Nuôi Thơm Chùm Kỷ Niệm Xanh, Cỏ Hoa Gối Đầu, Sông Núi Cùng Người Thơm Ngát Thơ, Tác Gỉa Việt Nam ( Tự Điển dưới tên Lê Bảo Hoàng ) Ổ Tình Lận Lưng, Em Từ Lục Bát Bước Ra, Theo Gót Thơ, Thanh Thi….. 2. Thơ và Giai nhân Nói đến thơ của Luân Hoán thì bao la lắm, nói cả ngày cũng không hết, bao la như tình của anh đối với Giai Nhân vậy. Thơ Luân Hoán mang hơi thở rất riêng, không giống nhà thơ nào cả. Chính cái riêng đó làm cho tôi và các bạn cùng trang lứa, cùng Lớp cùng Trường mê mệt và luôn nhớ đến anh, như luôn nhớ đến thời hoa niên của mình – anh đúng nghĩa là một nhà thơ lớn của tuổi học trò. Anh làm thơ như đùa giỡn với thơ, trêu ghẹo ngôn ngữ. Những ngôn từ anh dùng trong thơ thật bình dị, chơn chất, y như đi đứng, ăn uống và tắm rửa hàng ngày. Thơ anh không trau chuốt, gọt giũa nhưng lại đầy sức sống, truyền cho người xem nhiều rung cảm . Chất ngọt ngào trong thơ Luân Hoán không phải vị ngọt của thứ đường đã được tinh luyện, mà là vị ngọt của cây mía lau mía đường nơi ruộng đồng thôn dã. Sự bình dị chân phương mà Luân Hoán có được trong thơ là cả một nghệ thuật, không phải ai cũng có thể viết được như thế. Nhờ tính chất chân phương này nên thơ Luân Hoán mang rất nhiều nhạc tính ( musicalite ). Tôi đã phổ nhạc thơ Luân Hoán rất nhiều, nhưng tiếc là điều kiện tài chánh chưa cho phép nên mới chỉ thu âm được ba bài ( Em và Thơ, Hỏi Thật và Bệnh Rình Hương Sắc ). Hy vọng một ngày gần đây, tôi sẽ trình làng tiếp những nhạc phẩm tôi đã phổ từ thơ Luân Hoán. Với Luân Hoán, thơ chính là hơi thở, luôn hít vào thở ra từng giây…từng phút…từng giờ…và cứ thế nối đuôi nhau không bao giờ dứt được. Bởi thế, thơ luôn theo anh cả lúc ăn, lúc thức giấc, lúc đi đường, lúc đứng đợi xe, lúc làm việc, và ngay cả lúc đang dạy học: tôi đứng lặng vài giây trên bục giảng giáo án thuộc lòng bỗng chốc lãng quên nét phấn lạc dòng chữ run mặt bảng trở lại bàn hồn nghe đã lênh đênh thôi tôi hiểu ra rồi em bé bỏng chẳng có gì mới lạ phải không em trái tim đựng bao nhiêu điều bí mật cũng chỉ là tôi đã chớm yêu em ( Điều Bí Ân Bình Thường ) Như tôi đã nói ở trên, thơ luôn theo anh, và anh luôn theo thơ, cũng như anh luôn theo gái vậy. Nếu suy nghĩ của tôi không quá chủ quan thì trên đời này không có giai nhân, Luân Hoán chẳng bao giờ có được thơ hay (?) Anh yêu mỹ nhân như yêu chính bản thân mình, có nhiều khi còn hơn thế, phải không Luân Hoán ? Vậy thì Luân Hoán biết đến mỹ nhân từ lúc naò ? Chúng ta cùng nghe anh thổ lộ: Khi gặp em độ chừng lên 8 Tôi chớm 10 rất đỗi ngô nghê Em quá đẹp bởi vì em lai Pháp Tôi lên rừng rồi trở xuống nhà quê ………………………………….. Tôi mỏi đớ nắm chân em lưỡng lự Tay vụng về tinh nghịch úp lung tung Em ú ớ nói gì như đang mớ Tôi khi không nghe nhịp máu lạ lùng Từ phút đó nằm thức hoài đến sáng Tưởng tượng ra nhiều chuyện chẳng đầu đuôi Da em ấm tôi hít hà ngột thở Nghe nhiều nơi rất khác lạ trên người ( Hàm Tiếu ) Đọc xong những câu thơ trên của Luân Hoán, tôi biết nhiều đọc giả sẽ thắc mắc và muốn đánh đòn Luân Hoán. Tại sao biết yêu sớm vậy ? Xin thưa, đây không phải là một tình yêu đúng nghĩa giữa đôi trai gái. Đây là một hiện tượng tâm sinh lý ở tuổi vị thành niên. Luân Hoán cũng như bao thiếu niên khác, do trong thời kỳ phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến những thay đổi tâm sinh lý, làm xuất hiện cảm giác, cảm xúc mới lạ đối với người khác phái. Vì Luân Hoán có tài biết làm thơ quá sớm nên Luân Hoán bộc bạch ra được, thế thôi, còn những em thiếu niên khác thì luôn giữ kín trong lòng. Dẫu sao, cũng cám ơn Luân Hoán, anh đã cho mọi người thưởng thức những câu thơ rất ngô nghê, rất thật và không kém phần dễ thương ( da em ấm tôi hít hà ngột thở- tay vụng về tinh nghịch úp lung tung ). Rất dễ thương ! Thơ của Luân Hoán luôn cuốn hút người đọc, thi phong thật đằm thắm, nhẹ nhàng, và rất diễm tình: mười sáu tuổi em tập làm thiếu nữ vai tóc thề áo lụa trắng bay bay quai nón đỏ ngậm hờ vành môi ướt vuông khăn thêu kín đáo xếp trong tay em đến lớp nắng theo đùa trên áo cặp che ngang ngực thơm ngát ngọc lan tay giở vở tưởng chừng như đệm nhạc hồn thanh xuân em lót xuống từng trang ( Điều Bí Ân Bình Thường ) Thơ anh không thể nói là không hay được, Luân Hoán dùng những từ ngữ rất mộc mạc, dung dị, nhưng cách dùng từ ngữ của anh rất uyển chuyển khiến thơ Luân Hoán luôn uốn lượn, bay bổng. Tiếng thơ anh chính là những cung bậc bổng trầm trong âm nhạc : Em từ bụi chuối bước ra Ánh trăng làm nũng chao qua ống quần Niềm vui giấu dưới bàn chân Vỡ theo sợi gió lâng lâng ngậm ngùi ( Trăng Đêm Nở Hoa ) Mỗi lần sắp sửa yêu ai Tự nhiên mặt mũi tóc tai lạ lùng Hình như có triệu vi trùng Ngo ngoe đòi được nhớ nhung với mình ( Triệu Chứng ) Hình như Luân Hoán thật sự đi vào con đường tình ái năm mười sáu tuổi, cái tuổi đầy mộng mơ, thêu hoa dệt gấm. Tuy nhiên, tình yêu thời bấy giờ của chúng tôi không thực tiễn như thời a còng (@) này, hễ yêu nhau là tự nhiên, tự do đủ mọi mặt, thậm chí có thể sống thử với nhau. Ở thế hệ chúng tôi, giữa đôi trai gái yêu nhau, chỉ biết nhìn mặt nhau, trao gởi những tình thư rất kín đáo, người nào bạo dạn lắm thì cũng chỉ biết nắm tay nhau là cùng. Tất cả nỗi lòng của mình đều được giấu kín, chẳng ai biết, ai hay. Cũng vì thế đã có những mối tình đơn phương rất tội nghiệp, chẳng hạn như tôi đây. Tôi thầm yêu trộm nhớ một cô nữ sinh học dưới tôi hai lớp, tôi học Đệ Ngũ, cô ta học Đệ Thất, chúng tôi cùng học tại Trường Trung Học Phan Chu Trinh Đà Nẵng. Tôi và cô ta cùng cư trú trong Làng Nại Hiên, cùng chung đường về nhà sau khi tan trường, nhưng suốt mấy năm trời tôi không dám hé một lời. Tôi cũng không hiểu tại sao lại như vậy. Để cuối cùng, buồn tình, tôi viết một bài thơ gởi đăng trên báo Bán Nguyệt San Phong Lan và bỏ đi biệt xứ. Tôi còn nhớ, năm đó là cuối năm Đệ Nhị. Mối tình đầu đời của tôi gói gọn trong bài thơ sau: Áo tím em mang tự thuở nào ? Kinh kỳ ngập nắng rộn xôn xao Áo em lã lướt trong gió thoảng Hứng lại giùm ta chút máu trào Ta đến nơi đây nén dặm đường Mập mờ áo tím lướt trong sương Mắt em xanh quá là xanh quá ! Ta biết rồi ta sẽ đoạn trường Dáng liễu đong đưa tắm ánh hồng Mây buông lõa xõa cợt thu phong Trân Châu chừng tưởng là sương nhạt Em nỡ không mang chiếc áo hồng ? Lê gót tìm hoa thỏa ước mong Những tưởng em mang chiếc áo hồng Ngờ đâu em đắp lên màu tím Tím cả lòng ta mấy độ trông Mây xám chiều nay đổ xuống rồi Rớm sầu nguyệt lệ ánh sao rơi Đường về lối nhỏ hoa tim tím Cánh bướm bay qua tủi phận đời ( Aó Tím – Tuyền Linh ) Luân Hoán thì khác tôi, anh ấy bản lĩnh hơn tôi trong việc giao tiếp với phái nữ, chỉ hơn tôi thôi vì tôi quá nhát gái, chứ thật ra theo nhận xét của bạn bè thì Luân Hoán bạo thơ hơn bạo gái. Mối tình đầu đời của Luân Hoán chớm nở vào năm mười sáu tuổi, cũng mặn nồng trong cốt cách khù khờ của tuổi mới lớn : Thuở mới yêu em độ chừng mười bảy Sắc hương thơm đằm thắm nở nụ hoa Ta lụt lịt chỉ thua em một tuổi Sao khù khờ nhút nhát – nghĩ không ra ……………………………………….. Môi với lưỡi chưa một lần dám chạm Nước bọt nhau mặn nhạt ngọt ra sao Vào xi nê chỉ dính chùm mái tóc Và mười ngón tay siết thật khít khao ( Nụ Trăng Đầu Đời ) Hình như đường tình của bất cứ ai trong thế gian này cũng đều như nhau, mối tình đầu chẳng bao giờ bền vững cả, như một quy luật. Luân Hoán cũng không ngoại lệ. Anh đã chia tay mối tình đầu một cách bất ngờ, không rõ nguyên do, để lại trong ký ức bao nỗi nhớ ngu ngơ…dễ thương…khó tả : Yêu chẳng biết làm gì hơn ngoài nhớ Nhớ lạ kỳ, nhớ tưởng phát cuồng điên Mới chia tay vừa đến nhà đã viết Trao gởi cho nhau liên tiếp nỗi niềm Chữ chẳng nói thay lòng hay đều vụng Để bất ngờ chia biệt chẳng nguyên do Vết thương tình của nhau không hiện rõ Vì hình như hai đứa giỏi giả đò Giờ em đã là chim lồng quí phái Ngậm nụ trăng đầu hay nhả từ lâu ? Ta nhờ nuốt đã như là thi sĩ Nụ tình xưa thành nụ thơ nhạt màu ( Nụ Trăng Đầu Đời ) Thơ của Luân Hoán luôn gợi lên một hình ảnh rất đẹp của tuổi học trò, rất học trò. Những cử chỉ vụng dại nhưng ngọt ngào, ngây ngô nhưng sâu lắng. Anh dùng ngôn ngữ rất đẹp, rất trẻ con, rất đời thường nên người đọc dễ nhập tâm, thấm đẫm. Luân Hoán sắp xếp những từ ngữ bình dân này vào thơ một cách rất khoa học, làm cho thơ anh sinh động hẳn lên, khiến người đọc tưởng như đang thực sự sống với cảnh thơ, quên bẵng đi thế giới bên ngoài rẫy đầy gai góc : mang vào lớp bài thơ anh mới tặng khoe bạn bè cho chúng lác mắt chơi í mà chết, anh viết gì trong đó ? chuyện chúng mình? Em hổng chịu đâu anh phải viết chuyện con mèo con chó chuyện con chim con cá gì thôi hay cùng lắm chuyện trời mưa trời nắng chuyện chúng mình, kỳ lắm, thôi thôi… ( Nhõng Nhẽo – Đưa Nhau Về Đâu ) Rất hồn nhiên, trong sáng, chơn chất : mà thôi, chắc không được ba mẹ chẳng chịu đâu anh người dưng nước lã đâu phải…xì, còn lâu ( Tết Mười Sáu ) Rất thật thà, ngây ngô, dễ thương : em có nhớ trong sân trường bữa ấy cô giáo đau, ta được nghỉ giờ đầu rất tình cờ hai đứa chợt gặp nhau em mở cặp vội vàng trao quyển sách sợ bạn thấy ta kẹp vào dưới nách đi một hơi không kịp cám ơn em trốn vào cầu hối hả giở ra xem mảnh giấy nhỏ nét mực nghiêng nghiêng tím ( Trong Sân Trường Bữa Ấy ) Thơ Luân Hoán không mang tính ẩn dụ cao, thỉnh thoảng ta mới bắt gặp, nhưng những tình huống ẩn dụ trong thơ anh rất tinh tế. Thơ anh luôn phơi bày ra tất cả những ngõ ngách của tâm hồn mình, nhờ vậy thơ Luân Hoán dễ đi sâu vào lòng người đọc : tôi đã viết những gì trong lưu bút một đôi dòng tạm biệt vu vơ chiếc ảnh nhỏ tôi dán vào bên góc ghi khiêm nhường ba chữ đơn sơ khi chụp ảnh nào đâu tôi có khóc sao mắt buồn chan chứa bao la suốt niên khóa cùng chung trường chung lớp chung thầy cô, chung chúng bạn thân quen sao hình như vẫn vô cùng xa cách trai gái đôi đường cách trở chia ngăn …………………………………………… em có nhớ những lần đi du ngoạn em vui đùa nhí nhảnh như con chim không hiểu sao bỗng nhiên tôi buồn bã tiếng em cười nghe đau nhói trong tim sau ba tháng biết em còn đến lớp ? mùa hè này ai đi hỏi em không ? tập lưu bút của em tôi mở đó viết làm sao cho hết những chuyện lòng ( Lưu Bút – Đưa Nhau Về Đâu ) Có nhiều người cho rằng Thơ chỉ là Thơ, Thơ không là đời sống thực. Tôi thì không cho như vậy. Tôi không quá mẫn cảm với thơ Luân Hoán, nhưng tôi tâm đắc dòng thơ anh vì thơ anh kết hợp được thế giới hiện thực với thế giới tưởng tượng, cái hay trong thơ Luân Hoán là ở chỗ này. Vì rằng,thế giới hiện thực có giới hạn, trong khi thế giới tưởng tượng là vô hạn. Như các triết gia Tây phương đã nhận định, tưởng tượng làm sống lại những kỷ niệm và tôn giá trị niềm vui sướng mà những kỷ niệm ấy gợi lên. Tưởng tượng sáng tạo như Luân Hoán được đánh giá là rất tích cực, mang đến cho con người phương tiện để thoát khỏi những buồn rầu trong cuộc sống; làm cho con người hạnh phúc hơn trong thực tế, làm phong phú cảm xúc con người. Nghệ sĩ không thể không tưởng tượng trong khi sáng tác, bởi tưởng tượng là tự do vượt lên trên hiện tại, thực tại để trở về đó một cách sâu sắc hơn. Như Sigmund Freud đã nói: “ nghệ thuật cũng chính là một giấc mơ ( giấc mơ ban ngày ) Nghệ thuật là một cách để con người ghi lại những giấc mơ. Giấc mơ nghệ thuật giúp con người được sống nhiều cuộc đời, trải nghiệm nhiều tình huống, thỏa mãn những khát vọng không phải lúc nào cũng thực hiện được “ Vâng, đúng thế. Vậy chúng ta hãy cùng xem thế giới tưởng tượng của Luân Hoán khi ra Huế đi thi Tú Tài gặp các cô sinh viên ra sao : chào em lộng lẫy Luật Khoa cho tôi thay cái cặp da tầm thường kẻo không phí mất mùi hương em đang bỏ lại trên đường em đi xin thề tôi chẳng nói chi nằm ngoan trong ngón xuân thì trổ thơ ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) ………………………………………… chào em đài cát Văn Khoa cho tôi thế cái yên da em ngồi đường dài nhớ đạp thảnh thơi cho tôi uống trọn hương đời thơm tho xin thề không dám làm thơ chỉ thiêm thiếp mộng bên bờ tồn sinh ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) Dù thế giới tưởng tượng là vô hạn, nhưng không kết hợp được với thế giới hiện thực thì cũng chẳng có thơ hay. Chúng ta hãy nghe Luân Hoán ra Huế thi Tú Tài, ngồi đúng vào cái bàn có khắc tên các nữ sinh Đồng Khánh Huế. Anh nói gì đây : ngồi thi nhìn cái mặt bàn Thu, Sương, Bích, Thảo nhẹ nhàng hóa thơ ……………………………………………. không biết chỗ này ngày mấy buổi ai ngồi duỗi thẳng búp chân thơm cánh tay chắc hẳn tròn ghê lắm tựa nhẳn mặt bàn ửng nước thơm ………………………………….. này ả thơ cưng trường Đồng Khánh tay ta cầm bút trả bài thi hồn ta lơ lửng trong hương Huế đạt cả hai tay chẳng có chi ……………………………………... Vâng,” chẳng có chi “, và cậu học trò Lê Ngọc Châu, Trường Phan Chu Trinh Đà Nẵng đã chẳng có chi, thi hỏng Tú Tài kỳ 1. Có thể nói rằng, Luân Hoán kết hợp thế giới hiện thực và thế giới tưởng tượng một cách rất nhuần nhuyễn, bởi trí tưởng tưởng cũng nằm trong vùng tâm thức cá nhân anh. Nói như John Lennon: “ Hiện thực để lại nhiều điều cho trí tưởng tượng “, Vâng, đúng thế. Ở bất cứ hình ảnh nào trong thơ Luân Hoán, cái nhìn của anh luôn xuyên suốt, vượt qua tất cả sự vật bằng trí tưởng tượng của mình, nhờ thế hình ảnh trong thơ anh luôn mỹ miều dễ cảm : ta đứng tựa trong hành lang lớp học trên lầu cao nhìn xuống mộng bâng khuâng lòng cúi theo từng ngọn tóc phân vân hôn rất nhẹ trên tóc thề đen nhánh môi em đỏ sao hình như quá lạnh răng trắng thơm níu giữ lấy hồn ta lưỡi rót thương tình rót mật đậm đà ta nương náu bên em bằng mộng tưởng bởi quá yêu nên ta giàu tưởng tượng)) ( Trong Sân Trường Bữa Ấy ) Tưởng tượng như thế này thì thú vị biết bao ! ngoắc kêu một bác xe lôi một mình mà tưởng đang ngồi với em quanh co xe chạy đã thèm bác phu nhỏ nhẹ:” thầy quên chỉ đường “ ( Nhật ký chặng đường Đà Nẵng – Sài Gòn ) Hoặc dặn dò vu vơ : nhớ đừng gục xuống mặt bàn gỗ hôn trộm má môi hoàng hậu ra ( Nhật Ký ) Nhờ trí tưởng tượng phong phú nên không gian thơ Luân Hoán rất rộng: ở trường học, ở ngoài phố, ở chợ, ở hồ bơi, ở bãi biển, ở sông ngòi, ở vùng quê, ở miếu đình, và nhất là ở trước cổng nhà của các mỹ nhân; chỗ nào có giai nhân là chỗ đó có thơ anh. Tất cả hình như đều đến rất bất chợt, không hẹn trước. Chính sự bất chợt này đã phát triển năng khiếu bẩm sinh của anh một cách mạnh mẽ, nhanh chóng và đưa thơ anh lên ngôi. Trong thơ Luân Hoán, thỉnh thoảng ta thấy anh muốn hóa thân ra nhiều ảnh hình như: mây, gió, hạt bụi, ánh nắng mặt trời, cái yên da xe đạp, cái cặp da nữ sinh, con tàu bập bềnh trên sóng biển…Nói chung, tất cả những gì có thể tiếp cận được với mỹ nhân là anh hóa thân ra thứ ấy, để ve vãn, để trêu cợt hay nói một cách thực tế hơn là để được thưởng thức mùi hương của người đẹp (?) : gáy ngà đỡ mái tóc cao rõ ràng có hạt bụi thao thức nằm mây cao chốc chốc muốn sa nắng soi từng góc thân hoa thiên thần câu thơ biết phận cù lần rút lui vào trái tim trần nằm mơ ( Thả Thơ Trên Biển ) chào em đài cát Văn Khoa cho tôi thế cái yên da em ngồi chào em lộng lẫy Luật Khoa cho tôi thay cái cặp da tầm thường ( Ngàn năm người đẹp Hương Giang Vẫn còn đi đứng đàng hoàng trong tôi ) Luân Hoán hóa thân trong thơ thật đẹp, thật dễ thương, thật diễm tình : em nằm đắp nắng bãi chiều cồn hoa che ngọn thủy triều trắng phau tôi ngồi vốc cát xây lầu hóa thân thả triệu con tàu viễn mơ ngực em đè phải câu thơ còn nằm trong trái tim khờ dại tôi Một đôi lúc, trí tượng của anh vượt quá vùng hiện thực, anh vẫn cho ra đời những câu thơ rất ngộ nghĩnh : nằm nghiêng thừa cánh tay ôm nằm ngửa thiếu cánh tay thơm lạnh đùi nằm sấp bức rức cả người ngồi lên chạm mỹ nhân ngồi chung quanh ( Nhớ ) Như tôi đã nói ở trên, thơ Luân Hoán ít mang tính ẩn dụ, nhưng một đôi khi những bài thơ của anh mang tính ẩn dụ thì lại đầy sức sống : em ngồi trải cánh chân phơi nắng thơm nghiêng một góc trời săm se tôi ngồi đờ đẫn tay che com-chim-thơ-đội-mộng xòe cánh bay gió rình trong nách lá cây hồ đồ rơi trúng mình dây em mềm hoảng hồn, gió vãi hương lên thanh xuân cỏ biếc hai bên tôi nằm mon men tôi ướm tay thăm vô tình vướng phải cái dằm nhớ nhung ( Trên Đồi Cỏ ) Theo nhận định của tôi, thơ Luân Hoán và Giai Nhân luôn hòa quyện với nhau, có Giai Nhân là có thơ Luân Hoán và có thơ Luân Hoán là có hình bóng Giai Nhân. Hay nói một cách chính xác hơn, Giai Nhân chính là mạch nguồn của dòng thơ Luân Hoán. Trong lòng anh không lúc nào là không có hình bóng giai nhân ngự trị, bởi cõi lòng anh mênh mông quá như chính thơ anh tự nó đã lắm mênh mông. Chúng ta hãy đọc những câu thơ dưới đây sẽ hiểu anh hơn : chiều chiều luồn chợ Vườn Hoa trôi theo Đồng Khánh bám tà áo bay mắt hồng liệng cái ngoắt tay dắt qua Độc Lập dựa cây đèn đường chập chùng xuân ảnh vãi hương ngó ai lòng cũng yêu thương tức thì giả vờ châm thuốc nhâm nhi nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh mình ( Đà Nẵng – 1960 ) “ Nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh mình “. Vâng, thèm hơn thèm thuốc lá. Nhưng sự thèm khát của anh không phải là sắc dục, mà anh thèm hứng dòng mạch nguồn chảy ra từ tâm hồn mình. Bởi thế, cảm xúc anh lúc nào cũng tuôn trào để hóa thành thơ. Với anh, một ngày không làm được thơ kể như ngày ấy muốn bịnh. Anh tâm sự : làm thơ là để bình thường cái ta cứ thích đứng đường ngó em làm thơ là để lênh đênh trên giòng rảnh rỗi chợt quên mất mình làm thơ là để làm thinh im nghe ta tự tỏ tình với ta làm thơ là để dần dà trở thành ông thánh hóa ra ông khùng làm thơ là sống ung dung để cho óc khỏi lùng bùng nổi điên làm thơ là có đủ quyền ba hoa tưởng tượng đã ghiền mới thôi với ta, thơ như bầu hơi của hai lá phổi lôi thôi thở hoài ngày nào thơ chẳng lai rai kể như ngày đó coi mòi muốn đau ( Ta Phỏng Vấn Ta ) Đọc thơ Luân Hoán, ta cảm thấy thời gian như chậm lại, như chính cốt cách lè phè ngoài đời của anh. Với anh, thời gian luôn thong thả xuôi dòng, thong dong tự tại : trong đầu nhú chút vẩn vơ trong bụng vài ngọn chữ lơ mơ nằm kể như cái ổ lót xong nằm-ngồi-đi-đứng thong dong đẻ đều Vâng, anh đẻ ra thơ thật đều, thật nhiều. So với tỷ lệ thời gian, anh là một trong những nhà thơ Việt Nam có số lượng sách xuất bản nhiều nhất. Tôi nghĩ, thơ anh được đa số học sinh, sinh viên yêu thích. Riêng tôi, tôi rất tâm đắc dòng thơ trữ tình của anh nếu không muốn nói là đồng cảm. Thơ Luân Hoán không mang tính ước lệ, thơ anh rất gần với đời thường. Luân Hoán không sáng tạo ngôn ngữ nhưng anh sắp xếp ngôn ngữ rất uyển chuyển, mới lạ : em từ bụi chuối bước ra ánh trăng làm nũng chao qua ống quần hay: mỗi lần sắp sửa yêu ai tự nhiên mặt mũi tóc tai lạ lùng hình như có triêu vi trùng ngo ngoe đòi được nhớ nhung với mình Chỉ chừng đó con chữ, rất đời thường, nhưng anh đưa vào những ý tưởng thật mới lạ. Theo tôi, thơ anh luôn sống mãi với thời gian, nó như đã được thẩm định thời tính, nó chính là tiếng thời gian, tuy vô hình nhưng hiện hữu. Thơ của Luân Hoán đi từ cái không đến có, từ quên đến nhớ. Vâng, sau bao thăng trầm trong cuộc sống, vật lộn với cơm áo gao tiền, tha phương cầu thực, khi đọc được thơ anh, cả một Đà Nẵng lai hiện rõ trong tôi với bao hoài niệm. Từng con đường góc phố, từng hàng cây, từng những ngã tư, ngã ba hẹn hò, từng thôn xóm làng mạc, và nhất là hình ảnh những bóng hồng tha thướt một thời, tất cả đều đã được phát họa một cách rõ nét trong thơ anh. Tiện đây, tôi cũng xin phép các giai nhân một thời cùa Thành phố Đà Nẵng để ghi lại những dòng thơ trữ tình rất học trò và đầy tinh nghịch của Luân Hoán, một giọng thơ mà theo tôi nghĩ, các bạn ( xin phép được xưng hô như vậy cho thân mật ) khi đọc đến không khỏi phì cười lẫn bùi ngùi cho anh bạn học trò Lê Ngọc Châu. Phì cười vì nhìn được những cử chỉ rập rình như kẻ trộm của anh trước cổng nhà các bạn, và bùi ngùi khi thấy anh ghẹo gái thật nhiều nhưng rốt cuộc lại trắng tay. Nếu bạn nào chưa đọc, xin mời đọc những dòng này : người tôi yêu, ở Lầu Đèn cây cao lá rậm ánh trăng khó vào trèo rào, tôi lén dán thơ mạch tình dẫn những đường sao đi về người tôi yêu, ở Thanh Khê quanh năm cát đóng quân che hải triều buộc thơ, tôi thả thay diều sáng khoe khoang gió xẩm chiều về không người tôi yêu, ở Cầu Vồng hương luồn hẻm cỏ những vòng thanh xuân nhiều khi gió lạc dấu lưng treo thơ tôi ngóng ở từng ngã ba người tôi yêu, ở Tam Tòa con đường, bụi, tóc đuôi gà bay chung mắt thơ khuyến khích, nhắc chừng mê, xin tự tiện, nhưng…đừng ghé vô người tôi yêu, ở Thanh Bồ tiếng cười đọng góc nhà thờ nuôi mây ngày ngày tôi đợi gió bay thở ra một ngụm thơ đầy mái hiên người tôi yêu, ở Nại Hiên vông đồng đứng chốt hữu biên canh chừng giả đò giày vướng lai quần thò tay tôi lượm thơ từng búp xanh người tôi yêu, ở Thuận Thành mấy đường sắt rỉ cỏ xanh mòn dần bóng tôi cùng nắng lần quần đọng thành vết sẹo trong ngần nhớ nhung người tôi yêu, ở tứ tung Phước Ninh, Thạch Gián, Khuê Trung,Thanh Hà Hải Châu, An Hải, Xuân Hòa vun vun mấy cõi đất tà ma chôn hạt tình bén giữa môi son nở tôi, tôi nở những con thơ tình người tôi yêu, những con tinh ngo ngoe sống thật hiển linh muôn đời người tôi yêu, ở mọi nơi nhưng chưa có được một người yêu tôi ( Cõi Bén Tình Thơ ) Vào thập niên 60 – 70, không hiểu trời phú thế nào mà Đà Nẵng sản sinh ra nhiều mỹ nhân đến thế ! Như tôi đã nói ở trên, nơi nào có giai nhân là nơi đó có thơ Luân Hoán. Lúc bấy giờ, dòng thơ anh tuôn trào như thác đổ. Tôi thấy trên toàn cõi đất nước Việt Nam chúng ta, chưa có một tỉnh thành nào có nhiều giai nhân được thi nhân ưu ái như Thành Phố Đà Nãng cả. Có lẽ đó cũng là một nét đặc thù trong thơ Luân Hoán chăng ? Dựa theo thơ anh, tôi tính tất cả là 23 Nữ Sắc được anh đưa lên ngôi và bắt anh hầu hạ mệt nghỉ. Tiện đây, tôi cũng xin phép có vài lời với các giai nhân Thành Phố Đà Nẵng một thời. Khi viết bài này, tôi đưa mỹ danh của các bạn lên với ý nghĩ trang trọng, và xin các bạn hãy hãnh diện khi thấy mỹ danh mình được ngồi chểm chệ trên dòng thơ Luân Hoán- một dòng thơ mượt mà, trữ tình, sâu lắng. Như anh đã từng nói : trời sinh em, trời sinh thơ nếu không chẳng biết phải thờ em đâu trái tim dù rất là sâu chắc gì em được ở lâu đời đời ( Em và Thơ ) (*) (*) Bài Thơ này đã được phổ nhạc, các bạn muốn nghe hãy vào Google và tìm “ Tình Khúc Nguyễn Văn Thơ “ sẽ gặp. Vâng, đúng vậy, trái tim tuy sâu thật,nhưng trái tim rồi cũng sẽ chết theo người. Chỉ có thơ là sống đời với thời gian, mà thơ sống đời thì mỹ danh của các bạn cũng sống mãi…Xin được chúc mừng ! Vậy thì bây giờ, xin các bạn khe khẽ, theo gót anh chàng học trò Lệ Ngọc Châu để mục kích cái tật rình mò của anh ta như thế nào nhé! Tôi cũng xin thưa với các bạn ở đây, tôi chỉ ghi dấu bước đi của Lê Ngọc Châu qua các ngõ nhà của mỹ nhân để các bạn tiện theo dõi, tôi không tiện diễn giải nhân vật và địa danh nơi cư trú của các giai nhân. Nếu bạn nào muốn biết thật rõ từng chi tiết, xin tìm đọc bài của tác giả Nguyễn Đông Giang, với tựa đề:” Sống Đời Với Thơ “. Bây giờ chúng ta hãy cùng theo bước chân Luân Hoán : rập rình qua ngõ Minh Xuân liếc cho đỡ nhớ dải lưng lụa vàng nhìn nghiêng, nắng gác hành lang nhìn xéo, nắng giữ hai hàng sứ xanh long lanh mắt vượt qua thành vén màn hỏi nhỏ bức tranh treo tường… âm thầm gởi tặng mùi hương lên bàn tay vãi tiếng dương cầm buồn lòng tôi phiêu lãng mười phương bỗng vể ở trọ trên trường túc hoa thấp thỏm qua ngõ Như Thoa vòng cung Độc Lập nối qua Bạch Đằng phóng mắt lên nóc lầu đen lên bao lơn rọi thấy trăng Sơn Chà trầm hương từ cõi thịt da trải xanh ngọn gió ngấm ra sông Hàn bàn tay cầm vợt bóng bàn lỡ cho ai nắm lấm vàng tình thơ tôi ngồi dựa gốc cây mơ hóa thân thương nhớ thành tơ bắc cầu e dè qua ngõ Trân Châu cây vông đồng đứng phía sau nhắc chừng bởi ai lỡ thắt dây lưng lên voi làm sống bà Trưng thuở nào cho tình thức cũng chiêm bao cho tình ngủ cũng nhả thơ nhớ đời hàng rào chẳng phải mồng tơi ném thư không tới, vói lời chẳng qua thôi đành làm đóa sao sa rơi hoài chẳng lọt nóc nhà hoa lan ngập ngừng qua ngõ Lâm An mưa dông hộ tống hai bàn chân thơ tưởng như đang đến nhà thờ thủ lời xưng tội vẩn vơ trong lòng lỡ quên hái bậy nhành bông ngửa tay hứng giọt mưa trong ngỡ là cô em chưa vướng vòng hoa chuỗi kim cương nước khác xa mọi người trông qua cổng, thấy em cười chúa tha tôi tội yêu người sau lưng lò dò qua ngõ Bích Quân giú bàn tay ở túi quần, đăm chiêu loanh quanh trong bóng xẩm chiều nghe chân mày thả lời phiêu bồng chào ngu ngơ dừng bước cổng vào dòm anh khuyển rất bảnh bao cau mày co chân buộc lại dây giày tam sông, tứ núi…chút này ngán chi ngại em…lững thững quay đi bâng khuâng ngoái lại chung qui cũng là mon men qua ngõ Thu Hà dẫu lơi chân đạp cổng nhà cũng qua nắng chiều đang thở trên hoa hình như có bóng thướt tha vói nhìn quay đầu xe lại, khó tin nụ cười thơm ấy vô tình thật sao ? gáy ngà đỡ mái tóc cao rõ ràng có hạt bụi thao thức nằm váy thơ đang độ thong dong chiếc xe đạp bỗng phải lòng quên đi tà tà qua ngõ Quỳnh Chi hai hành lang gió thầm thì quanh năm nắng không vào lọt chỗ nằm hạt thơ đâu dễ bén mầm bên hoa mê người nhớ cái ngã ba Đông Kinh Nghĩa Thục rẽ qua Nguyễn Hoàng ba nhành nhan sắc đoan trang có khi nào thấy anh chàng ngu ngơ chỗ nào véo cũng ra thơ yêu ai chưa biết vu vơ để dành phất phơ qua ngõ Thúy Oanh một gian cư xá long lanh mắt cười ai cho phép một con ruồi yêu người hóa điểm son tươi bên cằm trang Kiều mở dưới gối nằm thơm lừng hương tóc trăng rằm ngủ quên cánh tay tròn mướt tơ mềm làm sao dám gối chỉ thèm vu vơ lỡ mang bệnh nghiện làm thơ ngại chi đôi phút bất ngờ tà tâm bâng khuâng qua ngõ Ái Cầm chợ Cây Me ngó, thì thầm trên vai chàng này coi cũng bảnh trai tiếc rằng thiếu bước chân dài trổ hoa phòng hồng đã chật tiếng ca một nhà thơ ở phương xa đã vào trời thừa bao nhiêu vị sao thừa thêm vị nữa chẳng sao đâu tình vẩn vơ vào cõi u minh Tây cười dưới mộ giật mình làm thinh lờ khờ qua ngõ Diệu Minh trèo tường sân vận động nhìn mây bay nhạc luồn theo những ngón tay xoay lưng ong những vòng quay vật vờ dáng hoa đài cát thanh cao bước dần ra khỏi vạt thơ mê tình lầm bầm tụng một câu kinh một câu kinh trị thất tình vô ngôn ngó quanh trời đất vẫn tròn ngả lưng đánh giấc thả hồn lưu linh lừng khừng qua ngõ Phước Ninh lolita hiện hiển linh cười cười giá bứng được cánh môi tươi lấy thơ lấp lại cho đời khỏi ghen tình yêu là cái mặt bằng xây bao gác gió lầu trăng, vẫn thừa hôn nhau từ sáng đến trưa từ chiều sang tối vẫn chưa thơm lòng đường Phan Than Giản cong cong cái chân đứng lại, cái lòng bâng khuâng buồn buồn qua ngõ mỹ nhân Qúy Phẩm, Thạch Trúc, Ý Vân, Bích Hà Xuân, Đông, Hồng, Phú, Phước, Nga… những môi, những mắt, những da thịt nồng những vồng đất biết trổ bông thuận, không, tôi cũng đã trồng ra thơ dài đời trôi nổi phất phơ sờ trong ngực áo vẫn thao thức tình gởi người thánh nữ siêu hình nụ hôn này để tạ tình thế gian nguyện đem theo xuống suối vàng ( Qua Ngõ Mỹ Nhân ) Từ đầu đến giờ, tất cả những hình ảnh giai nhân mà tôi đã đề cập qua bài viết, xem như là tảng băng nổi trong cuộc đời tình ái của Luân Hoán. Vậy phần băng chìm còn lại ra sao ? Trước khi xem phần băng chìm còn lại, tưởng cũng cần tìm hiểu quan điểm về tình yêu của Luân Hoán. Dựa trên đời sống thực tại, tôi thấy Luân Hoán loại bỏ tất cả mặt tiêu cực và anh phát huy mặt tích cực. Quan điểm của anh thật rõ ràng : đâu có yêu ai để thất tình chỉ toàn thinh thích những em xinh sóng là của biển vô cùng tận chưa tiến thêm lên đã quay mình cứ thế mà giàu những ước mơ nhiều khi còn bạo phổi làm thơ em Y, em X, em J nữa thật giả thành ra khá mơ hồ cho dẫu rằng yêu hay là không thất tình cao lắm cũng vài năm trái tim không hạn bao nhiêu chỗ nhưng dễ dầu chi em mãi nằm thơ thẩn nhiều khi chỉ vẽ trò mười thằng thi sĩ chín ngài cho nhớ thương bành trướng theo con chữ một gã dường như giỏi giả đò em cứ tha hồ hãnh diện đi trăm năm còn mãi nét xuân thì từ trong máu thịt người thi sĩ lắng đọng thơm tình ngọn tuyệt thi thơ mới cũ gì cũng có em dẫu “ tân hình thức “ cũng xêm xêm mắt môi mông ngực linh tinh nữa những thứ tình yêu vốn rất thèm tôi bảo chưa yêu, em có tin ? ghê chưa, tôi quá đỗi hợm mình nhưng thôi, tha thứ em yêu nhé em có tôi và tôi có em ( Yêu và Thất Tình ) Vâng, “ em có tôi và tôi có em. “ Có thể đây là bước ngoặt trong đời sống tình cảm của anh chăng ? Vậy ta thử tìm hiểu ra sao : ta đến trọ nhà em từ thuở em chưa qua hết tuổi mười ba bút mực thơm từng ngọn tóc đuôi gà miệng liếng thoắng vụng về như con sáo hoa cỏ dại mọc đầy trong túi áo gót chân hồng không mệt mỏi nhảy dây trái mù u chuyền thẻ chạy quanh tay em cười hát, ăn quà, vòi vĩnh mẹ chừng nấy việc dắt dìu em nhè nhẹ dạo vòng vòng trong thế giới ngây thơ… ( Chiều Mưa ) Như anh đã nói: “ sóng là của biển vô cùng tận chưa tiến thêm lên đã quay mình Vậy anh quay mình về đâu ? Thực tế đã cho ta thấy, anh quay về ở trọ nhà cô học trò chưa qua hết tuổi mười ba. Mà chẳng ai xa lạ cả, đó chính là người đẹp Lý Phước Ninh mà trước đây anh đã nhiều lần rập rình qua ngõ mỹ nhân. Ở đây, anh đã cho và nhận được nhiều hương tình trong vườn hoa tình ái. Cũng dễ hiểu thôi, bởi tình yêu là sự cuốn hút cả tâm hồn lẫn thể xác, và tình yêu đích thực chỉ có thể có khi đi từ hai phía. Rồi việc gì đến cũng phải đến, tảng băng nổi qua nắng cháy thời gian dần dần tan đi để nhường lại phần chìm nhô lên như một sự khởi đầu thách thức. Có thể nói rằng, suốt khoảng thời gian dài phất phơ qua ngõ mỹ nhân để rập rình, Luân Hoán đã cập bến tình với người đẹp Trần Thị Lý một cách êm ả. Nàng vừa là một người tình, vừa là tri kỷ, vừa là hiền thê mẫu mực đảm đang, lại vừa là nàng thơ của anh : tên em, tên một loài hoa thơm từ chạng vạng đậm đà suốt đêm cánh mỏng mảnh, hương mông mênh dịu dàng tẩm ướp hồn lên đời thường Dạ Lý Hương, Dạ Lý Hương cũng là bông Lý bình thường đơn sơ đứng góc sân, ẩn ven rào xác là thực vật, hồn thơ chập chùng ( Qúy Danh ) Nếu không quá lời thì tôi có thể nói rằng, Luân Hoán là một nhà thơ lớn của tuổi học trò, lãng mạn, đa tình nhưng rất chung thủy. Tới đây, tôi xin phép không diễn giải thơ anh nữa, tôi chỉ trích đưa lên những đoạn thơ mà tôi cho tự nó đã nói lên quá nhiều về một mối tình thuần hậu, trường cửu… em có biết em vẫn còn trẻ mãi bởi vì ta còn mãi mãi yêu em nối tay nhau đan từng sợi võng mềm ta kính cẩn mời em yêu ngã xuống chiều bát ngát mưa ngoài hiên phiêu lãng ( Chiều Mưa ) đóng cây đinh treo ảnh em lên vách nhìn mặt em cười trong ảnh muốn hôn xinh đẹp như ri sao mà lận đận theo ta làm gì hỡi ả mèo con ? ( Đưa Nhau Về Đâu ) năm tháng bình thường không chậm nhanh lúc nào em cũng rất xuân xanh tuy rằng sương tuyết trên nhành tóc chẳng ấm lòng thơm những hiền lành em vẫn là thơ của những thơ ngày xưa ta viết đến bây giờ cho dù bay bướm đôi ba bận tình vẫn về em hóa kiếp thơ ( Cho Lý ngày 61 ) trộn chút tình ta vào bột giặt vò nhẹ nhàng bởi sợ em đau vải còn đượm mùi thịt da em ngát tay bùi ngùi như đang vuốt ve nhau trông thau nước đục lờ những cáu bẩn ta bỗng thương lớp bụi nổi màng màng chúng là những nhọc nhằn em gánh chịu nuôi chồng con dài năm tháng gian nan ( Giặt Áo Quần Cho Vợ ) Thưa quý đọc giả, trong bài viết này, mục đích của tôi chỉ muốn đưa lên những hình ảnh giai nhân, không nhiều thì ít, cũng liên quan đến dòng thơ và đời sống tình cảm của nhà thơ Luân Hoán; chứ nếu phân tích về thơ anh thì còn nhiều điều tích cực phải nói lắm. Bởi, khi đọc qua thơ anh thì ta thấy rất bình thường, nhưng suy nghĩ cho kỹ thì sẽ tìm ra được nhiều điểm lạ. Điểm lạ lẫm nổi cộm nhất trong thơ anh là các con chữ và ý từ. Anh luôn sáng tạo ý tưởng mới để đưa vào các con chữ cũ. Tôi không biết có nên cho đây là sự cách tân hay không, nhưng chắc chắn là rất lạ lẫm. Tới đây, tôi xin mượn câu danh ngôn của M. Gorki để khép lại bài viết này : “ Trên thế gian này, chẳng có vị Thần nào đẹp hơn Thần Mặt Trời, chẳng có ngọn lửa nào kỳ diệu hơn Ngọn Lửa Tình Yêu “ ./. Sài Gòn 18.9.2013 tuyền linh Nguyễn Văn Thơ Email: tuyenlinh_nguyenthi@yahoo.com.vn |
|
TUYEN LINH
|
|
IP Logged | |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |