Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Lịch Sử - Nhân Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Lịch Sử - Nhân Văn
Message Icon Chủ đề: CA DAO NAM BỘ Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Chủ đề: CA DAO NAM BỘ
    Gởi ngày: 04/Sep/2008 lúc 3:05am
BIÊN KHẢO
Tính cách Nam bộ qua biểu trưng ca dao

TRẦN VĂN NAM

Biểu trưng nói một cách đơn giản là dùng cái A để nói cái B. Chẳng hạn, cặp biểu trưng "cá chậu - chim lồng" biểu trưng cho cảnh tù túng của một ai đó, trong ca dao thường có biểu trưng cho người con gái có chồng (mà không hạnh phúc).

Biểu trưng bao giờ cũng gắn với văn hóa tộc người và vùng đất bởi quá trình biểu trưng hóa (quá trình liên tưởng so sánh giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt) bị sự chi phối của môi trường tự nhiên và hoàn cảnh xã hội. Xuất phát từ luận điểm này, chúng tôi tìm hiểu tính cách người Việt Nam bộ qua các biểu trưng ca dao.

  • Biểu trưng với tinh thần trọng nghĩa khinh tài

Soạn:%20AM%20201876%20gửi%20đến%20996%20để%20nhận%20ảnh%20này%20qua%20MMS

ảnh Trương Công Khả

Trọng nghĩa là tinh thần của những con người nghĩa khí, những con người sẵn sàng xả thân mình để cứu người, để làm những việc mà họ cho là hợp với đạo lý và lòng trung thành. Lục Vân Tiên, Hớn Minh của Nguyễn Đình Chiểu cũng là những nhân vật được xây dựng trên tinh thần "Nhớ câu kiến nghĩa bất vi, làm người thế ấy cũng phi anh hùng". Tác giả ca dao Nam bộ thường xuyên nói về chữ nghĩa cũng trên tinh thần đó. Trọng nghĩa là thái độ ứng xử của người Việt Nam nói chung chứ không riêng của người Việt Nam bộ. Có điều, đây là một nét trội trong tính cách của người dân vùng đất mới. Họ vốn là những lưu dân đi tìm sự sống trong muôn ngàn cái chết. Qua nhiều lần thoát hiểm nhờ sự liên kết, nhờ tinh thần hoạn nạn tương cứu, sanh tử bất ly, họ càng thấm thía thế nào là tình huynh đệ hào hiệp. Trọng nghĩa gắn với khinh tài. Nếu người xưa đã từng cay đắng nhận rằng "nén bạc đâm toạc tờ giấy" hoặc chua chát "có tiền mua tiên cũng được" thì tác giả ca dao Nam bộ khẳng định:

Tiền tài như phấn thổ,
Nghĩa trọng tợ thiên kim
Con le le mấy thuở chết chìm
Người bạc tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi.

Phấn thổ (bụi đất) và thiên kim (ngàn vàng) trong bài ca dao mang ý nghĩa biểu trưng. Sự đối lập của hai hình ảnh nầy chính là sự đối lập giữa cái tầm thường và cái cao quí. Nếu có cái gọi là bên trọng bên khinh thì nghĩa là bên trọng, tiền tài là bên khinh. Bài ca trên còn một dị bản như là bằng chứng về sự phổ biến của thái độ trọng nghĩa khinh tài:

Tiền tài như phấn thổ,
Nhân nghĩa tựa thiên kim
Đứt dây nên gỗ mới chìm
Người bất nhân bất nghĩa kiếm tìm làm chi.

Biểu trưng vàng trong bài ca trên đã từng được tác giả ca dao Nam bộ sử dụng. Nghĩa khái quát nhất, tập trung nhất của vàng là biểu trưng cho cái quý giá. Đó là cái quý giá về vật chất, quý giá về tinh thần và con người quý giá. Vàng trong lòng vàng biểu trưng cho lòng chung thủy trong tình yêu:

Bướm ong bay lượn rộn ràng,
Em nguyền giữ tấm lòng vàng với anh.

Trong ca dao Nam bộ, vàng thường xuất hiện với đá cùng với cách nói nghĩa đá vàng. Ở đây tác giả dân gian không nhầm so sánh giá trị hơn kém giữa chúng mà hướng tới đặc điểm chung của hai loại chất. Đá và vàng đều có khả năng tồn tại lâu dài, bền vững cho nên chúng biểu trưng cho nghĩa sắt son:

Ví dầu nước chảy đá mòn,
Xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thương.

Người nghĩa khí một mặt sẵn sàng xả thân vì nghĩa xem tiền tài như cỏ rác, một mặt chấp nhận cảnh sống bần hàn để giữ tròn đạo nghĩa qua hình ảnh biểu trưng của hai đại đệ tử Khổng giáo, Tăng Sâm và Tử Lộ:

Anh tỉ phận anh
Thà ở lều tranh
Như thầy Tăng, thầy Lộ,
Chớ không ham mộ
Của Vương Khải, Thạch Sùng,
Đạo người anh giữ vẹn, bần cùng sá bao.

Ca dao Bắc bộ (ca dao các vùng khác nói chung) không thiếu những bài nói về tình nghĩa, nghĩa bạn bè, nghĩa đồng bào, tình nghĩa lứa đôi... với những hình ảnh biểu trưng như bầu bí, nhiễu điều - giá gương... bằng một giọng điệu nhẹ nhàng:

Bầu ơi, thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

(Ca dao Bắc bộ)

Ca dao Nam bộ cũng với tinh thần trọng nghĩa ấy nhưng được thể hiện bằng tình huống và thái độ mạnh mẽ với biểu trưng sống qua hình ảnh ruột thắt gan bào:

Ngó lên trời mây bay vần vũ,
Ngó xuống âm phủ đủ mặt bá quan,
Ngó lên Nam Vang thấy cây trăm thước,
Nhìn sông Trước thấy sóng bủa lao xao,
Anh thương em ruột thắt gan bào,
Biết em có thương lại chút nào hay không?

Đạo nghĩa hay điệu nghệ là luật lệ riêng của lưu dân thời kỳ khai hoang, những người bị giai cấp cầm quyền coi là kẻ tiểu nhân dốt nát. Lưu dân thú nhận sự dốt nát của họ bằng thái độ tự tôn. Họ bất cần bọn quan lại và luật lệ của chúng, để rồi hướng tới tinh thần điệu nghệ. Điệu (đạo), là lòng từ bi bác ái, tình nghĩa giữa con người, Nghệ (nghĩa) là nghĩa khí, không lợi dụng quyền thế lấn áp kẻ yếu, không hại kẻ thất thế, ăn ở thủy chung, kết giao không tính toán thiệt hơn, dám liều thân giúp người... Quan niệm điệu nghệ tạo nên một kiểu anh hùng, một kiểu quân tử bình dân. Biểu trưng chim quyên, một biểu trưng riêng của ca dao phương Nam, là hình ảnh của kiểu quân tử bình dân đó:

Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than.

Chính quan niệm điệu nghệ đề cao con người không phải ở tiền bạc, địa vị, dòng dõi mà ở thái độ sống tích cực, sống có nghĩa khí, sống với tinh thần: "bần tiện chi giao mạc khả vong, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng". Quan niệm điệu nghệ cho người ta luôn luôn mở rộng cửa đón tiếp mọi người không phân biệt tốt xấu giàu nghèo trong quá khứ. Nếu biết điệu nghệ thì mọi việc có thể giải quyết trong tình anh em không cần đến pháp luật và quan lại: Đấng trượng phu đừng thù mới đáng, đấng anh hùng đừng oán mới hay.

Cuối cùng, người nghĩa vẫn là những con người bình dị qua hình ảnh "con chim nho nhỏ" trong ca dao Nam bộ. Công thức "con chim nho nhỏ" thường mở đầu cho lời khuyên nhủ, mong ước. Lời khuyên nhủ thường phải là lời của một ai đó cho nên hình ảnh trên biểu trưng cho con người biết trân trọng, giữ gìn đạo lý:

Con chim nho nhỏ,
Cái lông nó đỏ,
Cái mỏ nó vàng,
Nó kêu người ở trong làng,
Đừng ham lãnh lụa phụ phàng vải bô.

  • Biểu trưng với tính cách ngang tàng

Soạn:%20AM%20201878%20gửi%20đến%20996%20để%20nhận%20ảnh%20này%20qua%20MMS

ảnh Trương Công Khả

Lối sống ngang tàng là hệ quả của tinh thần nghĩa khí hào hiệp trong con người Nam bộ. Những con người tứ chiếng từ những huyện phủ khác nhau về vùng đất mới mang trong mình nhiều chất phản kháng, ít chịu sự ràng buộc của lễ giáo, không bao giờ bị khuất phục. Họ chấp nhận mọi hiểm nguy, mọi thử thách (nắng mai - mưa chiều) thậm chí trong những hoàn cảnh nhất định, họ đã phải liều:

Ra đi là sự đánh liều,
Nắng mai không biết, mưa chiều không hay.

Cho dù phải luôn luôn đối mặt với tình huống khó khăn kiểu nắng mai - mưa chiều, người Nam bộ vẫn muốn khám phá cuộc sống bất chấp non cao sông sâu:

Lên non mới biết non cao,
Xuống sông mới biết chỗ nào cạn sâu.

Con người Nam bộ ngang tàng được thể hiện qua các biểu trưng chim, cây là con người cứng cỏi giữa cuộc đời. Chim biểu trưng cho con người sống giữa cuộc đời rộng lớn, đầy biến động. Đó là con người đi xa, người có chí khí thường là người đàn ông. Đó là chim trong các hình ảnh cánh chim hồng, chim khôn, chim kia sớt cá, chim trên rừng, chim bay về rừng, chim bay, chim trời, cánh chim...

Bể sâu con cá vẫy vùng,
Trời cao muôn trượng, cánh chim hồng cao bay.

Cây cứng lá dai là khí phách của người không biết luồn cúi, không sợ uy quyền:

Trời sinh cây cứng lá dai,
Gió lay mặc gió chiều ai không chiều.

Ngang tàng có nghĩa là dám sống, sống hết mình đúng với chính mình, dám tin vào chân lý cuộc sống, tin vào tình yêu như hình ảnh cây khô chết đứng:

Cây khô chết đứng giữa trời,
Chết thời chịu chết không quên lời anh than.

Chấp nhận tất cả rủi ro trên con đường phiêu bạt, người Nam bộ coi nhẹ tính mạng nên sống ngang tàng. Mặt khác, việc khai thác vùng đất mới đầy gian khổ hiểm nguy cũng góp phần tôi luyện tính cách trên. Nhưng cần phải thấy rằng, ngang tàng ở đây không phải là phá phách, là làm loạn. Ngang tàng là một nét nhân cách Nam bộ, đó là những con người không chấp nhận sống mà phải cầu xin, phải khuất phục trước bạo lực. Đó là những con người vươn tới những điều to tát, không quan tâm đến những cái vụn vặt. Có thể trong cuộc sống hiện đại, đây đó vẫn có những con người Nam bộ tầm thường. Điều này không có gì lạ. Nhưng trong ca dao, người Nam bộ hướng tới một cánh nhạn bay cao quí mà không thèm để ý đến chim sâu tầm thường. Và nếu chàng trai nào chỉ muốn bắt chim sâu thì sẽ bị chê cười:

Bình tích thủy đựng bông hoa lý,
Chén chung vàng đựng nhụy bông ngâu,
Trách ai làm trai hưu nhãn vô châu,
Chim oanh không bắn, bắn con chim sâu đậu nhành tùng.

Lối sống ngang tàng gắn với một thái độ dứt khoát kiểu đã tròn cho ra tròn, vuông cho ra vuông. Một số không ít ca dao Nam bộ biểu lộ thái độ quyết liệt bằng các phân biệt rạch ròi giữa đỏ và đen, giữa tốt với xấu giữa Nguyệt Nga - Vân Tiên với cha con Bùi Kiệm:

Con rắn hổ nó mổ con rắn rồng,
Tiền kẽm xỉa với tiền kẽm tiền đồng xỉa riêng.
Nguyệt Nga kết với Vân Tiên,
Cha con Bùi Kiệm ngồi riêng một mình.

Tóm lại, tính cách Nam bộ vẫn là tính cách Việt Nam, vẫn là những con người yêu nước có tinh thần dân tộc đã từng dũng cảm chiến đấu chống ngoại xâm... Ở đây chúng tôi chỉ nêu ra hai nét nổi trội của tính cách người Việt Nam bộ được khắc họa trong ca dao.

T.V.N

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 04/Sep/2008 lúc 3:06am

Vài cảm nghĩ về tình tự dân tộc Miền Nam và Ca Dao

Hòa Đa

Kính Tặng Má,
tặng Hồng, vợ tôi,
người đã ru con bằng ca dao.

Một trong những thiếu sót trong chương trình học ở Việt Nam từ trước đến nay là sự mất cân đối trong việc giới thiệu đến học sinh những dữ kiện về văn học theo sự phân bố về địa dư. Nói cho rõ hơn, chương trình văn ở bậc trung học nghiêng nặng về những tác giả tác phẩm ở ngoài Bắc và đã bỏ quên những sinh hoạt văn học trong Nam. Không thể chối cãi là ở trung học, chúng ta học quá nhiều về Tự Lực Văn Đoàn, về Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo... mà không hề nói gì về những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc...chẳng hạn; chúng ta học quá nhiều về Nam Phong, Đông Dương tạp chí, học Nguyễn văn Vĩnh, Phạm Quỳnh... mà không nhắc gì về Gia Định Báo, Phụ Nữ Tân Văn, Phan Khôi... Có thể nói, trong mọi lãnh vực về văn học ở chương trình trung học, miền Nam đã bị bỏ quên, khiến cho sau bao nhiêu năm, sự lãnh hội về kiến thức trong chúng ta về văn học đã bị thiếu sót.

Ca dao miền Nam cũng chịu chung số phận như thế.

Mặc dù không hề được nhắc đến ở trường học, nhưng ca dao miền Nam vẫn có sức sống của nó. Chẳng những thế nó còn được phát triển mạnh và là một sinh hoạt tiềm tàng trong cuộc sống của người bình dân, cho dù chúng ta không còn thấy những màn hò đối đáp trong công việc hàng ngày ở trên đồng ruộng, sân lúa hay trên sông rạch như tiểu thuyết đã mô tả. Nó nằm ngay trên cửa miệng người bình dân, họ đọc ra như một phản xạ tự nhiên phù hạp với hoàn cảnh đang xảy ra không chê được.

Chẳng hạn, thấy một chàng trai ở rể bị lợi dụng, miệng đời đã có câu đàm tiếu:

Công anh làm rể đốn rào
Tào lao phất ngọn, chớ nào vợ anh? (1)

Câu này làm chúng ta nghĩ ngay đến câu tương tự ở ngoài Bắc:

Công anh làm rể chương đài
Một mình ăn hết mười hai vại cà,
Giếng đâu thì dắt anh ra
Không thì anh chết với cà nhà em.

Hay để trêu chọc sự dan díu ngoài khuôn phép của gia đình và xã hội của một đôi trai gái, chúng ta đã có sẵn câu:

Mùng ba thì có trăng non,
Anh đi lên xuống có con anh bồng

Nó cũng nằm ngay trong câu hát ru con của các mẹ, các chị bình dân, những câu ca dao cứ tuần tự tuôn ra một cách tự nhiên, không gò ép, không sửa soạn, cứ hết câu này đến câu khác, ru trẻ vào giấc ngủ. Nhiều khi họ còn dùng để diễn tả, kể lể tâm trạng của họ:

- Má ơi đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu.

- Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi

- Giả đò mua khế bán chanh
Giả đi đòi nợ thăm anh đỡ buồn

...

Năm 1970, tôi về làm việc tại một tỉnh nhỏ ở đồng bằng Cửu Long nên có dịp tiếp xúc với người bình dân, nông dân. Sau 1975, do chính sách của chính quyền Việt Nam lúc bấy giờ, tôi lại có dịp sống hẳn ở nông thôn, gần gũi với nếp sống bình dị, làm quen với cách ứng xử, sinh hoạt của họ. Do đó xin nêu lên vài cảm nhận có tính rất chủ quan về ca dao miền Nam. Tôi không có tham vọng trình bày về ca dao miền Nam như một bài khảo cứu, công việc này xin dành cho những nhà biên khảo hay cho những công trình luận văn cao học, tiến sĩ. Cũng xin nói thêm, vì sự thuần nhất (một cách tương đối) về âm sắc trong cách nói, sự tương đồng về sinh hoạt, xin được nới rộng yếu tố địa dư miền Nam ra đến phần đất tam Phan (Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết) mà do sự phân chia hành chánh, vùng này được xếp vào Trung phần. Và cũng xin nhấn mạnh bài viết chỉ nhằm đóng góp, nêu lên một phần di sản văn hóa bị bỏ quên trong văn học sử, tuyệt nhiên không có ý phân biệt địa phương.

I. Vài nét về sự hình thành cư dân Miền Nam

Kể từ sau cuộc hôn nhân Việt -Chiêm giữa Huyền Trân Công Chúa và Chế Mân , nước Việt chúng ta có thêm hai châu Ô, châu Rí (Thế kỷ XIV, XV). Để đối kháng với thế lực thống trị từ phía Bắc, Việt Nam cần phát triển hậu cứ, lập nền tảng kinh tế để phát triển tiềm năng kháng cự với Tàu, nên đã bắt đầu chú ý đến việc phát triển về địa lý vào phương Nam. Nhưng phải chờ đến khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá (năm 1558) và tuyên xưng là Chúa Nguyễn (năm 1600), hướng phát triển vào Nam mới được phát triển một cách có qui củ để tạo thành một thế lực ngang ngửa với chúa Trịnh ở miền Bắc. Với chính sách tầm ăn dâu, người Việt cứ bành trướng dần vào Nam. Những người tiền phong là những lính thú khai hoang lập ấp, họ là những người vừa chiến đấu vừa sản xuất. Họ cũng là những lưu dân từ vùng Thanh Nghệ, tìm đến phần đất của chúa Nguyễn để sinh sống, người có tài như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Cảnh... thì được trọng dụng, người bình dân thì được đưa vào dần trong Nam theo chân các tập đoàn quân sự khai hoang lập ấp. Họ cũng là những tù, hàng binh của Trịnh do Nguyễn bắt được, đưa sâu vào Nam để dễ bề quản thúc, kiểm soát... Cũng có những cuộc tình duyên có tính chính trị nhằm mở rộng lãnh thổ như cuộc tình duyên của công chúa Ngọc Hoan (hay Ngọc Vạn?) với vua Miên Chey Chetty dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi), bà hoàng người Việt này đã mang theo nhiều người Việt vào sinh sống ở vùng đất Chân Lạp. Sang thế kỷ XVII, các di thần nhà Minh không chấp nhận Thanh Triều đã đem bộ hạ và gia quyến vào xin đầu phục Chúa Nguyễn, Chúa Hiền cũng cho vào định cư vùng Đồng Nai, Biên Hòa (Trần Thắng Tài), Mỹ Tho (Dương Ngạn Địch, TrầnThượng Xuyên) và sau đó (2) vùng đất Hà Tiên do Mạc Cửu mộ dân khai thác được dâng cho Chúa Nguyễn.

Khi Gia Long lên ngôi, một trong những chính sách quan trọng ở miền Nam là ổn định đời sống về kinh tế, miễn thuế cho cư dân thuộc vùng đã giúp nhà vua khi còn bôn đào trong thời chiến tranh với Tây Sơn. Sau Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị đã cho phát triển những đơn vị bán quân sự, cho đào kinh (3) khuyến khích việc mộ dân lập làng, tiếp tục miễn giảm thuế cho những vùng vừa khai thác nên dân số ngày càng đông . Thành phần cư dân hình thành trong vùng gồm phần đông là binh lính, di dân Việt từ Thuận-Quảng chuyên làm ruộng ít học, sau đó là người Miên, sống rải rác trong các sốc (làng Miên) trên những vùng đất cao ráo và người Hoa làm rẫy hay buôn bán, tập trung cạnh các con sông lớn, tạo thành những thị tứ thịnh vượng. Phát triển của vùng này chỉ được chú trọng vào quân sự và kinh tế, còn văn hóa chỉ phát triển có hệ thống về phía tôn giáo ở các miếu, đình, chùa.

Hơn thế kỷ sau, Pháp xâm chiếm Việt Nam, chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ, miền Nam gần như mất hẳn ảnh hưởng chính quyền trung ương, văn hóa miền Nam cũng theo trào lưu đó mà biến đổi. Nền học cũ bị bãi bỏ, cái học mới chỉ để phục vụ cho chế độ thực dân. Đại đa số người dân miền Nam thiếu học, lại mất đi nguồn bổ sung nhân lực chính là các binh lính từ các phiên trấn thuộc chính quyền trung ương, sinh hoạt văn hóa thông thường và dễ dãi của người bình dân là hát hò với nhau.

Với sự hinh thành về thành phần cư dân cho vùng đất miền Nam như thế, Sự giao lưu về văn hóa giữa ba nhóm cư dân nói trên (Việt, Miên, Hoa) nhất định phải xảy ra và vì vậy, chúng ta không thể không để ý đến tính đa văn hóa sẽ phát triển trên vùng đất này và có thể giải thích được tại sao văn hóa miền Nam không bị gò bó vào khuôn mẫu và có tính cách thuần nhất như ở miền Bắc. Người bình dân, lính thú... thiếu học, đơn giản, sống tương đối rải rác sẽ khó có thể có những sinh hoạt văn hóa dựa trên chữ viết, sân khấu... mà sinh hoạt truyền miệng, phóng khoáng hơn, dễ dãi hơn được phát tirển mạnh. Có điều nhận xét khá lý thú là âm sắc trong ngôn ngữ càng vào sâu trong Nam càng nhẹ dần, nhưng vốn từ vựng từ phía nam Hải Vân vẫn còn được duy trì thống nhất và được phát triển thêm, làm giàu thêm trong suốt chiều dài phát triển lãnh thổ về phía nam (4) . Tinh thần văn hóa ở phần đất này có những độc đáo, tự nhiên, bình dị và đôi khi đi đến sỗ sàng, trong khi tinh thần văn hóa ở phần đất thuộc Đàng Ngoài (thuộc chúa Trịnh) đã đạt đến mức tinh luyện, khuôn mẫu, nghiêm túc.

Người dân miền Nam chịu ảnh hưởng của luồng văn hóa có tính bình dân của các văn nhân theo vào với Chúa Nguyễn trong giai đoạn đầu đan kết với những luồng văn hóa của Khmer, Hoa, Pháp, cộng với điều kiện sinh hoạt dễ dàng, đất rộng người thưa, sông sâu nước chảy, tài nguyên thiên nhiên thừa thải. Họ sống bình dị, không muốn bó mình trong những khuôn mẫu có sẵn là điều dễ hiểu. Có khi do điều kiện sinh hoạt riêng rẽ (trong giai đoạn đầu tiên không phải ở làng xã nào cũng có những bậc túc nho hay người biết chữ), nên sự tùy tiện trong giải thích hay trong sinh hoạt văn hóa làm nảy sinh tính dễ dãi, uyển chuyển, sao cũng được, miễn là mọi người vui và hạnh phúc là được rồi. Hơn nữa, đối với những con người tiền phong, sau những lúc phấn đấu với thiên nhiên còn mang tính hoang dã:

Xứ đâu có xứ lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh

hay

Cà Mau khỉ khọt trên bưng
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um

thì trong những lúc có dịp ngồi lại với nhau như sau vụ mùa, buổi chợ, trong những dịp ma chay cưới hỏi, cất nhà... người bình dân còn có nhu cầu giải trí nào khác ngoài những dạng nói thơ, kể chuyện tiếu lâm, hát, hò....? Họ không có khả năng ngâm vịnh, sáng tác.

Ca dao miền Nam đã phát triển trong chiều hướng đó. Chính yếu tố bình dị, nghĩ sao nói vậy, mộc mạc, dễ hiểu đã làm cho ca dao miền Nam có sức sống rất mạnh, được quần chúng chấp nhận dễ dàng và do đó làm ảnh hưởng đến sự sinh hoạt và tư tưởng của quần chúng:

- Hủ qua (khổ qua) xanh, hủ qua trắng
Hủ qua mắc nắng hủ qua đèo
Thương em, thì anh làm giấy giao kèo
Lăn tay điểm chỉ mới thiệt con mèo của em

- Thấy em gò má hồng hồng
Phải chi em đừng mắc cỡ, anh bồng anh hun

thật khó tìm thấy những câu tương tự như vậy ở ca dao miền Bắc.

II. Vài tính chất có tính đặc trưng

Ca dao, ở đâu cũng vậy, là sản phẩm của quần chúng. Chúng ta không biết tác giả hay hoàn cảnh sáng tác, nhưng chúng ta biết chắc một điều: ca dao được người bình dân biết đến, sử dụng và truyền bá. Không có quần chúng, ca dao nói riêng, văn chương bình dân nói chung không thể phát triển và lưu truyền. Qua ca dao, chúng ta có thể mường tượng được nếp sinh hoạt, hoàn cảnh sống và phần nào tâm tư của người bình dân. Do vậy, tuy ca dao có những cái chung nhưng cũng có những cái riêng của vùng. Chúng ta khó có thể tưởng tượng được ca dao miền Nam lại có những câu nói về núi cao, ao cá:

- Núi cao chi lắm núi ơi,
Che khuất mặt trời, không thấy người yêu.

- Tiếc công anh đào ao nuôi cá,
Năm bảy tháng trời, người lạ tới câu.

dù trên thực tế, không phải người dân miền Nam không biết núi, biết ao.

Chúng ta thử lược qua những tính chất đặc sắc của ca dao miền Nam.

1/ Tính uyển chuyển.

Một trong những nét dễ nhận thấy là người miền Nam không chịu bó trong những khuôn mẫu có sẵn, có lẽ do cuộc sống quá được ưu đãi từ thiên nhiên hào phóng, con người cũng trở nên phóng khoáng. Từ một câu có tính nhận xét trong đời sống hàng ngày, mà chúng ta thấy ở đâu cũng đúng:

Chiều chiều quạ nói với diều
Tìm nơi đống trấu có nhiều gà con

vào đến miền Nam chúng ta nghe thấy nó biến thể thành:

Chiều chiều quạ nói với diều
Cù Lao Ông Chưởng (5) có nhiều cá tôm

Người miền Nam có thể chuyển nhóm chữ "Cù Lao Ông Chưởng" thành một nhóm chữ nào đó thích hợp với địa danh họ đang sống, họ chẳng hề bị bó buộc phải rập khuôn theo câu ca có sẵn. Vùng Ô Môn, Bình Thủy (Cần thơ) cũng có câu tương tự, chỉ đổi bốn chữ cù lao Ông Chưởng bằng bốn chữ Ô Môn Bình Thủy. Chúng ta có thể tìm thấy dạng này khắp nơi ở miền Nam, lâu dần chúng ta không còn biết câu nào là nguyên bản, câu nào là sao chép. Ở vùng Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười chúng ta có câu:

Nước chảy Láng Linh, chảy ra Vàm Cú
Thấy dáng em chèo, cặp vú muốn hun

Nhưng vùng Trà Cú (Vĩnh Long - Vĩnh Bình), ta lại nghe:

Nước chảy sông xa, chảy qua Trà Cú
Thấy dáng em chèo, cặp vú muốn hun

Một câu khác mà chúng ta ai cũng biết:

Nam Vang đi dễ khó về,
Trai đi có vợ, gái về có con

để chỉ Nam Vang là xứ ở xa, rất xa, đi lại không tiện, ai đi Nam Vang (nghĩa là qua Miên) làm ăn thì thường lập gia đình luôn ở bên ấy. Ở miền Nam, chúng ta nghe không thiếu gì câu hát trên, chì đổi chữ Nam Vang thành Long Xuyên, Cần Thơ, Gò Công... và nghe những câu ấy, chúng ta cảm được cái tình ấm áp của người địa phương làm cho kẻ lãng du phải dừng chân:

Tới đây thì ở lại đây,
Chừng nào bén rễ xanh cây rồi về

Thật ra. tính uyển chuyển vừa nêu không phải là một đặc thù của ca dao miền Nam, nhưng ở miền Bắc và miền Trung, những dị bản của những câu ca dao ít tìm thấy hơn ở trong Nam. Một trong những câu điển hình là câu:

Gió đưa cành trúc la đà
Hồi chuông Trấn Quốc, canh gà Thọ Xương

ở ngoài Bắc, vào đến Huế biến thành:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.

Cũng vì tính chất này mà ở miền Nam, chúng ta thấy ca dao thường ở dạng lục bát biến thể nhiều hơn. Số chữ trong mỗi câu hoàn toàn tùy thuộc vào cách nói, không bị gò cho đủ 6 hay 8 chữ, miễn sao diễn tả đủ ý muốn nói và có vần điệu dễ đọc, dễ nhớ. Phải chăng tính thực tiển và phóng khoáng của người dân Nam bộ đã làm cho sự uyển chuyển dễ xảy ra hơn? Nhân đây, xin nói thêm về tính uyển chuyển đó: ở trong Nam: Ai đã từng sống ở nông thôn vùng Cửu Long đều biết, khi cúng dựng nhà người nông dân miền Nam thường bày dĩa trái cây trên bàn thờ theo công thức: dừa, đu đủ, xoài; hay mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài biểu thị lòng mơ ước của họ: vừa đủ xài hay cầu vừa đủ xài, họ không bao giờ cúng chuối, dù trên bàn thờ của gia đình vào ngày Tết, cho rằng như vậy là chúi nhủi, khác với cư dân từ Nha Trang vào đến Xuân Lộc luôn có chuối trên bàn thờ, bất luận dịp nào- Đó là do cách phát âm trong Nam không phân biệt dừa và vừa, xoài và xài, chuối và chúi. Ở đồng bằng Nam Bộ người ta chỉ bày chuối trên bàn thờ Phật. Cũng do sự dễ dãi trong phát âm, không chàng trai gốc ngoài Bắc hay Trung nào, lần đầu tiên khi vào miền Nam (đặc biệt miệt vườn Cửu Long) không hết hồn khi gặp mấy cô gái ruộng tay cầm vòng hái (lưỡi hái) chấp lại kính cẩn chào xin vái thầy hay bị chới với khi cô gái vườn niềm nở mời hôm nào "quởn" ( hưởn), mời anh vô vườn em chơi. Xin nhắc lại là người miền Nam không phân biệt được âm v và âm d, gi .

2/ Tính cường điệu:

Người bình dân miền Nam nói riêng, và cả nước nói chung ít học, nhưng ở miền Nam, người bình dân lại thường ra vẻ "ta đây" hay chứng tỏ mình ngon lành, thích nói chữ như muốn chứng tỏ mình là người hay chữ, đôi khi không trúng trật vào dâu

- Bước vô trường án, vỗ ván cái rầm
Bủa xua (6) ông Tham biện, chớ bạc tiền ông để ở đâu?

- Cách một khúc sông, kêu bằng cách thủy (?)
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa (7) ...

Chính vì tính hay phô trương không đúng chỗ, nên chúng ta đừng chờ đợi ở ca dao miền Nam những cách sử dụng đúng từ ngữ, diễn tả đúng cách, đúng chỗ. Cái mà chúng ta thường gặp ở đó là những cách nói vô nghĩa, cốt chỉ có vần, có điệu; nhất là trong các câu hò, chúng ta thấy hình như họ cố ý kéo dài câu hò, nói lan man, cốt để tranh thủ thời gian tìm ý. Họ thường ưa nói quanh co, không đi ngay vào đề tài chính, mà đôi khi lối quanh co này chẳng dính dáng gì đền việc họ muốn nói. Muốn trêu chọc một cô gái, chàng trai nói lan man:

Đầu giồng có bụi chuối
Cuối giồng có cây đa
Ngã ba đường cái có cây tơ hồng
Con gái chưa chồng, cái lòng hực hở,
Con trai chưa vợ, ruột thắt tầm canh

để cuối cùng mới nói :

Ngó lên mây trắng trời xanh,
Ưng đâu cũng vậy, ưng anh cho rồi

hay cô gái muốn từ chối nhẹ nhàng lời tỏ tình của chàng trai vì còn phải lo phụng dưỡng cha mẹ già (không chừng đó chỉ là cái cớ nêu ra để từ chối), cô không nói thẳng vào vấn đề, mà xa xôi bóng gió trước:

Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc
Gió nào độc cho bằng gió Nam Vang
Một tiếng anh than, hai hàng lụy nhỏ
Có chút mẹ già, biết bỏ ai nuôi ?

Ta thấy ngay, tính chất này khác hẳn với cách nói có tính cách khuôn mẫu ở ngoài Bắc, người dân miền Bắc thường nghiêm túc hơn, trữ tình một cách khách sáo hơn, mang ít nhiều tính nghệ thuật hơn, và thường "đi thẳng" vào vấn đề hơn:

Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay...

hay khen tặng vẻ đẹp của cô gái một cách kín đáo trong:

...Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
Có rửa thì rửa chân tay,
Đừng rửa lông mày chết cá ao anh

Kiểu nói dông dài này gặp rất thường trong ca dao miền Nam, nơi mà con người thường ồn ào chứng tỏ sự "thông thái" của mình một cách rất dễ dãi, mà cũng rất dễ thương

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ

hay:

Tàu xúp lê một, còn thương còn nhớ
Tàu xúp lê hai, còn đợi còn chờ
Tàu xúp lê ba, tàu ra biển Bắc,
Tay vịn song sắt, nước mắt ròng ròng
Thương em từ thủa mẹ bồng
Bây giờ em lớn, em lấy chồng bỏ anh!

3/ Tính trữ tình

Trữ tình vốn là một thuộc tính của tình nam nữ, cho dù ở phần nào của đất nước, người bình dân diễn tả tình cảm của mình một cách rất nhẹ nhàng, thoải mái. Quả thật, kho tàng văn chương bình dân cho ta vô vàn những câu tỏ tình bóng gió có, lộ liễu có, và rất đậm tình quê hương. Miền Nam cũng không ra khỏi thông lệ đó. Ca dao miền Nam dùng để tỏ tình có nhiều như bất cứ vùng nào của đất nước. Ta có thể đơn cử vài câu:
 

-Rồng chầu ngoài Huế,
Ngựa tế Đồng Nai,
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài,
Thương người xa xứ lạc loài tới đây.

-Thò tay anh ngắt ngọn ngò
Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ

- Mù u bông trắng, lá thắm, nhị (nhụy) vàng,
Anh đi khắp xứ, tới đây mới gặp nàng thiệt dễ thương

- Mẹ mong gả thiếp về vườn,
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh
Thương anh cũng muốn theo anh
Ngặt cha với mẹ không đành thì sao?


Cũng như các phần khác của đất nước, ca dao miền Nam thể hiện rõ nét phong cảnh, sinh hoạt, đồng ruộng màu mỡ, sông rạch của miền Nam. Đời sống tình cảm của người dân cũng trải rộng với thiên nhiên, sông nước:
 

-Bớ chiếc ghe sau, chèo mau anh đợi
Qua khỏi chỗ này lùm bụi tối tăm.

- Cầu cao ván yếu,
Con ngựa nhỏ xíu nó kiệu tứ linh
Em đi đâu tăm tối một mình
Hay là em có tư tình với ai?

- Tàu Nam Vang chạy ngang cồn cát,
Xuồng câu tôm bơi sát mé nga
Thấy em cha yếu mẹ già
Muốn vô hoạn dưỡng biết là được chăng

-Mười giờ xe lửa nhỏ bỏ chợ Bến Thành,
Xúp lê kia dạo thổi, bộ hành xôn xao.


Đối với những tình cảm nhẹ nhàng khác, tình gia đình chẳng hạn, cách diễn tả ở miền Nam cũng đơn giản và thực tế hơn:

- Râu tôm nấu với ruột bầu,
Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon

- Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.

- Sông dài cá lội biệt tăm
Phải duyên chồng vợ, mấy năm cũng chờ

khác hẳn với tính sâu sắc, nên thơ như ở miền Bắc:

Hôm qua ra đứng bờ ao
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ...
...Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ.

hay thâm trầm như ở miền Trung.

Chồng chài, vợ lưới, con câu
Sông Ngô, bể Sở, biết đâu bến bờ?
Khi nên tay kiếm tay cờ
Không nên thì cũng chẳng nhờ cậy ai

Qua ca dao chúng ta có thể tìm thấy nhiều từ rất thông dụng ở miền Nam. Đây là nguồn tài liệu quan trọng cho những ai muốn khảo cứu về ngữ âm miền Nam:

- Nước rong (8) nước chảy tràn đồng
Tơ duyên có đó, chỉ hồng chưa xe
- Nước ròng bỏ bãi xa cừ
Mặt em có thẹo, anh trừ đôi bông

- Bậu nói với qua bậu không hái mận bẻ đào
Chớ mận đâu bậu bọc, đào nào bậu cầm tay.

- Mưa lâm thâm, ướt dầm bông sói
Bậu đi lấy chồng, sao không nói anh hay?

...


4/ Tính chớt nhả, cắt cớ:

Tính phóng khoáng trong cuộc sống ở miền Nam thể hiện rất rõ nét trong ca dao miền Nam, tính chất này còn được đẩy xa hơn, trở thành chớt nhả. Hơn đâu hết, chính miền Nam là nơi người ta tìm thấy dễ dàng sự cắt cớ, sống sượng đến độ bất ngờ khiến người trong cuộc (dù có học) chưa chắc thoát ra được. Cô gái đang làm việc dưới ruộng, mình mẩy dầy bùn sình, hỏi chàng trai đang ở trên bờ:
 

Hai tay em cắm xuống bùn
Mình mẩy lấm hết, chớ anh hun chỗ nào?


chàng trai trả lời tỉnh bơ:
 

Cầu trời đổ trận mưa rào
Bùn sình trôi hết, chỗ nào anh cũng hun!


Chàng trai, muốn đặt cô gái vào tình trạng khó xử, sống sượng yêu cầu
 

Đôi mình mới gặp ngày nay
Cho hun một cái em Hai đừng phiền

chàng trai đắc ý, tưởng sẽ nhận được ở cô gái sự e thẹn, hay lời rủa sả hay một cái bộp tai; không dè cô gái không phải tay vừa, đốp chát liền:

Ừ, muốn hun thì hun cho liền
Đừng làm thố lộ xóm giềng cười em

trong trường hợp nếu bạn là chàng trai đó bạn làm sao? không biết bây giờ ai là người bị lúng túng, ở đây chàng trai chẳng những không lúng túng mà còn liều lĩnh sống sượng hơn, lỡ rồi đành tới luôn:

Tui hun mình dẫu có la làng
Thì tui ra đó hai đàng chịu chung
Tui hun mình dẫu có làm hung
Nhơn cùng tắc biến, tui chun xuống sàn (9)

Về tính cắt cớ, muốn đặt đối phương vào trong những tình huống khó tháo gỡ, chúng ta thường gặp trong những câu hò đố. Nếu ở ngoài Bắc những câu hát đố luôn có tính nghiêm trang, có tính "bác học" đến độ chúng ta phải đặt dấu hỏi liệu đó có phải là sản phẩm của lớp bình dân ít học? xin đơn cử:

...Chùa nào mà lại có hang
Ở đâu lắm gỗ thời chàng biết không?
Ai mà xin được túi đồng
Ở đâu lại có con sông ngân hà
Nước nào dệt gấm thêu hoa...
...Chùa Hương Tích mà lại có hang
Trên rừng lắm gỗ thời nàng biết không?
Ông Nguyễn Minh Không xin được túi đồng
Trên trời lại có con sông ngân hà
Nước Tàu dệt gấm thêu hoa...

hay những câu hát đố đẹp và hay như một bài thơ:

Đố ai biết lúa mấy cây
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng
Đố ai quét sạch lá rừng
Để tôi khuyên gió, gió đừng rung cây...

ở miền Trung, chúng ta có câu:

Đố anh con rít mấy chưn
Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người (10)

thì ở miền Nam, chúng ta khó tìm thấy những câu hò, câu hát đố có tính trữ tình như thế, nhưng chúng ta lại tim thây khá nhiều những câu có tính buộc thắt, khiến đối phương phải rất nhanh trí để thoát khỏi thế bí, và như chúng ta sẽ thấy, họ "thoát hiểm" rất dễ dàng và gài lại đối phương. Những câu sau đây sưu tập được từ Vĩnh Long (11)
 

-Thấy anh ăn học có thi
Em đây xin hỏi con chi không đầu
Sao em lại hỏi cơ cầu
Thượng cầm hạ thú, không đầu là con cua

- Thấy anh theo dõi bút nghiên
Em đây xin hỏi, trời nghiêng bên nào
Anh từng đọc sách bên Tàu
Đất nghiêng thì có, trời nào đâu nghiêng

- Thấy anh ăn học lảu thông
Em đây xin đố, khăn lông có mấy đường
Em về đếm hết cỏ vườn
Lại đây anh nói mấy đường khăn lông

- Thấy anh ăn nói có tài
Em đây xin đố cây xoài có mấy bông
Em về đếm cá dưới sông
Lại đây anh nói mấy bông cây xoài.


Những câu trên có cùng một dạng thức, điều đó chứng tỏ có thể từ một người làm ra, nhưng trong một đám cưới ở một vùng nông thôn thuộcVĩnh Long, trong đêm nhóm họ ở nhà cô dâu, chính người viết đã nghe ít nhất có hai câu đố trên, tất nhiên không thấy có câu trả lời thích đáng từ đối phương. Cũng có những câu đố mắc mỏ, không mong gì tìm được câu trả lời xác đáng:
 

Đố ai kiếm được
Cái vảy con cá trê vàng,
Lá gan con tép bạc
Mấy ngàn em cũng mua.


chỉ còn nước trả lời theo kiểu huề vốn:

Kiếm đâu cho được
Cái vảy con cá trê vàng,
Lá gan con tép bạc
Để nàng chịu mua?


III. Vài cảm nghĩ

Trong những phần trên, chúng ta đã lượt qua một vài đặc sắc của ca dao miền Nam. Trong khuôn khổ của bài báo, người viết không thể trình bày hết những nét đặc thù của ca dao miền Nam nói riêng cũng như những dạng văn chương truyền khẩu khác như hò, vè... nói chung. Điều đáng nói là văn hóa miền Nam chưa có chỗ đứng dúng đắn trong văn học sử của Việt Nam, cũng chưa được đề cập một cách đầy đủ trong chương trình học ngày trước (và cả ngay bây giờ). Chúng ta có thể có nhiều cách giải thích. (1) Có lẽ do người viết chương trình của bộ giáo dục trong những năm đầu chuyển tiếp từ chương trình Pháp sang chương trình Việt (và cả những vị về sau, trong các chương trình cải tổ) không có tài liệu nhiều về văn học trong Nam; hay (2) người viết chương trình không biết gì về văn học trong Nam; hay (3) người viết chương trình cho rằng văn học trong Nam quá nôm na, không có vẻ "bác học"; hay (4) đơn giản hơn hết là văn học trong Nam chưa có đủ chiều dài về thời gian để có chỗ đứng trong văn học sử... Dù vì bất cứ nguyên nhân nào, chúng ta đã không dành một chỗ đứng thích đáng cho văn học trong Nam. Chúng ta đã bỏ quên tính đại chúng trong giáo dục, phần nào, chúng ta đã tự tách rời người có học với quần chúng; và quần chúng này, tuyệt đại đa số là những người có rất ít những liên hệ văn hóa với những phần đã được dạy ở nhà trường. Làm thế nào đại đa số quần chúng ở miền Nam ấy có thể hiểu và thông cảm với những gì mà chính họ, hay con cái của họ đã nhận được từ trường, khi những điều đó không thấy được thể hiện quanh họ? - Mặc dù không thể không nói đến những đóng góp về văn học Việt Nam do những nhà văn, nhà báo tiền phong (mà hầu hết đều xuất thân từ phân nữa trên của đất nước), nhưng sự mất cân đối trong chương trình học đã làm học sinh trở thành xa lạ với môi trường họ đang sống, trở thành vong thân với chính xã hội của họ.

Ngày nay, phần nào văn chương bình dân của miền Nam đã đi vào đời sống qua các bài hát dựa vào các điệu lý, điệu hò. Nếu cách đây ít lâu, ngoại trừ lãnh vực cải lương, cổ nhạc Nam phần, ca sĩ dù người miền Nam, trình bày những bài hát về miền Nam cũng ráng tập phát âm bằng giọng Bắc, càng chuẩn càng tốt, không dám hát bằng giọng Nam sợ bị chê là quê mùa, thì bây giờ nhạc sĩ, ca sĩ (có cả người gốc ngoài Bắc) dùng hẳn giọng Nam để sáng tác, để hát, không có cái "mặc cảm" quê mùa như trước. Thử tưởng tượng Phi Nhung hát bài Lý con Sáo Bạc Liêu (Phan Ni Tấn) bằng giọng Bắc thì nó ra làm sao? Còn những bài khác nữa: Tiếng Hát Chim Đa Đa (Võ Đông Điền), Bài Tình Ca Đất phương Nam (Lư nhất Vũ - Lê Giang), Chiếc Áo Bà Ba (Trần Thiện Thanh), Còn Thương rau đắng mọc sau hè (Bắc Sơn), Điệu Buồn Phương Nam (Vũ Đức Sao Biển)... làm thế nào để ca sĩ diễn tả tính Nam bộ trong các bài hát đó bằng giọng Bắc. Cũng vậy, ngày xưa lúc ban Hợp Ca Thăng Long hát bài Tiếng Sông Cửu Long (trong trường ca Hội Trùng Dương), nghe Thái Thanh ngâm:

Chẻ tre bện sáo cho dày
Ngăn ngang sông Mỹ, có ngày gặp em

hay thì có hay, nhưng thấy nó vẫn là lạ.

Cũng nhân đây, xin nói thêm về cái thiếu hiểu biết về miền Nam, hay coi nhẹ tinh thần Nam bộ, mà các tác giả về mọi lãnh vực đã không đặt nặng việc sử dụng đúng ngôn ngữ trong Nam cho các công việc của họ. Trong Việt Nam Sử Lược, khi nói về Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh, sử gia Trần Trọng Kim chỉ dùng Nguyễn Hữu Kính, người dân miền Nam không thể nhận ra đó là vị Chưởng Cơ đã có rất nhiều công trong việc xây dựng và bảo vệ phần đất này trong giai đoạn đầu. Cũng vậy, khi Phạm Duy viết đến miền Nam (trong Con Đường Cái Quan) đã dùng:

Giả ơn cái cối cái chày
Đêm khuya giả gạo có mày có tao
Giả ơn cái nhịp cầu ao
Đêm khuya vo gạo, có tao có mày

Không ai có ý kiến gì về lãnh vực âm nhạc mà nhạc sĩ Phạm Duy đã là bậc thầy, nhưng cách dùng chữ, rõ ràng là ông vẫn còn ảnh hưởng miền Bắc nên không dùng đúng những chữ mà người miền Nam đã dùng. Nghe nó ngọng nghịu và làm giảm ít nhiều giá trị đích thực của bài hát. Người miền Nam không ai nói "giả ơn" mà nói "trả ơn" hay "cám ơn". Chúng ta cũng có thể bỏ qua vì cứ xem người "lữ khách" của Phạm Duy chỉ mới vừa vào miền Nam, chưa đổi được thói quen của mình; nhưng "cầu ao" để vo gạo thì không có. Ở miền Nam chỉ có "cầu nước, cầu nhủi", đơn giản vì miền Nam không có ao (trừ ao Bà Om của Người Miên ở Trà Vinh, một địa điểm để du ngoạn, cắm trại), miền Nam chỉ có hồ, đìa, đầm, vũng, giếng...

Chúng ta phải chấp nhận tính đơn giản mộc mạc... của miền Nam như là một đặc thù của văn chương ở vùng đất non trẻ này của đât nước, chúng ta không có mặc cảm gì về sự nôm na, chất phác của lớp người bình dân ấy. Trả lại cho văn chương và văn hóa miền Nam chỗ đứng đúng đắn trong văn học sử là việc nên làm, phải làm. Công việc đó qui mô và cần công sức của nhiều học giả, nhà nghiên cứu, của nhiều người. Bài viết này xin được là một đóng góp nhỏ cho công việc to lớn ấy.

Tài liệu Tham Khảo:

1. Việt Nam Sử Lược (Quyển II) - Trần Trọng Kim -Trung Tâm học Liệu xb 1971

2. Việt Sử Tân Biên (Quyển 3) - Phạm văn Sơn - Cơ sở xuất bản Đại Nam (in lại)

3. Đồng Bằng Sông Cửu Long hay là Văn Minh Miệt Vườn - Sơn Nam - Nhà xuất bản Xuân Thu (in lại)

4. Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam - Sơn Nam - Nhà xuất bản Xuân Thu (in lại)

5. Tiến Trình Văn Nghệ Miền Nam - Nguyễn Q. Thắng - Văn Hiến xb 1994

6. Sưu tầm Ca Dao Đồng Bằng Cửu Long - Tài liệu in roneo, trung học Tống Phước Hiệp - Vĩnh Long.
 
 

Chú thich

(1) - Trong toàn bài, những câu in nghiêng, theo thiển ý của người viết,là những câu trong miền Nam.

(2) - Năm 1708, đời Nguyễn Phúc Chu

(3) - Kinh Vĩnh Tế, Kinh Thoại Hà (Kinh Núi Sập) do Thoại Ngọc Hầu đốc xuất dân binh đào.

(4) - Trong chuyện Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh (1716-1767) ta thấy còn rất nhiều từ không có ở ngoài Bắc, nhưng lại vẫn còn dùng trên cửa miệng của dân miền Nam như dươn (duyên), làm riết, tu hoài tu huỷ, cho xuê, hây hây, ấm cật, bậu, xinh ghê...

(5) - Tức Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh, cù lao thuộc huyện Chợ Mới - Long Xuyên, An Giang,

(6) - Phiên âm chữ "bonjour" (tiếng Pháp)

(7) - Cũng có chỗ đọc: Cúc mọc dưới sông, kêu bằng cúc thủy

Chợ Sài gòn xa, chợ Mỹ cũng xa...

không biết có loại cúc nào mà mọc dưới sông?

(8) - Nước rong: nước lớn do thủy triều cao, nước từ sông không đổ ra biển được, chảy vào rạch, đồng ruộng; khác với nước ròng do thủy triều thấp, nước từ ruộng chảy ra rạch, sông lớn.

(9) - Một dị bản khác:

Tui ôm, bậu có la làng,
thì tui ôm riết hai đàng xấu chung.
Tui ôm bậu có làm hung,
nói cùng bất quá tui chun xuống sàn

(10) - Câu này nghe được ở vùng Phan Rang Nha Trang. Không biết Cầu Ô ở đâu, nhưng chợ Dinh có thể là chợ Kinh Dinh ở Phan Rang. Cũng có người cắt nghĩa cầu Ô là cầu Ô Thước (trong chuyện Ngưu Lang Chức Nữ), chợ Dinh là chợ tại các Dinh, các Trấn ở miền Nam, nơi dân cư đông đúc.

(11) - Sưu Tầm Ca Dao Đồng Bằng Cửu Long - Tài liệu lưu hành nội bộ, in roneo do Trung Học Tống Phước Hiệp - Vĩnh Long ấn hành

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 04/Sep/2008 lúc 3:07am
Phương ngữ Nam bộ trong ca dao về tình yêu
Trần Phỏng Diều

 

 

 

Soạn:%20AM%20846167%20gửi%20đến%20996%20để%20nhận%20ảnh%20này

Phương ngữ Nam Bộ là một dạng từ ngữ địa phương của vùng đất Nam bộ. Nó thể hiện cách nói, cách sử dụng từ ngữ, kiểu phát âm riêng của con người Nam bộ. Phương ngữ Nam bộ còn là nơi chứa đựng các yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, sinh hoạt xã hội của con người và vùng đất Nam bộ.

 

Tìm hiểu phương ngữ Nam bộ được thể hiện qua ca dao Nam bộ là một cách nhằm khẳng định thêm tính độc đáo, sắc sảo, phong phú và đa dạng của con người Nam bộ xưa trong việc sử dụng lời ăn tiếng nói của mình.

Ca dao Nam bộ trước hết là ca dao của người Việt ở Nam bộ nên nó mang đầy đủ yếu tố của vùng đất Nam bộ, trong đó có việc sử dụng từ ngữ của con người ở đây. Sống giữa thiên nhiên hài hòa và đa dạng với rừng tràm bạt ngàn và một vùng sông nước bao la, trong lời ăn tiếng nói của con người ở đây không khỏi ảnh hưởng của các hình tượng thiên nhiên này. Cho nên, có thể nói, giàu tính hình tượng là một đặc điểm trong cách dùng từ của ca dao Nam bộ:

Chồng chèo thì vợ cũng chèo
Hai đứa cùng nghèo lại đụng với nhau.

“Đụng” ở đây là “lấy”, “lấy nhau” hay nói cho văn hoa một chút là “kết duyên” nhau. Với các từ trên, người Nam bộ có thể hoàn toàn sử dụng được, nhưng đôi khi con người ở đây không dùng những khuôn mẫu có sẵn đó, mà lại dùng từ “đụng” rất giàu hình tượng này để tạo điểm nhấn, mang sắc thái mạnh. Chính điều này đã làm phong phú thêm cho kho tàng phương ngữ Nam Bộ.

 

* * *

Giàu tính so sánh và cụ thể cũng là một đặc điểm của ca dao Nam bộ. Nam bộ là một vùng sông nước, có hệ thống sông ngòi chằng chịt nên hình ảnh chiếc ghe, con đò, con cá, con tôm, cần câu, cái lờ... là những vật rất quen thuộc đối với người dân nơi đây. Quen thuộc đến mức đã đi vào tâm thức của họ và được thể hiện qua lời ăn tiếng nói hằng ngày, cũng như đã âm thầm đi vào ca dao:

Thân em như cá trong lờ
Hết phương vùng vẫy không biết nhờ nơi đâu.


“Cá - lờ” là một hình tượng cụ thể, tác giả dân gian đã lấy hình tượng cụ thể này để làm đối tượng so sánh với con người, cụ thể ở đây là cô gái. Trường hợp này, ta cũng sẽ bắt gặp rất nhiều trong ca dao Nam bộ.

 

* * *

Soạn:%20AM%20846163%20gửi%20đến%20996%20để%20nhận%20ảnh%20này

Một đặc điểm nữa trong việc sử dụng phương ngữ Nam bộ trong ca dao Nam bộ là giàu tính cường điệu, khuếch đại. Đây là cách nói thể hiện rõ nét sự lạc quan và tính cởi mở của con người Nam bộ. Tính giàu cường điệu, khuếch đại này được con người Nam bộ sử dụng thể hiện tính chất phác, mộc mạc, độc đáo, gây được ít nhiều cảm xúc cho người đọc:

Anh than một tiếng nát miễu xiêu đình
Cây huệ kia đang xanh lại héo, cá ở ao huỳnh vội xếp vi.

Rõ ràng, chỉ than có một tiếng mà “nát miễu xiêu đình” thì quả là nói quá. Nhưng chính cách nói quá này mới tạo được ấn tượng, gây được cảm xúc, tạo được sự chú ý cho đối phương.

Hay để bộc lộ tình thương của mình, người Nam bộ không ngại nói thẳng, nói quá, nói cường điệu, nói khuếch đại. Họ nói cốt sao cho hết cái thương đang cháy bỏng trong lòng mình:

Anh thương em,
Thương lún, thương lụn,
Thương lột da óc,
Thương tróc da đầu,
Ngủ quên thì nhớ,
Thức dậy thì thương

 

* * *

Giàu tính dí dỏm, hài hước cũng là một trong những đặc điểm trong cách sử dụng từ ngữ trong ca dao Nam bộ. Ca dao Nam bộ, ngoài những cách nói cường điệu, giàu hình tượng, đôi lúc có phần thâm trầm, sâu lắng còn có những cách nói mang tính hài hước, dí dỏm. Đây là tinh thần lạc quan trong tính cách của con người Nam bộ. Chính tinh thần lạc quan này đã tiếp thêm cho họ sức mạnh trong việc chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt, với thú dữ hoành hành. Tuy là nói dí dỏm, hài hước nhưng không hẳn là một cách nói chơi, mà là có ngụ ý, ngụ tình. Đó cũng là kiểu nói: “nói chơi nhưng làm thiệt”:

Bên dưới có sông, bên trên có chợ
Hai đứa mình kết vợ chồng nghen.


Rõ ràng, đây là cách nói mang tính chất vừa nói chơi lại vừa nói thiệt. Bông đùa đấy nhưng cũng là thật đấy. Nếu đối phương không chịu thì bảo là “nói chơi”. Còn nếu ưng thuận thì tiếp tục lấn tới tán tỉnh. Và trong bài ca dao sau, cũng không hẳn là dí dỏm, hài hước, nói cho vui một cách đơn thuần:

Trời mưa cóc nhái chết sầu
Ễnh ương đi cưới nhái bầu không ưng
Chàng hiu đứng dựa sau lưng
khều khều móc móc cứ ưng cho rồi.

 

* * *

Có cách nói hài hước, dí dỏm, lại có cách nói cường điệu, khuếch đại, ca dao Nam bộ cũng có những cách nói rất giản dị, chân tình. Trong hoàn cảnh tự tình với nhau, đôi khi họ không dùng những từ hoa mỹ, không nói những từ chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, mà chỉ nói một cách mộc mạc, bình dân, cốt sao bày tỏ được lòng mình:

Anh về em nắm vạt áo em la làng
Phải bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em.


Quả là mộc mạc, quả là chân tình. Trong từng câu, từng chữ không có gì khó hiểu cả, tạo được sự cảm thông và gây được cảm xúc cho người đọc.

Hay:
Anh tưởng giếng sâu anh nối sợi dây cụt
Ai dè giếng cạn nó hụt sợi dây
Qua tới đây không cưới được cô hai mày
Qua chèo ghe ra biển đợi nước đầy qua chèo trở vô.


Phương ngữ Nam bộ ra đời tuy có muộn hơn so với phương ngữ của các vùng khác, nhưng không vì thế mà nó nghèo nàn, hời hợt, mà trái lại nó rất đa dạng, phong phú và sâu lắng. Nó chứa đựng các yếu tố văn hóa, phong tục tập quán cùng tính cách của con người Nam bộ. Phương ngữ Nam bộ không chỉ đơn thuần là khẩu ngữ của người Nam Bộ mà nó đã bước vào văn học nghệ thuật với một tư thế rất đường hoàng. Những câu ca dao Nam bộ vừa dẫn trên là một minh chứng cho điều này.

 

T.P.D (Trường Cao Đẳng Sư phạm Cần Thơ)

Theo e-cadao

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 04/Sep/2008 lúc 3:09am

Tính cách người Nam Bộ qua ca dao

Trần Phỏng Diều
   

Nói đến tính cách của người Nam bộ, chúng tôi muốn đi vào tìm hiểu những nét riêng trong cử chỉ, tính tình của người Nam bộ được thể hiện qua các mối quan hệ trong xã hội. Thực ra, người Nam bộ là một trong những bộ phận cấu thành của dân tộc Việt nam cho nên dù người Nam bộ hay Bắc bộ cũng đều có những đặc tính chung nhất định của người Việt Nam. Nhưng do điều kiện địa lý, nét văn hóa khác nhau của từng vùng, miền mà tính cách của con người cũng có khác nhau...

Vùng đất Nam bộ trước khi có sự khai phá của những lưu dân đến từ miền Trung và một ít cư dân người Bắc thì vùng đất này chỉ là một vùng rừng rậm hoang vu thú dữ tràn đầy, tứ bề hiu quạnh. Cảnh tượng ban đầu quá xa lạ với những gì họ biết, họ nghĩ khi còn ở quê nhà, đã làm cho họ lo sợ:

Tới đây xứ sở lạ lùng
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê.

Họ lo sợ trước cảnh tượng lạ lùng chẳng bao lâu, họ lại lo sợ đến thú rừng, nào là cọp um, sấu lội, đỉa đeo:

Mau khỉ khọt trên bưng
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.

Rồi họ bắt đầu lo sợ đến thiên nhiên vô cùng bi ẩn của những buổi đầu khai phá:

Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống sông sợ đỉa, lên rừng sợ ma.

Chính cái bí ẩn của thiên nhiên còn hoang sơ với đầy rẫy những hiểm nguy, bất trắc là sợi dây liên kết những con người xa lạ với nhau. Trước cảnh tượng rừng hoang cỏ rậm, đồng ruộng hoang vu nên họ cần phải sống nương tựa vào nhau, tất cả hết lòng vì việc nghĩa. Điều này đã hình thành nên tính cách trọng nghĩa khinh tài ở trong họ. Bởi họ ý thức được rằng: trước điều kiện thiên nhiên như vậy, họ chia rẽ là chết. Tinh thần đoàn kết, sống với nhau vì nghĩa không chỉ giúp cho họ sẻ chia công việc với nhau, hợp sức đánh đuổi các loài ác thú mà còn là để cho có bạn, để giúp đỡ nhau trong những lúc hoạn nạn, ốm đau:

Ví dầu cá bóng xích đu
Tôm càng hát bội, cá thu cầm chầu.

Câu ca dao tuy nói về động vật, nhưng nó phản ánh một tập thể có tổ chức. Tất cả cùng làm, cùng vui đùa bên nhau. Làm thì làm hết mình, chơi thì cũng chơi “tới bến". Đó là những lúc cùng làm, cùng chơi. Còn khi hữu sự, họ chẳng màng đến gian khổ, hiểm nguy để hành hiệp trượng nghĩa, thậm chí sẵn sàng chấp nhận hy sinh tính mạng của mình để làm tròn đạo nghĩa:

Dấn mình vô chốn chông gai
Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân
Lao xao sóng bủa dưới lùm
Thò tay vớt bạn chết chìm cũng ưng.

Bởi, nếu thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là người anh hùng:

Có câu: kiến nghĩa bất vi
Làm người như thế cũng phi anh hùng.

Đó là trong lúc hữu sự, còn trong lúc bình thường họ cũng qúy mến bạn bè. Bởi phần lớn, họ đều là những người xa gốc gác, cội nguồn, họ phải sống nương nhờ bè bạn, tất cả cùng hoạn nạn có nhau - "Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Với tâm lý của cư dân Bắc bộ "Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, nên khi có bạn bè đến chơi, khách đến nhà, dù gia cảnh có bần hàn đến đâu, họ cũng cố gắng đãi đằng bạn một cách cho tươm tất:

Bắt con cá lóc nướng trui
Làm mâm rượu trắng đãi người bạn xa.

Cũng chính tâm lý này mà người Nam bộ thường được mọi người cho rằng: Họ có tính hào sảng, hiếu khách, trọng tình nghĩa. Nghèo thì nghèo, lo cho bạn chu đáo cái đã, tiền bạc có xá gì, nhân nghĩa mới là điều trọng. Vì vậy, những ai không có nhân nghĩa thì cũng đừng hòng họ đáp lại bằng nhân nghĩa:

Tiền tài như phấn thổ
Nhân nghĩa tựa thiên kim.
Bởi đứt dây nên gỗ mới chìm
Tại ai ở bạc nên mới tìm nơi xa.

Còn nếu sống có tình, có nghĩa thì khó khăn nào họ cũng chịu, gian khổ mấy họ cũng sẵn sàng chấp nhận:

Theo nhau cho trọn đạo trời
Dẫu mà không chiếu trải tơi mà nằm.

Ngoài tính cách trọng nghĩa khinh tài, nghĩa khí hào hiệp, người Nam bộ còn thể hiện một khí phách hiên ngang, tình cảm rõ ràng, dứt khoát. Họ đã hứa thì phải làm. Nói một là một, hai là hai, không thay đổi, cho dù sự thay đổi có khi đem lại điều lợi cho họ:

Thuyền dời mà bến chẳng dời
Khăng khăng một lời quân tử nhất ngôn.

Lợi lộc thì họ ham, nhưng họ không vì danh lợi mà phải làm những công việc không tương xứng với công sức mình bỏ ra, và nhất là trong quyền lợi đó ẩn chứa bao điều phi nghĩa, trái với tinh thần nghĩa khí hào hiệp của họ:

Đừng ham hốt bạc ghe chài
Cột buồm cao bao lúa nặng, tấm đòn dài khó đi

Và ta hãy xem đây, một lời đề nghị của cô gái có phần dí dỏm, mỉa mai, chứa đựng một sự phản đối đối với một người đàn ông đang chọc ghẹo mình:

Anh có thương em thì cho em một đồng
Để em mua gan công, mật cóc thuốc chồng em theo anh.

Trước lời đề nghị độc ác, trái với luân thường đạo lý như thế, anh con trai hết sức nổi giận một sự nổi giận rất cương trực.

Nghe hò tao bắt nổi xung
Tao cho một phảng chết chung cho rồi.

Nổi bật trong tính cách của người Nam bộ mà người ta thường nhắc đến là tính hiên ngang, dân gian quen gọi là tính "ngang tàng". "Ngang tàng" ở đây không phải là ngang ngược, lỗ mãng, mà "ngang tàng" ở đây chính là tính nghĩa khí, chí khí hiên ngang. Họ đối đãi với nhau rất là điệu nghệ, sẵn sàng vi nghĩa khinh sinh. Bằng ngược lại, trái với đạo nghĩa, họ nhất định không làm, dù phải trả giá bằng sinh mạng, họ vẫn một lòng phản đối:

Trời sinh cây cứng lá dai
Gió lay mặc gió, chiều ai không chiều.

Chính tính cách này giúp họ sống hòa thuận với nhau, liên kết cộng đồng, cùng chung sức khẩn hoang lập ấp. Và với sự nỗ lực không ngừng, mảnh đất hoang vu thuở nào nay đã trù phú, rừng hoang đã rẫy, cánh đồng bát ngát xanh tươi. Thiên nhiên ngày càng đem đến cho con người nhiều nguồn lợi hơn. Từ đó họ thêm tự hào và yêu qúy mảnh đất này hơn. Vì vậy, cảm nghĩ về quê hương đất nước cũng là một trong những tính cách của con người Nam bộ. Đây thật sự là tính cách bao trùm. Nó vừa mang nét chung về lòng yêu quê hương đất nước của tất cả con người Việt Nam, nhưng lại vừa thể hiện nét riêng của con người Nam bộ. Nét riêng ở đây là cách thể hiện, cách biểu hiện tấm lòng của mình đối với quê hương đất nước. Thật ra, lòng yêu nước của mỗi con người đều như nhau, nhưng cách thể hiện của mỗi con người không phải lúc nào cũng giống nhau. Điều này, ngoài tính cách của từng người, nó còn do đặc điểm văn hóa, địa lý của một vùng đất quy định nên.

Sau những vất vả, gian lao của buổi đầu khai phá, vùng đất Nam bộ càng ngày càng đem đến cho con người nhiều nguồn lợi về tự nhiên. Điều này càng làm cho người Nam bộ thêm yêu qúy mảnh đất mình hơn. Đó là lý do giải thích tại sao các câu ca dao ở Nam bộ có nội dung về quê hương đất nước thường đề cập đến một vùng đất trù phú, một địa bàn khá rộng và nổi tiếng giàu có về những thứ sản vật nào đó:

Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm.

Hoặc:

Bến Tre giàu mía Mỏ Cày
Giàu nghêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn.
Bình Đại biển lúa sông tôm
Ba Tri ruộng muối, Giồng Trôm lúa vàng.

Hay

Ba phen quạ nói với diều
Cù lao ông Chưởng có nhiều cá tôm.

Nhưng cuộc sống sung túc, thanh bình của người dân nơi đây bỗng dưng bị đảo lớn khi thực dân Pháp đến xâm lược. Được hun đúc bởi tinh thần yêu nước, khí phách anh hùng của người dân Nam bộ được phát huy một cách mãnh liệt. Ca dao Nam bộ đã kịp thời phản ánh thực tế đau xót đó:

Đắng khổ qua, chua là chanh giấy
Dầu ngọt thế mấy cũng tiếng cam sành
Giặc Lang Sa đánh tới châu thành
Dù ai ngăn qua đón lại, dạ cũng không đành bỏ em.

Trước thực tế đau xót đó, họ kêu gọi mọi người đứng lên làm cuộc khởi nghĩa, đánh giặc cứu nước:

Làm trai đứng ở trên đời
Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta
Ghé vai gánh đỡ sơn hà
Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu.

Và người phụ nữ Nam bộ ở nhà chăm lo sản xuất để chồng yên tâm đi chiến đấu:

Anh đi đánh giặc Lang Sa
Để thiếp ở nhà, lo tần lo tảo
Chén cơm manh áo, nhà cửa ruộng vườn
Để anh lên ngựa đề thương
Thiếp về mặc thiếp liệu lường nuôi con.

Ca dao Nam bộ còn góp phần phân tích cho mọi người rõ đâu là chính nghĩa, đâu là gian tà:

Có chồng đi lính nghĩa binh
Dầu nghèo dầu cực vẫn thương mình ai ơi.
Lấy chi cái lũ báo đời
Chuyên nghề bán nước phá đời hại dân.

Nhắc nhở moi người không nên vì tham danh lợi mà đi làm tôi tớ cho Pháp:

Đừng tham đồng bạc con cò
Bỏ cha bỏ mẹ đi phò Lang Sa…

Trở lên là tính cách của con người Nam bộ được thể hiện qua ca dao. Nói đến tính cách con người của một vùng, miền, một quốc gia dân tộc là điêu tế nhi. Hơn nữa tính cách con người lại rất phong phú và đa dạng, có thể sẽ thay đổi qua thời gian. Vì vậy, ở bài viết này, chúng tôi không có tham vọng chỉ ra tất cả những tính cách của con người Nam bộ. Bởi đó là điều không thể, mà chúng tôi chỉ chọn khảo sát một số tính cách của con người ở đây được phản ánh qua ca dao cũng của xứ này, để xem những người Nam bô nói về tính cách của con người Nam bô ra sao. Từ đó, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn đặc tính của vùng đất và con người Nam bộ, và cũng là để thêm yêu mảnh đất này hơn.

Nguồn:  Văn hiến Việt Nam
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 04/Sep/2008 lúc 3:11am
Ca dao Nam Bộ
 
333 magnify

 

Chất Hóm Hỉnh Trong Ca Dao Tình Yêu Nam Bộ

Sự mộc mạc hồn nhiên ở từ ngữ, cách thể hiện dung dị và ngộ nghĩnh gây nên những bất ngờ thú vị là chất hóm hỉnh thường thấy trong ca dao tình yêu Nam Bộ. Đó cũng là biểu hiện tính cách đặc trưng của người dân nơi đây.

Trước hết là chất hóm hỉnh không cố tình, không dụng công, toát ra một cách tự nhiên qua những từ ngữ mộc mạc; không hề chau chuốt chân thật đến độ người nghe phải bật cười. Một anh chàng quá đỗi si tình đã trở thành "liều mạng":

"Dao phay kề cổ, máu đổ không màng
Chết thì chịu chết, buông nàng anh không buông"

Một cô nàng thật thà cả tin đã giật mình "hú vía" vì kịp thời nhận ra "chân tướng" đối tượng:

"May không chút nữa em lầm
Khoai lang khô xắt lát em tưởng cao ly sâm bên Tàu"

Có những nỗi niềm tương tư ấp ủ trong lòng, nhưng cũng có khi người ta không ngại ngần thổ lộ trực tiếp với bạn tình:

"Tôi xa mình hổng chết cũng đau
Thuốc bạc trăm không mạnh, mặt nhìn nhau mạnh liền"

Họ là những người lao động chân chất, nên cũng bày tỏ tình cảm với nhau bằng thứ khẩu ngữ thường ngày không chưng diện, màu mè, tuy vậy, cái tình trong đó cũng mãnh liệt và sâu sắc.

Đây là lời tâm sự của một anh chàng đêm hôm khuya khoắt lặn lội đi thăm người yêu:

"Thương em nên mới đi đêm
Té xuống bờ ruộng đất mềm hổng đau
May đất mềm nên mới hổng đau
Phải mà đất cứng ắt xa nhau phen này"

Chàng thật thà chất phác, nhưng mà cũng có chút ranh ma đấy chứ? Chất hóm hỉnh đã toát ra từ cái "thật thà tội nghiệp".

Nhưng phần lớn vẫn là sự hóm hỉnh mang tính chất đùa nghịch. Một chàng trai đã phóng đại nỗi nhớ người yêu của mình bằng cách so sánh ví von trào lộng:

"Vắng cơm ba bữa còn no
Vắng em một bữa giở giò không lên"

Nỗi vấn vương tơ tưởng đi vào tận giấc ngủ khiến chàng trở nên lú lẫn một cách buồn cười:

"Phòng loan trải chiếu rộng thình
Anh lăn qua đụng cái gối, tưởng bạn mình, em ơi!"

Nhưng cái độc đáo là ở đây nỗi niềm đó lại được bộc lộ một cách hài hước:

"Tôi xa mình ông trời nắng tôi nói mưa
Canh ba tôi nói sáng, giữa trưa tôi nói chiều"

Có một chút phóng đại làm cho lời nói nghe hơi khó tin! Nhưng hề gì. Chàng nói không phải cốt để đối tượng tin những điều đó là sự thật mà chỉ cốt cho nàng thấu hiểu tấm tình si của mình. Nàng bật cười cũng được, phê rằng "xạo" cũng được, miễn sao hiểu rằng mình đã phải ngoa ngôn lên đến thế để mong người ta rõ được lòng mình.

Lại có một chàng trai đang thời kỳ tiếp cận đối tượng, muốn khen cô nàng xinh đẹp, dễ thương mà khó mở lời trực tiếp. Để tránh đột ngột, sỗ sàng, chàng đã nghĩ ra một con đường vòng hiếm có:

"Trời xanh bông trắng nhụy huỳnh
Đội ơn bà ngoại đẻ má, má đẻ mình dễ thương".

Mục đích cuối cùng chỉ đơn giản là khen "mình dễ thương" mà chàng đã vòng qua năm non bảy núi. Bắt đầu từ thế giới tự nhiên - trong thế giới tự nhiên lại bắt đầu từ ông trời - tạo hóa sinh ra những loại cây, hoa đẹp đẽ - rồi mới bước qua thế giới của loài người - trong thế giới loài người lại từ hiện tại ngược dòng lịch sử để bắt đầu từ tổ tiên ông bà, tới thế hệ cha mẹ, rồi tới nhân vật chính - "mình". Thật là nhiêu khê, vòng vo tam quốc làm cho đối tượng hoàn toàn bất ngờ. Những lời ngộ nghĩnh kia dẫn dắt tới sự hiếu kỳ háo hức muốn biết "chuyện gì đây", cho đến khi cái kết cục thình lình xuất hiện làm cho cô nàng không kịp chống đỡ... Nhưng mà nó thật êm ái, thật có duyên biết bao, nên dù phải đỏ mặt, cô hẳn cũng vui lòng và không thể buông lời trách móc anh chàng khéo nịnh!

Ngược lại, cũng có những lời tỏ tình khá táo bạo, sỗ sàng, nhưng hình ảnh thì lại hết sức ngộ nghĩnh, dí dỏm:

"Con ếch ngồi dựa gốc bưng
Nó kêu cái "quệt", biểu ưng cho rồi"

Những người nghe câu "xúi bẩy" này không thể không bật cười, còn đối tượng xúi bẩy cùng lắm cũng có thể tặng cho người xúi có phần trơ tráo kia một cái nguýt dài.

Những câu ca dao hóm hỉnh không chỉ bật lên từ tâm trạng đang vui, tràn đầy hy vọng, có khi "rầu thúi ruột" mà họ vẫn đùa. Những trắc trở trong tình yêu nhiều lúc được trào lộng hóa để ẩn giấu nỗi niềm của người trong cuộc:

"Thác ba năm thịt đã thành bùn
Đầu thai con chim nhạn đậu nhánh tùng chờ em"

Quả là "khối tình thác xuống tuyền đài chưa tan", nên chàng lại quyết tâm chờ tiếp ở kiếp sau cho đến khi nào nên duyên nên nợ. Kiên nhẫn đến thế là cùng!

Khi chàng trai cố gắng đến hết cách vẫn không cưới được người mình yêu, không biết trút giận vào đâu, bèn đổ lỗi cho một nhân vật tưởng tượng:

"Quất ông tơ cái trót
Ổng nhảy tót lên ngọn cây bần
Biểu ông xe mối chỉ năm bảy lần, ổng không xe"

Thái độ quyết liệt trong tình yêu lắm lúc được thể hiện đầy ấn tượng. Anh chàng hay cô nàng trong câu ca dao dưới đây đã xem cái chết nhẹ như lông hồng. Thà chết còn hơn là lẻ bạn!

"Chẳng thà lăn xuống giếng cái "chũm"
Chết ngủm rồi đời
Sống chi đây chịu chữ mồ côi
Loan xa phượng cách biết đứng ngồi với ai?"

Có chàng trai thì quyết tâm đem tuổi thanh xuân gửi vào cửa Phật:

"Nếu mà không lấy đặng em
Anh về đóng cửa cài rèm đi tu"

Chàng vừa muốn tỏ lòng mình vừa muốn thử lòng người yêu. Và cô nàng cũng tỏ ra quyết tâm không kém. Chàng đi đến đâu nàng theo đến đó để thách thức cùng số phận:

"Tu đâu cho em tu cùng
May ra thành Phật thờ chung một chùa"

Bằng câu đùa dí dỏm của mình, cô nàng đã làm nhẹ hẳn tầm nghiêm trọng của vấn đề trong tư tưởng anh chàng và cũng hóa giải tâm tư lo âu, phiền muộn của chàng - "Có gì đáng bi quan đến thế? Cái chính là em vẫn giữ vững lập trường" - đồng thời cũng hàm thêm chút chế giễu - "Mà có chắc là tu được không đấy?".

Khi yêu, nhiều cô gái cũng mạnh dạn bày tỏ tình cảm của mình không kém các chàng trai.

"Phải chi cắt ruột đừng đau
Để em cắt ruột em trao anh mang về"

Không tiếc cả thân thể, sinh mạng của mình, nhưng cô gái chỉ... sợ đau, thật là một cái sợ đầy nữ tính rất đáng yêu. Hay khi chàng trai muốn liều mình chứng tỏ tình yêu, nhưng cũng lại "nhát gan" đến bật cười:

"Gá duyên chẳng đặng hội này
Tôi chèo ghe ra sông cái, nước lớn đầy... tôi chèo vô"

Tinh nghịch, hóm hỉnh những lúc đùa vui và cả những khi thất vọng, đó là vũ khí tinh thần của người lao động để chống chọi những khắc nghiệt của hoàn cảnh. Những chàng trai, cô gái đất phương Nam đã lưu lại trong lời ca câu hát cả tâm hồn yêu đời, ham sống, hồn nhiên của họ trên con đường khai mở vùng đất mới của quê hương tiếp nối qua bao thế hệ - Đó là tinh thần phóng khoáng, linh hoạt, dày dạn ứng biến của những con người
"Ra đi gặp vịt cũng lùa; Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu"...

Đoàn T Thu Vân

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 04/Sep/2008 lúc 3:14am

Đặc sản Nam Bộ qua ca dao, tục ngữ !

 

Đất Nam Bộ là vựa lúa chính của nước ta, đồng thời là vựa trái cây nổi tiếng với đủ các chủng loại hoa quả miền nhiệt đới. Mùa nào thức ấy. Từ chôm chôm, vú sữa, măng cụt, sầu riêng cho đến mít, chuối, xoài, ổi, nhãn, cam quýt... Mỗi địa phương có sản vật riêng món ngon riêng, vừa đa dạng vừa phong phú. Với ưu thế sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, bưng biền ngập nước mênh mông là nơi sanh sống lý tưởng của rắn rết, cá sấu, rùa , ba ba, tôm, cá, cua, còng... và cả các loại chim chóc nữa.

Có thể nói đất Nam Bộ tập trung nhiều món ăn ngon, nhiều sản vật lạ từ lâu đã đi vào kho tàng văn học dân gian và luôn luôn là đề tài hấp dẫn, thu hút khách phương xa...

Đồng Nai là đất địa đầu Nam Bộ có nhiều loại cây ăn trái như chôm chôm, sầu riêng, bưởi, bòng... Đặc biệt, bưởi Biên Hoà đã được mọi người ca tụng:

Ăn bưởi thì hãy đến đây,
Vào mùa bưởi chín vàng cây trĩu cành
Ngọt hơn quýt mật, cam sành
Biên Hoà có bưởi trứ danh tiếng đồn

Đã ăn rồi mới biết:

Biên Hoà bưởi chẳng đắng the
Ăn vào ngọt lịm như chè đậu xanh

Sầu riêng Đồng Nai cũng là loại trái cây có giá trị trên thị trường:

Ai qua Phú Hội, phước Thiền (Thành)
Bâng khuâng nhớ mãi sầu riêng Long Thành

Cả một vùng Đông Nam bộ, từ Đồng Nai cho đến Bình Dương, đâu đâu cũng thấy những vườn cây trĩu quả:

Sầu riêng, măng cụt, chôm chôm
Xoài ngon, mít ngọt, chuối, thơm bạt ngàn

Còn ở Sài Gòn nổi tiếng xưa nay với món nem Thủ Đức "danh bất hư truyền". Và người làm nem cũng rất đỗi tự hào về tay nghề của mình qua bao đời truyền tử lưu tôn:

Đi đâu mà chẳng biết ta
Ta ở Thủ Đức vốn nhà làm nem

Phía tây thành phố là đồng bằng Cửu Long trù mật, ruộng lúa mênh mộng

Đất Long An từ lâu được xem như vựa lúa chính ở Nam Bộ, được truyền tụng qua câu ca:

Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai,
Hết củi đã có Tân Sài chở vô!

Từ Tân An đi tiếp về miền tây là đất Tiền Giang, xưa là tỉnh Định Tường và Gò Công ở đây có món bánh giá chợ Giồng (gò Công) được khách sành ăn ca ngợi. Và cũng không biết tự bao giờ, món bánh giá chợ Giồng đã trở thành câu hát huê tình của các chàng trai miệt vườn:

Từ khi em gái lấy chồng,
Anh ăn bánh giá chợ Giồng với ải

Bên kia sông Tiền, đối diện với Tiền Giang là "Dáng đứng Bến Tre" với rừng dừa thơ mộng, là đất địa linh nhân kiệt:

Bến Tre nước ngọt lắm dừa,
Ruộng vườn màu mỡ biển thừa cá tôm
Sầu Riêng, măng cụt Cái Mơn
Nghêu sò Cồn Lọi, thuốc ngon Mỏ Cày.

Và:

Bến Tre giầu mía Mỏ Cày
Giầu nghêu Thanh Phú, giầu xoài Cái Mơn
Bến Tre biển cá sông tôm
Ba Tri muối mặn, Giồng Trôm lúa vàng

Bến Tre còn nổi tiếng với món bánh phồng, bánh tráng:

Bánh tráng Mỹ Lồng
Bánh phồng Sơn Đốc

Với kẹo dừa hấp dẫn:

Kẹo Mỏ Cày vừa thanh vừa béo,
Gái Mỏ Cày vừa khéo, vừa ngoan...

Từ đây, ngược dòng Tiền Giang đi vào Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh, đồng ruộng bao la và là kho cá tôm vô tận:

Đến mùa nước nổi thì có món đặc sản mùa lũ với các món ngon lạ miệng sẽ được chế biến trên sông nước:

Muốn ăn bông súng mắm kho,
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đỡ thèm!

Món ăn ở vùng nước mặn đồng chua tuy đơn sơ, mộc mạc nhưng hương vị đậm đà khó tả:

Điên điển mà đem muối chua,
Ăn cặp cá nướng đến vua cũng thèm!

Hoặc:

Muốn ăn bông súng mắm kho
Lén cha, lén mẹ xuống đò thăm anh

Đến mùa nước rút, cánh đồng Tháp Mười trở thành nơi sanh sản của rắn và chuột đồng. Rắn và chuột bắt đem chế biến thành những món nhấm "quá đã" giữa chốn bưng biền.

Cần chi cá lóc, cá trê,
Thịt chuột, thịt rắn nhậu mê hơn nhiều!

Đồng Tháp thật là cả một kho thực phẩm trời cho:

Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về bưng ăn cá về đồng ăn cua
Bắt cua làm mắm cho chua
Gửi về quê nội khỏi mua tốn tiền!

Từ giã Đồng Tháp về Cao Lãnh bên bờ sông Tiền, khách sẽ được thưởng thức món xoài ngon nổi tiếng xưa nay:

Xoài nào ngon bằng xoài Cao Lãnh
Vú sữa nào ngon bằng vú sữa Cần Thơ

Từ đây sang Cù lao Ông Chưởng không xa, cũng là nơi có nhiều tôm cá:

Bao phen quạ nói với diều,
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm

Vượt Vàm Nao, sông Hậu, đến Châu Đốc, nơi nổi tiếng làm nghề mắm thái và bánh phồng được nhiều người ưa thích:

Mắm Châu Đốc
Dốc Nam Vang

Hay:

Bánh Tráng Mỹ Lồng
Bánh phồng Châu Đốc

Xuôi dòng Hậu Giang về miệt Cần Thơ, Ba Thắc (Sóc Trăng), khách còn được dịp thưởng thức thêm các món ngon ở đời:

Ai về thẳng tới Năm Căn
Ghé ăn bánh hỏi Sóc Trăng, Bãi Xàu
Mắm nêm, chuối chát, khế, rau
Tôm càng Đại Ngãi cặp vào khó quên!

Khách đi lần xuống Bạc Liêu:

Bạc Liêu nước chảy lờ đờ
Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều chậu

Và, cuối cùng là đất mũi Cà Mau, kết thúc bằng món ăn:

Rau đắng nấu với cá trê
Ai về đất Mũi thì "mê" không về!

Có thật như thế chăng ! ?

Đi du lịch ngày nay rất dễ dàng và hiện đại. Các bạn còn chần chờ gì nữa mà chưa thực hiện một chuyến "Nam du" để đời, vừa tham quan các danh lam thắng cảnh vừa có dịp thưởng thức hương vị đất phương Nam. Biết đâu, trong những dịp ăn uống sẽ có nhiều kỷ niệm khó quên

Sưu tầm

 

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 04/Sep/2008 lúc 3:19am
~::Trích Dẫn nguyên văn từ Hoang_Ngoc_Hung

Vài cảm nghĩ về tình tự dân tộc Miền Nam và Ca Dao

Hòa Đa

Kính Tặng Má,
tặng Hồng, vợ tôi,
người đã ru con bằng ca dao.

...

 
Tôi đã đọc bài viết Miền nam và ca dao, một bài viết hay và bổ ích. Trong bài viết đó đã nói qua về sự khác biệt giữa ca dao Nam bộ và ca dao Bắc  bộ nhưng đã không phân tích nhiều đến nguyên nhân của sự khác nhau đó. Ở bài viết này tôi chỉ muốn bổ khuyết thêm vào sự thiếu hụt đó của bạn. Tôi phải nói trước, ở bài này tôi chỉ muốn phân tích những nguyên nhân lịch sử và địa lí dẫn đến sự khác nhau giữa ca dao hai miền chứ tuyệt nhiên không hề muốn so sánh hơn kém của ca  dao hai miền nhưng đó là điều rất khó khăn vì khi nói đến sự khác nhau thì vô hình dung sẽ động chạm đến vấn đề hơn kém dù cho tôi đã cố gắng tránh. Tôi mong các bạn Miền Nam nhất là các bạn ở Hải ngoại cho một chữ Đại xá
     Lịch sử hình thành nên vùng đất Nam bộ bắt đầu được tính từ thời chúa Nguyễn Hoàng (1525 -1613)
Vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Đi theo chúa Nguyễn là những lớp người của miền trung  bao gồm những binh lính, những nông dân đói khát không thể sống được mảnh đất miền trung ,nơi đất đai khô cằn, khí hậu khắc nghiệt.Theo tôi , đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự khác biệt giữa ca dao hai miền.
  Ta cứ tạm tính miền đất nam bộ bắt đầu từ năm 1500cho gọn ,lúc này miền bắc đã trải qua rất nhiều các triều đai .Nền nho học đã có mặt trong khắp các làng xóm của đồng bằng Bắc bộ. Tất cả các xã, thậm chí đến các thôn, nơi nào cũng có những bậc túc nho.Những gia đình khá giả ,người ta còn mời những nhà nho ở nơi khác về dạy cho con cái họ. Sự dao tiếp giữa những nhà nho với những người nông dân không học trở thành thường xuyên và vô tình những cách ăn nói, kiến thức của các nhà nho đã lây sang những người nông dân một cách vô ý thức.Và hệ quả tất yếu của nó là ca dao của Miền Bắc mượt mà hơn. Có tính văn học cao hơn. Nếu đặt  câu ca dao
         Con cò bay lả bay la
     Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng
Cạnh câu    “Cô kia tát nước bên đàng
            Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
Thì chúng ta sẽ nhận thấy ngay ảnh hưởng của văn học viết bác học của các nhà nho lên ca dao Miền Bắc.
     Một mặt khác, trong số hàng vạn các nhà nho, số thành danh rất ít. Số này, lịch sử đần đần sẽ tách riêng họ ra thành một lớp người riêng biệt  Số còn lại được hòa vào khối mà chúng ta vẫn gọi là nhân dân lao động và trong khối  đó những nhà nho ấy vẫn sáng tácvà tác phẩm của họ được truyền đi theo cùng với con đường của ca dao. Chính vì vậy trong ca dao bắc bộ có rất nhiều bài không còn là ca dao nữa mà nó là một bài thơ hoàn chỉnh và rất hay hay đến mức trong số chúng ta , những người có thể viết đượcmột bài như thế không phải là nhiều. Tôi  ví dụ như bài tát nước đầu đình, hay bài trèo lên cây bưởi hái hoa mà tác giả đã giới thiệu với các bạn. Tôi không chép bài này ra đây vì bài đó đã được bạn Mã Thiên Luân giới thiệu trong sưu tập của mình.Có thể tìm thấy rất nhiều bằng chứng để thấy được sự tham gia của các nhà nho vào ca dao. Ví dụ câu
                       Nghe tin anh học tú tài
           Cha thầy  Mạnh tử là ai rứa chàng
Câu này rõ ràng không thể là của một anh nông dân vô học
      Quay lại phần ca dao Nam bộ, như tôi đã nói ở trên, những người đầu tiên khai phá Nam bộ là những người nông dân không có học.
  Về mặt tâm lí học mà xét, đạithể con người có thể phân làm hai loại . Đó là những người hướng nội và những người hướng ngoại.Hầu hết những người đầu tiên khai phá mảnh đất Nam bộ đều là những người hướng ngoại. Họ đều có một đặc điểm chung đó là năng động, dễ dàng thích ứng với hoàn cảnh mới, không muốn bị gò bó bởi các tâp tục,luật lệ mà họ cảm thấy không thích, không đúng. Điểm cuối cùng và đây cũng là ưu điểm nổi bật nhất của những người hướng ngoại đó là họ là những người dũng cảm, khao khát cái mới. Dám đương đầu với thử thách. Chỉ có những người hội tụ đủ những đức tính trên mới dám bỏ miền trung vào Nam bộ để lập nghiệp bởi vì đường vào Nam bộ thời ấy có quá nhiều nguy hiểm và gian khổ như một câu ca dao đã từng nói
                                                Thương anh em cũng muốn vô
                                           Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam giang
Khi khai phá vùng đất mới có hai điều khiến cho họ mất dần lối sống cũ để tạo thành một lối sống mới mà ngày nay ta gọi là lối sống Nam bộ đó là
      -1  Về mặt địa lý     Mảnh đất nam bộ là mảnh đất quá giàu có, khí hậu ôn hòa họ không còn cảnh ăn bữa hôm lo bữa mai như như hồi còn ở quê cũ. Dần dần tính tiết kiệm của dân “Cá gỗ”đã biến mất trong lối sống nam bộ
     -2   Về mặt quan hệ xã hội     Khi đi khai phá vùng đất mới, những người Nam bộ đầu tiên đã cắt đứt hẳn với những quan hệ gia tộc, với những tục lệ ở  quê hương cũ .Không bị các tục lệ cũ trói buộc, chính họ phải tự mình tạo nên những phong tục mới, những luật lệ mới và thế là một phong cách sống mới ra đời rất khác so với cái gốc vốn có của nó
     Khi lối sống khác đi , điều đó ảnh hưởng ngay vào ngôn ngữ và cái mà như bạn Ct.Ly gọi là phương ngữ nam bộ đã hình thành
      Còn một điểm cuối cùng tôi muốn bổ xung vào bài viết là tính chớt nhả cắc trong ca dao .Trong bài viết của bạn có viết đại ý là ca dao bắc bộ thường nghiêm chỉnh ít chớt nhả hơn theo tôi chưa hẳn đã đúng như vậy. Ca dao bắc bộ thường có tính tự sự. Tính cắc cớ chớt nhả chỉ xuất hiện trong đối đáp nên những vùng không có hát đối đápnhư đồng bằng sông hồng thì trong ca dao không có tính cớt nhả, cắc cớ này nhưng những vùng có hát đối đáp hát ví, hát dặm như vùng thanh nghệ tĩnh thì tính cắc cớ này cũng khá phổ biến .Tôi  xin ví dụ
                        Anh ở trong ấy anh ra
              Mà anh lại biết bầu đà ong châm?
Đây chỉ là một vài ý kiến mang tính cá nhân. Rất mong các bạn đóng góp cho trang ca dao thêm phần sinh động
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 04/Sep/2008 lúc 3:22am

VỀ MỘT BÀI CA DAO NAM BỘ

                                        

 

********************
 
 

Tưởng giếng sâu qua nối sợ dây cụt

Ai dè giếng cạn nó hụt cái sợi dây

Qua tới đây mà không cưới được cô Hai mầy

Qua chèo ghe ra biển… đợi nước đầy qua chèo vô.

 

Bài ca dao này tôi được biết do nhà văn Lê Đình Bích đọc cho nghe.

Về phần Lê Đình Bích, anh nói rằng anh sưu tầm được từ một lão nông ở Bạc Liêu. Mới nghe xong tôi đã thích liền. Rõ là một bài ca dao ngồ ngộ, được thể hiện như là một truyện ngắn cực ngắn. Nhân vật là một chàng trai(có thể lắm), có tính cách cũng rất ngồ ngộ.

Xưa nay ta vẫn quen với câu: “Tưởng giếng sâu anh nối sợi dây dài”, nay bỗng nhiên lại được nghe một câu hết sức “trái khoáy”(“Tưởng giếng sâu qua nối sợi dây cụt”). Lối nhập đề ngay từ đầu đã gây được sự chú ý, bởi vì nó qúa lạ tai. Ngộ thật! Dây cụt thì làm sao mà đo được giếng sâu? Rõ là có sự cố ý tinh nghịch gì đây. Mà cũng có thể là anh chàng đã biết, bởi vậy chàng mới bày đặt ra cách nói ngộ kỳ đời(dây cụt mà còn hụt thì giếng ấy là giếng gì?).

Tiếp tục lung khởi nội dung, câu hai viết tiếp: “Ai dè giếng cạn nó hụt cái sợi dây”. Đương nhiên qúa đi rồi còn gì. Đã là dây cụt thì còn nhằm nhò gì mà đo với chẳng đo. Nó khác hẳn với câu ta đã biết: “”Ai ngờ giếng cạn anh tiếc hoài sợi dây”. So sánh hai câu này với nhau, ta lại thấy lấp lánh cái ngồ ngộ rất cố tình của lối kể, lối dẫn chuyện.

Sang tới câu ba thì cốt truyện bộc lộ đã qúa rõ. “Qua tới đây mà không cưới được cô hai mầy”, câu này đã dẫn ra thêm một nhân vật nữa. Cái cô Hai nào đó chắc cũng phải có nét gì đó ngồ ngộ mới khiến nhân vật chính của chúng ta bộc lộ quyết tâm làm vậy. Câu chuyển này thực ra không chuyển hẳn về ý, nhưng rõ ràng nó vẫn tạo ra sức chuyển rất mạnh cho bài ca dao, giúp ta thấy ràng ràng tính cách “ăn sóng nói gió” của một anh chàng hạ bạc lặn lội đường xa đến tìm gặp người đẹp và quyết “yêu” cho bằng được người đẹp.

Câu thứ tư dùng kết thúc câu chuyện cũng hết sức bất ngờ. Câu này phải đọc ngắt ra làm hai mới thấm hết cái độc đáo, cái thần khí đầy sắc sảo của bài ca dao. “Qua chèo ghe ra biển/ đợi nước đầy qua chèo vô”. Ở trên là câu thề độc, cho nên đọc vế đầu của câu dưới, hẳn sẽ khiến ta liên tưởng tới cái chết, cái kết cục bi thương của một cuộc tình đơn phương bốc lửa. Không yêu được “cô Hai mầy” thì qua chèo ghe ra biển qua ùm xuống chết cho “cô Hai mầy” coi. Ấy vậy mà không!.. Ngu gì qua chết lãng òm cơ chứ! “Đợi nước đầy qua chèo vô”. Lối kết thúc này xui tôi nhớ một bài Tanka Nhật Bản:

 

Sông Hô Nô Xê nước rất nông

Lội ra giữa dòng vẫn không ướt váy

Hỏi một người cũng nông như vậy

               Làm sao tôi có thể yêu sâu?

 

Cái cô Hai nào đó trong bài ca dao của chúng ta có “nông” không nhỉ? Anh chàng kể chuyện cho chúng ta nghe, hẳn đã nếm mùi kiểu như “con cáo với chùm nho” của La Phông Ten rồi là cái chắc. Dùng dây cụt thì không làm sao đo được giếng mà biết sâu hay cạn. Cứ theo cốt truyện mà suy, thì nhân vật của chúng ta hẳn đã bị hạ đo ván tới thấm mùi, nên mới biến được chuyện riêng của mình thành một truyện cực ngắn, hay tới mức độc đáo làm vậy.

Nam Bộ có một câu rất hay: “Nói vậy mà không phải vậy”. Bài ca dao là một câu chuyện thuộc loại “nói vậy mà không phải vậy’. Hệ thống ngôn ngữ dùng kể chuyện rất thống nhất, bố cục chặt chẽ, kết cấu bất ngờ, cho ta thấy rõ một bản lĩnh sáng tạo văn bản rất tài hoa. Mới nghe, ta tưởng như nhân vật trong bài ca dao chỉ kể chuyện để giỡn chơi tưng tửng cho vui lúc trà dư tửu hậu, nhưng càng đọc ta càng thấy lấp lánh một khía cạnh rất thật trong đời: với tình yêu thì không thể đùa giỡn được. Đùa giỡn thì không thể thành tình yêu, nhưng lỡ không thành được tình yêu thì cũng phải vui lên mà sống chứ. Vậy là thoắt một cái, anh chàng phải lòng cái cô Hai đa tình nào đó, bỗng trở nên sâu sắc lạ đời.

 

Tưởng giếng sâu qua nối sợi dây cụt

Ai dè giếng cạn nó hụt cái sợi dây

Qua tớ đây mà không cưới được cô Hai mầy

Qua chèo ghe ra biển… đợi nước đầy qua chèo vô.

 

                                                                                      H.T.T.

 



Chỉnh sửa lại bởi Hoang_Ngoc_Hung - 04/Sep/2008 lúc 3:24am
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 04/Sep/2008 lúc 3:30am
.
 
 

Ai làm cho dạ em buồn
Cho con bướm lụy, chuồn chuồn lụy theo.

 

Anh quyết lên non tìm con chim lạ
Chớ chốn thị thành chim chạ thiếu chi

 

Anh về, em chẳng dám cầm
Dang tay đưa bạn, ruột bầm như dưa.
Anh về người Huế lâu vô
Vẽ tranh họa đồ để lại cho em
Anh về, em túm vạt áo em la làng
Bỏ chữ thương, chữ nhớ lại giữa đàng cho em.

 

Ăn cơm chống đũa chờ Anh
Mảng sầu nhân nghĩa mình xem như chàm.

 

Biển Đông sóng gợn tứ mùa
Ai cho bậu uống thuốc bùa bậu mê.

 

Bông quỳnh rụng xuống cội quỳnh
Dẫu ai ngậm ngọc dỗ mình đừng xiêu.

 

Buổi chợ đông, con cá hồng anh chê lạt
Tan chợ rồi, con tép bạc anh khen ngon.

 

Cây khô chết đứng giữa trời
Chết thời chịu chết, không bội lời hẹn xưa.

 

Chẳng chè, chẳng chén sao say
Chẳng thương chẳng nhớ sao hay đi tìm?

 

Chiếc thuyền kia nói có,
Chiếc ghe nọ nói không.
Phải chi miễu ở gần sông
Em thề một tiếng kẻo lòng anh nghi.

 

Chiều nay cắt cổ con gà vàng
Để khuya nó gáy, hai đàng biệt ly.

 

Chừng nào cho vạc xa cồn,
Cù lao xa biển anh mới đành xa em.
Chừng nào cầu đá rã tan
Sông Hàm Luông lấp cạn mới quên lời thề

 

Cô kia chèo lái một mình
Cho anh chèo với cho mình có đôi.

Cơm ăn ba chén lưng lưng
Uống nước cầm chừng để dạ thương em.

 

Cơm sôi, lửa cháy, gạo nhảy tưng bừng
Anh thương em như lửa nọ cháy phừng
Dầu cho lở núi, tan rừng cũng thương.

 

Cực vì hai đứa hai nơi
Muốn qua thăm bậu sợ lời thế gian

 

Dao phay kề cổ, máu đổ không màng
Chết thời chịu chết, buông nàng anh không buông.

 

Dế ngâm sầu nhiều câu rỉ rả
Nhớ bạn chung tình thức cả năm canh

 

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ

 

Đêm khua đèn tắt nhang tàn
Dế ngâm rỉ rả dạ càng sầu riêng,

 

Trao lời mà chẳng trao duyên
Gỉa như trao thảm, trao phiền cho nhau.

 

Đêm nằm bỏ tóc qua mình
Thề cho bán mạng kẻo tình nghi oan.

 

Đêm nằm mơ tưởng, tưởng mơ
Chiêm bao thấy bậu, dậy rờ chiếu không.

 

Đêm nằm nghe vạc trở canh
Nỉ non tiếng dế như anh dỗ nàng.

 

Đó đi tu đây xin ở sãi
Ăn đĩa tương chùa trọn ngãi cùng nhau.

 

Đói lòng ăn trái khổ qua
Nuốt vô thì đắng, nhả ra sợ bạn cười.

 

Đồng Nai, Châu Đốc, Định Tường
Lòng anh sở mộ con gái vườn mà thôi

 

Đứa nào thấy Tấn, quên Tần
Xuống sông sấu ních, lên rừng cọp tha.

 

Đứt tay một chút còn đau
Huống chi nhơn ngãi lìa nhau sao đành.

 

Em về anh mượn khăn tay
Gói câu tình nghĩa lâu ngày sợ quên.

 

Gọi đò chẳng thấy đò sang
Phải chăng người cũ phụ phàng khách xưa?

 

Lên non thiếp cũng lên theo
Tay vịn chân trèo, hái trái nuôi nhau.

 

Mình về em chẳng dám đưa
Hai hàng nước mắt như mưa tháng mười.

 

Một mình giã gạo ngoài trời
Cám bay phảng phất nhớ người đi xa.

 

Ngó lên đám mạ ba rò,
Kêu anh cũng ngặt, kêu trò khó kêu.

 

Nhớ ai lệ chảy ngùi ngùi
Khăn lau chẳng sạch, áo chùi chẳng khô.

 

Quí gì một nải chuối xanh
Năm bảy người giành cho mủ dính tay
Mủ dính tay anh chùi đọt cỏ
Đã thương nàng rồi không bỏ được đâu.

 

Ra đi anh có dặn rằng
Đâu hơn bậu lấy, đâu bằng đợi anh.

 

Ra về không lẽ về luôn
Để khăn xéo lại lệ tuông em chùi.

 

Rượu ngon cái cặn cũng ngon
Anh thương em bất luận chồng con mấy đời.

 

Sông dài cá lội biệt tăm
Người thương đâu vắng chỗ nằm còn đây.

 

Sông sâu sóng bủa láng cò
Thương em vì bởi câu hò có duyên.

 

Sông sâu, sào ngắn khó dò
Muốn qua thăm bậu ngặt đò không đưa.

 

Thân em như con nhạn một mình
Ngày ngai du ngoài ruộng, tối đậu mé đình kêu sương

 

Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?

 

Thân em như cúc mọc bờ rào
Kẻ qua ngắt nhụy, người vào bẻ bông.

 

Theo nhau cho chọn đạo đời
Dẫu mà không chiếu, trải tơi mà nằm.

 

Thương em tình gởi trong mơ
Nhớ em rạo rực như bờ sóng xô

 

Thò tay bẻ nhánh mai tàn
Bỗng nhìn thấy bạn hai hàng lệ sa.

Thò tay mà ngắt ngọn ngò
Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ.

 

Thò tay ngắt ngọn rau ngò
Thấy anh còn nhỏ, giữ bò em thương.

 

Tiếc công đắp đập, be bờ
Để cho người khác đem lờ tới đơm.

 

Tu đâu cho anh tu cùng
Mai sau thành Phật ngồi chung một bàn.

Trách ai tham đó, bỏ đăng
Thấy lê quên lựu, thấy trăng quên đèn.

 

Trách mình chẳng trách ai đâu
Trách con sào ngắn sông sâu khó dò.

 

Trắng như bông, lòng anh không chuộng
Đen như than hầm, lòng tưởng dạ mơ.

 

Trắng da vì bởi má cưng
Đen da vì bởi lội bưng, tát bàu.

 

Vì ai thiếp mới xa chàng
Tại con chim cú vào làng kêu đêm.

 

Ví dầu cha đánh mẹ treo
Đứt dây té xuống, em theo đến cùng.

 

(Người Gò Công gửi tặng)
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.141 seconds.