Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh
Message Icon Chủ đề: Thổ ngữ Huế Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
ReGocong49
Groupie
Groupie


Tham gia ngày: 09/Jul/2007
Thành viên: OffLine
Số bài: 46
Quote ReGocong49 Replybullet Chủ đề: Thổ ngữ Huế
    Gởi ngày: 25/Sep/2008 lúc 12:13pm
Vừa mới đọc chuyện nay trên
Xin trích lên đây để quí vi xem cho biết và học thêm được một giọng nói quê mình.(tuyệt đối không đùa)
Thổ ngữ Huế

Tiếng Huế không phải chỉ đơn giản tê mô răng rứa như thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong thơ, nhạc và văn xuôi, như những nét chấm phá rất dễ thương để nói về người và xứ Huế; mà nhức đầu, phức tạp, nhiêu khê, đa dạng và phong phú hơn nhiều. Tùy vào từng địa phương của Huế, cách phát âm có chỗ nặng nơi nhẹ; lúc thanh tao khi khó hiểu.

Xin được đơn cử một câu rất Huế, một tâm sự kín đáo giữa hai o đang tuổi lấy chồng: "Tau noái với mi ri nì, en còn ở dôn, rứa mà bữa tê tề, en chộ tau phơi ló ngoài cươi, en kiêu tau vô, bồn tau lên chờn, cái ba... en đẩn. Mi quai chướng khôn?". Sở dĩ tâm sự kín đáo vì đây là chuyện riêng của hai người, nói bằng thổ ngữ, nhưng ý nghĩa thì như vầy: "Tao nói với mày như vầy, ảnh còn ở rể, vậy mà hôm kia kìa, tao đang phơi lúa ngoài sân, ảnh kêu tao vào, bồng tao lên giường, rồi ảnh... Mày coi có kỳ không?".

Chữ "đẩn", ngoài ý nghĩa một trong bốn cái nhất của đời người trên còn có nghĩa như ăn: "Đẩn cho bưa rồi đi nghể" - "Ăn cho no rồi đi ngắm gái".

Đẩn cũng có nghĩa là đánh đòn: "Đẩn cho hắn một chặp!" (Đục cho hắn một hồi!). Chữ đẩn còn được phong dao Huế ghi lại: Được mùa thì chê cơm hẩm/ Mất mùa thì đẩn cơm thiu.

Xin được thêm một câu ngăn ngắn gần như rặt thổ ngữ của Huế mà, nếu không có... thông dịch viên gốc Huế hoặc Huế rặt, e rằng khó mà... đả thông cho được: "Thưa cụ mự, bọ tui vô rú rút mây về đươn trẹt, bọ tui chộ con cọt, rứa mà nỏ biết ra răng, con cọt lủi, lủi năng lắm, bọ tui mờng rứa thê! Chừ mạ tui cúng con gà, cụ mự qua chút chò bui" - (Thưa cậu mợ, bố con vào rừng rút mây về đan rá (hoặc nia), bố con thấy con cọp, vậy mà chẳng biết sao; con cọp chạy trốn, chạy lẹ lắm; bố con mừng quá. Giờ mẹ con đang cúng con gà, cậu mợ qua chút xíu cho vui). Khó hiểu chưa?!

Thổ ngữ ở Huế thì nhiều lắm và cũng lạ lắm, và vì tiêu đề của bài này là lan man về những thổ ngữ đó, nên xin được nhẩn nha tìm lại chút ít những gì đã mất và ôn lại những gì đang còn xài. Vì trang báo có hạn, không thể giải thích từng chữ một, nên trong bài này, xin được ghép thổ ngữ thành từng câu, từng nhóm thổ ngữ, vừa đỡ nhàm chán lại ra câu ra kéo, có đầu có đuôi hơn: "Đồ cái mặt trỏm lơ mà đòi rượn đực!" - (Thứ mặt mày hốc hác mà đòi hóng trai). Độc chưa! O mô mà lỡ mang cái nhãn không cầu chứng tại tòa này chắc phải ở giá hoặc phải chọn kiếp... tha hương may ra mới có được tấm chồng. Chữ "rượn" gần đồng nghĩa với câu con ngựa Thượng Tứ, câu này cũng độc không kém. Thượng Tứ là tên gọi của cửa Đông Nam, bên trong cửa này có Viện Thượng Kỵ gồm hai vệ Khinh kỵ vệ và Phi kỵ vệ chuyên nuôi dạy ngựa cho triều đình Huế. Vì thế gọi ngựa Thượng Tứ có nghĩa bóng bảy xa xôi rằng con đó nó ngựa lắm, nó đĩ lắm, nhưng thâm thúy hơn nhiều.

"Mệ cứ thộn ló vô lu, còn lưa, tui này lại!" - (Bà cứ dồn lúa vô khạp (cho đầy), còn dư ra, con mua lại). Chữ "lưa" cũng còn có nghĩa là "còn đó" như trong hai câu trong bài ca dao Huế: Cây đa bến cộ (cũ) còn lưa (còn đó)/ Con đò đã khác năm xưa tê rồi.

"Này lại" (mua lại); tiếng này thường chỉ dùng nơi xóm giềng, thân cận; tương đương với chữ nhường lại, chia lại, mua lại. Chứ không dùng ở chợ búa hoặc nơi mua bán um sùm.

Đập chắc lỗ đầu, vại máu! (Đánh nhau bể đầu, toé máu!). Thương bọ mạ để mô? Để côi trốt! Chắc chúng ta cũng thường hay hỏi lũ con lúc chúng vừa tập nói, vừa biết tỏ tình thương đối với cha mẹ, câu này có nghĩa: "Thương bố mẹ để đâu? Để trên đầu!".  Rồi đưa ngón tay chỉ chỉ, miệng cười cười, nghe hoài không biết chán.

Lên côi độn mà coi (Lên trên đồi mà xem). Chữ "coi" về sau này đã phổ biến đến nhiều địa phương khác.

Mự đừng có làm đày! (Mợ đừng có lắm lời, thày lay). Riêng chữ cụ mự thường là dùng cho cậu mợ. Người Huế ít dùng chữ cụ để chỉ người già vì đã có chữ ôn hay ông. Điển hình như cụ Phan Bội Châu với chuỗi ngày "an trí " ở Huế, dân Huế đã có tên gọi ông già Bến Ngự, hoặc trong ca dao Huế có câu thơ như vầy khi nói đến cụ Phan: Chiều chiều ông Ngự ra câu/ Cái ve cái chén cái bầu sau lưng.

Chộ chưa? Nỏ chộ! (Thấy chưa? Không thấy!). Nỏ là lối phủ nhận gọn gàng pha chút giận hờn, chanh cốm như chả biết, chả ăn, chả thèm vào! Hắn mô rồi? Nỏ biết! Chữ "nỏ biết" ở đây pha chút, chút xíu thôi sự phủi tay về cái chuyện hắn đang ở đâu! Tục ngữ Huế: Có vỏ mà nỏ có ruột.

En dòm tui, tui dị òm! (Anh ấy nhìn tôi, tôi thẹn quá!). Chữ "òm" người Huế vẫn thường dùng để bổ túc cho cái phủ định của mình: Ngon không? Dở òm!

O nớ răng mà không biết hổ ngươi! (Cô đó sao mà không biết mắc cỡ!) Hổ ngươi cũng là tên của cây trinh nữ, cây mắc cỡ . Cũng như xấu hổ, thẹn, mắc cỡ thì ốt dột, dị và hổ ngươi có nghĩa khác nhau tuy chút ít nhưng tinh tế, nhẹ nhàng.

Chiều hắn cho gắt, hắn được lờn!: Chiều nó cho lắm vào, nó làm tới. Mời ôn mệ thời cơm: Mời ông bà dùng cơm.

Mệ tra rồi mệ chướng: Bà ấy già nên sinh tật. Chữ chướng, người Huế cũng thường dùng để chỉ mấy đấng nhóc tì khóc nhè, bướng bỉnh hoặc các vị có lối nói, cách hành xử ngang như cua.

Bữa ni răng tau buồn chi lạ, buồn dễ sợ luôn ! (Sao hôm nay tao buồn quá, buồn quá trời luôn!). Dễ sợ, với người Huế không đơn thuần ở nghĩa thấy mà ghê, hoặc khủng khiếp quá, mà còn có nghĩa, thí dụ: Con nớ đẹp dễ sợ!: Con bé đó đẹp quá trời!

Xa Huế đã lâu lắm rồi, từ ngày vừa biết tập tành đi nghễ mấy o Đồng Khánh, vừa ngấp nga ngấp nghé muốn vào (nhưng sợ bị chưởi) nhấm nháp thử ly cà phê đen sánh của cà phê Phấn, nơi mà các anh hùng trong thiên hạ vẫn tấp nập ra vào; và cũng vừa biết để dành tiền để mua những tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn tại nhà sách Ưng Hạ. Phong cách Huế không ít thì nhiều cũng đã phôi pha, thổ ngữ Huế cũng không mấy khi có dịp để dùng lại cho đỡ nhớ, cho khỏi quên; thành ra cũng xao lãng đi nhiều.

Trong cái xao lãng bỗng có ý nghĩ muốn tìm lại, noái lại tiếng noái của thời cũ rích cũ rang nhưng đằm thắm đó. Cho nên chỉ xin được ghi lại đây những gì còn nhớ mài mại, để gọi là khơi lại chút âm thanh của những ngày xưa cũ.

Phan Thịnh

IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2008 lúc 8:28pm
Từ điển Tiếng Huế của Bùi Minh Đức - một cuốn sách quý.

Bìa cuốn Từ điển Tiếng Huế tái bản lần 2

(NetCodo) Xuất phát cảm xúc tột độ tư tưởng hướng về mẹ qua tiếng Huế, là thứ tiếng đặc trưng từ nơi chôn nhau cắt rốn đến lúc tha phương, tác giả Bùi Minh Đức đã ghi lại những tiếng nói thường dùng trong cuộc sống, rồi sưu tập những từ trong các phương ngữ, thổ ngữ của Huế và Thừa Thiên để hình thành tập "TỪ ĐIỂN TIẾNG HUẾ". Đây là công trình thật không đơn giản chút nào! Bởi lẽ theo GS.TS Mai Quốc Liên- Giám đốc trung tâm nghiên cứu Quốc Học- qua lời tựa 1 thì đọc "Tập TỪ ĐIỂN TIẾNG HUẾ của Bác sĩ Bùi Minh Đức, một người Huế xa quê, chúng tôi vô cùng cảm kích, nhất là từ khi được biết rằng ông làm việc đó vì lòng thương nhớ mẹ già đã khuất! Thường thì những công trình văn hóa nhiều khi xuất phát từ một nguyên cớ rất cụ thể, từ một cái "hích" đầu tiên. Thương nhớ mẹ già đã khuất mà bỏ công hàng chục năm với biết bao hiểu biết, công phu, tâm huyết, vừa khám chữa bệnh, vừa sưu tầm. Sắp xếp, định nghĩa...Tiếng Huế thật là một việc làm độc nhất vô nhị "...

Chúng tôi có tập TỪ ĐIỂN TIẾNG HUẾ được tái bản lần thứ hai do NXB Văn Học-Trung tâm nghiên cứu Quốc Học TP.HCM xuất bản năm 2004 dày 1000 trang so với tập đầu 500 trang, được tác giả giải thích tương đối rõ ràng, dễ hiểu. Thú vị hơn , tác giả còn ghi lại các điển tích mang tính lịch sử, văn hóa và con người đúng với mô típ " TIẾNG HUẾ-NGƯỜI HUẾ-VĂN HÓA HUẾ." Dù người đọc ở chân trời nào, nhất là người Huế đều phải tỏ lòng yêu mến Huế  và gần gũi với Huế nhiều hơn.

Đơn cử một số từ : "BỢ CHO MỘT TAY (Bợ giùm một tay) đỡ giúp cho một tay- CẤT LÊN TRA (Cất trên tra) Cất giấu, cất kỹ trên trần nhà của nhà rường ở Huế: “Này hỡi anh ơi! Chừ em hỏi anh, chữ chi là chữ chôn xuống đất? Chữ chi là chữ cất lên tra”. Trả lời: Hai chữ "tiền tài" anh chôn xuống đất. Hai chữ "Nhân nghĩa" anh cất lên tra. (Hò Huế) “Của mình thì cất lên tra, của người ta thì tha cho mòn"(Tục ngữ Huế) hay GUỐC MỘC: Guốc bằng gỗ, thường là gỗ mức, có quai thường là quai da. Học trò trường Khải Định hồi năm 1940-1950 thường mang guốc mộc đi học, lúc đi và lúc về thường sắp hàng ngang trên đường Jules Ferry tức Lê Lợi, tiếng guốc kêu lộp cộp. Sau này guốc mộc được dày rọ heo Huế thay thế. Hoặc HÓA CHÂU (Ngã ba Hóa Châu) tức làng Sình bây giờ, gần Bao Vinh, ở ngã ba sông Hương, và sông Bồ hợp lại một chảy về cửa Thuận An. Đi đường thủy từ Huế về cửa Thuận An phải đi qua chỗ này(Tức làng Sình, làng Thanh Phước) và phải tấm tắc khen cảnh đẹp của trời nước bao la này. Do đó đình làng Thanh Phước treo câu đối"Tây Sơn cao viễn chiếu, Đông Hải thủy triều lai" để nói lên cảnh đẹp của làng này. Tên Hóa Châu có từ năm1307 khi hai châu Thuận Hóa được thành lập, ngã ba sông này (tức ngã ba Thanh Phước hay còn gọi là ngã ba Sình) là một yết hầu quan trọng của thành Phú Xuân cũ (1687) và của kinh đô Huế (1788) (Cũng chính nơi đây - Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường (Bút ký, NXB Trẻ 2002) Thủy quân của Chúa Nguyễn đã xuất phát và đánh tan hạm đội của Hà Lan, một dân tộc đã xưng hùng trên các đường với khẩu hiệu "Chỉ biết sức mạnh của Thượng Đế"). Ở đây ngày xưa các Chúa Nguyễn cho quân tinh nhuệ trấn thủ yếu điểm này và xây dựng các trại thủy binh, cơ xưởng đóng thuyền. Để tuyển chọn những người trai tráng mạnh khỏe, giỏi võ, giỏi đô vật và mưu trí sung vào đội thủy quân, hàng năm vào ngày 10 tháng giêng thường có lễ vật võ truyền thống của làng Lại Ân ở Sình nầy. Các đấu thủ khắp nơi về dự, từ Vĩnh Lại, Quy Lai, Mậu Tài, Lại Ân, Thuận An, Dương Nỗ, Thanh Phước v.v... Từ Thuận An đô vật miền biển mới lên, mình trông bóng láng đồng đen không bằng" và đô vật từ các làng nông nghiệp thì “tay chai nắng  rạm nâu sòng, đôi chân như thử đôi chằm thuyền khơi ". Người nào bị vật làm nhớp lưng thì bị thua (lấm hình) nên có câu "Trông anh đô vật lăn mình, mặt mũi hiền lành chỉ tội lấm lưng". Làng Sình cũng có nghề thủ công làm giấy ngũ sắc, hoa giấy, in tranh thờ. Nhiều người cho rằng chữ  "Sình"  là dấu tích của người Chăm Pa xưa, cũng giống như các địa danh Sịa, Sòng, Sãi...thường nghe ở Huế (theo Nguyễn Đắc Xuân). Trong  Tiếng Huế, đặc biệt tác giả còn nhắc đến những từ được người Huế thường dùng hết sức đặc trưng như :"ri, mô, tê, răng, rứa " được nhiều người  cho là tiếng "Không nơi nào có được"...

Anh Lê Trường Quỳnh-người đội mũ trắng

Anh Lê Trường Quỳnh (một người dân T.T.Huế ở làng Lựu Bảo, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà)- nguyên là nhân viên của bác sĩ Bùi Minh Đức- làm trưởng phòng khoa truyền nhiễm Bệnh viện trung ương Huế thời bác sĩ Lê khắc Quyến bị quản thúc ở Sài Gòn năm 1966. Thời gian dài cách biệt, do nhiều hoàn cảnh khác nhau, qua một số thân hữu, tình cờ anh Quỳnh đọc được tập TỪ ĐIỂN TIẾNG HUẾ in lần thứ nhất vào năm 2001 tại California Hoa Kỳ gởi về. Vốn sẵn miệt mài sưu tập kho tàng tiếng Huế dân giã ở nông thôn, anh Quỳnh đã  hiệu đính gần 300 từ tiếng Huế gởi sang, được tác giả Bùi Minh Đức ghi nhận đưa vào bản in lần thứ hai tại Sài Gòn. Chúng tôi vô cùng cảm kích sự tương hợp về tiếng Huế của 2 con người đã từng sống và làm việc mang tính "nhân ái" (ngành Y) ở đất Cố Đô. Bây giờ dù khoảng cách cả không gian và thời gian cùng sự khác biệt về góc độ sống, nhưng hai người lại có cơ duyên được tái ngộ cùng tên trong một cuốn sách, và còn được đối diện trong dịp Festival Huế dạo tháng 6 năm 2004 thật là hy hữu biết chừng nào.

Trao đổi trực tiếp với anh Quỳnh, chúng tôi rất mến mộ về cách trò chuyện rất ý nhị và rất khôi hài về tiếng Huế được anh biên sọan để bổ sung cho tập TỪ ĐIỂN TIẾNG HUẾ của tác giả Bùi Minh Đức. Đây cũng là một việc làm đầy tâm huyết với Tiếng Huế, Người Huế và Văn hóa Huế. Chẳng hạn: " Miếng cau chét : Trái cau khi bửa để làm cau khô, thường được lựa trái đều nhau để bửa ra các miếng cau đều nhau. Với trái cau nhỏ hơn, người bửa cau phải cắt lấy bớt một miếng nhỏ ra để phần còn lại của trái cau nhỏ đó có thể bửa thành các miếng đều nhau như các trái cau lớn đều khác. Miếng cau nhỏ lấy bớt ra đó, gọi là miếng cau chét, dùng để ăn dặm thêm, hoặc để người nghèo ít tiền mua ăn rẽ hơn( LTQ) . Hay ĐÁU ĐÁY : Con trai độc nhất để nối dõi (Chỉ một thằng  con trai đáu đáy nên phải ăn ở cho có đức. CẢY TRÂU: Soạn con trâu trước khi tra cày vào con trâu để cày đất, ví dụ như gác dù, móc đáy, buộc bảng lảng, xem lại xong xuôi mới tra cày (LTQ)- CHỤ BỤ: Mặt vẻ nặng nề (Mặt chụ bụ vì bị chồng la) 2- béo thân hình chụ bụ vì hay ăn mỡ. CHỤM LỬA RIU RIU : Chụm lửa (Kho cá bóng thệ phải chụm lửa riu riu cho thấm mới ngon. ĐỒ TAM TOẠNG (Đồ lạc xon, đồ tào lao tịnh đế) đồ không có giá trị (Đi chợ mua toàn đồ tam toạng). ĐỒ TRẮC NẾT : Người đàn bà không chung thủy, nghiêm trang (Lấy chi đồ trắc nết làm vợ cho cực (LTQ)...

Theo lời nói đầu và tự bạch của tác giả  Bùi Minh Đức, thì TỪ ĐIỂN TIẾNG HUẾ tập in lần thứ hai này, ngoài việc ghi chép từ ký ức hồi sinh sống ở Huế suốt thời kỳ thiếu niên, thanh niên và trung niên, tác giả còn sưu tập thêm trong nhiều sách báo của nhiều tác giả như J.M.Nguyễn văn Thích, Ưng Luận, Triều Nguyên, Lê Văn Chưởng... hay cố Alexîandre Rhodes, Huỳnh Tịnh Của (1772)  và các tác giả đương thời như Hương Giang Thái Văn Kiểm, Lê Văn Lân, Nguyên Hương Nguyễn Cúc, Phan Thuận An, Nguyễn Đắc Xuân, Tôn Thất Bình, Bửu Kế...Tác giả còn  nhắc đến nhiều tác giả người Huế hiện đang ở hải ngoại như Minh Đức Hoài Trinh, Túy Hồng, Bùi Bích Hà, Trần Thị Diệu Tâm, GS Võ Long Tê ở Canada, kỷ sư Trần Sĩ Huân ở San Francico, giáo sư Phạm Đăng Sum ở Pháp, bác sĩ Vĩnh Đằng ở  Úc, GS Thái Kim Lan ở Đức, GS Võ Quang Yến ở Pháp. Ngoài ra tác giả còn bổ sung  thêm nhiều tiếng láy của T.T.Huế qua luận án thạc sĩ của bà Trương Thị Thu Hương 1999 TP HCM, từ điển Mường Việt  của Nguyễn Văn Khang, Bùi Chỉ và Nguyễn Văn Hùng (NXB Văn Hóa Dân Tộc HN.VN 2002)...

Chúng tôi xin trích một đoạn trong bài tựa 2 của GS Nguyễn Khắc Hoạch, nguyên khoa trưởng đại học Văn Khoa SaiGon VN, Viện trưởng viện Việt Học Califonia HoaKỳ: "Cuốn từ điển phương ngữ của tác giả Bùi Minh Đức là cuốn đầu tiên có quy mô trong loại từ điển phương ngữ Việt Nam. Nó chứng tỏ sức làm việc mạnh mẽ của một y sĩ bận rộn, của một nhà nghiên cứu nghiêm túc, cẩn  trọng, có phương pháp và một trái tim rộng mở để yêu mến và cảm thông với tiếng nói quê hương”

Tôi nghĩ nó sẽ là có ích cho giới biên khảo và quần chúng nói chung, nhất là giới trẻ, đồng thời là một cống hiến đáng kể cho việc phát triển ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam.

Trần Hữu Tâm Phương

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2008 lúc 8:47pm

"Tiếng Nghệ" của Nguyễn Bùi Vợi

Nguyễn Quang Tuyên

Từ giọng nói, tiếng nói mà suy tưởng đến một nét thuộc tính cách của người Nghệ là tình thương yêu, chung thủy trong quan hệ giữa người với người. Bài thơ "Tiếng Nghệ" của Nguyễn Bùi Vợi tự cất cánh bay lên một tầm cao thẩm mỹ.

Tiếng Nghệ

Cái gầu thì bảo cái đài
Ra sân thì bảo ra ngoài cái cươi
Chộ tức là thấy mình ơi
Trụng là nhúng đấy đừng cười nghe em
Thích chi thì bảo là sèm
Nghe ai bảo đọi thì mang bát vào
Cá quả lại gọi cá tràu
Vo troốc là bảo gội đầu đấy em…
Nghe em giọng Bắc êm êm
Bà con hàng xóm đến xem chật nhà
Răng chưa sang nhởi nhà choa
o đã nhốt con ga trong truồng
Em cười bối rối mà thương
Thương em một lại trăm đường thương quê
Gió Lào thổi rạc bờ tre
Chỉ nghe giọng nói đã nghe nhọc nhằn
Chắt từ đã sỏi đất cằn
Nên yêu thương mới sâu đằm đó em

Trữ tình mà như tự sự. Chuyện một chàng trai xứ Nghệ lập nghiệp ở xứ Bắc và xe duyên, kết tóc với một cô gái ở đàng ngoài. Lần đầu anh đưa vợ về thăm quê và ra mắt bà con, họ hàng. Anh muốn cho vợ khỏi bỡ ngỡ và hòa nhập được nhanh với gia đình, theo anh, trước hết phải hiểu được tiếng địa phương nơi quê anh. Thế là anh cấp tốc trang bị cho vợ một loạt từ địa phương. Anh chỉ chọn những từ mà anh dự đoán là sẽ gặp trong trò chuyện, trong sinh hoạt. Như một đoạn văn từ điển, anh đọc cho vợ nghe, chẳng khác gì học ngoại ngữ.

Kể ra anh ta đón đầu cũng khá. Vừa để vợ hiểu được người ta nói gì, vừa chủ động nói với người khác: “Thích chi thì bảo là sèm/ Nghe ai bảo đọi thì mang bát vào”. Các tiếng anh trang bị cũng đủ các loại âm: âm ai (đài), ươi (cươi), ô (chộ), ung (trụng), em (sèm), oi (đọi), au (tràu), đến cả âm oôc (troốc) cũng có.

Thế nhưng khi gặp một tình huống bất ngờ:

Răng chưa sang nhởi nhà choa
o đã nhốt con ga trong truồng

thì vợ anh đành “bối rối”. Bối rối là phải. Bởi lúc anh bày thì bày từng tiếng một như kiểu tập đặt câu, mỗi câu một tiếng lạ. Nhưng ở đây lại nghe hai câu liên tiếp, mỗi câu có đến những ba tiếng lạ. Chẳng khác gì nghe tiếng nước ngoài. Hơn nữa, sáu tiếng này lại âm khác, không trùng với một âm nào mà anh đã trang bị: Ang (răng), ơi (nhởi), o (bà o), a (ga), uông (truồng).

Có thể dụng ý hay từ vô thức xuất thần, nhưng cứ qua câu chữ mà phân tích thì thật là lý thú. Tình huống vừa xảy ra chắc ai cũng cười, ngay vợ anh cũng “cười bối rối”. Từ “bối rối” được đặt cạnh từ “cười” tạo thành cụm từ “cười bối rối” là một sáng tạo. “Bối rối” là lúng túng, mất bình tĩnh, không biết xử trí thế nào. Nhưng ở đây, nó không hàm nghĩa mất bình tĩnh nữa và cười là một cách xử trí vừa thông minh, vừa phúc hậu, dễ thương.

Em cười bối rối mà thương
Thương em một lại trăm đường thương quê

Thấy em bối rối mà anh thêm thương. Nhưng thương em thì một mà thương quê lại trăm nghìn lần. Mạch thơ tự sự bỗng chuyển sang trữ tình sâu lắng. Đang vui, đang cười bỗng chảy nước mắt. Đang nói về thương em, bỗng chuyển sang thương quê. Thương em vì em bối rối khi nghe người quê anh nói mà không hiểu. Nhưng thương quê vì sao quê anh lại được ông trời ban cho tiếng nói ấy. Một thứ tiếng mà “chỉ nghe giọng nói đã nghe nhọc nhằn”. Câu thơ thật hay, cảm nhận đúng và sâu sắc cái giọng nói của quê mình. Giọng nói của vùng đất nhiều núi non sông nước, nhiều đá sỏi đất cằn, nhiều gió Lào mưa bão… Con người ở đây phải gồng mình lên mới sống nổi. Có lần, nhà thơ đã viết về con người xứ Nghệ: “Đã thẳng, thẳng như ruột ngựa/Đã nói là nói oang oang/Ông trời nói sai cũng cãi/ Như rứa là dân xứ Nghệ”.

Từ Gió Lào thổi rạc bờ tre đến Chỉ nghe giọng nói đã nghe nhọc nhằn là một trường liên tưởng đầy hàm nghĩa. Ngôn từ ở đây mang đầy hồn cốt của dân Nghệ: “Thổi rạc” và “Nghe nhọc”. Cứ tiếp xúc với dân lao động ở vùng này thì bắt gặp ngay những từ như rạc người, gầy rạc, nghe nhọc lắm. Rạc là gầy, khô, hốc hác, phờ phạc, xơ xác…

Nhưng ở đời, cái gì cũng có hai mặt của nó. Thiên nhiên khắc nghiệt nên con người phải yêu thương, đùm bọc nhau mới có thể vượt qua được những cơn bão tố:

Chắt từ đã sỏi đất cằn
Nên yêu thương mới sâu đằm đó em

Từ giọng nói, tiếng nói mà suy tưởng đến một nét thuộc tính cách của người Nghệ là tình thương yêu, chung thủy trong quan hệ giữa người với người. Bài thơ tự cất cánh bay lên một tầm cao của thẩm mỹ.

Văn Nghệ

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2008 lúc 8:51pm
Từ điển tiếng Nghệ An
tác giả: cago

 

Lâu rồi không ôn lại tiếng Nghệ An ! Ôn lại không bạn bè nó bảo là ... MẤT GỐC
Để đáp ứng nhu cầu giao lưu ngôn ngữ giữa các vùng miền trong cả nước, và để các bạn Bắc, Nam có thể hiểu đc người Nghệ An đang nói gì thì mình mạn phép đc Copy & update cái entry này để giải thích nghĩa của một số từ địa phương Nghệ An . Chắc chắn còn thiếu nhiều rất mong đc sự đóng góp của mọi người.---
...

Mi : có nghĩa là Mày
Tau : có nghĩa là Tao
Mô : có nghĩa là Đâu ? (vd : mi đi mô đó thì dịch ra giọng Bắc là Mày đi đâu đấy)
Tê : có nghĩa là Kia
Ni : có nghĩa là Này
Rứa : có nghĩa là Thế
Răng : có nghĩa là Sao (vd Răng rứa ? dịch ra giọng Bắc là Tại sao thế? )
Ngày Mốt : có nghĩa là Ngày Kia ( vd : mốt tau mới về. dich ra giọng Bắc là Ngày kia tao mới về )
Đọi : có nghĩa là Bát
Trôốc : có nghĩa là Đầu
Tru : có nghĩa là Trâu
Lè : có nghĩa là Đùi
Nhễ : từ này í chê bai có thể dịch là Chuối (mạnh hơn nhiều) or Bựa
Chộ : từ này có nghĩa là Thấy
Chi : có nghĩa là Gì ?
NỎ : có nghĩa là KHÔNG. (Ví dụ Nỏ đi, NỎ cho...nhưng mà không có câu Đi NỎ hay Cho Nỏ đâu nhá...từ NỎ chỉ đứng trước động từ...) - Thank Gấu Nhung
Bổ : có nghĩa là Ngã (vd : nó bị bổ xe. dịch là Nó bị ngã xe)
Trôốc Gúi : có nghĩa là Đầu Gối
Còn từ Khu mấn thì chứa giải thích đc, anh em giải thích dùm,
Ngái : có nghĩa là Xa (hịc lần đầu tiêng nghe từ này là vào đầu năm 1, kon bạn nó nói mình mặt cứ đờ ra ko hỉu nó nói jè, hịc). VD : Nhà mi có ngái trường ko? ~~> nhà mày có xa trường ko?
Nác : có nghĩa là Nước (nước uống í)
Môi : có nghĩa là Muôi (cái muôi chan canh í)
Su : có nghĩa là Sâu (VD : Ao ni su ri ~~> Ao này sâu thế)
Hầy : có nghĩa là Nhở (vd : Hay hầy ~~> Hay nhở or Ai đó hầy ~~> Ai đấy nhở )
Đài : còn có 1 nghĩa nữa là cái gàu múc nươc, hehe
Cươi : có nghĩa là Sân
Nương : có nghĩa là Vườn
Rọng : có nghĩa là Ruộng
Mần : có nghĩa là Làm (vd Cha mệ cháu đi mần rọng rồi ạ ~~> cha mẹ cháu đi làm ruộng rồi ạ)
Mệ : có nghĩa là mẹ
con ròi : có nghĩa là con Ruồi
Choa : Có nghĩa là bọn tao
Chắc các bạn cũng mệt rồi, bây giờ chúng ta giải trí một chút nhé.

Có lần Cụ Phan Bội Châu lâm vào thế bí nhưng lại gỡ được rất hay. Đại để thế này,gặp mấy o đang ăn ngô rang, bị trêu:


Thiếp trao cho chàng một nạm ngô rang
Đúc nơi mô mà mọc, thiếp theo chàng về không.
Không phải tay vừa, cụ Phan ta mới mần 1 câu:
Ở mô mà nắng không khô,
Mà mưa không ướt, đúc vô mọc liền


(Dịch:
- Thiếp trao cho chàng một nắm ngô (bắp) rang
Gieo ở đâu mọc được, thiếp theo chàng về không
Ở đâu mà nắng không khô,
Mà mưa không ướt gieo vào mọc ngay)


(theo Ninh Viết Giao - Hát phường vải)

Rồi em của mẹ thì gọi là Gì, Em của bố thì gọi là O,
Tiêng Việt đã khó tiêng nghệ an còn khó hơn nữa

Cái này thì là sưu tầm từ 1 số ng cùng ý tưởng
Nghệ an choa miền trung lắm gió
Có cửa lò biển hát quanh năm
Cùng quê bác xứ sở nước tương
Với thanh chương, nhút mặn chua cà
Bà già con trẻ có ngôn ngữ riêng
Đứa mô chưa ghé một lần
Ráng học cho kỹ điển từ sau đây
Con trâu thì gọi là tru
Con giun thì gọi là trùn đó nha
Con gà thì kêu con ga
Còn con cá quả gọi ra cá tràu
Con sâu lại gọi là trâu
Bồ câu thì gọi cu cu đó nà
Con ruồi lại gọi là ròi
Con troi thì gọi con giòi nhớ chưa
Con bê còn gọi là me
Con mọi là muỗi khi nghe đừng cười
Mà cười là choa chửi thẳng tưng
Trốc cha mi khái cạp là đầu bố mày hổ tha
Mả cha là ngôi mộ của ba
Mải Ông cha mi xéo là Ông bố mày cút đi
Muốn ở đất nghệ phải biết chuyên cần
Học nhiều từ ngữ âm vần nghe chưa
Con người thì gọi con ngài
Còn từ ni nữa nói nghe cùng rầy(ngượng)
Mà có nói thì bây mới biết
Hun – hôn, cưa – tán, váy – mấn
Môi – mui, đầu – trốc, ngứa – ngá
Sờ - rờ, nằm mơ gọi là mớ
Nhớ ghi cho kỹ kẻo rồi lỗ to
Khủy chân thì gọi lắc lè
Cơn – cây, Chủi – chổi, gốc – cộc
Sân – cươi, đường - đàng, rú - núi
Nhởi – chơi, lười – nhác, mần – làm đó nghe
Đêm nằm nếu đói đừng lo
Nhảy vô nhà bếp tìm nồi nấu cơm
Ngọ nguậy là cái đũa bếp
Giáp đít là cái rế nồi hiểu chưa
nước – nác, đọi – bát, mươn – bàn
Nướng - náng, luộc – looc, muối – mói
Gói – đùm, chum – vại, rổ - rá
dái dê là quả cà dài
mắm tôm – ruốc, Thóc – ló, ngó - nhìn
Lỡ yêu ngài(người) ở đất quê choa
Thì nên chịu khó học từ nhiều mà cưa
Nhưng học ri vẫn chưa ăn thua

Cái "gầu" thì gọi cái "đài"
Ra "sân" thì bảo ra ngoài cái "cươi"
"Chộ" tức là "thấy" em ơi
"Trụng" là "nhúng" đấy, đừng cười nghe em
"Thích" chi thì bảo là "sèm"
Khi ai bảo "đọi" thì đem "bát" vào
"Cá quả" thì gọi "cá tràu"
"Vo trôốc" là bảo "gội đầu" đấy em

***

Nghe em giọng Bắc êm êm
Bà con hàng xóm đến xem chật nhà
Khi "mô" sang "nhởi" nhà "choa"
Bà "o" đã nhốt "con ga" trong chuồng!
Em cười bối rối mà thương
Thương em một, lại trăm đường thương quê
Gió lào thổi rạc bờ tre
Chỉ qua giọng nói cũng nghe nhọc nhằn
Chắt từ đá sỏi đất cằn
Nên yêu thương mới sâu đằm đó em.

Hơn nữa thì tiếng Nghệ An 1 số vùng rất nặng nên những dấu ~ (ngã) thì đọc thành . (nặng) (vd : cơn bạo số 7, đóng cựa lại, Đà Nặng, Hà Tịnh, cụng đc)--> (cơn bão số 7, đóng cửa lại, Đà Nẵng, Hà Tĩnh)
Từ điển này sẽ đc bổ sung và update liên tục
Chúc thành công!
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2008 lúc 8:57pm
TẢN MẠN VỀ PHƯƠNG NGỮ
(net)
 
Ngôn ngữ hình thành từ cuộc sống và phản ánh cuộc sống của từng địa phương khác nhau về kinh tế, văn hóa sẽ khác nhau. Ở Việt Nam chủ yếu có ba vùng phương ngữ chính: phương ngữ bắc (Bắc Bộ), phương ngữ trung (Bắc Trung Bộ), phương ngữ nam (Nam Trung BộNam Bộ). Các phương ngữ này khác nhau chủ yếu ở ngữ âm, rồi đến từ vựng, cuối cùng là một chút khác biệt ngữ pháp

Sự khác biệt về ngữ âm là nhiều nhất, nhưng có thể đoán được. Sự khác biệt về từ vựng có thể dẫn đến sự hiểu lầm nhiều nhấ.

Phương ngữ tiếng Việt giữa các vùng

  • So sánh ngữ âm trong phương ngữ ba vùng lãnh thổ Việt Nam:
Vùng Thanh điệu Phụ âm đầu Vần Phụ âm cuối
Phương ngữ Bắc 6 thanh 20, s->x, r/gi->d, tr->ch tạm coi là chuẩn đầy đủ
  Vùng biên giới phía Bắc (vùng Đông BắcTây Bắc)
  Vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Tây, Hòa Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng)
  Vùng hạ lưu sông Hồng và ven biển (Thái Bình, Hà Nam Ninh, Quảng Ninh) phân biệt s/x, r/d/gi, tr/ch
Phương ngữ Trung 5 thanh 23, phân biệt s/x, r/d/gi, tr/ch Phụ âm /-ŋ, -k/ có thể kết hợp được với nguyên âm ở cả 3 hàng
  Vùng Thanh Hóa lẫn lộn thanh hỏi/thanh ngã chuẩn
  Vùng Nghệ Tĩnh không phân biệt thanh ngã/thanh nặng, âm trầm hơn thiếu cặp âm cuối /-ŋ, k/
  Vùng Bình Trị Thiên không phân biệt thanh hỏi/thanh ngã mất nhiều vần
Phương ngữ Nam 5 thanh, không phân biệt thanh hỏi/thanh ngã phân biệt s/x, r/d/gi, tr/ch mất nhiều vần
  Vùng Quảng Nam-Quảng Ngãi 5 thanh, không phân biệt thanh hỏi/thanh ngã phân biệt s/x, r/d/gi, tr/ch mất nhiều vần âm /a/ và /ă/ biến động đa dạng
  Vùng Quy Nhơn-Thuận Hải 5 thanh, không phân biệt thanh hỏi/thanh ngã phân biệt s/x, r/d/gi, tr/ch mất nhiều vần
  Nam Bộ 5 thanh, không phân biệt thanh hỏi/thanh ngã bán phân biệt s/x, r/d/gi, tr/ch đồng nhất -in, -it, -un, -ut với -inh, -ich, -ung, -uc


Chỉnh sửa lại bởi Hoang_Ngoc_Hung - 25/Sep/2008 lúc 8:58pm
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2008 lúc 9:29pm

Từ điển phương ngữ tiếng Việt

Nơi Xuất Bản : Nxb Giáo duc
Tác Giả : Đặng Thanh Hoà
Ngày xuất bản : 2005.
Số trang : 253
Kích thước : 14,5x20,5 cm
Trọng lượng : 231(gr)
Hình thức bìa : Bìa Mềm
Số lần xem : 89

Giá bìa :  28 000  VNĐ
Giá bán:  28 000  VNĐ


Giới thiệu về nội dung:

Từ điển phương ngữ tiếng Việt là một tập sách nhỏ giúp tra cứu các từ ngữ có tính chất địa phương thường gặp của ba miền Bắc, Trung, Nam. Nói đến phương ngữ (regional diadect) - hay còn gọi là tiếng địa phương - là nói đến những dạng biến thể khác nhau theo từng địa phương của một ngôn ngữ.

So với một số ngôn ngữ trên thế giới,chẳng hạn đối với tiếng Hán, vấn đề phương ngữ trong tiếng Việt tương đối đơn giản hơn nhiều. Nếu như trong tiếng Hán việc giao tiếp bằng tiếng địa phương giữa các vùng phương ngữ khác nhau diễn ra rất khó khăn, thì trong tiếng Việt vấn đề này lại diễn ra tương đối thuận lợi, nếu không nói là hầu như không có trở ngại gì.

Mặc dù vậy, trong tiếng Việt, phương ngữ luông đóng một vai trò quan trọng trong đời sống và xã hội, cũng như trong các hoạt động văn hoá nghệ thuật. Nó góp phần tạo nên những vùng miền văn hoá ngôn ngữ đặc sắc khác nhau, cũng nhưng những nét văn hoá độc đáo trong cuộc sống của cộng đồng cư dân địa phương đó.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu phương ngữ một cách đầy đủ và có hệ thống là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa. Nó góp phần vào việc làm sáng tỏ nguồn gốc, đặc điểm của tiếng Việt, vào việc chuẩn hoá tiếng Việt, cũng như một số vấn đề liên quan đến văn hoá và ngôn ngữ của các vùng miền.

Bên cạnh đó, việc hiểu biết sâu sắc và nắm vững được các từ ngữ của mỗi địa phương cũng giúp ích rất nhiều cho những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy văn học, báo chí, cũng như giới học sinh, sinh viên nói riêng và cho cả những ai quan tâm đến văn hoá, ngôn ngữ Việt nói chung

.
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2008 lúc 9:31pm
TỰ ĐIỂN PHƯƠNG NGỮ NAM BỘ.
 
tại Cần Thơ, công trình nghiên cứu khoa học “Từ điển phương ngữ Nam bộ” đã được một Hội đồng cấp Bộ nghiệm thu. Đây được xem là bộ từ điển về ngôn ngữ miền Nam lớn nhất từ trước đến nay.

Từ điển phương ngữ Nam bộ do Tiến sĩ Huỳnh Công Tín, ĐH Cần Thơ thực hiện.

Cuoi%20nam%202005%20ra%20mat%20Tu%20dien%20phuong%20ngu%20Nam%20bo

Bộ từ điển khoảng 1.000 trang với hơn 14.000 từ ngữ lấy từ lời văn, lời ăn tiếng nói của người dân Nam bộ. Sau hơn 4 năm sưu tập và biên soạn, có sự đóng góp của nhiều khóa sinh viên và thầy cô giáo bộ môn Ngữ văn- trường Đại học Cần Thơ, công trình đã hoàn thành, góp phần vào việc gìn giữ sự trong sáng của Tiếng Việt, đặc biệt là lưu giữ từ ngữ, cách nói đặc trưng của người miền Nam từ hơn 300 năm khai hoang lập đất.

Ngoài ra, công trình này còn thể hiện việc phiên âm từ bằng cả 2 cách đọc - theo tiếng miền Bắc và miền Nam. Mỗi dẫn liệu minh họa là một phát ngôn của người dân Nam bộ trong cuộc sống, hay trong tác phẩm văn học của nhà văn miền Nam, chứ không chỉ dẫn liệu có một từ hay một ngữ. Công trình còn chỉ ra các nét nghĩa của riêng người miền Nam trong những từ chung, ví dụ như từ "cắn" (trong muỗi cắn), từ "chảy" (trong nước chảy).

Sau những ý kiến đóng góp của Hội đồng khoa học nghiệm thu, công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ "Từ điển phương ngữ Nam bộ" sẽ được tiếp tục chỉnh sửa. Dự kiến, bộ từ điển này sẽ ra mắt người đọc vào cuối năm 2005 với tên gọi "Từ điển từ ngữ Nam bộ".

hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2008 lúc 9:34pm

Từ%20điển%20từ%20ngữ%20Nam%20Bộ

Từ điển từ ngữ Nam Bộ

Thêm%20vào%20giỏ%20hàng

 

Tiêu đề dịch: Dictionary of Vietnam South's Dialect (Words & Phrases).
Tác giả: Huynh Cong Tin
Nhà XB: Khoa Hoc Xa Hoi
Năm XB: 2007
Ngôn ngữ: Vietnamese
Số trang: 1392
Khổ: 14.5x20.5
Loại bìa: hardcover

The Dictionary of Vietnam South's Dialect (Words & Phrases) that you are holding is aiming at understanding Vietnam South's dialect on the following aspects: lexicology, semantics, phonology, grammar & expressing style. The author has been inherited an achievements of some works such as: "Đại Nam quấc âm tự vị" of Huỳnh Tịnh Paulus Của, "Việt ngữ chính tả tự vị" of Lê Ngọc Trụ, "Tự vị tiếng Việt miền Nam" of Vương Hồng Sển, "Từ điển phương ngữ Nam bộ" of Nguyễn Văn Ái, "Từ điển tiếng Việt" of Hoàng Phê, "Từ ngữ - Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu" of Nguyễn Thạch Giang, "Chuyện Đông chuyện Tây" of An Chi. The author also gathered a lot of local words, phrases & expresses; excerpts from the South celebrities: Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Hồ Biểu Chánh, Phi Vân... to contemporary writers: Sơn Nam, Trần Bạch Đằng, Đoàn Giỏi, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Văn Hầu, Lê Anh Xuân, Anh Động, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, An Chi, Trang Thế Hy, Viễn Châu, Nguyễn Ngọc Tư... It is inte



Chỉnh sửa lại bởi Hoang_Ngoc_Hung - 25/Sep/2008 lúc 9:36pm
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2008 lúc 9:42pm
TÌNH CA
 
Tình Ca
Sáng tác: Phạm Duy 

Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi
Mẹ hiền ru những câu xa vời
À à ơi ! Tiếng ru muôn đời
Tiếng nước tôi ! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi
Tiếng nước tôi ! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi
Tôi yêu tiếng ngang trời
Những câu hò giận hờn không nguôi
Nhớ nhung hoài mảnh tình xa xôi
Vững tin vào mộng đẹp ngày mai
Một yêu câu hát Truyện Kiều
Lẳng lơ như tiếng sáo diều (ư diều) làng ta
Và yêu cô gái bên nhà
Miệng xinh ăn nói thật thà (à à) có duyên...
Tôi yêu đất nước tôi, nằm phơi phới bên bờ biển xanh
Ruộng đồng vun sóng ra Thái Bình
Nhìn trùng dương hát câu no lành
Đất nước tôi ! Dẫy Trường Sơn ẩn bóng hoàng hôn
Đất miền Tây chờ sức người vươn, đất ơi
Đất nước tôi ! Núi rừng cao miền Bắc lửa thiêng
Lúa miền Nam chờ gió mùa lên, lúa ơi
Tôi yêu những sông trường
Biết ái tình ở dòng sông Hương
Sống no đầy là nhờ Cửu Long
Máu sông Hồng đỏ vì chờ mong
Người yêu thế giới mịt mùng
Cùng tôi ôm ấp ruộng đồng (ừ đồng) Việt Nam
Làm sao chắp cánh chim ngàn
Nhìn Trung Nam Bắc kết hàng (à hàng) mến nhau

Tôi yêu bác nông phu, đội sương nắng bên bờ ruộng sâu
Vài ngàn năm đứng trên đất nghèo
Mình đồng da sắt không phai mầu
Tấm áo nâu ! Những mẹ quê chỉ biết cần lao
Những trẻ quê bạn với đàn trâu, áo ơi
Tấm áo nâu ! Rướn mình đi từ cõi rừng cao
Dắt dìu nhau vào đến Cà Mâu, áo ơi
Tôi yêu biết bao người
Lý, Lê, Trần... và còn ai nữa
Những anh hùng của thời xa xưa
Những anh hùng của một ngày mai
Vì yêu, yêu nước, yêu nòi
Ngày Xuân tôi hát nên bài (ư bài) tình ca
Ruộng xanh tươi tốt quê nhà
Lòng tôi đã nở như là (ừ là) đoá hoa...
___________________________________________________
Tiếng hát Thái Thanh:
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.125 seconds.