Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: NHÀ HÀNG GÒ CÔNG Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 95 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22000
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Feb/2019 lúc 11:26am

 Canh Chua Cá Bông Lau, Bông Sua Đủa



Image%20result%20for%20Canh%20Chua%20Cá%20Bông%20Lau,%20Bông%20So%20Đủa

---

- Cái tuổi thất tuần “ ba cao hai thấp”, khó ai tránh khỏi.

- Cái gì cao? Cái gì thấp hả ông Hai?

- Thì cao máu, cao mở, cao đường”.

- Còn thấp?

   - Phong thấp và thấp khớp!” Ha! Ha! ha!

   Ông cười ha hả. Cái miệng móm sọm, trông vừa buồn cười vừa dễ thương. Ở tuổi 70 mà ông khỏe như thanh niên trai tráng. Tánh tình vui tươi, cởi mở như trẻ con.

   Ông Hai làm vườn cho Hạnh được mấy tháng nay. Ông làm giỏi, có lương tâm, tín cẩn, lại tính giá rẻ.

   Hạnh rất vừa ý về ông nên đề nghị:

- Ông Hai có muốn làm thêm việc để kiếm thêm ít tiền không?

- Mèn ơi, được “dậy” tui “dui” lắm chớ!

2515%201%20Truyen%20ngan%20Canh%20ChuaCaBongLauNCaliST

   Thấy ông Hai lớn tuổi hơn cả cha mẹ mình nên Hạnh cũng thấy ngại mở lời nhờ ông lau chùi mấy cái nhà tắm cầu tiêu, nên nhờ ông xã nói hộ. Chồng Hạnh lưỡng lự hoài không dám “sai” ông Hai bèn nghĩ đến đứa con gái nhanh nhẩu nhất trong nhà, con bé nó đâu có biết ngại. Hạnh nháy mắt ra hiệu con bé.

- Ông Hai ơi ông Hai.

   Con bé réo ông Hai đang tưới cây ngoài sau vườn.

- Ơi, cái “dì” “dậy” hả cháu?

- Má con nhờ ông chùi giùm mấy cái....gì đó, ông nói chuyện với mẹ con nè.

   Con Linda vừa nói, mắt vẫn không rời cái máy chơi game.

- Ờ, ờ, ông “dô” liền.

   Ông kéo tay áo thun quẹt mồ hôi trán, vuốt vuốt cái miệng móm lưa thưa mấy chòm râu lún phún.

- Cái nào đâu cô chủ?

   Hạnh chỉ ông ba cái nhà tắm phải làm. Ông vừa chăm chú nghe vừa gục gặc rồi lại lắc đầu, có vẻ đăm chiêu.

   Ông Hai lúc nào cũng sốt sắng với việc làm, bất cứ nhờ điều gì ông đều không nệ hà. Hạnh nghĩ có lẽ vì ông chỉ quen làm việc ngoài vườn nên ngại không muốn vào trong nhà.

   Thấy ông Tư có vẻ ngập ngừng như muốn nói điều gì, Hạnh bèn trấn an ông trước:

- Bác đừng ngại chuyện vào nhà. Nhà cháu như nhà bác vậy mà.

- Dạ, tui đâu có ngại, chỉ sợ hổng biết làm, làm dơ thêm cái nhà tắm của cô thôi. Cô chủ nói “dậy” thì tui thử nhen, miễn là cô chỉ cho tui.

   Hạnh xăng tay áo vừa làm vừa chỉ ông Hai cách sử dụng từng loại thuốc.

- Tưởng chuyện “dì” khó chứ mấy thứ nầy dễ ợt, tui làm cái một, cô chủ coi nè.

   Ông già lui cui làm việc, nhưng nét mặt buồn xo khác hẳn với bản chất của ông, lúc nào cũng vui tươi, vô tư như đứa trẻ. Hạnh len lén nhìn qua cái cửa hé mở, ái náy trong lòng nghĩ là ông buồn vì tủi thân đã già rồi mà phải đi chùi nhà tắm cầu tiêu. Thấy hối hận trong lòng Hạnh đến kéo tay ông không cho làm tiếp nữa rồi thưa:

- Xin lỗi bác, cháu đâu có ý định làm bác buồn, thôi bác để cháu lau cho. Bác ra làm vườn tiếp đi.

   Ông Hai chưng hửng, trố mắt nhìn Hạnh, ngạc nhiên cái thái độ lạ lùng của Hạnh, vừa biểu làm, rồi lại biểu thôi.

- Ủa, sao “dậy” hả cô chủ? Bộ tui làm “dì” “chật” hả cô chủ?

- Sao mà mặt bác lại buồn xo như đưa đám vậy?

   Ông Hai nhìn Hạnh dò xét, thấy Hạnh có vẻ chân thành, mới trả lời:

- Nào nói thiệt với cô, cái chuyện nhỏ nầy có nhầm nhò “dì” đối “dới” tui. Tui đang nghĩ nếu con gái tui mà nó biết tui “mần diệc” cho cô chủ chắc nó sẽ buồn lắm.

- Ủa, sao vậy hả bác?

- Tui có đề nghị làm vườn, lau nhà chùi nhà tắm cầu tiêu cho nó đỡ tốn tiền, nhưng nó nhứt định không cho. Nếu nó biết tui làm cho cô chắc nó sẽ tủi thân “chách” mình không làm “chòn” bổn phận làm con đến nỗi để cha già phải đi làm công làm mướn kiếm sống, tội nó lắm.

   Rồi ông bùi ngùi vừa làm việc vừa thổ lộ với Hạnh tâm tư của ông, như hai người người bạn:

- Tui qua đây được hai năm, con gái nó bảo lãnh. Nó mồ côi mẹ khi còn nhỏ được tôi ôm nuôi đến lớn, cho ăn học đàng hoàng. “Gồi” nó làm sở Mỹ, lấy chồng người Mỹ, xếp nó. Tui cản nó mà có được đâu cô! Cưới xong tụi nó kéo nhau “dề” Mỹ. Tui già “gồi”, sống nay chết mai có sá gì, miễn là con nó có hạnh phúc thì tốt “gồi”. Nhưng vợ chồng nó đâu có chịu, nhứt định mang tui sang Mỹ để được phụng dưỡng tuổi già. Tui chỉ có nó là con, cũng muốn theo nó cho có con có cháu đồng thời coi cho biết cái xứ Mỹ nó ra làm sao.

   Ngừng giây phút, ông nói tiếp:

- Qua đến Mỹ vợ chồng nó lo cho tui quá đầy đủ đến nỗi tui thấy ái ngại trong lòng, nhiều khi thấy bực mình. Nó chăm sóc tui như chăm sóc hai đứa con của nó! Tui suốt ngày ăn “gồi” ngồi không, buồn muốn chết. Dân lao động mà cô, ở không nó sinh bịnh! Tui đề nghị giúp nó làm vườn, nó không cho còn nói: “ Ba già rồi nghỉ cho khỏe”. Tui đề nghị lau nhà bếp, chùi cầu tiêu giúp nó, nó cười tui, “Bộ ba muốn người ta cười con à”? Nó mua thẻ cho tui đi tập thể thao, còn nói “ba ráng tập đừng để bị bịnh thì chết con!”. Nó làm như tui lười biếng ăn không ngồi “gồi”. Tui suốt đời hoạt động, một mình ên làm 5 công ruộng như chơi chứ phải đâu cô, cô coi nè. Ông xòe rộng cho Hạnh xem hai bàn tay gân guốc, năm ngón tay vừa to vừa dày, rắn chắc.

   Hạnh nắm tay ông, thông cảm từng lời nói ông Hai kể. Hạnh thấy thương ông quá, xiết chặc hai bàn tay gân guốc của ông như của một người cha đáng kính. Ông nói tiếp:

- Tui không muốn nhờ “dả” ở con hoặc xin xỏ nó điều gì, nhứt là khi nó đã lập gia đình, có chồng có con. Tui “chốn” nó đi làm định dành dụm đủ tiền để mua vé máy bay về lại Việt Nam. Cô hứa đừng cho con tui nó biết, nó sẽ giận tui. Nó tốn kém mang tui sang đây tui lại đòi “dìa” thì coi làm sao được!

   Động tính tò mò Hạnh hỏi thử:

- Thế con gái bác là ai, ở gần đây không?

- Nó tên Linda. Nhà nó cách đây hai con đường.

- Bác nói sao, con gái của bác là chị Linda à? Chị Linda làm nhà băng Wells Fargo phải không bác?

- Thì nó đó chứ còn ai. Chồng nó là thằng Don.

- Dạ con biết Don Smith là Branch Manager.

- Ủa, sao cô biết “gáo” “chọi” “dậy”?

- Dạ chị Linda là bạn của con. Don là xếp.

   Ông Tư hoảng hốt:

- Chết chưa! cô làm ơn đừng có nói bậy là tui mần “diệc” cho cô, cô làm ơn nghe cô. Ông Hai van xin.

2515%202%20Truyenngan%20CanhChuaCaBongLauNCaliST

   Linda là bạn thân của Hạnh trong sở làm. Trong câu chuyện hàn huyên lúc ăn trưa, Linda có lần kể cho Hạnh nghe về chuyện bảo trợ cha mình sang Mỹ. Thấy ông cụ càng lúc càng buồn, Linda sinh lo không biết phải làm sao cho cha vui nên tâm sự với Hạnh:

- Ba em rất hiền từ, dễ tánh. Ông an phận thủ thường, không đòi hỏi ở con cái điều gì. Em cho tiền ông không nhận, ông nói “Ba có đi đâu mà cần tiền”. Chở ông đi chơi đây đó ông than “Đi xe ba bị nhức đầu”. Đi shopping ông không thích mua đồ còn bảo “Ba đã dư đồ xài rồi mua chi cho tốn kém”. Đưa ông đi ăn món ngon vật lạ ông không vui mà còn cằn nhằn “Ăn chi cho tốn kém quá vậy con, ba cả đời ăn kho khô kho quẹt quen rồi, mấy cái nầy ba ăn không quen”. Em mua quần áo cho ba, ông hít hà xót ruột, chỉ thích mặc mấy bộ đồ bà ba ông mang sang. Em cưng chiều hai đứa con, ông cằn nhằn “Mầy làm tụi nó hư”. Ba thấy Don rửa chén, ông rầy rà em “Mầy làm vợ cái kiểu “dì dậy”, bắt chồng rửa chén?”

   Ngôn ngữ bất đồng, ông không gần gũi được 2 cháu và Don, tuy ai cũng thương ba, cố gắng được thân thiện với ông nhưng cái “gap” quá to khó mà hàn gắn được.

   Linda lại là đứa con có hiếu nên tìm mọi cách để làm cho cha vui. Biết cha thích “nhậu”, Hạnh làm ít đồ nhấm bày rượu mời ông và Don ra nhậu. Hạnh pha trò cho vui nhưng Don không hiểu tiếng Việt nên cứ lộ mắt ra nhìn rồi cũng cười họa theo lảng xẹt. Hai cha con không nói chuyện được, cứ rót rượu mời nhau. “OK” rồi “dô”.Chẳng được bao lâu, chai rượu Chivas hết sạch. Chàng rể cùng cha vợ phòng ai nấy về, quên luôn chào hỏi “good night” vì cả hai đều “xỉn”. Những lần sau ông Hai nhậu một mình. Don nằm trên phòng coi TV vui hơn “dô” với ông già rồi xỉn, nhứt đầu muốn chết.

   Thú vui của ông là đọc báo tiếng Việt. Sáng nào ông cũng cầm tờ báo ra sân uống trà hút thuốc, đọc cho hết từ trang đầu đến trang cuối. Ông giết thì giờ để đợi ăn trưa. Hai đứa cháu bị mẹ biểu ra vườn chơi với ông. Chúng đứng xa xa ngoài sân cỏ chơi banh, thỉnh thoảng dùng bàn tay quạt mùi thuốc lá. Chúng nhăn mặt: “grand pa its sting!”. Ông già nhiều lần bị chạm tự ái giận quá bỏ hút thuốc luôn sau mấy chục năm vấn thuốc rê, Thèm muốn chết! Ông đợi lúc ở nhà một mình ra sân hút lén. Ông chửi thầm trong bụng:

   “Tổ cha tụi bây, hút thuốc lá mà phải lén như đi ăn “chộm” gà!”

   Trưa ông ăn đồ nguội, cái thứ bánh mì dai nhách nhai không được vì ông không còn răng! Ước gì có nắm cơm với ít cá bóng kho tiêu!

   Linda biết ý mua “cơm chỉ” cá kho tộ cho ông, nhưng khuyên ông nên ăn lạnh vì hâm lên hôi cả nhà “Don nó cằn nhằn”. Trời đất ơi! cá kho mà ăn lạnh ngắt, đóng mở trắng phếu thì nuốt sao cho nổi! Phải chi có nắm rau Cải Trời luộc chấm mấm kho! Ông nghĩ mà thèm.

   Chiều về vợ chồng con cái quay quần, ông ngồi một mình coi TV, coi hình cho vui chứ có hiểu mô tê gì đâu! Có khi đang xem, mấy đứa cháu từ trên lầu chạy ù xuống, không hỏi ai, đổi đài xem cartoon. Ông tức ứa gan nhưng không dám nói, ấm ức bỏ vào phòng. Ồng cảm thấy mình không là thành viên của gia đình nầy. Ông thấy thật cô đơn.

   May mắn thay ông Hai gặp Hạnh. Từ lúc qua Mỹ đến giờ ông mới có người chịu ngồi lắng nghe ông tâm sự. Ông Hai có dịp thổ lộ hết những bí ẩn của mình cho Hạnh nghe.

   Tội nghiệp cho ông Hai quá. Ông không muốn con buồn khi biết tâm tư của ông đang bị dằn vặt trong cô đơn. Ông nhớ quê hương, nhớ mảnh vườn, thửa ruộng, nhớ cái nhà ngói đỏ mà suốt đời ông cặm cụi mới tạo dưng nên. Ông nhớ da diết con rạch sâu, cái thuyền câu nho nhỏ mà ông nhờ nó đi bắt từ con tôm con cá như cái cò lặn lội nuôi con. Ông nhớ mấy người bạn già, chiều chiều đốt rơm nướng con cá lóc mới câu, khề khà xị rựơu đế.

   Ông nhớ Bà Tư, người bạn già đã chia ngọt xẻ bùi cùng ông mười mấy năm trường. Bà Tư ở lại thui thủi một mình trong căn nhà ông Hai để lại. Ông Hai ra đi nhưng trong lòng tan nát. Ông hứa mỗi năm sẽ về thăm bà. Nhưng hai năm qua rồi ông vẫn biệt tin. Bây giờ ông mới biết rằng ông không thể sống thiếu bà.

   Sau mấy hôm suy tính, Hạnh quyết đinh kể tất cả những gì đã biết về ông Tư. Linda lắng nghe, đổi từ ngạc nhiên sang xúc động khi hiểu tấm chân tình của Hạnh và thương người cha già cô đơn.

   Linda biết rằng mình đã làm sai, đã vô tình mang đến cho cha bao phiền nảo. Hai chị em quyết định phải làm gì cho ông Tư.

   Trời đã sang mùa Thu khá lạnh đối với ông Hai. Sợ ông bịnh, Hạnh bắt ông làm việc trong nhà. Hết chuyện làm Hạnh nhờ ông Tư lau đi lau lại mấy cái cửa sổ.

- Mà nó sạch bon “gồi” lau chi hoài “dậy” cô chủ? Ông thắc mắc.

- Thì bác cứ lau đại cho con.

   Ông Tư lau hoài mấy cái cửa thấy kì kì, lương tăm khó chịu. Một hôm ông không đến nữa. Mỗi tuần ông sang một lần để lau chùi nhà tắm cầu tiêu như thường lệ và một lần để dọn dẹp sân vườn. Ông chỉ nhận tiền lương một nửa.

   Ông bảo:

- Cô hai tăng lương cao quá, lại không có gì làm sao tui ngại quá!

- Nhưng bác lảnh lương tháng, hổng làm con cũng phải trả lương.

- Đâu có được cô Hai. Tại “dậy” mà tui thấy ngại đó.

   Hạnh đâu ngờ ông già có phản ứng kì cục như vậy! Ai đời làm việc ít mà lảnh lương nhiều ông lại cự nự đòi nghỉ việc!

   Kế hoạch nầy không ổn, Hạnh gọi Linda để bàn kế hoạch khác cho ông già có tiền mà không phải làm việc vất vả. Hai người định cho ông trúng số giả hoặc nhặt được tiền đánh rơi, nhưng sợ không ổn. Dàn cảnh nhặt được tiền, ông đem nộp cảnh sát thì mất toi! Cả hai vẫn chưa nghĩ ra cách nào khác hơn.

***

   Mùa đông đến, ông già cúm rúm trong cái áo lạnh dầy cui, đầu bịt kín mít, co ro vì lạnh. Linda đề nghị tăng sưởi trong nhà thì bị mấy đứa con cằn nhằn than nóng. Linda thương cha nên rất khó xử.

2515%203%20TruyenNgan%20CanhChuaCaBongLauNCaliST

   Một hôm thấy ông vui, Linda lấy hết can đảm ngỏ lời đại cùng ông Tư, không biết ông sẽ phản ứng ra sao:

- Ba à, còn tháng nữa đến Tết rồi, ba có nhớ nhà không?

   Ông Tư ngạc nhiên trố mắt nhìn Linda, rồi chầm chậm nói:

- Sao lại không, ba nhớ đứt ruột đây nè!

- Con muốn ba về Việt Nam ăn Tết, ba chịu không?

   Ông Tư càng ngạc nhiên hơn, mắt sáng rở, nhìn Linda trân trân:

- Nhưng tốn kém lắm con à.

- Con đã chuẩn bị đâu vào đó rồi, cho Ba về ăn tết với Má Tư.

   Nghe tiếng “Má Tư” Ông Tư giật mình, chưng hửng:

- “Má Tư”? Bộ mầy giỡn với ba hả Linda? Làm sao con biết được chuyện “Má Tư”?

   Linda vừa thấy thương, vừa buồn cười cho ông già bị đánh trúng tim đen nên giỡn tới, ghẹo ông:

- Sao lại không biết. Con thương “Má Tư” đứt ruột đây nè.

   Từ ngạc nhiên nầy sang ngạc nhiên khác, Ông trố mắt, há hốc mồm nhìn Linda. Tuy đã “tằng tịu” mười mấy năm nay nhưng chuyện “lẹo tẹo” giửa ông và Bà Tư ông dấu rất kín. Bà chỉ về sống với ông mấy năm nay sau khi Linda đi Mỹ. Ông còn nói dối Bà Tư là người quản gia, giữ nhà hộ cho ông lúc ông đi Mỹ. “Không biết làm sao mà con Linda nó biết ráo trọi?”

- Con xin lỗi ba, Linda nói tiếp, chị Hạnh vì thương ba nên đã kể hết cho con nghe rồi, nhưng vì chị Hạnh có hứa với ba không tiết lộ chuyện nầy nên tụi con giữ kín cho tới hôm nay.

Mèn đét ơi! cô chủ à? Tụi bây đồng lõa với nhau phải hông?

    Linda xấu hổ cười bẽn lẽn, ôm vai ông rồi nói.

- Hổng phải vậy đâu ba, tụi con chỉ muốn ba vui.

   Ông Tư vò đầu Linda như thuở Linda còn nhỏ, rồi hỏi:

- “Dzậy” đứa nào xúi cô chủ trả lương cho ba gấp đôi?

- Dạ con.

- Đứa nào toa rập với cô chủ tăng giờ làm việc cho Ba?

- Dạ con.

- Đứa nào bắt tao lau chùi hoài mấy cái cửa sổ?

- Dạ con.

- Chèn ơi, mầy quá lắm rồi cái con khỉ, giám gạt cả ba?

- Thì tại ba gạt con trước chứ!

    Hai cha con cười ngất. Chưa bao giờ ông cảm thấy hạnh phúc và thấy thương con gái hơn lúc nầy. Lần đầu tiên cha con hiểu nhau, từ lúc Linda lớn khôn đến bây giờ. Lần đầu tiên ông không thấy xấu hổ với Linda về chuyện Bà Tư.

   Ông hình dung giờ phút gặp lại Bà Tư sau hai năm trường xa cách. Tháng nầy là mùa gió chướng, gió thổi mạnh, đong đưa hàng Sua Đũa trước sân nhà, có lẽ đã trổ bông trắng xóa. Dàn đậu rồng chắc đã nở hoa kết trái trên dàn, báo hiệu mùa câu cá Bông Lau. Ông thấy mình bơi chiếc xuồng câu lên dàm Nước Trong rồi thả mồi câu cá Bông Lau, thả hồn theo sông nước.

2515%204%20TruyenNgan%20CanhChuaCaBongLauNCaliST

   Ông chợt nghĩ đến nồi canh chua cá Bông Lau nấu với bông Sua Đũa do bà Tư nấu thơm phưng phức mùi rau Om mà thèm.

   Ông Tư như con chim sắp được sổ lồng, tâm hồn phơi phới, hạnh phúc vô biên.

Chú Chín Cali



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Feb/2019 lúc 12:56pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22000
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Mar/2019 lúc 5:12am

Vẫn Thèm Món Quê


Image%20result%20for%20steak%20beef

Lang thang… góc bể, đầu non,
Đã từng nếm thử miếng ngon xứ người,
Dẫu rằng thấm đậm bờ môi
Nhưng nghe mùi vị xa xôi lạ lùng.


Image%20result%20for%20cá%20lóc%20nướng%20trui%20miền%20tây

Vẫn thèm, vẫn nhớ vô cùng!
Món ăn đặc sản ở vùng Quê tôi
Nào là: Cá lóc nướng trui
Cá trê kho tộ, cơm vùi bếp tro.


Image%20result%20for%20Hủ%20tiếu%20Mỹ%20Tho

Mỳ Quảng, Hủ tiếu Mỹ Tho,
Nào là: món Huế Bún bò giò heo!
Thơm ngon, có đĩa bánh xèo
Thịt ba rọi luộc, dưa leo quấn trần.


Image%20result%20for%20Nem%20chua%20Thủ%20Đức


Tuyệt vời phở bắc hành chần!
Thịt bò xào với rau cần, tỏi tiêu,
Canh điên điển ở Bạc Liêu.
Nem chua Thủ Đức, Ninh Kiều trứ danh!


Image%20result%20for%20Long%20Xuyên%20đặc%20biệt%20bánh%20canh

Long Xuyên đặc biệt bánh canh!
Cần Thơ: rắn hổ, cua đinh, tôm càng.
Đầu non, góc biển… lang thang,
Vẫn thèm hương vị xóm làng Quê Tôi./.

Trần Quốc Bảo
Richmond, Virginia



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Mar/2019 lúc 5:14am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 10/Mar/2019 lúc 5:57am

Người Huế thích ăn cay!

baomai.blogspot.com

Khó có một vùng miền nào tại Việt Nam mà người dân lại thích ăn cay như xứ Huế. Những gia vị cay như ớt, tỏi, tiêu, hành... ở Huế tuy chẳng phải “đặc sản”, nhưng đã qua tay chế biến ở các đầu bếp dân gian trở nên nổi tiếng khắp nước.

baomai.blogspot.com
Bánh bột lọc bọc tôm điểm bằng rừng ớt tươi

Đơn cử như ớt ở Huế có nhiều loại: ớt mọi, ớt hiểm, ớt chỉ thiên, ớt chìa vôi. Cách pha trộn làm nước ớt Vinh Xuân (Phú Vang) giúp gia vị này trở nên vô cùng nổi tiếng. Nước ớt Vinh Xuân không bị lên men, nấm mốc khi để cả năm trời, nhưng lại cực kỳ thơm ngon, từng được xuất khẩu sang Đông Âu và là món đặc sản của Huế không kém gì rượu làng Chuồn, cau Nam Phổ, trầu chợ Dinh, thanh trà Nguyệt Biều, quýt Hương Cần…

Hai ông “vua ớt” Bùi Ngọc Vinh, Bùi Ngọc Khánh từng được Đài KBS Hàn Quốc thực hiện phóng sự người ăn ớt như ăn khoai cũng xuất thân từ Huế. Ngày xưa ở Huế còn có làng Phong Lai được cho ăn ớt trừ cơm vào những ngày vụ mùa thất bát, đủ thấy người Huế ăn cay “siêu đẳng” đến cỡ nào!



Lý giải cho đặc điểm ẩm thực này là do người dân muốn chống lại cái lạnh và mưa dầm như một phương thức thích nghi với cuộc sống. Trong sử sách còn ghi, khi Nguyễn Hoàng vào đất Thuận Hóa, cư dân Việt đã học tập người Chăm về việc sử dụng gia vị cay (đặc biệt là ớt) để dung hòa với vùng đất và khí hậu còn lạ lẫm, mà Tố Hữu từng viết: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên?”.

Đa dạng món cay

baomai.blogspot.com
  
Hằng ngày, trên bàn ăn của người Huế (gồm món canh, cá, thịt, dĩa rau sống…) luôn có một dĩa muối tiêu ớt, dĩa tương ớt hay một chén nước mắm ớt tỏi. Đặc biệt không thể thiếu tương ớt.

Tương ớt Huế là hỗn hợp gồm ớt tươi, tỏi tươi, muối, đường, dầu ăn và nước mắm ngon trộn lại. Người Huế dùng tương ớt nhiều trong những món ăn buổi sáng sớm (bánh mì, bánh canh…). Hiện nay, tương ớt Huế đã trở thành một món quà du lịch bên cạnh tôm chua, mè xửng vì nó hoàn toàn không có chất phụ gia độc hại mà còn rất tiện dụng trong những bữa ăn hàng ngày.
 

baomai.blogspot.com
Chén nước chấm cho tô bánh canh Nam Phổ ở Huế 

Đến Huế trong mùa này, khi cảm thấy sức nóng của những tách trà, độ ấm những chiếc áo bông không đủ làm nóng thân thể, du khách hoàn toàn có thể dùng đến các gia vị cay như ớt, tỏi, tiêu… trong buổi ăn để giữ thân nhiệt và đẩy lùi những căn bệnh mùa đông như nhức đầu, sổ mũi, cảm cúm…

Đầu tiên, phải kể đến bún bò Huế, món ăn có gốc tích từ thời các chúa Nguyễn vào đất Thuận Hóa. Ăn bún bò Huế vào những ngày mưa rét, du khách sẽ có ngay cảm giác cả thân thể được sưởi ấm tức thì bởi sức nóng hừng hực khi áp tay vào tô bún bò Huế vừa mới được múc từ nồi đỏ lửa đem lên.

baomai.blogspot.com
  
Nồi bún bò Huế với nước bún, thịt bò, giò heo, chả tôm, gạch cua, huyết… được người phụ nữ Huế nêm nếm sả, ớt màu, ớt bột, tiêu, tỏi, hành… rất tính toán, cẩn thận, cốt sao để phù hợp với khí trời. Du khách chưa đủ “ép phê” còn có thể tự mình nêm nếm thêm ớt tươi, ớt tương hay nước mắm ớt tỏi.

Kế đến, không thể không nhắc đến món cơm hến, món ăn bình dân đặc trưng của cư dân cố đô. Một tô cơm hến, ngoài hến, lá môn, rau ngò, tóp mỡ, khế chua, nước hến… còn có vị cay đặc trưng của ớt, tỏi và gừng.

baomai.blogspot.com
Cơm hến đỏ màu nước ớt 
   
Vào một ngày mưa rét mà ăn được một tô cơm hến vào buổi sáng sớm, ắt hẳn du khách ai cũng phải xuýt xoa. Vị ớt, tỏi cay xè từ miệng, xộc lên sống mũi, nóng đến từng thớ thịt. Ăn xong tô cơm hến và uống một tô nước hến có gừng, du khách sẽ cảm thấy mồ hôi đổ ra, lưỡi tê rần, người "bốc hỏa" cả lên như ngồi bên bếp lửa hồng chống rét. Quả thật, cơm hến là một liều thuốc ẩm thực khá công hiệu khi vui chơi ở Huế trong những ngày giá lạnh.

baomai.blogspot.com
Hít hà tô bún với ớt tươi

Ngoài bún bò, cơm hến, Huế còn có rất nhiều những món ăn có vị cay khá thú vị. Đó là vị cay của sả, ớt trong món ốc Trường An; vị cay của nước mắm ớt trong tô bánh canh Nam Phổ, trong dĩa bánh lọc bà Đỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm; vị cay của dĩa muối ớt ở quán chân gà nướng Mai Thúc Loan; vị cay của nồi nước lẩu của món lẩu dê Kim Long, lẩu hải sản Thuận An…



Bởi vậy, trong những ngày này, lượng khách đến những quán xá, địa điểm ẩm thực nói trên đều chật kín. Ai đến Huế đều nhớ về vị cay xứ Huế, như một trải nghiệm độc đáo vào những giá rét, mưa dầm trên mảnh đất cố đô.



Nguyễn Văn Toàn
***



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 10/Mar/2019 lúc 5:59am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22000
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/Mar/2019 lúc 8:09am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22000
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Apr/2019 lúc 7:55am
Món ăn dĩ vãng







Ông già cháo huyết hay bà cháo lòng có khác gì “những người muôn năm cũ”. Họ là phần ký ức nhỏ trong một khoảng hành trình nào đó của đời người, đầy nhọc nhằn biến động, gắn liền với bao chuyện vụn vặt, không sao quên được… Nhớ đâu viết đó.

Xe cháo huyết… đêm

Mùa đông năm 1975, Sài Gòn lạnh khủng khiếp, lòng người cũng..lạnh. Chiều xuống là… nhậu. Còn biết làm gì lúc đó bây giờ? Nuối tiếc quá khứ, hoang mang với hiện tại và nghi ngờ ở tương lai. Vô vài xị với bè bạn cho ngấm mùi đời. Nửa đêm lửng lơ đạp xe về nhà, táp vô xe cháo huyết gần trường Lê Bảo Tịnh, đường Trương Minh Giảng (bây giờ là Lê Văn Sỹ). Chủ quán, một ông già Tàu, không biết nấu cháo kiểu gì, mà ngon kinh khủng…

Cháo huyết ngon, ngon từ cháo tới huyết. Cháo ngọt thịt và huyết mềm và dai, với vài khoanh chào cháo quẩy mỏng dính, cho ớt bằm thiệt cay, ấm lòng say xỉn. Hình như cháo huyết này được nấu với tôm khô và mực khô, cháo đã ngon, mà sao miếng huyết vừa dai vừa mềm thế!

Ông già Tàu tính kỹ, kích thước tô cháo nhỏ xíu, cháo múc chỉ tới nửa tô. Phải ăn tới 5 tô mới tạm đủ… Hôm nào hẻo, kêu một tô, cho ớt thiệt cay, uống nhiều trà đá, cũng đỡ vã.

Mười năm sau, ông già Tàu không bán nữa, để xe cháo lại cho vợ chồng người con trai. Thằng con vẫn nhận ra khách quen, bàn tay múc cháo của nó nhuần nhuyễn như ông già, vẫn “cháo nửa tô”, đúng chuẩn!

Rồi mười năm sau nữa, vật đổi sao dời… xây cất nhiều, cảnh đổi thay, chẳng biết xe cháo trôi dạt về đâu…

Năm nay Sài Gòn lạnh, lạnh bất thường. Mỗi tối, tôi vẫn đi bộ qua con đường cũ, đôi khi nhớ ông già Tàu, nhớ “cháo nửa tô”, nhớ ớt cay che khuất cơn đói, nhớ cả tâm trạng của thằng say xỉn lỡ cỡ…

Tôi có thể nói mà không lưỡng lự, cháo huyết ở đó ngon, chắc chắn ngon nhất đời…

Quán cháo lòng … chiều

Gọi là quán cho bảnh, chứ đó chỉ là cái sạp, ngó xéo sang chợ Đa Kao ở đường Nguyễn Huy Tự. Quán chỉ bán buổi chiều, từ 2 giờ đến 5 giờ là vãn.

Bà chủ quán trạc 35, chưa chồng, chảnh,… Khách chiều bả, chưa thấy bả chiều khách bao giờ. Mặt lạnh, dễ quạu, ít cười. Ít không có nghĩa là không, thỉnh thoảng cũng thấy cười với…đàn ông.

Cháo lòng là phải đủ bộ: huyết, tim, gan, phèo, phổi,… Huyết không có gì đặc biệt, thua xa cháo huyết đêm của ông già Tàu, nhưng tim gan phèo phổi, bả cắt nhát nào ra nhát nấy, to và dày. Dồi làm mới …tuyệt! Khúc dồi to như ống nước, và chỉ nhồi thịt, không biết bả làm cách nào mà chiên dòn, ăn đã không chịu được, nhất là những khúc đầu dồi. Khách thích, muốn mua dồi về nhậu, không bán! Mua cháo và dồi, cũng không bán! Chảnh thế đó!

Cháo hầm xương, nên ngọt, nhưng hậu vị không dai dẳng như cháo huyết hầm tôm khô mực khô nói trên. Cháo lòng ăn với hành củ tím thái mỏng, ngâm dấm, ớt bằm,…

Cháo ngon, nhưng hơi đắt, tới 4 đồng/ tô. Lương tôi hồi đó 73 đồng, trừ tiền gạo, nhu yếu phẩm này nọ, còn chừng 35 đồng, làm sao đủ… nhậu cho cả tháng đây?

Tiêu chuẩn tháng, gạo (13kg), đường (500 gr), bột ngọt (50gr), thịt mỡ (600gr),.. mang về nộp cho bà già gọi là…trả hiếu (để tối về còn có cơm nguội lục ăn). Còn mấy thứ khác thẩy ra chợ trời tuốt. Thuốc lá đen (3 gói), đẩy ra lấy thuốc rê hút. Sữa hộp, làm phòng lab nên Nhà nước “bồi dưỡng độc hại” mỗi tháng 1 hộp. May quá bà già tôi không biết uống sữa, nên sữa cũng chạy ra chợ trời luôn… Đẩy “hàng” ra chợ trời hồi đó cũng dễ, có bà bán thuốc lá ngồi trước cổng cơ quan (đối diện chợ Đa Kao) thu gom,…đắt rẻ một chút, thôi kệ, hơi đâu trả giá…

Tô cháo lòng 4 đồng là xa xí phẩm. Thèm, nhiều khi thèm, xuân thu nhị kỳ mới dám rớ tới. Hồi đó thèm đủ thứ, thèm thịt, thèm cá, thèm chả lụa, thèm phở, thèm điếu thuốc thơm,… Coi như trên đời không có protein. Bỏ hết! Nhịn hết! Nhưng nhịn rượu, thì không. Mỗi tối, không ngồi bên quán cóc, không đong đưa vài ly rượu, không san qua xẻ lại nỗi lòng với mấy thằng bạn, người đi kẻ ở, tù tội chín phương, lừa vàng mất bạc, tình người điên đảo,.. Không ngấm qua men rượu, không nói được ra lời, làm sao ngủ được, sức đâu mà chịu nổi những bế tắc trước mắt, những giả dối của ngày mai khi bước chân vào cơ quan…

Lương kỹ sư hồi đó đại khái là vậy. Thời hậu chiến, người ta cho rằng, trong ba dòng thác cách mạng, thì cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt. Thứ then chốt này được “ưu đãi” đại khái như thế, còn sống sao thì tùy. Mỗi năm ôm một đề tài nghiên cứu, sáng chiều mặc áo blouse, nghía qua nghía lại mấy cái ống nghiệm, becher, burette.., tối về đi “cảo” xích lô kiếm tiền… nhậu. Thường thì tôi đi dạy luyện thi đại học nhiều hơn. Hồi đó chưa có…lò, nên chỉ dạy kèm, dạy nhóm. Học trò đa phần là con cán bộ từ rừng, trình độ quá yếu, dạy phải hạ thấp, hạ thấp nữa, căn bản của căn bản. Vậy mà tụi nó đậu, đậu Y Dược hẳn hòi. Có vài em rất giỏi, nhưng lại rớt. Học tài thi phận, cái phận lý lịch buồn từ trong nhà ra tới ngoài đời. Mấy em bây giờ ở đâu?

Viết tới đây bỗng dưng khựng lại. Đang nói tới cháo lòng heo, sao lại quay sang nói lòng…người thế này?

Quán cháo lòng nằm ngay trước cửa cơ quan tôi, coi như chòm xóm, vậy mà lâu lâu cũng phải “hót” bả một chút mới được việc. Bà chủ chảnh, nhưng cũng có khi dễ chịu. Cuối tháng lãnh lương, cỡ 2 giờ chiều, đang dọn hàng còn ít khách, tôi ra quán gạ bả:

Chị cười, sao tôi thấy ngồ ngộ…

Ngộ cái gì ?

Ngộ là đẹp đó, chẳng lẽ tui nói huych toẹt ra. Chị coi được mắt, làm đồ mồi ngon, sao giờ chưa chịu lấy chồng? Thằng nào phụ chị, đâu chị nói tui nghe thử, tui đá cho nó mấy cái…

Thế là bả xả ra hàng chùm hàng loạt, nào là bả đào hoa thế nào, nào là thằng nào thầm yêu trộm nhớ mà bả không chịu,..bla…bla…. Khách tới đông, tôi xin kiếu vô làm việc lại, nhưng không quên dặn nhỏ bà chủ “Hôm nay tui lãnh lương, đãi mấy thằng bạn nhậu. Tui quảng cáo món dồi chiên của chị quá xá. Chị bán cho tui một tô, không lấy cháo, chỉ lấy lòng và dồi, càng nhiều đầu dồi càng tốt. Cho vào bao nylon, lát về tui lấy…”. Chất lượng hàng hóa hôm đó, ngon rẻ đẹp bền (bền là lần sau mua cũng khuyến mãi như thế), vượt trên mức mong đợi.

Lắm khi tôi tự hỏi, phịa đại một câu, vô thưởng vô phạt, làm người khác sướng, mà mình cũng có lợi, có phải là hành vi…đạo đức? Thế giới này cả ngàn nhánh khổ rồi. Giây phút nào buồn? Giây phút nào vui đây?

Năm 84, tôi chuyển chỗ làm khác, chỉ thỉnh thoảng mới ghé quán cháo lòng Đa Kao. Giữa thập niên 90, trở lại quán cũ, thì người khác ngồi bán. Nghe nói, bà chủ cũ chơi đề, vỡ hụi hay sao đó, đã bỏ đi xa rồi...

Ông già cháo huyết hay bà cháo lòng có khác gì “những người muôn năm cũ”. Họ là phần ký ức nhỏ trong một khoảng hành trình nào đó của đời người, đầy nhọc nhằn biến động, gắn liền với bao chuyện vụn vặt, không sao quên được… Nhớ đâu viết đó.

Lúc đầu định viết “Món ăn dĩ vãng”, viết hết đủ món, viết một lần cho xong, nhưng mới viết tới cháo huyết cháo lòng đã thấy dài, đã thấy mỏi tay. Rồi tôi sẽ viết tiếp nếu còn người muốn…đọc. Mà dù không còn người đọc, tôi cũng viết. Viết để trả nợ quá khứ, một quá khứ chẳng đâu vào đâu.

Còn gỏi khô bò, còn sò lông, còn bia lên cơn, còn rượu Cây Lý,… Những thứ này xa lắc rồi. Mấy ai còn nhớ đâu, nhưng có khi lại thấy chúng gần, thật gần…tưởng chừng như mới đâu đây thôi, như hôm nay tôi ngồi viết bài này.

Chạm tay vào dĩ vãng, sao thấy ngậm ngùi quá !

Vũ Thế Thành
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 19/Apr/2019 lúc 2:04pm
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 22/Apr/2019 lúc 10:47am

Chuyện về chai bia la-de trước 1975


https://i0.wp.com/www.ljmilitaria.com/foreignmilitary/14a42cd10.jpg

Đã từ lâu rồi anh chị em bạn bè khi gặp tôi, sau khi biết tôi đã từng làm việc tại hãng BGI, Sàigòn, tức là hãng Br***eries, Glacières d’Indochine, công ty chủ nhà máy nấu La De ở Chợ lớn, cạnh sân vận động Cộng Hòa, đều yêu cầu tôi phải viết về La De, kể những giai thoại về La De.

Câu chuyện thường được mọi người nhớ về La De, thường hỏi tôi, là chuyện chai La De lớn đặc biệt gọi là La De Trái Thơm. Theo lời đồn, trong mỗi thùng 6 chai chỉ có một chai Trái Thơm, giá đặc biệt và cũng là quà tặng đặc biệt mỗi khi có khách quý. Ai đã được uống La De Trái Thơm đều khen là ngon đặc biệt, và khen ngon hơn chai La De thường. Thiệt tình mà nói là La De Trái Thơm, La De thường, La De Quân tiếp Vụ cũng là một thứ, vô chai có hình trái thơm thì nó Trái Thơm, vô chai thường thì nó là La De thường, gặp chai Quân tiếp Vụ thì nó biến thành La De Quân tiếp Vụ. Hãng BGI lúc ấy chỉ có nấu hai loại La De thôi :

1) La De thường, vào chai lớn (dung tích 66) thường gọi La De Con Cọp vì chai có cái đầu con cọp màu vàng và để nhãn hiệu Bière Larue, và

2) La De 33, nấu thơm hơn, độ rượu nhiều hơn, vị uống đậm đà hơn, vô chai nhỏ (dung tích 33), tên thường gọi là Bia Băm Ba, nhãn hiệu là Bière 33 Export.

Vậy mà có người khen chê cho La De Trái thơm là ngon nhứt, xong đến La De Con Cọp và hạng chót là La De Quân tiếp Vụ. QTV dở nhứt vì là cho Quân đội uống. Chẳng qua là cái mã ở ngoài cả. Thế mới biết ở đời chỉ trọng cái bề ngoài. Quý vị nghĩ coi nấu 2 loại Bia đã tóe phở, học xì dầu hơi đâu, BGI đâu có quởn nấu ba bốn loại còn vô chai vô cộ, đổi kíp đổi người. Phức tạp lắm. Nội cách đổi vỏ chai cho hạp với rượu cũng đủ hao tiền. Nhưng cắt nghĩa hổng ai tin. Ông Cụ Bà Cụ tui, hễ khi tui đến nhà chơi, chẳng may lấy La De Quân Tiếp Vụ uống, vì ổng có hàng QTV do mấy chú em tui đem về, thì bà bảo: “Nhà hết La De để mẹ đưa tiền chú Thanh, chú Thanh là anh tài xế phục vụ ông cụ đi mua La De về cho con uống chứ uống chi đồ QTV dở lắm, để các em của con lính tráng nó uống, nó quen rồi.”. Tôi có trả lời cắt nghĩa cho bà hiểu là chỉ có một thứ bả không tin. Thiệt “Bụt nhà hổng thiêng”!.

https://i2.wp.com/www.ljmilitaria.com/foreignmilitary/14a2e1900.jpg

Câu chuyện La De Trái thơm.

Lúc ấy là năm 1973, tôi làm chánh sở Tiếp thị (Chef du Service Marketing), coi luôn phần quảng cáo. Để hà tiện tiền làm nhãn ở Pháp, tôi sử dụng văn phòng quảng cáo của hãng, tôi nghĩ anh họa sĩ văn phòng quảng cáo (chuyên vẽ những fond cho các xe của hãng rồi các anh thợ sơn đồ chép lại) đủ tài nghệ chép lại cái nhãn đặt ở Pháp. Và tôi nhờ anh họa sĩ vẽ lại cái nhãn. Trên nhãn cái đầu con cọp vàng ở giữa hai bên có hai tràng hoa houblons, là loại hoa dùng để thêm cái vị nhẫn đắng vào bia. Nấu bia ngon dở là do cái tài thêm ít hoa houblon, cũng như gia vị ngũ vị hương trong nghề bếp núc Việt Nam ta vậy.

Nhãn vẽ xong đại khái cũng tạm ổn, vì anh họa sĩ nhà chưa bao giờ nhìn thấy hoa houblon, nên đinh ninh thấy hoa houblon giống trái thơm, cho là Trái thơm, và vẽ giống trái thơm. Các ông giám đốc Tây cũng ba chớp ba nháng, kể cả anh chánh sở trách nhiệm là tui, cũng thế.

Vì thiệt tình mà nói thì có ông nội nào thấy hoa houblon tươi đâu? Biết là houblon nhưng chỉ nhìn thấy hoa dưới dạng khô. Còn các anh kỹ sư nhà máy, các anh nấu rượu (br***eurs – đây là một cái nghề riêng) dân La De thiệt, thì ở nhà máy. Bọn quyết định là dân Văn phòng, dân làm Marketing quyết định mọi việc, bổn phận các anh kỹ sư là sản xuất, chỉ sao làm đúng vậy thôi. Quý vị thấy không, không phải chỉ có trong quân đội mới có cảnh lính văn phòng và lính chiến trường. Nhãn ô kê, gởi đi làm décalques đưa qua Công ty Thủy tinh Việtnam, (Khánh hội) dán vào chai: 100 ngàn chai mới.

Khi đưa vào nhà máy Chợlớn, các lão kỹ sư cười vỡ bụng, “hoa houblon sao giống trái thơm thế nầy”. Nhưng đã nói các quan văn phóng là chánh mà, nên quyết định, cứ trộn chai mới vào với đám chai cũ, lẫn lộn chả ai biết gì đâu, người ta uống La De có ai thèm nhìn nhãn đâu. Chẳng lẽ vất bỏ 100 ngàn chai hay sao ? Vài ông giám đốc còn thày lay dạy đời “Dân Việtnam không biết uống bia, uống quá lạnh, nhiều khi còn để đông đặc lại (bia đặc), còn thêm nước đá, ngon lành gì, vì vậy trái thơm hay hoa houblon có ai biết chi mô mà ngại ngùng, a-lê ta cứ thế mà làm”. Chàng chánh sở biết thân, im miệng thin thít, ngậm miệng ăn tiền, phải bảo vệ danh dự anh họa sĩ nhà và danh phong Marketing, dù sao cũng… quê rồi.

Nhưng không ai lường được cái tài doanh nhơn của người Hoa, của con buôn. Các chú Chệt nhà mình ở hãng (rất nhiều nhơn viên người Việt gốc Hoa, buôn bán ở Sàigòn phải biết “cỏn Tung Hỏa”, chẳng những biết nói “Quảng Đông Ngữ” mà cũng phải vài tiếng “Tiều châu ngữ” nữa cũng phải “Kít tèo” hay “Mai xín xắn bù chằn ếch” cho giống người ta, nói tóm lại con buôn giới thương mại phần đông là người gốc Hoa nếu không nói là một số rất đông. Thế là tiếng lành đồn xa tiếng dữ đồn gần, hãng La De vừa sản xuất được một thứ La De hảo hạng, La De trái thơm, một thùng chỉ một chai, để tặng các bạn hàng thứ thiệt, thứ ngon lành, thứ chịu chơi.

Cái luật may rủi, tình cờ, thì khi ra chai và vào thùng thì bao giờ Trái thơm cũng có mặt ở mỗi ngày sản xuất, mấy tay cao thủ bán hàng của hãng cứ thế mà sắp cho mỗi thùng một chai, rất là điệu nghệ, và tuyên truyền nguyên tắc của hãng mỗi thùng một chai. Nhưng khi đi giao hàng (bán sỉ) quý vị ấy tự nhiên đề nghị với các bạn hàng biết điệu nghệ thì có thể thêm 2 hoặc 3, thậm chí cả thùng toàn La De trái thơm tùy theo nét điệu nghệ và chịu chơi của thân chủ, “phép vua thua lệ làng” mà lỵ, phép hãng đấy, nhưng thua nghề của chàng. Và cứ thế giòng sông thương mại trôi theo giòng điệu nghệ, ăn nhậu.

Các bars, các quán nhậu cũng tùy điệu nghệ với các ông Thầy, ông Xếp, đàn anh… mà điệu nghệ giành chai La De Trái thơm cho người mình muốn nâng bi, ca tụng hay ca bài con cá. Cá nhơn tui đây, dân La De thứ thiệt, thế mà khi đi nhậu vẫn được bạn hàng và nhiều khi cả nhơn viên (cho biết khi cái dỏm trở thành huyền thoại thì cái dỏm trở thành cái thiệt) thương tình tặng một chai Trái Thơm. Nhưng mình cũng phải ngậm miệng khen ngon và cám ơn các cảm tình giành riêng ấy, và vì huyền thoại đã đến hồi quyết liệt, làm vỡ “mộng ban đầu”, e có thể “lãnh thẹo”.

Huyền thoại vẫn dai dẳng đến sau 30 tháng Tư, dân bộ đội, hay người “Hà Lội” cũng bị huyền thoại Trái Thơm. Nhiều tay nón cối dép râu, cũng chạy vào văn phòng ông giám Đốc, (sau Tết 1975, tôi được bổ nhiệm làm Giám Đốc Thương mại) làm quen, và xin ông GĐ đặc biệt “tặng không” vài chai Trái Thơm, hoặc thưởng thức Bia Trái thơm “cho biết”. Tội nghiệp, rất nhiều tay vượt Trường Sơn chỉ muốn uống Coca Cola “cho biết” (Tiếng Tây có thành ngữ “pour ne pas mourir idiot” – để khỏi chết ngu đần). Vì ta là quân chiến thắng nên chỉ xin thôi, và chỉ nhận quà cáp, của tặng, chứ không có mua bán gì cả.

https://i2.wp.com/www.ljmilitaria.com/foreignmilitary/14a149900.jpg
La De Quân Tiếp VụVăn phòng BGI, Br***eries Glacières d’Indochine nằm trên đường Hai Bà Trưng cạnh hãng Nước Đá. Đấy là tên cúng cơm. Sau năm 1954, sau khi hết Indochine (ĐôngDương), BGI bèn biến chữ I thành Internationales (Quốc tế). Mà Công ty Br***eries Glacières Internationales thiệt sự internationales thứ thiệt. Một ông cựu Tổng Giám đốc, ông Grandjean, con một cựu quan chức thuộc địa ở Hànội, còn cá nhơn ông lại là một cựu luật sư thuộc Luật sư đoàn Hànội, đã tả BGI bằng một câu xanh dờn, ví BGI như đế quốc của Đại đế Charle Quint thời Phục Hưng ở Âu Châu “Mặt Trời không bao giờ lặn trên đất của hãng BGI”. Mà thiệt vậy, BGI có nhà máy nấu La De từ Tân Đảo (Nouvelle Calédonie) đến Guayane nằm cạnh Brazil, thì không đi vòng thế giới sao? Chưa kể ở Phi Châu, Đông dương và thậm chí có mặt ở một nước Hồi giáo, Indonésia, nhà máy do tôi thương thuyết thành lập ở thành phố Médan trên đảo Sumatra (đây là một tư hào của cá nhơn tôi, thành tích bán rượu cho dân Hồi giáo).

Xuất xứ của hãng BGI

BGI phát xuất từ một nhà máy nước đá do một anh kỷ sư Công Nghiệp (Arts et Métiers – Paris) sĩ quan hàng hải, Victor Larue, giải ngũ tại Sài gòn năm 1875 thành lập. Năm 1975, BGI cũng vừa đủ 100 tuổi. Về sau BGI cũng từ từ rút các cơ sở nhà máy, bán dần dần và nay không còn gì cả. Chỉ còn có mỗi Bia 33, chai nhỏ 33 phân khối. Tên bia 33 khai sanh tại Hà Nội năm 1949.

Ngày hôm nay Bia 33 cũng tỵ nạn tại ĐanMạch (do Hảng Carlsberg – ĐanMạch sản xuất). Bia 33 vì sanh ở HàNội nên dân Sàigòn vẫn gọi “Bia 33”, hay vắn tắt “Băm Ba”. Còn chai bia lớn gọi La De Con Cọp, hay La De lớn (vì dung tích 66 phân khối).

Nói thì La De, nhưng viết LA VE, cũng vì một anh Tây ở hãng đã viết và cho in trên cuốn lịch phát hằng năm, màu vàng với con cọp nằm ngang màu đen và viết LA VE LARUE. Dân Tây hồi đó khi mới đến Sàigòn khi vào những quán ăn gặp cái lịch ấy thường đặt câu hỏi cái hãng nào mà “Rửa Đường, rửa Phố” như vậy, vì học đọc Lave (động từ Laver, rửa, to clean, to wash) la rue (rue là đường phố – street). Để tránh cái ngộ nhận ấy, cá nhơn tôi trưởng Marketing bèn đề nghị thay đổi cách gọi trên tấm lịch ấy. Cũng vì trong cùng thời gian ấy, đang có một chương trình sản xuất một loại Bia Màu, Bia màu Nâu (Bière Brune), nên tôi thưòng dùng chữ Bia hơn chữ La De, gọi Bia Đen, Bia Nâu, Bia Màu nó dễ nghe hơn, cho nên Tết năm 1975, cái lịch cố hữu màu vàng, con cọp đen được in lại với chữ BIA LARUE. Năm ấy, mất luôn chữ La De hay LA VE, ôi thôi đó cũng là cái điềm. Có một cái an ủi, là có những bạn hàng không bằng lòng chữ Bia nói là ở dưới quê (guê) người hổng biết bia là gì nên phải giữ chữ La De. Tôi có cho in thêm 5000 tấm La Ve Larue. Ôi thương làm sao cái tình “miệt Dườn” của “guê hương mình”. Năm 1976, tôi không ra lịch ra liếc gì cả. Chế độ phân phối mà làm gì có marketing.

Tên Anh Victor Larue cha đẻ hãng BGI chỉ có ở Chai La De lớn thôi, phần còn lại không ai nói tới. Mà cũng nực cười Ổng đẻ ra hãng Nước đá, như tên ổng lại đặt cho La De.

Đó là vài mẫu chuyện của Hãng La De, Nuớc Ngọt, Nước Đá thời của mình. Nay tình cờ có một bài báo viết về La De hay Bia tôi xin phỏng dịch và viết lại hầu quý độc giả, gọi là quà tặng khi vào Mùa Hè.

Hương Vị Nhẹ Nhàng của La De
Phỏng theo bài tra cứu của Laure Gasporotto (Tuần báo Express) ra ngày 25 tháng 6/2009.

“Bịt mắt lại, một tay thợ nghề nấu Bia khi nếm không thể biết được bia nào là Bia hơi, và bia nào là Bia chai”. Đây là một lời thú tội của một tay nấu bia nhà nghề (Maître Br***eur) của hãng Kronenbourg, hãng bia nổi tiếng ở nước Pháp.

Ngày nay, Bia Hơi đang được thương mại đến tận gia đình. Những thùng bia hơi với những hệ thống bơm hơi đang được bình dân hóa đến tận gia đình. Không còn bắt buộc dắt nhau ra quán nhậu bia hơi, để thưởng thức các hương vị Bia Tươi, với cái bọt mềm dịu trong miệng, đưa tay chùi đôi mép vướng bọt. Ngày nay đem một thùng Bia Hơi và dụng cụ về nhà, rủ vài bạn bè về, tìm cái thú vui của hương vị, thưởng thức cả vị giác và cả thính giác nữa.. tiếng pxììì kéo dài khi bia sủi bọt… Đo cái bọt đang sủi, gạt cái bọt đang thừa…

Cả một chương trình điệu nghệ như khi ta nâng niu ly rượu đỏ, cẩn thận xoay vòng, cẩn thẩn đưa lên mũi cho khứu giác tràn đầy mùi thơm, xong đưa vào miệng thử một miếng, súc miệng cho đầy vị giác, tìm những cảm xúc… Ly rượu ngọt ngào, thơm tho, đầy tất cả bầu trời thiên nhiên hương vị vùng Bordeaux hay vùng Bourgogne… Ôi tôi đã đi lạc vào động Thiên Thai của rượu đỏ rồi…

Trở về La De vậy. Ngày nay với kỹ thuật mới, bia hơi bán trong thùng sắt có thể giữ được 6 tháng. Còn bia chai giữ được một năm. Chả bù vào những năm 1970 ở Sàigòn chúng tôi chỉ bán Bia Hơi cho những quán nào bảo đảm bán hết thùng bia trong 24 giờ. Sau đó đỗi thùng mới, súc hệ thống hơi và vòi, mà phải để nhơn viên BGI làm, mới bảo đảm, vì chúng tôi, hãng BGI bảo đảm an toàn, vệ sanh, và dỉ nhiên hương vị của bia. Vì thế ở Sàigòn lúc bấy giờ rất ít quán có Bia hơi.

Quý bạn chắc còn nhớ quán bán Bia Bock ở Chợ cũ đường Hàm Nghi cạnh Ty Ngân Khố không? Chiều chiều ra đấy làm vài ly Bock, ăn một hai hột vịt lộn, hay Bò Bía hết xẩy.

Ở Pháp thi uống một ly demi (đọc là đờ mi), tưởng là nửa lít, thật sự chỉ có ¼ lít thôi, vì có 25 centi litres. Uống demi thường ăn một cái trứng gà luộc. Trên quầy nào ở Pháp đều có một cái giỏ trứng gà luộc, và một cái phầu bán đậu phụng rang muối. Đậu phụng rang muối nhậu với La De cũng hết xảy. Có hai trường phái ăn đậu phụng rang muối, trường phái ăn cả vỏ, vỏ đây là cái vỏ trong, da màu đỏ đó. Và trường phái bóc vỏ. Với tôi cái nào cũng ngon cả. Tất cả cái vị ấy trộn với cái nhẫn cái đắng của La De đều ngon cả.

Cái nhứt của La De là chất tươi, (la fraîcheur). Chất tươi, chất mát, không phải là cái lạnh, Chất tươi là cái ta lựa chọn lúc ta thưởng thức. Nó có thề là tùy vào hàn thử biểu, ướp lạnh thế nào, để độ lạnh hạp vào khẩu vị của người uống, cũng tùy vào khí trời, nhiệt độ căn phòng ăn, quán uống. Tay Đầu Bếp nổi tiếng Ba Sao Michelin Alain P***ard của Nhà hàng Arpège, Paris giảng dạy: “Nhiệt độ của Bia khi bắt đầu uống rất quan trọng. Chúng ta nếu biết sử dụng nó đúng chúng ta có thể khai thác mọi khía cạnh khác nhau của Bia đối với những thức ăn khác nhau.”.

Một tay nghề có thể nói đến chất tươi của rượu đỏ hay trắng (vin) để nói đến cái chất thiên nhiên là đất nước nơi cây nho được trồng trọt (cũng như chất quê hương nơi con người) nói chất tươi của rượu là nói đến những vị của quê hương của những cây nho trồng trên ấy, nào là cát có chất đất sét không ? nào là sườn núi có đủ nắng không ? nào là có mùi mận, mùi táo không??? Khi ta nói miệt vườn, quê hương chùm khế ngọt, nó như vậy, uống ly rượu nho vùng Bordeaux ta uống cả quê hương bầu trời Bordeaux… La De cũng vậy.

Tại sao ta không quên 33 Viẹtnam, làm tại Sàigòn, vì trong 33 có chất gạo, khi biến thành rượu nó là đế. Bia ở Pháp nó xài bắp.

Bia nhiều vị tươi nhứt la bia mới (Bière primeur). La De mới khác với rượu Vin primeur là một bảo đảm vị tươi mát. Rươu đỏ cần thời gian để già, thêm tuổi, thêm tác cho chững chạc. La De cần cái tươi mát, vừa đủ tuổi là đẹp rồi. La De primeure hội đủ chất tươi mát, tất cả những vị thơm mát của đồng nội. Đừng lẫn lộn với Bia tháng Ba (Bière de Mars) – La De Tháng Ba, đã cất ủ cả mùa Đông không còn cây đồng cỏ nội nữa. Bière de Noël, Bia No-ên, La De Giáng Sanh là một loại La De mới, vừa đủ tuổi, sung sức, đầy đủ những hương vị của đời.

Ngoài cái tươi mát, để giải khát, La De còn có thể hạp khẩu theo các món ăn. Nếu rượu Vin đỏ hay trắng hay hường có thể có đến 6 000 chất vị khác nhau giúp đở chúng ta có muôn ngàn cách ráp đặt những cách thức thường thức món ăn và rượu. La De chỉ có phân nửa thôi. Ngày nay những tay lựa rượu nhà nghề ở những quán rượu và tiệm ăn (sommelier – đây là một cái nghề đặc biệt, những tiệm ăn lớn đều phải có nhửng tay nhà nghề nầy) đều biết phân tách những mùi vị trong La De như những mùi lúa chín, mùi đường nấu (caramel), mùi hoa quả từ mùi chuối đến mùi mận, táo và hoa đào… chưa kể những cam những quýt, và cả mùi cỏ cháy.

Bia Nâu với Chocolat, Bia Vàng với trái cây

Ôi thôi muôn hình vạn trạng. Bài nghiên cứu tác giả đi vào chi tiết những món ăn đi chung với tên loại La De, viết cho độc giả Việt nam mình sẽ bỡ ngỡ. Nhưng tôi cũng rán đưa một thí dụ, một món gỏi tôm thịt tươi mát, uống với một ngụm La De mát lạnh, vị đậm đà, rót cho sủi bọt vừa phải, loại Heineken chẳng hạn. Còn nếu quý vị uống một Bud nhạt nhẽo, hay một Miller quý vị sẽ thấy chán phèo. Quý vị ăn phở; nhạt và nóng, uống La De không hạp, uống nước trà nóng ngon hơn…. Nhưng nói như vậy cái quan trọng khi quý vị ăn và uống cố gắng tìm những hương vị ẩn trong những các vị bề ngoài. Vì La De và Rượu có nhiều vị Tây nên nhiều món ta không hạp. Nóng quá, cay quá, nước mắm quá… dưa chua chua quá…

Nhưng ngày nay La De bắt đầu chiếm một địa vị trên bàn ăn, không còn là ly giải khát của những buổi chiều vàng đứng bóng nóng nực của mùa hè nữa. Đặc biệt là nhửng bữa ăn trưa, vì nhẹ nhàng và ít đô rượu hơn rượu đỏ.

La De muôn màu muôn vẻ

L’orge (hobbs), lúa mạch để nấu bia phải được rang (torréfier) như rang hột cà phê vậy; và độ rang và thời gian rang sẽ tô màu cho La De.

– La De Vàng, hay Bia Vàng Bière Blonde. Màu Blonde, vàng ánh, trong vắt và bóng láng, Bia màu vàng là màu rất thường gặp ở nơi Bia. Nấu (br***ée) với lúa mạch vàng nhạt, Bia Vàng có mặt ở mọi nơi trên cùng thế giới và là thường thường là những thương hiệu cột trụ, với tất cả những nhãn thương hiệu lớn. Bia Vàng thường là bia giải khát, uống trưa chiều tối. Ít độ rượu, thơm mát, với một vị chát đắng nhẫn nhẹ nhàng. Heineken, 33 export, Carlsberg, Kronenbourg là một vài ví dụ.

Món Ăn hạp : khai vị chung chung, gỏi với tôm thịt, thịt gà, phó mát nhẹ lạt loại đầu bò.

– La De Vàng Sẩm, Bia màu thau đồng: Bière Ambrée – Amber. Màu thau đồng đậm, nấu với lúa mạch được rang lâu hơn bia Vàng. Cũng là một bia giải khát, vị đậm hơn Bia Vàng. Ngày nay không được chuộng lắm, chỉ được phổ biến ở các xứ anglô – saxons thôi.

Món Ăn hạp : Gan ngỗng, thịt rừng, cá hong khói, pho mát có rau cần tây (persil), tráng miệng có chất caramel. Nói tóm lại những món gọi là có “mùi”.

– La De Nâu, Bia Nâu : Bière Brune, lúa mạch được rang đến gần cháy. Bia có màu đi từ màu gạch cua đến đen tuyền. Vì vậy ta tìm trong bia những mùi rang cháy, mùi cà phê, mùi caramel, mùi cacao. Có những loại bia gọi là Vieilles Brunes, những Bà Già Nâu, được cất trong những thùng tô-nô bằng gỗ xưa. Mùi vị chua chua, đắng nhẫn đậm đà, vừa giải khát vừa để lại trong miệng một khẩu vị bất hủ. Thí dụ nỗi tiếng là Guiness.

Món Ăn hạp : những món Á đông có vị mạnh, sò huyết, ốc trai, cá sống, tráng miệng có chất Chocolat.

– La De Trắng : Bia Trắng Bière Blanche. Bia trắng không nấu với toàn lúa mạch, thường được thêm lúa mì để làm trắng bia. Rất thơm vì có bỏ thêm ngò gai – Coriandre, và vỏ trái cây.

Món Ăn hạp : đồ biển, cá hong khói hay cá nướng. Trái cây.

Thử Nấu Bia

Để nấu một lít bia, ta cần :

Nước (95 %), 20 gr lúa mạch, 1gr hoa houblon (một chiếc hoa thôi) và bột nổi (levure).

1/ Làm Mạch : Hãy ngâm lúa mạch (orge – hobbs) trong ba ngày. Xong nấu xào (br***er) trong nước nóng. Lấy lúa ra và để lúa lên mầm trong vòng 8 ngày. Những mầm ấy mới cho ta nhửng chất enzymes, biến thành Mạch (Ta tạm gọi là Mạch Nha).

Các tay nâu bia (Br***eurs) ít khi làm giai đoạn nầy. Ở Việtnam trước có làm. Ngày nay các nhà nấu bia (Br***eries) mua Mạch Nha thẳng với các nhà bán Mạch Nha (Malteries). Các bạn muốn nấu bia nên mua thẳng Mạch để khỏi mất công, vì giai đoạn lên mầm rất khó.

2/ Nấu xào : Nghiền Mạch và trộn với nước gọi là br***in, vì phải khuấy đều không cho lóng xuống. Đun nóng lên để chất amidon trong mạch biến thành đường nhờ những enzymes. Lọc kỹ. Đó là bả rượu (moût).

3/ Bỏ Hoa Houblon : Sau khi đun sôi Bả vào khoản nửa giờ, bỏ hoa houblon vào.

4/ Cất : Cất là để cho lên men (fermentation). Để nguôi, và bỏ bột nổi vào. Đường sẽ biến thành Rượu. Để lóng xuống 8 ngày. Nếu bia của quý vị lên men trong một nhiệt độ thấp thì bia ấy ít mùi thơm hơn khi lên men ở nhiệt độ cao hơn. Giữ tất cả trong nhiệt độ lạnh trong vài tuần lễ để tạo cái vị.

5/ Vào chai : Lọc bia cho vào chai để vứt bỏ chất men.

6/ Nếm thử : Đừng bao giờ quên, nếm thử sau mỗi quá trình, giống như anh nấu bia chuyên nghiệp (Maître Br***eur).


st.

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22000
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/May/2019 lúc 7:26am

Hương Vị Nước Tương “MAGGI” Của Pháp


Chắc ai cũng đã từng nếm qua hương vị ngon này rồi, các sản phẩm nước tương Maggi đã được người Pháp đưa vào Sài Gòn từ năm 1935, người tiêu dùng nước ta từ lâu đã biết đến cụm từ Magi, hay Maggi, như một loại nước chấm màu nâu đen thường làm từ những nguyên liệu có chứa nhiều chất đạm. Maggi đã dần chinh phục người Sài Gòn nhờ hương vị thơm ngon, cung cấp nguồn bổ dưỡng chất đạm quan trọng và đến nay đã được phát triển thành nhiều loại như: Nước tương, dầu hào, hạt nêm, sốt kho...

Ông Maggi là ai?
Ông Julius Maggi (tên đầy đủ Julius Michael Johannes Maggi), sinh ngày 9/10/1846 tại thị trấn Frauenfeld, Thụy Sĩ.

Cha ông là Michael Maggi, người di dân gốc Italy, chủ một xưởng xay xát nhỏ, cậu con trai út Julius Maggi luôn nổi tiếng nghịch ngợm, quậy phá nên phải chuyển trường liên miên, gia đình thường xuyên bị Giáo viên “mắng vốn”.

Ngay từ nhỏ ông đã không thích bị gò bó trong khuôn khổ trường học, mà chỉ thích tìm tòi sáng tạo, và thử nghiệm những ý tưởng mới lạ của mình. Không chỉ vậy, Julius Maggi còn khá lém lỉnh và nhanh nhẹn trong mua bán. Học hết lớp 10, Julius Maggi vào học Trường dạy nghề Thương mại tại thành phố Basel, nhưng cũng bỏ dở giữa chừng vì thích đi làm hơn, và chuyển sang làm công nhân cho một nhà máy xay xát lớn. Được thỏa thích làm việc theo sở thích, cộng với sự nhanh nhẹn, sáng tạo, chăm chỉ học hỏi, chỉ sau hai năm Julius Maggi đã trở thành cánh tay phải đắc lực của ông chủ.

Khi Công ty mở một nhà máy mới tại Budapest (Hungary), ông được tin cậy giao làm Phó Giám đốc của nhà máy xay xát này.

Đến năm 1869, người cha giao Julius Maggi quản lý hoàn toàn xưởng xay xát của gia đình, từ trực tiếp kinh doanh, ông trở thành chủ Công ty gia đình Maggi khi mới 23 tuổi, và sớm thành công với nghề kinh doanh của mình.

Cơ sở xay xát và chế biến thực phẩm của gia đình Maggi tiếp tục lớn mạnh và phát triển.

Năm 1872, Julius Maggi mở rộng kinh doanh bằng việc mua lại một nhà máy xay xát ở Zurich.

Cơ duyên khiến Julius Maggi từ xay xát chuyển sang lĩnh vực gia vị khá tình cờ. Khi biết nguồn tin đời sống của người công nhân ở các nhà máy công nghiệp tại Thụy Sĩ quá cực khổ, không thể bảo đảm sức khỏe do bữa ăn có phẩm chất rất thấp, thức ăn không đủ chất bổ, và nguội lạnh khi đến bữa, ông quyết tâm phải cải thiện bữa ăn cho công nhân.

Giữa thế kỷ 19, việc nấu nướng căn bản vẫn dùng củi nên rất bất tiện cho công nhân phải nấu ăn buổi trưa, vì quãng thời gian nghỉ trưa của họ rất ngắn. Vì vậy yêu cầu đặt ra là phải tạo được một sản phẩm có tính tiện lợi cao, ít tốn thời gian chế biến, dễ nấu nướng nhưng vẫn bảo đảm có đủ chất dinh dưỡng và rẻ tiền.

Julius Maggi đưa ra giải pháp chế một loại súp đã nấu sẵn, chỉ cần cho vào nước sôi là có ngay một bát súp nóng hổi, sau hơn hai năm, Julius Maggi đã nghiên cứu thành công món súp Maggi đặc biệt.

Chỉ từ các sản phẩm thực vật như: Hạt đậu tương, đậu Hà Lan, Julius Maggi đã chiết ra những chất cần thiết cho viên súp Maggie. Không chỉ chứa lượng protein khá cao, mà súp Maggi còn rất thơm ngon với hương vị hấp dẫn không kém gì các loại súp thịt bào chế từ gia súc.

Súp Maggi nấu sẵn cung cấp cho hàng nghìn công nhân và gia đình họ những bữa ăn sáng và ăn trưa phụ trội đơn giản và rẻ tiền, nhưng rất ngon miệng với một bát súp nóng và những lát bánh mì kèm theo.

Không dừng lại ở thành công của món súp, từ góp ý tích cực của những bà nội trợ, Julius Maggi đã nghĩ ngay đến việc tiếp tục cho ra đời những sản phẩm mới. Ông tìm cách chế biến loại nước chấm mang hương vị Maggi vốn đã quen thuộc với nhiều người, một gia vị đa năng mà gần như món gì người ta cũng cần có nó. Cuối năm 1886 thương hiệu nước chấm Maggi ra đời và từ đó phát triển ra toàn thế giới.

Ngay sau khi chế tạo thành công ở quê hương, Julius Maggi đã mạnh bạo tung các sản phẩm Maggi của mình sang các nước châu Âu láng giềng khác.

Năm 1887, lần đầu tiên Công ty thâm nhập thị trường ngoại quốc bằng việc mở một chi nhánh ở thị trấn Singen của Đức, gần biên giới Thụy Sĩ.

Tại đây, ông thuê một gian nhà kho nhỏ của một tiệm ăn gần nhà ga xe lửa. Hàng ngày, 7 phụ nữ được ông thuê chỉ để san nước chấm Maggi từ những thùng 25–50 lít sang các chai nhỏ để bán lẻ. Mô hình tiêu thụ này rất thành công, và ông tiếp tục khuyếch trương hàng loạt cơ sở khác ở Italy, Pháp, Đức, Áo, và Hà Lan...

Điều giúp cho Maggi nhanh chóng tạo được vị thế trên các thị trường mới là nước chấm này hợp khẩu vị với nhiều gu ăn uống, cho dù mỗi dân tộc hay địa phương đều có truyền thống ẩm thực rất khác nhau.

Maggi không làm thay đổi vị đặc thù của mỗi món ăn, mà chỉ làm tăng vị đậm đà, trở thành một gia vị không thể thiếu của mỗi bà nội trợ trong gia đình, đã hơn 100 năm trôi qua, nhưng nước chấm Maggi vẫn mang một hương vị rất đặc trưng, và không hề thay đổi. Được chế biến từ những thành phần quen thuộc như: Đỗ tương, đậu Hà Lan, và có thêm một số chất lấy từ lúa mì và muối, nhưng công thức chế biến mới là chìa khóa cốt lõi để cho ra hương vị đậm đà, riêng biệt. Công thức của nước chấm màu nâu đậm đà và rất đặc biệt này được Công ty bảo vệ tuyệt mật không kém gì công thức sản xuất nước giải khát Coca Cola đâu!

Với tầm nhìn xa, ngay từ đầu ông chủ Maggi đã rất chú trọng đến vấn đề quảng cáo thương hiệu.

Nhiều slogan đặc biệt và hấp dẫn về Maggi do chính Julius Maggi trực tiếp nghĩ ra. Hình dáng của các chai đựng nước tương Maggi ngày nay vẫn không có gì khác kiểu chai mà ông chủ Maggi đã thiết kế cách đây gần 100 năm, và không hề bị lạc hậu.

Bản thân nhãn hiệu của Maggi với hai tông màu vàng-đỏ cũng là nhãn hiệu được thiết kế và lưu hành từ năm 1887 đến nay, trong chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà máy sản xuất của Maggi bị tàn phá nặng nề. Vì thế, từ năm 1947, khi vừa đúng 50 tuổi, Công ty Maggi do Julius Maggi sáng lập đã được sáp nhập với Tập đoàn Nestlé, tập đoàn thực phẩm Thụy Sĩ hàng đầu trên thế giới.

Thương hiệu Maggi với toàn bộ các sản phẩm nổi tiếng của mình vẫn được giữ lại, duy trì và tiếp tục phát triển đến ngày nay.

Hiện tại Maggi có trên 300 sản phẩm khác nhau, doanh số đạt hơn 800 triệu sản phẩm trên toàn cầu.

Khuyết Danh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22000
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/May/2019 lúc 9:18am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22000
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/May/2019 lúc 8:51am
BÚN SUÔNG


Image%20result%20for%20bun%20suong

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 95 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.258 seconds.