Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Âm nhạc
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Âm nhạc
Message Icon Chủ đề: Thơ - Nhạc tháng tư buồn ! Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 14
Người gởi Nội dung
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 02/May/2015 lúc 5:06pm

Một Lần Nào Cho Tôi Gặp Lại Em


30 Tháng 4 Đen - 40 Năm QUỐC HẬN 1975-2015


...Để chia sẻ nỗi buồn với những người “tù cải tạo” còn sống sót trở vể... nhưng đã không thể gặp lại người phụ nữ thân thương của mình trong suốt cuộc đời còn lại này...

 

mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 02/May/2015 lúc 7:35pm


Hàng năm, mỗi độ THÁNG TƯ BUỒN về , MyKieu lại nhớ đến Người Bạn Đồng Hương HOA HẠ với bút ký "TÌNH KHÚC KINH KHA", bài bút ký đã làm người đọc rơi lệ theo từng chữ...từng dòng tâm tình của tác giả !

Kính mời bà con GoCong mình và Thân Hữu cùng đọc lại và xin dành một phút mặc niệm cho Người Lính VNCH, Cố Đại Uý NGUYỄN THÀNH ĐÔNG  và cho mối tình tuyệt đẹp thời chinh chiến của  HẠ - ĐÔNG



Tình Khúc Kinh Kha
 1 2 3 4 5 6 7


mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 08/May/2015 lúc 1:40pm


Bốn Mươi Năm, Kể Lại

29/04/201500:00:00

Khôi An



Tác giả từng phải rời bố mẹ để vượt biển từ tuổi học trò, đến Mỹ năm 1984, hiện là một kỹ sư điện tử, cư dân San Jose. Với nhiều bài viết giá trị, Khôi An đã nhận Giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2013. và là một trong những tác giả đạt số lượng người đọc nhiều nhất trên Việt Báo online. Bài mới của Khôi An là chuyện kể về một nhóm sinh viên VNCH du học tại Hoa Kỳ vào thời điểm tháng Tư 1975.

o O o

Trăng sao tin yêu ai dối trá, đất trời hiền hòa ai đốt phá
và đem thê lương che kín
núi sông này.*


Họ gánh đồ đạc trên vai, cõng em bé trên lưng. Băng qua xác người nằm ngổn ngang. Sau lưng họ, lửa cháy ngút trời. Khói đen cuồn cuộn. Già, trẻ, lớn, nhỏ dắt díu nhau. Súng nổ, người thét. Hoảng loạn. Họ chạy về phía chúng tôi. Càng lúc càng gần…

Chớp một cái, những hình ảnh kinh hoàng biến mất. Màn hình sáng lên với những màu sắc tươi đẹp. Mục tin Việt Nam đã chấm dứt nhưng chúng tôi vẫn ngồi lặng, nhìn trân trân vào cái TiVi.

Cả phút sau mới có người cất tiếng “Vậy là mất thêm mấy tỉnh nữa rồi!”



Đó là một ngày tháng Ba năm 1975. Chung quanh tôi, trên sàn căn apartment, mười mấy người ngồi quanh cái TiVi nhỏ (đó là cái TiVi màu duy nhất trong đám chúng tôi). Đây là khoảng một phần ba sinh viên Việt Nam ở Houston, Texas. Vào lúc đó, cả Houston có khoảng sáu mươi người Việt gồm khoảng bốn mươi sinh viên và đâu đó hai mươi phụ nữ Việt sang Mỹ theo chồng. Đám sinh viên rải từ năm thứ nhất tới cao học và chỉ vỏn vẹn có hai cô. Phần đông chúng tôi thuê nhà ở Cougar Apartments nằm sát cạnh Univerisity of Houston. Khu chung cư cũ kỹ nhưng vừa túi tiền là nơi quen thuộc và ấm áp cho đám thanh niên Việt mới lớn nương tựa nhau trên xứ lạ. Chúng tôi chia sẻ từ gói mì tới chiếc xe hơi, từ kiến thức trong sách vở tới cái khôn học ở trường đời. Một năm vài lần, chúng tôi họp mặt ăn uống, ca hát, trao đổi tin tức quê nhà, và bàn luận những diễn biến của chiến tranh Việt Nam.

o O o


blank
Tờ lịch cũ.

Việt Nam War là cuộc chiến đầu tiên mà truyền thông Mỹ được tự do đưa tin, không hề có chút kiểm duyệt. Từng được gọi là “cuộc chiến trong phòng khách”, hình ảnh cuộc chiến đến với người dân Mỹ qua TiVi đặt tại phòng khách ở mỗi nhà.

Vào những năm 1968-1970, sau gần mười năm Mỹ tham chiến tại Việt Nam và trận đụng độ Tết Mậu Thân 1968, người dân Mỹ đã nhận ra rằng chiến thắng tại Việt Nam không phải là chuyện gần kề. Thái độ của họ đã đổi từ tin tưởng, ủng hộ, sang mệt mỏi, tức giận. Cái thảm khốc của chiến tranh được sự trợ giúp vô tình nhưng thật tai hại của kỹ thuật mới, đó là TiVi màu. Mỗi đêm người dân Mỹ bàng hoàng trước những hình ảnh máu đổ, người chết, dân lành tán loạn, bom đạn ngút trời. Hình ảnh quá thật nhưng lời giải thích không nói rõ sự tàn ác, tham vọng của Cộng Sản Bắc Việt. Hơn nữa, đối với họ, mạng sống của những thanh niên Mỹ quan trọng hơn chuyện ngăn chặn làn sóng Cộng Sản đang lan ra ở châu Á xa xôi.

Bắt đầu từ những cuộc biểu tình của sinh viên trong trường học, phong trào phản chiến lan rộng, tăng cùng chiều với con số lính Mỹ chết trận ở Việt Nam. Mọi người bị cuốn hút vào làn sóng chống đối, từ những chính trị gia ở Quốc Hội cho tới các bà nội trợ và đám thanh niên Hippy dùng phản chiến như một phương cách hợp thời để tụ tập, bày tỏ sự nổi loạn. TiVi thường xuyên phát những lời gọi cuộc chiến là “bế tắc”, và thúc giục Mỹ rút quân.

Nhưng cuối năm 1973, khi tôi đến Mỹ, thì phong trào phản chiến đã tàn. Sau hiệp định Paris ngày 27 tháng 1, 1973, hầu hết lính Mỹ đã rút khỏi Việt Nam. Dù Mỹ vẫn viện trợ cho Việt Nam nhưng người dân Mỹ đã trở thành thờ ơ. Đối với họ, sự chấm dứt hoàn toàn mọi can dự của Hoa Kỳ chỉ còn là vấn đề thời gian.

Tuy vậy, đám sinh viên Việt Nam chúng tôi còn quá trẻ và ngây thơ. Xã hội Mỹ đối với chúng tôi vẫn còn quá xa lạ nên chúng tôi không dám quyết đoán những suy nghĩ của người bản xứ qua thái độ của họ. Hơn nữa, chúng tôi luôn nghĩ rằng Mỹ sẽ không bỏ một đồng minh nằm ở vị trí chiến lược quan trọng như Việt Nam Cộng Hòa. Và trên tất cả, chúng tôi luôn mong muốn Việt Nam Cộng Hòa được tồn tại, niềm tin đó lấn át sự sáng suốt thường có, tựa như khi có người thân bị bệnh hiểm nghèo người ta không tin cái chết gần kề.

Chúng tôi tin tưởng rằng Mỹ sẽ giúp cho miền Nam chống trả nếu miền Bắc không giữ cam kết ngừng bắn. Ngay cả sau khi tổng thống Richard Nixon – người ủng hộ chiến tranh Việt Nam - bị truất chức trong vụ nghe lén Watergate, ngay cả sau khi Mỹ cắt viện trợ vào tháng Tám, 1974, chúng tôi vẫn tiếp tục hy vọng.


blank
Và trang nhất báo The New York Times ngày 30 tháng 4, 1975.



Đầu năm 1975, tình hình ở Việt Nam bất ngờ trở nên sôi động, gieo vào lòng chúng tôi thật nhiều hoang mang, lo lắng.

Đám sinh viên người Việt tìm đến nhau thường xuyên hơn. Chúng tôi ngồi bên nhau, khắc khoải theo dõi những hình ảnh khốc liệt từ quê hương rách nát và những cuộc bàn cãi ở Washington, DC. Dù không thể xóa được buồn lo, nhưng bên nhau chúng tôi thấy bớt cô đơn. Trong những căn phòng nhỏ, chúng tôi ngồi kề vai nhau, lặng lẽ chia sẻ chút an ủi, và bất lực nhìn từ xa thấy quê nhà vật vã như chiếc xuồng nhỏ trong cơn sóng dữ.

Ngay từ tháng Một, 1975, khi thấy Cộng Sản chiếm Phước Long mà chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không có một kế hoạch nào để lấy lại, chúng tôi đã cảm thấy có điều khác thường. Đến tháng Hai, tin tức lại ồn ào về việc chính phủ Việt Nam xin viện trợ thêm ba trăm triệu đô la để giữ miền Nam. Đây là số tiền nhỏ so với một trăm năm mươi tỷ mà Mỹ đã chi ra cho chiến tranh Việt Nam nhưng lần này Hạ Viện Hoa Kỳ tranh cãi kịch liệt. Lúc đầu chúng tôi thấy rất lạ nhưng sau đó đã hiểu rằng Mỹ không còn muốn tiếp tục chi ra, dù chỉ một đô la.

Mỗi đêm chúng tôi tụ tập quanh màn ảnh TiVi, nóng ruột theo dõi tất cả các mục tin về Việt Nam. Từ Walter Cronkite của CBS tới Harry Reasoner của ABC News, chúng tôi dán mắt nhìn, lắng tai nghe từng lời tường trình của họ.

Tháng Ba, 1975. Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng liên tiếp mất. Dân chúng hoảng hốt tháo chạy. Xác người nằm la liệt trên các Quốc Lộ. Ông lão gánh cháu băng qua lửa đạn, những thanh niên đeo trên xe đò bị trúng đạn rớt như sung rụng, người mẹ vừa khóc vừa ném đứa con bị thương lên sàn máy bay trực thăng xin mang đi cấp cứu… Những cảnh quê hương đau khổ làm chúng tôi nát lòng nhưng nỗi lo lắng cho vận mệnh nước nhà mới thật là thắt ruột, thắt gan.

Không thấy có tin nào về một trận đánh trả quy mô để lấy lại đất như năm 1972. TiVi chiếu đa số là hình ảnh những người lính, đa số còn trẻ (làm chúng tôi nhớ tới những người bạn cũ thời Trung học) trong những trận đánh ngắn ngủi hay đang trên đường rút. Chúng tôi bàn tán rằng có lẽ chính quyền Việt Nam muốn áp lực Mỹ để họ phải cứu Việt Nam Cộng Hòa đang trên bờ xụp đổ hoàn toàn. Nhưng, nhìn thái độ của chính phủ, người dân, và truyền thông Mỹ trong lúc đó chúng tôi biết Mỹ đã nhất quyết phủi tay. Nếu chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cố tình bỏ đất thì chỉ làm cho nước mất càng nhanh. Càng nghĩ chúng tôi càng quay quắt vì những gì đang xảy ra tại quê nhà.

Khi những tỉnh ở miền Nam Trung phần như Nha Trang mất thì chúng tôi bắt đầu tuyệt vọng. Mọi người cuống cuồng tìm cách cứu gia đình. Đám sinh viên truyền tai nhau rằng nếu ai tìm được người Mỹ đồng ý làm Affidavit of Support (Giấy Bảo Trợ Tài Chánh) rồi nộp cho cơ quan di trú ở Mỹ thì khi di tản người khỏi Việt Nam, chính phủ Mỹ sẽ ưu tiên đem theo những gia đình đó.

Tôi vội liên lạc với anh bạn thân người Mỹ duy nhất, khẩn khoản xin giúp đỡ. May mắn cha mẹ anh ta đã mau mắn đồng ý đỡ đầu cho gia đình chín người của tôi. Thế là tôi vội lái chiếc xe cà khổ vượt mấy trăm dặm đến nhà người bạn làm giấy. Trên quãng đường dài, tôi nhớ đến buổi chia tay lên đường du học mới một năm rưỡi trước. Ngày đó, tôi hứa với gia đình cùng người thầy và những bạn thân thiết nhất rằng sẽ học ra trường rồi trở về giúp quê hương. Lời hứa đó còn rành rành trong đầu tôi mà quê hương thì đang vùn vụt mất, từng ngày. Niềm an ủi duy nhất là tôi có được tấm giấy bảo trợ như chiếc phao cho tôi hy vọng gặp lại gia đình.

Tháng Tư, 1975. Có tin tức về sự chống trả của quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

Ngày 8 tháng 4, 1975 quân Việt Cộng tiến đến Xuân Lộc, cách Sài gòn chỉ sáu mươi kilo mét. Thiếu tướng Lê Minh Đảo (lúc đó còn là Chuẩn tướng) chỉ huy một lực lượng kết hợp gồm Sư Đoàn 18 Bộ Binh, một Tiểu Đoàn Pháo Binh, Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh kết hợp với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân Tiểu Khu Long Khánh và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long. Với sự yểm trợ của Sư Đoàn 4 Không Quân, họ đã chặn đứng quân địch tại Xuân Lộc.


Xuân Lộc đứng vững suốt năm ngày trước lực lượng địch đông gấp ba, gấp năm lần. Sau đó, Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh đem Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đến tăng viện và bốn tiểu đoàn trực thăng vận cũng đến để cùng chiến đấu.

Tinh thần sắt đá của các lực lượng ở Xuân Lộc đã thu hút được sự chú ý của giới truyền thông quốc tế.

Giữa tháng 4, một phái đoàn gồm những nhân viên gan dạ của các đài truyền hình, báo chí đã đến thăm Xuân Lộc.


Họ thu vào ống kính cảnh chiến trường nghi ngút khói, xác chết ngổn ngang. Họ truyền đi khắp thế giới hình ảnh các tướng, tá cùng binh lính sát vai nhau, chung lòng quyết chiến.


Tướng Lê Minh Đảo dõng dạc tuyên bố “I dont care how many divisions the other side sends against us, we will knock them down.”

(“Tôi không cần biết đối phương gởi mấy sư đoàn tới đây, chúng tôi sẽ đánh gục họ”)

Lời nói của ông và tinh thần Xuân Lộc đã làm nhen nhúm trong chúng tôi chút hy vọng. Như người sắp chết đuối gặp được cái phao nhỏ, chúng tôi bám vào, dù phao rất mong manh. Chúng tôi mong sự dũng mãnh của các chiến sĩ Xuân Lộc - đã đạp đổ những tuyên truyền sai lạc về tinh thần chiến đấu của quân đội miền Nam - sẽ đánh thức lương tâm của đồng minh Mỹ. Chúng tôi ước có một phép lạ, một sự giúp đỡ vào giờ chót để miền Nam lật ngược thế cờ.

Nhưng lúc đó Bắc quân đã tràn ngập miền Nam. Chiếm không được Xuân Lộc, chúng đi vòng Quốc Lộ 15 về chiếm Biên Hòa, Dầu Giây ở phía Tây. Chúng cũng làm chủ được Phan Thiết, khép chặt gọng kìm từ phía Đông. Lực lượng Nam quân ít ỏi đang trụ ở Xuân Lộc phải phân tán ra để chống đỡ khắp nơi. Ngày 15 tháng 4, Cộng quân dội pháo xuống phi trường Biên Hòa, cắt đứt đường máy bay thả bom yểm trợ. Sau đó, chúng lại ném thêm mấy sư đoàn vào trận và bao trùm Xuân Lộc bằng mưa pháo. Chúng tôi xót xa những chiến sĩ miền Nam đang bị bao vây trong biển người và biển đạn của quân địch. Và đau đớn hơn nữa khi thấy rằng đã quá trễ để quân đội Việt Nam Cộng Hòa xoay chuyển tình thế.

Đêm 20 tháng 4, 1975, lực lượng ở Xuân Lộc buộc phải rút về một trận tuyến gần Sài gòn.

Xuân Lộc mất. Những tỉnh quanh Sài gòn bị nhuốm đỏ nhanh như máu loang trên vải mỏng.

Chúng tôi chuyển sang trạng thái bấn loạn. Có người liều giả danh Bộ Ngoại Giao Mỹ đánh điện tín về tòa Đại Sứ Mỹ nhờ di tản gia đình.

Lại có tin từ Việt Nam là những người trong tuổi đi lính sẽ bị chặn lại khi ra phi trường, rồi tin tức về Hạm Đội Bảy của Mỹ vẫn còn đang ở ngoài khơi Việt Nam. Vì gia đình tôi có hai ông anh, sợ không được vào phi trường, nên tôi nghĩ cách tốt nhất là chạy thoát bằng đường biển.

Cả ngày lẫn đêm, tôi quay số điện thoại để nói chuyện với người thân nhưng đường dây luôn luôn bận. Cuối cùng tôi phải ra ghi tên với tổng đài để chờ.

Ngày 21 tháng 4, 1975, tới phiên tôi nói chuyện với Việt Nam. Đầu dây bên kia là Bố Mẹ tôi. Tôi nói không còn hy vọng gì nữa, Bố Mẹ đưa gia đình ra Vũng Tàu kiếm đường chạy ra tàu Mỹ đang neo ngoài khơi. Tiền gọi điện thoại rất mắc và tình trạng khẩn cấp nên chẳng nói được nhiều. Gác máy rồi, tôi đứng thẫn thờ một lúc. Nhưng, lúc đó, tôi không hề biết rằng đó là lần cuối cùng trong đời tôi nói chuyện với Bố tôi.

Ngày 23 tháng 4, 1975 Tổng Thống Gerald Ford tuyên bố “The war is finished as far as America is concerned” (“Cuộc chiến đã chấm dứt đối với Hoa Kỳ”). Rồi ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger bồi thêm “the war is history” (“cuộc chiến chỉ còn là lịch sử”). Dù đã biết Mỹ bỏ Việt Nam, chúng tôi vẫn thấy cay đắng trước những lời tuyên bố đó, nhất là sự đổi mặt trắng trợn của Kissinger. Chúng tôi, những người thanh niên trong lứa tuổi hai mươi đầy lý tưởng đã thấm thía vô cùng với bài học chính trị thực tế đầu tiên: chính phủ nào cũng có thể nuốt lời để đặt quyền lợi của nước họ và tương lai của họ lên trên tất cả.

Số phận miền Nam Việt Nam đã xong, Mỹ quay qua bàn về việc di tản nhân viên Mỹ và những người Việt đã từng sát cánh làm việc với họ. Các chính khách lại xôn xao tranh cãi. Di tản cách nào, bao nhiêu người, lịch trình ra sao… Thay đổi từng ngày. Mới hôm trước tin tức nói là hai trăm ngàn người sẽ được di tản, hôm sau chỉ còn lại một trăm ngàn...

Ngoài sự sợ hãi cho gia đình, chúng tôi cũng lo lắng cho bao người thân quen, cho tất cả quân nhân, công chức và những người làm việc với Hoa Kỳ. Việt Cộng chiếm được Huế chỉ có hai mươi sáu ngày trong dịp Tết Mậu Thân 1968 mà hơn bốn ngàn người bị giết, vậy thì sau khi chiếm trọn miền Nam cuộc trả thù lâu dài của họ sẽ dã man tới chừng nào?

Khoảng 24 tháng 4, ký giả của tờ Houston Chronicle, một trong hai tờ báo lớn nhất ở Houston, tìm đến phỏng vấn sinh viên người Việt. Tuy nhiên, nhiều người sợ liên lụy tới gia đình ở trong nước nên từ chối nói chuyện (có người còn bảo là đừng làm chuyện dại dột!). Thấy vậy, tôi và người bạn thân ở cùng phòng, dù không ở trong ban đại diện, đã tình nguyện gặp gỡ nhà báo. Bằng tất cả khả năng, chúng tôi đã kêu cứu, đã nhờ họ lên tiếng kêu gọi chính phủ Mỹ giúp đỡ quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa và tăng số người được di tản. Hôm sau, trang nhất của Houston Chronicle đã đăng tin về buổi nói chuyện này. Đó là một bài báo dài nói về hoàn cảnh, tâm trạng, và lời khẩn cầu của những người trẻ Việt Nam Cộng Hòa nhìn về đất nước đang hấp hối.

(Mãi đến mấy mươi năm sau, khi tóc đã bạc, tôi mới biết khá đủ các dữ kiện về cuộc di tản năm xưa. Lúc đó, tôi mới thấy được sự thiếu tổ chức của Mỹ trong những ngày cuối ở Việt Nam. Trong khoảng hỗn loạn đó, lời kêu gọi của chúng tôi chắc đã biến mất như hòn đá ném xuống vực thẳm. Chỉ còn lại một an ủi nhỏ nhoi là chúng tôi đã cố gắng hết sức mình.)

Gần cuối tháng Tư, loáng thoáng có tin rằng một số người Việt đã đến trại tị nạn ở đảo Guam, nhưng hầu hết chúng tôi vẫn không có tin tức gì của gia đình.

Chúng tôi không còn tâm trạng nào để học hành. Cả ngày mọi người đọc báo rồi bàn bạc với nhau, chờ đến 5 giờ chiều để theo dõi tin tức trên TiVi cho đến tối.

Ngày 28 tháng 4, truyền hình Mỹ chiếu hình dân chúng chen lấn trước tòa Đại Sứ Mỹ, rồi hình hàng trăm người nối đuôi nhau chờ lên chiếc trực thăng nhỏ xíu. Cả Sài gòn hoảng hốt, tan hoang. Có tin rằng Đại sứ Graham Martin quyết định ở lại để trông coi cuộc di tản đến giờ phút chót.

Ngày 29 tháng 4, ông Martin rời Sài gòn.

Thế là hết!

Chúng tôi ngồi lặng, nhìn sự tan nát của lòng mình trong mắt nhau.

Ngày 30 Tháng 4, 1975.

Tin buổi chiều ngày 30 tháng 4, 1975: truyền hình Mỹ chiếu cảnh Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng. Rồi chiếc xe tăng của Cộng quân húc đổ cánh cổng, tiến vào Dinh Độc Lập.

Bản tin vừa dứt, hàng chục cánh cửa dọc hành lang của Cougar Apartments bật mở. Tất cả sinh viên Việt Nam túa ra, nhìn nhau. Mặt trời chiếu vàng hoe trên những khuôn mặt sững sờ. Cảnh vật ở ngay trước mặt tôi mà như xa xôi, như không thật, như đang trong một cơn ác mộng. Một cái gì rất to lớn, rất quý báu vừa đổ nát, tan hoang. Vài người bật khóc.

Chúng tôi ngồi lại bên nhau như trong cơn mộng du. Sự xụp đổ của cả miền Nam quá thảng thốt, quá oan ức, quá vô lý. Đầu óc chúng tôi vừa tê dại vừa rất tỉnh táo để thấy rõ lòng mình hụt hẫng.

Một số nhỏ trong đám chúng tôi du học theo diện Học Bổng Quốc Gia, mỗi tháng được khoảng một trăm năm mươi đô la, vừa đủ sống một cách tằn tiện. Còn lại là sinh viên tự túc, một số được gia đình gởi tiền ăn học, một số đi làm tự nuôi thân. Nhưng, đối với tất cả, gia đình đều là chỗ dựa tinh thần và nguồn khích lệ, đất nước vẫn là nơi hướng về của mọi hoài bão. Nay chúng tôi trở thành những người vô tổ quốc, chơ vơ không chằng, không rễ. Tuy không ai nói ra, chúng tôi đều sợ hãi rằng mình sẽ không gặp lại người thân, mãi mãi.

*

Tôi ngủ vùi cả tuần lễ sau đó. Mỗi ngày chỉ thức dậy vài tiếng, lê bước ra nhìn hộp thư (vẫn còn nuôi hy vọng nhận tin tức gia đình từ một căn cứ quân sự Mỹ nào đó), ăn một gói mì, uống vài ngụm cà phê, hút một điếu thuốc rồi lại đi ngủ. Dường như đó là cách cơ thể tôi tự bảo vệ trước sự đứt đoạn, chia lìa quá bất ngờ.

Trong những cơn ngủ li bì, tôi thấy mình rượt theo một cái gì rất quý đang vùn vụt xa. Tôi chạy hụt hơi. Tim tôi thót lại, chới với, hãi hùng.

Một buổi chiều, tôi tỉnh dậy. Ánh nắng sắp tàn chiếu qua khe cửa, tiếng người lao xao như vọng lại từ một đời sống khác. Tôi với tay tìm ly cà phê, nốc một ngụm. Thấy có gì là lạ, vội nhả ra. Đó là một con gián.

Cái giật mình vì con gián đã kéo tôi ra khỏi những giấc ngủ trầm cảm.

Tôi nhớ ra rằng mình phải đứng lên. Vì tôi là nhịp nối duy nhất giữa thế giới tự do với gia đình sau bức màn sắt vừa xập xuống.

Sau đó, tôi được tin tức của hai người cậu và bà ngoại từ trại Ford Chaffee, Arkansas. Khi nghe tin đó, tôi càng tiếc nuối vì gia đình tôi không được may mắn đi cùng, nhưng dù sao có người thân cũng làm tôi được chút an ủi.

Điều an ủi thứ hai đến từ sự giúp đỡ của chính phủ Mỹ. Tất cả sinh viên du học đều được thẻ I-94 với status là parolee. Như vậy chúng tôi trở thành người thường trú, được phép đi làm, không phải làm “chui” ở mức lương rẻ mạt như trước. Không còn phải quanh quẩn với chân rửa chén hay chạy bàn, hầu hết chúng tôi xin được việc khá hơn.

Tôi tìm được việc làm ở nhà máy, trông coi sự vận hành của guồng máy di chuyển gạo. Việc làm không nặng nhọc nhưng khá nguy hiểm vì chỉ có một mình trong ca đêm với những vựa gạo khổng lồ, cao mấy chục mét. Gạo đổ vào vựa như suối chảy, sơ ý mà té xuống, trong thoáng chốc là bị chôn trong gạo.

Mỗi đêm trong nhà máy mênh mông, im lặng, tôi bùi ngùi nhớ đến những ngày tươi đẹp ở quê nhà. Thời đó tôi đi giữa Sài gòn, lòng hăng hái với bao hoài bão cho đất nước. Năm 1973, khi mới sang Mỹ, điều làm tôi chú ý nhất là phụ nữ ở đây sung sướng và được quý trọng biết bao. Những điều thấy được đã làm tôi nghĩ tới thân phận phụ nữ Việt Nam, chịu đau khổ trong hầu hết chiều dài của lịch sử nước mình. Hình ảnh những người mẹ lăn lộn khóc bên hố chôn tập thể, những góa phụ còn trẻ như nữ sinh, những cô bé cõng em chạy loạn… Tôi bùi ngùi, thấy gần như có lỗi với họ. Tôi đã nuôi ước mơ học hỏi kiến thức chính trị để tìm giải pháp quốc tế cấm miền Bắc tấn công miền Nam. Tôi đã gom góp kiến thức khoa học cùng những giá trị xã hội tốt đẹp mong đem về xây dựng đất nước, để cho những câu thơ như “cô gái Việt Nam ơi, từ thưở sơ sinh lận đận rồi” (2) không còn đúng nữa.

Nay đất nước đã bị nhuộm đỏ. Gia đình chia lìa. Ước mơ đứt đoạn. Tôi thấy thấm thía vô cùng câu “nước mất, nhà tan”…

*

Hội trường của đại học Stanford trong buổi thảo luận về ngày 30 tháng 4 của Hội Sinh Viên Gốc Việt. Những khuôn mặt trẻ trung, sáng rỡ đang im lặng lắng nghe…

“Đó là câu chuyện của tôi lúc tôi trạc tuổi các em.

Mỗi năm, cứ vào thời gian này là tôi lại nhớ tới những diễn biến dẫn tới ngày 30 tháng 4, 1975. Đối với tôi, đây là một ngày rất buồn vì người dân miền Nam – trong đó có tôi – đã không tìm được cách nào khôn khéo để giữ miền Nam đứng vững trong ván cờ chính trị thế giới. Chúng tôi đã bó tay nhìn miền Nam xụp đổ sau khi đồng minh bỏ đi. Sau đó cả miền Nam bị đọa đày, mấy trăm ngàn người đã chết trong ngục tù và trên biển cả khi đi tìm tự do. Gia đình tôi cũng tìm cách vượt biển nhưng lần đầu thất bại. Bố tôi bị bắt vào tù và mất năm 1977.

Từ đó đến nay đất nước Việt Nam bị cai trị bởi một chính quyền tham tàn, độc ác. Bốn mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, xã hội Việt Nam ngày nay mất gần hết các giá trị đạo đức, khoảng cách giàu nghèo lớn chưa từng thấy, phụ nữ Việt Nam lưu lạc khắp nơi kiếm ăn… Tệ hại nhất là nguy cơ mất nước về tay giặc Tàu ngày càng cao.

Tuy nhiên tôi vẫn tin rằng nước Việt Nam sẽ không bị mất, rằng sẽ có ngày Cộng Sản xụp đổ và người dân Việt Nam được thật sự tự do, hạnh phúc.”

“Căn cứ vào đâu mà chú có thể tin tưởng như thế?” một em sinh viên giơ tay hỏi.

“Tôi tin tưởng như thế bởi vì bất cứ ở đâu, khi người dân bị dồn tới mức cùng cực thì họ sẽ vùng lên đòi thay đổi. Và cộng đồng người Việt ở hải ngoại sẽ vận động sự quan tâm của thế giới để chặn đứng âm mưu cướp nước của Tàu. Người Việt Nam có một truyền thống tranh đấu rất cao. Điều này đã được chứng minh nhiều lần trong lịch sử. Thí dụ như Việt Nam đã bị Tàu chiếm đóng nhiều lần nhưng cha ông ta vẫn không khuất phục. Tôi, các em, và tám mươi triệu người mang giòng máu Việt ở khắp nơi sẽ tiếp tục truyền thống đó.”

Khôi An
------------------------------------
(*) Ca khúc Nhớ Mẹ do Thiếu Tướng Lê Minh Đảo & Đại Tá Đỗ Trọng Huề sáng tác trong trại tù Cộng Sản.

(**) Thơ Hồ Dzếnh, Cô Gái Việt Nam

Ghi Chú:

1. Sau khi rút lui ở Xuân Lộc, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã từ chối di tản để ở lại chiến đấu với anh em đồng đội. Ông bị Việt Cộng cầm tù 17 năm và sang Mỹ theo diện HO vào năm 1993.

Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh cùng Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù đánh trận cuối với Cộng quân ở Láng Cạn, Bà Rịa đêm 28 rạng 29 tháng 4, 1975. Đến giờ phút chót, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù mới rút ra Vũng Tàu. Trung tá Đỉnh đã đứng ở bờ bảo vệ cho anh em lên tàu rồi cùng đồng đội rời Việt Nam ngày 29 tháng 4.

Thiếu Tá Vương Mộng Long cũng ở lại chiến đấu tới giờ cuối. Ông bị tù 13 năm, sau đó sang Mỹ theo diện HO năm 1988.

2. Lúc 5:30pm ngày 30 tháng Tư, 2015, cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo có buổi nói chuyện ở đại học Stanford, California: Kehillah Hall in Taube Hillel House, 565 Mayfield Avenue, Stanford, CA 94305-8456. Mọi người đều có thể đến tham dự.

mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 17/May/2015 lúc 7:19pm


KQVNCH : Tướng Phạm Ngọc Sang - 
Cựu Tư Lệnh Sư đoàn 6 không quân.

Tướng Phạm Ngọc Sang, Phượng Hoàng Gãy Cánh

Bốn mươi năm nhìn lại ngày Phan Rang thất thủ, tôi lại nhớ một khuôn mặt tướng lãnh cựu tư lệnh sư đoàn 6 không quân (bản doanh đóng tại Pleiku), người đã bị địch bắt tại chiến trường, bị đem ra Bắc và trở thành người tù có thâm niên cao nhất (17 năm).

Trong số các sĩ quan bị trả thù sau cuộc chiến, ông là người vào tù sớm nhất (16-4-75) và ra trại trễ nhất (11-2-92). Thân tàn lực kiệt ông sống thêm được 10 năm và mất tại Quận Cam năm 2002. Trước khi mất ông dồn sức cố viết một hồi ức về trận đánh Phan Rang và làm một điều chẳng ai bắt ông phải làm là tỏ lời cáo lỗI cùng đồng bào qua mấy dòng bi tráng, Tôi cảm nhận rất có tội với đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành.

Nói đến quân chủng Không quân người ta nhắc nhiều đến những khuôn mặt vừa hào hoa vừa gan dạ, lấy không gian làm nhà, lấy nghiệp bay làm lẽ sống, và trong hàng tư lệnh mang sao đã có hai ông một thời làm tới Phó tổng thống và một ông làm tư lệnh cảnh sát đã tự tay bắn chết tên VC trong tết Mậu thân (mà sau này hãng CNN đã chọn là một trong số 100 sự kiện nổi bật của…thế kỷ 20!).

Nhưng dư luận và báo chí ít chú ý đến vị tướng gốc Nam bộ này, tên ông chỉ được nhắc khi được đề bạt làm tư lệnh một sư đoàn sau chót của không quân mới thành lập cuối năm 1972 nhằm yểm trợ cho chiến trường cao nguyên và trở thành bại tướng khi Phượng Hoàng (danh xưng chỉ huy của ông) gãy cánh tại Phan Rang hai tuần trước ngày mất nước.

Ngược dòng tiểu sử ít ai biết tướng Phạm Ngọc Sang, người đã có gần 25 năm quân vụ, nguyên xuất thân là một sĩ quan bộ binh (khóa 1 Thủ Đức), sau được tuyển sang không quân du học tại Pháp, trở thành một phi công chuyên lái vận tải. Nhờ tài năng và tác phong gương mẫu, ông được tin cậy và là một trong ba người được chọn lái riêng cho tổng thống Diệm. Sau 63 trả về không quân ông tiếp tục bay và có thời đã làm Chỉ huy trưởng trung tâm đào tạo phi công tại Nha trang. Ông cũng là chánh võ phòng cho tướng Kỳ khi ông này làm chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương.

Trước khi vào quân ngũ ông cũng từng là nhà giáo, có kiến thức văn hóa, song hành với nghiệp bay, ông là sĩ quan cấp tá duy nhất tốt nghiệp các khóa quân sự về chỉ huy tham mưu và quốc phòng nổi tiếng của Việt nam và Hoa kỳ, đáng kể là khóa cao đẳng quốc phòng (VN), chỉ huy tham mưu cao cấp tại Leavenworth (Kansas) và quản trị quốc phòng tại trường đào tạo hậu đại học của Hải quân Mỹ tại Monterey (California).

Cứ dựa vào thâm niên và tài năng ông xứng đáng trở thành Tư lệnh của quân chủng, nhưng vốn không có tham vọng, lại khiêm tốn, không phe cánh, mãi đến 1972 mới lên tư lệnh và được thăng một sao một năm trước ngày gãy cánh. Cũng năm này được tuyên dương trước toàn quân với Anh dũng bội tinh kèm nhành dương liễu về công trạng yểm trợ không lực hữu hiệu cho chiến trường cao nguyên.

Là người hay viết về chân dung tướng lãnh của Quân lực VNCH khi các vị nằm xuống, tôi hụt viết về chuẩn tướng Sang khi ông từ giã bạn bè và người thân vì ngày ấy tôi chưa quay lại làng văn làng báo. Nhưng cũng may tôi có dịp gặp ông hai lần trớ trêu thay trong cùng cảnh tù của một trại giam hắc ám nhất miền Bắc, trại Nam hà, rồi khi ra hải ngoại lại có dịp được biết thêm về ông qua các sĩ quan thuộc cấp đã gần gũi ông tại Pleiku và những tháng ngày cuối cùng trước ngày Sài gòn tắt thở.

Viết về ông hơi khó vì bản thân ông không thích người khác ca ngợi mình, lại càng kín tiếng vì không thích chuyện chính trị, ông là một mẫu quân nhân thuần túy, dù là một phi công mang tiếng hào hoa nhưng cá nhân lại hết mực nghiêm túc, trọng quân phong quân ký, có thể vì gốc nhà giáo và luôn tỏ ra gương mẫu trong nếp chỉ huy của quân trường, nơi một lần ông đã uốn nắn các sinh viên sĩ quan theo đuổi nghiệp bay cả về kỹ thuật lẫn tác phong.

Tôi nhớ lần lén gặp ông trong khu biệt giam tướng lãnh, khó ai ngờ ông là tướng một sao, cảm tưởng nhìn ông cặm cụi tưới mảng rau thơm và rau cải để tự cải thiện trong một khu đất khép kín của trại tù, người ta hình dung giống như một ông giáo già người Nam bộ đang chăm sóc mảnh vườn nhà èo uột dưới quê.

Nhưng bên trong con người này là một nhân cách đáng kính, lầm lỳ ít nói, ngay cả khi địch bắt cũng chẳng khai thác được gì, bảo lên đài nói để kêu gọi binh sĩ ta đầu hàng buông súng ông không chịu làm, bảo thành khẩn khai báo quá trình bản thân để sớm được tha ông vẫn an nhiên tự tại, ông không dại gì mà chống khi cánh bay đã gãy, nhưng phía cán bộ địch vận ở trung ương và quản lý trại giam nơi nhốt ông, họ biết người này khó mà chiêu hồi, cải tạo, có thể vì vậy mà khi trại giam tù cải tạo cuối cùng trên đất Bắc đóng cửa, người ta đem ông về Nam để nhốt thêm. Ông là người cuối cùng ra khỏi trại giam sau 17 năm, chính thức khai tử cái chính sách khoan hồng mà cộng sản rêu rao dành cho những kẻ cựu thù của chúng.

Trở lại những ngày cao nguyên di tản, ông là nhân chứng đầu tiên ngoài tướng Nguyễn Văn Phú, người nhận lệnh từ tổng thống Thiệu. Ông vẫn hận về cái lệnh quái đản bằng miệng từ người tổng tư lệnh cho một tư lệnh quân đoàn qua đường điện thoại (từ Khánh Hòa Nha Trang), áp đặt một quyết định sinh tử cho việc tháo lui bỏ ngỏ một vùng cao nguyên chiến lược mà chính người thi hành chỉ có không đầy… 72 tiếng đồng hồ để sắp xếp!

Ông vẫn còn nhớ như in trong cuộc họp tham mưu tại văn phòng tướng Phú, cú điện thoại gần như độc thoại từ đầu dây bên kia và phía đầu dây bên này chỉ có những độc âm…dạ, dạ, dạ,…rồi ngưng, không kịp để phát thêm một lời xin giải thích và nhu cầu thời gian cho một cuộc di tản chiến thuật vô tiền khoáng hậu. Mặt buồn như người đưa đám, người tư lệnh cấp cao hơn ông chỉ đạo các đơn vị tự lo lấy phương tiện chuẩn bị băng qua con lộ 7, mà mấy ngày sau thành tử lộ trên đường rút về Tuy hòa, một thị trấn gần Nha Trang, nơi chưa đầy một tuần trước ông Thiệu và đoàn tùy tùng có cả đại tướng Cao Văn Viên đã có mặt tại đây.

Chưa đầy một tháng sau, bản đồ miền Nam được vẽ lại, Phan Rang trở thành tuyến đầu của lãnh thổ cộng hòa. Tướng Thiệu cho gom góp các đơn vị vừa tản hàng sau cuộc di tản, từ cao nguyên đổ về, từ miền Trung dạt xuống, bằng mọi giá phải bảo vệ thị trấn này cũng là hometown của ông, không để cho Bắc Việt lấn chiếm thêm. Từ đây, tướng Sang thêm một nhiệm vụ mới, làm phụ tá cho tướng ba sao Nguyễn Vĩnh Nghi, một cựu tư lệnh đồng bằng sông Cửu đang bị thất sủng nên chịu giữ chức tư lệnh tiền phương phòng thủ Phan Rang.

Có một giai thoại là tại mặt trận tiền phương, tướng Nghi đã chỉ định tướng Sang đặt bộ chỉ huy trên không để dề bề điều động phối hợp, nhưng ông đã nói đùa, tướng 3 sao dưới đất, tướng 1 sao trên trời coi sao tiện, ông đã xin cùng ngồi ở bộ chỉ huy đóng gần phi trường, để rồi cùng số phận ít ngày sau khi Phan Rang thất thủ cả hai ông trở thành tù binh có cấp bậc cao nhất bị bắt tại chiến trường. Một thuộc cấp cũng là bạn của tôi thuật lại nếu Phượng Hoàng cứ ở trên không thì chiếc vận tải biết đâu đã quay hướng Sài gòn và số phận của mấy thầy trò đã có ngả rẽ khác.

Viết lại về ông điều đáng nói không phải muốn đề cao một khuôn mặt từng được kính nể cả về tài năng lẫn phẩm chất, cái đáng phục dù không được nhắc nhớ như năm vị tướng đã chết theo thành, nhưng Phuợng Hoàng khi gãy cánh đã trả giá bằng những tháng năm tù đầy gian khổ qua các trại giam của kẻ thù từ Bắc vào Nam, rồi trước khi về cõi đã dũng cảm nhìn lại bằng tri nhớ của mình và nhờ các thuộc cấp bổ sung, ông đã viết được một tài liệu mang tính hồi ức thuật lại trận đánh Phan Rang mà những chi tiết có thể dùng làm tư liệu cho người viết quân sử.

Theo dư luận chung ông chẳng có lỗi gì, trái lại đã làm hết sức mình trước tình hình vận nước đã đến hồi mạt vận, dù ông đã tự thân xin lỗi đồng bào vì đã để mất Phan Rang. Các đồng đội vẫn tự hào khi nhìn lại thấy Thầy mình sống chết có nhau, hơn nhiều kẻ chóp bu đã bỏ thành trước giờ tàn cuộc.

Mọi sự đã thuộc về lịch sử, thắng thua để các người sau phân giải. Bên thắng cuộc họ mới kỷ niệm ầm ỹ 40 năm Sài gòn mất tên, nhưng cảnh đói nghèo tụt hậu vẫn còn là vết thương nhức nhối của một quê hương tan nát.

Tôi mượn lời của các thuộc cấp trong lễ truy niệm với đầy đủ lễ nghi quân cách trong ngày tiễn ông ra đi, “Thôi thì, ân đất nước đã đền, nghĩa đồng bào đã trả, xin Tướng quân thanh thản ra đi”. Chúng tôi, những người lính không cùng quân chủng, với lòng quí mến của các cựu tù xin Phượng Hoàng cứ yên nghỉ ngàn thu.

Viết tại quận Cam 16-4-2015
Đỗ Xuân Tê

mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 26/May/2015 lúc 9:14am

RadioCTM - Nguyệt Quỳnh

alt Tuổi trẻ giữa giòng xoáy của bạo lực và sợ hãi [ 20:27 ] Hide Player | Play in Popup | Download



Tiếng hát của tử thần đã chiếm lĩnh những con đường đi về nơi đất nước.
(Cánh Thiên Nga – Tagore)
Bốn mươi năm trước, trong giờ khắc hấp hối khi quân đội miền Nam đã tan vỡ, dinh Độc Lập đã thất thủ thì ngôi trường thiếu sinh quân nhỏ bé tại Vũng Tàu vẫn đứng vững, oanh liệt giữa tiếng súng kháng cự trong những giờ phút cuối cùng của miền Nam. Nhắc lại câu chuyện này tôi muốn mở đầu một chuỗi những mẩu chuyện về cách hành xử đáng kính của những người trẻ trong các tình huống vô vọng mà tôi cho đó là nhân cách, là di sản của dân tộc Việt. Một điều mà chúng ta phải nhìn nhận là trong xã hội hiện nay di sản đó đang tiêu hao, mòn mỏi từng ngày.


truongthieusinhquangvnch_1

Vào những ngày cuối tháng tư năm 1975, trường Thiếu Sinh Quân chỉ còn lại khoảng hơn 100 học sinh ở độ tuổi từ 8 đến 17. Những em này do nhà ở các tỉnh xa nên gia đình chưa đón về kịp. Khi được ban quản trị thông báo là các em phải tự lo cho chính mình, nhà trường đã hết trách nhiệm với các em; thoạt đầu, như đám gà con mất mẹ, bọn trẻ đã hoảng loạn, sợ hãi, bỏ chạy tứ tán. Thế nhưng cuối cùng, những đứa trẻ chưa thành người lính này đã tập họp lại, và đã đánh trả khi bộ đội Bắc Việt cho một tiểu đoàn quân chính qui tiến chiếm ngôi trường thân yêu của các em. Trận đánh kéo dài suốt sáu tiếng đồng hồ, cho đến khi các em nhận được tin Sài Gòn đã đầu hàng theo lịnh của tướng Dương Văn Minh. Để bảo toàn mạng sống cho cả trường, các em lớp 12 đã quyết định ngưng bắn đầu hàng. Không muốn để quân đội Bắc Việt làm nhục lá Quốc Kỳ, các em đã yêu cầu được làm lễ hạ Kỳ trước khi kéo cờ trắng đầu hàng. Một buổi lễ chào cờ cuối, đẫm lệ đã diễn ra trong bầu không khí trang nghiêm.
Như thường lệ, hai thiếu sinh quân lớp lớn đã tiến ra trước sân cỏ. Các thiếu sinh quân tuổi từ tám đến mười bảy tập họp thành hai tiểu đoàn. Tất cả đứng nghiêm trước cột cờ, bắt súng chào và làm lễ hạ Kỳ đúng theo lễ nghi quân cách. Đó là buổi lễ chào cờ cuối cùng, các em hát quốc ca với những khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Vừa mới hôm qua, dưới ngọn cờ này các em đã được học tập, được đào tạo để mai kia trở thành những người lính sẵn sàng ngã xuống dưới ngọn cờ để bảo vệ tổ quốc. Hôm nay mọi việc đã đổi thay! Không ai có thể biết tâm trạng của các em lúc đó ra sao? Khi bài hát chấm dứt và khi lệnh tan hàng của một em liên lớp 12 ban ra, thình lình những đứa trẻ oà lên khóc, rồi cứ thế chúng ôm lấy nhau khóc nức nở !
Cùng lúc đó ở ngoại quốc, bản tin về Sài Gòn thất thủ đến với các sinh viên VN du học như sét đánh ngang tai. Chị Bùi thị Bạch Phượng một du học sinh tại Đức đã chia sẻ trong một bài viết của chị: “Tin khủng khiếp đến lúc trời còn tờ mờ tối, sau một đêm khắc khoải, mất ngủ vì lo âu. Hồn tôi chơi vơi trong một khoảng không nào đó, đôi bàn chân hình như đã lìa mặt đất, đầu óc trống trải, mông lung. Ðến sáng hôm sau, bọn chúng tôi vào giảng đường đại học, tìm chút hơi ấm từ bạn bè cùng chí hướng, nhìn nhau trong ngấn lệ, không biết chảy ra tự lúc nào”.


Paris300475

Tại Pháp, như đoán trước định mệnh của đất nước, ba ngày trước khi miền nam mất, sinh viên Trần Văn Bá cùng Tổng Hội sinh viên Paris đã tổ chức “Ngày để tang cho chiến sĩ”. Trên đường phố Paris, gần 300 sinh viên du học đã đi tuần hành trong im lặng. Đầu chít khăn tang trắng, họ lặng lẽ đi qua các đường phố của khu Latin rồi đứng lại trước tòa Đại Sứ Mỹ tại công trường Concorde để phản đối sự bội bạc của người Mỹ trong chiến cuộc Việt Nam!
Miền Nam mất, những sinh viên du học như những đứa con côi cút mất lối về. Giấy thông hành của họ do chính phủ VNCH cung cấp coi như hết hiệu lực, tất cả đều phải xin thông hành tị nạn. Nhiều sinh viên ở Đức, ở Pháp đã kể lại cảm giác đau thương khi phải cầm cuốn sổ thông hành mới với hàng chữ “Vô tổ quốc”. Tuy nhiên, những người trẻ bơ vơ này chưa bao giờ coi mình là những người vô tổ quốc. Mỗi năm, vào dịp 30/4 các sinh viên này đã họp nhau lại, cùng thức sáng đêm để đi dán bích chương. Cùng nhau tổ chức những đêm không ngủ và những buổi hội thảo về tình hình đất nước, về thảm trạng thuyền nhân…

TranVanBa2-1

Vào đầu xuân năm 1976, Trần Văn Bá và các sinh viên thuộc Tổng Hội sinh viên Paris đã cùng nhau tổ chức Tết tại Hội Trường Palais de la Mutualité với chủ đề “Ta Còn Sống Đây”. Nhiều anh chị sinh viên đã bồi hồi kể lại nỗi xúc động của họ trong đêm đó. Hàng ngàn người có mặt đã rơi lệ khi nghe sinh viên Trần Văn Bá cất tiếng hát lớn bài hát “Hồn Tử Sĩ”. Lịch sử đã sang trang, thế giới đã quay mặt, quê hương đã mất dấu; nhưng xương máu và những hy sinh của các thế hệ cha anh vẫn luôn hiện hữu và là ngọn đuốc soi đường cho thế hệ trẻ. Khơi dậy được tình yêu nồng nàn đối với tổ quốc trong lòng những sinh viên VN, Trần Văn Bá đã trở thành linh hồn của lớp người trẻ tị nạn.
Ông Võ Văn Kiệt có câu nói nổi tiếng về ngày 30/4: “có triệu người vui mà cũng có triệu người buồn.” Tuy nhiên, trong triệu người buồn đó, đa số đã ôm hy vọng và ước mơ về một cuộc sống mới thanh bình và tốt đẹp hơn cho người dân cả hai miền bởi chiến tranh đã kéo dài quá lâu. Nhưng thực tế diễn ra sau đó hoàn toàn ngược lại, thảm trạng của thuyền nhân, tù cải tạo, kinh tế mới và cả một thế hệ thanh niên bị đẩy vào cuộc chiến vô vọng bên Cam Pu Chia…Tất cả những thảm cảnh trên không ngừng ray rứt tâm trí của người Việt tha hương. Ngay đến tận ngày hôm nay sau 40 năm, sự gắn bó sâu nặng với đất nước của đa số người Việt vẫn được nhìn thấy qua sinh hoạt thường ngày: sống ở nước ngoài người Việt vẫn theo dõi tin tức tại VN, đau với cái đau của người dân mất đất, nhục với cái nhục khi giàn khoan của Trung Quốc nghênh ngang kéo vào lãnh hải. Ông Hoàng Thu, một người Việt ở Florida đã tự thiêu để gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh đồng bào mình về hiểm hoạ xâm lược. Ngày 20/6/2014 người đàn ông này qua đời để lại mảnh giấy tuyệt mệnh với hàng chữ: “Hai Yang 981 phải rời khỏi V-N hải phận”.
Là một thanh niên trẻ với bầu nhiệt huyết và niềm khao khát được dấn thân cho quê hương, Trần Văn Bá tin rằng những chuyển đổi đất nước chỉ có thể phát xuất từ Quốc Nội, anh tham gia lực lượng “Mặt Trận Thống Nhất các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam” và xâm nhập về Việt Nam. Anh bị cộng sản bắt và bị tử hình vào ngày 8/1/1985. Điều cuối cùng bạn bè còn giữ lại là những suy tư anh viết trong thư gởi về Paris năm 1982: “ …Phần tôi cũng bình thản thôi, cực thì có, nhưng tôi sống trọn vẹn với con người của tôi, với quê hương nghèo đói. Con đường tôi chọn rất chông gai, nhưng dù sao tôi cũng phải đi tới cùng…”
Tại Nhật, sinh viên Ngô Chí Dũng khi ấy mới 24 tuổi, anh là con chim đầu đàn của Uỷ Ban Tranh Đấu Cho Tự Do Của Người Việt. Sau khi miền Nam mất, trong tình cảnh hoang mang cực độ của hầu hết các sinh viên du học tại Nhật, Ngô Chí Dũng đã cùng một số anh chị em sinh viên làm việc ngày đêm để tranh đấu thành công hai vấn đề bức thiết quan trọng lúc ấy. Thứ nhất là chính quyền Nhật đồng ý gia hạn chiếu khán cho các kiều bào ta và các sinh viên đang sinh sống tại Nhật, thứ hai những sứ quan Pháp, Bỉ, Anh và Hoa Kỳ… đã hứa cấp chiếu khán cho bất cứ ai muốn đến các quốc gia này định cư. Cùng với các sinh viên du học tại Nhật, Ngô Chí Dũng đã tích cực giúp đỡ những gia đình thuyền nhân trong các trại tị nạn. Anh tốt nghiệp nghành Kỹ Sư Hoá Học thuộc Viện Đại Học Meisei tại Tokyo năm 25 tuổi. Nhưng cũng như Trần Văn Bá, Ngô Chí Dũng tin rằng sự chuyển đổi đất nước chỉ có thể xảy ra tại môi trường Quốc Nội và với cái quan niệm rằng muốn giải quyết vấn đề của đất nước thì chính mình phải nhập cuộc, chính mình phải đi đầu. Anh bỏ lại cuộc sống êm đềm và một tương lai đầy hứa hẹn ở Tokyo để trở về với quê hương. Anh tham gia “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam” và hy sinh trên đường công tác.


tncg

Cách sống và hành xử của những người trẻ trong hoàn cảnh tuyệt vọng của đất nước cho thấy một thế hệ thanh niên đầy nhân cách, trong sáng và vững vàng. Một thế hệ kế thừa tinh thần Nguyễn Thái Học, những con người sống có lý tưởng, có mục đích, có trách nhiệm với xã hội, có tình yêu thương và niềm tin vào những giá trị tốt đẹp; do đó, dù ở trong hoàn cảnh vô vọng họ không dễ dàng đánh mất chính mình. Và đó chính là di sản của một dân tộc đã tồn tại qua hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử. Di sản đó đã khiến cả một thế hệ thanh niên miền bắc sẵn sàng lao vào lửa đạn đến nỗi nhà thơ Hoàng Trần Cương bảo nếu đem ghép những chiếc áo của đồng đội anh lại chắc cũng đủ căng lên thêm một bầu trời. Và cô giáo Nguyễn Thị Mai thì bồi hồi viết trong nhật ký: “Chưa bao giờ máu gửi nhiều theo những lá đơn / Chưa buổi lên đường nào tình nguyện đông như vậy”. Nhưng đó là chuyện của ngày xưa, ngày nay di sản của dân tộc Việt đang bị nhấn chìm trong một vùng nước xoáy.
Cái gọi là “Chiến thắng 30/4/75″ đã từng làm cả thế giới phải cúi đầu nể phục một dân tộc anh hùng. Trong niềm “hân hoan” của chiến thắng ngày ấy, không một ai có thể tưởng tượng một dân tộc hào hùng, bản lĩnh lại có thể cam tâm chịu nhục như ngày hôm nay. Một quốc gia độc lập với một quân đội hùng mạnh mà từ lãnh đạo đến tướng tá đều câm lặng, khuất phục nhìn từng phần chủ quyền của đất nước bị tước đoạt, bị mất trắng, mất đau đớn trong các hiệp ước với Bắc Kinh… Thử hỏi một cuộc duyệt binh vĩ đại mừng 40 năm chiến thắng, với 6000 người tham dự cùng các lực lượng võ trang và các khí tài hiện đại như lời Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa thì có ý nghĩa gì? chỉ thấy bật lên một niềm đau có chiến thắng nào cay đắng đến vậy? Sau cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, hàng ngàn những vành khăn tang đã chít trên mái đầu vợ con của người lính miền nam, hàng ngàn những thanh niên miền bắc ra đi không trở lại, giấy báo tử rơi đầy mái rạ; chỉ để đổi lấy một đất nước đói nghèo lệ thuộc, tụt hậu, lầm than…

LQQuan

Nhiều blogger trong nước nhận định rằng di sản lớn nhất của 40 năm chiến thắng là sự sợ hãi, nhu nhược, hèn kém và li tán. Dẫu sao tôi vẫn tin rằng di sản của 40 năm không thể nào vượt thắng, không thể nào tiêu diệt được di sản của mấy ngàn năm dân tộc. Hãy nhìn những khuôn mặt rất trẻ trong cuộc tuần hành cho cây xanh, hãy nghe Nguyễn Mai Trung Tuấn 15 tuổi nói về cái quyết tâm dành lại quyền con người của em. Giữa giòng xoáy của bạo lực và sự sợ hãi, các em là những đốm lửa đủ sáng, đủ tin cậy, đang nương vào nhau để thắp sáng và vực dậy di sản của dân tộc. Di sản đó không thể bị tiêu diệt khi chúng ta còn những người con gái Việt trẻ trung kiên cường như Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Nguyễn Phương Uyên, Đỗ thị Minh Hạnh…khi chúng ta có những chàng trai bản lĩnh, nhiệt huyết như Lê Quốc Quân, Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hoà, Trần Vũ An Bình… Bạo lực, nghịch cảnh không chỉ là rào cản ngăn chặn ước mơ của chúng ta, mà chính nó còn thúc bách con người bước đến với ước mơ ấy. Trong ý nghĩa đó, mọi nguy cơ đều ẩn chứa một cơ hội, một thách đố … Và chỉ trong nguy cơ con người mới động tâm tìm ra sức bật để sinh tồn và để vượt lên một tầm cao mới.


bt%20cayxanh

Bốn mươi năm đã quá đủ để người tù vừa rời khỏi trại giam vẫn vững vàng bước chân, để người dân ngừng lời than oán cùng sát vai nhau đòi lại cái quyền làm chủ đất nước này. Hàng trăm người ở Cam Ranh đã xuống đường đòi quyền được đối thoại, hàng ngàn người ở Bình Thuận đã xuống đường đòi giải quyết môi trường ô nhiễm, hàng ngàn người ở Hà Nội đã tuần hành để bảo vệ cây xanh, và hàng chục ngàn công nhân đã xuống đường để phản đối điều 60 Luật Bảo Hiểm Xã Hội… Những bước chân dồn dập của người dân trên các nẻo đường đất nước đang làm rung chuyển chế độ độc tài.
 
NDMMan

Tôi nghĩ đến Nguyễn Đặng Minh Mẫn, người thiếu nữ vừa mới bị biệt giam tuần rồi và câu nhắn của cô qua một tù nhân lương tâm. Quả thật Minh Mẫn vẫn “ trước sau như một” .Tám năm tù với biết bao nhiêu lần biệt giam không khuất phục nổi người thiếu nữ nhỏ nhắn này. Như bao nhiêu người trẻ đang chịu trù dập, bách hại cho quê hương mình, Minh Mẫn chính là cánh thiên nga trong lời thơ của thi sĩ Tagore và tôi tin rằng ban mai thế nào cũng đến, bóng tối sẽ tan đi và tiếng đập cánh của thiên nga sẽ xé vòm trời rực rỡ.


mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 26/May/2015 lúc 7:57pm

Không hận thù sau chiến tranh

(Ngô Thụy Chương)


Nói đến chiến tranh người ta liên tưởng đến những đau thương tang tóc, những tàn phá khốc liệt, những mất mát chia lìa. Bi thương hơn nữa, bao nhiêu trai trẻ, bao nhiều chiến sĩ đã phải bỏ mình trong cuộc chiến. Họ hy sinh thân mình vì một lý tưởng hay để bảo vệ quê hương. Họ hy sinh thân mình vì tham vọng của người lãnh đạo hay ảo tưởng của một chủ nghĩa. Những người lính ấy khi hy sinh, thân xác họ bị vùi chôn, bị tan nát dưới lằn đạn, để rồi khi chiến tranh chấm dứt, người ta tự hỏi thân xác người lính ấy sẽ ra sao? Bên thắng trận chắc hẳn có nhiều cơ hội để lo lắng, mai táng chiến sĩ của phe mình một cách trịnh trọng trang nghiêm, nhưng còn thân xác chiến sĩ bên thua cuộc thì sao? Có ai nghĩ tới họ không, có ai lo lắng cho anh linh các tử sĩ đó không?

May mắn thay, qua lịch sử thế giới chúng ta bắt gặp những hành động đáng cảm phục của bên thắng cuộc đối với bên thua cuộc.

%20Nếu có một lần đến Washington, bạn hãy đến thăm nghĩa trang Arlington. Ðây là nghĩa trang quân đội quốc gia của nước Mỹ, nằm bên kia sông Potomac. Nghĩa trang quân đội quốc gia này thật đẹp và hùng vĩ. Nhưng xúc cảm không phải vì cái đẹp thiên nhiên mà chính vì đó là nơi yên nghĩ cuối cùng của những người đã hy sinh trong cuộc nội chiến giữa hai miền Nam và Bắc Mỹ từ tháng 4-1861 đến tháng 4-1865.

Ðây là cuộc chiến khốc liệt nhất trong lịch sử nước Mỹ. Chỉ trong vòng 4 năm, tổng cộng 620.000 người Mỹ đã ngã xuống cho cuộc nội chiến này.  Ðối với dân số thời đó thì con số này là 2%, nếu so với dân số nước Mỹ hiện nay thì gần 6 triệu người đã tử trận.

Trong cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai miền Nam-Bắc Hoa Kỳ đã diễn ra các trận chiến trên bộ giữa hàng vạn binh lính ở Virginia, Maryland, Pennsylvania, Tennessee và Georgia. Các trận hải chiến diễn ra ngoài khơi bờ biển Đại Tây Dương và trên sông Mississippi. Hàng trăm ngàn chiến sĩ hai bên đã ngã gục, nhưng khi quân miền Nam của tướng Lee đầu hàng, thì vị chỉ huy quân miền Bắc, tướng Grant đã nhắc nhở quân của ông là: “Những kẻ chiến đấu phía bên kia cũng là anh em của chúng ta”. Do vậy tử sĩ của cả hai miền Nam Bắc đều được an nghỉ bên nhau tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington ở thủ đô Washington DC.

Suôi dòng lịch sử, chúng ta dừng lại nơi trận đánh Verdun ở miền Tây Bắc nước Pháp. Ðây là một trận đánh đẫm máu đã đi vào lịch sử Ðệ Nhất Thế Chiến 1914-1918, khiến một người lính đã viết: “Nếu chưa biết Verdun thì chưa biết gì về chiến tranh”.  Ðược mệnh danh Ðịa ngục Verdun (The Hell of Verdun, L’Enfer de Verdun), trận đánh kéo dài 300 ngày (21/2/1916 - 19/12/1916), tử thương 230.000 binh lính trên tổng số 700.000 nạn nhân.
Ngay trong lúc trận đánh vẫn còn tiếp diễn, các chiến sĩ khi tử trận trên đất địch vẫn được phe địch chôn cất tử tế.

%20
Nghĩa trang Verdun

%20
Nhà Tưởng Niệm Douaumont

Khi chiến tranh chấm dứt, sự thù hận không còn nữa, Nghĩa trang Quân đội Quốc gia Verdun và Nhà Tưởng Niệm Douaumont (The Douaumont ossuary) đã được xây dựng. Nghĩa trang này chôn cất không những chiến sĩ người Pháp mà còn chôn cất các chiến sĩ người Ðức, kẻ thù của họ trong chiến tranh. Nhà Tưởng Niệm Douaumont cũng là nơi lưu giữ hài cốt của hơn 130.000 chiến sĩ vô danh cả hai bên Pháp và Ðức đã nằm xuống trong Thế Chiến Thứ Nhất.


%20Gần thành phố Mons thuộc nước Bỉ, có nghĩa trang quân đội St Symphorien, được xem như nghĩa trang đẹp nhất của mặt trận Tây Bắc (Pháp Bỉ) Ðệ Nhất Thế Chiến.
Hai cánh cổng, bên phải ghi bằng tiếng Anh và bên trái tiếng Ðức, dẫn vào khu mộ của binh lính cả hai phe, cả hai quốc tịch. Nghĩa trang như một công viên đẹp, ngay hàng thẳng lối, là nơi yên nghĩ của hơn 500 binh sĩ gồm 284 Ðức và 229 Anh. Lối đi ở giữa dẫn đến chỗ cao và sáng nhất, nơi đặt Trụ đài Tưởng Niệm, do người Ðức dựng lên để tưởng niệm những chiến sĩ Ðức và Anh đã hy sinh trong trận đánh Mons vào hai ngày 24 và 25 tháng 8 năm 1914.

 %20
Trụ đài Tưởng niệm nghĩa trang St Symphorien (Bỉ)

%20
Hai ngôi mộ nằm cạnh nhau của
Captain Roy (Anh) và Gefreiter Dietrich (Ðức)

Gần đây nhất, hãy nhìn nước Ðức sau ngày 9 tháng 11 năm 1989. Khi bức tường Bá Linh sụp đổ, người dân Tây Ðức đã mở rộng vòng tay đón chào người anh em Ðông Ðức. Sự thống nhất nước Ðức đã là một lễ hội lớn. Chính quyền Tây Ðức mở rộng vòng tay cưu mang người dân Ðông Ðức, không có tù cải tạo, không có trại tâp trung, không có trả thù. Tất cả mọi người hòa niềm vui thống nhất.

%20Lịch sử chiến tranh trên thế giới đã cho chúng ta những hình ảnh nói lên sự tự trọng,  tính nhân bản và lòng vị tha sau cuộc chiến. Thử hỏi người cộng sản Việt Nam sau khi cưỡng chiếm hoàn toàn miền Nam Việt Nam, họ đã đối xử ra sao với những người lính miền Nam, với đồng bào ruột thịt của họ?

Hình ảnh đầu tiên khi người cộng sản cưỡng chiếm miền Nam sau ngày 30/4/1975, chính là việc biết bao nhiêu anh chị em thương phế binh VNCH đang nằm trong bệnh viện đã bị đuổi ra khỏi nhà thương, không cần biết bệnh nặng hay nhẹ. Những thương phế binh này không nơi nương tựa, không người chăm sóc, đã phải lê tấm thân tàn sống vất vưởng khắp các nẻo đường đất nước. Rồi các nghĩa trang tử sĩ VNCH, như nghĩa trang Biên Hòa, đã bị người cộng sản cầy nát. Hàng triệu quân nhân, công chức, nhà văn, nhà báo của chế độ VNCH đã bị đưa vào trại tù “cải tạo” nơi rừng sâu nước độc. Tài sản, nhà cửa của họ bị tịch thu, vợ con bị đưa đi vùng “kinh tế mới” âm u chướng khí, con cái không được đi học hay đi làm việc vì cha mẹ có liên quan đến chế độ cũ.

Có chế độ nào phi nhân bản như cộng sản Việt Nam khi đối xử tàn tệ với phe đối nghịch khi chiến tranh đã chấm dứt? Có chế độ nào man rợ như chế độ cộng sản Việt Nam khi đối xử tàn bạo, vô nhân đạo với những người cùng chung huyết thống?

Người xưa có câu:
đem đại nghĩa thắng hung tàn
lấy chí nhân thay cường bạo”,

còn người cộng sản Việt Nam hành động ngược lại:

đem hung tàn thắng đại nghĩa
lấy cường bạo thay chí nhân.

Chủ thuyết cộng sản đã biến con ngưòi thành những kẻ mất hết lương tri, đã hủy hoại và tàn phá những lễ nghĩa, nhân cách do ông cha để lại. Ngày nào còn chế độ cộng sản trên quê hương Việt Nam, ngày đó dân tộc ta còn chìm đắm trong khổ ải và thua thiệt các nước lân bang. Còn gì đau lòng hơn.

Ngô Thụy Chương

mk
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 14
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.156 seconds.