Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 93 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22160
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Sep/2020 lúc 12:21pm
VẾT NỨT


Xuất%20hiện%20vết%20nứt%20nguy%20hiểm%20cạnh%20hiện%20trường%20sạt%20lở%20Thái%20Nguyên%20-%20Sự%20kiện%20%20nóng%20-%20Việt%20Giải%20Trí
Mẫn
thả bộ trên hành lang của khu chung cư. Đêm qua tìm được nhà người bạn thì đã khuya quá, lại mệt vì phải lái xe cả đoạn đường dài gần hai mươi tiếng đồng hồ từ miền Bắc về đây, nên chàng đã ngủ vùi, và sáng nay trong khoảng thời gian chờ đợi, chàng định đi chung quanh khu nhà người bạn đang ở thăm dân cho biết sự tình, trước khi chàng đi tìm nhà người quen để trao lá thư, động cơ thúc đẩy chàng tìm đến thành phố xa lạ này.

Một bầy con nít cả trai lẫn gái nào Mễ, Mỹ, Đại Hàn chạy ùn ùn ngang qua chỗ Mẫn khiến chàng đưa mắt nhìn theo tự nhủ: Ơ hay! mấy đứa nhỏ này ở đâu ra mà nhiều thế? lại ăn mặc giống như đi dự dạ hội hay đám cưới, mà chúng chạy đi đâu như bị ma đuổi vậy cà? Chàng tò mò đưa mắt dõi theo, mấy nhóc trai thì quần jean, áo sơ-mi bỏ vào quần, có đứa đi giày bata, giày da, có đứa mang cả đôi boot cao gần tới đầu gối, đội thêm cái mũ rộng vành giống hệt mấy chàng cao bồi Tếch- xịt trong phim. Bọn con gái thì áo đầm xòe, váy rộng đủ kiểu, chân mang giày cao nhưng cũng chạy rầm rầm. Cuối cùng Mẫn cũng đã tìm ra câu giải đáp, thì ra hôm nay là ngày chủ nhật và chúng vừa đi nhà thờ về, bèn chạy ra khu giải trí của chung cư để chơi, nơi đó có xích đu, cầu tuột, và cái sân bóng rổ nho nhỏ nữa, phía bên kia là những cây sồi(oak) với cành lá sum sê, tỏa rộng như chiếc dù che nghiêng những vệt nắng buổi sớm cho cả khoảng sân dài.

Mẫn tò mò rảo chân về hướng đó, quang cảnh ồn ào vui nhộn làm Mẫn vui lây, lâu lắm rồi chàng mới có dịp nhìn cả đám con nít vô tư, tự do tụ tập đông đảo với nhiều sắc dân. Bọn con gái, mấy đứa ngồi đong đưa trên những cái ghế xích đu, và đang thi xem đứa nào đưa ghế lên cao nhất, chúng cười nắc nẻ mỗi khi cái xích đu chùng xuống sát đất rồi đưa ngược lên cao, một nhóm khác thì đang sắp hàng nơi cái cầu tuột, mỗi lần sắp chùi xuống là chúng hét thật to. Nhìn sang đám trẻ trai, Mẫn phát giác ra một điều thật thú vị, mấy cu cậu đang chơi trò bắn bi, nhìn những viên bi tròn trĩnh, trong veo, xanh đỏ đủ màu lăn nhanh trên mặt đất rồi đụng nhau kêu côm cốp làm Mẫn khoái quá đứng nhìn trân trối, thì ra tuổi nhỏ ở nơi nào rồi cũng giống nhau thôi, cũng biết bắn bi, đánh đáo.

Hình ảnh cậu bé Mẫn ốm tong teo trên người chỉ có cái quần đùi, buổi trưa trốn Mẹ chạy ra đầu xóm bắn bi cùng lũ bạn lại hiện về chớp nhoáng, Mẫn khoái nhất là lúc chàng thắng cuộc, cứ leo lên lưng những thằng thua, bắt tụi nó cõng chạy vòng vòng, thỉnh thoảng lấy hai chân húc vào mạn sườn thằng làm ngựa như tên nài chuyên nghiệp thích thú làm sao. Nhưng bọn trẻ ở đây chẳng có cái thú như chàng, vì ăn hay thua cũng chỉ có mấy viên bi làm chứng tích. Bất giác Mẫn thở dài, buồn bã khi nghĩ đến quá nhiều đứa bé nghèo khổ đang ở quê nhà, quanh năm suốt tháng chỉ có được mỗi bộ quần áo vải thô, càng không có thì giờ để chơi trò bắn bi, đánh đáo, nếu còn may mắn được đến trường học, khi tan trường các em phải phụ mẹ giữ em, gánh nước, có khi phải đi đào sắn, trồng khoai, hoặc đi bán hàng rong, bươi đống rác tìm từng cái bao ny lông bẩn, từng cái chai hư đem bán để đổi lấy miếng cơm v.v…những viên bi xinh xắn dễ thương này làm sao các em tìm thấy, tất cả đã xa rồi…

Tiếng nhạc xập xình dồn dập, ầm ầm đưa lại càng lúc càng gần khiến Mẫn tò mò quay đầu tìm kiếm. Chàng đảo mắt nhìn quanh, đây rồi. Một cậu bé da đen cỡ tuổi mười ba, mười bốn đang vác trên vai một cái radio to tổ chảng từ từ tiến lại phía chàng, cậu ta đi mà cứ như đang lướt trên mười đầu ngón chân, dù chân cậu đang mang đôi giày ba-ta cao cổ, cậu ta nhún nhảy theo điệu nhạc, hai vai lắc lư lên xuống không đồng bộ, một tay đỡ chiếc máy, bàn tay còn lại thì uốn lên uốn xuống như con rắn đang trườn đi, cái đầu thì ngẩng lên, gục xuống, lắc qua đưa lại theo nhịp trống xập xình, hai con mắt thì lúc nhắm lúc mở, khi nhướn lên chỉ thấy toàn tròng trắng, cái miệng há to hát theo, để lộ hàm răng trắng nhỡn tuơng phản với khuôn mặt đen sì, mà cái điệu nhạc lại khó nghe làm sao, trống đánh ầm ầm, chàng ca sĩ (da đen?) hát không ra hát, đọc thì đúng hơn, chàng ta đọc tràng giang đại hải, vừa đọc vừa thở với một giọng đều đều nghe rất lạ, Mẫn lại liên tưởng đến tiếng cầu kinh của mấy người Hồi giáo cạnh căn chung cư của chàng, và nếu bỏ tiếng trống, và chàng ca sĩ kia thấp giọng một chút, mới thoáng nghe, dám có người lầm tưởng đó là tiếng cầu kinh đưa hồn người về bên kia thế giới.

Mẫn bật cười khan cho ý tưởng so sánh ngộ nghĩnh của mình, nhìn lại cậu bé da đen, sau một hồi đứng nhún nhảy, hình như không tìm thấy “fan” nên cậu ta lảng ra lối khác, Mẫn lắc đầu tự nhủ: may mà cái mục giựt giựt này trẻ con Việt nam ở đây không mấy thích(?) mặc dù đôi lúc chàng cũng gặp một vài cô cậu chẳng giống ai, người ngợm thì ốm tong teo, chân cẳng có một khúc, lại mặc cái quần rộng thùng thình, thắt lưng xệ quá rốn, ống quần dài thậm thượt kéo lê trên đất, đầu đã hai thứ tóc nửa đỏ nửa vàng dù còn rất trẻ.

Mẫn thở dài, rời đám con nít trở vào nhà, nhìn vào đồng hồ tay đã gần mười giờ sáng, chàng tự nhủ: ‘Chắc giờ này ông ấy đã ngủ dậy, mình phải đến trao thư tận tay mới được, hy vọng sẽ gặp được ông ta.” Mẫn bước đi với nỗi buồn man mác đã quyện chặt hồn chàng từ những ngày xa xưa đó.



Ông Sang cựa mình, cố mở mắt nhưng vội nhắm lại ngay, ông cảm thấy cái đầu đau nhức một cách vô tả, như có ai cầm cái búa đập vào, và có người khác cầm mớ kim từng mũi từng mũi chích vào hai bên thái dương ông, ông cố nhướn đôi mắt, cùng lúc uể oải đưa hai bàn tay lên vuốt mặt một lượt, rồi ông kéo mạnh qua hai bên thái dương, chà xát một hồi. Sau khi vò bóp trên trán, ông cảm thấy hơi đỡ đỡ một chút nên cố nhoài người ngồi dậy, vừa định đứng lên ông lại ngã trở xuống giường, ông lại chống tay ngồi dậy, và ông đã rời khỏi giường trong trạng thái lảo đảo như đang bềnh bồng trên chiếc thuyền con vượt sóng ngày nào.

Những giọt nước ấm dội mạnh xuống người làm cho ông Sang cảm thấy dễ chịu đôi chút, đầu bớt nặng và người bớt lảo đảo, ngật ngừ. Làm vệ sinh buổi sáng xong là lúc chiếc đồng hồ quả lắc treo trên tường thong thả buông mười tiếng đều đặn, ông đi xuống phòng ăn để tìm chút gì lót vào chỗ bao tử đang cồn cào cấu xé. Ngang qua phòng đứa con gái lớn thấy cánh cửa khép hờ, ông thò đầu nhìn vô, con bé không chờ ông ở phòng ăn như ông nghĩ, mà nó đang nằm dài ở trên giường, tay cầm cái “phone” miệng nói tía lia, hai chân nhịp nhịp và đôi mắt thì dán chặt vào T.V, nghe tiếng động, nó bịt phôn, quay lại:

-Good morning! How are you? Daddy.

-Mệt!

Trả lời xong, ông Sang quay gót bước đi, con bé cũng chẳng để ý đến thái độ của cha, tỉnh bơ cầm điện thoại nói tiếp, nhìn vào phòng hai đứa con gái khác, chúng vẫn ngủ say với giấc ngủ thiên thần vô tư lự, muốn vào đánh thức chúng dậy, nhưng nghĩ sao ông lại lùi ra và khép hờ cánh cửa lại. Từng bước chân chậm chạp đi xuống cầu thang, đầu óc ông miên man suy nghĩ đến những chuyện đêm qua, nghĩ đến những người bạn cùng một thời “cầm súng chiến đấu” với buổi họp mặt đông vui, ôi thôi rượu vào lời ra có ngàn câu chuyện kể, và ông nhớ ông Trung, sang Mỹ với diện H.O, người bạn có biệt tài nói chuyện tếu, khiến cả bàn tiệc ai cũng ôm bụng mà cười, nhưng bạn ông đã không để cho ông vui trọn một đêm, trong lúc mọi người kéo nhau ra sàn nhảy, thì bạn ông đã kéo ông ra bên ngoài và hỏi đến gia cảnh của ông, bạn ông đã nhắc đến Trân, cái tên rất quen thuộc nhưng cũng rất xa vời trong cuộc sống hiện tại của ông. Cũng có đôi lần chợt thức giấc nửa đêm về sáng, những lúc “cơm không lành canh không ngọt”, bị bà vợ sau cằn nhằn, đay nghiến, ông bàng hoàng chạnh nghĩ đến vợ con ông còn ở lại nơi quê nhà, ông ray rứt vì bổn phận làm chồng, làm cha chưa trọn. Ông xót xa, tủi hổ vì sự bội bạc của chính mình, ông ăn năn, hối hận muốn choàng dậy làm ngay chuyện phải làm, nhưng ông đã nhu nhược buông xuôi và quên mau trong chuỗi dài ngày tháng, với bao nhiêu thứ nợ chất chồng, từ nợ đời, nợ nhà, nợ xe, nợ nữ trang quần áo, nợ điện, nợ gas, nợ rờ-đit(credit) card , …ngần ấy thứ đã tiêu hao không biết bao nhiêu sức lực của ông, chưa kể đến ngày 8 tiếng dài nơi hãng tiện (không nói đến chuyện làm “over time”) rồi những giờ đi nhảy đầm cuối tuần, những giờ chạy vờn banh ngoài sân tennis, những giờ tụ họp với bạn bè, những chuyến du lịch xa trên thế giới, vòng quanh nước Mỹ v .v…Nếu có rảnh ông dành thì giờ để ngủ bù cho những đêm về sáng bị cấu xé vì ghen tuông, vì những nhỏ nhen của người đàn bà, vì những trận giặc không tên, còn khoảng trống nào dành để nhớ những người thân yêu một thời giờ đã xa lắc xa lơ(?). Thản hoặc có nhớ đến, ông lại an ủi chính mình: “Tại hoàn cảnh đất nước mà! biết bao nhiêu người họ cũng giống như ta nhưng họ vẫn thản nhiên vui sống.” Vả lại người vợ ông bây giờ đã nhiều lần tuyên bố rằng: “người xưa của ông” đã lập gia đình với tên cán bộ Cộng sản từ lâu, tin từ gia đình bà cho biết như thế, nên lương tâm ông lại thư thái ngủ yên.

Nhưng tối qua, người bạn rất thân cùng đơn vị ngày trước, lại khơi nhằm dĩ vãng ông không muốn nhớ, hay sợ phải nhớ. “Bây giờ vợ con ông đang sống ra sao?” .Làm sao ông biết được vì ông không …được quyền liên lạc đã bao nhiêu tháng năm rồi. Bạn ông đã trách cứ ông rất nặng lời: “ Tôi hỏi thử ông cho biết vậy thôi, chứ tôi cũng đã nghe vài người bạn nói qua hoàn cảnh của gia đình ông, của vợ con ông bên nhà. Thật ra thì tôi không nên xía vào đời tư của gia đình ông, nhưng dù sao tui với ông cũng là những người bạn cùng sống chết một thời mà! Con gái ông có tội tình gì mà ông lại bỏ rơi nó? tại sao ông lại vô tâm đến thế, chỉ một món đồ chơi của đứa nhỏ ở đây cũng đủ nuôi sống vợ con ông suốt một tuần, chỉ cần một chai rượu đắt tiền ông uống trong một cuộc vui, con gái ông sẽ đổi được một lô áo quần lành lặn, chỉ cần một bộ quần áo đắt tiền của người đàn bà ở đây, vợ con ông sẽ có được một chỗ ở đàng hoàng , vì ai mà ông đã bán rẻ giá trị của NGHĨA –NHÂN, chỉ có một gia đình nhỏ ông không chu toàn làm sao có thể ngẩng mặt nhìn đời? Bạn ông đã nói nhiều và nhiều lắm, và ông đã uống thật nhiều những giọt rượu đắng hay những lời đắng đã khiến ông váng vất lúc này.

Ông Sang ngồi đờ người trước ly cà phê đen. Đĩa trứng tráng và hai lát bánh mì nướng ông tự làm lấy, vẫn nằm chơ vơ giữa chiếc bàn vừa dài vừa rộng nên nó thêm lạc lõng, đã mấy lần ông đưa lên miệng muốn nuốt vào cho bao tử đỡ xót, nhưng ông thấy miệng mình đắng chát, chả thiết uống ăn, vợ ông đã đi đâu mất tự lúc nào, nên căn nhà đã rộng càng thêm rộng. Sáng nay ông cũng không còn hứng thú để xách vợt ra sân, chắc những người bạn cũng sẽ không chờ…

-Reng! Reng! Reng!

Tiếng chuông gọi cửa làm ông Sang ngạc nhiên, từng bước uể oải đi về phía cửa với câu hỏi trong đầu: “Ai đến nhà mà không gọi điện thoại trước, hay là mấy tên bạn ngoài sân thấy mình không ra, nên kéo vào?”

-Ai đó?

-Xin lỗi, tôi muốn gặp ông Sang !

Nghe hỏi đúng tên mình, ông mở chốt cửa trong, một người đàn ông trung niên, dáng người dong dỏng cao cúi đầu chào trong khi ông cố đưa mắt dò xét…

-Sang là tôi! Ông tìm tôi có…? Ông bỏ lửng câu hỏi nhìn người khách chờ đợi.

-Trung úy không nhận ra tôi sao? người khách hỏi lớn qua khung cửa kính

-Anh là…

-Mẫn! Ngô minh Mẫn ở đường Hồng Bàng Nha Trang..

Ông Sang mở luôn cánh cửa kính ngoài và mời khách vào nhà cùng lúc bộ não làm việc thật nhanh -Đường Hồng Bàng? Mẫn! Chợt ông vỗ trán cái bốp, miệng nói nhanh:

-Mẫn! phải cậu Mẫn “tiếng sáo thiên thai” không? vào nhà chơi đi, sao, sang đây từ bao giờ? Sao mãi đến nay mới tìm đến tôi? Ông Sang vồn vã hỏi tới tấp, cứ như là “tha hương ngộ cố tri” thân tình lắm lắm.

Bước chân qua cánh cửa, căn phòng khách quá sang trọng làm Mẫn khựng lại, một bộ ghế da màu đen ôm trọn một vòng quanh ba cái bàn bằng đá nửa trắng nửa đen, nổi bật trên nền thảm màu ngà, một giàn máy hát đủ loại nằm chễm chệ cạnh cái tivi cỡ lớn, môt cái tủ kính chứa quá nhiều những chai dầu thơm đắt tiền, bức chân dung một người đàn bà quá khổ choáng một góc tường, nhiều và nhiều thứ nữa làm bước chân Mẫn ngập ngừng. Hai hình ảnh tương phản tức tốc chạy ngược xuôi trong đầu Mẫn, một bằng ký ức, một trực diện. Nhà ông Sang- Nhà Trân- nhà, hay đúng hơn nó chỉ là một cái chòi tranh vá víu lung tung, mái tôn, nền đất tại một vùng kinh tế mới, phải chi chị Trân có được một trong những món đồ này thì đâu đến nỗi…!

Thấy Mẫn cứ đứng tần ngần, ông Sang đưa người khách đến cái bàn lớn giữa nhà:

-Mẫn cứ ngồi chơi đi! Lâu lắm mới gặp lại được người quen trong xóm cũ làm tôi mừng lắm đó, quên cả mệt..

-Dạ trung úy chắc khỏe luôn? kể ra tìm nhà trung úy không mấy khó.

-Cứ gọi tôi là Sang đi, trung úy trung iếc gì nữa. Sao kể cho tôi nghe qua đây khi nào, ở tiểu bang nào? có đem theo vợ con gì không?...

-Cũng hơn một năm rồi, đi tù về lại phải ở vùng kinh tế mới mất mấy năm, may mà có diện H.O., tuy là H.O chót, hiện đang ở tiểu bang miền Bắc, hồi đó chật vật quá nên khó tính chuyện vợ con, nhưng khi biết mình được đi Mỹ cũng có nguời ‘ kết hộ’ để đi, bây giờ cũng đâu vào đó.

-Như vậy cũng tiện, vợ con đôi lúc cũng phiền!

Hình như biết mình lỡ lời, ông Sang vội đứng dậy đi về phía tủ lạnh, cầm lại hai lon bia đặt lên bàn, đẩy về phía Mẫn một lon, ông tiếp:

-Làm một lon cho ấm bụng rồi kể chuyện bên nhà cho tôi nghe với, tôi nhớ hồi đó ở xóm mình cũng vui ghê, nhất là khi tôi mới quen biết “nhà tôi”, tôi đã sợ tiếng sáo của cậu, sợ nhất là những đêm tôi đưa nàng về trễ, lại nghe cậu thổi bài “Tiếng sáo thiên thai”. À mà hồi đó cậu đang còn đi học phải không? Khi đám cưới tụi này thì không thấy cậu, Trân bảo cậu đã vào lính rồi. Ngày tôi đi tù về, không có dịp ra Nha trang, vợ tôi vào Sài gòn ở với tôi khoảng mấy tháng, rồi tôi vuợt biên, sang được xứ này, thời gian đã không dừng lại chờ ai, nhắm mắt lại, mở mắt ra chỉ còn là kỷ niệm…

Mẫn nhìn sững ông Sang, mới lần đầu tiên đến nhà sao ông lại dễ dàng tâm sự, lại nhắc đến ‘nhà tôi’, nhưng cũng ngần ấy năm, ông không hề tìm kiếm họ, động cơ nào đã khiến ông nhớ đến họ, chẳng lẽ mới nhìn thấy mình?

Thấy Mẫn lặng thinh, ông Sang tiếp:

-Nghe nói ở bên mình bây giờ nhà nước đã nới lỏng, đã cho ăn chơi thoải mái rồi, nên cũng dễ thở, dù rằng không giống được như trước 75 phải không?

Cảm giác khó chịu chợt ùa đến, một cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ họng, tự nén, Mẫn trả lời gia chủ:

-Xin lỗi! Tôi cũng chỉ là một tên tù lỏng, lại không có cơ may để hưởng thụ nên không biết gì để kể, hôm nay tôi tìm đến đây là do sự nhờ vả của môt người..

Chợt ông Sang chồm về phía Mẫn hỏi dồn:

-Lâu nay chắc cậu vẫn ở Nha trang? Và cậu có gặp mẹ con của Trân, bây giờ họ sống chắc cũng khá?

Mẫn thấy một luồng khí nóng đang len vào người, chàng cười khẩy, nhìn thẳng vào mặt ông Sang:

-Anh vẫn còn nhớ tới họ?

Ông Sang thở dài, cúi xuống cầm lon bia xoay qua xoay lại trên mặt bàn, những giọt nước lấm tấm từ trên thành lon rớt xuống tạo thành một vũng nước nhỏ, ông lấy tay vẽ nguệch ngoạc những vòng tròn vô nghĩa, Mẫn chăm chú nhìn ông ta với không biết bao nhiêu điều thắc mắc trong đầu, phải chăng ông ta đang tự hối, và chàng đang ngồi ghế vị quan tòa? Không! chàng chỉ là kẻ ngọai cuộc nhưng bất bình trước cảnh đời quá bất công.“Tội nghiệp cho Trân, cho cháu Trang, làm sao họ có thể tưởng tượng được cuộc sống quá giàu sang của người thân họ ở xứ này, chỉ cần một món đồ chơi, biết chừng đâu bịnh của Trân được chữa khỏi…?”

Giọng ông Sang lại cất lên:

-Hãy cho tôi biết gia đình của Trân bây giờ ra sao? Hồi mới qua tôi đã có ý định làm giấy bảo lãnh cho mẹ con nó, nhưng thình lình mất liên lạc, người nhà của tôi lại ở cả bên này, lại chẳng biết nhờ ai tìm kiếm, rồi thời gian có quá nhiều thay đổi, chuyện đến cũng đã đến rồi nên tôi đành lỗi đạo.

-Anh có hối hận cả ngàn lần cũng chẳng được gì vì tất cả đã muộn.

-Thì tôi cũng nghĩ thế nào rồi Trân cũng sẽ lập gia đình khác, và con Trang sẽ không nhận tôi là cha, vì tôi không làm tròn bổn phận, nhưng như vậy cũng hay, vì Trân còn trẻ đẹp mà!

Nghe câu nói trơ trẽn của ông Sang, cơn giận như thêm dầu vào lửa, chàng lớn tiếng:

-Anh tưởng rằng tất cả những người đàn bà hy sinh cho chồng ra đi tìm tự do, rồi họ ở lại lấy chồng khác, như những người đàn ông tệ bạc vừa mới sang chỗ ở mới đã có vợ khác thay vào sao?

Ông Sang chưng hửng ngó sững Mẫn, ông vớt vát:

-Nhưng Trân còn trẻ, còn đẹp, dạo sau này biết được nàng đã lập gia đình khác với tên cán bộ C.S, tôi thấy vậy cũng xong.

-Vâng; chính vì nét trẻ đẹp của chị ấy đã giết lần mòn cuộc sống của chị, chị luôn sống trong hy vọng đợi chờ, chờ đợi để được đoàn tụ với người chồng tình nghĩa, cũng chính vì nét trẻ đẹp và lòng chung thủy của chị ấy mà đã bị sự trù dập của bọn cán bộ địa phương, đến khi nhắm mắt, xuôi tay cũng không có được sáu tấm ván lành lặn để ấp ủ nắm xương tàn! Làm sao chị có được gia đình nào để dung thân? Và kẻ nào đã quá nhẫn tâm bôi bẩn sự trung trinh của chị ấy?

-Sao? cậu nói sao? cậu nói Trân đã chết rồi à? Ông Sang chồm hẳn người gần như nằm lên bàn, níu hai vai Mẫn lắc mạnh.

-Phải! chị Trân đã mất, trước khi tôi đến được xứ này.

Ông Sang gieo người xuống ghế, hai tay ôm lấy mặt, ông buồn? ông đau đớn?.Lương tâm ông đã nói gì với ông khi nghe tin người vợ trẻ bị ông bỏ rơi từ bấy lâu nay đã không còn sống trên cõi đời này. Sự mất mát, đau đớn có thực sự đến với ông, hay chỉ là một xúc động nhất thời, rồi đâu lại vào đó với người vợ sau, với những tiệc tùng, những cuộc vui…?

Mẫn muốn hét vào tai ông Sang thật nhiều, rằng ông có biết không, ông đã nhẫn tâm bỏ rơi một người đàn bà trẻ đẹp, mà dạo nào ông đã khổ công, khó nhọc lắm mới cưới được nàng. Người con gái độc nhất, con nhà quan, vừa đẹp lại ngoan hiền đã là ‘đối tượng’ của khối chàng trai trong thành phố, kể cả bọn học trò như Mẫn. Từ những buổi tan học, bọn Mẫn mấy thằng cứ đứng chờ trước cổng trường Nữ trung học, để thấy người nữ sinh áo trắng từ từ yểu điệu bước lên chiếc xe jeep nhà binh, có cái ông tài xế nét mặt hầm hầm, xoay một vòng vô-lăng xe, đạp thắng kêu “rét-rét”, lại nhấn mạnh chân ga, chiếc xe vọt đi để lại cho bọn học trò một đám bụi mù bay tung tóe.

Khi vào đại học, Mẫn không còn cơ hội gặp nàng, vì nàng đã có ông Sang, Trung úy huấn luyện viên ở một trung tâm huấn luyện quân sự trong thành phố. Lần được tin Trân lên xe hoa, Mẫn đã đập bỏ ống sáo và đi vào đời lính. Vậy mà Trân đã phải sống cuộc sống quá vất vả từ những ngày đau thương đó. Một gia đình tan nát. Chồng, Cha vào tù, Cha chết, Mẹ rầu rĩ cũng theo gót ra đi, cũng như sự ra đi của người chồng không hề quay nhìn lại. Mang tội danh gia đình Ngụy, thêm tội có chồng vượt biên, và dù có con còn quá nhỏ, nhà Trân, căn biệt thự xinh xắn ở đường Hồng Bàng đã bị tịch thu, bị đẩy đi vùng kinh tế mới Đồng bò. Lúc Mẫn đi học tập về, tìm đến gặp Trân để thấy một Trân xanh xao, gầy còm, tiều tụy với gánh rau muống trên vai làm kế sinh nhai.

Nhưng số Trân không thọ, dù được những bà con cùng cảnh ngộ giúp đỡ hết lòng, áng mây buồn đã tan biến trước ngọn phong ba. Trân chết đi ngoài con Trang khóc, ông Năm khóc, cô Mùi khóc, tất cả mọi người trong xóm đều khóc, nhưng có một người khóc không thành tiếng, đó là chàng. Mẫn thấy mình bất lực, bất lực như ngày nào còn cầm khẩu súng trên tay, chưa nhả hết băng đạn vào trán kẻ thù, phải đành buông súng thúc thủ chờ chúng trói. Tên ‘Thiếu uý quèn’ mà cũng mất hơn ba năm trời trong mấy trại “tù cải tạo” từ Cà-Tum qua đến Bù gia Mập và thêm bốn năm tám tháng nằm tù vì tội “cấu kết phản động” tại trại giam…Trần Phú.

-Cậu Mẫn có biết bây giờ con gái tôi nó ở với ai không? nó cũng đã lớn rồi, không biết nó làm gì để sống?

Ông Sang kéo Mẫn trở về thực tế. Chàng rầu rầu:

-Đó là lý do tôi vượt cả ngàn cây số để đến đây, cháu Trang muốn nhờ tôi trao đến tận tay ông một lá thư, nó biết có gửi đến địa chỉ nhà của ông, ông cũng sẽ không bao giờ nhận được. Đây, ông hãy đọc đi xem nó nói gì.

Mẫn rút trong túi áo ra một bì thư xanh, lá thư mới nhìn cũng biết xuất xứ từ đâu. Chàng cũng kiếu từ ra về mặc cho ông Sang cầm giữ.



Đêm đã xuống từ lâu, nhưng bữa cơm chiều ông Sang vẫn chưa sờ mó đến, ông ngồi bất động trước bàn viết, thẫn thờ nhìn vào cái chụp bóng của ngọn đèn bàn và tờ thư, tờ thư vàng vọt, mỏng manh như hình hài đứa con gái viết bức thư mà ông đang cố công mường tượng. Tiếng quát tháo, la hét, chửi bới của bà Đức- vợ ông, đã im hẳn tự lúc nào, người đàn bà có tính tình đi ngược với cái tên, và nếu đem so sánh sắc đẹp với vợ ông ngày cũ, thì người đầu kẻ cuối. Bà biết ông đã có vợ con, vì bà cùng xứ với vợ ông, học cùng trường trung học với vợ ông, và ngày mới đến Mỹ, khi những người quen biết cũ gặp lại xứ này, thì bà đã là người giúp ông đi tìm mua những nhu cầu cần thiết trong cuộc sống mới, ngay cả việc mua những lon sữa “guigo” gửi về cho con ông mới tròn tuổi ở bên nhà, nhưng không hiểu tại sao ngày đó ông lại vội vã đút đầu vào chiếc thòng lọng bà giăng sẵn, có phải vì sự thiếu thốn của người đàn ông xa vợ, và bà thì có dư thừa bí quyết để thành công(?).

Ông ở với bà chưa tròn sáu tháng thì đã có đứa bé đầu tiên ra đời, rồi hai đứa nữa lần lượt chui ra, níu chặt chân ông, và ông đã mù quáng nghe theo lời ton hót của bà đến nỗi quên bẵng mình đã từng có cả vợ lẫn con, đứa con gái mà ngày ông trốn chui trốn nhủi xuống thuyền vượt biển nó chỉ mới tròn hai tháng tuổi, èo uột khó nuôi, và mãi đến hôm nay, những nét chữ nghiêng nghiêng, xiêu vẹo như dáng đứng của những người đàn bà ốm yếu- vợ ông-con ông lại hiện diện truớc mặt khiến ông ray rứt ngậm ngùi.

Cứ mỗi lần đọc thư là tim ông như thắt lại, và ông đã đọc không biết bao nhiêu lần. Bị dằn vặt lương tâm, ăn năn thống hối, hết ngó vào ngọn đèn, ông lại ngó sững lên vách tường, hình như có một vết nứt dài dội ngược vào mắt ông, càng lúc vết nứt càng rộng ra, và ông cố đưa hai tay cầm giữ nó lại, ông càng níu, càng muốn lấp kín vết nứt chừng nào nó càng bung mạnh ra, đôi tay ông run lên, trước mắt ông là những vòng đôm đốm quay cuồng, ông ôm đầu gục xuống bàn, nhưng những chữ viết trong tờ thư đang hiện lên mồn một :



Nha trang ngày.. tháng..

Kính thưa ông,

Tui là Trang, đáng lý ra tui phải gọi ông bằng tiếng “Ba” như lời của Ông Năm và cô Mùi biểu, ngay cả chú Mẫn trước khi đi cũng đã dặn tui, nhưng sao tui thấy khó quá, khó nhiều so với lần đầu tiên tui đi cuốc đất sỏi để trồng bó hom mì.

Đáng lẽ ra tui cũng không muốn viết thư cho ông làm gì, nếu tui không nghĩ tới lời Má tui dặn trước khi bã gần chết: “ Má đã có địa chỉ của ba con, con phải viết thư cho ổng, dù gì ổng cũng là Ba con!” thiệt tình tui không muốn làm Má tui buồn nữa, vì lúc sống bã đã buồn quá nhiều rồi, nhưng mà tui không hiểu tại sao nguời lớn cứ nói và làm không giống nhau, như cái chỗ tui ở đây, đi đâu cũng thấy mấy hàng chữ: “Độc lập -tự do- hạnh phúc-ấm no” mà tui có thấy ấm no gì đâu, còn Má tui hay ông Năm với cô Mùi cứ nói “dù sao ổng cũng là ba con”, vậy chớ từ lúc ông đi tới giờ ông có biết là ông có một đứa con không? như cha thằng Tấn ở bên nhà tui đây, ba nó cũng đi Mỹ như ông khi nó còn rất nhỏ như tui, vậy mà mấy năm trước nó được lên máy bay qua Mỹ ở với cha nó, đừng nói chi hồi còn ở nhà nó có đủ thứ đồ chơi, quần áo, cả kẹo cao su mà nhai nữa kìa. Ông Năm nói chắc tại Ba nó lúc trước chỉ là lính Binh nhì thôi, họ có đời sống cực khổ, nên Ba nó thương mẹ con nó mãi, nhưng tui đâu nghĩ vậy, đáng lẽ ba nó ít học giống như tui bây giờ, thằng Tấn nói ba nó ngày xưa vì nhà nghèo nên không được đi học nhiều nên chỉ đi lính trơn mà thôi, còn ba mày có học nhiều nên đi lính làm tới chức trung úy lận. Nghĩ lại mà thương Má tui biết chừng nào, Bã đau nặng mà đâu có nhiều tiền để mua thuốc, ở đây vô nhà thương hổng có tiền đưa cho bác sĩ, họ đâu có chữa bịnh cho mình, mà Má tui thì bị sốt rét nặng, chớ đi kinh tế mới mà không bịnh sao được, má tui ốm giống như cái cánh con chuồn chuồn, vậy mà cứ rán chờ tin ông, may ra ông gửi dìa cho ít thuốc men uống cho hết bịnh. Thiệt rõ ràng cái địa chỉ chú Mẫn đưa cho Má tui mà, làm sao sai được, bạn chú Mẫn còn nói ông ở trong cái nhà thiệt bự, lái cái xe hơi cũng sang giống mấy ông cán bộ lớn bên này, Má tui đã mượn tiền ông Năm để mua tem gửi ba cái thư lận, vậy mà đến khi gần chết Má tui cũng cứ chờ, may ra có thuốc của ông gửi cho để Má tui sống mà đi làm ruộng rau muống nuôi tui, Má tui còn van vái trời Phật phù hộ cho ông nữa, bã tin vào Phật lắm, mà tui nghĩ cũng có tội với Má tui nhiều, có một lần tui thấy bã ôm một cái gói ra đi, tui hỏi bã đi đâu, Má không chịu nói, tui nghĩ bã đi chơi mà dấu tui, suốt mấy ngày tui giận không nói chuyện với bã, tui thấy bã cũng buồn lắm mà hỏi gì tui đâu có nói, tới bữa ngày rằm kia tui thấy cô Mùi cũng ôm cái gói rồi qua rủ Má tui đi, tui lén đi theo, đi xa lắm, thì ra Má tui đi vô chùa, bã bận áo dài lam rồi mới lạy Phật, cái áo dài đó Má tui giữ kỹ không chịu bán như mấy cái khác. Từ đó tui thấy thương Má tui quá chừng, tui hứa là tui không làm bã buồn nữa, vậy mà Má tui cũng bỏ tui mà đi. Lúc này tui cũng có chiên bánh tiêu bán, có thêm chút tiền để mua gạo ăn đủ ngày hai bữa, với lâu lâu chú Mẫn có gửi tiền Mỹ về cho. Tui cũng không muốn viết dài cho ông làm gì, vì cũng tốn giấy lắm, phải viết nháp nữa mà, với lại ông Năm nói con Trang mầy viết chữ như gà bới, lại nói lung tung, rồi câu kéo không ra gì hết, có viết nhiều chắc chi thằng cha mầy nó đọc, chắc ông Năm nói cũng đúng, nhưng tui nghĩ nếu lần này tui không viết thì không biết đến bao giờ chú Mẫn có thể đưa thư tới tay ông, tui phải nói cho ông biết tui là con Trang, con của ông, ông Năm nói tại cha mầy tên Sang, đặt cho mày tên Trang, nên tất cả bị lật qua một bên hết, như cái phim “quyển vở sang trang” họ chiếu trên truyền hình tui coi được ở nhà ông Năm, Ông Năm nói “ba mày có ăn học nhưng thiếu tình người, không có thủy chung”, không biết có đúng không.

Cũng tại số Má tui xui nên ông bà ngoại tui chết sớm, rồi bã cũng chết non, chớ tui không dễ gì chết đâu, vì từ nhỏ tới giờ tui khổ quen rồi mà, chỗ tui đang ở là vùng kinh tế mới Đồng bò, toàn là người nghèo khổ không hà, nhưng bây giờ không biết tại sao người giàu lại kéo lên, người ta bắt đầu xây nhiều nhà đẹp lắm, nghe nói mấy người đó ở bên Mỹ về mua, ông Năm nói mấy người nghèo chắc sắp bị đuổi đi nữa, rồi mai mốt tui không biết phải đi đâu, phải chi Má tui đừng đẻ tui ra thì tui đâu phải khổ như dầy, chắc tui phải khấn vái Má tui nhiều nữa để bã phù hộ cho tui có được cơm ăn ngày hai bữa, đừng bị đuổi nhà và cũng phù hộ cho ông được sống lâu trăm tuổi.

Chào ông.

Tui là Trang con của ông.!


Lê thị Hoài Niệm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22160
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Sep/2020 lúc 12:53pm

Người lính già trên chuyến tàu đêm







Con tàu chuyển mình ra khỏi ga Hoà Hưng vào lúc hoàng hôn, đuổi theo là những mảng mây tím trên nền trời. Sài Gòn nằm lại đằng sau với phố phường rực rỡ ánh đèn, xe cộ chen nhau trên đường phố, nóng và bụi khiến con người tưởng như đang chìm lỉm trong bầu không khí đặc quánh đầy ô nhiễm.

Hơn mười năm trở lại quê nhà, lúc bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất, buổi xế trưa trời nóng bức, không khí ngột ngạt. Ông Bảo lặng lẽ nối đuôi sau đám hành khách đang lục tục xếp hàng làm thủ tục hải quan, mồ hôi vã ra đầy người. Người về lặng lẽ chờ, cảm giác có nôn nao nhưng không láo nháo bằng đám người nhà đang đứng ở phía ngoài chờ đợi thân nhân. Khi ngồi trên chiếc taxi chạy ra khỏi phi trường, ông Bảo mới ngỡ ngàng nhìn một Sài Gòn thay hình đổi dạng. Sài Gòn đây rồi, hơn mười năm biền biệt vắng xa, ông Bảo cố tìm lại vài nơi chốn quen ngày xưa khi chiếc xe tắc xi len lỏi trong dòng xe đầy nghẹt trên đường phố.

Thay đổi nhiều, nhưng ông Bảo không phải về để tìm điều gì trong cái thành phố diện tích chật chội với tám triệu người dân, đang chen chúc nhau gần như không có không khí để thở. Ông chỉ lướt qua Sài Gòn, rồi về nghỉ ở nhà bà con vùng ngoại ô thành phố, chờ chuyến xe lửa ra Trung, ở đó có bà mẹ già của ông đang thoi thóp những ngày cuối đời chờ đứa con xa trở về.

Đã quen với những xa lộ thênh thang của nước Mỹ, những khu nhà ở cách xa nhau nằm ẩn mình sau những bóng cây xanh, phố xá cũng ít bộ hành trên đường phố. Ông Bảo cảm thấy hơi ngộp thở trước cái nóng, cái bụi, cái ngột ngạt của một Sài Gòn đang chuyển mình để ngoi lên với những đô thị lớn trên thế giới.

Hồi xưa ông ít khi có dịp về Sài Gòn, bởi thế với ông sự thay đổi ấy không làm ông choáng ngợp bao nhiêu. Mười hai năm ở quê người, mỗi lần nhớ về quê hương, trong óc ông hỗn độn nhiều hình ảnh khắp ba miền đất nước, nhưng quả đáng tội, hồi niên thiếu ông sống ở miền Trung, dải đất nghèo nhất trong ba miền Trung Nam Bắc, đã để lại nhiều nỗi nhớ sâu đậm trong lòng ông, dù ông được sinh ra ở miền Bắc.



Trời dần tối, những vì sao giờ này mới nhấp nháy trên nền trời tối thẫm như nhung. Bỏ lại Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông, thành phố ánh sáng của những người giàu và cũng nơi trú ẩn cho những người nghèo trong những hẻm hóc tối tăm không bình yên. Nơi nào cũng vậy, ở Mỹ người ta vẫn có thể bắt gặp được những hình ảnh tương phản của sự nghèo giàu, nhưng không quá chênh lệch như ở Việt Nam. Chẳng cần nhìn đâu xa, ngay trên chuyến tàu này, những người như ông từ nước ngoài về, những du khách ngoại quốc muốn tìm cảm giác cuả chuyến tàu đêm, hoặc những người thành phần khá giả ở trong nước thường vẫn kiếm một chỗ khá đầy đủ tiện nghi trên xe lửa. Còn ở những toa tàu ngồi, giữa khoảng trống cuả hai hàng ghế, lổn nhổn những chân cẳng và hành lý ngổn ngang, người đi tàu đang thu dọn để tìm một chỗ nghỉ lưng suốt đoạn đường dài ra Trung, Bắc. Toa ông ở có bốn người, hai anh Tây ba lô đi du lịch Việt Nam, một người Việt có vẻ thuộc hạng khấm khá về thăm nhà ngoài Trung. Khi vào phòng, loại giường hai tầng khá bất tiện khi ban đêm có người lục đục trèo xuống để ra ngoài. Mọi người chỉ gật đầu mỉm cười với nhau rồi tìm chỗ của mình. Chiếc giường nệm trắng toát, có bàn để ngồi uống trà, vài cuốn quảng cáo về du lịch để trên mặt bàn, ông bỗng nghe tiếng nhạc dặt dìu vang lên , có lẽ từ lúc chuyến tàu đêm chuyển bánh mà ông không để ý.

Quái lạ! Bản nhạc "Tàu Đêm Năm Cũ" được một cô ca sĩ có giọng trầm buồn vẫn lồng lộng vang lên trên chuyến tàu đêm ra miền Trung, khiến ông bàng hoàng lặng đi một chút khi nghĩ về những cảnh chia ly trên sân ga hiu hắt ánh đèn mờ, ở những thập niên trước khi chiến tranh còn đang sôi sục.

"Trời đêm dần tàn, tôi đến sân ga nơi tiễn người trai lính về ngàn, tàu cũ năm xưa mang về trả cho tôi người xưa..."

Thốt nhiên, ông nghe mắt mình nằng nặng, cảm giác những chuyến tàu đêm năm cũ hồi ông còn là một người lính bỗng ào ạt trở lại, như là ông lại một lần nữa nhìn thấy bóng dáng người lính năm xưa, bùi ngùi nắm tay người yêu trước giờ chia biệt. Và tiếng còi tàu, ôi tiếng còi tàu sao lúc ấy nó não nùng như hồi kèn truy điệu. Ông vội nhắm mắt lại để đừng nghĩ gì nữa. Chung quanh ông còn lại gì, chập chờn ảo giác cuả những hình xưa trở lại. Không, ông vẫn đứng đây, bên khung cửa sổ cuả toa tầu hạng nhất, tóc đã bạc, đôi mắt sụp mí khi về già, nhìn mải miết vào bóng đêm mịt mùng để tìm lại những hình bóng cũ.

Con tàu tăng tốc độ, hé mở cửa sổ phía bên ngoài ông không nhìn rõ gì lắm, chỉ nghe vù vù tiếng gió đêm thổi bạt hai bên tai. Có lẽ sau hai tiếng đồng hồ hay hơn một chút, ông lại thấy con tàu đi vào khu thành phố rực ánh đèn. Khung cửa lưới của toa tàu khá rộng, hai người Tây ba lô đang nhai mỗi anh một ổ bánh mì thịt, vừa rù rì nói chuyện, người đàn ông Việt Nam cùng phòng cũng đứng ở đó từ bao giờ, ngắm cảnh lên xuống ở sân ga. Ông quay sang người bạn đồng hành hỏi trỏng:

"Đây là đâu nhỉ?"

Ông ta cũng trả lời trống không, giọng miền Bắc:

"Tới Long Khánh rồi". Rồi nhìn đồng hồ ông ta tiếp:

"Hơn chín giờ. Ông về đâu?"

"Tôi ra Quảng Ngãi."

Ông trả lời vắn tắt. Người khách tò mò hỏi thêm:

"Ông từ nước ngoài về?"

Ông lắc đầu, nói "Không, không". Có gì chứng minh được ông là người xa quê mới về thăm nhà, bộ quần áo tầm thường khiến ông trông giống một người lính già đã giải ngũ hơn là một Việt Kiều về thăm quê. Mà ông chính là người lính già về thăm quê thật, cho là cái lằn Nam, Bắc nằm chình ình ngay chính giữa, thì ông vẫn chỉ là một người lính già không hơn không kém.

Bốn chữ "Nhà Ga Long Khánh" lộng lẫy đóng khung trong những bóng đèn xanh đỏ đập vào mắt ông, khiến ông chợt buồn rầu khi nhớ rằng có một thời vợ ông đã vất vả đi lên đi xuống cái sân ga này. Từ đây đi thêm một cuốc xe "Lam" nữa, cách thị xã khoảng mười cây số. Hai bên đường là những làng mạc của dân di cư miền Bắc, đi khoảng 2 cây số là đã thấy nhà thờ. Chỗ đấy có một trại tù, ngày xưa vợ ông đã đi tìm chồng hú họa ở cái địa chỉ mang những con số đầy bí ẩn và tối tăm như đời tù tội của ông.

Gần ba mươi năm trước, vợ ông giả dạng thành một người bán rong gánh trái cây lặn lội lên Long Giao tìm chồng. Long Giao là căn cứ quân sự cuả sư đoàn 18 Bộ Binh để lại, khu quân sự rộng lớn bao xung quanh là những con đường đất đỏ bụi mù. Sau vùng này trồng chuối bạt ngàn xen lẫn với những vườn tiêu của dân địa phương, len lỏi vào khu vườn chuối là những con đường đất nóng bỏng.

Năm đầu ở Long Giao, vợ ông vẫn bỏ lũ con thơ ở nhà, đi tìm chồng với cái hy vọng mong manh là tìm được chồng trong đám đàn ông ngày ngày vác cuốc đi lao động xung quanh trại. Mỗi lần đi, bà lại quảy trên vai một đôi gánh, dưới thúng đựng dăm thứ đồ ăn tiếp tế, trên chiếc mẹt ngụy trang vài thứ trái cây. Từ một khoảng xa đến hai lớp hàng rào kẽm gai, đám đàn ông thất trận ngừng tay cuốc ngóng mắt nhìn theo một đám phụ nữ dáng dấp thon thả đang lố nhố đứng ngoài khu vườn chuối ngó vào. Kẻ ngóng ra, người ngó vào, bụi và nắng nhấp nhoá nên khó nhận ra nhau, thỉnh thoảng đám phụ nữ trẻ lại mon men xấn vào gần hàng rào kẽm gai để được gần gũi hơn đám tù đang cuốc đất, lại bị đuổi ra xa như một bầy gà nhao nhác. "Làm sao gần được em ơi, hai hàng rào kẽm gai với lại những câv súng kè kè như vậy". Họ í ới gọi nhau hỏi chuyện, lần ấy may mắn ông đã nhận ra vợ trong chiếc áo cánh trắng, trên đôi vai nhỏ bé là đôi đòn gánh mà ông không hiểu làm sao vợ ông lại có thể gánh được, khi từ bé đến lớn bà chưa hề biết gồng gánh là gì. "Cạn ao thì bèo xuống đất", ông thương vợ quá, nhưng cũng phải công nhận sự khéo léo và nhẫn nhục cuả vợ trong thời buổi nhiễu nhương ấy.

Chỉ lần ấy thôi vợ chồng nhìn thấy nhau để rồi ông lên đường ra Bắc. Đêm ấy khi ngồi trong chiếc xe bịt bùng để đi xa, ông có nghe tiếng còi tàu. Tiếng còi rúc lên lạnh lùng như tiễn biệt, lòng ông quặn đau khi nghĩ đến vợ con. Sau này ông có nghe bà kể, nhà ở gần sân ga, chiều nào bà cũng tìm một nơi yên lặng để ngóng tiếng còi tàu, cứ hy vọng con tàu ấy sẽ là chuyến tàu đêm năm cũ trở về sân ga, có ông tàn tạ trở về với bà và lũ con.

Mới đó mà gần ba mươi năm. Mười ba năm trong tù ông không quên. Giờ này khi tàu ngừng trên sân ga Long Khánh, ông vẫn nhớ cái khởi đầu cuả một cuộc hành trình mười ba năm ông bị bứt ra khỏi mái ấm gia đình. Hú vía! Ông còn đây, thân hình có tiều tuỵ nhưng vẫn còn đây, ông sờ vào hai lỗ tai lạnh để biết rằng mình vẫn còn đây, người tù mười ba năm vẫn còn đây, với những vết sẹo đã lành da vẫn ngứa ngáy một cách dị kỳ khi nhớ lại...

Sau thời gian dừng lại để khách lên khách xuống, con tàu lại rùng rùng chuyển bánh, ông để ý hễ tàu đến tàu đi, đều có kèm theo một hồi còi rất dài,nó kêu tu tu trong đêm vắng, buồn thắt ruột. Nhạc lại vang vang trong đầu ông, toàn những bản đã cũ:

"...Chiều nay có phải anh ra miền Trung, về thăm xứ mẹ cho em về cùng. Rồi ta sẽ đi chung chuyến tàu..."

Tiếng hát vang vang một âm điệu rộn rã, những bản nhạc một thời viết cho lính lại được sống lại trong chuyến tàu đêm. Giờ này ở đây chỉ có người lính già đi tìm quá khứ, dường như những người lính sống hay chết đã đồng loạt tử trận từ tháng Tư năm ấy. Ông rút một điếu thuốc phì phà trong bóng tối, đốm lửa lập loè như lóe sáng dậy một thời trẻ tuổi. Con tàu trong đêm tối cứ băng mình lặng lẽ xập xình đi vào vùng biển mặn, hình như có mùi nước mắm biển Phan Thiết quyện trong gió. Trong đêm tối, mắt ông không nhìn thấy gì vì cảnh vật mập mờ, nhưng ông đánh hơi được nơi chốn bằng khứu giác.

Tàu lại vào sân ga, người lên kẻ xuống, những người bán hàng rong và người đi tàu đang kỳ kèo trả giá những túi khô mực, những thùng nước mắm. Ông nhớ những lần nhậu thâu đêm suốt sáng với bạn bè, con khô nướng vội và những chai bia 33 lăn lóc dưới gầm bàn, ngả nghiêng đi về với một vầng trăng khuya. Vậy mà không ngã, vẫn ngất ngưởng đi về đến nơi đến chốn. Thời ấy hết rồi, Phan Thiết, Phan Rang, Nha Trang chỉ là những nơi ghé vào ngắn hạn, nhưng ông nhớ hoài mùi biển mặn. Nhớ xa hơn một chút về biển, chuyến tàu Hải Quân cuối cùng từ bãi biển Đà Nẵng lui về phương Nam, hỗn độn, chen lấn, quan không ra quan , quân chẳng ra quân, chuyến ấy ông mất sạch sành sanh, khi về đến Vũng Tàu mỗi người chỉ còn cái túi vải đeo trên vai, vài bộ quần áo, đúng là "trên răng, dưới ...dế". Ông nhớ ngày hôm ấy, chiếc xà lan quá tải ngả nghiêng trên mặt biển, người ta rơi lõm tõm xuống nước, chết vô số. Ôi lại biển, kinh khủng lắm, hễ nếm phải nước biển là ông lại nghĩ đến hương vị nước mắt, hai thứ ấy nó giống nhau lạ lùng.

Nha Trang biển đêm vẫn rì rào sóng vỗ, từ xa đã nghe được tiếng sóng, ngửi được mùi biển mặn. Chỉ tiếc là lúc ấy đã khuya, ông không nhìn thấy gì bằng cách lại đánh hơi ra những nẻo đường quê hương bằng khứu giác, bằng đôi mắt lập lờ nhìn không rõ cuả tuổi già. Ông đi vào giường nằm nhưng vẫn không ngủ được. Trằn trọc, thao thức, chiếc giường êm ái làm ông lại nhớ tới chuyến tàu về Nam cách đây trên hai mươi năm, ông và người bạn tù xa lạ kết tình "huynh đệ" nhờ chiếc còng gắn vào cổ tay hai người. Đêm tối, anh bạn tù bàn tay nhỏ nhắn, rút được cái tay ra khỏi còng, vì thế mà ông được giải thoát một chặng đường dài. Kỷ niệm ấy ông nhớ mãi... Bây giờ anh ta trôi dạt về đâu nhỉ?

"Một đêm muà hè, tôi đến sân ga đi đón người trai lính trở về. Tàu cũ đêm nay có trả lại cho tôi người xưa, để đêm nay ngồi đây..."

Giọng ca buồn buồn của cô ca sĩ vẫn nỉ non suốt đoạn đường dài, hình như tàu mỗi lúc một đi nhanh hơn khi ra ngoài vùng đồng quê, đã thấp thoáng những rừng dừa bạt ngàn để bước vào ranh giới tỉnh Bình Định. Bây giờ thì dường như trong ký ức cuả người lính già, kỷ niệm lần lượt trở về rõ mồn một, khổ nỗi lại chỉ toàn kỷ niệm thời chinh chiến. Năm 72, những trận đánh ác liệt nhất đã diễn ra ở đây, trở ra những vùng khốc liệt như Sa Huỳnh, Đức Phổ, Mộ Đức. Đơn vị thám sát cuả ông toàn là những người lính tiên phong cảm tử đi vào miền đất chết, trước khi quân bạn được dàn trận đi đằng sau.

Trong bóng đêm mập mờ, mỗi một bến ga ông lại thấy mình gần gũi với kỷ niệm thời quân ngũ. Những địa danh gợi nhớ đến quay quắt từng vuông rừng, từng hốc núi, từng ngọn đồi hay những trảng cỏ tranh cao hơn đầu người. Màu xanh cuả rừng dừa Tam Quan vẫn không là cảnh đẹp yên bình để người lính mơ mộng, nó rình rập nỗi chết trong đó. Bồng Sơn, Quế Sơn, tên đẹp chi lạ mà đầy oan khiên của máu và nước mắt. Tàu ra khỏi Qui Nhơn, khoảng hai giờ sáng là đến Sa Huỳnh, rặng núi biếc giờ này đã tối đen khi con tàu chui qua lòng núi càng đen kịt lại như mực, giá ban ngày ông đã có thể thấy những đồi cát, những mảng rừng thưa bông cỏ lau trắng xoá tiếp giáp để đi vào ranh giới Quảng Ngãi. Ngày xưa, ông đã mòn gót giày trên những vùng đất chỉ có những bom đạn và nỗi chết, những đồng cỏ lau trắng xoá buồn u uẩn như người goá phụ đôi mươi quấn chiếc khăn tang trên đầu.

Vẫn nghe như hơi gió biển thổi qua triền núi thấp, vẫn nghe như hằng nghìn âm thanh thì thầm của những hồn xưa sống dậy. Những ngôi sao sáng và một mảnh trăng khuya, ở nhữnng vùng hiu quạnh hình như nền trời bỗng sáng hơn. Ông dùng thêm ly cà phê đen để đầu óc được tỉnh táo, mắt ông cay xè vì thiếu ngủ nhiều đêm, nhưng vẫn không làm sao ngủ được. Gần ba mươi năm mới có một đêm như đêm nay, trở về những vùng đất thân yêu đã gắn liền với ông suốt thời trai trẻ. Trong khung cửa sổ của toa tàu chỉ mình ông đứng đó, hai gã Tây ba lô đã ngủ say, còn người đàn ông kia chắc quá quen với đoạn đường này, ông nghe tiếng ngáy nho nhỏ vang lên trong buồng tàu.

Con tàu cứ lầm lũi băng mình trong đêm tối, thỉnh thoảng lại tu tu lên khóc. Nhất là ban đêm, giữa cảnh huyền hoặc của một nửa vầng trăng và những ngôi sao, gió thổi vù vù khi con tàu đi vào núi rừng miền Trung, ông gần như sống lại hoàn toàn cảm giác cuả đời lính thám sát nơi chiến trường miền Trung trên ba mươi năm trước. Cảm giác lần này lạ hơn, có lẽ vì ám ảnh chuyện cũ, ông nhìn những cành cây lay động dưới ánh trăng mờ khi con tàu vùn vụt đi qua, mà cứ ngỡ là những cánh tay của bao linh hồn anh em đồng đội năm xưa, đang vẫy tay đón ông về thăm chốn cũ. Thế giới vô hình làm sao hiểu được, nếu hiểu được người ta đã chẳng phải than khóc trước sự ra đi vĩnh viễn cuả người thân hay bè bạn.

Sa Huỳnh ơi! Nhớ quá đi thôi mặt trận đêm ấy. Những người lính thám sát lầm lũi đi trong bóng tối, những ụ đất ngày xưa giờ đã xanh cỏ, những vạch đạn cứa vào bóng đêm ghim vào cây cỏ, vào thân thể người lính đang di động trong đêm, tiếng rên la của người lính bị thương đòi uống nước.

"Nước, cho xin hớp nước..."

Tiếng rên rỉ đau đớn và đứt đoạn cuả người đàn em bị trúng đạn đòi xin hớp nước giờ này hình như cứ vọng mãi trong đầu ông. Ông nhớ những đêm hành quân trời mưa rét cóng, lúc hai bên im tiếng súng rút vào cố thủ, lúc dừng quân ông được một người lính tiếp vụ đưa cho ly cà phê đựng trong chiếc ca sắt nóng hổi. Chưa bao giờ có một thứ cà phê nào ngon bằng hôm ấy, nó làm ông tỉnh táo và lòng ngập tràn tình thương yêu đồng đội, gắn bó với nhau trong nhiều khoảnh khắc chết sống của đời người. Ôi những ngày như thế, bạn bè ông, đồng đội cuả ông đã ra đi mà dường như vẫn thèm rít một hơi thuốc cuối cùng, khônng biết ở cõi bên kia linh hồn họ có tìm lại được mùi cà phê, hơi thuốc lá như cõi dương gian này không?

Ở đây, khi cuộc hành quân tạm yên, ít nhiều gì đơn vị ông hay đơn vị bạn cũng bỏ lại rừng xanh những dòng máu đỏ, những bàn tay, cái chân cho cuộc chiến ấy, chưa kể có những người đã ra đi vào miền đất lạnh. Thiếu uý Kha, trung uý Điền, trung sĩ Nghiã, những người đàn em dễ thương mà ông còn nhớ, họ chết ở đây, trong đám rừng đen đặc kia. Ông nhớ lúc ấy đã vét túi tìm gói thuốc "Quân Tiếp Vụ", chỉ còn duy nhất một điếu cong queo, ông vuốt lại cho thẳng rồi gắn lên môi người đàn em bị thương nặng, làm món quà tiễn chân kẻ ra đi không bao giờ trở về. Điếu thuốc cuối cùng ấy là món quà quý dành cho người sắp chết, ông thèm lắm mà không dám hút. Ông giơ tay vuốt mắt cho người lính cùng đơn vị, mắt cũng cay xè...

Tiếng gió giữa canh trường qua rừng cây đen thẫm như tiếng reo cuả linh hồn những ngươì đàn anh, đàn em năm cũ vọng u u trong đầu, ông thấy nước mắt mình trào ra ướt đẫm trên má. Ông thò tay vào túi, gói thuốc còn nguyên, ông bóc gói thuốc rồi nâng lên trước mặt thì thầm nói một mình:

"Hút, hút đi các bạn, hút cho thoả trước khi để linh hồn tan vào cõi hư vô."

Ông ném từng điếu thuốc vào cái khối đen ngòm của rừng cây ven đường, không thét ra được khỏi lồng ngực phập phồng hai lá phổi héo, nhưng trong đầu ông lồng lộng:

"Hết chiến tranh rồi. Hết lâu rồi các bạn ơi! Thuốc đây, hút đi, hút đi rồi các bạn muốn đi đâu thì đi. Đừng ở lại đây nữa..."

Những điếu thuốc bay lả tả theo đường tàu, nước mắt ông cứ trào ra ướt đầm trên má, nhỏ giọt xuống trên thân áo. Vô tình hay cố ý, đêm nay ông về thăm lại chốn cũ, phong phanh chiếc áo sơ mi và chiếc quần màu ô liu, y như một người lính kỳ nghỉ phép về thăm nhà. Tiếng nhạc lại vang vang trong đầu người lính cũ:

"Ngày tháng đợi chờ, tôi đến sân ga nơi tiễn người trai lính ngày nào. Tàu cũ năm xưa có trả lại cho tôi người xưa, để đêm nay ngồi đây, viết lại câu chuyện này..."

Ông bịt hai lỗ tai để đừng nghe âm thanh rên rỉ buồn buồn cuả bài hát lập đi lập lại trong đầu ông trên chuyến tàu đêm. Tạm biệt các bạn thân quý của tôi, ba mươi năm gặp lại nhau như thế đủ rồi, khi ra đi đầu các bạn còn xanh, nay trở về đầu tôi đã bạc. Khác nhiều lắm rồi, những mỏm đất, những đồi cỏ, những rừng dầy, rừng thưa, đã phủ kín một màu xanh, cho quê hương thôi máu lửa...

Ba mươi năm sau cuộc chiến, người lính năm xưa đã hy sinh còn để lại những gì cho Tổ Quốc. Ngoài những vết sẹo kéo da non của người còn sống, ông Bảo chạnh nghĩ đến những thương binh đã lây lất sống nốt đời mình trên vỉa hè thành phố, dựa dẫm vào vợ con để thành một gánh nặng buồn tủi. Thế còn những đứa con của người tử sĩ thì sao? Trung uý Điền xuất thân trường Đà Lạt, khi chết trận bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ, trung sĩ Nghĩa có một đứa con không biết là trai hay gái trong bụng vợ. Gia tài người lính để lại chỉ có chiếc ba lô, đựng dăm thứ lặt vặt cho những cuộc hành quân dài ngày nơi rừng núi, khi nằm xuống họ đã kéo theo sau lưng mình sự đổ vỡ, tan tác, rách nát, thảm thương của một hệ luỵ máu thịt cùng chịu chung số phận...



Bình minh đã lên, ở miền nhiệt đới bình minh bao giờ cũng dậy sớm, chuyến tàu đi qua những quận lỵ cũ để vào thị xã. Lúc tàu đi ngang Đức Phổ, Mộ Đức, lại những chiến trường xưa, những chiếc xe nhà binh năm cũ ở đâu trong đầu ông ào ào chở đầy lính ra mặt trận. Tàu ghé vào ga, những người bán dạo trên bến ga mời chào í ới. Nhìn đĩa xôi gà trên tay một chú bé độ 12 tuổi, mà bé choắt vì phải ra đời sớm, ông gọi mua một đĩa xôi mà không cần trả giá. Nhìn cậu bé 12 tuổi sáng sớm bưng trên tay mâm xôi đi bán dạo, cái đùi gà vàng lườm được rô ti thật hấp dẫn, ông hiểu cái nghèo đè nặng trên đầu dân tộc ông, mắt ông bỗng nằng nặng như đêm qua ông về ngang chốn cũ. Ông ăn mà không biết ngon, chỉ ăn cho đỡ đói, để tìm hương vị cũ, niềm đau cũ. Chú bé bán xôi được ông cho một món tiền lớn gấp mười đĩa xôi gà, cứ đứng trân trân nhìn ông tưởng như là phép lạ đang xảy ra trên sân ga.

"Nhìn làm gì em ơi, giá hơn mười năm trước tôi cũng làm gì dám ăn đĩa xôi gà trên tay em, chẳng phải thịt gà phong độc như dân địa phương thường nói, mà vì nghèo, cái nghèo là thứ quả báo lớn nhất mà ông Trời bắt con người phải chịu". Lúc này đầu óc ông tỉnh táo hơn, nôn nao hơn, vì ông sắp về tới gia đình, về với bà mẹ già vừa lòa vừa điếc, chưa chắc gì đã nhận ra con.

Người ta lại tấp nập lên tàu, xuống tàu. Ông ăn xong đĩa xôi, gọi một ly cà phê đá nhâm nhi nhìn kẻ lên người xuống, bỗng liên tưởng cuộc đời y hệt một chuyến tàu, mà những người lính già như ông còn ngồi lại với nỗi buồn chiến tranh đọng lại trong mỗi hồi tưởng. Đêm qua khi đi ngang Sa Huỳnh lúc hai giờ sáng, hình như ông đã gặp lại bạn bè năm xưa trở về, họ là những người đã xuống tàu ba mươi năm trước. Ba mươi năm sau trên chuyến tàu đời, những lớp người đi sau như thằng bé bán xôi, cô bé dáng học trò ngồi bán cà phê ở toa ăn uống là lớp người sau lên tàu muộn. Bây giờ nếu ông kể chuyện cũ ba mươi năm trước, chắc hẳn chúng nó sẽ tròn mắt lên mà nghe như chuyện cổ tích. Một câu chuyện cổ tích rất buồn, chỉ còn mỗi người lính già như ông ngồi lại trên chuyến tàu đêm, khắc khoải. Tiếng nhạc vẫn lồng lộng trên sân ga, không phải bài "Tàu Đêm Năm Cũ", mà nghe rất lạ, như bài cầu kinh sắp tới hồi kết thúc:

"Rồi tàu xa rời, xa rời kỷ niệm
Trả lại cho mình, nửa phần yêu thương
Tìm lại xót xa, tìm lại vui buồn
Đi vào nhân gian, với lòng yêu thương.
Đi đi, đi thấu kiếp người...
Ôi niềm đau, hỡi nỗi vui
Đi đi, đi thấu kiếp người
Đi đi, để biết khóc cười hỡi ... ơi!"

Hơn mười giờ, tàu vào ga Quảng Ngãi. Ông sốc cái ba lô trên lưng, chậm rãi chờ người ta chen chúc nhau xuống sân ga, con tàu lại tu tu lên khóc. Ông sắp về với mẹ ông, căn nhà xưa trong một ngõ nhỏ. Con ngõ này hồi xưa thế nào nay vẫn vậy, nhưng nhà cửa được nâng cao, xây dựng lại khiến thoạt nhìn tưởng mọi điều đã đổi khác.

Ông về với mẹ, biết đâu không phải là lần cuối được cầm lấy tay mẹ, tay con cũng nhăn nheo huống gì tay mẹ ông chỉ còn là một nhúm da bọc xương khẳng khiu. Mẹ ông nằm đó, chả biết ai với ai, đôi mắt loà quáng lên một vùng ánh sáng mù mờ, như ngọn đèn cạn dầu leo lét chờ tắt.

Bên cạnh bà mẹ già vừa loà, vừa điếc, vẫn không biết là có một đứa con đi xa vừa trở về. Không còn cách nào khác hơn, ông cầm lấy bàn tay nhăn nheo, gầy guộc cuả mẹ, để bà sờ mặt con với những giọt nước mắt ướt đầm trên những ngón tay. Không biết trong cõi mịt mù của đời người sắp tàn ấy, bà có sờ ra được khuôn mặt cuả đứa con từ lâu rồi không gặp.


Nguyên Nhung
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22160
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Sep/2020 lúc 12:52pm

Dòng Sông Vẫn Chảy 


Gia đình tôi được một người bạn bảo trợ về sống tại Oakland California, một thành phố nhỏ sầm uất, ồn ào và sôi động nằm cạnh San Francisco. Những ngày đầu tiên khi còn đang bỡ ngỡ, lạ lùng... đều nghe tiếng còi hú xe cứu thương vào mỗi sáng chiều và thỉnh thoảng cứ cách vài đêm là có máy bay trực thăng vần vũ trên trời, soi đèn lùng sục tội phạm quanh khu vực gia đình tôi đang ở. Oakland có phi trường quốc tế với lượng khách ra vào rất đông, một bến cảng lớn nơi xuất phát nguồn tiếp liệu, tiếp vận cho chiến cuộc Việt Nam của quân đội Hoa Kỳ trước đây. Bên cạnh các trường đại học, khu thương nghiệp lớn còn nổi tiếng phố tàu Chinatown xưa cũ, đã thu hút nhiều quan khách, sinh viên du học mỗi lần ngang qua Cali, tìm hương vị quê hương vì bận xa nhà lâu năm.

Thành phố nầy khi ra đường thường gặp Mỹ đen nhiều hơn Mỹ trắng. Các sĩ quan cảnh sát bỏ mình trong khi thi hành công vụ bỏ mạng ở đây rất nhiều. Khu vực tôi ở, mới đầu cứ tưởng xứ Mỹ đâu cũng là thiên đường, thế nhưng thực tế, mỗi tối đều e ngại ra đường, nhất là ngay khúc quanh vào chung cư có một quầy li-cơ bán bia rượu. Các cậu choai choai đứng ngồi, mắt đỏ kè, tay cầm lon bia, giọng lè nhè khi thì nói chuyện nghênh ngang với một chiếc xe bạn đậu tỉnh bơ cản lối giữa lòng đường, khi thì nhảy nhót theo một điệu nhạc cuồng loạn với một chiếc máy c***ette mang theo. Nhìn mấy đầu tóc đánh rít thả dài, chiếc áo thun màu trắng rộng và dài đến đầu gối mà cảm thấy mệt mề. Cũng có người, mình trên trần trụi, mặc dưới chiếc quần Jean thả tuột gần hẳn bản mông, lòi chiếc quần lót ra trong khi hai tay luồn sâu vào chỗ kín, đứng án ngữ tỉnh bơ lối đi như trên đời không có ai, người lạ mới thấy ai cũng ngao ngán. Cũng như khu West Oakland, khu East Colesium, nổi tiếng về tội phạm, ban đêm ở đây là thế giới của họ!

Cùng chuyến phi cơ sang Hoa Kỳ có gia đình người bạn Dương Vui - một cựu sĩ quan cảnh sát - anh cũng về ở cùng thành phố nầy. Một buổi tối sau giờ cơm, anh thường tản bộ để đổi không khí trên đường Foothill Blvd, do ở trong nhà máy sưởi làm nhức đầu và gây khó chịu trong người. Khi đang mơ màng rảo bước thì khựng lại vì một thân hình to lớn chần dần chắn lối. Tên nầy không nói, đưa cánh tay vạm vỡ siết cổ anh Vui đến nghẹt thở, đồng thời tay kia hắn móc bóp khổ chủ, moi ra lấy đồng bạc 10 đô rồi mỉm cười bỏ túi, xô anh ra và bỏ đi. Hú hồn, mỗi lần sau đó, anh em bày vẽ nhau khi ra đường, trong ví phải có ít nhất 5, 10 đồng để hộ thân hộ thổ...

Đến Mỹ vào cuối đông, dịp lễ Tạ Ơn, trời lạnh ghê hồn. Mọi nhà phải đóng cửa kín, sợ hơi nóng xì ra, tiền “biu” cao. Cũng vì thế mà cái đầu lúc nào cũng cảm thấy ran ran, vừa nóng vừa nhức nhối như thiếu thiếu một cái gì.

Một hôm tôi nhận điện thoại khẩn từ chị Vui bảo nhờ lên nhà thương Highland ở Oakland gấp, vì chồng chị đang nằm cấp cứu mà chị bận con dại mới sanh không đi được. Khi tới nơi, bác sĩ bảo nếu tôi là thân nhân thì hãy ký giấy chấp nhận giải phẫu liền thì mới sống kịp. Lý‎ do là có một cục máu bầm đang ứ trong đầu gây tắc nghẽn máu. Lúc đi bộ hít thở khí trời vào ban đêm, anh vấp đầu vào một cành cây bên đường và bất tỉnh ngã xuống. Cư dân thấy đuợc liền gọi cấp cứu nên may mắn cũng đến mình nơi bước đầu tị nạn.

Khu chung cư Pleitner nằm phía đông thành phố Oakland nơi có khoảng hơn mười gia đình Việt Nam mới qua theo diện HO. Nhờ sống chung khu nên họ thường san sẻ nhau những kinh nghiệm ban đầu như học lái xe với bí quyết nhanh gọn như thế nào để lợi được từng giờ, chỗ nào tìm việc làm ban đầu, các nhà thờ, cơ quan thiện nguyện, địa chỉ các trường dạy Anh ngữ ESL, cho nhau quá giang mỗi khi có việc ra đường hoặc khi cuối tuần ngồi lại uồng bia, hát hò hay kể cho nhau nghe vài câu chuyện bên đường vốn hấp dẫn và biết dần đời sống mới. Ở khu chung cư nầy có lúc cũng như đang ở tư thế lính tác chiến vậy: Sát dãy hàng rào là một dãy hộ gồm toàn các gia đình Mỹ gốc Phi châu. Con cái họ đùa giỡn đạp xe, thanh thiếu niên tụ tập tình tự, nhảy nhót, hút xách bừa bãi, rác rến xả không chừa một nơi. Các lò thịt nướng nhả khói um tùm trong khi âm thanh ầm ĩ nhạc Rap lải nhải cả ngày và có khi đến giữa đêm. Có lúc buồn buồn, mấy cậu loai choai bên đó pháo kích qua hàng rào khu người Việt hàng chục vỏ chai bia làm miểng vụn sắc bén vung vãi khắp nơi. Con nít người lớn đàn bà trẻ em núp kỹ bên trong chờ chủ nhà can thiệp. Khổ nhất là tiếng Anh nói chưa ai hiểu và lờ mờ về luật lệ nên rất sợ cảnh sát, không dám gọi.

Vào một buổi tối trời mưa, anh bạn trẻ láng giềng người Việt gốc Hoa về nhà sau giờ làm việc ở một trạm xăng. Đúng lúc vừa bước ra xe, một thanh niên da đen rình sẵn, chĩa súng và như tiết kiệm lời nói, hằn nổ ngay một phát vào bụng. Nạn nhân oằn oại té xuống trong khi tên khốn kiếp nầy chôm nhanh chiếc ví và bỏ đi. Anh bạn được chở đi cấp cứu và may mắn thoát khỏi tử thần. Từ sau đó, chủ nhà phải thuê bảo vệ, mỗi tối ra vào đều được hai tay súng chăm sóc kỹ lưỡng. Luật pháp hình như chỉ áp dụng cho giới nhà giàu và văn minh ở đâu đó ở trên vùng đồi núi đồi cao sang hay nơi các khu nhà giàu ven bờ biển chứ ở đây, khu vực bình dân, khi có chuyện là y như “chờ được vạ, má đã sưng”. Sau những vụ việc nghiêm trọng như vậy, không thấy cảnh sát động tĩnh, hỏi han, tuần tra hay bảo vệ... Nhà nào lo đóng cửa nhà nấy, con cái ai thì nấy giữ, ra đường thì nhìn trước nhìn sau mà đi...

Qua đây mới thấy cái vốn Anh ngữ có được nói không có người nghe mới thấy tội tình như người câm. Anh em hay tiếu lâm khi Mỹ nói thì Mỹ nghe, còn mình nói mình nghe. Tài tháo vát và mưu sinh thoát hiểm cũng chỉ biết đưa mắt nhìn và nể phục mấy đứa qua trước lái xe vùn vụt chân ga tay số liên tù tì như làm xiếc khi đi bỏ báo,chuyển pi-zà. Thấy họ kiếm tiền dễ dàng và ăn nhậu, ca hát thoải mái cuối ngày cũng làm nhiều anh em tư lự về con đường trước mắt sẽ đi. Mỗi lần chuông điện thoại bất thường reo vang, đôi khi vừa nhắc ống lại gặp một tràng tiếng Mỹ quảng cáo nghe ào ào như gió thổi làm ái ngại mọi người. Không thân thích bà con, chưa có việc làm và chỉ còn ngồi cô đơn bên cửa sổ, hết trông ra rồi lại nhìn vào. Bên trong, đàn con bốn đứa thơ dại bu quanh chiếc ti-vi xem hoạt hình một cách vô tư và thích thú, lòng chợt se lại. Tôi bỏ hút thuốc vào giai đoạn nầy nhân lúc ngồi buồn đốt thuốc bên cửa sổ và thấy cả căn phòng ngập một làn khói mỏng như sương. Trẻ thơ đang mê mải bên truyền hình bị hóc, chợt ho sặc sụa. Thương đàn con và từ đó không bao giờ rờ lại điếu thuốc.

Ông chủ trẻ ngành xây cất nhà cửa đầy phong độ với cái tên Mỹ thật mỹ miều làm mấy người thợ chưa có quốc tịch như chúng tôi thấy thèm: Roland Vo, một thanh niên chưa vợ, đẹp trai, ăn nói hay, tiếng Mỹ như bắp rang. Tướng pháp đều tốt hết ngoại trừ vừng trán ngắn và dáng dấp hơi lùn. Ở Việt Nam Roland Vo là con nhà giàu, ông bố làm quận trưởng ở Đà Nẵng. Chưa đi lính nhưng biết chuyện thời sự, chuyện chiến chinh nên sau giờ làm, ngồi bàn luận chuyện đời với nhau rất hấp dẫn. Mặt khác, Roland có vẻ mưu lược và tâm lý khi nói chuyện. Một bữa nọ khi chở tôi về nhà, vợ tôi nấu bún bò Huế mời ăn, Roland ăn say sưa một cách thật tình do lâu ngày không có dịp ăn món ăn quê hương. Trước khi ra về, y lấy lòng vợ tôi một câu mà sau đó mỗi lần tới là luôn có đồ ăn ngon:

- Trông chị đẹp thế nầy mà biết ăn mặc và diện vào thì bỏ anh đi mất! Đã đẹp mà lại nấu ăn ngon, sau nầy mở nhà hàng thì tuyệt!

Đó là người chủ đầu tiên trên đất Mỹ. Một người bạn đã giới thiệu cho tôi với cùng hai người khác từng học một quân trường vào phụ việc trong một công trình xây dựng tại Oakland. Mỗi buổi sáng, dậy sớm, leo lên chiếc xe đạp, chạy khoảng bốn mươi phút mới tới chỗ làm. Không khí lạnh ban mai tinh ranh len vào thân thể từ các khoảng hở, từ hai bàn tay, vào cả chân tóc. Cơn lạnh buốt óc, run cả xương sống, nhưng nghĩ lại cuối ngày mình có năm mươi đô la thì quý lắm rồi.


Kết thúc hai tuần làm việc cần mẫn, ông chủ Roland kêu trả tiền. Sung sướng, tôi miên man hình dung mình sẽ làm gì với số tiền đầu tay nầy. Nghĩ tới sự hớn hở của vợ con vào dịp cuối tuần làm tôi nhẹ hẳn trong lòng. Đúng lúc chuẩn bị đưa tiền công thì beeber reo vang, ông chủ thầu liền ôm điện thoại và nói mãi không thấy dứt, trong khi tôi nôn nóng hết đứng lại ngồi. Ông ta ra dấu cho tôi đi về đi và tính sau. Thời gian trôi, ngày qua rồi tuần qua, công việc tiếp tục mà tiền vẫn chưa thấy đưa. Nỗi e ngại nếu hỏi tiền sẽ làm mất cảm tình và dẫn đến việc cho nghỉ làm và đành chờ mãi đến mãi hai tuần sau, tôi đánh bạo nói:
- Hôm nọ anh Roland có nói trả tiền công mà bận điện thoại, tôi chờ đến bây giờ .

Roland quay mắt ngạc nhiên nhìn tôi:
- Anh nói sao? Tôi đã trả cho anh rồi, hai tờ giấy hai trăm. Tôi nhớ rõ mà!

Oan ức, tôi nói, giọng nấc lên vì xúc động:
- Chưa đưa, hôm đó tôi chờ nhưng anh bận điện thoại và chờ mãi cho đến bây giờ. Qua Mỹ đến giờ cũng gần ba tháng, xin thề là chưa thấy đồng bạc trăm như thế nào.

Anh chủ thầu cứ nghĩ mình đúng và tôi sai và cho tôi chọn ở lại làm nếu muốn, bằng không cứ nghỉ việc.

Khi về nhà, bước chân đi không muốn nổi. Khu chung cư nghèo thật yên tĩnh vì màn đêm đã buông tối. Hai vợ chồng thì thầm an ủi nhau, kiên nhẫn chịu đựng để sau nầy có một tay nghề. Chúng tôi khe khẽ nói để cố tránh lao xao làm trở giấc đàn con dại, bốn đứa đang say ngủ.

Sau công trình ở Oakland, chủ thầu trúng một công trình khác lớn hơn ở Paolo Alto, cạnh trường đại học lừng danh Stanford. Đường xa phải đi rất sớm và đến gần nửa đêm mới về tới nhà. Việc làm rất lâu như thế, tôi không gặp mặt con cái vì khi đi chúng còn ngủ và khi về quá trễ chúng đã say giấc rồi. Hai người bạn Thế và Thiện, là đồng môn cùng quân trường rất tốt bụng, chở tôi đi đều đặn như thế rất lâu và cứ mỗi chuyến, tôi trả ba đô la, xin góp vào tiền xăng.

Bằng cả nhiệt tình, một người bạn khóa đàn em rất tốt bụng đã giới thiệu cho tôi một chiếc xe để phục vụ đi lại cho gia đình và làm phương tiện đi làm. Chiếc xe hơi đầu tiên nhìn được mắt, sạch sẽ tuy có chút méo mó trầy trụa nhỏ, đã được chùi rửa sạch sẽ, ngát hương mùi thơm dễ chịu khi vào bên trong. Chủ xe sinh hoạt ở nhà thờ, nói bán rẻ giá hai ngàn mốt dù chỉ mới mười một tuổi và trên một trăm hai chục ngàn dặm đường. Tôi tin tưởng hết mọi người, không một chút nghi kỵ nào cả. Cả đời chỉ quen với xe đạp, giờ lên chiếc xe hơi bốn chỗ ngồi chạy êm ru là sướng quá rồi.

Có một kỷ niệm khó quên với anh Sáu làm cỏ ở tít Pittsburg xa xôi: Khi nghe tin tôi mới qua Mỹ mà đã mượn tiền mua xe, anh vội vã phóng xe lên thăm dù tôi rất ngạc nhiên vì chưa bao giờ biết anh. Anh Sáu biết gia đình tôi thông qua một người bạn là Xanh Apple cùng chuyến bay và cảm thấy như có trách nhiệm với người đến sau. Gặp mặt, thăm hỏi xong là xăn tay áo liền. Anh mở ca-pô xe, cho máy nổ. Chống tay vào thành xe, anh nhìn máy nổ rất lâu, không nói, mặt có vẻ buồn. Giây lát, anh kêu tôi lại, hỏi:
- Anh mua xe của ai và giá bao nhiêu?

Thành thật, tôi hân hoan kể:
- Chiếc xe nầy được bán với giá rẻ và gốc từ một ông mục sư Tin Lành để mua xe mới. Xe mới giao tối hôm qua, vào lúc gần nửa đêm. Tuy là xe salvaged, nhưng máy nổ êm lắm anh ạ!

Anh Sáu cười nhẹ không tươi rồi lên đội, tháo bánh, thay thắng mới và kiểm tra các loại dầu. Anh lẩm bẩm như không muốn ai nghe:
- Phải giàu mới đi xe kiểu nầy.
 
Vô tư, tôi nghe kịp và cứ đinh ninh mình may mắn nên sướng ra. Nỗi hân hoan của tôi làm anh Sáu không dám nói những thực tế, những phĩnh phờ thật phũ phàng người mới tới sẽ gặp phải. Anh nói trước khi ra về;
- Tôi làm giúp anh để anh chở gia đình cho an toàn. Cứ cẩn thận và luôn mua bảo hiểm là được. Tôi chỉ lấy tiền mua phụ tùng, không có tiền công.

Mấy ngày sau, sanh nghi, tôi bắt chước anh Sáu, mở nắp khi máy nổ và nhìn kỹ thì thấy ngay làn ranh của thớt máy, một vệt nước chảy ra. Với tình trạng nầy, mỗi ngày tôi đều phải châm nước và trong những đoạn đường xa, vừa lái xe vừa phập phồng.

Công trình xây dựng ở Paolo Alto tiếp diễn tốt đẹp. Nhờ vào đó mà tôi học hỏi rất nhiều. Quen tháo vác và siêng năng, tôi trở thành một người thợ đúng nghĩa. Từ dàn móng, lên sàn, dựng tường, lợp mái đến các khâu ga, điện nước tôi đều được hợp sức làm phụ với các anh thợ, Mỹ có Việt có. Làm đến đâu, cuối ngày tôi ghi chép lại tới đó, nhất là các các điều luật căn bản. Mỗi khi có thanh tra, tôi học những pha đánh rớt và ngầm tìm hiểu họ sửa chữa như thế nào sau những lần thất bại. Sáu tháng theo công trình, sổ tay kinh nghiệm của tôi chép đầy mực mẹo, kích cỡ, vật liệu trong nhà, ngoài trời, đường ống nước, đường dẫn điện... và những trường hợp xử trí khi gặp tình huống khó. Sáu tháng đi làm xa làm tành banh chiếc xe Maxima 81 của gia đình. Đúng như anh Sáu nói, phải giàu mới đi xe nầy được! Mới đầu phát hiện bình nước giải nhiệt hư, nghẽn phải thay, đến phiên dàn đừa tay lái (Stering crack) mất độ chuẩn làm lệch bánh khi chạy nhanh, món nầy chém mất một ngàn mốt đô-la vì phải ọt-đơ (order), tiếp đến là bốn cái lốp cũ mòn, rồi xi-tạc-tơ không chịu nhúc nhích, thêm vào bộ phận bơm nước (water pump) liệt và nặng nhất là ô-vơ-hít (overheat) do nước xì ra lúc máy nổ làm nóng và cong thớt máy... Gia đình với bầy con thơ phải chịu khó nhờ qua nhờ về, y mãi người mới qua. Nói ra thì mắc cở, nhưng chiếc xe như vầy làm sao có đủ tiền mua Mc Donald cho con ăn?......

Ông chủ Roland nhìn tình cảnh nheo nhóc đó, vả lại thấy tôi siêng năng cần mẫn trong công trình, mủi lòng nói:
- Cứ làm cho tốt công việc, tôi không đưa tiền mà dồn lại cho anh, khi nào đủ năm ngàn tôi nhờ thằng em hiện là kỹ sư điện tử ở San Jose đấu giá và đứng tên cho anh để mua một chiếc xe tốt và còn khá mới để đi cho an toàn.

Cho đến một hôm, thấy mình đã sáu tháng ròng rã, sổ tay ghi đầy ngày công, kể cả giờ làm cuối tuần và ngày lễ. Sáu tháng tốn xăng, tốn ăn, hư xe mà vợ con không có một đồng đi chợ. Cả bốn người làm công mà đa số là mới qua theo diện HO đồng tình đòi tiền lương. Roland cười vui chỉ vào một tấm lịch tờ có hình cô gái đẹp mà nói:
- Tôi sắp về Việt nam cưới vợ. Người đẹp trên tờ lịch nầy sẽ là của tôi. Xin hẹn anh em là sẽ trả khi tôi về lại Mỹ.

Đến đây, cả bốn anh em thợ nghỉ làm và ngao ngán chuyển hướng tìm việc khác. Một đôi lần có dịp ngang qua Berkeley, thấy quán ăn Thai Restaurant của gia đình Roland trên đường University vẫn đông khách và hai chiếc tàu câu bên bến cảng gần đó vẫn hoạt động sôi nổi. Riêng thợ móc mồi lưới cho anh ta bị gạt tiền công cũng 5, 6 người.

Một hôm tình cờ gặp lại Roland trong Home Depot lúc mua vật liệu xây dựng, anh ta bối rối như gà mắc đẻ. Với giọng chậm, hơi đanh, y nói:
- Anh á, tôi biết anh ăn trợ cấp mà đi làm tiền mặt nên sẵn sàng đi hầu bất cứ nơi nào anh kiện. Tôi biết anh có bốn đứa con dại dưới mười tuổi nên không biết anh có dám làm không? Tôi chắc anh không dám bỏ welfare! Em gái ruột tôi như anh đã biết, là social worker của county, hiện làm ở Hercules city sẽ nói luật cho anh.

Sáu tháng làm việc lao nhọc với đồng lương tối thiểu năm đô la một giờ, cộng lại hơn năm ngàn đô la bay theo gió!

Một năm sau ngày đến Mỹ, những người bạn cùng làm xây dựng với tôi ghi danh đi học lại khi đã có thường trú nhân. Vừa xong chương trình ESL, chúng tôi nhanh chóng vào chuyên ngành ở trường đại học Laney college. Ngày đầu vào lớp gặp nhiều bạn trẻ mới tốt nghiệp trung học và khi trao đổi với thầy giáo bằng tiếng Anh, tôi bị sốc ngay, không phải với giáo sư mà với một chú học trò tên Đông, người gốc Hải Nhuận, Huế vừa mới xong lớp 12:
- Chú ơi! Chú đừng nói tiếng Anh nữa, cháu thấy khó chịu mỗi khi nghe chú nói.

Thằng Dũng gốc người miền Tây đứng bên, cùng lứa với Đông, bồi luôn một phát:
- Nghe chú nói tiếng Mỹ, cháu cứ ngỡ như Thượng về miền xuôi!!!

Sau mấy năm miệt mài, lăn lộn chúng tôi đi được những bước xa. Chủ nhiệm Cynthia Corea là một bà giáo rất tốt, luôn tôn trọng và khuyến khích những người hiếu học, nhất là những người lớn tuổi. Bà giáo cho ai đi làm thực tế bên ngoài được tính điểm thực tập nên bọn chúng tôi vừa học vừa làm rất thoải mái. Kinh nghiệm của những công trình đã nâng cao tay nghề vững vàng và đối với đám trẻ cùng lớp thì mình trở thành sư phụ cho mọi việc. Ở Mỹ rất quý kinh nghiệm, ngoài trình độ, năng khiếu ra, đi đâu các chủ hãng, giám đốc đều sát hạch kinh nghiệm trước khi chấp thuận thuê mướn trong các cuộc phỏng vấn việc làm.

Đúng lúc trong lớp học nầy ở môn Foundation, một người học trò triệu phú tên là William David đã thầm quan sát và kết tôi qua việc thực hành tại công trường của lớp học. Ông ta học để hiểu biết mà thôi dù lớn tuổi và hiện là chủ nhân công ty. Trong lớp học có nhiều người như thế. David lôi tôi ra ngoài và trả giá thuê mướn. Tôi chấp thuận làm ngoài giờ với số lương tương đối cao. Mỗi ngày sau giờ học Anh ngữ, lịch sử Hoa Kỳ, sinh vật học, toán và các môn căn bản xây dựng, tôi xách chiếc xe pick-up được giao với chùm chìa khóa khổng lồ cùng hai người Mỹ phụ việc là Bird và Jose chạy khắp thành phố Oakland, Berkeley để sửa chữa từ chung cư nầy đến những townhouse kia. Những căn nhà bạc triệu trên đồi, dưới bãi biển ông William đều nhận tuốt và giao cho tôi. Nhiều khi lắm việc, phải lôi bạn bè cùng lớp như Huân, Bính, Phước, Thiện, Hoa... giúp sức. Có lần tôi bị cảnh sát gọi tắp vào lề đường và bảo tôi ngồi im trong khi bắt hai chàng Mỹ đen hai tay co lên đầu, người chống vào tường bên lề. Tôi suýt bật cười vì một nữ cảnh sát xinh đẹp dùng đùi ba-toong gõ rà từ chân, mông, chỗ kín và quanh ngực để tìm thuốc phiện.

William David kinh doanh địa ốc, có nhiều bất động sản và nhà cửa, chung cư cho thuê, đồng thời chuyên bán những căn nhà của các triệu phú sắp hoặc đã qua đời... Cơ hội rất tốt cho tôi luyện và dạn dĩ tay nghề.

Ngày lễ tốt nghiệp, vợ chồng W David đến tham dự với một vòng hoa làm vòng cổ tôi cồm hẳn lên vì đã sẵn mang sợi dây vàng tốt nghiệp danh dự. Khi chụp ảnh, bà giáo sư chủ nhiệm cũng bước tới chia vui và nói luôn tin tưởng rằng tài năng đứa học trò trong tương lai. Bà nói sau 5 năm ra trường cố tìm gặp lại cho bà thăm để nhìn thành quả. Nhìn lại chặng đường đã qua, tôi ôm bó hoa đàn con nhỏ trao mà tuôn tràn hai dòng nước mắt sung sướng giữa những nụ cười thân thiện của vợ chồng David, Cynthia, Ned mà tôi cảm tưởng như những đợt sóng mang phù sa cho vùng đất xưa nay khô cằn và sỏi đá.

Sáu năm trời trôi qua, chung cư Pleitner vẫn như những ngày đầu. Tiền thuê nhà cao, an ninh lỏng lẻo, con cái dễ dàng ảnh hưởng môi trường sinh hoạt. Gia đình có quyết định đổi vùng và chuyển sang thành phố Alameda, cách đó chừng năm dặm vốn nổi tiếng an ninh và sạch sẽ. Căn nhà mới dọn đến rất cũ, chừng trăm tuổi, khuôn mẫu Victoria. Cơ hội cho tôi thể hiện tài năng là lúc chủ nhà mướn tôi nâng cấp lại. Ông ta cùng với tôi thuê công ty nâng lên, tháo bỏ tất cả và theo bản vẽ, xây dựng lại mới như từ ban đầu từ dưới lên trên để trở thành ngôi nhà đẹp, không tuổi. Phải mất năm tháng mới hoàn thành thì công trình khác mời gọi. Một mặt, tôi đem văn bằng mới có nộp đơn vào công sở và được chấp nhận vào làm cho cơ quan gia cư Housing Authority ở thành phố Alameda, ngành bảo trì. Cơ hội sánh vai cùng các đồng nghiệp nhiều sắc dân như Tàu, Mỹ, Phi, Mễ trên một địa bàn làm việc rất rộng lớn. Ngày ngày xách xe chạy rong thành phố, các khu người già, các căn hộ dành cho người lợi tức thấp để sửa chữa, thay thế bất kỳ những hư hại gì từ ga, điện, nước...

Đúng lúc nầy, người chủ cũ là Ông William David qua đời bằng cơn đột biến cơ tim ngay lúc ông cố ráng mở cánh cửa xe đậu lề một con dốc đứng. Ngày tham dự lễ tưởng niệm Memorial Day, chỉ duy nhất mình tôi là tóc đen với một vòng hoa thương tiếc ngồi lạc lõng giữa một rừng người xa lạ. Họ vui cười, hò hát hồn nhiên nhắc kỷ niệm, dấu vết người quá cố, đồng thời, vợ William lên micro nói về đứa em phương Đông là tôi với những lời lẽ đầy tình cảm, trân quý. Lễ tất, quan khách tham dự vây quanh tôi, thân thiện hỏi han, nhiều bà đầm chào hỏi xong đã xè cánh tay rộng ôm hôn trong mùi nước hoa nồng nặc. Thầm nghĩ lại mình đã làm và sống với David bằng nhiều nhiệt tình trong sáng mới có tình cảm đẹp như ngày hôm nay.

Ngôi nhà cổ của bà Sally Rites tọa lạc trên một con dốc thành phố Berkeley. Bà giáo già sống một mình trong căn nhà rộng thênh thang xưa cũ giữa một rừng phong lan tuyệt vời. Trước khi hưu trí, bà dạy về nghệ thuật cây cảnh nên kiến thức và lối thưởng ngoạn về cảnh trí hoa lá thật thanh thoát nhẹ nhàng và rất đậm nét văn minh phương Đông. Tuy là người Mỹ trắng thuần túy nhưng bà rất bình dị, ăn nói nhẹ nhàng, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người nói. Ngôi nhà bài trí nội thất hoàn toàn bằng những sản phẩm Trung Hoa xa xưa. Từ những chiếc ghế tràng kỷ bằng gỗ mun có khảm xà cừ, chiếc bình phong cẩn san hô in những điển tích cũ trên mặt, những bức tranh, pho tượng vua quan thời cổ với màu sơn vàng đậm quanh nhà đã tạo một nét hài hòa cân đối mà khi bước vào, khách có cảm nhận như bước vào thế giới vương quyền xa xưa thời Khang Hy bên Tàu.


Ở ngày cuối của hợp đồng công trình sửa chữa mái nhà thì bà Sally mang về một cánh cửa sổ nhỏ tí để định thay vào cái cửa tò vò cũ. Tuy không có trong giao ước nhưng tôi vui vẻ làm giúp trong khi anh bạn làm chung từ chối. Nhìn chiếc cửa mới xinh xắn gọn gàng khi gắn xong, bà xin trả tiền, nhưng tôi nói:
- Chút việc làm thêm nên không lấy tiền. Mong bà vui!

“Chút việc” này đã khiến bà có mỹ cảm và từ đó đã dẫn tôi đến một công việc dài hạn đến ba năm trời. Khi thấy kỹ thuật tay nghề đi đôi với luật xây dựng (building codes) nhịp nhàng, Sally mướn tôi sửa đường dây điện, thay hệ thống đèn, bắt quạt trần, dựng thêm phòng, làm sàn gạch, tân trang buồng tắm, thiết kế cầu thang, thay thế cửa sổ, sơn quét trong và ngoài. Dịp tốt làm việc ngoài giờ công sở và cuối tuần, tôi mang mấy anh bạn phi công cũ như Phước, Hòa, Phi, Phượng vào phụ việc và trở thành một kíp thợ trẻ, hăng say rất được mến mộ.

Nhìn tôi nhận tiền công, bà tự nhiên hỏi tôi sẽ tiêu pha thế nào? Thiệt thà, tôi kể:
- Ngoài việc lo cho gia đình, số tiền nầy còn được chia cho người nghèo ở quê tôi. Dân làng còn nhiều người thiếu ăn, sống còn vất vả. Họ luôn sống với những mơ ước bình thường về cơm áo, nhất là những hộ mồ côi.

Thấy bà chăm chú, tôi tiếp:
- Cũng là để cho người dân nghèo neo đơn cô thế, nghèo đến nỗi cả đời phố phường bên đó còn chưa biết, huống chi Mỹ Tây, tôi thường gởi chút tiền an ủi mà từ thời cha sanh mẹ đẻ đến giờ, họ nào dám mơ ước nắm được đồng đô-la Mỹ trong tay, đặc biệt vào dịp Tết.

... Lẳng lặng, bà vào tủ lấy ra tờ bạc một trăm và nói:
- Cho tôi góp vào chương trình.

Tôi từ chối, tiền vào tay tôi sẽ mất ý nghĩa cho bà vì tôi sẽ động lòng tham và dễ mua danh, mua đức cho riêng mình. Tôi gợi ý:

- Nếu đồng ý, tôi sẽ làm chương trình thiện nguyện riêng cho bà. Với số tiền nầy, tôi chuyển về trực tiếp cho bà đến những em mồ côi mất cha mất mẹ, hoặc sống bất hạnh qua sự coi sóc của một giáo viên ở làng. Anh ta sẽ nhận, phân phối và hướng dẫn ăn học.

Những báo cáo, hình ảnh phim video clip, thư tín từ các học sinh mồ côi gởi qua đều đặn. Mỗi lần đọc thư con cái, bà cảm động làm nước mắt chảy dài một cách sung sướng.

Thấm thoát nghĩa tình mẹ con cũng khá lâu. Những trẻ mồ côi giờ đã lớn, có người ra trường làm ông giáo, anh công nhân, anh thợ điện, có người lập gia đình. Từ những rách rưới tả tơi, miếng cơm bà nuôi, chiếc áo ấm bà gởi mặc mùa Đông và những chiếc xe đạp của mơ ước thành sự thật đã đưa nhiều trai trẻ thành người hữu dụng cho đời. Những emails qua lại ấm tình mẹ con vào tuổi hoàng hôn của bà Sally với hai mươi đứa trẻ lạc loài trước đây đã làm vui cuộc đời, bà nói với tôi, giọng đầy xúc cảm:
- Trong trái tim mầy có Chúa, Phật. Từ tâm của mầy qua lối sống, qua việc làm với cuộc đời cho tao thấy Thương Đế không ở đâu xa mà ở chính nơi mầy.

Rất xúc động, một lần bà nói:
- Qua mầy, tao biết Thượng Đế và tôn giáo rõ hơn! Làm con người biết sống cho người thật tuyệt!

Tháng mười một năm 2016, vào ngày lễ Tạ Ơn ở Hoa Kỳ sẽ là dấu ấn kỷ niệm tròn ba mươi lăm năm vợ chồng chung sống hạnh phúc, hai mươi năm sống ở Mỹ và đúng sinh nhật thứ sáu mươi bốn của tôi. Ra đi làm lại cuộc đời sau nhiều năm tù tội khổ ải gian nan, ai cũng không biết được ngày mai thế nào. Đất hứa thiên đường từ trong ước mơ có lần bềnh bồng như đang ở vùng trời mây ảo mỗi khi có dịp ngang qua cửa biển Thuận An Huế nơi có nhiều chuyến vượt biển thành công... để nghe rặng phi lao vùng duyên hải rì rào theo cơn gió chiều biển lộng, tiếng sóng ầm ì vỗ mạnh ven bờ trải dài những bọt sóng, ru mãi một âm quen, trong khi ngoài xa xăm kia bất tận, một màu xanh đại dương rất tươi nét của niềm hy vọng tuyệt vời!!! Làm sao không khỏi ôm mộng dấn thân được làm những cánh chim trời trên vùng biển vắng bao la, giang rộng đôi cánh hướng tới chốn bình minh nắng ấm có cây cỏ hoa lá tươi thắm bức tranh hạnh phúc cuộc đời, nơi có hy vọng cho kẻ đến từ màn đêm tăm tối. Có phải từng mơ là gió, là mây, là nước, đề cho ta hòa trong đó một chút hồn, đem gởi về nơi đó để tận hưởng thú vị ngọt ngào của tự do và nhân bản.

Cuối năm 1991, giấc mơ trở thành sự thật, một sự thật vượt quá hẳn tầm tay, khi vợ chồng con cái lâu nay lam lũ ở vùng quê xứ Huế, nay nắm tay nhau hướng về chiếc máy bay rời Việt Nam trong nỗi ngại ngùng chưa trút bỏ. Phải chăng đây là sự thật giữa đời người? Hơn hai mươi năm sau, đứa con gái lớn sáu tuổi lúc ra đi, từng đội tấm vải dầu, chân không dép, lấm bùn đi đến trường dưới mưa để ê a lớp vỡ lòng, nay xuất thân trường đại học Berkeley và đang dấn thân vào phục vụ xã hội Hoa Kỳ với những kiến thức thâu thập được. Đứa con gái thứ nhì, khi bốn tuổi, có cái ngày cõng chiếc ba-lô đi trên sân bay tiến về phi cơ đi Mỹ. Dáng nhỏ, cong chúi người để giữ túi hành trang thăng bằng, cố leo lên cầu thang máy bay một cách vội vàng như sợ người ta kéo lui trả về làng xóm quê cũ. Nay cô bé ngồi ngay giữa Ngũ Giác Đài, phụ trách liên kết và phối hợp với các nước Á Châu Thái Bình Dương khi vừa tốt nghiệp cao học tại trường đại học Berkeley mùa hè năm 2009.

Hôm nay, như một dòng sông vẫn chảy về biển rộng, sau kỳ thi tuyển dụng, tôi lại được làm việc giữa học khu Natomas School District với những giáo sư, nhân viên và các em học sinh còn ngây thơ và với những kiến thức và kinh nghiệm có được, tôi nguyện đem sức mình giúp đời bằng cả nhiệt tình có được. Tuy làm việc năng nổ trong phạm vi nhỏ bé của mình, nhưng thâm tâm cũng mong có cơ hội đền đáp được chút gì trước sự cao cả, lòng nhân đạo của nhân dân đất nước Hoa Kỳ với cánh tay mở rộng cho thuyền nhân, cho tù nhân chính trị và những người bất đồng chính kiến từ Việt Nam. Học khu Natomas cũng có giáo sư Paul, Pitt, Kristene, Roland, Raymond. Lettica đầy nhiệt tình, gần gủi và đầy cảm thông như mang trong người một trái tim đầy tình người.

Xin cám ơn trời cao với những ơn dày ban xuống cho gia đình tồn tại. Xin cám ơn đời với những chặng đường gian nan thử thách mà vẫn luôn có trong đó những tình người biết thương yêu, cảm thông và tha thứ. Xin cám ơn nước Mỹ, đất nước của ước mơ và cơ hội, đất nước của tình thương và nhân bản nơi tôi có đủ bạn bè, người thân, đồng nghiệp, người cùng chí hướng, những ân nhân và vô số những tấm lòng, những trái tim biết xúc động và chia sẻ trước những thương đau của người khác.
     
Mũ Xanh Hoa Biển

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Sep/2020 lúc 12:53pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22160
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2020 lúc 1:28pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 05/Oct/2020 lúc 8:50am

May Mà Có Em 



Quỳnh lấy vé máy bay về Việt Nam một cách vội vàng, mấy ngày nay nàng ăn, nói, đi, đứng như người mộng du.
Tình cờ sang Cali dự đám cưới người cháu, Quỳnh gặp lại Trang, người bạn học thân nhất, ngồi cạnh nhau trong giảng đường Văn Khoa. Trang cho Quỳnh biết mới sang Mỹ được hai tháng. Trước khi đi Trang về thăm quê nội ở Trà Vinh và đã gặp Tân! Thương binh cụt một chân, ngồi bán vé số ngoài vỉa hè độ nhật. Nghe tin Tân còn sống, tim Quỳnh co thắt, toát mồ hôi và xây xẩm cả mặt mày. Quỳnh thì thầm như người mất hồn. “Trời ơi! Tân ơi! Anh còn sống sao? Mấy chục năm rồi, Tân ơi! Anh có biết rằng em tiếc thương anh ngần nào không? Cám ơn trời Phật đã cho Tân còn sống!!!” Dù hoàn cảnh thế nào Quỳnh cũng phải trở về gặp lại Tân! Gặp lại sự sống của chính nàng.
Theo gia đình Trang dự lễ mãn khóa 22 sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Ngồi trên khán đài trong Vũ Đình Trường, sau bài diễn văn của Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng, tiếng loa uy nghi dõng dạc:
- Quỳ xuống các sinh viên sĩ quan.
Sinh viên sĩ quan thủ khoa nhận kiếm, cung bắn đi bốn hướng tượng trưng chí trai tang bồng hồ thỉ, sau khi hàng ngàn sinh viên khác nhịp nhàng quỳ xuống thẳng hàng để được gắn cấp bậc sĩ quan.
- Đứng lên các tân sĩ quan.
Chỉ cần hai động tác quỳ xuống, đứng lên với cấp bậc trên cầu vai biết bao tháng ngày gian lao! Những bữa cơm chan mồ hôi, nước mưa trong rừng cao su ... Ngoài bãi tập và biết bao gian nguy ngoài chiến trường chờ đón họ! Sau mười ngày phép cuối khóa của những người trai trong thời ly loạn! Phải “xếp bút nghiên theo việc đao cung”.

Trên hai mươi năm qua rồi, đêm mãn khóa bập bùng kỷ niệm vẫn còn mới nguyên trong tâm hồn Quỳnh, đêm định mệnh để Quỳnh quen Tân do anh trai Trang; người bạn cùng khóa với Tân giới thiệu.
Ngồi trong xe cạnh nhau, hai người chỉ trao đổi những lời thăm hỏi xã giao chừng mực. Ở Tân, Quỳnh thấy người con trai đã được tôi luyện qua gian lao, nắng mưa quân trường, tóc hớt cao, nước da bánh mật sạm nắng, tự dưng với tuổi mười bảy của đứa con gái mới lớn, Quỳnh thấy thương và tội nghiệp Tân quá đi thôi. Tân từ biệt mọi người – sau khi xin địa chỉ Quỳnh -ra bến xe miền Tây về quê thăm mẹ! Tân chỉ có hai mẹ con.

Trước ngày ra đơn vị, Tân chọn binh chủng mũ nâu Biệt Động Quân như lời tâm sự: “Không đi lính thì thôi, đi phải chọn binh chủng xứng đáng và phải đánh đấm ra trò”. Tân có đến thăm Quỳnh đi phố, ăn trưa và trong bóng tối rạp Ciné Lê Lợi, cầm tay Quỳnh, Tân nói lời từ giã:
- Mai anh đi! Quỳnh ở lại vui! Ráng học giỏi.
Tân ra đơn vị, Quỳnh thấy hụt hẫng trong lòng và tình cờ, tình tiết thương tâm trong cuốn phim “Le temps d’aimer c’est le temps de mourir” mà Quỳnh và Tân đã xem! Suốt thời gian dài sau này Quỳnh cứ tự hỏi: “Tại sao có một thời để yêu lại phải có một thời để chết???”.
Chiến trận đã cuốn Tân đi biền biệt! Những địa danh mịt mùng xa xôi: Bình Định, Bồng Sơn, Tam Quan, Sa Huỳnh, Phá Tam Giang...tiếp nối trên đầu mỗi cánh thư đầy ắp yêu thương của Tân gởi về; một thứ hạnh phúc nhỏ nhoi mà nhiều lần Quỳnh đã mang vào giấc ngủ.
Tình yêu qua những cánh thư đã làm Quỳnh trưởng thành, nàng đọc báo, nghe đài phát thanh, tin tức những trận đánh lớn đã khiến nàng bỏ ăn! Đóng cửa nằm yên trong phòng một mình.

Quỳnh thường đi chùa! Một lần nghe có ông thầy ở Thủ Đức rất tài; làm phép trong tờ giấy bạc xếp thành hình tam giác, tránh được lằn tên mũi đạn. Quỳnh vội vàng thỉnh phép bọc bằng vải nhung tím, ép nylon gởi cho Tân và nàng bắt buộc Tân phải đeo bên mình, Tân phải sống để yêu thương nàng. Những gói mè xửng, chiếc nón bài thơ! Nhận được quà của Tân gởi về, Quỳnh cảm động mừng rơi nước mắt.
Đơn vị Tân tham dự hành quân vượt biên sang Lào! Lam Sơn 719. Tiểu đoàn Tân vừa được đổ xuống một đỉnh đồi, và rồi trận chiến khóc liệt xảy ra! Sau hai giờ chiến đấu bằng lựu đạn, đơn vị Tân đã bị tràn ngập.... Ra trường chưa được hai năm Tân đã được thăng cấp tại mặt trận hai lần và giữ chức vụ Đại Đội Trưởng.

Thân nhân gia đình đến hậu cứ đơn vị hỏi thăm tin tức về chồng con họ một cách nhiệt tình, tự nhiên. Thấy Quỳnh đứng rụt rè bỡ ngỡ, người sĩ quan hậu cứ đến hỏi:
- Xin lỗi cô tìm ai?
Quỳnh lí nhí:
- Dạ! Em muốn biết tin tức Trung Úy Tân Đại Đội Trưởng.
- Cô là gì của Trung Úy Tân?
- Dạ! Vợ.
Má Quỳnh ửng đỏ. Người sĩ quan hậu cứ ranh mãnh trả lời nàng:
- Đơn vị đang trong vùng hành quân! Có tin tức gì tôi sẽ thông báo cho bà sau.

Chữ bà đã làm Quỳnh ngượng ngùng làm sao ấy. Nghĩ cho cùng rồi cũng đúng thôi. Quỳnh đã trao đời con gái cho Tân sau lần thăm ở Pleiku, khi Tân đang nằm điều trị ở Quân Y Viện để gắp một mảnh lựu đạn xuyên vào vai. Quỳnh chưa biết đam mê xác thịt, nàng muốn có con với Tân. Nếu lỡ Tân không về nàng còn giữ được giọt máu cho Tân! Cho mẹ Tân có người nối dõi tông đường! Quỳnh không có thời gian chọn lựa trong vòng tay Tân! Tình yêu đếm bằng phút giây với nỗi chết không rời! Tội cho Quỳnh biết bao! Khi lỡ có người yêu ngoài mặt trận.
Quỳnh tỉnh dậy trong nhà thương, khi tuần sau lên hậu cứ và được người sĩ quan trực trả lời:
- Xin thành thật chia buồn cùng bà! Trung Úy Tân được báo cáo đã mất tích.

Ba năm trời Quỳnh đi mọi nơi, hỏi không biết bao người đội mũ nâu; không nhận ra được một tin tức nào của Tân.
Những ngày cuối tháng tư năm 1975, trong khi Xuân Lộc bị tấn công, Biên Hòa bị pháo kích; gia đình gồm cha, mẹ Quỳnh và đứa em trai di tản, sau đó định cư tại thành phố Montreal Canada.
Chuyện tình nàng và Tân phút chốc thoáng như mơ mà đã gần ba mươi năm! Một nửa đời người rồi còn gì!!!
Phi cơ ở độ cao! Quỳnh kéo chăn đắp lên ngực và thì thầm với chính mình:
- Tân ơi! Em phải về gặp anh! Dù thế nào em cũng không thể dối lòng mình được, em yêu anh suốt cuộc đời này.
Người tiếp viên thông báo, phi cơ đã vào địa phận Việt Nam.
Trước khi đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, phi cơ đảo đi một vòng lớn, qua khung cửa kính Quỳnh vẫn thấy thửa ruộng, mái tranh lụp sụp, sự nghèo khó làm vòng đai rộng lớn bao quanh thành phố Sài Gòn hoa lệ.

Qua báo chí, Quỳnh biết rằng hơn bảy mươi lăm phần trăm dân tộc mình là nông dân, suốt đời úp mặt xuống bùn cũng không kiếm đủ miếng ăn cho gia đình! Giàu sang chỉ dành riêng cho thành phần thiểu số có quyền chức trong xã hội! Sự chênh lệch lớn lao giữa nghèo và giàu đó sinh ra sự bất ổn xã hội! Sài Gòn bây giờ là ô nhiễm, xe cộ đủ loại chen chúc luồn lách vô trật tự! Sự công xúc tu sỉ xảy ra ở mọi gốc cây, nhiều lần Quỳnh phải quay mặt đi vì hổ thẹn.

Ra xa cảng miền Tây, đón xe tốc hành, Quỳnh về Trà Vinh, thành phố Quỳnh đến lần đầu. Quỳnh xuống xe với hai chiếc va li nặng trĩu. Ngơ ngác cố nhớ lời Trang tả; nàng đi lần về phía đầu chợ; thành phố đã lên đèn.
Hàng chục anh xe lôi, xúm quanh hỏi Quỳnh về đâu? Nàng hỏi thăm Tân, cụt chân bán vé số ở đầu phố chợ. Có người nhanh nhẩu trả lời:
- Trung úy Tân! Biệt động Quân bán vé số! Cô lên xe tôi chở đến nhà ổng cho.
- Tân! Biệt Động Quân! Những tiếng thân thương Quỳnh mừng khôn tả.

Quỳnh đền ơn người chạy xe lôi hậu hĩnh! Trước khi mở cổng bước vào căn nhà ngói ba gian loang lổ gạch vôi nói lên đời sống khó khăn của chủ nhân nó. Quỳnh đưa tay đè lên trái tim, nén xúc động, Quỳnh gõ cửa. Người đàn ông chống nạng bước ra! Nhìn sững nàng! Miệng há hốc kinh ngạc! Đất như sụp dưới chân Quỳnh.
Tân không còn tin ở mắt mình:
- Có phải Quỳnh của anh đây không?
Nàng phóng tới ôm chầm lấy Tân:
- Vâng, em đây! Quỳnh của anh đây.
Ngoài ngõ, hàng xóm và trẻ em thật đông, tò mò nhìn vào. Người đàn bà tóc bạc như cước, từ nhà sau bước ra lắp bắp hỏi Tân:
- Cô này là ai vậy con?
Tân trả lời mẹ trong xúc động:
- Thưa má! Quỳnh bạn con.
Quỳnh chắp tay lễ phép chào bà. Mẹ Tân bước tới ôm tay Quỳnh vừa mếu máo khóc, vừa nói:
- Thằng Tân gặp lại con! Bây giờ có chết bác cũng vui lòng.

Mẹ Tân vén tay áo lau nước mắt. Tân chống nạng phụ Quỳnh mang mấy va li vào nhà.
Quỳnh đi tắm, thay đồ mát và bữa cơm đạm bạc được dọn ra gồm: một tô mắm chưng, hai trái cà nâu nướng chan nước mắm tỏi ớt, một dĩa bông so đũa luộc. Ba người cầm đũa, Quỳnh ăn thật ngon miệng! Mấy chục năm ở Canada làm gì có những món này. Tân và mẹ nhìn Quỳnh ăn một cách ái ngại.
Gắp cho Quỳnh bông so đũa luộc, mẹ Tân hỏi Quỳnh:
- Cháu ở đâu về? Lập gia đình được mấy đứa con rồi?
Nàng liếc sang Tân, hình như anh hồi hộp chờ câu trả lời của Quỳnh.
-Thưa Bác, con ở Canada về! Con chưa lập gia đình. Dạ thưa bác, nãy giờ con quên hỏi thăm về vợ con anh Tân.

Tân ngượng ngùng cúi đầu và mẹ Tân cười! Niềm vui trong ánh mắt:
- Bác đã tám mươi tuổi rồi! Thèm cháu nội lắm. Thằng Tân nhiều lần tâm sự với bác, thân nó tật nguyền và suốt đời nói chỉ thương mỗi mình con thôi! Có mấy mối được lắm, nết na có học, nhưng nó đều từ chối. Mỗi chiều bán vé số về tắm rửa cơm nước xong, nó nằm trên võng mắt nhìn lên tấm ảnh nó và con chụp chung chưng trên bàn viết đó! Tay đàn, miệng hát tới khuya. Lần nào bác cũng nghe nó hát bản...Em lây cu...lây cưa...gì đó. Nó hát bản đó hoài sao không chán. Nó nói bản nhạc đó là cuộc đời nó.
- Nghe xong, Quỳnh buông đũa, ngưng ăn! Nắm chặt tay Tân và Quỳnh quay mặt đi để dấu dòng nước mắt tuôn trào. Hồi lâu, nén xúc động, nghẹn ngào Quỳnh hỏi:
- Anh thương em nhiều đến thế sao Tân?
Tân xoa xoa vai Quỳnh giọng như muốn khóc:
- Quỳnh! Em có biết tình yêu và hình bóng em đã nuôi sống cuộc đời tật nguyền của anh.

Hai người dìu nhau ra ngồi trên băng đá trước hiên nhà. Gió đi lào xào trên tàng cây vú sữa xum xuê trước ngõ, với giọng xúc động, Tân kể lại diễn biến cuộc hành quân sang Lào… và đơn vị Tân bị tràn ngập bởi thiết giáp đối phương, Tân bị đạn đại liên tiện đi mất chân trái! Tân bị bắt làm tù binh, và bị giam cầm 13 năm tại các tỉnh thượng du Bắc Việt, mười ba năm đầy nghiệt ngã, cách biệt với thế giới bên ngoài!

Năm 1985 họ thả anh, về đây sống với đời buồn tủi tật nguyền, hằng ngày anh đi bán vé số! Hai mẹ con sống cuộc đời cháo rau túng thiếu trong căn nhà kỉ niệm của ba anh, người sĩ quan dù đã chết trong trận Điện Biên Phủ.

Quỳnh cũng kể cho Tân nghe! Từ năm 1972 sau nhiều lần hỏi thăm, kiếm tìm, đơn vị cho biết Tân đã mất tích.
Tháng 4 năm 1975 gia đình nàng di tản và định cư tại Canada; cha mẹ nàng đã qua đời! Nàng làm việc ở một bệnh viện, em trai nàng đỗ bác sĩ đã lập gia đình được hai con.
Riêng Quỳnh vẫn ở vậy. Em nghĩ rằng anh đã chết và em sẽ sống với hình bóng anh suốt cuộc đời này. Bây giờ đang ngồi bên anh em cứ nghĩ mình nằm mơ.

Tân cúi xuống, vén tóc Quỳnh, hai người hôn nhau say đắm! Một nụ hôn của ba mươi năm và dài bằng nửa vòng trái đất.
Buông nhau ra, Quỳnh nũng nịu:
- Em muốn anh đàn và hát cho em nghe.
Tân gật đầu và Quỳnh vào nhà mang đàn ra. Dáng hao gầy, gương mặt nhiều nét kỷ hà học, dạo phiếm và Tân cất tiếng hát! Lời bài hát của một thi sĩ té lầu chết trong một cơn say và Phạm Duy phổ nhạc:
“Phố núi cao phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
Anh khách lạ đi lên đi xuống
May mà có em, đời còn dễ thương...”

Tân có ngón đàn thật điêu luyện! Giọng hát khàn đục chuyên chở nỗi niềm chia sẻ, xuyên suốt tim Quỳnh; trôi về thành phố núi của những cô gái má đỏ môi hồng, mái tóc ướt mềm! Thành phố đi năm phút đã về chốn cũ và trong khách sạn Bồng Lai, trên chiếc giường ra trắng muốt, nàng đã trao thân cho Tân trong một đêm mưa kéo dài.

Trời thật khuya! Trăng thượng tuần sáng vằng vặc. Quỳnh theo Tân vào phòng! Chiếc giường ngủ trải chiếu bông! Quỳnh ngất ngây trong vòng tay Tân! Mùi đàn ông, mùi nếp non rạ mới đã làm Quỳnh phiêu diêu trong hoan lạc tột cùng.
Rõ ràng “đêm nay mới thật là đêm - ai đem trăng sáng trải lên vườn chè”.

Suốt ba tuần lễ ở nhà Tân! Quỳnh và mẹ Tân đi sắm đồ trang trí lại nhà cửa theo sự yêu cầu nhiều lần của Quỳnh. Quỳnh thuê một chiếc xe du lịch đưa mẹ, Tân và Quỳnh ngắm cảnh Ao Bà Ôm Trà Vinh, Tân chỉ cho Quỳnh nơi chú Đạt hôn cháu Diễm trong phim Yêu của Chu Tử do tài tử Anh Ngọc và Thanh Lan đóng.
Những hàng cổ thụ, rễ dâng cao trên mặt đất! Mặt hồ gió mát! Phong cảnh tuyệt vời. Ba người cũng đi ngắm biển Long Toàn với những đồi cát chập chùng và những bữa ăn cua luộc ngon nhớ đời.
Bên Quỳnh, Tân như trẻ lại! ăn nói hào sảng như ngày nào, khoác áo hoa rừng và đội chiếc mũ nâu.

Khỏi phải nói! Mẹ Tân thương Quỳnh qua cách đối xử phải đạo của nàng! Nhiều lần bà cảm ơn Quỳnh đã mang về đây niềm vui, hạnh phúc cho Tân! Đứa con trai duy nhất và cũng là tài sản của đời bà.
Riêng Quỳnh, sau nhiều đêm ngỏ lời! Trước khi chấp nhận, Tân hỏi Quỳnh suy nghĩ kỹ chưa khi chọn một người tật nguyền làm chồng.
Quỳnh chọn căn nhà cũ kỹ! Có giếng nước mát lạnh, tàng cây vú sữa cho bóng mát suốt ngày, làm nơi cư trú suốt đời bên tình yêu nồng nàn của Tân.

Quỳnh cùng Tân dạo phố! Không một mặc cảm ngại ngùng nào “bên người yêu tật nguyền chai đá”. Trái lại, Quỳnh còn thầm hãnh diện có người chồng đã hy sinh một phần thân thể cho quê hương đất nước.

Trước khi Quỳnh trở lại Canada, gia đình Tân tổ chức một bữa tiệc, mời một ít bà con và một số hàng xóm cạnh nhà để tuyên bố lễ cưới giữa Tân và Quỳnh. Mọi người đều cảm động trước mối tình nồng thắm, cách chia gần ba mươi năm của hai người. Trong tiệc cưới, mẹ Tân đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy hạnh phúc của con trai mình.

Ba tháng sau, trên chuyến bay Cathay Pacific Airline, Quỳnh đã thu xếp mọi việc ổn thỏa để trở về sống suốt đời ở Việt Nam bên cạnh Tân - chồng nàng.
Khách cùng chuyến bay ngưỡng mộ nhìn Quỳnh, tay xách túi nhỏ và vai mang một hộp da như đựng nhạc khí kèn đồng.
Trong quầy khám hành lý! Nhân viên hải quan hách dịch hỏi nàng:
- Sao không thấy bà kê khai hộp da bà mang trên vai. Chúng tôi được lệnh khám xét.
Quỳnh mở dây kéo! Mọi người đều ồ!!! lên một tiếng, ngạc nhiên bên trong lót lớp nỉ đỏ! Không có thứ nhạc cụ nào cả mà là một cái chân giả tuyệt đẹp.
- Bà mang chân giả này về cho ai? Nguyên do nào người này bị tật? Viên hải quan gắt gỏng.
Quỳnh trả lời một cách bình tĩnh:
- Nếu ở phi trường nước khác, tôi sẽ từ chối trả lời câu hỏi này. Nhưng ở đây tôi xin trả lời ông: Tôi mang chân giả này về cho chồng tôi! Anh bị thương trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở chiến trường Hạ Lào.
- Sau một lúc bàn thảo! Hải quan đồng ý cho Quỳnh đi. Đẩy xe hành lý bước nhanh một đỗi, Quỳnh còn nghe rõ câu nói hằn học lớn tiếng sau lưng:
- Mẹ nó! Mấy thằng thương binh ngụy bây giờ có giá dữ ha!!!
Quỳnh mỉm cười bước nhanh khi nhìn thấy Tân và mẹ vẫy tay chào nàng ngoài khung của kính bên kia đường.

Tường Lam
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 07/Oct/2020 lúc 8:15am

Đất Lành Chim Đậu 

 

Gia đình Nguyễn T Chánh  tại trại tị nạn Leam Sing-UNHCR Thái Lan-31-3-1980

Hắn và vợ, tay bồng tay dắt 2 đứa con còn nhỏ, lặng lẽ, bùi ngùi bước ra khỏi nhà cha mẹ, nơi mà hai vợ chồng hắn tá túc từ hơn một năm nay tại Saigon. Đồ đạc chỉ vỏn vẹn có 2 cái xách tay nhỏ, đựng một vài bộ quần áo cũ và một ít thức ăn khô.

Đó là ngày 23 tháng 3 năm 1980. Hắn vừa tròn được 37 tuổi. Trời còn tối om khoảng 3-4 giờ sáng.Trong nhà, ngoài một cô em vợ ra thì không còn ai hay biết gì hết. Hắn dặn cô em nhờ nói lại với Ba Má là Anh Chị cần phải về Cầnthơ gấp để xin lại căn nhà bị tịch thu một năm trước đó vì đi không lọt và bị bắt...

Đây là lần thứ ba mà hắn liều mạng lôi vợ con mạo hiểm theo hắn. Chợt một ý nghĩ  lóe lên trong đầu hắn, coi chừng "nhứt quá tam" hay "jamais deux sans trois" làm hắn cũng ngài ngại...

Lần đầu năm 78, xuống “cá nhỏ” ngay tại bến Ninh Kiều Cầnthơ nhưng chuyến đi bị gài bẫy từ đầu nên khi vừa leo qua “cá lớn” đậu ngay vàm Cầnthơ thì công an đã chờ sẵn trong ghe đón tiếp nồng hậu không sót một mống, chẳng khác nào cá vào rọ.

Hắn và vợ con bị nhốt hết hai ngày ở Chấp Pháp Cầnthơ nằm gần mé sông, xế khỏi Trại Nhập Ngũ số 4 cũ một quãng trên đường vô Cái Răng.

Qua ngày hôm sau một diễn biến thật bất ngờ xảy ra như một giấc chiêm bao. Hắn và vợ con được thả. Đây là một cái bất ngờ tuyệt điệu chẳng khác nào cá mắc cạn được đem thả lại xuống nước. Khỏi phải nói hai vợ chồng hắn đều mừng hết lớn.Tưởng đâu là cuộc đời mình đã bị tiêu tùng rồi, nhưng có lẽ nhờ phước đức ông bà để lại hay nhờ có số may mắn gì đó mà gia đình hắn được ban lãnh đạo Đại Học vận động với bên công an thành phố Cầnthơ thả ra thật sớm và về làm tờ tự kiểm.

Thời điểm đó phong trào vượt biên nở rộ khắp miền Nam. Đặc biệt đa số giới trí thức cũ đều bằng mọi giá tìm cách bỏ đi. Anh nào không đi thì bị thiên hạ mỉa mai và liệt vào nhóm trí thức 3N tức là hoặc nghèo, hoặc nhát hay hoặc ngu! Chất xám thất thoát nhiều khiến nhà nước cộng sản phải cấp bách đề ra chính sách o bế giới trí thức cũ để dụ họ ở lại phục vụ đất nước. Chòm xóm không ai hay biết gì hết, nhà cửa vẫn còn nguyên vẹn. Hú hồn hú vía.

Rồi hắn được cho đi làm việc trở lại tại nhiệm sở cũ là trường Đại học Cầnthơ. Vợ hắn, dược sĩ ngụy, thì cũng được gởi gắm đi làm tại một nhà thuốc Tây quốc doanh nằm trên đường Nguyễn an Ninh ngay trong thị xã Cầnthơ, lẽ đương nhiên là dưới quyền sai bảo của chị thủ trưởng dược tá giải phóng.

Nói là đi làm cho nó ngon vậy đó chớ thật sự ra có làm gì đâu, mà cũng chẳng có ai dám giao cái gì đâu mà làm. Hắn biết là hai vợ chồng hắn đang bị người ta theo dõi và canh chừng gắt củ kiệu lắm. Tối ngày lo lây quây học tập chính trị, họp tổ, rồi sau đó là lo ba cái vụ chầu chực để mua nhu yếu phẩm theo giá chính thức cũng hết thời giờ rồi. Hắn rầu lắm và hết còn biết tính sao nữa. Bế tắc hoàn toàn! Chỉ còn có một con đường duy nhất là phải tìm cách binh nữa. Bằng cách nào" Hắn cũng chưa biết được. Chỉ còn biết cầu xin và chờ phép lạ mà thôi. 

Rồi một dịp may khác lại xuất hiện một năm sau tức năm 79... Xuống bãi tại Phong Điền. Ghe là một loại tam bản lớn không có mui gì hết, ớn quá chừng nhưng lỡ rồi. Ghe thả theo dòng nước sông Hậu tà tà hướng xuống Cà Mau để mong tìm đường ra biển. Nhưng than ôi! Kỳ nầy lại bị tổ trát một lần nữa, xui xẻo hết cỡ ngoài dự tính. Đúng là mưu sự tại nhân thành sự tại thiên. Một trạm kiểm soát trên sông Ông Đốc thình lình gọi ghe tấp vào bờ để xét hỏi. Thế là bể! Cả ghe bị tóm. Hắn và tất cả bạn đồng hành dều bị áp giải vô Rạch Rán Cà Mau.

Trong chuyến đi nầy ngoài nhóm bạn bè của hắn trong Đại học Cầnthơ như Anh Chị PL (hiện còn ở VN) còn có dược sĩ B. (hiện hành nghề ở San José), anh dược sĩ C. và vợ cũng là dược sĩ D. ở Cầnthơ (không biết bây giờ ở đâu và còn sống không") và Trung tá y sĩ HNT. (Quân y viện Phan thanh Giản Cầnthơ). Bs T. hiện định cư ở Houston...

Một hai tuần sau thì gia đình bên vợ hắn ở Saigon mới hay được hung tin là chuyến đi bị vướng. Tội nghiệp Ông Bà Ngoại các cháu phải cực khổ tức tốc lặn lội từ Saigon xuống thị xã Cà Mau, rồi từ đây đón đò máy đi cả buổi mới tới Rạch Rán để xin lãnh 2 đứa nhỏ về nhà...

Sau vài tuần bị nhốt thì vợ hắn cũng được thả về trước, còn hắn thì bị giam thêm một thời gian nữa. Ban ngày, họ bắt bọn hắn đi lội nước nhổ cỏ ngoài ruộng để cho biết thế nào là lao động chân tay. Tối về láng, hắn và các bạn tù bị xiềng một cẳng lại với nhau qua một thanh sắt dài khóa lại ở một đầu phía ngoài cửa vào. Tiểu tiện phải "làm" trong lon ngay tại chỗ, xong thì chuyền cho người nằm sát vách phía bên trong, vạch tấm phên ra và hất đại xuống mương. Muỗi Cà Mau nhiều không thể tưởng tượng được. Mới 4 - 5 giờ chiều là chúng bay vo vo đen nghệch thấy mà phát sợ.

Vướng lần thứ 2 nầy hắn nghĩ rằng chắc phải bị kẹt lâu lắm chớ không mong gì về sớm được. Hắn thuộc gia đình ngụy quyền mà, có ông già bị đưa đi tu nghiệp vô thời hạn ngoài Hà Nam Ninh. Vợ hắn thuộc loại tư sản vì có nhà thuốc Tây ở Saigon. Mặc dù đã bị kiểm kê ốp hết ráo hết trọi, của thiên trả địa, nhưng gia đình hắn vẫn nằm trong diện không được thiện cảm của chế độ đương thời cho lắm!.

Lúc bị nhốt, tin bên ngoài từ Cầnthơ cho biết là có vài người không đồng ý xin cho hắn ra vì hắn thuộc loại quá ngoan cố hết thuốc chữa. Chắc cũng không mấy sai. Người ta đã tha cho một lần rồi mà không tởn. Hắn rầu thúi ruột đi. Tương lai mù mịt. Nhưng rồi hắn thầm nghĩ, đây là một canh bạc, có lúc ăn thì có lúc thua, đó là lẽ thường tình ở đời mà thôi.

Cũng may, sau khi bị nhốt hết 3 tháng thì cả nhóm được Thành Hội Trí Thức Yêu Nước Cần thơ cử Anh ba T. xuống lãnh hết ra... Lần nầy thì mất hết tất cả. Te tua. Lỡ leo lên lưng cọp rồi thì không thể xuống được! Đúng là cùi rồi nên không còn sợ lở nữa!. Nhà cửa của cải bị mất hết, mất luôn cả hộ khẩu, nên gia đình hắn chẳng còn chỗ nào ở đành phải về tá túc một cách bất hợp pháp nhà ông bà già vợ tại Sàigòn.

Vốn liếng, nữ trang và bao nhiêu cây dành dụm từ bấy lâu nay đều được đem chụm hết trong 2 chuyến đi hụt vừa qua. Láng túi sạch sẽ. Để kiếm sống qua ngày, vợ hắn phải nấu xôi, pha cà phê bán ngay bên lề đường cạnh tiệm thuốc Tây cũ của mình tại đường Bùi Chu Saigon.

Còn hoàn cảnh của vợ chồng người bạn là dược sĩ C.&D. cũng bi đát lắm. Họ cũng mất nhà và mất cả nhà thuốc CD ở đường Tự Đức Cầnthơ nên đành phải bắt buộc dẫn bầy con về tá túc nhà bố mẹ ở Saigon. Để kiếm sống, anh chị C.&D. làm bánh cam rồi hì hục mỗi ngày Anh C. từ nhà ở Sân Cộng Hòa cong lưng đạp xe ra bỏ mối cho vợ chồng hắn bán tại quán cà phê lề đường. Đây là tình nghĩa bạn bè lúc hoạn nạn...

Đó là hình ảnh của các dược sĩ của chế độ cũ một thời le lói hết sức, nhưng lúc sa cơ thất thế thì cũng thê thảm không ai bằng! Lên voi xuống chó là thế đó! Còn hắn thì chạy tới chạy lui phụ giúp ba cái chuyện lặt vặt cho bà xã. Hắn xuống tinh thần mất moral, chán chường thấy rõ, nhất là mỗi khi nghe tin có một người bạn nào đó đã tới nơi yên ổn sướng quá. Hắn cảm thấy mình là kẻ thua cuộc, lẻ loi và cô độc hết sức. Có nhiều người khi xưa là bạn, nay thấy hắn thì lại lơ lơ là là, có lẽ họ sợ bị liên lụy đến bản thân chăng" Đời là thế! C est la vie!.

Cũng vào thuở đó, lao động là vinh quang nên phong trào tăng gia sản xuất bằng cách nuôi heo rất phổ biến trong các thành phố. Bất cứ chỗ nào cũng có thể nuôi heo được hết. Heo và nguời ở chung với nhau. Nuôi ngay tại Saigon trong những căn nhà lầu và trong một số villa sang trọng mà lúc đó đã đổi chủ. Họ nuôi trong nhà bếp, nuôi ngoài sân, và thậm chí có người còn nuôi heo cả trên sân thượng nữa. Hắn chụp thời cơ nhảy ra làm nghề chích dạo và chữa bệnh cho heo.

Phần đông thân chủ của hắn là những người quyền thế của chế độ mới. Họ cho xe lại đón hắn về nhà khám bệnh cho heo, tiền bạc sòng phẳng! Hắn sống lây lất qua ngày để chờ thời. Hắn cảm thấy tuyệt vọng trước một viễn ảnh đen tối không còn lối thoát. Mỗi khi nhìn thấy ghe tàu đậu dưới sông là hắn thầm mơ tưởng viễn vong và ước ao phải chi nầy nọ. Hắn mơ, hắn thầm ước ao và cầu nguyện là có thể đưa gia đình đến một nơi nào, sẵn sàng làm bất cứ công việc gì miễn sao nơi đó hắn có thể hít thở được một không khí thật sự tự do mà thôi...

Rồi một hôm có một anh bạn đến móc nối hắn vì biết hắn đã từng du học nhiều năm tại Bangkok và nói được chút ít tiếng Thái để làm thông dịch khi cần.

...

Ra đến bến xe xa cảng Miền Tây, hắn lấy vé chợ đen đi Cần thơ, nơi chôn nhau cắt rún và cũng là nơi mà hắn có rất nhiều kỷ niệm trong suốt 10 năm dạy học tại đó.

Ngủ nhờ tại nhà người quen qua đêm trong một tâm trạng hết sức phập phòng lo sợ bị phường khóm xét hỏi bất tử.

Trời vừa hừng sáng thì gia đình hắn lật đật ra Bến Xe Mới ở lộ 19 Cần thơ thật sớm để lấy vé đi SócTrăng. Hắn rất sợ phải chạm mặt bất ngờ với mấy em sinh viên hay người quen thì coi như bể hết.

Tại Sóc Trăng, hắn đổi xe dong tuốt xuống Cà Mau. Tới thị xã Cà Mau khoảng 4- 5 giờ chiều. Còn đang đứng lớ ngớ ở bến xe chưa định hồn không biết phải làm gì bây giờ, vừa hồi hợp lo sợ công an xét giấy đi đường và cũng vừa lo lắng không biết người liên lạc có đến đúng hẹn hay không, thì may thay hắn gặp được một hai người quen ở Cầnthơ. Họ cũng đồng một cảnh ngộ như gia đình hắn vậy. Trong chuyến đi nầy có cả nhạc sĩ PMC dẫn theo hai đứa con. Anh PMC và các cháu hiện đang sống tại Montreal. Hắn cảm thấy hơi bớt lo đôi chút.

Mướn chiếu ngủ đỡ giữa trời ngay tại bến xe. Nằm trằn trọc, lăn qua lăn lại suốt đêm, đầu óc thật căng thẳng, mãi đến 4 giờ sáng thì có người đến ra dấu cho từng tốp nhỏ đi theo họ xuống bãi một cách thật lặng lẽ.

Nối gót theo người dẫn đường đi một khoảng xa ở phía trước, hắn lôi vợ con hấp tấp bước theo, xuyên qua những con hẻm quanh co giữa các xóm nhà bình dân còn chìm đắm trong đêm khuya tỉnh mịch.

Trống ngực hắn đánh thình thịch liên hồi. Hắn sợ tất cả: sợ gặp phải tổ dân phố, sợ công an, sợ người lạ, sợ con nít và sợ luôn cả mấy con chó trong xóm. Tâm trạng hắn lúc đó thật là phức tạp. Hắn vừa hồi hộp, vừa lo lắng, vừa bùi ngùi đứt ruột vì phải xa lìa đất mẹ, nhưng đồng thời hắn cũng cảm thấy vô cùng phấn khởi náo nức khi nghĩ đến mỗi bước đi tới sẽ là những bước đưa gia đình hắn đến gần một chân trời mới đầy tự do và hy vọng... Hắn niệm Phật thầm trong bụng.

Rồi kìa, Cá lớn đậu chình ình ngay tại bờ sông trước mắt. Đây là loại ghe bầu để chở hàng trên sông, dài cỡ 12mét là cùng, có mui bịt kín khoang, và ở phía đàng sau là cabine nhô cao lên để tài công lái. Hắn không nói ra nhưng trong bụng hơi lo vì không biết loại ghe này đi biển có được không" Thôi thì đành chịu vậy, vả lại đài radio tiên đoán tình hình thời tiết ở biển Đông và vịnh Thái Lan khá tốt. Có người còn nói tháng ba bà già đi biển vì biển rất êm vào mùa này. Mấy người tổ chức cho biết là họ đã chuẩn bị kỹ lắm đừng có lo. Máy ghe là máy Yanmar loại mới, 6 hay 7 blocs gì đó" Nói vậy thì nghe vậy chớ hắn nào có biết ất giáp gì đâu.

Tất cả mọi người đều bị ếm trong khoang ghe, không được gây tiếng động. Mấy cháu bé đều bị cho uống thuốc ngủ trước đó hết. Trong ghe, tất cả được chia nhau ngồi chen chúc dọc theo 2 bên vách. Mọi người đều im lặng. Trên cabine thì chỉ có tài công và "một người địa phương hướng dẫn" mà thôi. Tất cả có 69 người khách vừa lớn vừa nhỏ.

Ghe mở máy chạy bình bịch một cách thong thả xuôi theo giòng nước Sông Ông Đốc đổ ra biển. Vĩnh biệt quê hương yêu dấu! Hai bên sông, xóm làng khi ẩn khi hiện sau những rặng cây bần xanh tươi. Dưới nước, ghe xuồng và tác ráng xuôi ngược không ngơi.

Càng ra gần cửa biển lòng sông càng mở rộng ra. Bà con trong ghe thì không ai nói với ai lời nào cả, tinh thần mọi người đều rất ư căng thẳng vì chưa ra tới biển.

Trời đã bắt đầu tối. Đến khoảng 11 giờ khuya, thình lình từ trong màn đêm lóe lên tia sáng chớp tắt của ánh đèn Pile nào đó, rồi chẳng bao lâu không biết từ đâu đến, một chiếc xuồng nhỏ cặp sát vào ghe, "người hướng dẫn" từ cabine tuột xuống xuồng và biến mất trong đêm tối. Sắp tới trạm biên phòng rồi, mọi người đều im lặng, ghe tắt máy tắt hết đèn và thả trôi theo giòng nước. Mọi người đều nín thở im lặng và cầu nguyện thầm trong bụng. Thật là đứng tim trong 25 phút dài bất tận.

Qua khỏi trạm kiểm soát một đổi khá xa, máy ghe được mở trở lại xả hết tốc lực về hướng cửa biển. Nhưng không bao lâu thình lình ghe bị khựng lại, hình như đụng phải vật gì ở dưới nước. Mọi người đều xanh mặt hồn vía lên mây. Có 1-2 anh em khỏe mạnh nhảy xuống nước để xem tình hình thế nào.

Trời ơi ghe bị vướng đáy rồi, xui ơi là xui.

Biết làm sao bây giờ".

May Trời cũng còn thương, lối một tiếng đồng hồ sau, nhờ con nước lớn chiếc ghe tự nhiên xút ra khỏi đáy và tiếp tục vọt ra biển với hy vọng có thể ra tới hải phận quốc tế trước khi trời sáng tỏ. Láng cháng dám gặp đám tàu đánh cá quốc doanh thì phiền phức lắm.

Biển đây rồi, gió thổi ào ào, trời nước mênh mông vô tận. Ghe nhảy sóng một cách chòng chành, lắc lư làm nhiều người bắt đầu bị say sóng ói mửa tùm lum.

Chạy theo hướng nào đây" Nhiệm vụ này đã được phân công cho anh T. trung úy hải quân, nhưng ra tới biển là anh ta bị say sóng như chết rồi nên không giúp ích gì được hết. Té ra anh ta chỉ làm trong văn phòng mà thôi chớ không có kinh nghiệm về hải hành gì hết. Có bạn nóng mũi, văng tục Đ.M. đòi quăng anh ta xuống biển cho đỡ tức. Nhưng rồi cũng bỏ qua thôi.

Cái la bàn nhỏ xíu được lôi ra để định hướng. Người bàn thế nầy, người nói thế kia, cãi cọ om sòm. Cuối cùng thì nhắm hướng mặt trời lặn mà chạy cầu may.

Đến quá trưa, thình lình tiếng máy nổ khác thường, lạch cạch lạch cạch rồi êm ru bà rù. Anh thợ máy bất đắc dĩ nhảy xuống tháo các bộ phận máy ra, xem cái nầy, mò mẫm cái kia, mở ra lấp vào cả tiếng đồng hồ, mồ hôi nhuể nhại, rồi thử quay máy cho chạy. Mọi người đều nín thở. Một lần, hai lần, ba lần, bốn lần... Tất cả đều im lặng chỉ có tiếng gió thổi ào ào bên ngoài ghe mà thôi. Vô ích: máy hư rồi! Mọi người đều vô cùng thất vọng ra mặt. Trời ơi! Làm sao đây Trời"

Gió càng lúc càng thổi mạnh, trời bắt đầu kéo mây đen kịt. Những con sóng to nối tiếp nhau đợt này đến đợt khác, nhồi chiếc ghe lên xuống, lắc qua lắc lại như một cái hột vịt vậy. Ai nấy cũng đều điếng hồn hết. Thế này thì cái chết cầm chắc trong tay thôi. Cũng may là trên ghe có một chị đã từng đi sông đi biển rồi nên có một chút kinh nghiệm. Chị ta hướng dẫn các anh tài công bất đắc dĩ về cách bẻ càng lái để chặt sóng.

Trước tình thế thập tử nhứt sanh, hắn và một số anh em trên ghe phải thay phiên nhau ra phía sau ghe  rán sức kềm kềm cái càng lái. Đây là một cái cán gỗ rất dài để điều khiển bánh lái. Kềm nó cho đúng hướng rất nặng nề và rất khó khăn, vì sóng to và gió quá mạnh. Những lúc ghe nghiêng thì rất nguy hiểm, không khéo là bị cái càng lái gạt té xuống biển như chơi. Nhiều lúc hắn cũng xém bị hất xuống biển.

Trời kéo mây thêm nữa, gió bắt đầu nổi lên càng lúc càng mạnh hơn đẩy chiếc ghe đi rất nhanh, nhồi lên hụp xuống, thật kinh hải hết sức. Đàng xa hiện rõ dần dần bóng dáng lờ mờ của một hòn núi mà có người cho biết đó là đảo Thổ Châu, cách đảo Phú Quốc 100km về hướng nam. Tâm trạng của anh em lúc đó thật phức tạp, mừng lo lẫn lộn vì nếu ghe tấp vào đảo thì khỏi phải chết, nhưng lại phải đi tù mút chỉ cà tha. Tự nhiên lối 1 giờ sau thì gió lại đổi hướng thổi bạt chiếc ghe trở ra, đi mãi và đi mãi ra khơi...

Thỉnh thoảng có những con cá nược phóng theo 2 bên ghe như muốn lội đua cùng chiếc ghe khốn khổ. Hắn cảm thấy mình bất lực hoàn toàn trước hoàn cảnh bi đát nầy. Chỉ nằm chờ chết. Ôm vợ con vào lòng mà đầu óc thật ngổn ngang trăm ngàn ý tưởng không mạch lạc. Hắn lâm râm niệm chú Nam mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn, quảng đại linh cảm Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát...

Trước cái chết gần kề mình mới cảm nhận được giá trị của cái sống. Hắn nghĩ đến lúc ghe bị lật úp chắc hãi hùng lắm. Hắn cảm thấy thật ân hận khi nhìn vợ và 2 đứa con còn quá nhỏ tuổi. Không lẽ nghiệp quả của mình nặng nề như thế nầy sao" Không lẽ số mình là số con rệp hay sao" Rồi hắn nhớ lại lá số tử vi do một ông thầy ở Cầu Ông Lãnh lập cho hắn hơn 15 năm về trước, lúc hắn vừa mới ra trường chưa có vợ con gì hết. Lá số đâu có nói là hắn sẽ phải chết thảm như vầy đâu. Hắn nhớ ông thầy có nói hắn có sao Thiên di nên sau nầy phải ở xa nơi chôn nhau cắt rún gì đó, ngoài ra cung mạng và cung phúc đức của hắn cũng khá tốt. Trước khi đi một ngày, vợ chồng hắn cũng có lên chùa ở miệt Phú Nhuận để trước lễ Phật sau là nhờ Thầy trụ trì xem coi có đi được hay không. Sau khi bấm độn, Thầy nói: được! Nhớ tới đây, hắn lại lên tinh thần. Hắn nghĩ chết sống đều do số mạng cả, lo làm chi cho mệt mất công...

Mọi người trên ghe đều kiệt sức, đói khát, ngủ gà ngủ gật, chỉ chờ một phép lạ đến cứu mình mà thôi. Bao nhiêu tàu bè nhấp nhô ở chân trời để rồi cũng rẽ sang hướng khác. Tối đến, mỗi khi thấy ánh đèn đàng xa, thì bọn hắn đốt đuốc lên làm hiệu, nhưng cũng toi công thất vọng. Rồi thì chuyện gì sẽ đến thì nó phải đến.

Qua ngày thứ ba, có một chiếc tàu đánh cá Thái Lan xâm xâm tiến tới. Đây là loại tàu khá lớn và có cả radar. Mọi người đều kinh hoàng, và hồi hộp. Đàn bà con gái lo tìm dầu mỡ bôi lên mặt lên mày cho nó thúi tha ghê tởm. Tàu Thái xáp gần, trên bong lố nhố 5-7 tên có vẻ dữ dằn, rồi tàu cặp vào sát ghe kêu một cái rầm. Ghe bị chòng chành dữ dội và nứt một bên hông. Thật khiếp đảm không lường. Mọi người trên ghe đều ngồi yên thin thít và hồi hộp, im lặng chờ đợi. Bọn Thái nhảy qua ghe, 4-5 tên cầm mã tấu, còn 1 tên thì cầm súng lục. Nhờ biết chút ít tiếng Thái lúc đi du học mấy năm ở Bangkok, nên hắn lãnh nhiệm vụ làm thông dịch và thương thuyết với hải tặc.

Lúc đầu tụi nó hơi giật mình không hiểu tại sao trên ghe có người lại biết nói tiếng Thái. Hắn cắt nghĩa, hắn tả oán hoàn cảnh bi đát và xin tụi nó giúp đỡ.

Thằng cầm súng, có lẽ là tên đầu đảng, chĩa con chó lửa vào đầu hắn và bắt buộc hắn nói lại với tất cả là phải nộp hết vòng vàng tiền bạc, bằng không thì tụi nó sẽ bụp một phát là đời hắn tiêu tùng luôn. Hắn rất lạnh xương sống. Hắn năn nỉ hụt hơi thiếu điều lạy lục tất cả mọi người trên ghe nên đưa hết tiền bạc ra để đổi lấy mạng sống. Tụi nó lục lạo, tung bới tất cả đồ đạt, mò xét khắp nơi, đổ bỏ cả thùng nước ngọt để tìm kiếm nữ trang cất dấu trong đó. Cũng may là tụi nó không có làm hổn với ai hết. Xong rồi thì rút đi rất nhanh.

Ghe bị vô nước, tuy chưa nhiều nhưng cũng phải lo tát ra. Không bao lâu sau thì có một chiếc tàu đánh cá khác lại đến để ăn mót. Có lẽ là bọn hải tặc dùng máy rađa thông báo với nhau. Trước khi đi tụi sau nầy còn oái oăm bắt theo một cháu bé 2-3 tuổi gì đó, không biết để làm gì khiến cha mẹ đứa trẻ quá khiếp đảm kêu gào khóc la thảm thiết. Nhưng may thay, độ 1 giờ sau thì tụi nó quày trở lại trả đứa nhỏ.

Giữa trưa hôm đó thì lại có một chiếc tàu đánh cá thứ ba đến, nhưng lạ thay tụi nó không xáp vô mà chỉ đậu ở ngoài xa cách ghe vài chục thước và ra hiệu biểu mình qua. Một lần nữa hắn lại xung phong lãnh nhiệm vụ nầy.

Nhảy xuống biển lội thiếu điều đứt thở hắn mới qua được bên tàu Thái. Tụi nầy có vẻ hiền hơn mấy đám kia. Hắn trổ tài ngoại giao nhờ họ giúp kéo ghe vào bờ. Tụi nó chịu nhưng đòi ăn tiền. Hắn trở về ghe, bàn với mọi người và năn nỉ người nào còn dấu được tiền bạc thì xin làm ơn làm phước bỏ ra chớ không thì chết hết cả đám. Cuối cùng thì cũng gom góp được một số tiền đem nạp cho tụi Thái. Bọn chúng suy nghĩ sao đó không biết, nhưng cuối cùng cũng chịu.

Chúng nhảy qua ghe quan sát tình hình một lúc, xong bọn chúng hè nhau tháo cái máy ghe đem về tàu đánh cá và ra lệnh cho tất cả mọi người phải leo qua tàu của chúng, chỉ chừa lại 2 người ở lại để điều khiển chiếc ghe. Sau đó thì chúng thả dây cột chặt chiếc ghe để tàu đánh cá kéo đi.

Đến đây thì mọi người đều thở phào, phấn khởi lên tinh thần thấy rõ.

Chúng nấu cơm cho ăn. Thức ăn chính là món cá chiên, ăn ngon ơi là ngon. Nước đá uống thả giàn, vì có cả hầm lận. Chúng  nói chưa vô bờ liền được vì còn phải đi kéo lưới thêm một ngày nữa. Muốn sao thì mình đành phải chịu vậy.

Tối đến, mưa trút xuống dữ dội như thác nước, ai nấy đều ướt loi ngoi như chuột và lạnh cóng run cầm cập. Thằng nhỏ con trai 3 tuổi của hắn bắt đầu sốt nóng và ho nhiều. Chắc là nó bị cảm nặng hay bị sưng phổi gì đó. Vợ hắn đè nó ra lấy dầu cù là cạo gió, rồi sau đó hắn mò được trong túi xách một hũ ampicilline, đem ra lụi cho thằng nhỏ mấy phát nó mới bớt sốt...

Giữa đêm có tiếng la thất thanh từ chiếc ghe ở phía sau: Anh S. té dưới biển rồi. Mọi người đều hốt hoảng. Hắn báo động cho bọn Thái hay liền. Tàu bớt máy và quay ngược trở lại, rọi đèn pha rà tới rà lui khắp mặt biển.

Sau một hồi tìm kiếm thì thấy nạn nhân đang ngụp lặn dưới nước. Chúng thả phao xuống và kéo anh ta lên. Khỏi phải nói người mừng nhất là vợ con của anh ta.

Qua đêm hôm sau khoảng 1-2 giờ khuya, thình lình chúng ngưng tàu lại. Ai nấy đều nhốn nháo lên. Có chuyện gì đây" Chúng kêu hắn lại và chỉ ở chân trời phía trước có một đốm đỏ cỡ lớn hơn đầu điếu thuốc một chút, chớp tắt đều đặn từng chập. Chúng bảo đó là ánh đèn của ngọn hải đăng nằm trên một hòn đảo nhỏ không mấy xa bờ Thái Lan cho lắm. Chúng nói là không thể kéo mình vô đất liền được vì sợ cảnh sát Thái bắt, nên ra lệnh bắt buộc tất cả phải trở về ghe ngay lập tức. Ai nấy đều nhao nhao lên quá sợ vì ghe đã bị bể rồi, lại nữa đất liền còn xa quá, làm sao đây"

Mọi người xúm nhau năn nỉ bọn chúng bằng đủ các thứ ngôn ngữ để xin chúng kéo tiếp vào bờ. Vô ích. Có hai ba chị dằng co khóc la dữ quá khiến chúng nổi dóa phải đè khiêng thảy qua ghe. Khi mọi người trở về hết bên ghe, bọn Thái liền chặt dây và rồ máy vọt mất trong đêm tối.

Ghe tiếp tục trôi chầm chậm theo sóng nước. Biển rất yên. Trời dần dần sáng tỏ. Đàng xa, bóng dáng của một trái núi bắt đầu xuất hiện lờ mờ ở chân trời phía trước, và càng lúc càng rõ nét thêm hơn. Hầu như tất cả bọn đàn ông con trai đều kéo róc nhau lên ngồi trên mui ghe, hồi hộp chờ đợi... Chầm chậm và chầm chậm chiếc ghe định mệnh từ từ trôi về hướng núi...

10 giờ, rồi 11 giờ, trái núi lần lần hiện ra rõ nét thêm, có thể nhìn thấy những đám rừng trên cao chen lẫn những tảng đá to tướng xám xì xám xịt...11 giờ ruỡi mọi người hết sức hồi hộp. Còn khoảng 200 mét thì tới bờ. Rồi 100 mét... Rồi 50 mét... thình lình lườn ghe chạm đá ngầm kêu rồn rột, chòng chành lắc qua lắc lại và nghiêng qua một bên và rồi dừng hẳn lại. Hắn và các bạn cùng phóng xuống nước chỉ tới ngang ngực mà thôi.

Chân hắn vừa chạm đất thì nước mắt hắn cũng tuôn trào ra vì quá vui mừng và quá xúc động. Thế là thoát chết!

Khi tất cả mọi người trên ghe đều vô được trong bãi cát, hắn và vài người bạn mới đi vòng qua các đồi nhỏ, len lỏi giữa đám cây rừng hoang dã, theo đường mòn vòng qua phía bên kia núi. Thình lình ngước lên vách núi ở đàng xa bọn hắn thấy có bóng dáng một người đang đi lơn tơn. Hắn và mấy người bạn đều đồng loạt la lên, ra dấu bằng cách quơ tay quơ chân tới tấp. Người đó đã nhận thấy và đi chầm chậm về hướng của bọn hắn.

Đó là một anh lính Thái có nhiệm vụ gác trạm đèn pha trên đảo hoang nầy. Ngoài ra không có nhà cửa của dân cư nào khác tại đây hết. Hắn bèn trình bày sơ sơ hoàn cảnh cho anh ta biết. Anh ta lập tức trở về đồn và điện vô đất liền. Anh cho biết đây là một đảo nhỏ của Thái Lan nằm ngoài khơi, không mấy xa thành phố duyên hải Rayong, 150km về phiá nam của của thủ đô Bangkok, Thái Lan.

Kể như thoát nạn rồi, nhưng để cho chắc ăn, tối hôm đó hắn và vài người bạn lẻn xuống chiếc ghe và dùng búa đập phá cho nước vào thêm trong hầm khoang để khỏi bị cưỡng bách kéo ra khơi trở lại!

Sáng ra, một tàu cảnh sát Thái đến đón tất cả 69 người về sở cảnh sát Rayong để lấy lời khai và làm thủ tục nhập cảnh. Ngủ tại đây một đêm, hôm sau thì tất cả mọi người đều được đưa về trại tỵ nạn Laem Sing.

Đó là ngày 31 tháng 3 năm 1980.

Ngày 22 tháng 6 năm 1980, hắn cùng vợ và 2 đứa con được bốc đi định cư tại Canada, xứ lạnh tình nồng, đất lành chim đậu, cuộc đời trước mặt đổi thay và hắn vẫn tiếp tục đi...

Xin cám ơn TRỜI.

Thank you CANADA.

Nguyễn Thượng Chánh

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 08/Oct/2020 lúc 9:30am

BẾN CŨ


An%20Lộc%20Battle:%20Đinh%20thanh%20Long,%20Phi%20Công%20của%20KQ%20VNCH%20/%20Không%20Trang%20Bị%20Diêm%20%20Quẹt%20/%20An%20Lộc%201972


Huy gặp Diệp lần đâu tiên trong buổi lễ kỷ niệm ngày thành lập binh chủng Không quân. Anh được đơn vị bình chọn là phi công đạt nhiều thành tích nổi bật trong năm.

Là một phi công trẻ, bô trai, hào hoa nên Huy được giới nữ sinh xếp vào loại “người yêu lý tưởng”. Anh có chiều cao vô địch trong nhóm phi công, vì thế bạn bè thường gọi anh là “Huy Bamboo”.
Huy còn là tay chơi đàn dương cầm nổi đình đám trong các buổi trình diễn văn nghệ do đơn vị Không quân tổ chức.

Phần trao hoa cho các chiến sĩ xuất sắc do toán nữ sinh trường Trung học Sao Mai phụ trách. Lúc choàng vòng hoa cho Huy, Diệp không thể nào với tới, bởi anh cứ trong tư thế đứng nghiêm, thẳng lưng, ngẩng cao đầu.

Bản Lục Quân Hành Khúc do ban quân nhạc hòa tấu đã chấm dứt. Mỗi quân nhân xuất sắc đều có vòng hoa trên cổ, riêng cặp Huy Diệp vẫn còn đứng tại chỗ giương mắt nhìn nhau.
 Sĩ quan phụ trách đến bên Huy nhắc khéo : “Ðưa đầu cho cô bé tròng vòng… vào cổ đi”.
Huy lấy mũ, cúi xuống đặt trán mình trên mái tóc của Diệp, cả hàng quân cười khúc khích, khiến nàng ngượng chín người.

Thực ra, Huy cố ý trêu cô nữ sinh có mái tóc dài đen tuyền che một phần khuôn mặt trái soan với má lúm đồng tiền trông rất “liêu trai”. Hai người quen nhau từ đó.
Sau khi đậu bằng tú tài, Diệp ghi tên vào đại học Huế.

Qua năm thứ hai họ làm lễ cưới. Dự tính lấy xong bằng cử nhân văn chương, Diệp mới chiụ sinh con. Nhưng vận rủi ập xuống. Cuối tháng 3/75, Vùng 1 chiến thuật mất vào tay cộng sản Bắc Việt.
Chuyến bay cuối cùng không may bị đạn cộng quân bắn trúng, trực thăng của Huy phải đáp khẩn cấp và anh bị quân Bắc Việt bắt làm tù binh.
Dù bị kẹt lại trong lao tù cộng sản, nhưng lòng Huy vẫn cảm thấy thỏa mãn vì đã kịp thời gởi vợ anh, Trương Hoàng Diệp ra đảo đảo Lý Sơn để di chuyển vào Sài Gòn.

Diệp được bạn của Huy tận tình đưa nàng ra hạm đội sớm sủa. Ðến Hoa kỳ, nàng được một gia đình người Mỹ da trắng ở tiểu bang Washington bảo trợ.
Thời gian đầu, cuộc sống tuy có phần chật vật, nhưng đỡ hơn nhiều so với những gia đình còn ở trong khu tạm trú. Dù phải qua những năm dài vất vả vừa làm vừa học, Diệp đã tốt nghiệp và đựơc giới thiệu vào làm trong hãng Boeing.

Ngày ra tù, cha mẹ vợ báo cho Huy biết Diệp vừa lấy chồng. Như mũi dao đâm vào tim, tay chân anh rụng rời, chẳng còn lòng dạ nào ở lại dùng cơm tối với gia đình vợ.
Huy ra về với cõi lòng tan nát. Không có lý do gì để trách Diệp, anh chỉ buồn cho số phận hẩm hiu của mình. Huy đã có dự định sẽ vượt biên để được đoàn tụ với vợ.
Giờ thì niềm hy vọng ấy đã tiêu tan. Nhưng lòng khao khát tự do vẫn không ngừng thôi thúc anh ra đi.

Tháng Chín năm 1985, Huy cùng với bảy người bạn tâm đồng ý hợp nhất, tổ chức vượt biển trên chiếc xuồng một “lốc” mong manh giữa mùa mưa bão.
Năm ngày lênh đênh trên biển, thuyền mang tám kẻ dũng cảm ấy tấp được vào bờ của một làng ven biển thuộc Mã-Lai. Họ được tàu của Mã-Lai đưa đến hải cảng Trengganu và chuyển qua đảo Pulau Bidong.
Tại đây, Huy chưa biết định cư tại quốc gia nào. Bất ngờ, được thư của Diệp gởi đến, Huy vô cùng ngạc nhiên, làm sao cô ấy biết được mình ở đây?
Có thể Diệp cần chữ ký của mình trong đơn ly dị chăng?

Huy hồi họp mở thư ra xem:
“Kính gởi anh Huy,
Qua thư thầy me, em biết được anh đang ở trại tị nạn Pulau Bidong, nhưng không biết anh có được vào Mỹ không. Nếu anh muốn định cư tại Hoa Kỳ em sẵn sàng đứng ra bảo trợ cho anh với tư cách của một cousin.
Như anh biết đó, em không thể nào sống đơn chiếc mãi. Ðợi chờ anh chỉ là nỗi vô vọng. Càng nhớ anh, em càng thấy nỗi trống vắng xót xa. Cuộc sống lênh đênh của em trên xứ người, nhờ vào sự đỡ đầu của một người Mỹ và định mệnh đã đưa đẩy em vào một nẻo đường mới.
 Chồng em hiện nay là giám đốc trong phân xưởng Boeing, người đã nâng đỡ em ngay từ buổi đầu. Ông ấy ly dị vợ lúc năm mươi tuổi. Ban đầu chỉ là lòng kính trọng, sau thấy thương hại hoàn cảnh lẻ loi của ông, vì vậy em chấp nhận lời cầu hôn của ông ấy.
Bà vợ cũ đã lấy chồng khác, giao lại đứa con gái cho ông chăm sóc. Hiện giờ nó đang học High chool.

Giai đoạn đầu ở Mỹ khó khăn lắm anh ạ, thật lòng em muốn giúp anh vượt qua chặn đường đó. Cuộc sống của em hiện giờ tương đối ổn định. Em hy vọng anh bỏ qua tự ái của người đàn ông thường tình mà nghĩ đến tương lai sáng lạn của mình. Hãy quên đi những kỷ niệm đã qua. Giờ xin anh xem em như một người em họ. Với danh nghĩa nầy, em hi vọng sẽ giúp anh có nhiều cơ hội thành công…
Nhận được thư, anh nên trả lời gấp để em còn kịp làm thủ tục hồ sơ bảo trợ. Anh nhớ khai với Cao ủy tị nạn có người cousin là Diep Truong Thomas theo địa chỉ trong thơ. Em gởi anh cái check 500 USD để tiêu dùng.
Mừng cho anh đã thoát được cảnh lao tù khổ nhục và giờ đây đất nước tự do đang chờ đón anh.
Em Trương Hoàng Diệp

Thẫn thờ đặt bức thư trên bàn, nét chữ của Diệp như nhảy múa trước mắt Huy. Hình ảnh của nàng vẫn còn đầy ắp trong trái tim nồng cháy của Huy, thế mà trong thư Diệp viết lại thản nhiên, như không vướng bận chút tình cảm nào, thẳng thắn và thực tế đến độ tàn nhẫn.

Từ ngày đến đảo, Huy chẳng thiết tha gì được vào đất Mỹ mà sẵn sàng chấp nhận đi bất cứ quốc gia Tây phương nào.
Tuy nhiên, khi đọc thư của Diệp, anh lại quyết định đến Hoa Kỳ. Huy muốn gặp Diệp một lần và muốn nhìn xem tận mắt cuộc hôn nhân mới của nàng hiện giờ ra sao.
Dẫu biết lần chạm mặt trước thực tế bẽ bàng nầy có thể gây thêm thương tích cho trái tim mình. Lòng nhớ thương và tính tò mò đã thôi thúc Huy đồng ý đề nghị của Diệp đứng ra bảo trợ.

Ðúng ngày lễ Giáng sinh, Huy đến phi trường Seattle được Diệp cùng người chồng William Thomas và đứa con gái riêng của chồng, Christina đón tiếp.
Cuộc hội ngộ với người “anh họ” khá niềm nở. Diệp ôm chàng trong phép xã giao của người Tây phương rất tự nhiên và chân tình như đứa em họ đích thực.

Kết hợp với lễ nửa đêm đón Chúa Hài Ðồng là buổi tiệc tiếp đón Huy đầy thân tình. Khách mời, người nào cũng mang quà Christmas đến chúc mừng Huy. Diệp không mời khách nhiều, chỉ giới hạn một số bạn bè thân thiết của chồng.

Trước cảnh gia đình hạnh phúc của Diệp, Huy nghe trái tim mình se thắt nhưng với lòng tự trọng, anh vẫn giữ thái độ bình thản.
Mọi người hân hoan vào tiệc. Tiếng dương cầm ngân vang bản nhạc Ðêm Thánh Vô Cùng do cô bé Christina độc tấu, rồi tuần tự là những bản nhạc tình du dương, âm thanh êm đềm như quyện vào men rượu nồng làm tăng thêm nỗi ngất ngây cho thực khách.

Ðã ngà ngà say, tâm hồn nghệ sĩ bị kích thích, Huy đứng dậy đến bên chiếc piano xin phép cô bé được đàn một bản. Dù đôi bàn tay bị chai sần sau những năm lao động khổ sai trong tù, dù đã mười năm không tập luyện, mười ngón tay anh lướt trên phím ngà bản nhạc “Histoire d’un amour” như xuất thần trỗi lên âm điệu réo rắt làm say đắm lòng người.
Cô bé Christina trố mắt nhìn Huy đầy thán phục. Trái tim Diệp không biết có còn rung động trước âm thanh mang đầy những kỷ niệm xưa mà hai người đã từng bên nhau “anh đàn em hát” ?

Bản nhạc vừa dứt, cơn say ập tới, Huy gục đầu trên bàn phím.
Ông Thomas dìu Huy vào phòng ngủ đã chuẩn bị sẵn từ mấy ngày qua.

Buổi sáng thức dậy, Huy ngạc nhiên trước căn phòng được trang hoàng khá sáng sủa. Mấy bộ áo quần mới treo trong tủ và một số đồ dùng hàng ngày được sắp đặt rất tươm tất trên các kệ. Huy dạo quanh một vòng.
Ðây là loại phòng dành cho người độc thân, có đủ tiện nghi từ phòng tắm đến bếp ga và cả lối đi riêng hoàn toàn biệt lập với căn nhà chính.

Hai ngày nghỉ lễ, William đưa Huy cùng với đứa con gái đi xem các thắng cảnh ở vùng Seattle được mệnh danh là thung lũng Hoa Hồng .
Cô bé đi bên Huy líu lo giới thiệu tên của các thắng cảnh và về lịch sử của vài công trình xây dựng có tính tượng trưng cho thủ phủ của tiểu bang Washington.
Diệp ở nhà mua sẵn thực phẩm để trong tủ lạnh cho Huy tự nấu ăn.

Vào ngày lễ đầu năm dương lịch, Huy cùng gia đình ông bà Thomas đến dự tiệc tại nhà bạn thân của vợ chồng họ. Anh được giới thiệu là cousin của Diệp từ đảo mới qua, mọi người bắt tay chúc mừng.
Sau hai tuần lễ nghỉ ngơi, Huy ngỏ ý với Diệp sẽ tìm thuê một nhà khác. Nàng ân cần khuyên nhủ :
- William rất quý mến anh. Ông ấy muốn giúp đỡ anh có hoàn cảnh thuận lợi để trở lại trường học. Nếu anh đặt nặng tương lai của mình và thắng được tự ái, chắc chắn anh sẽ có cơ hội tốt để tiến thân.
Diệp ngừng nói, nhìn Huy như dò ý rồi tiếp:
- Căn phòng đó là do ông ấy quyết định dành riêng cho anh ở hoàn toàn miễn phí. Khi nào cuộc sống ổn định, có việc làm hẳn hoi, chừng đấy anh muốn thế nào cũng được.
Hôm qua Bill dự tính chờ khi anh lấy xong bằng lái sẽ tặng anh chiếc xe Ford đời cũ của ông để anh đi học và đi làm. Em thấy đó là phương tiện cần thiết đối với anh hiện giờ.

Qua những lời khuyên của Diệp, Huy cảm nhận được trong đáy lòng nàng, một tình cảm sâu kín nào đó bị ngăn chận vì hoàn cảnh. Diệp thật lòng không muốn Huy vấp ngã bởi những khó khăn mà nàng đã trải qua và những kinh nghiệm thất bại của những người đến trước. Ðó là lý do chính đáng thúc đẩy chàng ở lại. Và giờ đây, Huy biết mình phải làm gì.
Ðối với anh, hiện tại là phương tiện, mà tương lai mới là cứu cánh. Cứu cánh đó sẽ là phần thưởng dành cho cả quãng đời còn lại của anh.
Dường như trong tiềm thức, Huy không muốn xa Diệp và cả Diệp cũng không muốn rời Huy, dẫu cuộc sống của hai người đã có lằn ranh phân định và tình cảm của cả hai có bức tường đạo nghĩa ngăn cách.

Huy đã tìm được công việc làm bán thời gian và ghi tên học tại trường college. Sáng đi, tối về, Huy và Diệp ít khi gặp nhau.
Thỉnh thoảng, Diệp tổ chức những bữa ăn thân mật cuối tuần mời Huy cùng với gia đình dùng cơm tối.
Sau những bữa cơm như thế, Huy thường được ông Thomas và Christina yêu cầu chơi đàn.

 

Có lần Huy giới thiệu bản nhạc Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn đã được dịch lời qua nhiều thứ tiếng trên thế giới. Huy vừa đàn vừa hát, đến điệp khúc: “..Trời còn làm mưa sao em không lại. Nhỡ mai trong cơn đau vùi làm sao có nhau , hằn lên nỗi đau bước chân xin em về mau?
Diệp vội quay mặt nhìn qua khung cửa sổ. Huy vẫn tiếp tục hát :
” Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động, Làm sao em biết bia đá không đau, Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng, Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau !..”
Diệp nhìn Huy với ánh mắt trách hờn, rồi bỏ vào phòng. Chỉ một lần ấy rồi thôi, Huy đã khước từ những bữa cơm sau nầy.

Cô con gái của William đã qua mấy khóa học piano, nhưng ngón đàn vẫn còn non kém, cô bé rất thích được nghe Huy đàn và nhờ anh chỉ vẽ thêm. Huy thì ngại ngùng mỗi lần vào phòng khách nên đã nhiều lần từ chối lời khẩn cầu của cô bé.
Christina vừa mới ghi tên vào đại học năm thứ nhất, nhưng sức học của nàng lại kém hơn Huy một bực. Vừa giỏi toán lại vững vàng về lý thuyết và thực hành môn đàn Piano nên Christina luôn quanh quẩn bên Huy , dần dà anh trở thành thầy dạy kèm bất đắc dĩ.

Chiếc dương cầm ở phòng khách cũng được mang xuống phòng của Huy để Christina tập luyện hàng ngày.
Vào những đêm cuối tuần, tiếng dương cầm thánh thót và giọng cười rộn rã của cô bé vang lên từ phòng của Huy đã làm dịu bớt nỗi quạnh vắng của tháng ngày qua.
Lắng nghe tiếng đàn ngày một điêu luyện của con gái, ông Thomas rất vừa lòng và thầm cảm ơn Huy đã giúp ông bớt phần lo lắng.

Trong cuộc thi biểu diễn dương cầm toàn trường, Christina đoạt giải nhất về kỹ thuật và phong cách trình diễn. Hôm ấy, cô bé đã đích thân trao cho Huy một bó hoa hồng và cảm ơn chàng như một người thầy đã có công rèn luyện nàng tạo được thành tích ngày hôm nay.
Ông Thomas xem chừng rất hãnh diện. Riêng Diệp, dường như nàng không được khỏe, nụ cười có vẻ gượng gạo, và gương mặt bớt phần tươi tắn.

Sau hai giờ làm bài tập và chỉ thêm toán cho cô bé, Huy ngồi vào chiếc đàn piano dạo bản L’amour c’est pour rien. Ðiệu nhạc tango làm xao xuyến tâm hồn, Christina bỏ viết đến phía sau lưng Huy rồi thản nhiên choàng tay ôm cổ chàng. Bản nhạc vừa chấm đứt, cô bé xoay người Huy về phía mình rồi đặt nụ hôn nồng cháy vào môi chàng. Màu mắt xanh ánh lên nỗi đam mê, cô bé nhìn anh với cơn kích thích. Huy bàng hoàng đứng lên, vội vã bắt tay chúc ngủ ngon và tiễn nàng ra khỏi cửa.

Hôm sau, Huy ngỏ ý với ông Thomas và Diệp sẽ dọn đi ở nhà khác với lý do cho tiện đường đến sở làm và gần trường hơn.
Ngày lễ Thanksgiving, Christina bay qua Virginia thăm bà mẹ ruột đang sống với ông chồng sau. Nhân đó, Huy cũng dọn nhà sang chỗ ở mới. Ông William tỏ ý luyến tiếc.
Phần Diệp, nàng chẳng nói gì, chỉ đưa mắt nhìn Huy ngờ vực khi chàng bắt tay ngỏ lời cảm ơn.

Huy cố tình giấu Christina chỗ ở mới của mình, chỉ ghi riêng số điện thọai và địa chỉ để lại cho vợ chồng Diệp.
Từ khi Huy ra đi, Christina thường hay buồn bực, gắt gỏng với mọi người. Mỗi một biến đổi tình cảm nhỏ nhặt của cô bé cũng không thể nào lọt qua mắt của Diệp. Việc dời nhà của Huy đã giúp cho Diệp tin vào suy đoán của nàng là đúng.

Ngày Giáng sinh đã về, đánh dấu ba năm tròn trên đất Mỹ, Huy đã vượt qua được một cách dễ dàng những khó khăn ban đầu.
Giờ đây, anh đang học năm thứ ba kỹ sư điện tại trường Ðại học UW. Huy đã lấy được giải học bổng của hãng Boeing dành cho sinh viên xuất sắc trong hai năm cuối cùng Ðại học.

Sáng Chúa Nhật, tâm trí thảnh thơi, Huy đang ngồi nhâm nhi ly cà phê và đọc tờ báo địa phương, chợt có tiếng gõ cửa thúc bách, anh vội vàng mở hé cánh cửa nhìn ra, Christina đột ngột tông cửa vào, với ánh mắt rực lửa cô nàng hét lên:
“Tại sao anh trốn em ? Tại sao anh bỏ em ? Tại sao ? Tại sao” ?
Vừa nói nàng vừa đẩy Huy lùi về phía sau. Anh cố đứng trụ lại, cô nàng càng xông tới. Miệng Huy không ngớt van lơn : “Xin cô bình tĩnh, xin cô bớt nóng..”

Nhưng Christina chẳng ngừng tay, vẫn ra sức xô chàng.
Ðến cuối phòng, Huy bị chiếc sofa cản chân nên cú đẩy sau cùng khiến anh ngã nằm lên ghế. Christina nhào tới nằm đè lên mình Huy và ôm lấy đầu anh hôn tới tấp trên mắt, trên môi rồi úp mặt mình vào vai Huy. Cô bé thì thào trong hơi thở đứt quãng, nghẹn ngào :
- Em yêu anh và anh biết em yêu anh đến mức nào, sao nhẫn tâm với em
Huy cảm thấy mềm lòng, đưa tay vuốt mái tóc vàng óng mượt của cô bé, khuyên giải :
- Cô còn quá trẻ và có cả một tương lai sáng lạn đang chờ phía trước, còn tôi chỉ là bóng đêm mịt mùng, ngày mai là những tháng năm dài lao đao. Cô chẳng được gì khi vướng víu vào tình yêu không cân xứng.

Christina vụt đứng lên, chạy đến khóa cánh cửa còn hé mở từ lúc nàng vào và nhanh tay cởi bỏ hết áo quần. Một thân thể nở nang đầy hấp lực, lồ lộ làn da mịn màng với bộ ngực căng đầy như tượng thần Vệ Nữ đứng trước mặt Huy thách thức.
Anh vừa trở thế nằm dự định đứng lên. Không để vuột mất cơ hội, Christina sấn tới và tự tay lột bỏ bộ pyjama của chàng đang mặc. Huy hoàn toàn bị khuất phục bởi những kích thích tột độ của nàng.

Từ hôm đó, sau giờ tan học, Christina thường ghé vào nhà trọ của Huy mãi đến khuya mới về nhà. Thấy con gái độ nầy đi về thất thường, ông Thomas dò hỏi, cô bé cho biết đến nhà Huy nhờ hướng dẫn toán. Tin ở con gái mình và người anh họ của vợ, ông cảm thấy an tâm.

Ra khỏi sở làm, Diệp lái xe thẳng đến nhà trọ của Huy. Nàng đứng tần ngần một chặp lâu rồi đưa tay gõ vào cánh cửa. Christina xuất hiện nơi khung cửa. Diệp lạnh lùng hỏi :
- Cô làm gì ở đây ?
- Thăm anh Huy.
- Ðâu cần cô thăm ?
Christina bốp chát
- Tại sao không !
- Tôi cấm cô.
- Ô hay, bà ghen đấy à ?
Diệp dang tay tát vào má Christina toé lửa. Cô bé trố mắt kinh ngạc rồi dùng cả hai tay tấn công trả đũa.
Từ trong phòng Huy nghe tiếng cãi vã và tiếng đánh nhau, vội vàng chạy ra. Huy thấy Diệp ôm mặt khóc, còn Christina giận dữ đóng sầm cửa lại, ra khỏi nhà.
Huy hấp tấp đến bên Diệp hỏi :
- Nó đã làm gì em ?
Thay vì trả lời, nàng đấm vào ngực Huy thùm thụp, tức tối la lên :
- Anh vô tình ! Anh tàn nhẫn ! Anh độc ác !
Huy nắm lấy đôi tay Diệp giữ lại nhưng nàng cố vùng ra rồi ôm chầm lấy Huy, vùi mặt vào ngực chàng khóc tức tưởi.
Huy ôm chặt Diệp vào lòng, lặng lẽ nghe hơi ấm của người yêu ngấm vào trái tim giá lạnh suốt mười bốn năm của mình.
Từng giọt lệ nóng âm thầm lăn trên má chàng. Nước mắt tình yêu của hai người đã được chắt lọc từ trái tim thử thách ở hai phương trời giờ đây kết tụ.

Gia đình ông bà Trương Hoàng Mẫn đến phi trường Ðà Nẵng đón vợ chồng cô con gái Trương Hoàng Diệp từ Mỹ về thăm quê hương sau mười tám năm xa cách.
Ánh nắng của tiết trời sắp vào Xuân nhuộm vàng cả phi cảng. Chiếc máy bay Hàng Không Việt Nam vừa hạ cánh trên phi đạo, mọi người hồi hộp đợi chờ.

Ông bà Mẫn hết đứng lại ngồi, mắt đăm đăm nhìn ra phi đạo khi chiếc máy bay vừa dừng bánh. Hành khách lần lượt xuất hiện trên cửa phi cơ.
Những khuôn mặt rạng rỡ của người Việt ly xứ sắp được đoàn tụ với gia đình nổi bật giữa đám người địa phương trầm mặc.
Trong đoàn người hối hả rời sân bay tiến vào khu hành khách, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng của một người Mỹ mà gia đình ông bà Mẫn đặc biệt chú mục.

Chợt Diệp đột ngột xuất hiện, một tay kéo chiếc vali nhỏ, tay kia với túi xách đựng tả lót và bình sữa. Nàng đang dớn dác tìm người nhà.
Bỗng người em gái của Diệp reo lên :
- “ Chị Diệp kia kìa !” Cùng lúc cả nhà nhận ra, gọi to lên :
- “Cô Diệp ! Chị Diệp ! Thầy Me đứng đây nè !”

Trước nỗi vui mừng đoàn tụ không ai để ý đến Huy đang bồng con đứng phía sau vợ. Bà Mẫn ôm con gái vào lòng để rơi những giọt nước mắt mừng mừng tủi tủi.
Ông Mẫn là người đầu tiên nhận ra sự có mặt của Huy, vội vàng đến siết chặt tay chàng :
- Con Diệp về thầy me chỉ mừng một, khi thấy con cùng về là niềm vui tăng lên gấp mười lần hơn cho gia đình ta.
Bà Mẫn bồng cháu ngọai từ tay Huy trao qua, vừa nựng cháu vừa trách yêu :
- Bố mẹ cháu hư lắm, cái việc trọng đại một đời mà giấu ông bà suốt mấy năm nay.
Diệp nhoẻn miệng cười với mẹ :
- Chúng con bàn tính với nhau là dành cho thầy me một dịp bất ngờ, như một món quà để tạ lỗi thầy me suốt bao năm đã phải trăn trở về việc con lấy chồng khác.

Diệp âu yếm nhìn Huy rồi quay sang me, tiếp :
- Ông William Thomas là ân nhân của con, vì vậy con đặt ơn nghĩa lên trên tình yêu dành cho ông ấy. Cách đây ba năm, đứa con gái của ông bỗng nhiên bỏ nhà ra đi, ông lên cơn nhồi máu cơ tim rồi qua đời.
Mẹ Diệp thì thầm : “Nguyện cầu Thiên Chúa dìu dắt linh hồn ông ấy sớm về cõi thiên đàng”.
Ông Mẫn cùng làm dấu Thánh giá với vợ rồi nói với vợ chồng Diệp
- Âu cũng là định mệnh !

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 12/Oct/2020 lúc 10:15am

Đứa Con Lưu Lạc 

Hình minh họa

Sau 30-4-1975, tất cả công chức, quân nhân VNCH đều bị bắt đi tù cải tạo. Một số đi cải tạo ở Miền Nam, một số ở các trại cải tạo trên Cao Nguyên, một số ở miền Trung , và một số lớn thì bị đưa ra Miền Bắc. Tháng 12 năm 1976, tôi bị đưa xuống tàu "Hải Phòng" và chuyển ra Bắc. Trại cải tạo đầu tiên tôi đến là Trại Phong Quang, tỉnh Hoàng Liên Sơn . Đến năm 1979, khi Trung Quốc đánh qua biên giới Việt - Trung, tôi được chuyển về Trại Phú Sơn, thuộc tỉnh Bắc Thái. Một thời gian sau, họ lại chuyển tôi về Trại Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh.

            Trong thời gian tôi đi tù cải tạo ở Miền Bắc, vợ con tôi đang sống ở Cần Thơ với vô vàn khổ cực, đau thương. Vợ tôi vất vả mua bán quần áo cũ ở vĩa hè, cũng chỉ đủ ăn cho 4 mẹ con ( vợ tôi và 3 con nhỏ). Nhà tôi rất đau khổ khi nghĩ đến tương lai của các con. Nhiều gia đình trong xóm đã cho con đi vượt biên, một số đã đến đảo bình yên, đem đến cho họ chút hy vọng tương lai cho các cháu nhỏ.

            Năm 1982, nhà tôi gom góp được 1 lượng vàng, và hy sinh cho cháu Tèo   (cháu lớn nhất - 7 tuổi) đi theo một tổ chức chuyên đưa con nít vượt biên, giá 1 lượng cho mỗi cháu. Sau khi đóng tiền, họ đưa cháu ra Đà Nẵng để chuẩn bị ra đi.

            Nhà tôi ngày đêm cầu nguyện, mong ngóng tin con đã đến đảo..Nhưng chờ đợi 1 tháng rồi 2 tháng, rồi 1 năm sau cũng không có tin tức gì của con. Nhà tôi đau khổ ngày đêm thương nhớ con, không biết cháu có đến được đảo không, hay đã chết trên biển cả mênh mông rồi.

            Năm 1984, tôi được tha về, chỉ còn da bọc xương. Vợ chồng, cha con chúng tôi vui mừng gặp lại nhau, không thấy cháu Tèo. Tôi hỏi :"Tèo đâu ?" Biết không thể dấu được, nhà tôi phải kể rõ mọi chuyện cho tôi biết. Tôi ngã nhào, úp mặt xuống đất khóc nức nở. Tôi kêu gào :"Tèo ơi ! Tèo ơi!! để ba chết thay cho con!"Cả nhà cũng khóc theo. Chúng tôi quá đau đớn vì mất đi một đứa con, nhưng dù thương tiếc, thì chuyện đã rồi; chúng tôi phải sống cho 2 cháu còn lại, 1 trai và 1 gái.

            Ngày tháng qua đi, bỗng chương trình HO đến, đem lại cho những gia đình tù cải tạo chút hy vọng le lói. Chúng tôi làm hồ sơ, được phỏng vấn HO và sau đó , được định cư ở Mỹ từ năm 1992.

            Từ ngày qua Mỹ, khi chúng tôi có dư được đồng nào, cũng gom góp gửi về VN, đặc biệt giúp cho các trại nuôi trẻ mồ côi. Ban đầu thì giúp nhiều nơi, nhưng sau một thời gian, khi nhận thấy yểm trợ lung tung như vậy kém hiệu quả, chúng tôi chọn lọc lại, và quyết định chỉ giúp cho một trại mồ côi mà thôi do khả năng tài chánh của chúng tôi có hạn. Tình cờ, chúng tôi chọn giúp cho trại mồ côi Sao Biển, ở vùng Đà nẵng mà thôi. Từ đó chúng tôi  chỉ giao dịch với trại mồ côi Sao Biển, và trở nên thân thiết với quí  Xơ (Soeur)  trông coi trại nầy. Chúng tôi thường xuyên liên lạc với trại mồ côi đó, thăm hỏi tình hình sức khỏe và sinh hoạt của các em. Dù sự chu cấp của chúng tôi không dồi dào lắm, nhưng các em luôn luôn có đủ cơm ăn, áo mặc và được học hành.

            Năm 1997, Xơ Bề Trên của Nhà Dòng, cũng là người quản lý trại mồ côi Sao Biển, mời chúng tôi về  VN một chuyến để thăm Nhà Dòng và thăm các em mồ côi. Lúc nầy vấn đề tài chánh của gia đình chúng tôi bắt đầu thoải mái, nên chúng tôi quyết định sang năm 1998, chúng tôi sẽ về Đà Nẵng theo lời mời của Xơ Bề Trên để thăm Nhà Dòng  của Xơ và thăm các em mồ côi trong 2 tuần.

            Máy bay của chúng tôi đến phi trường Đà Nẵng lúc 3 giờ chiều ngày 14 tháng 5 năm 1998. Khi đến  nơi nhận hành lý, chúng tôi đã gặp các Xơ đến đón chúng tôi. Quí Xơ và chúng tôi chuyện trò vui vẻ, như những người thân lâu ngày gặp lại nhau.

            Xe đưa chúng tôi về Nhà Dòng, cơ sở  của quí Xơ và cũng là nơi tọa lạc  nhà trẻ mồ côi Sao Biển. Khi xe đi vào cổng, chúng tôi thấy nhiều Xơ đứng đón chúng tôi. Nhìn vào trong, nhiều trẻ mồ côi, áo quần sạch sẽ, đứng 2 hàng đón chào chúng tôi, các em cùng vỗ tay và nói lớn : "Chào mừng Ông Bà ân nhân của chúng con ." Chúng tôi cảm động quá. Nhà tôi ngồi xuống, ôm nhiều em nhỏ vào lòng. Chúng tôi tạ ơn Chúa, đã cho vợ chồng tôi được hưởng những giây phút tuyệt vời như thế nầy. 

            Xơ Bề Trên đưa chúng tôi lên phòng nghỉ. Xơ dặn dò chúng tôi : " Ông bà  rửa mặt mau mau rồi đi xuống Hội trường, chúng ta còn nhiều việc phải làm "

            Một Xơ trẻ dẫn chúng tôi đến Hội trường. Hôm nay Hội trường được trang hoàng lộng lẫy : hoa giấy , bong bóng màu được trưng bày khắp nơi. Đông đủ quí Xơ và nhiều trẻ mồ côi đã hiện diện, ngồi ngay ngắn trong Hội trường.      

            Xơ Bề Trên nói lớn : " Mọi người hãy đứng dậy, vỗ tay chào mừng Ông Bà Trần Quốc, là ân nhân  của Nhà Dòng  và của các em mồ côi". Tiếng vỗ tay ròn rã khắp Hội trưòng, vài em lại nói:" Chào Ông Bà ! Chào Ông Bà !" Chúng tôi quá cảm động, không nói nên lời.

            Khi chúng tôi đã ngồi yên chỗ, Xơ Bề Trên nói : "Thưa Ông Bà, từ năm 1994 đến nay, Ông Bà đã ưu ái giúp đỡ cho Nhà Dòng và cho các em mồ côi ở đây quá nhiều. Đêm ngày, chúng tôi băn khoăn không biết đến bao giờ mới có cơ hội đền ơn Ông Bà. Nhưng tình cờ, chúng tôi tìm gặp được một món quà đặc biệt mà chắc chắn ông bà thích thú đón nhận". Xơ Bề Trên hớn hở nói lớn : " Thưa Ông Bà, đây là món quà mà chúng tôi trang trọng gởi đến Ông Bà".

            Từ một cửa lớn ở cuối Hội trường, một Xơ dẫn một chàng thanh niên vào Hội trường, đi đến Xơ Bề Trên. Khi chàng thanh niên vừa xuất hiện, nhà tôi đứng bật dậy, chạy ào đến ôm chầm lấy chàng thanh niên và khóc sướt mướt :" Tèo, Tèo, con của mẹ. Lạy Chúa , con tôi đây mà ". Tèo cũng ôm chầm lấy mẹ, khóc nức nở trên vai mẹ và cứ luôn miệng gọi: "Mẹ ơi! Mẹ Ơi! Con nhớ mẹ quá!"

            Tôi quá vui mừng, ôm con tôi vào lòng, và thì thầm bên tai con : "Tèo ơi! Ba đây con! Ba thương, ba nhớ con biết chừng nào "

            Cả Hội trường ngạc nhiên, vui mừng rơi lệ khi  bất ngờ chứng kiến cảnh vợ chồng tôi gặp lại đứa con đã 15 năm mất tích. Mọi người chia xẻ niềm vui với chúng tôi bằng tiếng vỗ tay kéo dài. Một Xơ đem đến tặng cho vợ chồng chúng tôi một bó hoa rực rỡ. Xơ nói : " Chúc mừng Ông Bà gặp lại đứa con yêu quí của mình , mà mười mấy năm nay Ông Bà cứ nghĩ là cháu đã chết !"

            Các em mồ côi chạy đến ôm Tèo và nói :"Anh Tèo sướng nhé, hôm nay anh có cha, có mẹ. Nhưng anh đừng quên tụi em nhé, tụi em thương anh lắm !"

            Hôm nay, Xơ Bề Trên đãi mọi người ăn bánh ngọt và uống Cô-Ca. Các em mồ côi nói cười vui vẻ. Trong khi đó, nhà tôi cứ ngồi ôm con vào lòng, nắm chặt tay con, có lẽ nhà tôi sợ cháu lại biến mất một lần nữa.

            Trong khi mọi người đang ăn bánh ngọt, Xơ Bề Trên nói với cháu Tèo: " Con kể lại cho mọi người nghe , vì sao mà con vào ở trại mồ côi Sao Biển, và trường hơp nào, con phát hiện được Ông Bà Trần Quốc là cha, mẹ của con."

            Cháu Tèo vâng lời, đứng dậy và nhỏ nhẹ nói :"Lúc con còn rất nhỏ, khoảng 7,8 tuổi gì đó, mẹ con nói với con là sẽ lo cho con đi vượt biên để có tương lai, rồi con có điều kiện  để giúp ba, mẹ và hai em nữa. Với trí khôn non nớt của con, con đồng ý đi.

            Vài hôm sau, có người đến đem con ra Đà nẵng, gởi con ở nhà Dì Tư; họ nói với con là hai, ba ngày nữa sẽ ra đi. Hằng ngày con chơi với thằng Út , con Dì Tư, và bình thản chờ họ đến đem con đi. Nhưng chờ mãi mà, đã lâu mà không thấy ai đến kêu con đi. Dì Tư nói là Dì không thể tiếp tục nuôi con được nữa, nên Dì đem con đến giao cho các Xơ của trại mồ côi Sao Biển. Từ đó, con bắt đầu sống cuộc đời của một trẻ mồ côi, như các em khác đang sống ở đây.

            Con không thiếu ăn, không thiếu mặc, lại được các Xơ thương mến, nhưng cứ thẫn thờ buồn bã, vì con nhớ ba mẹ con lắm. Con thường lặng lẽ khóc một mình .

            Từ lâu, con đã quên hết quá khứ trẻ thơ của con, khi con còn ở với ba, mẹ con. Thậm chí con không nhớ tên con là gì, chỉ biết mọi người gọi con là Tèo.

            Ngày đêm con nhớ ba, mẹ con lắm. Con đau xót nghĩ rằng, con sẽ vĩnh viễn không còn gặp lại ba mẹ con nữa. Không biết giờ nầy ba mẹ con ở đâu !

            Cách đây 3 ngày, tình cờ con đi ngang chỗ mấy Xơ đang đứng bàn luận việc gì đó, con nghe Xơ Bề Trên nhắc đến tên một vị ân nhân của Nhà Dòng là Ông Bà Trần Quốc. Tiếng "Trần Quốc" khi lọt vào tai của con, nó như một tiếng sét phá vỡ bức tường u ám của trí nhớ con. Con lập lại "Trần Quốc, Trần Quốc " sao cái tên nghe quen quá. Ngay lúc đó, trí nhớ của con chợt trở về, con nhớ rõ ràng, "Trần Quốc" là tên của ba con.      

            Con đi đến bên Xơ Bề Trên và nói với Xơ : " Thưa Xơ, Xơ mới nhắc đến tên Ông Trần Quốc, ông ấy là ai vậy ?" Xơ nhìn tôi rồi trả lời : "Ông Bà Trần Quốc là ân nhân của Nhà Dòng và cũng là ân nhân của các em đó. Thứ năm nầy, Ông Bà sẽ từ Mỹ về thăm chúng ta. Mà sao em lại hỏi về Ông Bà Trần Quốc làm gì vậy ?" Con trả lời :" Thưa Xơ, trí nhớ đã trở lại với con  khi con nghe tên Ông Trần Quốc. Con nhớ một cách chắc chắn rằng Ông Bà Trần Quốc là cha, mẹ của con !" Xơ Bề Trên ngạc nhiên nhìn tôi :"Thật vậy sao? mà con còn nhớ mặt cha mẹ của con không ?". Con thưa với Xơ :"Hình ảnh thân yêu của cha mẹ con, luôn ở trong trái tim con " Xơ Bề Trên đi vào phòng làm việc, lấy ra một tấm ảnh và đưa cho con xem. Con không thể kềm chế được, con reo lên :"Ba! Mẹ! Con của ba mẹ đây nầy !" Con quá xúc động, con khóc òa như một đứa bé. Con ôm bức ảnh vào lòng, và nói với bức ảnh :"Ba, mẹ ơi, con nhớ ba, mẹ quá ! "

            Xơ Bề Trên , sau một phút giây ngỡ ngàng, Xơ đã ôm vai con và nói :"Tạ ơn Chúa, đây quả thật là một phép lạ, Chúa đã trao ban cho gia đình Ông Bà Trần Quốc. Rồi Xơ nói với con :"Xơ mừng cho con, 3 ngày nữa con sẽ gặp lại cha, mẹ con"

            Mọi người im lặng lắng nghe cháu Tèo kể lại câu chuyện của đời mình. Khi cháu vừa dứt lời , cả Hội trưòng như bùng lên, vỗ tay chào mừng một ngày vui quá to lớn của gia đình tôi.

            Xơ Bề Trên đến bắt tay vợ chồng tôi, Bà trang trọng nói :"Chúa đã trả công bội hậu cho Ông Bà vì những việc bác ái mà Ông bà đã làm từ bấy lâu nay. Xin Chúa chúc lành cho Ông Bà và cháu Tèo, để gia đình Ông Bà được sống những ngày hạnh phúc tuyệt vời bên nhau".

 Bửu Uyển

Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 15/Oct/2020 lúc 10:28am

Tình Bạn Thân Thương


 
Tôi và Tý cùng được bổ nhiệm dạy trường trung học Hòa Vang, một quận ngoại ô thành phố Đà Nẵng. Tôi dạy Lý Hóa Sinh, Tý dạy Pháp văn, thành ra thân nhau.
Mùa xuân năm 1975, tôi và Tý đã mất việc vì liên hệ lý lịch xấu của chồng. Phan xuân Phương chồng tôi và Nguyễn văn Xương chồng Tý đều đi tù tại Miền Bắc Vietnam. Trong thời gian nầy chúng tôi thường gặp nhau tâm sự an ủi và trao đổi thư từ của hai ông chồng đã gởi về. Sau gần sáu năm, Phan được trả tự do vào mùa Xuân 1981. Còn Nguyễn phải ở lại tù đến 9 năm. Rồi từ đó, chúng tôi bảo nhau qua lại đến thăm nhau mỗi tuần một lần. Khi thì đúc bánh xèo, lúc thì nấu mỳ Quảng, hoặc đổ bánh bèo, cùng nhau ăn uống vui vẻ, cũng là để bồi dương cho 2 ông chồng sau những năm cơ cực trong lao tù CS.
 
Đến năm 1989 có chủ trương cho những người tù của chế độ cũ được ra đi định cư ở Mỹ theo diện HO. Chúng tôi cũng bảo nhau hằng đêm đốt nhang cầu nguyện Phật Tổ cho hai gia đình cùng đi Mỹ trên một chuyến bay và cùng được định cư một chỗ để được gần nhau như xưa. Đúng như điều mong ước,chúng tôi được sắp vào danh sách HO.4, cùng rời Tân Sơn Nhất ngày 6/9/1990 và cùng đặt chân đến phi cảng quốc tế Los Angeles vào chiều thứ sáu 13/9/1990. Tại đây hai gia đình chúng tôi chia tay nhau. Gia đình Tý và Nguyễn sang Boston bang M******uset, còn gia đình tôi về Michigan, vùng có Ngũ đại Hồ lạnh giá. Ở Vietnam gặp nhau hằng tuần, đến xứ người tưởng được gần nhau,nhưng lại xa nhau, khiến chúng tôi bùi ngùi lưu luyến. Tý là người mập mạp, vô tư ăn ngủ dễ dàng, còn tôi ngoài cái dáng mảnh khảnh lại thêm tính hay suy nghĩ và mềm yếu. Hai chúng tôi trái ngược nhau, nhưng rất thân nhau bởi vì cùng một quan niệm coi tình cảm là quí hơn tiền bạc. Ôm nhau một lần rồi chia tay đôi ngã. Khi lên máy bay, còn đang loai hoai tìm chỗ ngồi để nghĩ mệt vì đã qua một đường bay quá dài, ít ăn và không ngủ nên cơ thể bất an.
Thình lình nghe các con tôi ôm nhau và la lớn: “Xuống gấp kẻo máy bay cất cánh, có người ở Santa Ana đến bảo trợ.”Mọi người trên máy bay đều nhìn chúng tôi và nghĩ rằng chúng tôi là lũ người điên, vì thấy chúng tôi lục tục kéo xuống. Lần đầu tiên trong đời trên xứ Mỹ tự do, tôi đã mang ơn và luôn nhớ ơn một người Mỹ da màu, đó là bà Julie, một người gốc Phi Châu, sinh trưởng ở Hawai làm việc tại trại tị nạn ở Thailand đã giúp đở tôi liên lạc gấp rút với người  Ana. Nhờ đó chúng tôi đã định cư tại nơi đây hơn 10 năm qua. Chúng tôi rất sung sướng được về vùng nắng ấm California có khí hậu giống với Miền Nam Vietnam.Sau hơn nửa năm mất liên lạc, tôi lại nhận được thư Tý và từ đó cũng giao hẹn mỗi tháng gọi thăm nhau qua lại một lần. Thời gian cứ tưởng êm đềm trôi nhanh trên xứ người. Nào ngờ hơn một tháng không thấy Tý gọi qua, tôi vội gọi Tý, mới hay Tý vào nằm bệnh viện đã nửa tháng. Theo như lời Nguyễn, Tý bị sạn mật phải cắt bỏ túi mật, sau khi mổ thì bác sĩ cho biết gan cũng đầy sạn nên phải mỗ gan lấy sạn ra cho hết. Chỉ rong vòng nửa tháng ở bịnh viện, Tý không ăn uống được, phải truyền dưởng trấp qua một ống dây đưa vào thực quản, nên Tý sụt mất 20 Lbs. Sau đó Tý được bịnh viện cho về thăm nhà và con rồi vào mổ tiếp lần thứ hai. Tôi được nói chuyện với Tý mới biết Tý chỉ đau lâm râm vùng sườn bên phải nhưng chồng Tý lo sợ trợ cấp y tế miển phí bị cắt giảm thì không có tiền để chửa bệnh, nên gấp rút đưa vợ đi mổ mà không tham khảo với nhiều bác sĩ khác ở ngoài bệnh viện hoặc hỏi ý kiến thân nhân và bạn bè. Sau khi mổ, Tý bảo cô ta đau đớn quá sức không rục rịch hoặc xoay trở được thân người,nước từ gan chảy ra cứ thấm ướt cả quần áo mặc dù có một ống dây nhựa đưa từ gan ra một túi nilon đặt bên ngoài sườn phải. Mỗi đêm phải thay hai ba lần quần áo mà nướcvẫn thấm ướt lạnh cảlưng. Qua đó, tôi biết bệnh tình của bạn tôi rất là trầm trọng và khó khăn vì sự quyết định quá vội vàng của chống Tý.. Tôi chỉ biết an ủi để Tý được an tâm. Tôi không thể nào quên được lời nói của Tý: “Chắc Tý chết quá Lê ơi, chỉ tội nghiệp cho thắng út Tú còn quá nhỏ mới 8 tuổi, sợ Nguyễn lấy vợ khác sẽ khổ cho nó”. Tôi gắng gượng cười nói để Tý an tâm: “Không sao đâu, Tý cứ an tâm, Nguyễn bảo đây là bệnh viện lớn nhất nước Mỹ và nổi tiếng nhất thế giới, bịnh tình của Tý sẽ thuyên giảm”. Vào đúng rạng sáng ngày lễ Lao Động của Mỹ năm 1993, Tý nhập viện sau một cơn đau dữ dội để mổ gấp rút, với vết thương quá nặng ở gan, kèm theo sự bất cẩn của y tá đút lộn ống dây vào khí quản thay vì vào thực quản, nên Tý nghẹt thở và đã ra đi vĩnh viễn. Dây là sự thật như lời Nguyễn kể, và theo thiển ý của tôi cần phải quyết định thận trọng qua sự tham khảo với nhiều bác sĩ cũng như bạn bè vào người thân để đi đến quyết định sống còn của một con người, không thể dựa vào sự miễn phí của bảo hiểm y tế để giết chết sự sống của bạn tôi. Tôi thầm nghĩ nếu chưa mổ xẻ, bạn tôi sẽ chưa chết sớm như vậy. Tôi mất bạn thân, tôi đau đớn vô cùng trong suốt tám năm qua tôi cố quên, nhưng vẫn nhớ không biết Nguyễn mất vợ anh ta có đau đớn như tôi không?
 
Hiện tại các con của Nguyễn đã thành danh. Cháu lớn đã tốt nghiệp kỷ sư lương khá cao, cháu nhì là một nhà nghiên cứu khoa học và cháu út chuẩn bị vào đại học. Riêng với Nguyễn đã có một bạn đời khác ngay sau đó, trẻ hơn anh 15 tuổi với nhan sắc tầm thường không mặn mà như Tý. Tôi còn nhớ lời Nguyễn bảo với tôi khi Tý vừa mới mất: “Chắc tôichết mất chị Lê ơi. Mất Tý tôi không thể nào sống nỗi, tôi sẽ ở vậy nuôi thằng Út”.Tôi cũng buồn và khuyên anh ta: “Thôi anh a, có buồn cũng chẳng được gì, thời gian sẽ trả lời tất cả những điều anh nói hôm nay. Tôi chỉ cần anh ở vậy chín năm để nuôi thằng Út đến lúc vào đại học và ra đi làm để bù với những tháng ngày Tý nuôi con thăm chồng là đủ rồi.” . “Tý ơi, việc xảy ra ngoài ý muốn của tôi, chính tôi đang sống mà không còn giữ được chồng mình, thì làm sao tôi giữ được Nguyễn choTý, người đã chết. Dù sao sự hy sinh của Tý vẫn có ý nghĩa hơn những gì xảy ra trong thường tình mà tôi là người còn sống đã thấy được và chắc Tý ở thế giới bên kia cũng thấu hiểu tình tôi đối với bạn”.
Mùa xuân năm 1995, tôi về thăm lại VN sau khi học xong Đạihọc Đông y và thi đậu bằng hành nghề châm cứu và thuốc bắc tại Mỹ. Tôi ghé về quê, thăm mẹ Tý, thấy thật thương tâm bởi lẽ bà đã quá đau khổvì sau khi Tý qua Mỹ được nửa năm thì chồng bà chết. Khóc chồng, phần trông nhớ con, bà đã mù hẵn đôi mắt và đang ngồi chống gậy trông ra ngõ chờTý. Khi thấy bà, tôi không cầm được nước mắt và cố nín khóc mà nước mắt cứ tuôn rơi. Bà hỏi tôi từng tiếng gần như hụt hơi: “ Sao đi cùng một lần mà không rủ nhau cùng về”. Lời nói êm như một câu trách móc. Tôi cảm thông với nổi đau đớn tận cùng của bà và thầm nghĩ lại lời các con và chồng tôi dặn: “ Về VN gặp mẹ cô Tý phải gắng khôn khéo nói dối để khỏi lộ chuyện cô

Tý mất cho bà yên tâm sống trong hy vọng.. Nói dối nầy không hại gì ai nhưng nuôi được sự sống nên tôi phải làm thế, tuy rằng tính tôi hay nói thật. Tôi trả lời nhanh: “Qua Mỹ con sẽ kể hết cho Tý nghe nỗi nhớ thương, trông chờ của bác đối với nó, và tết năm tới tụi con sẽ cùng về thăm bác. Bác cố gắng tịnh dưởng cho khỏe”. Bà bảo: “Tao cố gắng sống để chờ hai đứa bay cùng về thăm tao một lần”. Bà cầm chặc tay tôi, không cho ra về mặc dù bên ngoài trời đã gần tối hẵn. Cậu học trò cũ của tôi là em củaTý bảo: “Mẹ buông tay cô ra để cô ấy về kẻo tối vì mai cô phải vào Saigon và qua Mỹ lại.”Tôi vội bước nhanh ra khỏi cửa như trốn chạy hình ảnh thương tâm mà tôi đã chứng kiến. Trên con đường từ Hòa Vang về Đà Nẳng, ngang qua trường Trung Học Hòa Vang nơi hai chúng tôi đã dạy học, tôi bùi ngùi nhìn vào con đường đất đỏ dẫn đến nhà Tý với hàng dừa xanh mượt ngã la đà nặng trỉu trái.Cũng tại nơi đây chúng tôi thường song đôi chuyện trò, còn các nhóc học sinh chạy nhảy nô đùa. Nước dừa ngọt mát cuống họng sau khi ăn những chén bánh bèo cay nóng chỉ còn là dư hương ngày cũ. Cảnh vật không thay đổi nhưng bạn thân đã vĩnh viễn ra đi không bao giờ gặp lại. Tôi chưa hứa cụi với ai một điều gì, nhưng sao lòng tôi cứ ân hận mãi điều tôi hứa với mẹTý, mà tôi biết không thể nào thực hiện được mà vẫn cứ hứa. Chắc Tý và mẹ đã gặp nhau bên kia thế giới cũng thông cảm và tha thứ cho tôi… Gió lạnh của mùa xuân thấm vào lưng làm tôi ớn lạnh nghĩ rằng hồn Tý đã quyện với trời xanh mây trắng đang bay cao để chứng kiến cho tình cảm của tôi đối với bạn. Tý cứ yên tâm an nghỉ nơi cõi vĩnh hằng, vì nơi đó không có sự lừa dối phản bội, nơi mà trong đời cuối cùng ai cũng đến. Ở nơi đây cõi trần tạm bợ, có một người bạn luôn luôn nghĩ đến Tý. Tình bạn bất vụ lợi của chúng mình, thân quí nhau vì tình nghĩa, dù rằng tiền bạc là phương tiện của cuộc sống nhất là trên một xứ sơ mà đạo lý luân thường thiếu sót, chỉ có chủ nghĩa cá nhân, vật chất là trên hết.
 
Tôi viết những dòng nầy để tưởng niệm bạn tôi và vơi đi nổi buồn đã mất bạn thân trên xứ người, và cũng để cảm ơn Trời Đất đã dung dưởng bảo bọc gia đình tôi bình an hơn mười năm ly hương. Cũng tại trên đat tự do nầy, tôi có cơ hội tiếp tục học lại nghề đông y của ông nội và cha tôi mà tôi hằng mơ ước. Chỉ tại nơi đây nhờ sự giúp đở tài chánh của chính phủ Mỹ, tôi mới có phương tiện để làm lại từ đầu và thể hiện thành công ước mơ nhỏ bé nầy. Tuy rằng đời sống không giàu sang dư dã, nhưng cũng được sống đầy đủ trong quảng đời còn lại...
 
 
Ythái Lê.
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22160
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Oct/2020 lúc 8:21am
Người Đàn Bà Ngụ Bên Bến Sông




 

 

Ngày chị dời nhà về bên bến sông
đất ở nơi đây lây cái nghèo của chị
nuột lạt buộc lá dừa vô tấm vách thật kỹ
chị sợ tốc bay đi lỡ khi gió chướng.

ngày trước chị cũng có một thời - sung sướng
con chị được cắp sách đến trường
chồng chị đi lính đến tháng lãnh lương
anh gởi tiền đều đều về cho chị
không nhiều lắm nhưng cái tình mới là đáng quí
những khi anh về phép chị tất bật chăm lo...
ngày "hòa bình" chị chở xác anh qua đò
chạy thẳng về bên quê nội!
nhìn ba đứa con trong lòng như tơ rối
chị giấu giọt nước mắt trong tâm.

chị bỏ thành về bên bờ sông nầy đã mấy năm
chiếc xuồng trôi mòn theo con nước
bìm bịp, chị nghe quen tai - mỗi ngày xuôi ngược
những đứa con ngấm hạt phù sa - lớn khôn.

giọt mưa đêm thấm qua vách lá - bồn chồn
chị nhớ anh! 
nhớ ngày anh bận hành quân đi đánh giặc
về phép - anh đưa chị qua bắc
anh mua cho chị,
cho các con chiếc áo mới đón xuân
chị nhìn anh ngập ngừng - anh hiểu ý...
đời lính bọn anh quần áo có thiếu chi
rồi chồng chị ra đi - ra đi không bao giờ trở lại
kỷ niệm về anh - chị nhớ mãi
"...lấy chồng đời chiến binh..."
vắng anh, cái chòi mẹ con chị ở - cứ rung rinh
bởi thiếu bàn tay người đàn ông cầm giữ
chị thương các con chị thiếu chữ
nước mắt chị tuôn rơi!
chiếc nhẫn cưới ngày nào, cũng bán để tiêu rồi
chị cảm thấy mình quả thật là có lỗi

trong một đêm, bầu trời tăm tối
bốn mẹ con chị nắm tay ra bờ sông
leo lên thuyền xuôi dòng
chị nhìn lên bầu trời đầy ánh sao
lênh đênh trên sóng biển - chị thở phào
anh phù hộ cho mẹ con em đi trôi chảy
qua bên nớ các con sẽ tìm lại
thời hào hùng đi giữ nước trong anh

Trang Y Hạ



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Oct/2020 lúc 8:22am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 93 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.320 seconds.