Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 93 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22139
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Jan/2022 lúc 4:03pm

LẠC GIỮA MÙA XUÂN


Hoa%20xuân%20ca%20|%20VTV.VN

Tôi đã trở lại Việt Nam, trở lại Saigon, nơi chốn mà tôi đã rời bỏ nó cách đây hơn hai mươi năm. Không ngờ thời gian trôi qua quá nhanh, mới chớp mắt đây thôi đã hơn hai mươi năm rồi, hơn hai mươi năm xa lìa quê hương, đến sống ở một phương trời xa lạ cách nơi chôn nhau cắt rốn của mình tới nửa quả địa cầu, thì quả đúng là một điều có nằm mơ cũng không tin được, thế nhưng giấc mơ này đã là sự thật.

Đây là lần đầu đầu tiên tôi quay trở về quê hương đúng vào những ngày giáp Tết. Lúc ngồi trên máy bay tôi đã háo hức mong đơi được nhìn thấy Saigon yêu quý của tôi ngày xưa, nhưng khi nhìn thấy Saigon rồi thì tất cả những hao hức đó, những mong đơi đó đã vỡ tan như bong bóng xà phòng. Saigon đã thay đổi tất cả. Một sự thay đổi hỗn độn, nhớp nhúa như một kẻ tập ăn chơi, bắt chước khoác lên người những chiếc áo sặc sỡ, rẻ tiền, những thứ đó không mang cho tôi cái cảm giác ấm áp thân yêu ngày nào, mà tôi mong đợi, “ Saigon ơi, tôi mất người như người đã mất tên…”Vâng tôi đã mất Saigon yêu thương của ngày nào rồi. Giờ chỉ còn một chút hy vọng nhỏ nhoi là mong tìm thấy lại bóng dáng của người xưa mà tôi đã bị lạc mất, khi rời bỏ thành phố này.

Ngồi trong góc quán cà phê của Trà, ngưởi bạn học cùng trường Luật ngày xưa, tôi mơ tìm lại một chút kỷ niệm ngày nào còn xót lại tại nơi này, nơi mà mỗi lần muốn gặp gỡ nhau, Chấn và tôi đều lấy quán cà phê của Trà làm điểm hẹn. Quán cà phê nhỏ này cũng giống như hàng ngàn quán cà phê nhỏ khác của thành phố, nhưng với tôi nó thân thiết vô cùng, với tôi nó là những mảng ký ức của một cuộc tình đã mất nhưng chưa bao giờ phai mờ, hơn bao giờ hết, với tôi nó chính là Chấn, tình yêu đầu đời của tôi.

Sau khi rời khỏi Việt Nam, tôi vẫn thường xuyên liên lạc với Trà, nhờ có Trà mà tôi đã biết đươc tin tức của Chấn, người yêu cũ của tôi. Và cuộc gặp gỡ ngày hôm nay cũng do Trà sắp xếp. Tuần trước tôi nhận được email của Trà , báo đã gặp được Chấn sau nhiều lần tìm kiếm. Email Trà viết “.... Đã tìm thấy Chấn của cậu rồi, có muốn gỡ rối tơ lòng thì về đi, tớ sẽ an bày cho cuộc gặp gỡ này.....” Và hôm nay tôi ngồi đây để chờ được gặp lại anh, người của một thời đã từng làm cho trái tim bé bỏng của tôi phải xốn xang, phải rung động. Vâng, tôi đã từng yêu say đắm, yêu tha thiết, người lính Biệt Động Quân có cặp mắt thật đẹp, có ánh nhìn quyến rũ luôn làm chao dao trái tim tôi, có nụ cười quá đẹp làm lòng tôi phải say đắm, mê mệt. Thế nhưng mối tình ấy của tôi đã không trọn vẹn, tôi đã lạc mất anh trong đời và bây giờ, hôm nay đây, không hiểu sao tôi lại mong, lại chờ để gặp anh, người của năm tháng cũ. Để làm gì? Để ước mong tìm lại hình bóng mối tình của một thời dĩ vãng? Để muốn nói một lời xin lỗi hay muốn nghe một câu giải thich? Có phải như vậy không, dù sao tất cả những điều đó đã đi vào dĩ vãng quá lâu rồi, có lẽ tôi cũng không cần tới nữa, hơn hai mươi năm rồi còn gì. Vậy thì gặp để làm gì, tôi cũng không biết nữa nhưng tôi vẫn cứ chờ và vẫn cứ mong gặp anh. Không lẽ tự trong thâm tâm của tôi hình ảnh của anh vẫn còn sâu đậm, vẫn còn làm con tim tôi tê tái mà tôi không cam lòng sao? Hay là cái lợn cợn của nụ hôn ngày nào đã thắt thành một cái nút khó cởi?
Tiếng hát của một nữ ca sĩ vang lên từ chiêc máy ở góc phòng nghe day dứt quá:

“ Tôi đi tìm lại một mùa Xuân,
Mùa Xuân xưa cũ qua mất rồi,
Mùa Xuân đã rơi vào dĩ vãng,
Mà Xuân nay vẫn còn dư hương. ….
Nên tôi tìm lại một mùa Xuân
Người xưa không biết lạc phương nào
Không biết khi xuân về trên áo
Mầu xanh năm đó còn xanh không?...

Mầu xanh ở đây trong tim tôi không phải là mầu xanh áo cưới, mà là cái mầu xanh áo lính ngày xưa, tôi chưa quên được và cũng sẽ không bao giờ quên.

Đưa mắt nhìn qua ô cửa kính của quán, cảnh nhộn nhịp của những ngày trước Tết, thật là tấp nập, xe chạy như mắc cửi, những chiếc xe tải chở hoa từ ngoại ô vào thành phố, với đủ loại hoa và đủ mầu sắc làm lòng tôi chợt thấy nao nao, và rồi trong một thoáng chốc bâng khuâng, dĩ vãng ùa về tràn đầy tâm trí tôi như một cuốn phim quay chậm:

& & &

Đó là những ngày tháng trước năm 1975....

Theo thói quen, sau khi ra khỏi giảng đường tôi hay ghé vào quán của Trà để uống một ly sữa cacao. Tôi nhớ có lần đùa với anh chàng chủ quán tôi bảo:

_ Chả biết cậu cho cái quái gì vào ly cacao của tớ mà làm tớ ghiền đến thế, hôm nào cũng phải ghé vào đây làm một ly thì tối về nhà mới ngủ được.

Trà cười:

_ Bí mật nghề nghiệp không thể tiết lộ được, nói cho cậu biết nhỡ mà cậu ra mở quán , có bí quyết này, cậu câu hết khách của tớ, thì lúc đó tớ húp cháo rùa à. Hì hì…

_ Húp cháo rùa là còn khá đấy chứ tớ sợ cậu chả còn cái gì để mà húp đâu.

Tôi nghinh nghinh cái mặt lên trả lời Trà. Trà bật cười lớn:

_ Ha..Ha..Sao mà tàn nhẫn quá vậy cô nương, may ghê đi tại hạ chưa bật mí bí quyết của mình, nếu không thì chít ngộ dzồi. Thế cậu nghĩ tớ cho cái quái gì vào sữa của cậu thế nhỉ? Thôi thì cậu nghĩ tớ cho cái gì thì nó là cái ấy đi, miễn sao cậu cứ mê ly sữa cacao của tớ là được rồi. Thôi có khách vào, tớ đi làm việc đây.

Trà là bạn học cùng phân khoa với tôi nhưng trên tôi hai lớp, cuối năm nay Trà sẽ nộp luận án để ra trường. Anh chàng này cũng đã từng theo đuổi tôi trong hai năm, nhưng vì sự hờ hững của tôi làm anh nản chí, Trà quay sang tìm sự an ủi nơi Băng Thanh, cô bạn dễ thương và nhút nhát nhất trong bọn bốn đứa chúng tôi. Trà dư định sau khi tốt nghiệp, thì hai người họ sẽ làm đám cưới. Nhóm bạn bốn đứa Băng Thanh, Vân Anh, Thảo Dung và tôi thì ba đứa đã đều có nơi để chia ngọt, sẻ bùi, chỉ còn riêng mình tôi vẫn lông bông, lêu bêu, cô đơn một mình trên cõi đời ô trọc này. Lũ bạn tôi cũng nhiều lần thắc mắc, tại sao tôi vẫn chưa chịu tìm cho mình một chỗ để dừng chân, thì tôi chỉ đơn giản trả lời bọn nó:

_ Sao tụi bay thừa hơi để mà thọc gậy vào đời tư của tao vậy, tao chưa ế đâu mà là tao chưa thích, thế thôi.

_ Sao giản dị thế nhỉ, bộ mày không có tim, hay trái tim mày không biết đập?

_ Vớ vẩn cái con này, tao có phải là Tỉ Can đâu mà không có tim, tim tao mà không đập thì tao đã ngoẻo từ đời nào, còn đâu đứng đây cho tụi mày chất vấn, cười cười tôi tiếp, có điều là tín hiêu từ trái tim tao phát đi không gặp đúng tần số của nó nên tao vẫn còn ca bài “ Anh ơi, bây giờ anh ở đâu, Bến Hải hay Cà Mau” vậy thôi. Tao trả lời rồi đó, từ giờ trở đi em xin các chị tha cho em đừng hỏi “vì sao tay em run, vì sao chân không vững” nữa nha. Mệt với mấy mụ nì quá.

Từ đó không đứa nào hỏi han gì đến duyên nợ của tôi nữa, nhưng chúng nó vẫn không thôi, tìm tòi cho tôi một chốn nương thân

Hôm nay, cũng không ngoại lệ, tôi ghé quán của Trà. Thường thì vào khoảng giờ này quán không đông khách lắm nên luôn luôn cái bàn trong góc nhìn ra ngoài đường Trà vẫn để dành cho tôi, nhưng bữa nay quán lại đông một cách đặc biệt, tôi đưa mắt nhìn quanh và thấy chỗ ngồi thường ngày của mình đã bị chiếm rồi, định bước ra để về, chợt nghe có tiếng gọi tên mình, quay lại tôi thấy Băng Thanh đang mang cà phê cho khách, đi về phía tôi, nó bảo :

_ Đừng về, mày vào trong quầy chờ tao một lát.

Tôi gật đầu và bước nhanh vào trong. Không thấy Trà, tôi kéo cái ghế đẩu sau quầy và ngồi xuống. Một lúc sau, Băng Thanh tới bên tôi nó than nho nhỏ:

_ Không có khách thì lo mà có khách nhiều như ngày hôm nay thì mệt ơi là mệt. hôm nay đâu phải cuối tuần mà đông ghê đi.

Tôi cười:

_Có gì lạ đâu, gần Tết thiên hạ rảnh rỗi đi chơi, vào quán cà phê là chuyện bình thường. Không khách cũng than, có khách cũng than, sao mày khó tính thế. Mày là Thanh chứ có phải là than đâu mà rên rỉ gớm luôn.

_ Mày không biết chứ, cách đây gần hai tiếng, không hiểu sao quán của Trà tự dưng đông khủng khiếp, Trà, tao và bé Liên xoay như chong chóng mà còn không kịp, tí nữa còn làm đổ cà phê nữa chứ, bây giờ là bớt rồi đó, tao mới có thời gian nói chuyện với mày chứ cứ như lúc nãy thì có mà bò ra cũng không kịp.

_ Vậy là mừng cho mày và Trà, đông khách sẽ có nhiều tiền để làm đám cưới to, nở mặt, nở mày với chòm xóm. Ủa mà Trà đâu sao tao không thấy hắn

Băng Thanh nhìn tôi tủm tỉm cười, nụ cười của nó có vẻ gì kỳ kỳ, lạ lạ.

_ Lúc nãy vừa bớt khách, Trà có việc phải ra ngoài, tao chả biết ông ấy đi đâu nữa.

_ Thật mày không biết không? Sao tao thấy cái cười của mày nó gian gian thế nào ấy.

Băng Thanh bật cười thành tiếng:

_ Gớm cái con này, mày còn hơn Tào Tháo ấy, cười mày cũng nghi, tao làm cái gì mà gian chứ?

Tôi lườm nó:

_ Làm gì thì mày biết, đừng để tao bắt được tẩy của mày đó.

Tôi còn đang định chì chiết con nhỏ Thanh một hồi nữa thì Trà đã vào tới:

_ Không biết tiện nội đã phạm lỗi gì mà để cô nương phải nổi cơn tam bành lục tặc lên như vậy.

_ Đâu dám. Cặp đôi của cậu hợp lại thì tớ thua là cái chắc, hai người đánh một chẳng chột thì cũng què, tớ cô đơn có một mình, đâu dám đấu lại người có đôi có cặp chứ. Thôi tớ về đây, hôm nay đành nhịn một chầu sữa cacao vậy.

Trà cười:

_ Khoan đã, đi đâu mà vội, cậu không phải nhịn đâu, chầu cacao hôm nay tớ đãi, lại đây tớ giới thiệu với cậu một người bạn của tớ, Trung Úy Vương Ngọc Chấn, rất bô trai và cũng rất ga lăng, và đây là Thy Hạ cô bạn xinh xinh rất thân của bà xã tao. Hai người làm quen nhau nhé.

Nói xong, Trà nhich người sang một bên để lộ ra phía sau anh, một người lính thân hình cao ráo, khuôn mặt hơi sạm nắng với cặp mắt sáng có một ánh nhìn lạ lạ, tình tình làm sao, ẩn dưới đôi lông mày rậm. Chiếc mũi cao thẳng nằm trên cái miệng hơi rộng, đang cười phô ra một hàm răng trắng đều như hạt bắp. Nụ cười này nếu là của người quen chắc tôi phải thốt lên: “Trời ơi, sao lại có nụ cười quá đẹp, quá quyến rũ như thế chứ!”. Ai dè từ nãy giờ thấy anh ta đứng sau lưng Trà, tôi lại cứ ngỡ là khách hàng chờ gọi đồ ăn, thế có chết không chứ. Nhưng chẳng sao vì tôi nghĩ mình chưa nói hay làm điều gì thất thố để phải xấu hổ trước mặt một người khác phái và xa lạ như anh ta. Vậy có gì để phải rụt rè, nghĩ vậy tôi tỉnh bơ dơ tay ra trước:

_ Rất hân hạnh được biết trung úy

Một bàn tay rất ấm nắm nhẹ tay tôi kèm theo một ánh mắt tình tình, một nụ cười quyến rũ, nụ cười mà tôi đã chấm điểm mười:

_ Phải nói người hân hạnh là tôi mới đúng hơn.

Kể từ sau lần gặp gỡ đó, và thêm vài lần sau này nữa, tôi hiểu ra rằng tín hiệu từ trái tim tôi phát ra đã gặp được đúng tần số nó cần. Và mùa Xuân năm đó tôi đã tìm được điểm tựa của đời mình.
Chấn là lính tác chiến nên thời gian ở gần nhau không nhiều, nhưng những lần bên nhau chúng tôi thật hạnh phúc. Anh kể tôi nghe về gia đình anh, quê anh ở miền Bắc, năm 54, cả gia đình di cư vào Nam và cha anh chọn Vĩnh Long làm nơi lập nghiệp. Rồi một thời gian sau cha mất đi, còn lại mẹ, bà tần tảo bán buôn nuôi bốn con nên người. Khi lớn khôn, các con xa dần. Anh Hai đi lính đóng quân ở miền Trung, chị Ba lập gia đình theo chồng về Rạch Giá, anh Tư học trên Saigon, ra trường lấy vợ ở luôn trên thành phố không về quê nữa, chỉ còn anh ở với mẹ, nhưng rồi cuối cùng anh cũng vẫn phải nhập ngũ vào quân đội như bao thanh niên khác ở tuổi đăng lính. Anh chọn binh chủng Biệt Động Quân, một trong những binh chủng thiên chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà để thỏa mãn chí tang bồng hồ thỉ của người trai đất Việt.

Đáp lại tôi cũng thủ thỉ kể cho anh nghe tiểu sử đời mình. Tôi mồ côi mẹ từ khi lọt lòng. Sống với Bố và người chị ruột, có lẽ vì thấy tôi thiếu tình mẫu tử nên bao nhiêu thương yêu Bố và chị đều dành cả cho tôi. Tôi bảo anh:

_ Anh sui sẻo rồi vì quen một đứa con gái được nuông chiều từ nhỏ , em tai quái, ngang ngược lắm đó, anh ráng mà chiều em nha.

_ Chuyện nhỏ, em có biết không, anh là con út cũng được cưng không thua gì em đâu, mà lại là con trai nữa, nên chắc chắn anh còn tai quái, ngang ngược hơn em nhiều. Anh biết hết những chiêu trò tai quái, em mà giở trò gì ra là anh trị lại liền, sợ chưa?

_ Anh dám?

_ Tại sao không?

_ Nếu vậy thì....Tôi sụ mặt xuống, em không thèm chơi với anh nữa. Tưởng sẽ được anh chiều, ai dè anh lại còn muốn bắt nạt em.

Bằng cả hai tay, Chấn ôm lấy khuôn mặt tôi, nâng lên:

_ Nhìn anh nè, cái măt đẹp như thế này mà nhè thì xấu lắm đó. Thy Hạ ơi, em có biết là em đẹp lắm không, cặp mắt này, cái mũi này và nhất là cặp môi này, mọng mọng như quả nho chín, làm người ta thèm cắn quá. Anh cắn nhe.

_ Í, í... không được đâu, vừa kêu tôi vừa lách đầu lùi ra khỏi tay anh, tôi rỡn, em mới đi Paris “ tút” lại sắc đẹp đó, anh đừng có mà đụng vào, hư hết cái mặt em thì sao.

Chấn trâng tráo:

_ Hư anh đền. Ai bảo em sửa cho đẹp làm chi.

Ôm được tôi trong tay, cặp môi tham lam của anh tìm đến môi tôi. Tôi ngất ngây trong nụ hôn ngọt ngào và đầy mê đắm của anh. Không gian như đông đặc lại quanh chúng tôi.

Từ ngày quen nhau đến nay đã gần một năm rồi, nhưng chưa bao giờ anh dẫn tôi về gặp mẹ anh, một lần khi tôi ngỏ ý muốn được đi thăm Người thì anh cười cười, nhéo mũi tôi và bảo:

_ Thời gian của anh rất ít, mỗi lần được về phép, anh ở nhà với mẹ vài ngày, trở lên đây gặp em, xong rồi quay về đơn vị. Nếu đưa em về Vĩnh Long thăm mẹ anh, đi đi, về về mất nhiều thời gian lắm, đâu còn giờ rảnh để hai đứa mình đi chơi với nhau. Thôi thì để lúc nào mình cưới nhau rồi, anh đưa em về dưới ấy ở luôn với mẹ anh, cho mẹ chồng với con dâu khi đó tha hồ mà tâm sự, được chưa?

Tôi nghiêng mặt nhìn anh, mắt hơi nheo lại tỏ vẻ không tin những lời anh nói:

_ Có thật như vậy không đó hay là …tôi phụng phịu, dỗi hờn, hay là anh có chị nhà ở dưới đó rồi nên không muốn đưa em về đấy thôi?

Chấn bật cười ha hả:

_ Băng Thanh nói em là Tào Tháo không ngoa, hay nghi ngờ mà không có bằng cớ, cái đầu nho nhỏ như thế này lúc nào cũng cứ suy nghĩ lung tung loạn sạ. nếu không tin, ngày mai trở về đơn vị, anh sẽ đưa em xuống gặp mẹ, nhưng sau đó là em phải trở về một mình đấy nhe, được chưa nào?

Tôi nhìn anh, nước mắt đã đong đầy:

_ Mai anh đi rồi sao, rồi bao giờ anh lại về nữa?

Ôm tôi trong vòng tay, anh không trả lời vì bờ môi anh đang hôn nhẹ lên mắt tôi rồi di dần xuống môi và đậu lại ở đấy thật lâu. Một lúc sau, môi chúng tôi rời nhau. Anh ôm lấy đầu tôi áp vào vùng ngực rắn dỏi của anh, tôi nghe anh thì thầm trên tóc mình:

_ Đừng buồn anh nhe, anh không dối gạt em đâu. Anh yêu em và sẽ yêu em đến suốt đời, hãy tin anh đi, tin anh nhé Thy Hạ.

Nhấc đầu ra khỏi vùng ngực ấm áp, vòng tay qua cổ anh, tôi kiễng hai chân lên cho môi mình áp sát vào môi anh, tôi nói trong nụ hôn:

_ Em tin anh, em tin anh mà Chấn ơi! Em yêu anh, yêu anh nhiều lắm.

Nụ hôn này dù ngọt ngào, dù say đắm, dù tha thiết bao nhiêu nhưng sao trong tim tôi vẫn thấy như có lợn cợn một cái gì mà tôi không thể cắt nghĩa được.

Chúng tôi vẫn quấn quit bên nhau mỗi lần anh về phép. Những hàng quà vặt bên hồ Con Rùa, nước mía Viễn Đông, trong chợ Bến Thành, hẻm Casino…không nơi nào là tôi không kéo anh đi để thưởng thức món ngon Saigon. Vòng quanh Saigon chưa đủ tôi còn rủ rê anh:

_ Tới Nguyễn Tri Phương ăn nghêu đi anh.

_ Sao em biết Nguyễn Tri Phương có nghêu mà rủ anh đi, à...à...chắc là đi ăn với cậu nào rồi nên mới rành sáu câu như vậy, đúng không?

_ Cậu nào là cậu nào, anh chỉ đoán mò, cậu nào mà mời nổi em đi ngoại trừ cậu trung úy Chấn này thôi. Anh biết sao em biết không?

_ Không.

Tôi cong môi lên:

_ Đương nhiên là anh không biết rồi vì em có nói đâu mà anh biết. Thế này này, nhà nhỏ Vân Anh ở gần Ngã Bảy, nó biết nên rủ cả bọn tui em đi ăn mấy lần ở đó, ngon ghê nhe anh ơi. Anh tưởng tượng mà xem, cầm con nghiêu nóng hổi, chấm và bát nước mắm chua chua, cay cay, ngọt ngọt, hút một cái chụt, ôi tuyệt cú mèo làm sao. Ơ, anh cười cái gì, bộ anh nghĩ em nói dóc hay sao?

_ Anh cười vì cái điệu bộ diễn tả của em thấy hấp dẫn quá chừng, nghe cũng thấy thèm rồi. Được rồi, đi.

Cuộc tình chúng tôi tưởng như cứ mãi êm đềm bên nhau như vậy.

Nhưng rồi cuộc chiến tại miền Nam đi vào giai đoạn khốc liệt, trên truyền hình, trên báo chí, tin về những thành phố miền Trung đang lọt vào tay giặc. hình ảnh dân tháo chạy trên quốc lộ 1 mới thảm thương làm sao. Người chết nằm phơi thây trên đường bởi những loạt đạn pháo kích không chút lương tâm của bọn cộng phỉ vô nhân đạo, cùng với hình ảnh đau thương đó là hình ảnh những anh chiến sĩ VNCH đang tiếp cứu cho người dân, các anh băng bó vết thương, khiêng, cõng, dìu những người dân cần sự giúp đỡ của các anh. Tấm lòng nhân đạo của các anh đã làm cả thế giới phải ngưỡng mô, đồng thời cũng làm bỉ mặt lũ bạo tàn cộng phỉ giết dân không chút gớm tay.

Hình ảnh những người lính ấy lại làm tôi nhớ đến Chấn của tôi. Bây giờ anh đang ở đâu? Đã mấy tháng rồi, anh không về thăm tôi, mà cả đến những lá thư tôi gửi cho anh theo địa chỉ anh cho qua KBC, cũng không có hồi âm. Lòng tôi như lửa đốt. Tôi muốn xuống Vĩnh Long nơi gia đình anh ở để tìm anh, tôi cũng đành bó tay vì không có địa chỉ. Tôi phải làm sao đây. Chấn ơi, anh ở đâu hả anh?

Ngày nào tôi cũng ra quán của Trà ngồi, với cái hy vọng mong manh nếu anh có về Saigon, thì chúng tôi sẽ được gặp nhau, nhưng cuối cùng cái hy vọng mong manh đó của tôi cũng bay theo mây gió. Tôi đã lạc mất anh rồi. Nhiều lần thấy tôi ngồi thẫn thờ chờ anh trong dáng vẻ tuyệt vọng, Trà bưng ly sữa cacao tới, nói vài lời an ủi. Tôi cám ơn Trà và nói trong dòng nước mắt chảy dài:

_ Cậu không cần phải làm như vậy đâu, cậu cho tớ ngồi nhờ ở đây là cám ơn cậu nhiều lắm rồi. Có lẽ mấy hôm nữa tớ sẽ thử đi Vĩnh Long một chuyến biết đâu chả tìm thấy Chấn.

_ Cậu biết hắn ở đâu mà tìm?

_ Không biết cũng phải đi tìm, chứ ngồi đây chờ cũng không phải là cách, hơn nữa tớ cũng chịu hết nổi cái cảnh phải chờ như thế này.

_ Vậy tớ đi cùng cậu.

Tôi cười buồn.:
_ Cám ơn cậu, cậu còn nhiều việc phải lo, bỏ quán và Băng Thanh đang bụng mang dạ chửa một mình sao được. Tớ biết mình phải làm gì mà, đừng lo, dầu sao cũng cám ơn cậu, cám ơn thật

nhiều.

Trước khi về, để vợ chồng Trà yên tâm về tôi, tôi vỗ vai Trà giọng chua xót:

_Cũng có thể tớ sẽ không đi tìm anh ấy đâu, cậu nói đúng, biết anh ấy ở đâu mà tìm, với lại anh ấy bỏ tớ chứ không phải là tớ không chờ anh ấy.

Và cuối cùng tàn cuộc đã định, miền Nam rơi vào tay lũ côn đồ Việt cộng. Quán cà phê của Trà cũng đóng cửa. tuy vậy chúng tôi vẫn còn liên lạc với nhau. Băng Thanh bây giờ đã có con. Trà thì không có việc làm, cuộc sống khó khăn không chỉ riêng cho chúng tôi mà hầu như cho cả miền Nam này. Không còn quán cà phê, tôi rủ vợ chồng Trà đi làm công cho hợp tác xã may chiếu xuất khẩu. Cho tới một tối, tôi tới báo cho vợ chồng Trà biêt là đêm mai tôi sẽ rời VN, sẽ đi vượt biên với vợ chồng người chị, không có Bố tôi đi cùng vì Người đã mất trong một cơn bạo bịnh trước đó mấy tháng

_ Hãy cầu nguyện cho chúng tôi. tôi thì thầm, nếu qua được, tôi sẽ liên lạc với Trà sau.

& & &

Đưa tách cà phê lên miệng, tôi nhấp một chút, vị đắng của cà phê giữ trong miệng làm tôi nhớ đến vị ngọt của ly cacao sữa ngày xưa Chấn hay gọi cho tôi.

_ Sao không uống ca cao nữa, đã đổi “gu” rồi à?

Tôi giật mình quay lại, Chấn đã đến sau lưng tôi từ lúc nào với ly ca cao sữa nóng còn bốc khói trên tay, đưa về phía tôi. Tôi đứng bật dậy, ngẩn người ra nhìn anh, quên cả đỡ lấy ly sữa trên tay Chấn. Anh vừa cười, hỏi:

_ Không nhận ra anh sao?

Nghe anh hỏi, tôi như chợt tỉnh giấc, vội cầm lấy ly sữa:

_ Nhận, nhận ra chứ, tuy có chút ngỡ ngàng vì khuôn mặt anh cũng có chút đổi thay, nhưng không nhiều, duy có một điều không thay đổi, đó là anh lúc nào cũng thế, khi đến thì luôn nhẹ như một con mèo rừng vậy.

_ Ngày xưa thì là mèo rừng, còn bây giờ chỉ là mèo mướp thôi.

Vừa nói Chấn vừa kéo ghế ngồi đối diện với tôi. Đặt ly sữa lên bàn, tôi cũng ngồi xuống. thấy tôi nhìn anh chăm chú mà chẳng nói một câu, anh cười:

_ Sao mà nhìn anh kỹ thế? Trông anh già lắm phải không?

_ Già thì ai cũng phải già, em cũng vậy thôi. Hơn hai mươi năm rồi, thời gian đâu có ngắn, gần một phần ba cuộc dời đó anh. Sở dĩ em nhìn anh kỹ như vậy là em muốn tìm lại hình ảnh ngày xưa của anh, lúc anh từ bỏ em mà không nói một lời. nhưng tiếc quá, em không tìm thấy gì cả.

Nói xong tôi cầm ly sữa đưa lên mũi, hít nhẹ một hơi:

_ Thơm quá, nhưng để nguội chút mới uống, giờ còn nóng quá. Cám ơn anh, cám ơn về ly ca cao đầy kỷ niệm của một thời đã qua.

Chấn nhìn tôi định nói gì đó thì người tiếp viên đã mang lại cho anh một ly cà phê với cái phin ở bên trên. Kéo ly cà phê về phía mình, anh mở nắp ra, để xuống bàn rồi nhấc cái phin để lên trên đó xong anh từ tốn lấy chiếc muỗng nhỏ khuấy nhè nhẹ cho chút đường trắng trong đáy ly tan ra. Cầm ly lên, nhưng không uống ngay, anh nhìn tôi. Vẫn với ánh mắt cuốn hút của ngày nào đã từng làm trái tim tôi xao động, bây giờ ánh mắt ấy vẫn còn đủ uy lực làm lòng tôi xốn xang:

_ Thy Hạ vẫn còn nhớ đến một thời đã qua?

Cúi xuống để tránh ánh mắt của anh, tôi bưng ly ca cao lên thổi nhẹ trên mặt ly, có phải tôi muốn làm cho ly sữa nguội bớt hay chỉ muốn dùng hơi thổi này thay cho tiếng thở dài. Tôi nói với một chút cay đắng:

_ Có những cái thật sâu đậm nếu muốn quên cũng có thể quên dễ dàng, nhưng có những điều rất bình thường nếu muốn nhớ thì chẳng dễ quên, xá chi những chuyện của một thời đã qua.

_ Thy Hạ trách anh sao?

_ Anh nghĩ là em trách anh? Nếu thật sự là em trách anh thì anh có thấy là em trách sai không?

Nắm bàn tay tôi để trên bàn, anh bóp nhẹ:

_ Anh không nói là mình đúng, cũng như không bảo là em sai. Nhưng dù gì anh cũng phải xin lỗi Thy Hạ của hơn hai mươi năm trước và Thy Hạ của ngày hôm nay. Em không giận anh nữa chứ.

_ Có, hai mươi năm trước thì có giận và lo, nhưng hôm nay được gặp lại anh, mừng còn không hết, sao em lại giận chứ.

Rút tay mình ra khỏi tay anh, bưng ly lên nhấp một chút sữa, nhìn anh, tôi mỉm cười:

_ Sữa thơm và ngọt lắm nhưng…sao mùi vị không giống ngày xưa!

Ly cà phê đã được đưa lên định uống, anh bỗng dừng lại ở ngang miệng:

_ Vậy à?

Nói xong anh đưa ly lên uống cạn một hơi. Nhìn cách anh uống như giận dỗi câu nói của tôi, tôi chợt thấy bối rối, vì ngày xưa khi còn yêu nhau chưa bao giờ tôi thấy anh uống như vậy cả, tôi vụng về đính chính:

_ Em không có ý gì… em thấy khác có lẽ tại vì lâu quá rồi chưa uống lại nên thấy lạ miêng thôi. Lại giận em rồi à, đừng như vậy mà?

Chấn chợt bật lên cười, vẫn nụ cười mang vẻ sảng khoái đó mỗi khi anh bắt gặp một chuyện gì thích thú:

_ Lại trẻ con rồi, Thy Hạ nghĩ anh giận em hả? Rồi đột nhiên anh trầm ngâm, chúng mình đã đêu già cả rồi, giận hờn chỉ là chuyện của thời xa xưa. Vừa rồi anh bắt gặp ở em một nét nũng nịu rất dễ thương của ngày ấy làm anh lại nhớ đến thời đã qua đó, nhưng có lẽ em đã nói đúng, ly cacao của em hôm nay không còn cái mùi vị của ngày xưa nữa, không phải vì nó không ngon mà vì thời gian không còn là thời gian của ngày đó, nhất là con người cũng không còn là người của lúc bấy giờ nên khó trách có những đổi thay.

_ Anh nói chỉ đúng một nửa thôi. Có những chuyện cần đổi thay thì phải đổi thay, nhưng có những chuyện muốn đổi thay không dễ và có thể không bao giờ muốn đổi thay hết.

_ Thí dụ?

Tôi nhìn thẳng vào mắt Chấn, giọng trầm xuống:

_ Là em.

Sau câu trả lời của tôi sẽ là một khoảng im ắng đến ngột ngạt, nếu không có tiếng nhạc nhè nhè vang lên trong căn phòng nhỏ bé này làm dịu đi. Chấn ngồi im nhìn tôi, ánh mắt của anh lúc này không còn vẻ tình tứ ngọt ngào nữa mà nó như chứa cả một sự đau khổ không nói thành lời, một lúc sau, anh khẽ hắng giọng:

_ Thy Hạ này, anh biết, dù em nói là em không giận anh, nhưng trong cái đầu nhỏ bé kia của em nó đang chứa biết bao nhiêu thắc mắc cẩn được giải thích, mà chỉ có anh mới là người có thể giải đáp một cách tường tận cho em những thắc mắc này mà thôi. Em muốn nói là em không cần sao. Em không cần nhưng anh cần, anh cần nói rõ tất cả để em có thể hiểu rõ anh hơn cũng như để tâm hồn em sẽ thanh thản hơn trước khi chúng mình rời khỏi đây. Thy Hạ ơi, chắc em đã nghe nói anh lập gia đình trước khi chính quyền mới này vào chiếm miền Nam phải không? Đúng đó Hạ ạ. Sau khi từ giã em, anh trở về thăm mẹ sau đấy mới trở ra đơn vị, nhưng khi về nhà thì anh được biết anh Hai anh đã tử trận tại miền Trung và cũng chưa tìm được xác, mẹ anh buồn mà trở bênh. Chị Ba theo chồng đi xa cũng không ai báo được tin, còn anh Tư thì mẹ không cho báo, vì sợ trên đường di chuyển từ Saigòn về Vĩnh Long vào thời điểm đó rất không có an ninh. Rốt cuộc chỉ còn mình mẹ ở nhà. Anh đang bối rối không biết tính sao, bỏ mẹ đau ốm ở nhà một mình anh không đành, còn không trở lại trình diện đơn vị anh sẽ bị khép tội đào ngũ, đây là điều không bao giờ anh muốn làm cả, đang lúc tiến thoái lưỡng nan thì mẹ gọi anh vào bên giường, mẹ vừa nói, vừa khóc:

_ Chấn à, con đã biết hoàn cảnh gia đình của mình rồi đó. Mẹ đau lắm, buồn lắm khi nghe tịn anh Hai con tử trận, mẹ nhớ nó lắm. Mẹ cũng không muốn anh Tư con về, đường xá vừa xa xôi vừa nguy hiểm, còn chị Ba con cũng không thể bỏ chồng con mà về với mẹ. rồi ngay cả con, mẹ cũng không muốn vì mẹ mà con mang tội đào ngũ, để cái nhục cho ông bà tổ tiên. Thôi thì mẹ tính thế này. Con có nhớ con bé Mai, con nhỏ mồ côi mẹ, ở cùng xóm mình cách đây hai căn không? Con bé vừa xinh xắn lại vừa ngoan ngoãn đảm đang. Thời gian các con xa nhà, những hôm mẹ bị trở trời trái nắng đều nhờ con bé lo lắng đỡ đần cả. Cái ơn ấy mẹ giờ già cả lại ốm đau, quặt quẹo như thế này làm sao trả được. Nếu con thương mẹ thì con thay mẹ trả ơn cho người ta, con lấy con bé đó làm vợ, để khi con vắng nhà, mẹ có người hủ hỉ, chăm nom lúc ốm đau bệnh hoạn. Mai này, mẹ có chết cũng được nhắm mắt vì mẹ đã lo được cho con có một gia đình rồi. Đó là tất cả những gì mẹ muốn nói với con. Mẹ không ép con phải lấy người con không yêu, nhưng trong hoàn cảnh này, mẹ chỉ biết trông vào con.

Mẹ đã nói như vậy, mẹ không ép, nhưng phận làm con, bên tình, bên hiếu anh phải làm sao? Em biết không, sau đám cưới, chính cô ấy đã là người chăm sóc cho mẹ anh lúc mẹ anh bênh, đến khi bà nằm xuống việc ma chay, chôn cất đều do một tay cô ấy cả. Sau này khi anh bị đi tù cải tạo, cô cũng lại là người lo thăm nuôi anh trong tù. Không phải anh muốn đề cao cô ấy, nhưng những gì cô ấy làm cho gia đình anh mà anh coi đó cái nghĩa, anh phải biết. Tình yêu anh không thể cho cô ấy được vì lời hứa sẽ yêu em, và chỉ mình em đên tron đời, mãi mãi, em còn nhớ không. Tình yêu đó đến bây giờ anh vẫn giữ cho em, nhưng cái nghĩa thì anh bắt buộc phải trả cho cô ấy. Thy Hà, em hiểu cho anh không?

Nhìn vào đôi mắt anh, nghe giọng nói của anh, tôi hiểu anh nói thật. Thế nhưng tôi thấy lòng nghe chua xót làm sao. Anh có biết rằng khi hai kẻ yêu nhau luôn mong mỏi được sống bên nhau mãi mãi, tôi cũng như bao người con gái khác cũng ước mơ như thế, nhưng anh không cho tôi được điều tôi mong . Bao nhiêu năm qua rồi, trong lòng tôi vẫn còn in đậm hình bóng của anh, dù rằng bây giờ nó không còn sôi nổi, còn nóng bỏng như ngày nào. Tôi vẫn còn yêu ánh mắt đa tình của anh, vẫn còn rung cảm bởi nụ cười của anh nhưng sau những lời tâm sự tận đáy lòng anh thì tôi nhận ra rằng, tất cả nhưng gì thuộc về anh mà ngày xưa tôi sở hữu thì nay đã thuộc về người khác, vậy thì chút tình yêu anh giữ dùm tôi bấy lâu nay có ích gì khi anh không ở bên tôi, thôi thì cũng đã đến lúc tôi phải trả nó về cho chủ cũ rồi.

Cái nút thắt đã được mở, cái lợn cợn trong lòng tôi sau hơn hai mươi năm đã biến mất, tôi thấy lòng mình nhẹ nhõm làm sao, nhìn anh bằng cặp mắt đầy lệ, tôi nghen ngào nói với anh bằng tất cả sự chân thành của mình:

_ Cám ơn anh. Anh đã hiểu em rất rõ còn hơn cả em hiểu mình nữa. em đã nghĩ em không cần nghe những sự giải thích, nhưng cái ấm ức vì sự biến mất của anh, sự anh không từ mà biệt, nó chất chứa trong lòng em hơn hai mươi năm, cứ nằm đó mãi, như một chứng bệnh nan y không thuốc chữa. Nhiều khi em muốn tự bảo mình hãy quên đi, nhưng hình ảnh anh, những kỷ niêm yêu thương của anh và em vẫn còn đó, nó hằn sâu trong ký ức của em như một vết chém, không liền da, để mỗi khi nghĩ đến, giống như khi trời đổi gió, nó lại đau nhức khôn cùng.
Một lần nữa em cám ơn anh đã chữa lành cơn bệnh nan y của em, cũng như em xin cám ơn tình yêu anh đã gìn giữ cho em bấy lâu nay. Tình yêu này em thấy mình không còn tư cách để nhận nó nữa, em xin trả lại anh, hãy nhận lại nó và dành nó cho người xứng đáng với anh hơn.

_ Thy Hà, giọng anh run run khi gọi tên tôi, anh cũng cám ơn em đã hiểu anh. đã không còn hờn anh nữa. Thy Hà của anh đã trưởng thành nhiều rồi.

Tôi cười nhẹ:

_ Anh quên là em đã già rồi sao, với lại bây giờ em không còn là Thy Hà của anh nữa rồi, anh bây giờ đã có người riêng của mình.

Với một chút bối rối, Chấn chữa thẹn:

_ Ờ nhỉ, anh quên, bây giờ già rồi hay lẩm cẩm thế đấy! À, mà từ nãy giờ anh chưa đươc biết gì về cuộc sống bây giờ của em cả, kể anh nghe được không?

Tôi cười buồn:

_ Cuộc sống của em cũng không có gì khác lạ lắm đâu. Sáng đi làm, tối về vào computer chít chát với bạn bè một lúc rồi đi ngủ, sáng mai dậy cày tiếp. Ngày nghỉ thì đi làm thiện nguyện ở chùa hay bênh viện, cuộc sống bình thường trôi qua. Lâu lâu hứng chí thì bạn bè rủ nhau đi du lịch cho biết đó biết đây. Chấm hết.

_ Thế còn…

_ Anh muốn hỏi chuyện tình cảm của em hả? trầm ngâm một chút, tôi nhìn vào mắt anh, em vẫn còn độc thân. Thú thật với anh, chuyện tình cảm em đã lâu không dám nghĩ đến đâu, em sợ lắm anh ạ. Em sợ trái tim mỏng manh của mình lại bị tổn thương nữa. “Một lần cho tởn tới già, đừng đi nước mặn mà hà ăn chân” Các cụ xưa dạy vậy mà, hơn nữa vết thương của em chưa được chữa lành làm sao em còn dám dùng dao để mà khoét nó sâu thêm ra. Ngày hôm nay, vết thương đã được chữ lành, thì thời gian không đợi mình nữa, nó đã phủ một lớp tuyết trắng trên đầu rồi. Ở tuổi này mà nói chuyện tình yêu không sợ thiên hạ họ cười cho sao anh? Anh viết chuyện tình yêu cho mọi người đọc thì được vì họ đâu biết tác giả già hay trẻ để mà cười nhạo, còn yêu thì xin …tình yêu ơi, ta xin chào mi. Anh cứ tưởng tượng mà coi hai cụ già yêu nhau nói chuyện mà cứ phì phà phì phò thì ai mà chiu nổi, chết cười mất thôi.

Câu nói của tôi làm Chấn bật cười, vẫn nụ cười sảng khoái của ngày xưa. Tôi nói thầm trong đầu. “cám ơn anh về tiếng cười này, ít ra còn một chút gì để em còn nhớ đến anh sau những tất cả mất mát”

Chấn chợt nắm bàn tay tôi, giọng anh ân hận:

_ Xin lỗi em, vì anh mà em đánh mất tuổi Xuân của mình.

Tôi đặt tay mình lên tay Chấn vỗ nhẹ, rồi rút hai tay về:

_ Không phải lỗi của anh, vì em cố chấp thôi, mà thật ra chẳng phải lỗi của ai cả, mà là đinh mệnh đã an bài thế thôi, anh đừng suy nghĩ nhiều. À mà chừng nào anh về lại Vĩnh Long?

_ Sáng sớm mai, còn em?

_ Trùng hợp nhỉ, sáng mai em cũng bay sớm.

Nhìn qua khung cửa, tôi thấy mặt trời đã ngả về chiều, thành phố đã bắt đầu lên đèn. Tôi rủ anh đi ăn tối, nhưng anh từ chối. anh đứng dậy ra quày để trả tiền nhưng Bích Liên, em gái Trà, không chịu lấy. Hôm nay vợ chồng Trà không có mặt ở quán nên hai đứa tôi đành phải gửi lời cám ơn và hẹn sẽ có dịp gặp lại.

Đứng trên hè phố chờ taxi, tôi bùi ngùi nói:

_ Không biết bao giờ mình mới gặp lại nhau nữa, cám ơn anh về buổi gặp gỡ hôm nay, em sẽ không quên. Chúc anh thượng lộ bình an, và…hạnh phúc.

Xe tới, trước khi bước vội lên xe, tôi còn thoáng nhìn thấy cái bóng cao gầy của anh đứng lẻ loi, cô đơn trên con phố đông người. Nước mắt tôi chảy dài trên má. Một bài hát của Ngô Thụy Miên qua tiếng hát Trần Thái Hòa phát ra từ chiếc máy c***ette nhỏ của cậu tài xế, như xé nát hồn tôi:

Hai mươi năm rồi em còn xa tôi
Chơi vơi trong đời lòng sầu chưa nguôi
Bâng khuâng mây trời về qua lối xưa
Chiều nao ta bước chung đôi
Tình yêu mình dâng kín lối
Hai mươi năm rồi em còn yêu tôi
Bên kia khung trời nhạc còn buông lơi
Nơi đây bây giờ ngồi nghe lá rơi
Mùa thu mưa mãi không thôi
Giọt lệ cho tình người...
Hai mươi năm rồi em còn yêu tôi
Yên vui bên trời một đời chia phôi
Bao nhiêu ân tình đành theo nước trôi
Lệ rơi héo hắt trên môi
Người bỏ tôi một mình.

Gạt nước mắt, tôi nhìn qua khung cửa kính xe, tôi đã thấy thiên hạ đi sắm Tết đông vui quá, nhộn nhịp quá. Bỗng dưng tôi tự giận mình. Tại sao tôi lại về đây nhỉ, tại sao tôi lại lạc lõng, ngơ ngáo, cô đơn như thế này nhỉ? Saigon ngày xưa của tôi đâu? Tình yêu ngày xưa của tôi đâu? Nếu tôi đừng về để tìm lại mùa Xuân cũ, nếu tôi đừng về để tìm lại tình yêu cũ, thì có lẽ tôi sẽ chẳng phải hụt hẫng như thế này, có lẽ tôi sẽ chẳng phải cô đơn như thế này. Tình yêu của tôi ơi, có phải tôi đã thật sự mất anh rồi không? Bây giờ đi giữa mùa xuân của thành phố, mà như đi trong giá lạnh của mùa Đông thế này, tôi thấy mình đã lạc lối rồi, Thy Hà ơi!!!!!!

Tường Thúy
Tucson - Az - 2019

_ Tôi đi tìm lại mùa Xuân – Đoàn Nguyên
_ Nỗi đau từ đấy – Ngô Thụy Miên

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22139
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Jan/2022 lúc 11:27am

NGÀY TẾT CỦA BA TÔI

Vietnam%20Tet%20Images,%20Stock%20Photos%20&amp;%20Vectors%20|%20Shutterstock


Học tập cải tạo về, ba tôi lần mò chiếc xe đạp cũ còn sót lại sau ngày giải phóng. Chiếc xe hư hỏng đã lâu không ai màng tới, vứt chỏng chơ trong căn hầm chứa đồ cũ. Ông chắp vá, hàn gắn từng thanh thép, giũa mài, lắp ráp từ cái yên, cái baga, cái vành. May sao các bộ phận quan trọng hãy còn nguyên, sên, líp, đùi dĩa...đem cọ rửa, bôi nhớt mỡ vào cũng tạm ổn, còn thiếu ông nhặt nhạnh, gom góp từng đồng bạc lẽ mẹ tôi mua bán, sắm dần. Phải trên 6 tháng ông mới cho ra hình cái xe đòn ngang đi tạm được.
Ông nói, thôi khỏi sơn lại, đắt lắm, miễn sao đi được là ổn, nên cái xe đủ thứ màu, xanh, đỏ, trắng đen như bộ quần áo rằn ri thủy quân lục chiến của ông ngày chinh chiến. Thời đó, đa số cuốc bộ, nhà nào có 2 chiếc xe đạp trở lên là oách lắm, xe máy thuộc hàng đại gia, không dám mơ. Thật tình mà nói trước 75, nhà tôi cũng có 1 chiếc honda dame. Ba tôi ở lính mà có tính máu me cờ bạc, nghe mẹ tôi nói ổng mê xóc dĩa, xóc một hồi bán luôn xe máy, bán cả căn nhà trong Nha trang, khu đồng đế mà ba tôi sắm được khi ông được điều phối vào đó. Đến ngày giải phóng, ba tôi còn sống và đi cải tạo, của chìm của nổi cũng đi sạch, mẹ tôi giận lắm nhưng rồi bà chép miệng, thôi thì của đi thay người. Cái xe máy còn mà đón về cái quan tài bọc kẽm thì đại họa.
Ba tôi cải tạo về, có nghề ngỗng chi đâu, làm thuê làm mướn cũng ít người thuê. Cần cái xe đạp để đạp đi bán hàng rong kiếm mấy đồng nuôi con, qua ngày. Như nhiều gia đình, con cái đông đúc, đứa nầy chênh với đứa kia 1, 2 tuổi. Vị chi đến 10 đứa con. Lớn nhất là anh tôi năm 79 là 24 tuổi, đứa em út thứ 10 mới 4 tuổi. Đứng sắp hàng ngang chờ nhận cơm ăn mỗi bữa như cái hình tam giác.
Năm tháng đó, ba tôi nghiên cứu thị trường, ông đi bán dạo bút bi, bút chì và đá lữa, bật lữa, giấy má đủ loại. Sáng mờ sớm ông đã đạp xe đi, tối mịt mới về, lùa mấy hột cơm xong lại đi chở hàng cho mẹ tôi. Hồi ấy, mẹ tôi và mấy đứa em gái nghỉ học ra bán nước chè, kẹo lạc, nước giải khát, nước mía bên sân ga xe lữa cả ngày đêm. Lúc đó, anh tôi đã đi làm công nhân sau lên đường sang mặt trận CamPuchia. Tôi vẫn miệt mài đèn sách, mỗi lần nhìn cái dáng xiêu vẹo của ba tôi trên chiếc xe đạp cũ, chữ nghĩa trong đầu tôi dường như tan biến, chữ nghĩa cũng ngậm ngùi cùng tôi.
Mấy năm sau, nghề bán dạo ấy cũng không ra chi, ông được người quen giúp vào làm công nhân ở Ty Cầu đường. Vậy mà ổng giỏi, học đâu ra nghề thợ hồ, ông cùng đội xây dựng đi sửa chữa mấy cái cống rãnh. Ngày đi làm, tối chở hàng phụ việc cho mẹ tôi. Bấy giờ tôi đã đi nhận nhiệm sở công tác trên Pleiku, Gia lai.
Vào dịp tết đến, thời bao cấp, mỗi nhà trông vào nồi bánh tét, thẩu dưa kiệu, khoanh thịt mỡ, mấy cân gạo trắng cho cả gia đình trên 10 người vui xuân là tốt lắm rồi. Mà đâu phải có tiền mua ngay, phải dành dụm, tích góp từng cân nếp ngay sau cơn lụt tháng 10 mới có.
Ba tôi khéo tay, ông gói bánh tét rất chuẩn, tròn trịa, đầy đặn, cây nào đều như cây nấy, sắp chồng lên với màu xanh lá chuối rất đẹp mắt. Bữa nào vui ba tôi kể, chả là năm tháng trên khắp các tiền đồn, được 24 giờ hưu chiến, sĩ quan binh sĩ cùng nhau gói bánh, nấu bánh, cả đêm bên bếp lữa hồng rồi nghêu ngao hát bài "xuân nầy con không về", thành ra tay nghề nhuyễn.
Tôi nhớ mãi đến hôm nay, dù ba tôi đã ra đi về cõi vĩnh hằng đã lâu lắm. Mỗi dịp tết đến lòng tôi thương nhớ bóng hình ông, nao nao khó tả.
Năm tháng xa xôi ấy, cái ăn đã khó, cái mặc còn khó hơn. Quần áo CBCNV thì dùng tem phiếu vải phân phối, mỗi năm 2 bộ đồ, khi xấu khi tốt, may nhờ rủi chịu. Dân tình có tiền mua hay không là dựa vào hoàn cảnh của họ. Vì thế, áo quần vá víu nhiều lắm, quần vá, áo vá.
Ba tôi tôn trọng cái áo công nhân màu xanh, ông nói áo kaki bền lắm, lâu rách, không cần ủi iếc chi cả, vải dày nên mặc ấm trong mùa đông giá rét. Chiếc áo ông mặc màu xanh sẫm qua năm tháng nó bạc gần trắng ở vai, ở lưng, ở cùi tay, vá khắp nơi. Đến khi không còn sử dụng được nữa, ông kêu để dành đó, mai mốt cắt ra những mảnh, vá cho cái áo khác. Vậy là chiếc xe đạp muôn màu với người đàn ông cao tuổi mặc chiếc áo vá thân phận đi trong buổi sớm mai hay chiều tà đẹp như bức tranh lập thể.
Trong cái tủ gỗ xấu xí kê bên góc tường nhà vẫn còn một bộ đồ đẹp của ba tôi, để dành từ trước giải phóng. Chiếc áo sơ mi trắng, chiếc quần tây đen, chiếc áo vest, chiếc cà vạt đỏ, đôi giày tây đen...Nhưng ông không dám mặc. Ba tôi cất, để dành cho mỗi dịp tết nhất, mặc thường nó cũ rách, ngày xuân mặc áo rách đi chúc tết nhà người ta sao được, kỳ cục lắm. Năm nào cũng vậy, cứ qua rằm tháng chạp, ba tôi mở tủ, ông lấy bộ đồ ấy ra, ngắm nghía, vuốt ve, là lượt, rất âu yếm. Để rồi sáng mồng một mẹ tôi choàng cái áo vest lên người ông, xỏ vào đôi giày tây đen, mẹ con tôi thấy ba tôi khác hẳn, oai phong như ngày xưa, hình ảnh ông già đạp xe bán dạo mất hẳn trong những ngày xuân mới.
Ngày đám cưới của tôi trên Pleiku, Ba tôi từ Đà Nẵng lên chủ hôn, ông mặc bộ đồ lớn nầy, bên nhà gái, bên phía cơ quan tôi thấy nể trọng dăm phần, vì cái nét phương phi còn sót lại nơi ông, vì cái dáng phong trần năm tháng xuôi ngược trên đường đời cùng với chiếc xe đạp cũ.
Tưởng cũng nói thêm đôi chút về thói quen của ông. Ba tôi không hút thuốc, bia rượu chỉ vài ly, ổng chỉ mê cờ bạc, gái gú thì phận làm con nên tôi không dám tìm hiểu. Nhưng đến cuối đời, khi về lòng đất cũng chỉ mấy mẹ con tôi đội tang, không thấy có ai thấp thoáng ngoài hè buổi hoàng hôn cả.
Ngày tết, sau khi diện bộ đồ vía, ông ngồi nâng niu những tờ giấy bạc đã được xếp sẵn, vuốt lại thẳng thớm từ hôm trước, ba tôi lần lượt mừng tuổi cho mẹ con tôi, 11 người, một cách trân trọng, tình cảm chân thành. Mấy đứa em nhỏ của tôi thì reo mừng hớn hở vì chúng có tiền đi chơi năm mới, còn tôi thì ra xa một chút, đứng bên góc khuất hiên nhà, cầm tờ giấy bạc mà ngậm ngùi. Tờ bạc mà bao tháng ngày ổng dành dụm, chắt chiu trên con đường dong ruổi cùng cái xe đạp cũ bán từng cây bút bi, từng cây bút chì và vài chục viên đá lửa.
Vậy rồi, dù gì, ngày tết năm nào gia đình tôi cũng rất vui. Tôi biết trên đất nước tôi lúc ấy có hằng triệu triệu gia đình khác cũng giống như gia đình tôi.
Đâu đó, lẫn khuất, còn nhiều rất nhiều những mảnh đời bất hạnh, đón xuân dưới gầm cầu, trên sạp hàng khu chợ đóng cửa nghỉ tết, gặm miếng bánh tét người qua đường cho, lắng nghe tiếng pháo đì đùng đêm giao thừa.
Tôi thấy mình hãy còn hạnh phúc hơn họ nhiều lắm.
NGUYỄN QUYẾT
những ngày cuối năm Âl 2021


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/Jan/2022 lúc 11:31am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22139
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Jan/2022 lúc 9:12am

CON TÀU CHỈ CÓ MỘT NGƯỜI

Con%20Tàu%20chỉ%20có%20Một%20Người%20-%20tác%20giả%20Phan%20Xuân%20Sinh%20-%20-%20YouTube

Anh cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền Nam. Sau 75, đều bị tập trung cải tạo. Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một hai lần đồ ăn, sau đó thì biệt tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đình nhiều lần. Nhưng không thấy vợ trả lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ. Sống trong trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn, người đó kể như chết. Anh biết mình nằm trong số người bất hạnh đó. Nên anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứ tự lực gì nổi. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất cứ thứ gì có thể bỏ vào bụng cho đở đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới như nhau. Ai tìm được nấy ăn.
Chuyển ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tả hơn. Không quen với cái lạnh thấu xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụ già hom hem. Công việc nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trở về thì không thấy hy vọng. Anh cứ nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc nầy mãi, thì thế nào cũng bỏ xương tại cái xứ đèo heo hút gió nầy. Trốn trại thì không can đảm. Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải bó tay chịu trận.
Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường bưu điện. Anh nghĩ chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nhìn tên người gửi lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự thèm khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trả về cho khổ chủ của nó! Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ cũng chia nhau. Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh về trại. Bạn bè tới chúc mừng anh. Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mở ra kiểm soát, cột lại sơ sài trước khi giao cho anh nhận lãnh.
Ai nhận quà về đến chỗ nằm của mình, đều bóc ngay ra. Còn anh thì không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không tìm ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng phòng với anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng. Không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.
" Anh yêu quý,
Anh đã mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đã chết. Em và các con lập bàn thờ mấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô tình đến thăm một người bạn, có người anh được thả ra từ trại cải tạo Miền Bắc. Em hỏi thăm là có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên ấy, trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi.
Anh đừng để vi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽ được nhà nước khoan hồng để sớm về đoàn tụ với gia đình. Có dịp được trại cho phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần sau có giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh về.
Thư nầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.
Vợ anh
Lê Thị Hồng"
Anh không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ ky, anh và ông Hữu kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người đàn bà nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn, chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơ đễnh, không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nhìn gói đồ ăn mà lòng trĩu nặng. Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờ đợi. Còn mình sống sờ sờ vợ chẳng thèm ngó ngàng tới.
Đọc thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại như cũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin tức gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.
Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá khô, muối sả ớt v.v... anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm gì có thứ nầy ở đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó, anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý nầy. Thôi thì tới đâu hay tới đó.
Ngày hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số bạn cùng cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần về sau nguôi ngoai. Hình như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt hơn là phạm tội một đôi lần.
Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về gia đình. Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê Thị Hồng? Gửi cho vợ thì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chị Lê Thị Hồng, thì biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta. Nếu thư không bị kiểm duyệt thì chuyện nầy dễ nói. Còn thư tù như anh thì qua biết bao nhiêu cửa ải. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác chuyện nầy sẽ tống cổ anh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lãnh đồ thăm nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái tội nầy bạn bè biết được thì khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡ rồi, đành phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.
"Hồng em,
Cám ơn em rất nhiều về gói quà vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo gì cho anh nữa, ở đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em ở nhà cố gắng dạy dỗ các con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước cách mạng.
Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn của mình trước đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước.
Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây anh ăn uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.
Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.
Chồng em
Nguyễn Hữu"
Anh nhắc lại hai lần chữ "lầm lẫn", để chị Hồng biết đoán ra mọi sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ. Hai ngày sau, văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện gì xẩy ra. Có lẽ vì mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì. Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.
Anh bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi hút. Người cán bộ nhìn anh nói: "Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo chị đừng gửi gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?"
Anh lắc đầu: "Nhiều năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất. "
"Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực khổ. Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủ thứ. Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hề hé răng."
Người cán bộ nói tiếp: " Chúng tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh về với gia đình. Nghẹt vì các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm giữ thêm một thời gian nữa."
Anh ấp úng: "Vâng, thưa cán bộ."
Người cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói: " Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương tinh thần ý thức của anh. Thư anh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đình."
Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm. Nên chúng nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười thầm trong bụng với cái chiêu dụ nầy.
Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn, thoát được sự căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết không đúng tiêu chuẩn. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể. Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ "lầm lẫn" kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đã chết.
Ngày nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm là mình trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không còn hy vọng có ai đó ngó ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày. Vì thế nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ được người nhà mang đến. Còn anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.
Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà của mình. Không dám đọc thư vì biết thư đó không viết cho mình. Lần nầy thì ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc. Thư viết cũng thắm thiết như lần trước, không hề đá động gì sự lầm lẫn mà anh đã nhấn mạnh. Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi sự lầm lẫn đó. Trong thư nầy chị Hồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng. Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh muốn tạo ra tình huống nầy, để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà không thẹn với lương tâm.
Mỗi lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay. Nhủ với lòng mình như vậy, nhưng dễ gì quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị Hồng lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm lòng thương chồng của chị đã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho hoàn cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn chung của xã hội, nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì xa xôi hơn như chuyện thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là chồng của mình.
Mọi chuyện vẫn bình thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng đến thăm. Lần nầy thì anh bối rối thật sự. Anh biết sự gặp nhau nầy rất bẽ bàng và ngượng ngập. Mọi sự thật sẽ làm cho chị Hồng đau khổ biết mấy. Với anh thì không sao, anh đã biết trước mọi chuyện, anh đã chuẩn bị tinh thần. Dù gì thì anh cũng phải trả lại sự thật nầy. Anh không muốn nó cứ mãi kéo dài, cứ mãi gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh cố gắng diễn tả cho chị ấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, để chị tha thứ. Anh sợ một vài tháng bị cùm, sợ mất mấy miếng ăn, mà phải để lại sự hiểu lầm trầm trọng. Để chị phải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từ Sài Gòn ra tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng mình.
Người cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từ xa anh nhìn thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp. Tự nhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi. Tim anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và hối hận. Chị Hồng nhìn anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng khóc ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối diện. Nước mắt anh cũng chảy dài. Anh không nói được với chị câu gì. Những gì anh đã chuẩn bị bay đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm soát thấy hai người cứ khóc mãi.. Có lẽ anh ta nghĩ rằng vì vợ chồng lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu ngày, để họ khóc cho đã nư. Anh ta cũng chẳng cần để ý tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi ra cửa sổ khạc nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị: "Xin lỗi...xin lỗi chị".
Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho anh biết đừng nói gì thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa lòng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học bình thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.
Cán bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa tay nắm lấy tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết tại sao anh bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của chị dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn bà không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa tìm chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh chị chia tay. Anh gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị đứng dựa vào cột tre nhìn theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải lìa xa.
Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ, thì các bạn anh chạy ra phụ mang đồ về phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc còn để lăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại. Những giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờ gặp nhau, anh chỉ nói ra được hai tiếng xin lỗi. Màn kịch do chị diễn ra thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm thấy rất tự nhiên không ngượng ngịu. Không sao hiểu nổi được lòng chị.
Ngồi nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nhìn anh. Khuôn mặt chị thật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đã biết trong mấy lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên hệ với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đã chết. Nghiệt ngã thật. Chị bật khóc, vì thương cho chồng thì ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù tội, lao khổ, bị gia đình bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt của chị đã bao năm khóc cho chồng, bây giờ đã khô cạn. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đình vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, dày xéo trên thân thể những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối diện..
Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức, nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có còn giữ liên lạc với anh không?... Dù sau nầy thế nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với anh suốt đời không quên được. Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.
Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.
Phan Xuân Sinh
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22139
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Jan/2022 lúc 2:57am
Tình Người Viễn Xứ        <<<<<

Chiều%20Viễn%20Xứ%20|%20Tam%20Muoi%20Poetry
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22139
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Jan/2022 lúc 10:30am

image
image


image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
image
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22139
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Jan/2022 lúc 12:09pm

Những Mùa Xuân Thuở Ấy

Có%20Thể%20Bạn%20Chưa%20Biết:%20Nguồn%20Gốc%20và%20Ý%20Nghĩa%20Hoa%20Tết%20Việt%20Nam

Khi mới lớn lên, tôi chỉ biết quê tôi là một vùng thôn dã an bình, hiền hòa, xinh đẹp, biển nằm không xa dãy trường sơn. Đi giữa những cánh đồng lúa chín vàng, nằm dọc bên triền núi, mà tai văng vẳng âm thanh của những ngọn sóng vỗ bờ. Cả dòng họ ông nội tôi chiếm lĩnh vùng nông thôn, và dòng tộc phía bà nội tôi trấn cứ vùng bờ biển. Từ quê ông nội đến quê bà nội, lúc còn nhỏ, tôi thường chạy bộ không đến nửa tiếng đồng hồ.  Cả làng gần như đều là bà con dòng tộc xa gần. Mỗi lần có giỗ kỵ, bọn con cháu như tôi phải đi mời khắp cả làng. Ngày Tết phải đi chúc Tết ông bà, cô bác, cả hai ngày chưa đủ. Đám hậu sinh như bọn tôi, mang dòng máu của cả ruộng đồng, sông suối trộn lẫn với nước mặn biển khơi. Có lẽ nhờ đó mà tâm hồn rạt rào tình cảm. Những ngày mới lớn, bọn tôi thường được ông bà nội, các cô chú và nhất là ba tôi, ngồi giải thích, để rồi cuối cùng gần như mọi người trong làng, ai cũng có một vai vế nào đó để biết mà thưa gởi. Đến tuổi yêu đương, trai gái phải đi tìm đối tượng ở xa, chứ trong làng với nhau là ít nhiều gì cũng “cùng huyết thống”. Vì vậy con gái ở quê tôi đều trở thành những con chim đa đa, “không lấy chồng gần mà phải đi lấy chồng xa”. Tuy có chút phiền hà, nhưng cũng phải công nhận cái nếp nhà của ông bà ngày xưa, sao mà hay quá đỗi.


Cũng chính sự liên hệ dòng tộc này, nên làng tôi có thể là một điển hình cho những tình huống bi thương trong cuộc chiến ba mươi năm, từ lúc có phong trào Việt Minh cho đến khi kết thúc cảnh huynh đệ tương tàn, trong  anh em họ hàng, kẻ ở bên này người ở bên kia.  Một cuộc chiến kỳ quái và có lẽ bi tráng nhất trong lịch sử chiến tranh nhân loại.

Đám trẻ trạc tuổi tôi cũng hơn hai mươi đứa. Không hiểu vì sao lúc ấy chỉ toàn là con trai chơi chung với nhau, còn con gái có vài ba đứa, nhưng chỉ ở trong nhà. Do vai vế trong họ, có những thằng lớn tuổi phải gọi những ông nhỏ tuổi hơn mình bằng anh, bằng chú. Đôi khi đánh bi, đánh vụ hay đá banh, mấy thằng lớn nhưng vai em, vai cháu bị mấy ông anh, ông chú nhỏ tuổi hơn chơi hiếp, cũng đành phải hậm hực, chỉ biết chạy về mách ông bà. Khi lớn lên một chút, đám bọn tôi cùng đi học trường làng, rồi sang trường huyện. Ngày nghỉ thì tập trung ra cái sân làng để thi thố mọi thứ tài năng, từ u mọi, vật lộn, đá banh. Có khi kéo nhau xuống biển, tập bơi. Những thằng sống ven biển lại có dịp làm thầy dạy cho mấy thằng trên ruộng đồng tập bơi, tập lặn, và cả chèo ghe, lưới cá nữa.


Vui nhất là những dịp Tết. Tất cả đều được mặc áo mới, trong túi thằng nào cũng có chút tiền do ông bà cha mẹ lì xì, kéo nhau đi xem bài chòi,  đánh bầu cua cá cọp, và chung tiền mua pháo đốt làm náo động cả xóm làng. Thời ấy đất nước thanh bình, gia đình nào cũng khấm khá, nên đám trẻ bọn tôi sống với nhau trong chan hòa hạnh phúc. Tết đến, là dịp để tận hưởng mọi niềm vui nao nức của tuổi thơ và lúc nào cũng thấy cả một bầu trời xanh bao la mở ra trước mặt.


Cuối năm 1954, khi khắp miền Nam tưng bừng hát bài ca “Suy Tôn Ngô Thủ Tướng” cũng là lúc rộn rịp đón hơn một triệu người từ miền Bắc di cư chạy trốn chế độ Cộng sản,  sau Hiệp Định Genève chia đôi đất nước. Cái làng quê nhỏ bé xa xôi nhưng trù phú của tôi cũng đón tiếp hai gia đình. Nhưng lại là hai gia đình có nhiều khác biệt, mà lúc ấy còn nhỏ, nên bọn tôi chẳng hề quan tâm hay thắc mắc điều gì.

Gia đình ông Khanh, nói rặt giọng Bắc Kỳ. Gồm có ông và hai thằng con trai tên Vũ và tên Hải. Sau này thằng Vũ vào học cùng lớp Nhì với tôi. Nhờ vậy, tôi biết nó gốc Hải Phòng, mẹ nó mất trước đó 3 năm. Bố nó khá giàu chuyên nghề nấu rượu và làm mắm. Ông Khanh không hề có bà con, quen biết ai ở đây. Nghe nói làng này trù phú, ruộng đồng nằm sát bên bờ biển, nên ông nghĩ đây chính là mảnh đất thuận lợi để cho ông tái nghiệp.

Gia đình bà Thọ, nói rặt giọng Bình Định, Gồm có bà và hai người con gái. Con Thi và con Tứ. Điều khác biệt hơn, bà Thọ là cháu của ông Tổng Phương, một người giàu có trong làng và tất nhiên cũng có bà con xa gần gì đó với đám bọn tôi. Cha tôi bảo tôi gọi bà là Cô Bốn, vai em của cha tôi. Con Thi cũng vào học chung lớp Nhì với tôi và thằng Vũ, còn cô em thì học sau hai lớp, cùng với em thằng Vũ. Nó chỉ nói ba nó bị Tây bắn chết trong chiến tranh. Lúc ấy tôi không hiểu tại sao gia đình con Thi di cư, nhưng không nói tiếng Bắc mà lại nói giọng Bình Định. Ba tôi giải thích là họ không phải đi từ miền Bắc mà từ Liên Khu Năm. Tôi cũng chẳng biết Liên Khu Năm là gì, chỉ nghe ông bảo ở vùng Nam-Ngãi-Bình-Phú gì đó, thế thôi. Hơn nữa đám con nít bọn tôi cũng chẳng quan tâm đến chuyện ấy làm gì.


Từ ngày trong làng có thêm hai gia đình mới đến định cư, đám trẻ bọn tôi rộn ràng và vui hẳn lên. Anh em thằng Vũ nhập bọn, bày cho bọn tôi rất nhiều trò chơi mới lạ từ miền Bắc mang vào. Lần đầu tiên nghe giọng Bắc, bọn tôi tưởng cứ như tiếng chim kêu, có nhiều chữ không hiểu nghĩa gì, bắt hai thằng phải giải thích. Nghe quen rồi, thì lại thấy giọng Bắc hay hay và bắt nó đọc để học chính tả. Hai anh em đều lễ phép, hiền lành và tốt bụng nên bọn tôi cũng dễ thân. Còn chị em con Thi thì đứa nào cũng xinh xắn dễ thương, khác hẳn với đám con gái trong làng. Hai chị em tự nhiên nhập bọn và chuyên mang kẹo đến chia cho đám con trai để làm quen. Bọn tôi tha hồ chọc ghẹo, nhạo tiếng Bình Định là tiếng Nẫu, và hai đứa nó là dân Củ Mì, nhưng hai chị em cũng tít mắt cười theo mà không hề biết giận.

Phải công nhận là con Thi xinh gái thật. Da trắng hồng, mắt to, mũi cao và miệng cười có hai má lúm đồng tiền. Còn có thêm mái tóc thề đen óng nữa. Trong đám bọn tôi nhiều thằng mê con Thi. Và dường như từ khi con Thi xuất hiện thì đám con trai làng tôi mới tập tễnh học yêu đương và biết trồng cả cây si. Ông bà cha mẹ thằng nào cũng đã đoán trước sự tình nên đều răn đe con cháu “đám tụi bay với chị em con Thi cùng là người trong họ trong hàng, còn con nít chớ có bày đặt chuyện tầm bậy tầm bạ, nghe chưa!”


Không biết có bao nhiều đứa yêu thầm nhớ trộm, để dù phải vâng lời người lớn, mà trong lòng ấm ức không chắc thật là mình có bà con dây dưa rễ má gì với con Thi. Còn con Thi, dường như chẳng phải lòng, để ý thằng nào. Với ai nó cũng thân tình vui vẻ, nên cuối cùng cũng trở lại bình thường, không có không khí chiến tranh.

Cũng không biết là hai gia đình này đến đây có mang theo gia tài gì không, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn là trở nên giàu có. Ông Khanh thì mua lại một ngôi nhà lớn vùng biển, mở một xưởng làm mắm, với hơn mười người giúp việc. Bà Thọ thì mở một cái quán bán hàng tạp hóa khá lớn ngay ở ngã ba làng, sau khi cất lên một ngôi nhà ngói thật rộng rãi khang trang. Trước quán là một cái sân gạch khá lớn có mái che, được đặt một cái bàn ping-pong và mấy cái máy chơi đá banh. Vì vậy trở thành nơi tập trung của đám nhóc bọn tôi trong những ngày nghỉ học. Khi nào hai chị em con Thi trông quán, bọn tôi không phải trả tiền mà có khi còn được thêm bánh kẹo nữa.


Tết năm ấy, có lẽ là cái Tết đầu tiên vui vẻ và thích thú nhất của đám bọn tôi. Không phải vì có một gánh hát rong nổi danh về diễn ở đình làng, mà vì lần đầu tiên bọn tôi cùng nhau lập một gian hàng trò chơi và lô-tô với tiền của chị em con Thi, và tài quảng cáo điều khiển và hô lô-tô thật tài ba của thằng Vũ. Bằng cái giọng Bắc Kỳ lạ lẫm mà vô cùng hấp dẫn. Không những chỉ trai tráng trong làng, mà từ các làng khác kéo sang, đông đảo nô nức, làm các ông bà chức sắc trong làng ai cũng hoan nghênh.


Năm sau, khi bọn tôi vừa mới lên lớp Nhất, thì được tham gia vào việc cổ động cho cuộc Trưng Cầu Dân Ý, truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại để bầu Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lên làm Tổng Thống, khai sinh chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Lúc ấy chưa biết gì về chính trị, nhưng đứa nào cũng thấy nao nức trong lòng.  Ai cũng thuộc lòng câu “Phiếu xanh ta bỏ vô bì, phiếu đỏ Bảo Đại ta thì vất đi” để hô vang khi cô thầy giáo dẫn đi ngoài đường. Tối đến, bọn tôi được cấm trại ngay trên sân trường, tổ chức đốt lửa, văn nghệ. Thầy hiệu trưởng soạn vở kịch thơ Hai Bà Trưng. Đám cùng làng với tôi chiếm đa số trong lớp, nên được phép chọn các vai diễn. Hai chị em con Thi đóng vai Trưng Trắc, Trưng Nhị, thằng Vũ đóng vai Thi Sách. Chẳng đứa nào chịu làm Tô Định. Cuối cùng phải tổ chức bốc thăm. Một thằng ở làng khác bốc trúng, nhưng không ngờ nó lại đóng hay nhất.


Nghĩ là chỉ còn gần nhau trong năm này thôi, mùa hè sang năm thì mỗi người một ngả, vì muốn học trung học phải vào tận thành phố, cách xa làng quê hơn sáu mươi cây số, cả bọn thường quây quần bên nhau trong những dịp cuối tuần. Có điều bây giờ ít đùa giỡn nghịch ngợm hơn xưa, vì dường như đứa nào cũng chuẩn bị để tập làm người lớn. Riêng Thi càng lớn lại càng đẹp thêm ra, thân hình nẩy nở hấp dẫn ở cái tuổi dậy thì. Nhiều thằng càng mê mẫn, nhưng vì cái nếp họ hàng đành phải ngậm đắng nuốt cay. Chỉ có thằng Vũ Bắc Kỳ là đứa duy nhất đứng ngoài vòng cấm kỵ và cũng rất xứng đôi. Nhưng nó lại tỏ ra rất bình thường với con Thi, đùa giỡn như hai thằng con trai, và tốt với mọi người, nên cũng chẳng có thằng nào nghi ngờ, ghen tức.


Cái Tết năm đó vì nghĩ là cơ hội cuối cùng, nên ngoài các gian hàng trò chơi như năm trước, bọn tôi còn đứng ra nhận phần văn nghệ. Hầu hết những mầm non trong cả huyện đều được mời tham dự, có cả một ban giám khảo chọn những tài năng, để các chức sắc trong xã trong làng trao giải thưởng.  Bọn tôi được cả ông bố của Vũ và mẹ của Thi giúp tiền bạc, ông anh họ của tôi làm ở Chi Thông Tin giúp phần âm thanh, một máy phát điện  và cố vấn cho việc tổ chức. Thằng Vũ và con Thi được chọn làm trưởng và phó nhóm kiêm luôn giới thiệu chương trình. Tôi được chọn viết bài sớ táo quân và đọc mở màn đêm văn nghệ. Bà con các nơi kéo về tham dự đông đảo chưa từng thấy ở ngôi đình làng này từ mấy chục năm nay. Không ngờ bọn tôi lại tổ chức được một cái Tết đình đám như thế. Được các cụ trong làng khen thưởng, ngợi ca vì đã làm nở mặt xóm làng. Nhưng người được chú ý và được hâm mộ nhất hôm ấy là con Thi, không phải vì hát hay múa giỏi mà vì nhan sắc. Bao nhiêu cặp mắt đều dồn về Thi, mê mẫn, nhất là đám con trai, thanh niên lạ từ các nơi kéo đến. Cả đám bọn tôi, ai cũng sợ mất con Thi, đứa nào cũng nhân danh bà con anh em để bảo vệ, nhưng thực ra là để giữ Thi, không cho phải lòng bất cứ gã trai nào.


Đến Hè, sau khi có bằng Tiểu Học, đứa nào cha mẹ khá giả thì được cho vào thành phố tiếp tục học trung học, đứa nào nhà nghèo thì đi học đủ thứ nghề hoặc theo nghiệp nhà nông, nhà biển của cha mẹ đã nối tiếp từ bao nhiêu đời trước. Trong số 16 đứa cùng lớp trong làng, chỉ có 10 thằng được đi làm sĩ tử, vào thành phố thi vào lớp đệ thất trường công lập. Trong số đó có tôi, con Thi và thằng Vũ.

Những đứa được tiếp tục đi học góp chung tiền, nhưng chỉ bằng nửa số tiền con Thi bỏ ra, tổ chức buổi họp mặt tại nhà Thi trước khi mỗi người mỗi ngả. Buổi chia tay buồn vui lẫn lộn. Tội nghiệp cho những thằng phải nghỉ học. Lúc ấy bọn tôi nghĩ đến tương lai thì ít mà nghĩ tới chuyện phải xa cách nhau thì nhiều.

Bọn tôi rủ nhau cùng đi lên thành phố chung một chuyến xe đò của bác Vạn Lợi. Ông là vai ông, bác, chú của đám bọn tôi, nên ông không lấy tiền mà còn cho mỗi đứa một ổ bánh mì nóng. Khi ấy cả tỉnh chỉ có duy nhất một trường trung học công lập, nên rất hạn chế học sinh, vì vậy trong mười đứa bọn tôi chỉ có năm đứa đậu. Trong số đó không có tôi.  Còn thằng Vũ và con Thi thì đậu hạng cao. Đám thi rớt rủ nhau xin vào các trường tư thục. Với tính háo thắng và cũng để thỏa mãn tự ái, suốt mùa hè tôi học lớp luyện Toán của một ông chú vừa mới đậu Trung Học, và nhờ cha tôi kèm Pháp văn, để sau hè vào học lớp đệ lục thay vì đệ thất. Nhờ vậy mà tôi lại đậu Trung học Đệ Nhất Cấp rồi xin vào đệ tam trường công trước các bạn khác một năm.


Những năm trung học, đám bọn tôi chỉ thỉnh thoảng gặp nhau ở thành phố, và cũng một vài lần ở quê, nhưng không đông đủ như lúc xưa. Có vài thằng không còn theo học đã lập gia đình sớm và lo sinh kế. Sau trung học, con Thi đậu vào Sư phạm Qui Nhơn, Vũ vào Đại học Khoa học, còn tôi thích đời quân ngũ nên xin vào lính, ra trường được bổ nhậm về một đơn vị tác chiến ở Cao Nguyên. Thời gian này, chiến tranh trở nên ác liệt, tôi theo đơn vị và ngày tháng miệt mài với súng đạn, sống chết cùng đồng đội trên khắp các chiến trường lửa đạn. Ba năm sau tôi nghe tin Vũ cũng nhập ngũ, và nhờ có vóc dáng cao lớn, được chọn vào binh chủng Nhảy Dù, còn Thi thì đã là cô giáo đang dạy một trường nào đó ở Phan Rang. Trước Giáng Sinh năm 1971, tôi có ghé thăm Thi một lần khi cùng đơn vị di chuyển từ bản doanh Sông Mao lên Đà Lạt để giữ an ninh cho buổi lễ ra trường của một Khóa Võ Bị. Trường Thi dạy nằm ngay bên quốc lộ, nên tôi cho đoàn xe dừng lại trước cổng trường, vào tìm Thi. Bất ngờ gặp nhau, Thi nhìn tôi ngạc nhiên và chạy tới ôm lấy tôi mừng rỡ. Cô giáo Thi vẫn dễ thương, thân tình vui vẻ như dạo nào, và có lẽ là cô giáo đẹp nhất ở đây. Tôi có hỏi về Vũ, Thi cho biết có vài lần gặp Vũ và hai người vẫn thư từ qua lại thăm nhau. Nhưng từ khi Vũ theo đơn vị ra Vùng I, thì không nhận được thư, có lẽ bận hành quân. Tôi cũng hỏi thăm về cô bốn Thọ và Tứ, là mẹ và em gái của Thi. Tôi tròn mắt ngạc nhiên khi Thi nhỏ giọng:

– Má của Thi đã tái giá. Bà lấy bác Khanh, bố anh Vũ đó!

Tôi vỗ tay chúc mừng.

– Ông bà cũng xứng đôi vừa lứa, chắc cả Thi và thằng Vũ cũng vui

Im lặng gây lát, Thi hỏi tôi:

-Còn con Tứ, em Thi cũng đã lấy chồng rồi. Anh biết nó lấy ai không?

Tôi suy nghĩ rồi lắc đầu. Thi đập nhẹ vào vai tôi, với một chút bẽn lẽn:

– Nó làm đám cưới với thằng Hải, em của Vũ, sau hai ông bà già mấy tháng.

Tôi thật sự bất ngờ, chỉ biết mở tròn mắt nhìn Thi. Rồi bất giác tôi nói với Thi mà không hề suy nghĩ:

– Vậy thì sao Thi không tới luôn với thằng Vũ đi. Hai bạn đều tài hoa và hai gia đình lại đề huề. Hơn nữa đám con trai trong làng đều bà con với Thi hết ráo, ngoại trừ thằng Vũ là duy nhất ngoại tộc! Tôi ủng hộ hai tay!

Thi cười, lắc đầu:

– Cả một thời lớn lên thân thiết như anh em chứ có khác gì đâu. Dị lắm!

 Tôi đùa:

– Nếu không thì phải kiếm ông giáo hay ông quan nào ngon lành mà cho tôi ăn đám cưới đi chứ. Đẹp cho nên kén chứ gì, phải nhớ là hoa chỉ có một thời để nở thôi đó?

Thi cười :

– Thời này chắc chỉ có lính. Mà mấy ông lính thì đa tình và đào hoa quá nên chẳng biết dám tin ai mà lấy.

Tôi ôm vai Thi thân mật:

– Vậy để tớ làm mai cho mấy thằng bạn đẹp trai oai hùng và chung thủy nghe, chứ để Thi lấy phải một thằng gà chết trời ơi nào thì tiếc của lắm.

Bọn tôi vẫn vui vẻ thân mật như ngày nào. Khi chia tay, tôi bảo:

– Theo gia phả, thì Thi phải kêu tôi bằng anh. Mà anh đã phán thì em phải vâng lời, nghe chưa?

Đoàn xe đã chuyển bánh, mà tiếng cười của Thi vẫn như còn đuổi theo tôi.

Mùa Hè 1972, tôi bị thương tại chiến trường Kontum. Sau khi xuất viện được hưởng mười ngày phép, tôi trở về quê thăm cha tôi. Lúc này ông đã lớn tuổi, không còn đi dạy học nữa.. Không ngờ đó là những ngày cuối cùng tôi được sống bên cha tôi, và nghe ông kể nhiều chuyện về cuộc đời, về họ hàng và cuộc chiến tranh đang có nguy cơ bất lợi cho miền Nam. Nhờ theo dõi tin tức nên ông đoan chắc là Mỹ sẽ sớm bỏ rơi VNCH. Suốt buổi, hai cha con bàn thảo về những giải pháp mà Mỹ sẽ đưa ra để kết thúc chiến tranh. Nhưng không ai nghĩ đến bất cứ một giải pháp nào bi đát lắm. Ít nhiều gì vẫn còn tin ở sức mạnh của Hoa Kỳ!

Nhân dịp này tôi cũng ghé lại thăm cô bốn Thọ, mẹ của Thi. Bà và ông Khanh sống ở nhà bà. Cái quán tạp hóa vẫn còn, nhưng hình như không đắt hàng như lúc xưa, vì bây giờ có thêm mấy cái quán mới mở. Trông ông bà rất hạnh phúc. Còn vợ chồng Tứ và Hải thì sống ở nhà ông Khanh, dưới biển, nối nghiệp ông sản xuất nước mắm và tôm khô. Nghe ông Khanh bảo, vợ chồng nó làm ăn có bài bản hơn ông ngày trước nên cũng khá giả.


Rồi những điều cha tôi nhận định khi bàn thảo với tôi hôm nào về cuộc chiến, đã diễn tiến và xảy ra đúng như ông dự đoán. Có điều thời gian và mức độ bi đát thì vượt quá xa, so với ước tính của cả hai cha con tôi, và có lẽ của tất cả mọi người, ngay cả những ông có quyền hành cao nhất nước. Ngày 11 tháng 3/75 mất Ban Mê Thuột, kéo theo hai cuộc di tản tệ hại, kinh hoàng từ Pleiku và từ Vùng 1. Không ai ngờ là thành phố Nha Trang yên bình thơ mộng của tôi bị mất về tay CS chỉ đúng 20 ngày sau Ban Mê Thuột. Và mặc dù với tài năng của Tướng Lê Minh Đảo và các đơn vị tại tuyến Long Khánh đã can trường, thiện chiến, ngăn chặn quân CS từ phương Bắc tràn vào, và lực lượng ta phải 1 chống 10 hay 100, nên cũng chỉ cầm chân được hơn mười ngày. Mười ngày làm ngạc nhiên cả Quốc Hội Hoa Kỳ và gây sự thán phục cho cả thế giới, nhưng cuối cùng miền Nam cũng đành thất thủ.

Cái kết thúc bi thảm mà trước đó cha tôi và tôi đã mất một buổi bàn thảo, nhưng không ngờ lại bi thảm đến như thế. Mỹ đã bỏ rơi một đồng minh mà không có bất cứ một giải pháp nào. Một kết thúc không còn có chút tình nghĩa, lương tri, và tận cùng thê thảm.


Tôi theo đơn vị từ Cao nguyên Vùng 2 “di tản chiến thuật”về tận miền Nam, Vùng 3 xa lạ để chống đỡ bảo vệ vòng đai Sài Gòn. Khi cha tôi bị địch bắt giam ở một hòn đảo ngoài khơi miền Trung, gần quê tôi, thì tôi đang cùng đơn vị chiến đấu trong cô đơn ở tận Long An, Cần Giuộc. Tôi bàng hoàng khi nghe một người bạn cùng quê thoát được vào Sài Gòn kể cho tôi nghe chuyên CS chiếm quê tôi và bắt cha tôi. Khi ông Dương Văn Minh tuyên bố “đầu hàng”, đơn vị tôi vẫn còn đang nổ súng và một số xác đồng đội chết giờ thứ 25 phải lấp vội trong vườn nhà dân. Đơn vị tôi tập họp lại lần cuối cùng, ra lệnh phá hủy tất cả vũ khí, rồi thuê mấy chiếc xe đò chở qua cầu chữ Y, ôm nhau từ biệt. Tôi nghiệp, mấy anh tài xế chí tình với lính, không nhận lấy đồng bạc nào, nhìn chúng tôi rưng rưng nước mắt.


Mấy người bạn của tôi ở Sài Gòn đã kiếm được ghe, rủ tôi cùng đi vượt biển. Bạn tôi bảo bây giờ vẫn còn nhiều cơ hội và hạm đội Mỹ hay Hải Quân VNCH còn đợi ở ngoài khơi. Lòng dạ tôi đang rối bời, ngổn ngang trăm mối, với một nỗi chán chường khủng khiếp. Biết là ở lại với bọn cộng sản man rợ này sẽ là một địa ngục trần gian, nhưng nghĩ còn có biết bao nhiêu người cùng số phận như mình, và đặc biệt nghĩ tới cha tôi, cả một đời gà trống nuôi con, từ lúc mẹ tôi vĩnh viễn lìa xa khi tôi mới tròn ba tuổi, tôi không thể đành lòng bỏ ông, khi ông đang bị giặc cầm tù, không biết sống chết ra sao. Tôi buộc ra trình diện, lấy giấy chứng nhận, như một tờ thông hành để tìm mọi cách trở về quê.


Quê tôi bị “giải phóng” mới hơn một tháng mà sao đã trở nên lạ lẫm, điêu tàn. Tôi không còn tìm được nụ cười nào trên môi của những người thân quen cũ. Ngôi nhà của cha tôi đã bị tịch thu, giờ là Hợp Tác Xã Mua Bán (?). Tôi về nhà ông bà nội, vắng tanh, bà cô út đang cuốc đất trồng sắn ở phía sau nhà. Cô tôi đưa tôi vào nhà thờ tự để thắp nhang lạy ông bà. Cô tôi cho biết có xuống ủy ban quân quản xin giấy đi thăm cha tôi đang bị giam trong trại tù “cải tạo” Đá Bàn, nhưng họ không cho, bảo phải chờ có thông cáo.

Điều làm tôi hết sức bất ngờ, khi nghe cô út tôi kể là ông chồng trước của cô bốn Thọ, cha con Thi, vẫn đang còn sống, là một cán bộ cao cấp của cộng sản, mới từ miền Bắc trở về. Ông đi tập kết từ năm 1954, trước khi sắp xếp cho vợ con ông rời khỏi vùng tập kết Liên Khu 5 để trở về sống ở quê này. Bây giờ ông nắm giữ một chức gì lớn lắm trong chính quyển của tỉnh. Tôi bàng hoàng hơn khi nghe cô tôi kể về cái chết bí ẩn của chú Khanh, cha thằng Vũ, và cũng là chồng sau này của cô bốn Thọ. Khi nghe tin ông chồng cũ trở về, giờ là một người cộng sản có chức quyền, bà Thọ nghĩ là ông ta đã biết hết mọi điều, nên đã cùng hai cô con gái năn nỉ để chú Khanh được đến tạ lỗi, rồi xin tùy ông quyết định. Ông ta tỏ ra thản nhiên, nói cười vui vẻ. Chú Khanh đến khẩn khoản van xin ông ta tha lỗi, vì cứ tưởng là ông đã chết, nên mới gá nghĩa với bà Thọ để hôm sớm có nhau, cùng nuôi con khôn lớn. Giờ ông đã về, xin được trả vợ lại cho ông, rồi dọn nhà đi nơi khác. Hôm ấy, nhiều người bà con trong xóm tò mò đến xem. Ông “cách mạng” vui vẻ bắt tay và còn cám ơn chú Khanh đã thay ông chăm sóc vợ con ông bao nhiêu năm qua, giờ thì hai người cứ xem nhau là bạn. Ai nấy đều khen ông “cách mạng”, đã hành xử theo kẻ trượng phu. Nhưng chỉ sau đó một tuần thì người ta tìm thấy xác chú Khanh nằm trên bờ biển vắng, hai tay bị trói ra đằng sau, và trên đầu có nhiều lỗ đạn.


Bỗng dưng tôi nghĩ đến Vũ và Thi. Cô tôi bảo thằng Vũ thì không ai biết ở đâu, chết hay còn sống, còn con Thi thì nhờ có cha làm lớn, nên được làm hiệu trưởng trường huyện kiêm chủ tịch mặt trận gì đó. Lòng tôi bỗng dưng thắt lại, nghĩ đến những nụ cười, giọng nói của Thi trong lần gặp gỡ cuối cùng, tôi thấy có gì bẽ bàng, chua xót. Cô tôi gợi ý nên tìm gặp Thi để nhờ nó giúp can thiệp cho tôi được thăm ba tôi. Tôi chỉ im lặng, lắc đầu.

Và đúng như ước đoán của cô tôi, khi trải qua một quãng đường núi khó khăn, tôi đến được trại tù Đá Bàn, là một mật khu của cộng sản lúc xưa, xin được gặp cha tôi, tay cán bộ “trực ban”hỏi căn cước và giấy giới thiệu của chính quyền địạ phương, tôi chìa ra tờ giấy duy nhất, bản chứng nhận “Trình diện Chính quyền Cách mạng” của UB Quân Quản Sài gòn, và trình bày mong muốn được gặp cha trước khi đi “học tập cải tạo”, nhưng vẫn bị hắn hằn học chối từ và còn đe dọa, bảo tôi phải trở về Sài Gòn ngay, vì không có giấy đi đường.


Hơn một năm sau, ba tôi đã chết trong nhà tù này khi tôi đang bị lưu đày ở một trại tù khác tận vùng Lào Cai, Việt Bắc. Nhưng mãi đến năm năm sau tôi mới nhận được tin buồn, nhờ suy đoán từ những dòng thư của cô tôi viết, mà chỉ duy nhất có mình tôi hiểu được.

Hơn tám năm bị đày đọa khốn cùng qua nhiều trại tù từ Nam ra Bắc, tôi được thả về với thân xác tàn tạ tả tơi. Cuối cùng rồi tôi cũng trở về trong vòng tay đùm bọc của cô tôi, như những ngày tôi còn tấm bé. Cô vẫn không lấy chồng, ở vậy lo nuôi mấy ông anh phải ở trong tù và nhìn trò đời đổi thay dâu biển, chẳng biết sẽ về đâu. Có điều bây giờ cô đã già, mắt cô đã mờ qua bao lần phải khóc cho anh em, con cháu và cho cả dòng tộc đông đúc ngày xưa, giờ khốn khổ, tan tác mỗi người mỗi ngả. Tối nào, cô tôi cũng đóng kín cửa, kể chuyện đổi đời cho tôi nghe, trong ràn rụa nước mắt.

Cô bốn Thọ, mẹ của Thi, sau khi ông Khanh bị giết một thời gian, người ta phát hiện bà nằm chết trong cái miếu hoang, cách nhà không xa mấy. Họ bảo là bà tự tử. Không bao lâu, ông chồng bà mang vợ con từ miền Bắc vào ở ngôi nhà của bà Thọ, sau này bán đi, dọn về thành phố. Con Thi móc nối một nhóm du kích, tổ chức vượt biên cùng vợ chồng em nó. Nghe nói trong chuyến đi ấy có cả thằng Vũ, nhưng không biết vì sao nó đang ở tù mà ra được. Chuyến đi thành công, vì có cả một toán du kích mang theo đầy đủ súng ống, trong đó đa số là đám trẻ bà con của bọn tôi ngày trước, không vào thành phố học, được Thi tìm cách  đưa vào làm du kích xã.

***

Năm 1987, sau gần hai năm vượt biển và được định cư ở Bắc Âu, nhân dịp được nghỉ một tuần mùa Đông lại đúng vào dịp Tết âm lịch, tôi cùng vợ và mấy đứa con lái xe sang Tây Đức thăm gia đình cô em, con bà cô. Vì cả cha mẹ mất sớm nên cô em này sống với cha tôi từ khi còn nhỏ. Sau này làm việc trong một cơ quan Mỹ nên cô quen biết và lấy chồng người Mỹ, một sĩ quan Không quân. Cô theo chồng về Mỹ từ năm 1971, và lúc này cả hai vợ chồng đều sang làm việc cho Khối NATO có căn cứ tại Tây Đức.


Ngày Thứ Bảy, mồng hai Tết, vợ chồng cô em rủ bọn tôi đến một thành phố gần đó, có khá nhiều người Việt sinh sống, và hàng năm họ đều có tổ chức hội Tết. Đây là một thành phố cổ nhưng khá sầm uất. Vì mùa Đông nên hội Tết được tổ chức trong một trường trung học. Chúng tôi rất cảm động khi nhìn thấy lá cở vàng ba sọc đỏ treo khắp nơi và những thiếu nữ xinh xắn trong tà áo dài truyền thống. Có khá nhiều gian hàng vui chơi và cả sân khấu văn nghệ nữa. Khi đang háo hức chờ đến phiên ca sĩ Kim Loan xuất hiện, người ca sĩ nổi tiếng một thời không chỉ vì tiếng hát mà với bao giai thoại, bỗng tôi nghe văng vẳng một giọng hô lô-tô từ một gian hàng khác. Ngay từ nhỏ, tôi đã không thích trò chơi lô-tô này lắm, nhưng cái giọng hô nhịp nhàng của ai đó dường như có gì thôi thúc, nhớ lại những cái Tết ngày xưa. Tôi bảo cô em và vợ tôi chờ xem ca nhạc, tôi cần ra ngoài một lát. Giọng hô càng lúc càng gần hơn, rõ hơn, làm lòng tôi thấy nôn nao kỳ lạ. Khi đến nơi, tôi bàng hoàng đến choáng váng, khi nhận ra người đàn ông trẻ đang đứng trên chiếc bục gỗ hô lô-tô chính là thằng Vũ. Điều tôi không bao giờ nghĩ tới, cho dù chỉ là một giấc mơ. Không kiềm chế được, tôi vẫy tay gọi lớn: Vũ, Vũ!


Vũ khựng lại, chưa nhận ra tôi, có lẽ vì quá bất ngờ. Nhưng rồi nó ngưng hô, gọi một người khác thay cho nó. Vừa nhảy xuống nó nhận ra tôi, cả hai đứa tròn vo đôi mắt, nó ôm tôi quay mấy vòng. Vũ bảo tôi đứng chờ nó chạy đi dắt vợ con nó tới chào tôi. Nó trở lại, dẫn theo một người con gái và hai đứa nhỏ.

 Tôi buột miệng:

-Là Thi, Thi Bình Định đây à?

Thi ôm chầm lấy tôi, im lặng. Tôi nghe tiếng sụt sùi.

Hai đứa con còn nhỏ, một trai một gái, trố mắt nhìn bọn tôi. Tôi cúi xuống nắm bàn tay hai đứa. Nghe Thi bảo “chào cậu đi con”, cả hai đứa đều lễ phép vòng tay, chào tôi bằng tiếng Việt. Đứa con gái có khuôn mặt giống Thi ngày trước. Vũ bảo là vợ chồng vừa mới mở cái quán ăn nên khá bận rộn, nhưng vì giúp cộng đồng tổ chức Tết gây quỹ Thương Phế Binh, nên tình nguyện phụ trách hai gian hàng: Thi thì lo trò chơi, còn Vũ thì hô lô-tô.

 Nhớ tới hội Tết ngày xưa, tôi đùa:

– Còn thiếu mái đình làng để tao còn đọc sớ táo quân nữa chứ.

Cả ba cùng cười trong niềm vui lẫn xúc động.

Tôi đưa vợ chồng Vũ Thi đến giới thiệu vợ con tôi và vợ chồng cô em. Cô em tôi còn nhận ra Thi. Ai nấy đều ngạc nhiên. Không ngờ ở một nơi rất xa lạ tình cờ lại gặp được cố tri. Vì hai vợ chồng đang bận, nên hẹn ngày mai sẽ đến thăm chúng tôi và còn có biết bao nhiêu điều để nói. Tôi cho địa chỉ nhà và số điện thoại của cô em, nhắc lại, nhất định phải dành cả ngày mai để tâm tình và mừng cho cuộc trùng phùng.


Và chúng tôi đã có trọn một ngày thật vui và cũng thật cảm động. Thi ngồi kể lại chuyện người cha mà Thi từng tin rằng đã chết, rồi bỗng dưng trở về như một người xa lạ. Chi ghê tởm ông từ khi hiểu được cái chết đột ngột và ghê rợn của bác Khanh, cha của Vũ, và của chính bà Thọ, mẹ mình. Thi đã sớm nhận ra tính vô cảm tàn độc và quỷ quyệt của những người cộng sản, nhưng phải giả vờ dựa vào ông để có thể cứu Vũ và tìm cho chính mình lối thoát. Thi đã giới thiệu mấy đứa trong đám bạn ngày xưa vào làm du kích xã, để âm thầm giúp bà con, nhất là những người trong quân đội hay chính quyền ngày trước. Chính Thi và nhóm bạn xưa đã hiệp lực tìm kế giúp Vũ và một người bạn khác trốn khỏi trại tù A-30, cấp đồng phục, tiền bạc và thẻ “cán bộ thị trường” giả để dễ dàng lẫn trốn trong thành phố, và tìm cách tổ chức vượt biên. Nhờ uy quyền của ông cha, nên những tay công an địa phương không hề nghi ngờ cũng như không dám kiểm soát những người cùng đi với Thi. Được tàu Cap Anamur vớt trên biển, nên hầu hết được định cư ở Tây Đức, quanh quẩn vùng này, không cách xa nhau mấy.


Chúng tôi ngồi ôn lại bao nhiêu chuyện cũ, nhắc lại những cái Tết hạnh phúc vui vẻ ngày xưa, khi cả đám bọn tôi còn vô tư, hồn nhiên, chưa hề nghĩ tới những thay đổi đau đớn trong cuộc đời. Vợ chồng Vũ Thi cáo từ và hẹn gặp lại ngày mai, sẽ đóng cửa tiệm, ăn Tết thêm một ngày nữa, gọi mấy thằng bạn nối khố và vợ chồng Hải Tứ từ các thành phố khác về tập trung họp mặt ở nhà vợ chồng nó. Chắc mọi người sẽ trẻ ra khi cùng sống lại cái không khí Tết thanh bình của mấy mươi năm về trước. Cái thời mà cả Đất Trời và mọi người ai nấy cũng dễ thương.


Phạm Tín An Ninh



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/Jan/2022 lúc 12:11pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22139
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Jan/2022 lúc 3:34pm

Những Cái Tên Không Thể Quên !


Trace%20old%20friend.%20We%20love%20tracing%20old%20friends%20for%20people%20just%20like%20you.

Lá thư bạn tôi đang trên màn hình comp trước mặt . Nó ở đó đã 2 tiếng đồng hồ rồi , vậy mà tôi vẫn chưa biết phải bắt đầu viết từ đâu để mở màn cho câu chuyện .

Mới 2 ngày trước , anh gọi cho tôi :

- Tao thèm ...bạn quá , mày ơi!

Tôi trả lời :

- Thì ghé tao đi ! Bà xã tao đang ở VN , tao cũng đang một mình . Đến đây làm vài lon để sưởi ấm tấm thân già .

Chúng tôi chỉ 2 đứa , mà chuyện kể cứ triền miên , kéo dài từ năm giờ rưởi chiều mãi đến gần mười một giờ đêm . Anh tâm sự :

- Tao muốn mày kể cho bạn bè mình nghe những kỷ niệm không bao giờ quên của tao để tô thắm thêm một thời Bất Khuất luôn ấp ủ trong tao suốt 40 năm qua .

- Ừ ! Tao sẽ cố làm , được đến đâu , hay đến đấy .Vì mỗi đứa gánh vác trách nhiệm mỗi Quân Khu khác nhau , tao vùng 4 , còn mày cao nguyên gió hú , nên không chắc tao theo được ý mày muốn nói .

Sau vài lon Budweiser , men bia dẫn chúng tôi về với kỷ niệm . Không cần dấu cảm xúc , anh bắt đầu kể.....

Những Cái Tên Không Thể Quên !

Túi quân trang to đùng trên vai không làm tôi cảm thấy nặng nhọc sau một năm trời miệt mài trên thao trường thấm đượm mồ hôi tuổi trẻ . Thời điểm này là những ngày giữa tháng 11 năm 73 , tôi hiên ngang bước vào cổng trại tiếp nhận , địa danh của nó có tên gọi là đồi Đức Mẹ nằm ngay ngã ba Đắc Đo trên quốc lộ 14 .

Tôi thoáng thấy một vài cái quai chảo sáng bóng mang bảng tên màu xanh chữ đỏ . Đó là dấu hiệu nhận bạn , mặc dù có những gương mặt tôi chưa gặp bao giờ . Bảng xanh chữ đỏ là dấu hiệu duy nhất mang chúng tôi xích lại gần nhau , tạo nên thân tình gắn bó như đã có tự bao giờ .

Chúng tôi vui mừng chào nhau , vây quanh lại giới thiệu tên mình , những anh sĩ quan Sữa vừa gia nhập Sư Đoàn 23 anh dũng , kiên cường .
Tôi : Nguyễn Hùng Điện 32 , vẫn còn nhớ như in những nét mặt bở ngở đầu đời . Tên của các anh là Bùi Quốc Tuấn 34 , Mai Bá Tòng 35 , Hoàng Bá Thông 32 , Nguyễn Văn Điện 34 , Hồ Mai 34, Vũ Hồng An 32 , Nguyễn Thanh Sơn 32 ... Chúng tôi chờ tập trung đầy đủ để về trình diện Sư Đoàn .

Từ khắp mọi miền đất nước , đây là lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy cao nguyên bạt ngàn cây xanh và đá sỏi . Có những địa danh dù muốn dù không cũng đã đi vào lịch sử , những Chư Pao với câu thơ nhuộm đầy nước mắt :

Chư Pao ai oán ,hờn trong gió ,
Một tấc khăn tang , một tấc đường .

những trường trung học Pleime & Minh Đức với áo dài sáng trắng sân trường , những Hàm Rồng gió cát mịt mù , những Pleiku với buổi chiều quanh năm mùa đông . Cao nguyên còn có những đôi vú trần trụi của những cô gái Thượng làm lạ lẫm và gợi trí tò mò những chàng trẻ tuổi .

Chúng tôi là khách thường xuyên của quán cơm xã hội Pleiku với những bửa cơm cá kho , dưa muối đạm bạc vì đồng lương ít ỏi ban đầu , lại chưa được chuyển về đơn vị mới . Tôi chưa quên cô gái trẻ ở quán khi mang cơm ra cho chúng tôi , cô thường làm bộ rủ rê :

- Có anh nào muốn về nhà em ăn không ?

Bọn tôi cũng thích lang thang trên phố sau buổi cơm chiều , để được đón nhận những ánh mắt làm quen của những nàng tiên nhỏ áo trắng đang trên đường tan học về nhà . Có không ít cô bạo miệng :

- Này anh quan Sữa kia ơi ! Đã có người yêu chưa ? Trái tim anh có còn ngăn nào trống dành cho em không ?

Trời ạ ! Lần đầu bước chân ra đời thật , bọn tôi chỉ là những chàng nhóc nhút nhát , e dè , bị các cô tiên nhỏ chòng ghẹo như thế , mà chỉ biết đỏ mặt tía tai . Đi ngang rạp Diệp Kính , tôi thầm nghĩ sẽ có một ngày , tôi đưa được một em nào đó vào trong ấy xem phim .

Chúng tôi sắp bước vào khúc quanh mới của cuộc đời , ở đó , một dấn thân bi tráng , hào hùng được đánh đổi bằng máu , nước mắt và ngay cả chính mạng sống của mình . Những người lính của tôi , những mảnh đời tôi nắm vận mạng trong tay , họ là những chiến sĩ dạn dày mà chắc chắn đa số trong họ không trẻ hơn chúng tôi , khói lửa chiến tranh tạo cho họ nét bậm trợn , dữ dằn . Lần đầu tiên về với họ , tôi lừng khừng không biết mình có đủ tài để lèo lái họ theo quân phong , quân kỹ mình đã nằm lòng . Thế nhưng , tình thầy trò đã gắn bó từng bước hình thành , dắt dìu sống chết bên nhau . Họ chấp nhận nằm xuống để đồng đội vươn lên mà sống .

Để dành cho được chiến thắng , những người bạn của tôi đã vĩnh viễn nằm xuống , gửi thân xác hòa tan vào lòng quê hương , vào mảnh đất cao nguyên trùng điệp chất chứa nhọc nhằn day dứt đến tận bây giờ .

Tuổi trẻ dấn thân bảo vệ tự do , mong muốn giữ vững quê hương đẹp tươi , phồn thịnh . Tuổi trẻ nằm gai , nếm mật để bảo vệ từng tấc đất , từng ngọn đồi . Tuổi trẻ đổ máu , phơi xương để hát lên thiên anh hùng ca giữ nước .

Những trận đánh hào hùng đã cướp đi những người bạn tôi . Tôi cúi chào đưa tiễn bạn . Mong bạn tin rằng tôi luôn thắp nén nhang lòng cầu mong các bạn bình yên . Bạn tôi , những Hồ Mai , Hoàng Bá Thông , Bùi Quốc Tuấn , Nguyễn Văn Điện . Ở bên kia thế giới hiển linh , xin các bạn phù hộ cho đất nước thoát khỏi tai ương từ loài quỷ đỏ...

Để làm giảm đi những nhọc nhằn , có dịp , tôi thường mượn hơi men để ve vuốt tinh thần . Trong một cuộc nhậu buồn đưa tiễn một người bạn vừa nằm xuống , cậu trung sĩ trợ y của đơn vị trao tôi cái hộp quẹt Zippo nói :

- Tặng ông Thầy làm kỷ niệm những ngày chúng ta phục vụ bên nhau .

Tôi đưa cái Zippo lên ngắm . Trên vỏ hộp khắc rõ câu thơ :

Áo trắng ngày xưa còn đi học ,
Ta nhớ thương em suốt cuộc đời .

Tôi nhìn cậu y tá , rồi ứa nước mắt thay cho lời cảm ơn đáp trả .

Tuổi trẻ đã từ bỏ nhiều thứ để dấn thân cầu mong làm nên chuyện lớn . Trong những thứ tôi phải bỏ lại sau lưng ,có mối tình học trò đẹp như thơ của tôi và nàng . Chúng tôi trân trọng biết bao những trắng trong , thuần khiết mà chúng tôi từng gìn giữ cho nhau . Đêm nay , ngồi giữa nơi đèo heo hút gió này , làm sao tôi quên được lời em nói :

- Hãy cho em nằm lại trong tim anh , dù chỉ một góc nhỏ nhoi , tầm thường . Em luôn cầu mong cho anh và các bạn được an lành .

Tôi bật khóc vì nhớ em nhiều hơn lòng tử tế của cậu y tá .
...
40 năm trôi qua , nhưng thời gian vẫn chưa đủ dài để tôi có thể quên những ngày đầu chập chững vào đời . Tôi không thể quên những người bạn đã nằm lại trên cao nguyên . Tôi không thể quên những tốt đẹp mà chúng tôi chưa thể hoàn thành . Tôi mong muốn sẽ có một lớp trẻ khác mạnh dạn đứng lên nối tiếp bước chân chúng tôi để đốt sáng ngọn lửa đấu tranh dành lại tự do .

Hôm qua , trên đường về nhà , tôi tình cờ lắng nghe tiếng hát Anh Dũng văng vẳng :

Phố núi cao , phố núi đầy sương .
Phố sá không xa , nên phố tình thân .
Đi dăm phút , đã về chốn cũ .
Một buổi chiều nào , lòng bỗng bâng khuâng...

Tôi da diết nhớ đến một thời... Tôi bỗng thấy tiếc không có cơ may để trở về họp bạn nhân ngày Hội Ngộ 40 Năm . Tôi bỗng thèm gặp lại vài gương mặt thân quen còn sót lại sau cuộc chiến .

Vũ Hồng An ơi ! Mai Bá Tòng ơi ! Mã Mậu ơi !
Hãy thông cảm cho tao lần lỡ hẹn này .
Tao xin hứa , mình sẽ gặp nhau hai năm tới , bạn nhé !
Xin gửi các bạn lời chào thân ái !


Bây giờ , mời các bạn xem nguyên văn lá thư anh ấy viết cho tôi .
Anh ấy là Nguyễn Hùng Điện 32 , người có nickname thật kinh hoàng : Điện Lù .

Mầy xỉn, tao thì say quá , giờ nầy vẫn con thấy hơi mệt , nhưng cố gắng cung cấp thêm chi tiết để mầy hoàn thành bài viết cho BK.

Tao nhớ đâu vào khoảng trung tuần tháng 11/73 tức vào khoảng hơn 2 tuần sau ngày mãn khóa, tao vác túi sắc-ma-ren ra trình diện nơi tiếp nhận các chuẩn uý sữa về sư doàn 23BB , nơi tiếp nhận là đồi đức mẹ nằm ờ ngã ba đắc-đo trên QL14 , hứơng về KonTum ngựơc lại vài ba cây số là thành fố Pleiku ngã kia thì đi ngang biển hồ. Ngày đó trên chiếc C130 đáp xuống phi trường cù-hanh vào khỏang 2 hay 3 giờ chiều , có 4,5 thằng bảng tên chữ đỏ trên nền xanh, lạ quắc chưa quen bao giờ, thằng nào cũng đầu tóc húi cao, cũng túi sắc-ra-men, lon chuẩn-úy trên vai mới toanh, nhưng mà tay bắt mặt mừng hỏi nhau "mầy về 23 hả?", "có bà con hay người quen gì ở đây không?", cả bọn đều giống nhau , vì cùng ở vùng trong ra và đây là thành phố cao nguyên đầu tiên cả bọn đặt chân đến. Cảm giác đầu tiên là vùng cao nguyên cũng đẹp lắm, vẻ đẹp của núi rừng. Từphi trường cù hanh nhìn về thành phố Pleiku xa xa phiá dưới , bao quanh là màu xanh của đồi núi , mây mù , làm chợt nhớ tới bài hát "phố núi cao, phố núi đầy vơi, ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông...", tự nhiên trong 1 thoáng lúc đó thấy lòng mình lâng lâng , tâm trạng giống như là 1 lãng tử chiều nay dừng bước giang hồ nơi phố núi nầy. Từ chổ chưa quen, vậy mà chỉ có cái bảng tên khóa, cả bọn tự nhiên gắn bó vơi nhau như là đã biết nhau lâu lắm rồi. Vậy là cả bọn cùng nhau đón xe lam về thành phố. Việc đầu tiên là muướn phòng ngủ và tắm nước nóng , lần đầu tiên tắm nước nóng công nhận đã thiệt. Pleiku về đêm chỉ thấy đông đảo ở con đường chính với 3 rạp cine , mà rạp Diệp kính là lớn nhất , còn những con đường khác trong thành phố thì buồn thiu, lính tráng cũng nhiều. Thành phố cũng nhỏ thôi , đi vòng vo 1 hồi cũng quay về chỗ cũ. 4,5 thằng dạo chơi thành phố vài ngày ăn cơm của ty xã hội để tiết kiệm tiền vì không biết giờ nào mới có lương , và quyết định cùng nhau về trình diện tại đồi đức mẹ. 4.5 thằng là tao (Điện nam kỳ), Bùi quốc Tuấn 34 , Mai bá Tòng 35 , Hoàng bá Thường 32, tại đây lần lượt vài em BK xuất hiện nữa Nguyễn văn Điện 34(Điện bắc kỳ) , Hồ Mai 34, Vũ hồng An 32 ,Nguyễn thanh Sơn 32. Cần nói thêm là tại nơi đây (trong khi chờ đủ số khoảng mười mấy mạng, sẽ có chuyến xe chở về giao cho bộ tư lệnh tiền phương đóng tại KonTum. Tụi tao được phát gạo sấy , thịt heo hộp , thế là cái ăn cũng tạm ổn) lần đầu tiên được nhìn thấy vú mấy em thượng , số là bên kia con đường trước cổng trại có mấy đám ruộng ngày nào cũng có 1 tốp người thượng ra làm , họ chỉ mặc khố , riêng phụ nữ và con gái chỉ quấn 1 miếng vải che phần bên dưới, còn từ rốn trở lên thì không có gì cả, trong nắng bình minh của miền cao nguyen và buổi chiều với sương mờ lãng đảng được nhìn ngắm các em thiếu nữ thựơng ôi thật là quá đã. Khỏang 1 tuần, thì vào buổi sáng đươc thông báo tất cả chuẩn bị lên GMC về Kontum trình diện sư đoàn, mới đầu thì 2 bên đừơng rất nhiều hoa dại màu tím vàng đong đưa trong làn gío se se lạnh cố hữu của vùng cao nguyên, lúc đó tao thấy mình lâng lâng và háo hức vì biết rằng sẽ đựơc biết thêm 1 thành phố mới nữa, 1 thành phố kiêu hùng trong trận chiến mùa hè 72, rồi thì xe qua chư-pao 2 bên đừơng là núi song song, nơi đây cũng nổi tiếng với 2 câu thơ "chưpao ai oán hờn trong gió, 1 tấc khăn tang 1 tấc đường". Xe bắt đầu qua cầu Đăkbla tiến vào thị xã KonTum, chạy chừng 10 phút vô thành Đak pha , đây là BTL tiền phương sư đoàn 23. Trong Khoảng 10 ngày ở đây , được nghe về cách tổ chức của sđ, vùng trách nhiệm hoạt động, đựơc đi trực thăng quan sát , trưa chiều thì cơm nhà bàn , rảnh thì bung ra fố đi lên đi xuống hoặc lượn vòng gần trường trung học Hoàng Đạo để được nhìn thấy những tà aó trắng mà nhớ về 1 thuở còn đi học.  Tới ngày chọn đơn vị mấy đứa về 53 , mấy đứa về 45 , riêng tao , Điện bắc kỳ , Bùi quốc Tuấn , Mai bá Tòng về 44 , Nguyễn thanh Sơn ra trinh sát 44. Bắc đầu từ đây khóa mình laị chia tay mỗi thằng về mỗi vùng khác nhau khó mà gặp lại tuy là cùng chung sđ. Chia tay lúc đó có thằng mãi mãi không găp lại như Hồ Mai , Hoàng bá Thường , biết được Vũ Hồng An còn sống thọ rất mừng, dự định là đại hội kỳ nầy gặp lại sẽ cùng nhau không say không phải BK 23 , nhìn hình nó , Long tra , Tòng rờ mu . Hình 3 con ó đáng lẽ là 4 vì không có tao, thấy tiếc nuối làm sao thôi thì hẹn nhau kỳ đại hội tới. Nói với Long Trà chuyện BK kỳ nầy mầy viết hay lắm nhưng thêm phần luyến tiếc cũng như nổi thống khổ của 1 BK như tao không về tham dự được, thì tao nghĩ chuyện BK mầy viết sẽ là thật tuyệt vời. Mầy có muốn tiếp phần của riêng những BK trung đoàn 44 trong đó có tao , Mai bá Tòng, Bùi quốc Tuấn , Nguyễ văn Điện , Nguyễn Thanh Sơn , hiện giờ chỉ còn tao, Mai bá Tòng, còn lại đều đã hy sinh sau đó chỉ vài tháng , tiếp theo khỏang ngày 14 hay 15/1975 cái đêm trước trờ sáng chờ trực thăng vận cả trung đoàn về giải vây BAN MÊ THUỘT tao và mấy thằng lính ngồi uống bia trong khu gia binh tại hàm-rồng , trong men bia mà biết rằng ngày mai sẽ lên đường vào 1 trận chiến chắc chắn là tàn khốc và dữ dội chưa biết ai còn ai mất , nhớ tới thằng Bùi quốc Tuấn rồi đọc được 2 câu thơ khắc trên hộp quẹt zippo "Aó trắng ngày xưa còn đi học , Ta nhớ thương em suốt cuộc đời" mà thấy lòng rưng rưng, và thương quá bóng người aó trắng ở phương trời xa , vẩn ngày ngày căp sách tới trường sư phạm trong khung trời chắc là yên bình hơn ở nơi đây. Thư em viết "T. rất là cảm động trước tấm chân tình to lớn mà anh đã dành cho, T. chỉ mong đựơc chiếm 1 góc nhỏ nhoi khiêm nhượng nào đó trong tim anh mà thôi , ở nơi đây T. luôn cầu mong cho anh và các bạn luôn được bình an" Tao hỏi mầy đang chếch choáng say , không mũi lòng sao được.


st.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22139
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Jan/2022 lúc 11:17am

622- LK- Ly Ca Phe cuoi cung - HD      <<<<<


Ly%20Cà%20Phê%20Cuối%20Cùng%20_%20Duy%20Trường%20-Thanh%20Phong%20_Tường%20Nguyên%20-Tường%20Khuê%20-%20%20YouTube


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Jan/2022 lúc 11:19am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22139
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Feb/2022 lúc 9:36am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22139
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Feb/2022 lúc 11:52am

Mùa Xuân Lọt Qua Kẻ Hở

tu%20cai%20tao%20|%20Thanh%20Thúy



Minh đứng xớ rớ trong trạng thái thừa thãi, hết rờ cằm, nhổ râu lại cho tay vô túi, không biết mình đang làm gì. Từ khi hồng thủy ngập tràn, mọi người bỗng trở thành nhỏ nhoi, ngơ ngác. Trước con bịnh, tình trạng càng bi thảm hơn, đôi tay ngắn lại, thừa mứa, vô ích theo sự vắng mặt của dụng cụ, thuốc men, chỉ đứng đó, nhìn ngó, ước vọng. Những con mắt bi thiết, lo sợ, những tiếng thở dài sườn sượt như chấp nhận sự bất lực, nép mình lại nhũng nhặng van vái cầu xin sự mầu nhiệm, trạng thái chịu thua thực trạng, hành động bó tay đầu hàng của người thái cổ trước thần linh, quỷ dữ. Một chai dầu Nhị Thiên Đường ai đó trân trọng giữ gìn phòng khi hữu sự được đưa ra, tấm ván mục nát mong manh được thảy đến với leo lét hi vọng kéo sinh mạng một đồng nghiệp, đồng cảnh trở về. Ánh mắt thương tâm đồng thời ẩn chứa niềm lo lắng bâng khuâng cho chính phận mình. Giữa đồng khô cỏ cháy, muỗi mòng bệnh tật có chừa ai? Rồi ra may đây rủi đâu? Trời kêu ai? Chuyện gì xảy ra trong những ngày sắp tới?

Cả trại hình như thức dậy hết. Giáo sư Diệm, người ít nói nhất, cái bóng trong những sinh hoạt, nhìn bao quát cảnh tượng rồi lắc đầu nói với người ngồi bên: ‘Tội nghiệp, mới hồi chiều anh ấy còn cười cười nói nói, khen mận ngon và mời tôi cùng ăn.’ Rồi ông chép miệng: ‘Trông nặng lắm… có bề nào…’ Câu nói bỏ lững với cái nhìn buồn thảm về phía bệnh nhân. Một cái chép miệng, vài cái gật đầu ừ hử không buồn lên tiếng của người nghe. Ngoài kia gió thổi lòn qua vách lá kêu vi vu ma gọi hồn. Khung cảnh tang thương áo não tới cùng cực.

Minh áy náy ngó hiện thân của sự sắp sửa thua bại trước Thần Chết. Mùi tử khí và hình ảnh Thần Vòng lảng vảng quanh quất. Nó nằm cong lên như con tôm sẳn sàng búng để nhảy tới, đầu gối gập vô ngực, tay chống xuống sạp tre, miệng gắng chỏ vô kẽ hở giữa hai thanh tre để ói xuống đất. Não nùng như đóa hoa rụng xuống đất lầy sau cơn mưa chịu trận những bước chân vô tình. Nó đang trên thổ dưới tả, toàn nước, một thứ nước thôi thối, tanh tanh với những lợn cợn nhỏ đen đen, giống như tô canh được rắc nhiều tiêu giờ đầy cặn đổ tràn trên sạp, nhớp nhúa, dơ dáy đến khó chịu. Mền của bệnh nhân được dùng đậy ơ hờ chỗ tháo mữa đó, mùi xú uế trùm phủ căn trại. Một vài người mê ngũ đằng đầu kia đã lục đục thức dậy sau vài cơn gió và tiếng xì xào của những người dễ động lòng. Thân thể T. đang báo hiệu từ chối sự sống. Mồ hôi vã ra như tắm. Trên trán từng chấm nhỏ đọng lại, lớn lần, gần nhau hơn, nối lại, rồi chảy xuống mũi, nhễu từng giọt một từ chóp mũi xuống sàn tre theo nhịp thở. Mắt T, đỏ rần vì dầu nóng, cái đỏ trong cái xanh, có vẻ gì đó rất ma quái, bệnh hoạn.

Minh chán nản, số phận nó như chỉ mành treo chuông. Đã ói đến mật xanh, nước vàng. Đã kiệt lực vì đang nằm gối đầu bên bờ vực thẳm phân cách sống-chết. Gần kề, đếm được từng giờ, từng phút, từ khi lửa hực rừng; cách này hay cách khác, rõ ràng hay không, sự xuất huyết não trầm kha của cả dân tộc.

Minh tìm chai dầu Song Thập trong túi đựng quần áo, anh đổ thật nhiều vào tay, nín thở thoa lên trán, lên màng tang, lên cổ T. hỏi giọng run run:

‘Bây giờ sao? Đỡ chưa?’

T. cố gắng gật đầu, vẫn không ngửng lên, những sợi tóc hất ngược về phía trước phủ kín trán, hơi thở vẫn hào hễn, mệt nhọc. Nó có đang tự hỏi tại sao mình đối đầu với Tử Thần vô lý như thế nầy? Nếu không có cái gọi là tuần lễ lao động xã hội chủ nghĩa vớ vẩn, nếu không có họ đến đây? Nhưng tất cả đã có, đã xảy ra. Sự thật khó tưởng đến ngơ ngác mọi người. Câu hỏi của mình cũng mang vẻ lơ láo như vậy. Làm sao nó trả lời được? Cơn bệnh không thể dễ dàng rút lui vì vài giọt dầu nóng chỉ có tính chất an ủi, chận chưn nỗi lo sợ hơn là chống chỏi lại bệnh trạng.

Lúc bốn giờ sáng, tên cán bộ hướng dẫn bước vào cùng với một người trung niên, tay xách hộp y tế và vài dụng cụ y khoa thong thường. Hắn vui vẻ nói lớn như để thông báo, hãnh diện vì đã làm được điều hay:

‘Có bác sĩ đây rồi, khỏi lo nữa.’

Bác sĩ hỏi qua về diễn biến căn bệnh, rồi lặng lẽ sửa soạn thuốc chích.

Vui mừng biểu lộ trên nát mặt, hy vọng long lanh trong khóe mắt mọi người. Ngại ngùng vì được đặt quá nhiều tin tưởng, viên bác sĩ nói, giọng buồn buồn, mở đường:

‘Mũi này chỉ là thuốc khỏe. Nông trường không còn thuốc dịch tả. Hết từ tháng trước. Báo cáo hai lần, y tế thành đều trả lời nhất trí, nhưng phải chờ, hiện giờ số lượng dành cho cán bộ cũng không còn, nếu còn tôi du di được. Tiếc quá!’ Rồi ông chép miệng: ‘Không biết chờ đến bao giờ. Mấy ngài ấy làm ăn tôi chẳng biết ra sao cả. Sáng mình dùng thuốc dân tộc xem sao! Nếu không xong nữa, phải chở về thành phố. Tháng trước tôi có một trường hợp tương tợ mà đành chịu! Cậu ấy rất khỏe mạnh. Dũng sĩ đào kênh, liên tiếp dẫn đầu con số vượt chỉ tiêu trong mấy tháng. Cái mã lạn ở gần bụi tre trên đường ra ao cá đấy…’

Ngừng một chút vì biết mình đã nói quá nhiều, ông trở về thực tế:

‘Trường hợp này hy vọng nhiều, vì mình phát hiện kịp thời. Nếu có chuyện gì ta có thể đưa về thành phố, mai có chuyến. Mỗi tuần ở đây chúng tôi có xe về thành phố hai ngày.’

Không muốn nghe thêm, Minh rời khung cảnh buồn bã của trại lững thững đi vào bóng đêm. Vậy đó, danh từ, lý do này nọ để phủi tay giao nạn nhân cho Tử Thần. Vậy đó, điều kiện làm việc của những người vắt đến tận cùng sức khỏe để xây dựng chế độ! Vậy đó, số phận của Giáo Sư Đại Học! Nửa dân tộc đã chịu đựng gần phần tư thế kỷ, nay cả nước đang trong cảnh trầm luân, quốc nạn kéo dẫn dân tộc đi xuống con đường dốc thẵm mịt mùng.

Gió lạnh của ngày giáp Tết đánh bật dậy lớp da gà trên tay Minh. Anh rùng mình kéo sát hai vạt áo mưa lại, cái áo mưa nhà binh Minh ưa mặc như áo ấm mỗi tối. Một cách vô ý thức, anh bước về phía đám rẫy cao, nơi có một thửa đất khô, cỏ xanh mịn như thảm nhung những buổi tối, trước giờ ngủ, cùng vài người bạn thân ra quây quần nhìn sao, chia từng điếu thuốc, kể chuyện phiếm và chửi lén chế độ. Đêm, trăng nhạt không sao, gió nhiều, trời đem sậm. Từ phía xa, mấy chùm cây trên nền không gian đen mấy mãng đậm âm u. Một con tắc kè đâu đó buông những tiếng kêu rã rời, đứt đoạn:

Tắc… tắc…kè…tắc… kè.

Anh lẩm bẩm: Còn mấy ngày nữa thì Tết rồi. Một năm nữa tủi nhục sắp qua.

Nghĩ đến Tết, anh bỗng ngao ngán. Tết thứ mấy của cuộc đổi thay ngược ngạo. Bạn bè mất mát hầu hết. Tản lạc. Đứa lang thang quê người, đứa ngậm hờn trong vòng kẽm gai tù ngục, đứa đổi phần cuộc đời trong những sinh hoạt vô bổ, chán mứa để sống còn. Và mình, trầm mình trong những suy tư câm nín, càng lúc càng héo úa như trái non chín nắng, nhăn nheo, co quắm. Thảm hại. Rồi đây nó sẽ ra sao? Thuốc trị không có, thuốc cầm cũng không, số mạng thuộc mấy chai dầu nóng lạnh nhức đầu.

Cầu tới bốn giờ chiều nó mới được chở về Sàigòn, biết còn kịp? Bệnh viện và cách làm ăn bây giờ đâu phải để dành nhau với Thần Chết tranh sự sống cho những người mang nhản Sàigòn như nó. Có gì bọn mình chỉ thiệt thòi, một người bạn nữa ra đi, thêm vào sự mất mát cũ, một sự tiếc thương đau xót cho thân phận mình. Kẻ thua trận, người bị trói trong bẫy sập mới thương người cùng cảnh, bọn chúng sẽ dửng dưng lãnh đạm. Mặt hồ đâu dễ xao động vì hạt bụi nhỏ. Một gợn sóng li ti lăn tăn còn chưa có nữa là!

Tiếng ếch nhái kêu rầu rĩ bốn bề khiến Minh bực bội hơn. Do thói quen, anh cho tay vào túi quần móc thuốc và hộp quẹt. Tay anh chạm cái Zippo lạnh ngắt T. đưa mồi thuốc hồi tối hôm qua.

‘… Của đào tặng đó, bao nhiêu năm rồi không động tới. Em nói ngọt lắm, không chấp hành nghiêm chỉnh không được. ‘Mỗi lần thèm thuốc, tìm quẹt, nhớ đến em, yêu em thì đừng nên dùng nó… để giữ gìn sức khỏe của em.’ Bây giờ thì sức khỏe của anh! Một điếu thuốc tiêu vạn cổ sầu mà! Em theo cha mẹ di tản từ dạo đó. Tin tức gì đâu. Mình ở lại chịu đựng đến nhàm chán mấy thằng ông trời con ‘thầy chạy’ nầy… chưa xách búa chém loạn xạ để bị bắn nát thây là may. Làm sao không hút được…?’

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi. Minh mỉm cười với mình. Tiếc quá, lúc đó cả bọn ngồi trong bóng tối, không quan sát được diễn biến trên mặt nó. Chắc buồn thảm não, người tình khuất bóng, người tình không trọn luôn là nguyên nhân của chán chường, tìm quên. Huống hồ loạn cảnh chung quanh thường xuyên đập vào tâm tư những nhát búa đau điếng.

Minh châm thuốc. Đắng nghét và cháy bùng thành lửa táp gần hết nửa điếu, diêm sinh hòa lẫn va-ni tạo một hỗn hợp mùi vị ngớ ngẩn, ‘Capstan lá vàng’ gì mà như hạch, thứ nào cũng như thứ nấy, không dỡm thì xì-cút, không thứ nào thiệt, chỉ là thay thế tạm bợ đánh lừa tri giác. Minh búng hai ngón tay, đốm lửa vạch cái vòng lưỡi hái đỏ hoạch trong không gian. Ánh lửa ma quái, màu lửa lưỡi hái tử thần. Màu máu chết chóc. Đêm tối xuống thật mau tới không ngờ. Sương lạnh ướt vai, côn trùng vẫn hòa âm điệu nhạc đêm thôn dã sáng tác từ muốn thuở trước. Minh lắng tai nghe. Anh phân tách từng tiếng nhái, tiếng ếch, tiếng ểnh ương. Anh tự đùa bằng cách để ý nhóm nào lớn hơn, nhóm nào nhỏ hơn, chỗ nào ứng trước, chỗ nào hòa theo. Lòng anh dịu lại dần, bộ mặt hốc hác của T. chạy biến khỏi tâm trí, anh hít thở đầy phổi, mùi sương khuya thấm mát lồng ngực, không gian bao la ôm chầm thân thiết, tình tứ…

Như có tiếng thì thầm đâu đó chen lẫn với tiếng côn trùng nỉ non. Minh vẫn ngồi im theo dõi mấy ngôi sao xa xa, nhấp nháy. Tiếng thở dồn dập quen thuộc cùng với tiếng trở mình xào xạc trên lá khô. Tiếng của tội lỗi, tiếng của xác thịt đam mê. Minh thở ra, đứng dậy, phủi mấy cọng cỏ phía sau quần, vuốt lại mái tóc đẫm sương khuya, bước xéo trở về phía khác. Tụi nhỏ! Bù gỡ nỗi thống khổ ban ngày! Anh tìm chỗ nằm dựa lưng vào gò mối, dưới chân vạt đất cao, nhìn đường viền của mô đất in một vòng cung đậm trên nền trời. Khung cảnh đẹp nên thơ, đánh bật những lo âu bực bội. Hình ảnh bạn bè dàu dàu trong trại một phút nào đó tan biến nhường thức-trường cho hiện-cảnh. Mùa xuân cảnh đẹp, sớm mơi nầy vừa gặp mấy nhánh mai rừng rực rỡ. Vạn mộc xuân vinh, Minh nhớ tiếp theo ý thơ của vị thiền tăng đời Lý… thu hựu khô.

Phải, không gì trường cửu, không gì bị hủy diệt mà không tái sinh, chúng ồn ào, mạnh mẻ, nhịp nhàng như vậy nhưng cơn lốc phản ứng của dân chúng một ngày kia sẽ bứng đi không để lại dấu vết. Xuân vinh, thu khô. Vật cùng tắc phản, lý đổi thay của cuộc đời, sự tuần hoàn của vũ trụ. Minh mỉm cười lạc quan: Đêm-ngày. Mưa-nắng. Chỉ có đều là lúc nầy đêm hơi dài. Ngày hè mưa lê thê. Nhưng mà cũng phải có lúc mặt trời hiện ra chứ!

Mắt anh chợt bắt gặp sự đổi thay đột ngột, vòng cung mô đất in trên nền trời không đứng yên mà hình như thay đổi.

Anh ngạc nhiên, trố mắt nhìn kỹ hơn. Không phải một mà hai, ba chỗ khác nhau, lay động nhịp nhàng ‘như nhịp thở giao động lớp da bụng con quái vật khổng lồ tiền sử’. Anh đã hiểu. Bực dọc tràn tới cổ.

Cả bọn bị đẩy lên đây làm cảnh cho chế độ. Tụi trẻ bị thảy tới để vắt sức, bù lại được bước chân vào vũng lầy vật dục, chôn vùi tương lai và sức khỏe trong hoàn cảnh lửa rơm.

Minh nhỏm dậy, bỏ lại sau lưng khung cảnh và bóng đêm đồng lõa, đi lần về phía ánh đèn lù mù rọi qua vách lá của trại với nỗi buồn mất mát một thứ gì quý báu.

Một người bạn đứng dựa lưng vào cột tre phập phập điều thuốc nói với anh sau cái chép miệng:

‘Coi mòi không xong, sợ trong mình nó sẽ hết nước. Tiêu tùng ở đây thì ức quá. Đâu xa Sài gòn mấy…’

Tim Minh thắt lại với câu nói của bạn. Cảnh ngoài kia sôi lên sùng sục, hơi nước tràn đầy trong đầu Minh. Anh nóng mặt như mới bước ra từ lò lửa. Tên cán bộ hướng dẫn đang nói chuyện với viên bác sĩ, giọng thật bình thường. Đó đây từng toán anh em tụm năm, tụm ba, ai nấy thầm thì vừa đủ nghe.

Minh đến trước mặt hai người đưa mắt dò hỏi. Hắn rút chân ra khỏi đôi dép râu, co lên, khoanh lại trên võng:

‘Tạm giải quyết, chuyện cũng thường thôi, cả trăm người đi thực tế thế nào cũng có người bịnh hoạn. Trước đây sau thời gian sơ tán, tôi theo đoàn văn công, có mấy ông nhà văn bị ngã nước nặng lắm, nhưng rồi đâu cũng vào đó thôi. Vấn đề là bảo toàn chất lượng của công tác, còn cá nhân thì…’

Minh ngó về phía bác sĩ hỏi ý không muốn nghe hắn nữa:

‘Anh thấy có khả quan chút nào không?

Nụ cười gượng gạo cố dán lên mặt:

‘May ra. Nhưng tôi ngại không tìm được phương tiện chuyên chở. Tôi hơi lo về chuyện nầy. Xe của công trường chở đủ thứ đồ linh tinh. Chật chội, mỗi lần nhờ vả gay lắm.

Như vậy đó, bao nhiêu vấn đề đặt ra vì nầy, vì kia. Gương mặt T. xám ngoẹt dưới ánh đèn lù mù mờ ảo, ma quái. Ngoài kia bóng tối bao phủ. Bụi tre trước ngõ lay động mảng đen chùm lá trên ngọn phát ra những tiếng kẽo kẹt tủi hờn.

Giọng hắn lạc lõng, không ai thèm nghe:

‘Tôi định sáng nay anh em vẫn công tác như thường lệ. Để một anh ở lại trông chừng anh T. là được rồi. Đơn vị ta chỉ phụ trách có cái ao cá nầy thôi mà không làm tốt thì gay lắm.’

Chán nản chạy lên tận cổ Minh, anh thất vọng hoàn toàn. Công tác! Công tác! Chỉ có ao cá bằng bụm tay, không biết bao giờ mới có cá giống mà làm như vá trời lấp bể không bằng. Nhưng anh không trả lời. Vô ích thôi. Bọn thất trận không có quyền cãi. Anh nhìn lại T., nằm đó co quắp, hổn hển, tên cán bộ vẫn thản nhên phì phèo điếu thuốc ‘Sông Hương’, bộ mặt không biểu lộ một tình cảm tương lân nào.

Mắt anh bỗng cay xè, ươn ướt…

Tiếng anh chàng phó chủ tịch hội kêu gọi anh em sẵn sàng cho buổi công tác trong ngày, giọng tâng công đến trơ trẻn, oang oang làm ô uế buổi sáng tinh sương. Minh vừa bực bội vừa buồn cười. Hắn tiết kiệm từng phút cho nhà nước, chẳng bù trước đây, được nuôi ăn học ở ngoại quốc, trở về, một giờ dạy học, mười giờ hội thảo chống phá chế độ nuôi dưỡng mình ăn học. Minh lẩm bẩm: ‘Nếu không may gặp cảnh như T. mầy cũng thế thôi, chết như một con chó. Số phận lót đường, làm cảnh đâu lâu bền gì.’

T. vẫn nằm yên ở vị trí cũ, người tóp lại, uể oải, khô héo. Ngoài trước trại của anh em Thanh Niên Xung Phong tiếng cười vui vẻ của một vài người vô tâm nghe rõ mồn một:

‘Sướng quá còn hai ngày nữa là được về ăn Tết rồi!

Mấy con ruồi xanh rủ nhau quây quần trên vạt giường, một con đậu trên mép T., tung tăng, cái vòi mạnh khỏe, thẳng tròn di động trên lớp da đã ngã màu…

2.

Vietnamese%20Ao%20Dai%20Beach%20Towels%20|%20Fine%20Art%20America

Còn nhớ rõ buổi sáng hôm đó, chúa nhật đầu tháng cuối năm, trái với lệ thường tôi không theo bạn bè la cà ở quán nước, bàn bi-da. Tôi chán ngấy mấy người bạn vô tâm, dễ dãi với cuộc sống, chỉ biết nhậu nhẹt, hay bày trò này nọ, những trò chơi vô ích mất thời giờ. Là bạn học, họ phần nào dính dáng tới thời trai trẻ của mình, tôi ít khi từ chối, thường chắc lưỡi đi theo, có mặt, nhưng sự tham dự thật lỏng lẻo. Thời gian lúc đó dài ngoằn, vô vị, nhạt nhẽo. Tôi đã sống không hết mình, để ngày trôi qua trong khi bọn họ đã sống thật đúng từng giờ từng phút, thật rắn chắc, chặc chịa cái hiện tại đó. Nhiều khi về khuya mệt nhoài, cảm thấy mình thắp đèn cầy hai đầu, tôi lật đật lật tới, lật lui cuốn sách ‘Làm thế nào để nói không’, nhưng rồi cũng không áp dụng được cho lần tới.

Hôm qua tôi ở nhà, và may quá gặp được nàng. Buổi sáng bừng nở trong phòng khách, nắng mai xuyên qua cửa kiếng lọt qua lớp màn mỏng, chạy nhảy lung linh, reo rắc điệu nhạc Diêu Trì trên từng thớ gỗ của bộ bàn ghế chạm lộng chúng tôi đang ngồi. Nàng cúi đầu chào, tự tin chen lẫn một chút ngượng ngập. Người con gái biết mình đẹp như có khả năng đo lường, tính toán chi li từng cử chỉ, không dư thừa, không thiếu. Nụ cười nửa miệng vừa thân thiện vừa khép kín diệu vợi xa cách. Nụ cười người đối diện vừa có cảm tình vừa nhận thấy ngay khoảng cách phòng thủ cần thiết nữ phái.

Nàng đến để hổ trợ tinh thần cho đứa em gái nhờ thầy giảng lại chuyện gì đó tôi quên rồi. Xứ nầy khác nước Mỹ, không tổ chức giờ trực văn phòng thường xuyên của Giáo sư để giúp đỡ sinh viên. Tội nghiệp nàng phải theo em đến đây, không thích thú lắm khi ngồi nghe tôi giảng bài, mắt lơ đãng ngó sự giao động trong tách nước trà người làm mang ra, hay tò mò quan sát mấy bức tranh treo trên tường, những bức tranh kỷ niệm, không chút xíu nghệ thuật nào cha tôi cho treo trên đó từ lâu lắm.

Tôi không có dịp nói chuyện nhiều với nàng ngoài những câu chào hỏi thông thường. Tôi không thể để học trò mình thấy ông thầy bị hớp hồn ngay từ phút đầu, nên chỉ tìm hiểu nàng qua những câu hỏi vô tội vạ từ cô em. Nàng mân mê mấy ngón tay giũa khéo léo, sơn màu nhạt, phù hợp với nước da mát mẻ của đôi bàn tay thon thả với những ngón dài, bàn tay, thuở nào ông bà mình nói, búp măng, quý phái của người tướng sang. Nam tánh tôi trở lại sau thời gian giữ tròn vai ông thầy già, tạo một khoảng cách thật xa với học trò nữ, trốn chạy trước các thiếu nữ trẻ đẹp gặp bất kỳ ở đâu vì sợ lỡ ra họ là học trò mình, tôi ước ao được nắm bàn tay đó, bàn tay thiên đường, tiên nữ…

Nàng ngồi, mặt bàn che lấp phần dưới thân thể, nhưng cử chỉ vén vạt áo dài trước khi ngồi xuống ghế, áo màu xanh đọt chuối, tàu áo lả lướt như tàu lá chuối non vừa mới xòe ra phất phơ trong gió, gợi trí tưởng tượng đến cặp đùi rắn chắc, đầy sinh lực ở phía sau lớp quần trắng mịn. Sau nầy, cả hai năm trời sau lần gặp gỡ đó, lúc đã là người yêu, đủ thân mật, để thố lộ một điều hơi không đứng đắn về mình, tôi kể lại cảm tưởng lúc nầy cho nàng nghe, nàng đã thẹn thùng phác lên vai tôi với câu nói thật nghiêm:

‘Vĩnh viễn anh không biết điều dự đoán đó trúng hay trật đâu!’

Tôi biết câu dọa trên đưa ra để chữa thẹn, để chận đứng sự sàm sỡ mà tôi có thể nói thêm, nhưng không ngờ lời nàng lại quá thiêng. Gió tanh mưa máu trút xuống từ tháng Tư năm đó, thổi bật nàng ra khỏi quê hương. Chỗ quê hương là đẹp hơn cả, có thể nàng không vui, lạc lõng khung trời xa lạ, có thể nàng cần nhìn thấy mái chùa cong cong, lá dừa lả ngọn, tiếng cười tiếng nói buổi chợ sớm, tiếng xe nhỏ ồn ào trên đường. Tất cả những thứ đó ở nơi khác có thể có, nhưng chắc chắn sẽ chứa thật nhiều yếu tố xa lạ. Chợt nghĩ tới một cành hoa hồng nhung mọc giữa rừng cỏ dại, không đủ phân, nước, èo uột, khẳng khiu, tôi eo xèo tiếc thương những giọt mưa sa xuống vũng lầy nhớp nhúa. Cho nàng, cho chính thân tôi.

Như giờ đây tôi nằm trong vị thế khó coi này, bụng như cào như cấu, như ngàn dao bằm nhỏ tì, vị, rụôt gan, mửa thốc mửa tháo. Những hình ảnh lộn xộn hiện ra trước mắt với tất cả mùi vị. Lúc gần chết ai cũng thấy lại được thật rõ ràng, như một khúc phim tài liệu tốt, tất cả những chuyện xảy ra trong đời mình. Tôi không thấy rõ ràng, nhưng tôi có cảm tưởng mình sắp giã từ thế giới nầy. Tôi thấy người khách trú mặc cái áo thun màu cháo lòng, mồ hôi nhuể nhải đang hai tay hai con dao phay lớn đại bầm bầm thật mạnh, liên tục nhịp nhàng đống thịt bầm giờ đã nát ngứu. Tôi đứng đó mãi mê ngó theo nhịp lên xuống của cặp dao, mắt không chớp, nghĩ đến sự đau đớn của mấy miếng thịt tội tình.

Tôi thấy mình lăn lóc trong xóm nghèo lúc nhỏ, cạnh một cầu tiêu công cộng, sáng sáng đi cầu, người lao công đang quét dọn lớp phân vun vẩy, nhớp nhúa, lợm giọng, trét trây hầu hết trên đường đi, và đoàn người kiên nhẫn sắp hàng chờ đợi đến phiên mình. Xong việc cho buổi sáng vẫn còn cảm tưởng mùi thối tha quyện trốn trong quần áo da thịt, tóc tai. Hình ảnh hiện ra với những chi tiết thật bất ngờ, một vài nét vẽ tục tĩu trên tường. Câu thơ ‘Rớt tú tài anh đi Trung Sĩ, em ở nhà lấy Mỹ nuôi con!!!!’ với bốn chấm than to tướng. Và hàng hàng lớp lớp giòi mập tròn nhớp nhúa, nhun nhúc bò lên đôi guốc, tiến lên chưn, lên mắt cá… Tôi thoát ra khỏi khu nghèo khổ và quên lững nó, quên như những chuyện đó xảy ra từ kiếp trước nào đâu.

Tôi cũng quên nàng sau thời gian bị dạy dỗ về những điều vớ vẩn, những phạm trù triết học xa lạ vô bổ, thượng từng kiến trúc, hạ từng cơ sở, vật chất – tinh thần, cái chung – cái riêng. Vậy mà trong khi nằm đây tôi lại nhớ nàng. Nhớ ghê gớm, tưởng chừng tôi có thể chết được để hồn bay qua Thái Bình Dương gần nàng… Tôi không chịu nỗi mùi thuốc khét lẹt ai đó hút quanh đây. Lúc bịnh hoạn thấy ai khỏe khoắn đã bực rồi, huống chi thấy họ hứng thú. Mà mùi thuốc khó chịu thiệt. Mùi thuốc lào và cách rút của thầy Trị, ro-ro-rột-rột, càng khiến khó chịu hơn. Hắn, người tự nhận nói lên tiếng nói của thành-phần-thứ-ba-yên-lặng-và-không-có-chánh-quyền, đang chấp nhận ân sũng được làm đại diện dân trong một Quốc hội bày hàng của kẻ thắng trận, đang mồi lửa vào ống điếu bằng cái Zippo trắng long lánh, ngó ngó tôi rồi lắc đầu. Tôi không biết hắn đang nghĩ gì, nhưng tôi nghĩ tới tôi đêm hôm qua lúc móc túi đưa bật lửa cho Minh, tôi nhớ đến nàng một phút thật ngăn ngủi, ngó một ngôi sao cô độc trên nền trời, lòng chợt buồn cho tinh cầu đơn chiếc nầy và tôi ước ao mình có mặt bên cạnh nàng, nối tiếp lại cuộc tình.

Giờ là mùa Xuân, sắp Tết, Tết ở đây buồn hiu, buồn hắt với từng trận mưa danh từ trong các diễn văn, thư gởi, với những ngón đòn bỉ ổi chí tử lên tôn giáo bằng các trò chơi, hát hò ở trong khuôn viên Lăng Ông và chùa chiền. Tết của tôi đã mất ý nghĩa. Hi vọng nàng hưởng được những cái Tết thuần túy dân tộc cùng cộng đồng Việt ở quê người. Tôi cho rằng Tết ở trong phong tục một phần lớn hơn là ở thời tiết và không gian. Tôi nhớ mấy cái Tết cùng nàng đi xem hát bong. Vòng tay tôi che chở làn sóng lấn ép người là người. Nàng nhỏ bé trong tay tôi, nàng hưởng sự bảo vệ và tôi biết rõ hơn ý nghĩa tình yêu từ đó, thân thể quyện trong nhau, e ấp, nương tựa, tin tưởng.

Tiếng anh chàng triết gia đón gió một thời muốn giết chết sự nổi tiếng của người nhạc sĩ nhất Việt Nam triết lý kiểu thời đại:

‘Có đi thực tế, có bịnh hoạn, thiếu thốn mới thấy giá trị của lao động, mới quý giai cấp công nhân.’

Tôi lại muốn tháo mửa ra, mặc dầu mọi thứ còn trong dạ dày đã được tháo ra hết và mỗi lần buồn nôn tôi rất khổ sở vì sự oặn thắt từ bên trong, cố vắt ra một chút gì đó để tuôn ra ngoài. Ở đâu thời nào cũng có loại người đó. Tại sao phải đem sinh mạng của một người ‘tôi hay ai cũng thế mà thôi, một người’ để cho hắn thấy giá trị của lao động? Hắn muốn nói lên sự ích lợi của việc trí thức đi thực tế?

Chuyện nầy xưa rồi! Chỉ là một sự đày ải, phân tán, đàn áp được mạ bằng lớp chữ nghĩa. Dầu sao cũng không nên quá bực bội. Vô ích. Cuộc sống không thay đổi gì hơn bằng những bực bội. Như tôi, sẽ không được bực bội vì mình bị thảy vào đây để nằm ói mửa. Thằng Minh hỏi câu ngớ ngẩn: Đỡ chưa? Sau khi xoa nóng mặt tôi bằng nửa chai dầu Song Thập. Làm sao đỡ được, dầu chứ bộ thuốc trị thổ tả sao? Chắc nó bối rối vì tội nghiệp cho bạn, nhưng tôi không trả lời. Tôi tỉnh trí thiệt nhưng miệng đắng nghét, cổ rát rạt thì trả lời làm chi cho mệt. Nằm im thả trí bay bỗng theo những suy tư này nọ sướng hơn. Giờ thì còn gì là quan trọng nữa đâu chớ? Điều tức là không ngờ mình vướng bệnh, nếu không trước khi lên đây tôi đã chạy ra Nguyễn Huệ, chợ trời thuốc tây, mua về một mớ. Tôi lại thấy đời sống có vợ chồng là ích lợi. Mấy bà bỏ nầy bỏ nọ vô bao đồ đạc của chồng lẩm rẩm vậy mà đỡ. Nếu không có chuyện lộn xộn bây giờ chắc nàng đã trở thành người lo lắng cho tôi. Bạn bè chung quanh ai cũng có người lo, còn tôi, bù trớt, cu-ki, đi đâu cũng mồ côi, tự sửa soạn, nên phần nhiều, để cho tiện, tôi xách thật ít quần áo theo. Nói qua nói lại cũng là thiếu nàng. Đời tôi lúc nhỏ nghèo khổ, lớn lên đầy mặc cảm, chỉ khoảng thời gian nàng hiện hữu đời tôi mới có ý nghĩa thôi. Nàng, cây chống tinh thần cho tôi, điểm long lanh lân tinh trong bóng tối đưa tôi ra khỏi sự lệch lạc trong đời sống tình cảm. Nàng, thứ nước, thứ phân để tôi, hạt mầm khô héo, có thể đâm chồi. Cây xanh mơn mởn thì nàng mất tiêu từ ngày quốc nạn đầu tiên. Cơn lốc này tới cơn lốc khác. Biền biệt mới được tin nàng qua biết bao trung gian rằng đã theo chồng bỏ cuộc chơi hai năm sau ngày tới Mỹ. Người ta có thể sống cho kỷ niệm, vì kỷ niệm nhưng không thể sống bằng kỷ niệm. Nàng phải lo đời nàng trước. Chuyện đó không có gì đáng trách. Cái già xồng xộc nó đi theo sau, người con gái nào cũng lo sợ điều đó. Tôi hiểu, tôi thông cảm nàng hoàn toàn. Bị chặt cẳng chặt chân bó rọ ở đây, có cánh họa may tôi mới thoát. Thôi cũng được. Xong một cuộc tình. Và bây giờ thì tuần lễ lao động giúp tôi xong một cuộc đời. Từ tối, lúc bị thần dịch tả làm tình làm tội, tôi đã thấy trước bước cuối của mình.

Phải dọn mình thật thư thả, phải thanh thản tuyệt đối. Thù hận kể ra nhưng để thù hận lại cho người đời. Tam thập dư niên thế giới trung. Không không sắc sắc diệc dung thông. Kim triêu mãn nguyện hoàn gia lý... Bài thơ của Liễu Hoán hòa thượng không lúc nào hợp bằng lúc nầy. Hiểu rõ sự sắc không thì mãn nguyện bỏ thế giới nầy về thế giới khác. Đâu cũng vậy mà thôi, kể cả sống bảy mươi tuổi như Liễu Hoán hòa thượng hay mới ngoài ba mươi như tôi.

Có điều ra đi lúc gần Tết là điều gì không ổn. Mùa xuân là mùa thạnh mậu mà, đâu phải mùa thu đâu mà khô héo rơi rụng. Thôi mệt. Thời nầy thì vậy không, chuyện ngược đời xảy ra luôn, ‘trên cây còn lá úa, lá xanh kia rụng rồi’. Con xin chịu bất hiếu với cha mẹ.

Ngoài ngõ tiếng mấy người thanh niên xung phong mừng sắp được về ăn Tết sao mà đáng thương đến muốn chảy nước mắt. Đáng lẽ tự do đó là của họ, bị giữ lại hết, lâu lâu mới được thí lại cho một chút, mừng quính, mừng quáng thấy thảm hại.

Suốt năm là mùa Xuân của họ mà, đâu phải chỉ có mấy ngày thôi đâu? Người lớn làm lọt mất chớ đâu phải họ. Tội nghiệp…

3.

chi%20toi%2001Nàng uống vội ly sữa, bốc chìa khóa từ giã chồng trước khi đi làm:

‘Thôi em đi. Năm nào Tết cũng nhằm ngày thường. Tết nhứt mà đi làm thì tức tức. Ở nhà thì tiếc. Hình như còn hai ngày nữa Tết phải không anh?

‘Ừ! Chúa nhựt nầy hội Tết ở nhà thờ Baptist, chắc em đi một mình, hôm qua manager mới kêu vô bảo tuần nầy làm over-time, từ chối không được.’

Nàng đứng lại chỗ phân cách giữa nhà bếp và garage ngó chồng. Vậy là nằm nhà. Đàn bà con gái ai đi tới chỗ hội hè đình đám một mình. Tết nào đó, một lần, hai lần, ba lần, trong rạp hát chật ních, hơi ấm chàng chuyền từ phía sau tới, những cái xiết tay thật mạnh, âu yếm đến xáo trộn nhịp đập tim. Những lúc nắm tay nhau đi lại chỗ nầy chỗ kia trong Lăng Ông, niềm vui tràn tận lên khóe mắt, trong cử chỉ của chàng. Những nụ hôn len lén, run rẩy của cả hai đàng trên ghế đá công viên. Vậy mà bây giờ ngàn trùng thời gian, không gian. Vậy mà giờ đã nhạt nhòa trong trí nhớ. Ở đây một cái Tết thật bình thường tìm cũng không ra. Mùa Xuân lọt qua kẽ hở mất tiêu. Chỉ còn lại một cái tên gọi, một tiếng kêu, một ngày để chép miệng nhớ tiếc.

Mở cửa xe, ngồi vào vị trí người lái, nàng bỗng rung động toàn thân, một luồng lạnh chạy dài trên xương sống, chẻ nhánh ra hai tay. Mồ hôi ở lòng bàn tay tuôn ra lạnh ngắt. Nàng nói với mình:

‘Kỳ vậy! Hay là có người thân nào bị nạn? Mà đâu phải. Bà con ai cũng ở Mỹ nầy, có gì thì đã biết rồi. Còn có ai thân thuộc ở Việt Nam nữa đâu?’

Nàng de mạnh xe ra khỏi garage, quẹo trái ra đường lớn. Bóng đèn đỏ phía sau xe để hai chấm máu là đà trên mặt đất.

Nguyễn Văn Sâm

Những ngày buồn khi mới tới Mỹ (1981) viết về kỷ niệm một tuần LDXHCN ở Củ Chi (1978).



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/Feb/2022 lúc 12:03pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 93 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.318 seconds.