Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 92 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | |
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 18/Mar/2019 lúc 12:47pm | |
Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 18/Mar/2019 lúc 1:01pm |
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22125 |
Gởi ngày: 20/Mar/2019 lúc 1:56am | |
Nỗi Khổ Của Một Thuyền Nhân - Vietnamese Boat People <<<<<Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Mar/2019 lúc 1:56am |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 20/Mar/2019 lúc 9:43am | |
Một mối tình cảm động
Nhà thơ ngụ ngôn người Pháp La Fontaine đã nói một câu
rất hay về tình bạn: “Tình yêu thật sự đã hiếm; tình bạn thật sự còn hiếm hơn”.
Tình bạn giữa tôi và Cát Đằng quả là hiếm có.
Cát Đằng, tên một loài hoa leo có màu xanh pha tím, mỏng
mảnh. Bạn tôi cũng dịu dàng, mềm mại, quý phái như hoa.
Chúng tôi thân nhau từ thuở nhỏ, lúc còn học trường tiểu
học Đoàn Thị Điểm trong Thành Nội. Hai đứa cứ thế lớn dần lên, lần lượt qua bên
kia sông Hương học Đồng Khánh rồi Văn Khoa…
Nhà Cát Đằng nằm ở một góc nhỏ trên đường Mai
Thúc Loan. Căn nhà cổ xưa như cuộc sống quan cách của gia đình. Ba Cát Đằng làm
công chức cao cấp của Ty Ngân khố Thành phố. Ông đặt cho con những cái tên thật
đẹp của các loài hoa: Cát Đằng, Đỗ Quyên, Hoàng Lan… Mấy chị em sống khép kín
như những con ốc trong bốn bức tường rêu.
Tôi, tên bình thường: An Nhiên, gia cảnh cũng “thường
thường bậc trung”, tóc cắt kiểu Demi Garcon, tính tình đôi lúc ương bướng. Vậy
mà chúng tôi thương nhau vô cùng. Chỉ có tôi dám bước qua hai cánh cổng sắt
luôn khép kín trong tiếng sủa của con Berger để rủ Cát Đằng đi học. Cũng chỉ có
tôi chiếm được lòng tin của ba mạ Cát Đằng. Hai bác nghiêm nghị nhưng coi tôi
như con. Hình như hai bác xem tôi là một lá chắn bảo vệ cho cô con gái yếu ớt của
mình.
Chúng tôi đã có một thời thơ ấu thật đẹp và hồn nhiên.
Những chiều mùa hạ dắt nhau vô con đường bên hông Đại Nội gần cà phê mụ Tôn, nhặt
bông phượng đỏ về làm bướm. Những sáng mùa đông sương mù lạnh buốt chở nhau qua
cầu Phú Xuân, gió hung hăng như muốn quật hai đứa xuống sông. Những đêm cùng học
bài thi, em gái Đỗ Quyên đem vào phòng cho hai chị chén chè hạt sen long nhãn
mát rượi. Mạ Cát Đằng thường cười bảo tôi “Phải chi An Nhiên là con trai, bác gả
Cát Đằng cho cháu.”
Tuổi dậy thì hồn nhiên và mơ mộng. Cát Đằng đẹp, nhiều
người tán. Tan học về bao nhiêu cái đuôi theo, mãi cho đến cửa Hiển Nhơn mới chịu
lui gót. Tôi như garde corps cho bạn. Những chàng sinh viên mê Cát Đằng, nhờ
tôi làm chim xanh kèm theo nhiều món quà hậu hĩnh, trong số có cả con của một
ông Trưởng Ty đang theo học trường Y. Nhưng tôi từ chối. Không ai hiểu bạn hơn
tôi. Cát Đằng tâm sự: “Sao mình thấy ông nào cũng nhẵn nhụi như Mã Giám Sinh.
Ngó phát ớn!”. Người hùng trong tâm tưởng Cát Đằng phải bụi bụi như tài tử
Charles Bronson, đêu đểu với bộ ria giống nụ cười của Clark Gable hoặc chí ít
cũng phải lãng tử như Gregogy Peck trên chiếc Vespa cổ chở nàng công chúa
Audrey Hepburn chạy khắp thành Rome trong Vacances Romaines… Thâm tâm tôi thấy
bạn mình quá lãng mạn. Biết tìm đâu ra người lý tưởng trong môi trường phố thị
này?
Ấy thế mà một hôm thật bất ngờ, “người hùng” của bạn đã
xuất hiện. Đó là một buổi sáng “đầy sương thu và gió lạnh” như trong văn Thanh
Tịnh, đoàn Sinh Viên Sỹ Quan trường VBQGVN về Huế vào Đại Học Văn Khoa tuyển
quân. Phải công nhận sự có mặt của họ như một hiện tượng trong sân trường xưa
nay toàn áo dài, chemise, quần tây. Trong trang phục worsted thật đẹp, thật hào
hùng mặt anh nào cũng sáng láng thông minh. Họ trình bày thật ấn tượng về ngôi
trường quân sự ở Đà Lạt ngang ngửa với Saint Cyr của Pháp, West Point của Mỹ Đứng
bên những chàng trai Văn Khoa “trói gà không chặt”, trông các anh cao to và đường
đường khí thế. Nhìn qua cạnh mình, tôi thấy Cát Đằng như trên mây. Nàng say sưa
dán mắt vào anh SVSQ đang giới thiệu chương trình đào tạo. Anh nói giọng Bắc
pha chút Huế. Khi chàng ta đi từng bàn phát những tờ ảnh về ngôi trường cho
sinh viên nam, Cát Đằng cũng nhoài người qua xin một tờ. Một thoáng ngạc nhiên
trong mắt anh nhưng người SVSQ vẫn lịch sự trao tận tay nàng. Mắt hai người gặp
nhau. Một cái gì đó thật lạ lần đầu tiên tôi thấy xuất hiện ở cô bạn mình. Má
nàng ửng hồng, ánh mắt long lanh, môi mọng ướt mềm… Chuông reo giờ ra chơi, hai
người còn trao đổi với nhau suốt cả mười lăm phút bên hành lang Morin.
Ra về, tôi bảo Cát Đằng “Mình thấy hình như có Coup de
Foudre”. Nàng yên lặng do dự một chút rồi bảo tôi: - “An Nhiên ơi, bạn có
thương mình không?”. Tôi ngạc nhiên: - “Tui không thương bạn thì thương ai?” -
“Vậy thì chiều ni bạn xin mạ cho tui qua chơi nhà bạn hí - Được thôi mà”
Buổi chiều, tôi ngồi chờ bạn trên chiếc xích đu dưới
giàn bông giấy. Nàng xuất hiện trong chiếc áo mousseline màu xanh trứng sáo, quần
tây đen. Trông Cát Đằng xinh xắn làm sao. Hèn gì con ông Trưởng Ty mê nàng như
điếu đổ. Ngồi nói chuyện với tôi mà mắt nàng nhìn ra cổng như ngóng trông ai…
Và bốn giờ chiều. Một bóng người xuất hiện trước cửa. Anh chàng Sinh viên Võ bị
hồi sáng… Cô nàng thông minh thật, lấy địa chỉ nhà tôi làm nơi gặp gỡ.
Tôi không tin lắm vào duyên tiền định. Xưa nay, ba mạ vẫn
hay nói tôi là kẻ cứng lòng. Nhưng với cô bạn thân Cát Đằng thì tôi nghĩ đó là
một mối nhân duyên mà tôi là người góp phần dung túng, ủng hộ. Cô bạn tôi không
phải là type người “yêu cuồng sống vội”. Xưa nay nàng chưa hề cười với ai một nụ.
Con nhà gia thế, kín cổng cao tường. Điều gì đã làm cho nàng dám vượt qua khuôn
phép gia đình và xứ Huế vốn dễ tiếng tăm?
Chàng sinh viên sỹ quan ấy tên H. đang theo học năm thứ
ba trường Võ bị. Anh gốc Bắc, di cư vào Nam năm 54, chọn Huế làm quê hương thứ
hai. Anh sống cùng mẹ và chị gái bên Bến Ngự. Anh hơn chúng tôi năm tuổi, trước
đây từng học MPC rồi mới quyết định tòng quân. Đợt tuyển quân này là một cơ hội
cho anh về thăm mẹ và số phận đưa đẩy để hai người gặp nhau.
Anh H. hiền, tính điềm đạm. Tôi chắc bạn tôi không chọn
nhầm. Hai người có một tuần để hiểu nhau. Tôi nhiều lần qua nhà Cát Đằng xin
cho bạn đi học nhóm, đi thảo luận… để rồi sau đó chở nàng lên đồi Thiên An,
chùa Từ Hiếu hẹn hò. Trong khi hai người trò chuyện, tôi lặng lẽ đi dạo dưới những
hàng thông hoặc ngồi đọc sách bên hồ Thủy Tiên để rồi sung sướng ngắm nhìn bạn
sáng ngời trong hạnh phúc. Tình yêu làm người ta đẹp ra. Anh H. đưa chúng tôi về
thăm gia đình. Căn nhà nhỏ nép mình trong một khu vườn sum suê cây trái. Tiếng
chim sâu kêu lách chách. Bà mẹ hiền lành mừng rỡ đón bạn của con; người chị gái
tên Hương thương em vô hạn, chăm anh từng ly từng tý. Tôi mừng cho Cát Đằng.
Anh H. trở về Đà Lạt tiếp tục khóa huấn luyện. Nhà tôi
trở thành địa chỉ cho hai người trao đổi thư từ. Những bức thư đều đặn hàng tuần.
Cát Đằng có một cái hộp bánh CHOCOLATE hình chữ nhật. Đọc xong thư bạn cất vào
đó và nhờ tôi giữ hộ. Cuộc tình vẫn nằm trong bí mật với gia đình và bạn bè.
Không ai biết ngoài tôi.
Gần cuối năm 1971, sau khi đọc xong lá thư có cái
insigne rồng vàng ôm kiếm thiêng, Cát Đằng có vẻ suy tư. Bạn ngồi trầm ngâm
trên chiếc xích đu trắng nhìn mông lung. Tôi mở lời: “Răng đó? Giận nhau hả?”.
– “Không, có chi mô”. Lần này, bạn cầm lá thư về chắc để đêm nghiền ngẩm.
Con đường đến giảng đường sáng hôm sau như dài ra với sự
yên lặng của Cát Đằng. Giờ English Grammar bạn dường như không nghe lời thầy
John Schaffer giảng. Lúc ra chơi, đứng ở khung cửa sổ nhìn xuống đường Lê Lợi,
Cát Đằng đưa bức thư cho tôi: “An Nhiên đọc đi!”.Tôi liếc nhanh qua bức thư với
những lời yêu thương nồng thắm nhớ nhung chất ngất, hơi đỏ mặt vì thấy mình xâm
phạm chuyện riêng tư của bạn. A, đây rồi.
Cái lý do làm bạn tôi trăn trở hai
ngày nay. Anh H. muốn bạn tôi có mặt trong đêm Lễ trao nhẫn truyền thống của
SVSQ năm 3 trường Võ Bị. Là răng? Cát Đằng đi Đà Lạt ư? Tôi không thể hình dung
được chuyện này. Không được. Chuyện quá nghiêm trọng với con gái Huế, nhất là với
bạn tôi, một người chưa hề bước chân qua đèo Hải Vân.
Ánh mắt của Cát Đằng tha thiết: “An Nhiên giúp mình đi.
Năn nỉ mà. Cam đoan không có chi xảy ra. Mình đi ba ngày. Chỉ bạn mới có thể
giúp mình…”. Điều gì khiến một người con gái dịu dàng như Cát Đằng nẫy ra quyết
định liều lĩnh thế? Cái này gọi là sức mạnh của tình yêu đấy ư? Xưa nay tôi vốn
dị ứng với thứ tiểu thuyết lãng mạn của Quỳnh Dao và hoàn toàn không tin vào
nhan đề một cuốn truyện của Lệ Hằng “Chết cho tình yêu”. Không, không đựơc.
Hai đứa không nói chuyện với nhau suốt ba ngày. Nhưng
cái vẻ ủ dột của Cát Đằng làm tôi thương xót. Anh H. cũng gởi cho tôi một bức
thư ngắn. Anh bảo chính vì xem Cát Đằng là người trăm năm nên anh muốn nàng có
mặt trong buổi lễ trang trọng và ý nghĩa này. Anh chịu trách nhiệm về chuyến
đi. Lòng tôi mềm ra. Tình yêu xét cho cùng cũng có cái lý của nó. Tôi trở thành
kẻ đồng lõa trong cuộc hành trình của bạn.
Vậy là tôi sang nhà xin ba mạ Cát Đằng cho hai đứa vào
Đà Nẵng ăn cưới bà chị họ. Mạ bạn tỏ ra e ngại như tất cả những bà mẹ người Huế.
Nhưng ba bạn thoáng hơn, hình như ông đang vui vì mới trúng một cú affaire. Hơn
nữa, chơi với Cát Đằng hơn mười mấy năm, gia đình bạn tin tưởng tôi tuyệt đối.
Ba của bạn đích thân chở chúng tôi ra bến xe. Ông không
thể ngờ rằng khi tới Đà Nẵng, việc đầu tiên của chúng tôi là đến ngay Air Việt
Nam trên đường Độc Lập. Và chuyến bay DC six đưa Cát Đằng lên thành phố cao
nguyên lúc hai giờ chiều để lại tôi ở lại với cõi lòng như lửa đốt.
Ba đêm tôi ăn không ngon, ngủ không yên ở nhà bà chị.
Tôi chắp hai tay cầu nguyện Chúa, Phật và tất cả các đấng siêu nhiên cho chuyến
đi thuận buồm xuôi gió. Tôi hơi ân hận vì đã lạc lòng trước những giọt nước mắt
của bạn. Có chuyện gì xảy ra với Cát Đằng chắc tôi không sống nổi...
Và chiều thứ hai tôi đã oà khóc tức tưởi khi thấy bạn
bước ra từ chiếc Bus của Hàng không Việt Nam.
Nhưng quả thật, chưa bao giờ tôi thấy bạn xinh như vậy.
Mặt Cát Đằng hớn hở như trăng rằm, môi cười rất tươi. Nàng ôm choàng lấy tôi,
hôn lên má: - “Cám ơn An Nhiên. Chúng mình cám ơn bạn vô cùng”. Những giận hờn
trong tôi đều tan biến.
Trên
chuyến xe ra Huế, Cát Đằng tíu tít kể cho tôi bao nhiêu chuyện. Thành
phố hoa, những con dốc mù sương, chuyến xe ngựa vòng quanh bờ hồ Xuân
Hương và một tấm ảnh đầy ấn tượng. Dưới ánh đèn huy hoàng có hàng chữ Lễ
trao nhẫn với hai cái dấu như hai vương miện, bên một cái nhẫn to được
trang trí cách điệu lộng lẫy, bạn tôi âu yếm lồng vào tay anh H. chiếc
nhẫn Võ Bị. Họ như đôi tân lang và tân nương trong ngày cưới. Mãi mãi
đây là một bí mật chỉ riêng ba người biết…
Thi thoảng chúng tôi qua Bến Ngự thăm nhà anh H. Mẹ anh
coi Cát Đằng như con dâu tương lai. Bà kể về tuổi thơ vất vả của anh từ khi di
cư vào Nam, về lúc cha anh mất, về người con trai cả tên Hùng phải lưu lạc vào
Bình Dương kiếm sống. Có những đoạn xúc động, bà rươm rướm nước mắt. Cát Đằng
ngồi kế bên bóp nhẹ tay bà. Một hình ảnh dễ thương làm sao. Bà còn dạy cho bạn
tôi cách chế biến những món ăn mà con trai thích như canh cua rau đay, bún chả…
Cuối năm 1972 anh H. ra trường. Anh có mười ngày phép
trước khi về trình diện tại Sư đoàn 9 Bộ binh có biệt danh “Mũi tên thép”, Bộ
Tư Lệnh Sư đoàn đóng ở Vĩnh Long,Tư lệnh là Chuẩn Tướng Trần Bá Di. Chiến trường
miền Trung đang sôi động với chiến dịch tái chiếm Cổ thành Quảng Trị Đêm đêm tiếng
đại bác ì ầm từ phía Bắc vọng về. Thành phố Huế tràn ngập màu áo lính rằn ri.
Cát Đằng có vẻ yên tâm với sự chọn lựa này dù hai người có xa nhau về không
gian. Mười ngày, tôi phải ra sức bao biện cho bạn để họ có những giây phút hạnh
phúc.
Rồi cũng đến lúc chia ly. Chúng tôi tiễn anh vào Nam.
Hình ảnh cuối cùng trong mắt tôi là cảnh chàng thiếu úy trẻ trai cầm chặt tay
người yêu nói những lời từ biệt: “Em cười đi. Cát Đằng cười đi cho anh yên tâm.
Anh sẽ về với em và sẽ thưa chuyện với ba mẹ. Bạn tôi cười mà nước mắt hoen mi.
Như muốn làm Cát Đằng yên tâm, thư anh H. gởi về liên tục.
Anh đóng quân ở Cao Lãnh. Anh làm Đại đội trưởng một đại đội trực thuộc Tiểu
đoàn 3 Trung đoàn 14. Anh nói về một vùng đất trù phú, những người dân miền Nam
hồn nhiên, những đồng ruộng bạt ngàn, những cánh đồng chó ngáp… Anh ít kể chuyện
chiến trường, chắc để người yêu bớt lo.
Nhà ông Trưởng Ty muốn dạm ngỏ Cát Đằng trước khi con
trai đi du học. Cô bạn tôi nói với ba mạ “Con chưa muốn lấy chồng” nhưng sau đó
cô gặp riêng chàng trai và bảo “Tôi có người yêu rồi. Anh đừng mất công”. Tội
nghiệp anh chàng cứ đứng ngẩn tò te.
Cứ thế, những lá thư nối hai niềm vui. Cát Đằng mơ màng
dự trù với tôi về tương lai. Một ngôi nhà với ngọn lửa ấm và những đứa con
ngoan sẽ ra đời. Ước mơ trong tầm tay với. Tôi chia sẻ hạnh phúc với bạn bằng nụ
cười bao dung.
Buổi chiều hai đứa ngồi trước sân hóng gió thì một cánh
chim sâu sa xuống trước mặt. Bạn tôi nâng nó lên, âu yếm vuốt ve “Tội nghiệp
mày chưa. Chị nuôi em nhé!”. Mạ Cát Đằng đi từ nhà sau lên hốt hoảng: “Chim sa
cá nhảy. Ăn nói bậy bạ”. Rồi bà lấy một nắm gạo muối tung ra sân. Bạn tôi le lưỡi
“Mạ sao mê tín dị đoan. Thả con chim thấy tội bắt chết!”
Huế tháng chín. Mùa thu. Những trái thanh trà da đã rám
vàng. Tôi chở Cát Đằng lên Nguyệt Biều chọn những trái thật ngon về cúng Rằm
tháng Tám. Bạn không quên lựa một cặp thật đẹp để biếu mẹ anh H. chưng bàn thờ.
Hai đứa ngồi thòng chân xuống dòng nước sông Hương trên bến đò Dã Viên. Trời thật
đẹp. Nắng vàng như mật. Gió hiu hiu. Cát Đằng thở dài “Phải chi có anh H”. Tôi
nguẩy vai “Rồi sẽ có”
Rẽ vào căn nhà dốc Bến Ngự. Cô bạn nhanh nhẹn nhảy chân
sáo trên lối đi quen thuộc. Nhà vắng ngắt. Mùi hương trầm thoang thoảng trên
bàn thờ. Chị Hương ngồi lặng trên ghế, nước mắt chảy quanh. Bạn tôi hốt hoảng:
“Có chuyện chi rứa chị? Mẹ mô rồi?”. Chị Hương òa khóc: “Mẹ với anh Hùng đi
Vĩnh Long. Em ơi, thằng H.”… Cát Đằng quỵ xuống đất.Tôi và chị Hương đỡ vội
lên. Mặt bạn tái xanh, hơi thở ngắn như không còn sức sống. Tôi rót cho bạn một
ly nước lọc rồi hỏi han chi tiết. Chị Hương kể cho tôi nghe trong tiếng sụt sịt.
Anh Hùng từ Bình Dương gọi ra báo tin anh H. bị thương nặng trong cuộc hành
quân vào mật khu ở quận Mỹ An, vùng Đồng Tháp Mười. Mẹ chị đang trên đường vào,
chưa biết chi thêm. Trong bóng chiều chạng vạng, ba chị em ngồi yên lặng...
Không ai đủ sức đưa tay bật ngọn đèn điện. Chao ôi! Tuần trước tôi vừa đưa thư
cho bạn. Anh đang đóng quân ở Đồng Tháp. Anh kể cho bạn nghe về Gò Công - quê
hương của bà Từ Dũ mẹ vua Tự Đức; về cam Cái Bè; về mận Trung Lương… Thượng đế
ác nghiệt vậy sao? Anh vừa tròn 24 tuổi, ra trường mới chín tháng…
Không biết bằng cách nào tôi đã đưa Cát Đằng về đến
nhà. Bạn ngồi sau tôi xiêu vẹo như một cái xác không hồn. Tôi nói với bác gái bạn
bị trúng gió rồi đưa bạn vào phòng. Chân tay bạn lạnh ngắt. Đêm ấy tôi xin ở lại,
thi thoảng lắng nghe tiếng rên rỉ đau đớn của Cát Đằng. Mọi ngôn ngữ trong giây
phút này đều bất lực!
Nhưng nỗi bất hạnh không chỉ ngang chừng đó.Trong khi
Cát Đằng định thưa thật với ba mạ để xin phép vào Vĩnh Long thì mươi hôm sau, mẹ
anh H. nhắn ra anh H. không chỉ bị thương nặng mà còn mất tích. Cầm bằng như
anh đã chết.Thôi còn mong chi nữa. Lần này thì bạn tôi quỵ ngã hoàn toàn. Nỗi
đau ẩn giấu tận trong tim biến bạn thành một bóng ma câm lặng. Bác gái cứ căn vặn
tôi hai đứa có chuyện chi không. Làm sao tôi dám trả lời. Thôi cứ đế bác tối tối
thắp nhang ngoài cổng ngõ cầu cho con gái yêu đừng mắc “bệnh đàng dưới”.
Phải sau ba tháng mẹ anh H. mới ra Huế. Bà sút gần bốn
kí và hốc hác hẳn đi. Bà ôm lấy Cát Đằng khóc nghẹn “Con ơi! Bác không có duyên
làm mẹ con rồi!”. Cát Đằng òa lên nức nở. Thôi cứ để bạn khóc cho nhẹ lòng. Tôi
thật đau xót khi thấy đêm đêm bạn lôi tấm ảnh hai người trao nhẫn ra ngắm
nghía.
Không hiểu sao nhà anh H. không lập bàn thờ. Có lẽ niềm
tin của người mẹ cho rằng con mình chưa chết. Vâng, mất tích chưa hẳn là chết.
Mắt anh sáng, tai anh to vậy mà. Chắc bác vẫn hy vọng một phép mầu nào đó
chăng? Căn nhà đóng kín cửa. Mẹ anh H. vắng nhà luôn. Chị Hương bảo bà vào Bình
Dương chơi với cháu nội cho đỡ buồn Khu vườn rộng thui thủi một mình chị. Mỗi lần
ghé thăm, nhìn Cát Đằng, chị lại bệu bạo “Số em sao khổ thế H. ơi!”
Những đợt trao trả tù binh hai bên ở Lộc Ninh, Quảng Trị
làm cho Cát Đằng hi vọng. Biết đâu anh sẽ trở về. Anh chỉ bị thương thôi mà. Bạn
chăm chú theo dõi trên những tờ báo Tiền Tuyến, Sóng Thần… Nhưng tháng ngày
qua. Niềm hi vọng hầu như đã thành tuyệt vọng. Bất chấp hiệp định Paris, chiến
sự ngày càng ác liệt. Máy bay cứu thương liên tục hạ xuống bệnh viện Mang Cá
trong Thành Nội…
Rồi Huế nháo nhác, tan tác... Rồi đất nước tang thương…
Ba Cát Đằng đi “cải tạo” vì bị xếp vào loại “Ngụy quyền”.
Bạn tôi bước xuống cuộc đời.
Trải một tấm nilon ở góc chân cầu Trường Tiền, Cát Đằng
đi bán chợ trời. Cô tiểu thư con nhà quyền quý ấy bây giờ phải bươn chải với
gánh nặng áo cơm của cả gia đình. Bạn bán từng cái áo nhà binh cho người đi lao
động, vài cái lon Guigoz tiện cho người đi thăm nuôi, những chiếc áo dài cũ của
vợ các sỹ quan một thuở huy hoàng, gói thuốc lá Tam Đảo nặng mùi khét lẹt cho đến
cái chén kiểu, ly tách sang trọng một thời vang bóng... Nhìn bạn đếm từng hào
tiền Bắc sau buổi chợ, tôi chảy nước mắt. Nhưng một nửa đất nước đều như thế,
biết làm sao.
Thi thoảng nhờ em gái Hoàng Lan coi hàng, chúng tôi lên
Thiên An quét lá thông về làm chất đốt. Củi cũng phải mua bằng tem phiếu mà gia
đình chúng tôi làm gì có đặc quyền đặc lợi ấy. Sau khi nhét đầy lá vào hai bao
tải, chúng tôi ngồi dựa gốc cây nghỉ mệt. Cát Đằng âu sầu đưa mắt nhìn chung
quanh.Tôi biết trong đầu bạn đang nghĩ về những kỷ niệm xưa. Cũng nơi này, ngày
ấy có một cặp tình nhân thật đẹp đang nắm tay nhau đi dưới rặng thông. Cảnh đấy
người đây nhưng một người đà khuất bóng. Tôi không dám gợi lên điều gì với bạn.
Mọi chuyện cứ như là một giấc mơ nhưng mỗi sáng mai thức dậy lại phải đối mặt với
sự thật kinh hoàng.
Thành phố tăm tối hẳn đi. Mới 8 giờ tối điện đã cúp. Những
chiếc Honda đổi chỗ cho giai cấp cán bộ. Huế xuất hiện xe đạp thồ. Những khuôn
mặt đau khổ nhếch nhác. Những câu ca dao hiện đại được thầm thì chuyền miệng.
Những bài hát được chế biến bi hài. Người ta nhắc lại câu nói mười bốn chữ bất
hủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. “Rồi cứ thế ni mãi răng???” Mạ tôi ngữa mặt
than trời rồi chặt hết những cây mai vàng thay vào mấy luống khoai lang cứu
đói!
Bốn năm sau, ba Cát Đằng chết trong tù vì sức tàn lực
kiệt. Mạ bạn khô nước mắt đi thăm mộ chồng ngoài Thanh Hóa. Một mô đất trơ trọi
trong rừng được đánh dấu bằng viên đá xanh lớn. Còn đâu người đàn ông khả kính
trụ cột gia đình. Tóc bà bạc trắng. Cái lúm đồng tiền xưa kia đã trở thành ngoặc
đơn rồi ngoặc kép.
Từ nước ngoài người con trai yêu Cát Đằng ngày đó xuất
hiện như một vị cứu tinh. Anh ta gởi về giúp gia đình bạn những xấp vải, những
gói thuốc tây, những đồng đô la được khéo léo nhét trong hộp sữa… Tất cả chỉ nhằm
một mục đích chinh phục tình yêu của người con gái Huế mà anh ta say đắm. Mạ bạn
tha thiết khẩn nài “Con ơi! Thằng đó nó tốt, lại hiền lành, con nhà trí thức. Lấy
hắn con cũng sướng mà các em cũng đỡ khổ... Với lý lịch này thì nhà mình không
ngóc đầu lên được. Con chỉ có nước lấy anh xe thồ hoặc ông nông dân mà thôi”. Bạn
tôi gục mặt vào hai bàn tay khóc nghẹn. Phải chăng bạn đang nghĩ đến một Thúy
Kiều hiện đại?
Tôi khuyên Cát Đằng: Mọi chuyện đã trở thành quá khứ.
Anh H. mất rồi. Đã gần 7 năm. Bạn đâu phải là kẻ phụ tình. Trong hoàn cảnh này
đôi khi phải thực tế. Bạn yên lặng gật đầu
Mọi chuyện được thu xếp nhanh chóng. Bà mẹ chú rể từ nước
ngoài trở về. Một vài lễ nghi cần thiết trong buổi giao thời. Và xúc tiến giấy
tờ bảo lãnh.
Tôi đưa Cát Đằng lên thăm chị Hương lần cuối. May sao lại
gặp mẹ anh H. từ Bình Dương trở về Bác bảo có thể bác sẽ vào trong đó ở hẳn.
Bác ôm vai bạn tôi: “Bác mừng cho con. Biết tin này ở đâu đó chắc H. vui lắm”.
Trên bàn thờ vẫn chưa có ảnh của anh. Ghê gớm thay lòng tin của người mẹ. Bạn
tôi xin phép được lạy trước bàn thờ ba lạy và nhét vào túi mẹ anh H. chút vốn
liếng còm cỏi. Nước mắt người mẹ ứa ra tràn trề. Bà khẽ kêu “H. ơi!
Trước khi xuất cảnh, Cát Đằng đến nhà tôi ngủ lại một
đêm. Bạn đem theo cái hộp bánh CHOCOLATE chứa những bức thư của hai người, tấm ảnh
trao nhẫn được đặt lên trên. Cát Đằng bảo tôi “An Nhiên là một chứng nhân quan
trọng trong mối tình lớn của mình. Mình không thể mang theo kỉ vật quý giá này.
Bạn giữ giúp mình cho đến lúc nào còn có thể”. Tôi cất vào tủ sách, lòng ngậm
ngùi thương bạn.
Thời gian qua, Cát Đằng đã có một gia đình êm ấm. Ông
chồng thành đạt, hai con một trai một gái xinh xắn. Cả hai đang định cư ở thành
phố Denver, tiểu bang Colorado. Tôi mừng cho bạn. Cuối cùng, một cô gái ngoan
hiền như bạn tôi nhất định phải được sung sướng. Qua những cuộc trò chuyện từ
nước ngoài, tôi tránh gợi chuyện ngày xưa.
Tôi cũng đã có gia đình. Một ông chồng do bàn tay số mệnh
sắp đặt. Một ông chồng yêu vợ thương con nhưng vô tâm. Tôi cũng chẳng bao giờ
hé môi về chuyện bạn mình…
Ngày mai, gia đình tôi sẽ vào Nam lập nghiệp. Mở tủ
sách, tôi cầm cái hộp bánh cũ. Những bức thư nhuốm màu thời gian nhưng tấm ảnh
vẫn còn rất rõ. Ôi! Nụ cười hạnh phúc của cả hai người.
Tôi không thể đem chúng theo. Đốt thì tôi không nỡ. Suy
đi tính lại, tôi quyết định đem lên nhà chị Hương, nhờ chị đặt trên bàn thờ anh
H. Không còn gì để hy vọng về anh nữa rồi.
Căn nhà vẫn như xưa dù thời gian có làm nó già và cũ kỹ
hơn. Tiếng chim sâu vẫn kêu lách chách trên những vòm cây xanh. Tôi dựng chiếc
xe vào gốc ngọc lan, lòng bùi ngùi. Kỷ niệm ngày xưa ùa về trong ký ức. Một chiếc
xe lăn trên hàng hiên. Tôi trách mình đã lâu không thăm mẹ anh. Cuộc sống bận rộn
với cơm áo, gạo tiền làm mình trở thành người có lỗi.
Tôi tự nhiên đẩy cửa vào phòng khách khép hờ. Một người
đàn ông nằm trên ghế sofa, tay cầm cuốn sách, chiếc chăn mỏng đắp ngang thân,
phía bên dưới là một… khoảng trống. Anh ngước nhìn lên. Có phải tôi đang mơ?
Đôi mắt ấy, gương mặt ấy… Đúng là anh H. Anh cất tiếng “An Nhiên đấy ư em?”.
Tôi bàng hoàng, ngơ ngẩn.
Vâng, anh H. Anh bị thương nặng nhưng không chết. Trong
cuộc hành quân của Tiếu đoàn vào mật khu Đồng Tháp Mười, đại đội của anh sa vào
ổ phục kích. Môt mảnh B40 đã bay vào lưng anh, chạm ngay cột sống. Anh được đưa
về quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Bác sỹ cho biết mảnh đạn đã làm đứt
dây thần kinh tủy sống dẫn đến khả năng bại liệt suốt đời. Trong cái đau đớn tận
cùng của thể xác, anh vẫn nghĩ đến Cát Đằng. Không thể gắn số phận bất hạnh của
mình đối với người yêu, anh cắn chặt răng bảo mẹ báo tin với Cát Đằng là mình bị
mất tích. Và người mẹ đã làm theo lời anh…
Từ Cần Thơ, anh được chuyển vể Tổng y viện Cộng Hòa.
Các bác sỹ và y tá tận tâm chăm sóc anh. Vết thương bên ngoài tạm ổn, anh sang
Trung tâm phục hồi chức năng. Mẹ già theo sát anh từng bước. Đó là lý do khiến
bà bảo với Cát Đằng mình vào Nam sống với người anh cả.
Sau ngày 30 tháng 4, tất cả thương binh nặng nhẹ đều bị
tống ra đường. Anh về Bình Dương nương tựa nhà anh Hùng. Vết thương không còn
được quân y viện chăm sóc, lâu ngày bị hoại tử và hai chân anh bị tháo khớp tới
gối. Mẹ già mất, Cát Đằng đã đi xa, anh quyết định về Huế sống phần đời còn lại
bên người chị gái thương yêu. Gần mười mấy năm nay anh sống nhờ vào sự cưu
mang, đùm bọc của các khóa Võ Bị ở nước ngoài, những chiến hữu cùng đơn vị và một
số anh em còn kẹt lại ở quê nhà... Cao quý thay tình nghĩa đồng môn của những
chàng trai cùng trường Mẹ! Anh cũng tự ôn kiến thức để dịch thuật, để luyện thi
cho các học sinh nghèo vào Đại học. Cụôc sống không đến nỗi thấy mình là người
vô dụng.
Cầm xấp thư và tấm hình, anh H. trầm ngâm bảo tôi: “Anh
cám ơn An Nhiên. Cố vật đã tìm về cố chủ. Cứ để cho Cát Đằng nghĩ rằng anh đã
chết. Đó chính là tình yêu của anh giành cho cô ấy”. Anh nâng chiếc nhẫn có
viên hồng ngọc trên ngón tay áp út, âu yếm hôn vào nó. Chiếc nhẫn năm xưa, Cát
Đằng đã lồng vào tay anh trong đêm Lễ trao nhẫn trên Vũ đình trường.
Một cơn gió lạnh thoảng qua. Mùa Đông đã về trên thành
phố.
Hương Thủy
|
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 21/Mar/2019 lúc 8:45am | |
Chia Ly Nghẹn NgàoĐang kể tên các nghệ sĩ thuộc thập niên 60/70 để người bán hàng tìm trên computer, bà Lan chợt nghe ông Mỹ – sắp hàng sau bà – nhắc khẽ: - Bà tìm những ca sĩ đó mà tại sao bà không tìm Ricky Nelson, Dean Martin, Frank Sinatra? Bà Lan cười, nói với người bán hàng: - Em làm ơn tìm giùm CD của các ca sĩ mà ông này vừa nhắc – nhất là Dean Martin. Ông Mỹ phía sau lại tìm cách làm quen: - Tại sao bà thích Dean Martin? Sau khi trả tiền, bà Lan cầm bao ny lông có mấy CD bên trong, đi ra cửa. Ông Mỹ vội rời hàng, bước theo, tự giới thiệu: - Tôi là John Smith. Rất hân hạnh được gặp bà. Bà Lan bắt tay John: - Rất vui được gặp ông. Tên tôi là Lan. Bà Lan tránh câu trả lời: - Ông nhớ tên nhiều nghệ sĩ hơn tôi, điều đó chứng tỏ ông là một người am hiểu nhiều về âm nhạc. Đúng không? Vừa bước theo bà Lan ra xe, John vừa hỏi: - Thưa bà, tôi rất cần một phụ nữ cùng trang lứa với tôi để thỉnh thoảng đi nghe hòa nhạc. Bà có cho phép tôi… John dừng lại, nhìn bà Lan với ánh nhìn trìu mến. Bà Lan đáp: - Rất tiếc! Vừa nói “Cảm ơn” bà Lan vừa bấm nút để mở khóa xe. John vừa mở cửa xe cho bà Lan vừa nói: - Mong bà hiểu, tôi không còn ở lứa tuổi thanh xuân để bảo rằng mình
bồng bột, bị “tiếng sét ai tình”. Nhưng không hiểu tại sao chỉ mới gặp
bà, tôi lại rất muốn làm quen với bà. Bà là một thiếu phụ đẹp, thông
minh và quý phái. Lời chúc của John ngọt ngào như thế, nhưng trên đường lái xe về nhà, bà Lan lại cảm thấy tủi thân! oOo Sau khi ghé chung cư Woodlands Senior Independent Living thăm bà Lan, các con của Bà vội vàng giã từ Bà để kịp về đi chợ, đưa con đi tập bơi, học đàn, chơi basketball, v.v… Bà Lan cười nhưng bất chợt, nỗi buồn mênh mông cùng niềm cô đơn đậm đặc từ đâu ùa về, vây kín tâm hồn! Chờ hai chiếc SUV khuất ở khúc quanh, bà Lan mới quay vào chung cư. Vừa đến cửa phòng, chợt nghe tiếng Piano dìu dặc trong tình khúc None But The Lonely Heart của Tschaikowsky, bà Lan thở dài, đi về hướng phát ra tiếng đàn.
Đến cửa phòng khánh tiết, thấy một phụ nữ ngoại quốc tóc bạc phơ đang say sưa đàn và người đàn ông tóc hói, ngồi trên xe lăng, gục đầu – không biết ông đang nghe nhạc hay là ông đang ngủ – bà Lan đứng lặng một chốc rồi trở về phòng. Mở computer, sau khi login, thấy youtube có tựa hơi lạ – Anh Ở Đây – bà Lan mở ra. Tiếng acoustic guitar dạo phân đoạn đầu nghe trầm trầm rồi tiếng hát nghẹn ngào: “Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây. Áo rách xác xơ vai gầy, cùng chung kiếp sống lưu đầy. Anh ở đây, ngày ngày cơm chưa đầy chén... Toa liền toa, tầu đi trong ánh hoàng hôn, tiếp nối những dư âm buồn …” (1) Tiếng hát vừa đến đây, màn ảnh computer chợt mờ nhạt! Trong không gian nhạt nhòa vì nước mắt, bà Lan tưởng như có thể thấy lại hình dáng tàn tạ, đói khổ của Bà và các con ở kinh tế mới. Chiều Thu năm 1976, bà Lan vừa gắp vài miếng dưa leo để vào dĩa cơm thịt nướng, chợt nghe Hưng – con trai của bà – đang hát khe khẽ theo âm điệu bài Quốc ca của c.s.V.N.: “Đoàn quân cộng nô kia như một lũ chó. Chúng bây từ đâu mang điêu tàn vào Nam. Từ ngoài Bắc suốt kiếp chúng bây nghèo đói. Lết vào Nam vơ vét không ngừng tay…” Bà Lan hãi quá, run tay, làm rớt mấy miếng dưa leo. Vừa khom xuống lượm mấy miếng dưa bà Lan vừa bảo: - Hưng! Im đi, con! Ở tù đó, con! Bà Lan ôm Hưng, giải thích rất ngắn gọn. Hưng xụ mặt, bưng dĩa cơm đến bên cửa sổ toa xe, mời hành khách. Một người đàn ông gầy gò từ cửa sổ toa xe chồm ra nói gì với Hưng rồi ông ấy nhìn bà Lan chăm chăm. Chỉ một chốc sau, ông này rời xe lửa, đi nhanh về phía bà Lan, hỏi nhỏ: - Xin lỗi, phải chị là vợ của thiếu tá Hùng hay không? Bà Lan vừa dặn ba đứa con vừa chỉ về phía Năng: - Má phải nói chuyện với chú kia để tìm tin tức của Ba. Nếu hai chị
của các con mót khoai, mót củi về sớm, các con nói hai chị phụ với các
con, nha! Ngồi cạnh Năng, trên chiếc ghế nhựa thấp, bà Lan nghe Năng hỏi rất nhỏ: - Trước khi đi “đăng ký” vào tù, thiếu tá có nói với chị điều gì hay không? Sau khi được tin ông Thân bị bắt, vì muốn tất cả rời Đồng Bò để khỏi bị bại lộ, ổng bảo Quốc và em đem tin đến thầy Dưỡng và anh Đức. Không ngờ trên đường đi, Quốc và em bị bắt. Quốc và em bị tụi c.s.V.N. tra khảo, đánh đập rất dã man. Nhưng Quốc – nhờ có võ – tránh né được. Biết Quốc có võ, tụi c.s.V.N. huy động bộ đội đông gấp mười để “dần nát thây” mà Quốc cũng vẫn không khai. Lần cuối cùng, bị tụi c.s.V.N. bảo lên văn phòng “làm việc”, Quốc thấy một vệ binh mang súng ra cổng thay phiên gác. Chờ lúc tên quản giáo và tên vệ binh sơ ý, Quốc quật ngã tên vệ binh, cướp súng, bắn tên quản giáo còn tên vệ binh bỏ chạy. Quốc quay súng, để nòng súng dưới cằm, bấm “cò”, chết! - Trời! Tội quá! Nói đến đây, Năng nghẹn lời! Nhìn chuyến xe lửa khuất dần cuối nẽo xa, Năng tưởng như có thể thấy lại hình ảnh lếch thết của ông Hùng vào những buổi chiều cùng đoàn tù trở về trại sau một ngày quần quật chặt cây, cưa gỗ để xây trại tù, tự nhốt mình! Một buổi chiều, khi đoàn tù vừa về đến trại, Năng thấy toán vệ binh áp giải ông Hùng đến phòng quản giáo. Tên quản giáo đứng trước cửa, mắt lườm lườm, quát: - Ai cho anh hát nhạc phản động, hả? Ông Hùng bị đòn “hội chợ” trong khi mọi tù nhân cúi mặt! Khuya hôm đó, ông Hùng bị chuyển ra Bắc. oOo Nhờ người bạn giỏi âm nhạc viết bài Anh Ở Đây từ youtube thành bản nhạc có notes, chuyển đến bà bằng email, bà Lan rất vui. Sau khi in ra, viết lời ca vào, bà Lan đến phòng khánh tiết. Nhìn bản nhạc và dạo qua vài lần, bà Lan bắt đầu vừa đàn vừa hát nho nhỏ. Theo tiếng đàn và giọng hát – không còn trong và thánh thót như xưa – của chính mình, bà Lan nhận ra niềm u uất và nỗi nhớ thương của bà dành cho người chồng còn biền biệt phương xa dâng lên ngập lòng rồi tràn ra khóe mắt. Khi hát đến câu:“…Chiều Suối Máu xót xa buồn nhớ con. Tình thương em vẫn đong đầy khoé mắt. Chiều Long Giao sương mờ đêm u uất…” (1) bà Lan tưởng như bà có thể cảm nhận được sự thương nhớ, sự oán than, sự đau khổ, niềm khóc hận đang xâu xé trái tim của những thành phần ưu tú của Quân Lực V.N.C.H. trong các trại tù của c.s.V.N. Đang đắm hồn vào lời ca, tiếng đàn, bà Lan chợt cảm biết dường như có người đang nhìn bà từ phía trên tấm màn nơi của sổ. Ngẫng mặt nhìn lên cửa sổ, bà Lan thấy một bóng người khuất nhanh sau bức tường. Nhìn đồng hồ, bà Lan nhận ra bà đã đàn/hát khá lâu, có lẽ có người đang chờ để được đàn. Bà Lan ngưng đàn. Vừa mở cửa bước ra, bà Lan thấy một người đàn ông ngoại quốc đang ngồi lẻ loi. Bà Lan chưa kịp tỏ thái độ thân thiện thì người đàn ông vội đứng lên, giọng ngạc nhiên: - Bà Lan! Có phải bà là Lan – người tôi đã gặp tại tiệm bán băng nhạc cách nay vài tuần – hay không? Hai người vào phòng khánh tiết. Bà Lan mở nắp Piano, để bản nhạc trên giá nhạc. John ngồi trên ghế, cạnh Piano. Bà Lan dạo phân đoạn đầu rồi “bắt” vào: “Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây…” Khi tiếng hát nghẹn ngào như chan chứa nỗi xót xa đoài đoạn của bà Lan đến câu: “…Ôi đời ta, ngờ đâu trăm đắng nghìn cay. Khúc sắn bát ngô vơi đầy, sầu nuôi thân xác hao gầy. Bao ngày qua đợi chờ tin vui chẳng thấy, hận thù yêu thương còn đấy. Vui đành như cánh chim bay…” John thấy hai hàng nước mắt chảy dọc cánh mũi thon của bà Lan. John đứng lên, bước đến, khom người, thì thầm: - Cảm ơn nhiều. Nhưng xin bà dừng lại. Cả hai im lặng. Một chốc sau, John hỏi: - Hôm trước bà bảo chồng của bà bị c.s.V.N. cầm tù. Thế tình trạng hiện tại của chồng bà như thế nào? Như được dịp bộc lộ sự đau khổ tận cùng, bà Lan nói “một mạch” như đang thuyết trình: - Ông có biết là sau 30- 04- 1975, c.s.V.N. đã tạo nên bao nhiêu địa điểm trắc trở, khắc nghiệt, hung hãng và tồi tệ nhất thế giới để nhốt sĩ quan và công chức V.N.C.H. hay không? Mỗi khi đến những địa điểm đó thì phải có giấy phép của c.s.V.N. cấp chứ không phải ai muốn đi thì đi. Muốn có giấy phép thì người xin giấy phép phải hối lộ tiền cho c.s.V.N.. Nhưng, ở kinh tế mới, bo bo và củ mì mà chúng tôi cũng không đủ ăn thì tiền ở đâu tôi có thể hối lộ c.s.V.N. để xin giấy phép và đi khắp các trại tù để tìm chồng? Đó là chưa kể tôi bỏ năm đứa con dại ở kinh tế mới cho ai? John cúi mặt, đưa tay bóp trán, im lặng. Một chốc sau, John thở dài, hỏi: - Bà còn giữ ý định tìm chồng của bà hay không? oOo Suốt thời gian hai gia đình sum họp, Hưng đề nghị sẽ ăn cơm tại nhà hàng để bà Lan, chị em của Hưng và Nở – vợ kế của ông Hùng – khỏi nhọc công. Bà Lan cố ý không đến gần và cũng không tỏ cử chỉ thân mật với ông Hùng. Nở luôn tìm cách lánh mặt bà Lan; chỉ có hai đứa con của Nở và ông Hùng thì lúc nào cũng chơi đùa vui vẻ với cháu nội, cháu ngoại của bà Lan; và Hưng thì không rời “Ba Hùng”. Thấy “Ba Hùng” chỉ dùng iPad, Hưng mua tặng “Ba Hùng” computer với màn hình khá rộng và một máy in. Sau khi chỉ cho ông Hùng cách thức xử dụng computer, Hưng nói: - Từ nay, gặp trở ngại gì về computer, Ba gọi hoặc email cho “thằng Hưng của Ba” nè! Ông Hùng nghẹn lời vì bốn tiếng “thằng Hưng của Ba”. Hưng tiếp: - Ba ngồi, thực hành đi. Con ra phụ dọn dẹp để chiều Má và tụi con ra phi trường. Rời phòng, Hưng tìm bà Lan, khoe: - Ba vui lắm. Tội nghiệp Ba! Đang cùng con, dâu, rể cho áo quần vào va- ly, bà Lan chợt nghe tiếng ông Hùng cười vang “Ha…ha…ha…” Cả nhà ngạc nhiên, chạy đến cửa phòng computer, thấy ông Hùng vừa cười lớn vừa nói: - “Con giun đánh lắm cũng quằn”! c.s.V.N. dù ngụy biện/dối trá/sắt máu bao nhiêu đi nữa mà khi lòng dân nhận ra được dã tâm của c.s.V.N. thì c.s.V.N. “chạy trời cũng không khỏi nắng”! Hưng chẳng hiểu, vội hỏi: - Ba đọc tin gì mà vui quá vậy, Ba? Nở nhìn bà Lan, tỏ vẻ không hiểu. Bà Lan chỉ cười nhẹ trong khi ông Hùng giải thích: - Trong một xã hội độc đảng như Việt Nam mà ngày 20- 10- 2018, trong khi tiếp xúc với cử tri tại quận II Saigon, bà Nguyễn Thị Quyết Tâm – chủ tịch nhân dân thành phố ************ – đã bị cô Nguyễn Thị Thùy Dương quăng chiếc giày của cô vào bà Tâm. Giữa khi mọi người còn ngạc nhiên, ông Hùng tiếp: - Cái này mới ghê! Ngày 14- 09- 2018, ông Nguyễn Văn Túc – thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ – bị tòa án c.s.V.N. tại Thái Bình kết án 13 năm tù và 05 năm quản chế vì tội âm mưu lật đổ chính quyền thì ông Nguyễn Văn Túc nhìn quan tòa và nói “Địt mẹ tòa!” Lúc này bà Lan mới lên tiếng: - Em đã xem youtube “Một trận mưa dép giành cho ông Trần Văn Tuân” – phó chánh án tòa án nhân dân tối cao, vào ngày 25- 04- 2017 – khi ông Tuân xin lỗi bị can Hàn Đức Long, người đã bị tuyên án tử hình oan! Ông Hùng xác quyết: - Nếu mỗi người dân Việt trong nước đều can đảm, dám tỏ thái độ để khẳng định lập trường của mình thì đảng c.s.V.N. sẽ không còn! Nhìn đồng hồ tay, Hưng nhắc: - Thôi, đi ăn, Ba. Tụi con đói bụng rồi. oOo Mang giày cho cháu xong, bà Lan chợt nghe tiếng hát văng vẳng: “… Gọi người yêu dấu xa vời mà lòng lưu luyến bồi hồi. Ngày biệt ly đành nhớ nhau thôi khi chiều nhẹ rơi…” (2) Bà Lan đến bên cửa sổ, nhìn về hướng có tiếng hát và thấy ông Hùng đang tựa gốc cây sồi, ánh mắt xa xăm, vừa nhìn về phương trời vô định vừa “ngân nga” nho nhỏ “…Gọi người yêu dấu muôn đời, nghẹn ngào không nói thành lời. Tình yêu xưa ngày tháng phôi phai biết bao giờ nguôi…” (3) Bà Lan thở dài, cúi mặt, quay vào nhà. Thấy các con đem hành lý ra xe, ông Hùng vào nhà, giúp mọi người. Sau khi kiểm soát hành lý, Hưng bảo các con và cháu lần lược “hug” ông Hùng, dì Nở và hai em. Bà Lan ôm hôn hai đứa con của Nở và ông Hùng rồi xoay sang ông Hùng – không “hug” – khẽ nói: - Em và các con rất vui. Từ nay Bố con có thể liên lạc với nhau rồi. Bà Lan rơm rớm nước mắt, cúi đầu. Ông Hùng tiếp: - Anh cảm tạ em đã nuôi dạy các con nên người. Khi mới gặp lại nhau,
các con chỉ muốn nghỉ lại tại “nhà Ba” chứ không muốn nghỉ tại khách sạn
thì anh biết em đã giáo dục các con theo đạo lý của nền văn hóa Việt
Nam thuần túy. Với một phụ nữ đẹp, có tài – như em – mà em cũng vẫn
chung tình với anh thì em chính là Thiên Thần của anh. Anh cũng cảm ơn
chị Hai đã bảo lãnh em và các con sang Mỹ; nếu không có chị Hai, không
biết cuộc đời của các con có thoát được cảnh “xuất cảnh lao động” để con
gái đi làm điếm, con trai đi ăn cắp hoặc buôn bán cần sa hay không! Bà Lan tủi thân! Khi mới sang Mỹ, bà phải làm hai việc – toàn thời gian – và đi học lại! Mỗi đêm bà về nhà thì các con đã ngủ say. Các con của bà, đến lớp 12 đều vừa đi học vừa đi làm. Bà Lan buồn, nhưng không biết buồn ai và buồn vì cái gì, đành cắt lời ông Hùng: - Ai cũng tưởng Mỹ là Thiên Đường! Nhưng muốn lên Thiên Đường thì phải…chết rồi mới lên Thiên Đường! Bà Lan xoay sang, “hug” Nở và khẽ nói: - Cảm ơn em đã giúp đỡ, thương yêu, lo lắng cho anh Hùng; nhờ vậy, anh Hùng mới sống được để gặp lại các con của anh ấy. Nở xúc động, khóc ròng: - Bộ chị “hỏng” giận em sao? Hưng bước đến: - Sorry, Má, Aunty (Dì)! Má và tụi con phải đi kẻo trễ. Con sẽ gửi vé máy bay cho Ba, Aunty và hai em đến thăm Má và tụi con vào dịp Tết. Ok! Ông Hùng bước theo Hưng và bà Lan ra xe. Bà Lan ngồi vào ghế bên phải của Hưng. Hai chiếc xe Van từ từ chuyển bánh. Nhiều bàn tay vẫy vẫy và nhiều tiếng “bye, bye” hướng về phía ông Hùng. Trong khi kéo “seat belt”, bà Lan nhìn vào kính bên phải, vẫn thấy ông Hùng đứng lặng nhìn theo. Nhìn dáng ông Hùng nhỏ dần…nhỏ dần…bà Lan tưởng như tiếng hát ngọt ngào của Whitney Houston đang ngân lên từ tâm thức của bà: “… So good bye. Please don't cry… And I will always love you…” (4)
Điệp Mỹ Linh |
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 21/Mar/2019 lúc 11:34am | |
Thơ ÐÔI BỜ THƯƠNG NHỚ - Nhạc LÒNG MẸ Y Vân <<<<<Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 21/Mar/2019 lúc 12:38pm |
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 22/Mar/2019 lúc 7:04am | |
Con Tàu Chỉ Có Một Người
Anh
cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền Nam. Sau 75, đều bị tập
trung cải tạo. Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một hai lần đồ ăn,
sau đó thì biệt tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đình nhiều lần.
Nhưng không thấy vợ trả lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ. Sống trong
trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn,
người đó kể như chết. Anh biết mình nằm trong số người bất hạnh đó. Nên
anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứ tự lực gì nổi.. Có
được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức ăn dành dụm
từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác tìm bất cứ thứ gì
có thể bỏ vào bụng cho đở đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như
dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo tìm kiếm đào bới như
nhau. Ai tìm được nấy ăn.
Chuyển
ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tả hơn. Không quen với cái lạnh thấu
xương, bụng thì đói meo. Trông anh như một ông cụ già hom hem. Công việc
nặng nhọc làm cho anh còm lưng. Ngày trở về thì không thấy hy vọng. Anh
cứ nghĩ mình kéo dài tình trạng đói khát, nặng nhọc nầy mãi, thì thế
nào cũng bỏ xương tại cái xứ đèo heo hút gió nầy. Trốn trại thì không
can đảm. Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp
điệp. Đành phải bó tay chịu trận.
Bỗng
nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường bưu điện. Anh nghĩ
chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nhìn tên người gửi
lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy
nhiên vì đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự
thèm khát đã lên tới tột đỉnh. Mà chắc gì gói quà được trả về cho khổ
chủ của nó! Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ
cũng chia nhau. Trong lúc mình đang cần, anh an ủi mình như vậy. Anh về
trại. Bạn bè tới chúc mừng anh. Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần
có thăm nuôi. Không còn mồ côi như trước. Gói quà đã được mở ra kiểm
soát, cột lại sơ sài trước khi giao cho anh nhận lãnh.
Ai
nhận quà về đến chỗ nằm của mình, đều bóc ngay ra.. Còn anh thì không
dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn
loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đã. Nhưng khi cầm
gói quà trên tay, không phải tên vợ mình gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm
gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ,
vẫn không tìm ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà.
Bạn bè tù cùng phòng với anh thì nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không
được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung
sướng. Không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được
mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào
vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải
là trong gói quà có những gì để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng
nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói gì.
" Anh yêu quý,
Anh
đã mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đã chết. Em và các con lập bàn thờ
mấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô tình đến thăm một người
bạn, có người anh được thả ra từ trại cải tạo Miền Bắc. Em hỏi thăm là
có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh
không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên
ấy, trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay
không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi.
Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không còn mồ
côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban
Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lý do vì loạn
lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không còn chỗ cũ, nên không nhận được
giấy gửi quà thăm nuôi.
Anh
đừng để vi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽ được nhà nước khoan hồng
để sớm về đoàn tụ với gia đình. Có dịp được trại cho phép viết thư, anh
viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những gì lần sau có
giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh
về.
Thư nầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh.
Vợ anh
Lê Thị Hồng"
Anh
không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ ky, anh và ông Hữu
kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất
tích trong chiến tranh, còn anh thì trình diện đi cải tạo. Người đàn bà
nầy vì quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn,
chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện bình thường. Mà cán bộ kiểm duyệt
thư từ cũng lơ đễnh, không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nhìn gói
đồ ăn mà lòng trĩu nặng. Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà
vẫn chờ đợi. Còn mình sống sờ sờ vợ chẳng thèm ngó ngàng tới.
Đọc
thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại như cũ. Anh nằm gác
tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung phòng đến hỏi thăm tin tức
gia đình anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có
lẽ gia đình anh đang gặp rắc rối gì đó, nên anh buồn ít nói.
Sáng
hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái gì để ra ăn buổi trưa. Anh
không biết phải làm sao với gói quà mà anh đã nhận. Anh cảm thấy mình
giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết
thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một
con dế, con cóc thì xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà
có thịt chà bông, cá khô, muối sả ớt v.v.... anh lại sờ sợ. Lương tâm ư?
Làm gì có thứ nầy ở đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng
của anh lúc ấy. Vì đụng vào đó, anh thấy mình như bị phạm tội. Buổi
trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm
các thứ mà mình đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh.
Anh không thể nào chống lại nổi sự đòi hỏi hợp lý nầy. Thôi thì tới đâu
hay tới đó.
Ngày
hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số bạn cùng cảnh ngộ
với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà.
Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh
thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần về
sau nguôi ngoai. Hình như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn
rứt hơn là phạm tội một đôi lần.
Vài
ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về gia đình. Đây là
một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê Thị Hồng?
Gửi cho vợ thì bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, còn gửi cho chị Lê Thị
Hồng, thì biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta.
Nếu thư không bị kiểm duyệt thì chuyện nầy dễ nói. Còn thư tù như anh
thì qua biết bao nhiêu cửa ải. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác
chuyện nầy sẽ tống cổ anh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lãnh đồ thăm
nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái tội nầy bạn bè biết được thì
khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đã lỡ rồi, đành phải theo lao vậy. Anh
đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.
"Hồng em,
Cám
ơn em rất nhiều về gói quà vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo gì cho anh
nữa, ở đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không
thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em ở nhà cố gắng dạy dỗ các
con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước
cách mạng.
Nhờ
ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà
nước ta. Anh học tập đã hiểu thế nào con đường lầm lẫn của mình trước
đây. Anh đã ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về
với gia đình, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con
đường cũ nữa, phải sống hòa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà
nước..
Nhắc lại cho em rõ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây anh ăn uống rất đầy đủ, hãy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con.
Cầu chúc em và các con khỏe mạnh.
Chồng em
Nguyễn Hữu"
Anh
nhắc lại hai lần chữ "lầm lẫn", để chị Hồng biết đoán ra mọi sự, không
dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ. Hai ngày sau,
văn phòng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện gì
xẩy ra. Có lẽ vì mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông
minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa tìm cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra
cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao thì ra. Mỗi lần gọi
người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều gì.
Các bạn tù cùng phòng lo lắng cho anh.
Anh
bước vào phòng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết chuyện lành dữ
ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết cho chị
Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá
mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm rãi
hút. Người cán bộ nhìn anh nói: "Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia
đình cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh thì không, lại bảo chị đừng gửi
gì cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?"
Anh
lắc đầu: "Nhiều năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đình
tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức
mất. "
"Anh
nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen
chịu cực khổ. Mới có vài năm đã thấy thèm khát đủ thứ. Chúng tôi mấy
chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hề hé răng."
Người
cán bộ nói tiếp: " Chúng tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy
chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh về với gia đình. Nghẹt vì các anh
chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm giữ thêm
một thời gian nữa."
Anh ấp úng: "Vâng, thưa cán bộ."
Người
cán bộ nhìn thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói: " Thay mặt Quản Giáo
trại, tôi biểu dương tinh thần ý thức của anh. Thư anh gửi có giá trị
thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề
bạt để anh được về sớm với gia đình."
Mấy
thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm. Nên chúng nó ra
sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười thầm
trong bụng với cái chiêu dụ nầy.
Người
cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn, thoát được sự
căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về
chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, vì lá thư viết
không đúng tiêu chuẩn. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể.
Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi.
Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ ký của anh, không phải của
chồng. Không cần mấy chữ "lầm lẫn" kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự
là chồng chị đã chết.
Ngày
nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm là mình
trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không còn hy vọng có ai đó ngó
ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đình gửi quà.
Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày.. Vì
thế nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn mình ao ước sẽ được người
nhà mang đến. Còn anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao
nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đã làm cho anh chai lì mọi ao ước.
Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng.
Nhận
quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần ngạc
nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, vì biết đó không phải là quà
của mình. Không dám đọc thư vì biết thư đó không viết cho mình. Lần nầy
thì ngược lại. Về đến chỗ nằm thì anh xáo tung để tìm lá thư ra đọc. Thư
viết cũng thắm thiết như lần trước, không hề đá động gì sự lầm lẫn mà
anh đã nhấn mạnh. Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế
mà tại sao không biết mọi sự lầm lẫn đó. Trong thư nầy chị Hồng lại hiểu
sai vấn đề, nghĩ rằng vì mấy năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận
dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc
kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng. Phó mặc mọi chuyện cho
trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và lì lợm. Hình như anh muốn tạo ra tình
huống nầy, để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà không
thẹn với lương tâm.
Mỗi
lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay. Nhủ với
lòng mình như vậy, nhưng dễ gì quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói
hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là hình ảnh chị Hồng
lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm
lòng thương chồng của chị đã làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương
hại cho hoàn cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn
chung của xã hội, nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ gì
xa xôi hơn như chuyện thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là
chồng của mình.
Mọi
chuyện vẫn bình thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải tạo. Anh
vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi lao
động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê
Thị Hồng đến thăm. Lần nầy thì anh bối rối thật sự. Anh biết sự gặp nhau
nầy rất bẽ bàng và ngượng ngập. Mọi sự thật sẽ làm cho chị Hồng đau khổ
biết mấy. Với anh thì không sao, anh đã biết trước mọi chuyện, anh đã
chuẩn bị tinh thần. Dù gì thì anh cũng phải trả lại sự thật nầy. Anh
không muốn nó cứ mãi kéo dài, cứ mãi gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh
cố gắng diễn tả cho chị ấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm
miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô
loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, để chị tha thứ. Anh
sợ một vài tháng bị cùm, sợ mất mấy miếng ăn, mà phải để lại sự hiểu lầm
trầm trọng. Để chị phải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từ Sài Gòn
ra tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng mình.
Người
cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từ xa anh nhìn thấy
người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp. Tự nhiên
chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi. Tim
anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và
hối hận. Chị Hồng nhìn anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở. Mặt cúi xuống
bàn. Tiếng khóc ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối
diện. Nước mắt anh cũng chảy dài. Anh không nói được với chị câu gì.
Những gì anh đã chuẩn bị bay đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm
soát thấy hai người cứ khóc mãi.. Có lẽ anh ta nghĩ rằng vì vợ chồng
lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu ngày, để họ khóc cho đã nư.
Anh ta cũng chẳng cần để ý tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi ra cửa sổ khạc
nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị: "Xin lỗi...xin lỗi chị".
Chị
ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ý cho anh biết đừng nói gì
thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất não nuột. Nhưng trong
tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những gì anh đã chuẩn bị nói ra với
chị. Chị lau nước mắt nhìn anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức
khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đình, cho vừa
lòng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi
học bình thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đình, dòng họ, trông anh
mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm
hầu hết thời gian thăm nuôi. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị.
Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không còn nữa. Chị khóc cho
số phận hẩm hiu của mình, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng.
Cán
bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa tay nắm lấy tay anh.
Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết tại sao anh
bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy lòng thương hại của chị
dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đòi hỏi gì hơn, với người đàn
bà không phải là vợ mình. Khóc cho mình, mà cũng thương cho chị lặn lội
đường xa tìm chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh
chị chia tay. Anh gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị
đứng dựa vào cột tre nhìn theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần
nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nhìn thấy
cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải
lìa xa.
Anh
gánh vào tới phạm vi giam giữ, thì các bạn anh chạy ra phụ mang đồ về
phòng. Anh đứng lại nhìn ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến
khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc còn
để lăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần
lại. Những giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa
giờ gặp nhau, anh chỉ nói ra được hai tiếng xin lỗi. Màn kịch do chị
diễn ra thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm
thấy rất tự nhiên không ngượng ngịu. Không sao hiểu nổi được lòng chị.
Ngồi
nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nhìn anh. Khuôn mặt chị thật
đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đã biết trong mấy lá thư
gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong
manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay
đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho
anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên hệ
với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là
chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rõ ràng, khi gặp anh tức là chồng
chị đã chết. Nghiệt ngã thật. Chị bật khóc, vì thương cho chồng thì ít,
mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù tội, lao khổ, bị gia đình
bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đã lâu, nước mắt của chị đã bao năm
khóc cho chồng, bây giờ đã khô cạn. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi
thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đình vợ
con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, dày xéo trên thân thể
những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông
thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối
diện..
Đêm
nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài
Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức, nhìn
ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước
đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào
cảnh khốn cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có còn giữ liên lạc với anh
không?... Dù sau nầy thế nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với
anh suốt đời không quên được. Anh hứa với lòng mình, sau khi được trở
về, anh sẽ tìm thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật
nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.
Anh
thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều
nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của
một đời người. Nhưng thật vô cùng quý báu của một tấm lòng. Tội nghiệp
chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.
Phan Xuân Sinh
|
||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22125 |
Gởi ngày: 24/Mar/2019 lúc 8:51am | |
Con Gái Của Ba, Bây Giờ Con ở Đâu ?!
Kiều Kha con của Ba Kiều Kha con gái của Ba Thảm thay khúc ruột mù xa dãi dầu Bây giờ con ở nơi đâu?! Trời ôi, Làm sao được biết con tôi thể nào?! Từ con biền biệt tăm hao Mẹ, cha canh cánh niềm đau biển trời Lung linh hình bóng con côi Sương phơi áo mỏng trên đồi xanh dâu Bây giờ con ở nơi đâu?! Bây giờ con ở nơi đâu?! Càng nghĩ Càng nhớ Càng đau Vuợt biên năm ấy xiết bao kinh hoàng Con ơi trời biển mênh mang Hải Âu biệt dạng vô vàn xót xa Cõi hồn oằn oại phong ba Sông Thương mạch nước chảy ra não nùng Hỡi trời thăm thẳm mông lung Hỡi con một thuở trùng phùng bao la!! Con ơi cha yếu mẹ già Hằng mong gặp lại con của Ba một lần
Hỡi đồng hương hỡi qúi nhân Chỉ giùm tin trẻ vô ngần đội ơn Một hoa sứ trắng cô đơn Một con chim nhỏ chập chờn chít chiu Rừng nghiêng đổ lá... hoang chiều Vong nhân thơ thẩn đìu hiu bên rừng Buồn, rừng suối chảy rưng rưng Buồn, mây vắt võng lưng chừng đầu non Ngậm ngùi mây hợp mưa tan Ngậm ngùi trở giấc bàng hoàng chiêm bao
Trăng ơi Trăng ngự trên cao Thấy con ta ở nơi nao bảo giùm Ngời Trăng tỏa sáng không trung Biết chăng Hồng Lạc trùng trùng khổ đau?! Bỡi vì đâu,tại vì đâu Hồng Kỳ giặc dữ ập vào điêu linh Ngất trời tơi tả lửa binh Để làm Một Cuộc Hoà Bình Tả Tơi Lạc Hồng lưu lạc muôn nơi Bóng chim thăm thẳm con ơi... ngùi ngùi... ngùi ngùi..!!
NGUYỄN - MINH - THANH |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 25/Mar/2019 lúc 4:36pm | |
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22125 |
Gởi ngày: 25/Mar/2019 lúc 8:39pm | |
Một chuyện tình thời chinh chiến Ðầu tháng 9-96, báo Ngày Nay ở Houston có đăng một lá thư, tác giả
là một người đàn bà ký tên Nga (Sàigòn) gửi cho người yêu cũ Duy, tức
Ðại Tá Không Quân Ðặng Duy Lạc, người đã viết đoản văn “Giòng Ðời” trên
Ðặc san Ngàn Sao của Hội Không Quân Houston, số mùa Hè 92 với bút danh
Duy Lạc.
“Giòng Ðời” là một bài văn hồi tưởng về cuộc tình lỡ của tác giả
trong thời niên thiếu. Ðó là mối tình đầu, như rất nhiều mối tình đầu
dang dở khác, ở cái thời đại mà tình yêu trai gái coi như trái cấm bởi
vòng rào luân lý, và quan niệm tương giao nam nữ khắt khe của xã hội
đương thời. Biết bao mối tình trong sáng, ngây thơ, chất phác, như những
đóa hoa yêu hoa lệ nở rụt rè, rồi tan vỡ, để lại trong văn chương nhiều
chuyện tình đẫm lệ, dư âm còn mãi đến bây giờ.
Trong phần giới thiệu, Ngày Nay viết: “… Tác giả (Duy Lạc) kể lại
mối tình đầu của mình vào thời niên thiếu, lúc cắp sách đến trường huyện
với một người con gái tên Nga học cùng lớp. Lúc đó, vào dịp toàn dân
kháng Pháp, 1945. Thời thế sau đó đổi thay, ông Duy Lạc vào Nam, rồi trở
thành một Sĩ quan Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Còn cô Nga trở thành
một người lính của phía bên kia, vượt Trường Sơn vào Nam .
Chuyện không ngờ là tờ Ngàn Sao lọt được về Sàigòn, và cô Nga
ngày xưa được đọc bài “Giòng Ðời” và sau đó, viết một bài chuyển ra
ngoài với tên “Hồi Âm Giòng Ðời”… Ðây là một bức thư tâm tình riêng tư
giữa hai người bạn lòng, nhưng tình tiết ghi lại một giai đoạn phân ly
nghiệt ngã của đất nước…”
Bài “Hồi Âm Giòng Ðời” đăng trên Ngày Nay đã gây một xôn xao dư
luận, nhất là trong dư luận Không Quân. Ở một vài nơi, có những báo khác
đăng lại. Ðây là chuyện tình cảm động của thế hệ chúng ta, với đầy đủ
tính cách bi thương, lãng mạn, chung thủy và đằm thắm biết bao, trong
bối cảnh đau thương của đất nước, với cuộc phân tranh đối đầu chủ nghĩa,
huynh đệ tương tàn.
Lý Tưởng đăng lại bài văn “Hồi Âm Giòng Ðời”, vì thứ nhất, ngoài
tính chất bi thảm của một câu chuyện đầy bi thảm, còn vì cái đoạn kết
bất ngờ và đau sót là Ðại Tá Ðặng Duy Lạc đã chết đường đột, ít ngày sau
khi bài báo được phổ biến. Có thể chăng, lá thư tình gởi muộn đã làm
anh rúng động và cảm xúc, vì ăn năn, hờn trách mình ngày xưa đã rụt rè,
yêu không dám ngỏ và đã hiểu lầm, hóa nên cuộc tình thành chia biệt 40
năm…?
Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều… (Kiều) Phải chăng chính cái tâm
“quán tưởng” theo kinh Phật mà Nguyễn Du đề cập đến rất nhiều lần trong
truyện Kiều, đã khiến con người nòi tình nghệ sĩ Ðặng Duy Lạc tưởng
tượng thêm ra những tình tiết đẹp đẽ cho mối duyên dang dở, để càng nặng
lòng tiếc nuối, âu sầu, đắm đuối mình trong niềm ai oán với trò chơi
nghiệt ngã của định mệnh? Anh khổ đau, dằn vặt bởi giòng chữ bùi ngùi
thương tội “Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng
em một vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt…”
khiến “Anh Duy thân mến” của Nga đã bơi ngược giòng đời, day dứt niềm
thương, đem xuống tuyền đài mối tình đằng đẳng chưa tan.
Thứ nữa, “Hồi Âm Giòng Ðời” của Nga Sàigòn có một giá trị văn
chương cao vượt trên “Giòng Ðời” của Duy Lạc khó mà phủ nhận. Người nữ
đó đã sống hết ngả truân chuyên, trôi cuốn theo giòng cuồng lưu vận
nước, vô độ thảm thương hơn thân phận Thúy Kiều, khổ đau và tủi nhục
trên cả Lara trong “Dr. Jivago”, vượt xa cơn khốn khó của Catherine
Barkley trong “A Farawell To Arms”. Những nhân vật nữ đa truân của văn
chương nhân loại. Người đàn bà tên Nga đã cho đi ở lứa tuổi thanh xuân
đẹp đẽ đó, cả cuộc đời nàng vì lý tưởng thiêng liêng dành cho đất nước,
thủy chung ôm giữ mối tình đầu câm lặng cùng niềm u oán… Ðể bốn chục năm
sau, bàng hoàng sống lại nguyên tròn cảm giác bồi hồi xưa cũ, nửa đêm
ngồi viết lá thư dài, gửi “Anh Duy dấu yêu” những lời nồng nàng tha
thiết, bây giờ mới ngỏ… Ðể tim người tình năm xưa quặn thắt và đau buốt
nhức, tay cầm tờ thơ cũng run lên, như trước đây, bên trời xa mù tắp,
Nga cũng run lên “còn hơn bị B-52 trải thảm”, khi đọc “Giòng Ðời” trên
giai phẩm Ngàn Sao.
Thiên tình sử đã được viết ra bằng những giòng chữ đầm đìa ngấn
lệ, văn chương tới độ chân thành, cảm động, khiến hoe rưng người đọc.
Thêm vào đó, “Hồi Âm Giòng Ðời” còn là một tác phẩm sâu sắc, tát thẳng
vào mặt chế độ với những giòng chữ viết ra từ một người theo cách mạng…
Ðó là tâm trang não nề của “người đàn bà góa bụa mái tóc đã bắt đầu điểm
sương ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất…
“Hồi Âm Giòng Ðời” nói lên đầy đủ cái thảm kịch của thế hệ chúng
ta, của phần số đau thương bất hạnh dân tộc ta gánh chịu. Lý Tưởng trân
trọng mời bạn đọc theo dõi và cảm xúc với từng giòng chữ phô diễn chân
thành tâm trạng người viết, để hiểu tại sao cái khổ đau ray rứt đã khiến
ông Ðại Tá Phi công Khu trục Ðặng Duy Lạc không gượng nổi, phải từ giả
anh em, từ giả bạn bè để ra đi mang theo tình yêu thánh hóa sang bên kia
thế giới… (Ðào Vũ Anh Hùng)
GIÒNG ÐỜI
Duy Lạc.
Tôi sinh ra vào thế hệ của thập niên 30. Thế hệ của chúng tôi chịu
nhiều xáo trộn điên đảo nhất trong giòng lịch sử 60 năm của dân tộc
(1930-1990). Chúng tôi may mắn là nhân chứng của nhiều sự hưng vong của
bao chế độ và cuối cùng được nhìn tận mắt sự sụp đổ ngoạn mục của chế độ
Cộng sản bạo ngược khắp thế giới. Ðó cũng là một niềm an ủi cuối đời
cho thế hệ chúng tôi, những người chống Cộng sản phải bỏ nước ra đi lang
thang, bơ vơ, chịu nhiều bất hạnh, mang nhiều nổi đau buồn trên đất
khách.
Ngày xưa từ tuổi nhi đồng qua thời niên thiếu, chúng tôi chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của luân lý đạo đức Khổng Mạnh qua các tập “Luân Lý Giáo
Khoa Thư” ở nhà trường. Trong xã hội lúc bấy giờ, một thời văn chương
lãng mạn của các nhà thơ: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Hàng Mạc
Tử, Chế Lan Viên.v.v… và nhóm chủ trương Tự Lực Văn Ðoàn của Nhất Linh
đã mang lại cho chúng tôi một ít mơ mộng về tình yêu (Hồn Bướm Mơ Tiên),
hay ý thức mơ hồ về các hoạt động cách mạng (Ðôi Bạn). Sau đó từ năm
1935-1945, dòng nhạc tiền chiến trữ tình và lòng yêu nước của Văn Cao,
Lưu Hữu Phước, Phạm Duy,Tô Vũ, Ðặng Thế Phong.v.v… đã thật sự thấm nhập
tâm hồn tuổi trẻ vừa lãng mạn vừa khơi động tình yêu tổ quốc của tuổi
thanh niên.
Kế đến thế chiến thứ hai vào giai đoạn chót bộc phát dữ dội. Bom
đạn của chiến tranh bắt đầu tàn phá quê hương. Nương theo sự thất trận
của Nhật, nhiều phong trào yêu nước chống Pháp nổi dậy, cuối cùng đi đến
ngày 19-8-1945, ngày toàn quốc khởi nghĩa mà bọn Việt Minh Cộng sản quỷ
quyệt cướp lấy công đầu. Và cũng từ hoàn cảnh đó, đám thanh niên thế hệ
chúng tôi một số vào rừng, vào bưng, vào chiến khu để theo tiếng gọi
thiêng liêng của Tổ Quốc. Một số khác vì còn trẻ tuổi, phải bỏ thành phố
tản mác về vùng quê để tạm lánh cư.
Cũng như mọi gia đình khác, cha mẹ chúng tôi vội vã bỏ hết gia
sản chạy về vùng quê miền Trung. Từ đó đời tôi bắt đầu một khúc quanh:
cơ cực cũng lắm, hạnh phúc cũng nhiều, chạy dài suốt một thời niên
thiếu. Tôi dần dần yêu thích cảnh sống đồng quê. Say sưa với núi cao,
biển rộng, rừng thông, đồi cát, ruộng mía nương khoai với những hình ảnh
của đình chùa, miếu mão. Tôi yêu thương làng tôi qua lũy tre xanh. Con
đường nho nhỏ thông reo. Ngôi đình cổ kính nằm bên chân đồi. Tôi mê nhất
những buổi trưa hè ngồi nghe tiếng thông vi vu, réo rắt một điệu nhạc
buồn như tiếng sáo diều từ lưng đồi vọng lại.
Tuổi thơ của tôi thấm đậm tình quê hương từ những ngày tháng êm
đềm thơ dại đó. Những năm đầu kháng chiến, gia đình tôi chưa đến nỗi sa
sút. Tôi được đi học tại trường Trung học cấp huyện, cất ngay trong
làng. Ở miệt thôn quê thời kháng chiến, sự học hành bị gián đoạn nên học
sinh tuy ngồi chung lớp nhưng tuổi tác chênh lệch nhau. Trong lớp “Ðệ
nhất niên” của tôi có độ mươi cô nữ sinh. Các cô thuộc người làng hoặc
từ những làng kế cận đến học. Phần nhiều nữ sinh thuộc gia đình giàu có
trong đám hương mục ngày xưa như Chánh Tổng, Xã Trưởng, Hương Lý, Hương
Hộ.v.v…
Các cô tuy là gái quê nhưng trông cũng xinh đẹp lượt là lắm. Tôi
thời đó học hành dốt nát, chỉ thích lêu lỏng ngoài đường. Chuyện nhà
trốn tránh, chuyện bạn bè thì mau mắn. Tôi lang thang suốt xóm trên làng
dưới, tập đàn ca với đám nữ sinh cùng lớp, ít khi có mặt ở nhà.. Công
việc nặng nhọc trong gia đình tôi giao cho chú em kế gánh vác. Mẹ già
nhiều lúc mắng mỏ rầy la, tôi vẫn trơ mặt thịt.
Ðã vậy tôi còn tơ tưởng yêu đương. Tôi yêu tha thiết một cô em
tên Nga cùng lớp. Em ngồi dãy bàn trước mặt. Tôi còn nhớ chiếc áo
chemise lụa mỏng và chiếc quần lãnh đen của em. Em có đôi mắt nhung
huyền sâu thẳm như đáy hồ thu mà tôi tự nguyện chết đuối trong đó những
lần em quay lại nhìn tôi cầu cứu. Ðôi môi em đỏ hồng gợi cảm. Những lúc
em ban phát cho tôi một nụ cười cám ơn khi tôi cho cóp bi bài toán là
những lần tim tôi như ngừng đập. Em thường liếc xéo tôi mỗi khi tôi trêu
chọc. Cái nguýt dài, con mắt có đuôi, kèm theo một nụ cười mỉm của cô
gái dậy thì, có lúc là một “message” ưng chịu kín đáo của thời đó.
Thật tình lúc bấy giờ tôi không đoán được Nga có cảm tình gì với
tôi chưa. Nhưng riêng tôi, tôi đã mê tít nàng. Cứ mỗi ngày cô em nghỉ
học là mỗi ngày tôi thẩn thờ nhớ nhung. Tôi tương tư nàng như Nguyễn
Bính tương tư “Cô hàng xóm”
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh dờn…
Tuy yêu thương mê mẩn như thế, tôi chưa dám nói một lời yêu
thương cùng nàng. Hồi đó tôi đen đúa xấu trai. Tóc chải bảy ba có thên
một chút tango ổ quạ ngay trước trán (thời trang 1945). Tôi gầy đét và
cao lêu nghiêu như cây sậy. Thật tình nhìn kỹ tôi chả giống con giáp
nào! Tôi chỉ được tiếng “người Sàigòn” và một chút tài mọn về đàn ca hát
xướng. Vì vậy, tôi chủ quan nghĩ rằng em đã cảm tình với tôi. Một hôm
vào dịp nhà trường tổ chức đi cắm trại qua đêm ở một rừng dừa ven biển.
Dĩ nhiên tối hôm ấy có đốt lửa trại và thi đua văn nghệ, giữa mấy trăm
học sinh cùng trường. Tôi táo bạo ghi tên tham dự, cốt để chứng tỏ với
Nga về khả năng văn nghệ của mình.. Ðêm hôm đó, trước đám đông đảo học
sinh, tôi đơn ca bản nhạc “Nhớ Chiến Khu”, một bài ca tủ của tôi, “Còn
đâu trong chiến khu trên rừng chiều. Bên đèo tiếng suối reo, ngàn thông
réo…” Tôi đang mơ màng vừa ca vừa diễn xuất bộ mặt sầu sầu của anh Vệ
quốc Quân nhớ nhà, nào ngờ đến đoạn cao nhất của bài hát, một phần vì
khớp, một phần vì nhìn thấy cô nàng đang theo dõi mình, tự nhiên tôi té
giọng kim, dứt đoạn, rồi ngừng ngang nửa chừng. Tôi đứng như trời trồng
giữa tiếng vỗ tay la ó của đám học sinh. Tôi xấu hổ, tay chân thừa thải,
mặt đỏ bừng chỉ muốn độn thổ cho xong. Tội nghiệp Nga, nàng cúi đầu
thương hại cho tôi.
Rồi có một lần, chuyện phải đến đã đến, Nga ngỏ lời mời tôi đến
nhà nàng chơi vào chiều thứ bảy. Tôi sung sướng nhận lời. Dịp này nhất
định tôi sẽ bộc lộ tâm sự với nàng bằng một lá thơ. Mấy ngày liền tôi
ngồi nắn nót viết bức thư tình đầu tiên. Tôi còn nhớ rõ bức thư viết dài
và hay lắm. Tôi diễn tả mối tình say đắm của mình. Văn chương lãng mạn
và ướt át vô cùng.
Trong bức thư tôi còn làm dáng về vốn Pháp văn của mình bằng hai
câu bất hủ “L’homme sans amour comme La Terre sans Lumière” mà tôi
thuổng được ở mấy bức thư tình của bà chị tôi. Chiều hôm ấy, tôi băng
mấy cánh rừng dương để đến nhà nàng.
Nhà Nga xinh xắn bao quanh bởi một vườn cau và một hàng rào bông
bụp tím nhạt. Vườn có nhiều hoa và cây ăn trái. Tôi dạo chơi thơ thẩn
trong vườn cùng nàng suốt buổi tối. Nàng bóc bưởi mời tôi ăn. Tôi trèo
cây hái khế tặng nàng. Cứ như thế mãi cho đến khi trăng treo đầu ngọn
cau và hoa bưởi bắt đầu tỏa hương thơm ngát, tôi mới từ giã nàng. Trước
khi về tôi dúi vội bức thư vào tay nàng. Nàng ngập ngừng e thẹn nhận lấy
thư tôi.
Sau ngày trao bức thư tình, tôi cảm thấy yêu đời, mơ mộng nhiều
hơn. Và trong khi tôi nao nức đợi chờ hồi âm, thì hởi ơi! Hai câu Pháp
văn bất hủ tôi viết cho nàng được loan truyền khắp nơi nhất là trong đám
nữ sinh. Mấy bà chị họ, mỗi lần gặp tôi đều tủm tỉm cười, làm tôi xấu
hổ vô cùng. Tôi loáng thoáng đoán rằng tôi đã lầm và quá chủ quan, chớ
nàng không hề yêu thương hay tình cảm gì với tôi. Nàng đã đem bức thư
của tôi bêu rếu để làm trò cười. Từ đó tôi không nhìn nàng. Tôi đau khổ
hận đời, hận nàng và trốn học luôn…
Cho đến một ngày trước khi xuống tàu bỏ trốn vào Nam, vì vô tình
hay cố ý, Nga chận tôi trên con đường làng vắng vẻ, gương mặt xanh xao,
ánh mắt buồn buồn. Nàng khóc thật nhiều và giải thích với tôi rằng nàng
đã yêu tôi. Chuyện bức thư là lỗi bất cẩn của nàng (Nga cho người bạn
gái mượn quyển sách trong đó có dấu bức thư).
Nàng trách tôi tại sao bỏ học và trốn tránh không nhìn mặt nàng.
Lần đầu tiên tôi run run cầm tay nàng, nhìn sâu vào đôi mắt lệ nhạt
nhòa, thổn thức không nói một lời, bởi vì ngày tôi nhận được hạnh phúc
tình yêu đầu đời và cũng là ngày tôi xót xa chia tay mối tình học trò
ngắn ngủi đó. Ngày hôm đó, tôi đau đớn vĩnh biệt Nga mà chính nàng không
hề hay biết.
Con thuyền đưa tôi vào Nam chập chùng giông bão. Giông bão xô dạt con thuyền. Giông bão ngay trong lòng tôi…
Tôi có người em kế, cùng trạc tuổi. Chúng tôi là hai thái cực.
Chú Lâm hiền hòa thích sống trong gia đình. Tôi mê cuộc đời hải hồ lang
bạt. Lớn lên, hai anh em cùng vào quân đội. Tôi đi lính Không Quân đồn
trú tại Pleiku. Chú đi sĩ quan Thủ Ðức đóng đồn ở Daksut. Những ngày cao
nguyên sôi động, nhiều lần từ trời cao, tôi xót xa nhìn chú bị vây hãm
dưới đồn. Anh em tuy đóng quân cùng một vùng nhưng chả bao giờ gặp nhau.
Thỉnh thoảng hành quân ngang đồn, tôi bay thấp để chào chú, hoặc liên
lạc FM để thăm hỏi sức khỏe và nhắn tin nhà, thế thôi. Vậy mà chú Lâm
vẫn vui vẻ sống cuộc đời gian khổ bộ binh.
Mãi đến ngày bỏ nước ra đi, chú ra đi một mình không kịp đón gia
đình vợ con. Những năm tháng xa quê hương, chú Lâm vẫn sống cảnh đơn lẻ ở
một tiểu bang xa lắc xa lơ. Nhưng mấy năm gần đây, chắc có lẽ chịu hết
nổi cảnh “Ðồn Lẻ Chiều Xuân” chú đã âm thầm bước thêm bước nữa để nếm
mùi “một cảnh hai quê”. Thật tội nghiệp!
Hôm Tết vừa qua, nhân dịp đi công tác cho hãng ở Hà Nội. Lâm ghé
Sàigòn thăm nhà và về làng thăm quê cũ. Một sự việc bất ngờ và cảm động
là chú Lâm đã tìm được dấu tích của Nga ngày xưa. Ðuợc biết nàng đã trốn
ra Bắc năm 1956 và sau ngày Việt cộng cưỡng chiếm miền Nam, nàng trở về
với quân hàm Ðại úy và là vợ lẽ của một ông tướng già Việt cộng. Hiện
nay nàng đang ở Sàigòn, khu cư xá sĩ quan Chí Hòa và ông tướng già đã
chết. Trước khi trở về Mỹ, Lâm có đến tìm gặp nàng. Nga sững sốt mừng rỡ
khi nhận ra Lâm em của tôi. Nàng vui vẻ kể chuyện xưa về tôi với chú
Lâm và nói rõ lý do vì sao nàng bỏ xứ ra đi. Trong câu chuyện thăm hỏi,
Lâm đã cố khơi lại chuyện tình ngày xưa của chúng tôi. Lâm nói: “Anh tôi
vẫn nhắc nhớ về chị.” Nàng cúi đầu lặng lẽ, giọng buồn buồn: “Dạ vâng,
tôi đoán thế.” Và nàng cảm động cho biết người làng đã kể: Có lần tôi
một mình lái xe về thăm vườn cũ tìm lại người xưa, và người xưa không
còn nữa. Lâm tiếp tục thăm dò: “Chị có biết anh tôi ngày xưa làm gì
không?” “Dạ tôi biết, nghe nói anh ấy là một phi công trong Không Lực
Cộng Hòa.” “Chị có oán hận, căm thù gì chúng tôi không?” Nga lắc đầu
cười chua chát, “Tôi không nghĩ đến điều đó, và chẳng bao giờ nghĩ như
vậy, nhất là đối với anh ấy…”
Nàng trả lời với đôi mắt mơ màng xa vắng. Chắc có lẽ chú Lâm đã
vô tình khơi dậy những kỹ niệm thời học trò của nàng. Những kỹ niệm
tưởng như đã chôn vùi dưới lớp bụi thời gian sau bốn mươi năm xa cách.
Và trong buổi chiều hôm đó, theo lời nhật xét của chú Lâm. Nga
như “lội ngược giòng thời gian” tìm sống lại quảng đời con gái ngây thơ,
cùng với mối tình thơ mộng và đẹp nhất của đời nàng. Vì đó là mối tình
đầu và mối tình không có đoạn cuối.
Hồi Âm “GIÒNG ÐỜI…”
Nga Sàigòn.
Anh Duy thân mến,
Em ngồi viết lá thư này cho anh khi cơn mưa vừa mới tạnh. Cơn
giông miền nhiệt đới ào ạt, kéo dài độ chừng hai tiếng đồng hồ, nhưng
cũng đã làm cho cái nóng oi bức của Sàigòn dịu bớt. Mưa đã dứt, chỉ còn
những giọt nước nhỏ thỉnh thoảng tí tách rơi trên miếng tôn mỏng hứng
nước bên hiên nhà. Nghe tiếng giọt nước gõ đều đặn, rồi nghe tiếng nhịp
tim mình đập, em bỗng thấy hình như mình mang một tâm trạng bồi hồi. Ðặt
bút viết là thư này cho anh, lòng em cũng cảm thấy bồi hồi như thủa ấy
cầm tay anh lần đầu, mà không ngờ cũng là lần chào ly biệt…. Không biết
rồi lá thư này có thể đến tay anh? Nếu may mà thư đến, đọc xong anh sẽ
nghĩ gì? Thôi em cũng liều… Cầm bằng như gió mang đi.
Tuần trước em đến thăm chị Hạnh, người bạn làm việc cùng cơ quan
với em trước đây. Chị ấy xin phục viên sớm, vì đồng lương nhà nước trả
không đủ sống. Chưa kể là đôi ba tháng nhà nước không có tiền phát cho
nhân viên. Chị Hạnh bây giờ làm nghề buôn chui sách báo nước ngoài. Ở
chỗ này thì em phải giải thích thì anh mới rõ tại sao ngày nay nước mình
lại có cái nghề lạ như vậy. Từ ngày các nước xã hội chủ nghĩa anh em
ngưng viện trợ, nhà nước cần ngoại tệ nên họ đã mở cửa, khuyến khích
người Việt ở nước ngoài về thăm quê hương. Tuy có lệnh kiểm soát gắt gao
ở các cửa khẩu hải quan những món hàng quốc cấm như sách báo tuyên
truyền của phe tư bản, nhưng tệ nạn tham nhũng tràn lan không có cách gì
ngăn cản nổi. Vì thế, du khách chỉ cần đút lót vài ba bao thuốc thơm,
chiếc đồng hồ rẻ tiền..v.v… thì cái gì to như con voi qua cũng lọt.
Người dân ở quê nhà bây giờ không ai thèm đọc báo nhà nước, ngày nào
ngày ấy tin tức đều nhai đi nhai lại một luận điệu cũ rích. Người ta còn
khôi hài nói rằng chỉ có tin tức khí tượng là không sặc mùi tuyên
truyền, còn hầu hết đều… cuội! Vì thế dân chúng mới lén lút thuê hoặc
mua lại báo chí bằng Việt ngữ hay bằng ngoại ngữ xuất bản tại nước
ngoài.
Gặp em, chị ấy vội kéo vào buồng trong nói nhỏ:
– Này Nga, tôi có món quà này, chắc Nga sẽ thích vô cùng Em chưa
kịp hỏi chi ấy món quà gì, chị Hạnh đã dúi vào tay em một tờ báo. Chị
nói:
– Dấu cho kỹ vào người đi! Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng rồi
hãy đem ra đọc. Ðọc để xúc động vì “người ta” còn nhớ tới mình!
Nhìn trang bìa tờ báo có hình một nửa chiếc máy bay phản lực đậu
trên phi đạo và tên tờ báo là Ngàn Sao, lại nghe chị Hạnh nói bóng gió
xa xôi, em linh cảm một điều gì đó rất mơ hồ. Nửa năm trước, chú Lâm từ
bên Mỹ đi công tác cho hãng về Việt Nam đến thăm em. Chú ấy nhắc đến
anh, đến tình cảm anh vẫn âm thầm dành cho em. Giác quan thứ sáu xui em
liên tưởng đến một điều gí đó (mơ hồ thôi) rằng anh, chàng Phi công Cộng
Hòa lãng mạn, có thể đem chuyện tình hai đứa dệt thành văn? Cầm tờ báo
trên tay, em run còn hơn bị B-52 trải thảm hay như hồi sơ tán phòng
không ở Việt Bắc. Chị Hạnh trấn an:
– Làm gì mà run dữ vậy? Bề nào Nga cũng là cựu sĩ quan quân đội nhân dân, công an nào dám đụng đến?
Em run không phải là sợ công an khám xét thấy mình mang món hàng
quốc cấm. Em run vì không hiểu điều dự đoán của mình có phải là sự thực.
Em run vì liên tưởng đến người bạn năm xưa vẫn còn nhớ đến mình. Anh
đừng cười em già rồi mà còn vớ vẩn.
Chị Hạnh là người bạn sát cánh với em vào thời kỳ chiến đấu dọc
Trường Sơn. Chị ấy cũng là con nhà tiểu tư sản như mình, nên em thường
nhỏ to tâm sự trong những lúc dừng quân. Em có kể cho chị ấy nghe về
anh, người bạn học cùng trường thủa thiếu thời.
Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng, mọi người đều đã say giấc nồng,
em len lén đem tờ báo ra chong đèn lên đọc. Em đọc từng trang, rồi em
dừng lại ở bài viết mang tên tác giả Duy Lạc, “Chắc chắn là anh đây
rồi?!” Em tự nhủ: Quả nhiên đúng như điều em dự đoán.
Thời gian trôi nhanh quá anh nhỉ? Thấm thoát đã bốn mươi năm rồi
còn gì? Bao nhiêu tấn tuồng dâu bể diễn ra! Bao nhiêu nước chảy dưới
cầu! Hai mái tóc xanh của đôi trẻ ngày nay đã bắt đầu điểm trắng.
Chiến tranh bùng nổ, anh từ Sàigòn về lánh nạn ở quê nhà. May mắn
thay giặc chưa thể tràn về vùng đất của mình, nên chúng ta có một thời
kỳ bình yên. Khí thế bừng bừng của phong trào giành độc lập xứ sở bốc
cao khiến tất cả thanh niên hăm hở lên đường làm anh vệ quốc quân. Tuy
bọn mình còn nhỏ mà trong trí óc non nớt cũng đã thấy lòng rộn ràng vui
thích như đi trẩy hội ngày Xuân. Em còn nhớ đêm liên hoan, anh hát bài
“Nhớ Chiến Khu”. Lúc bấy giờ nghe giọng anh run run, em cứ tưởng anh vì
cảm thương nỗi nhớ nhà của anh vệ quốc quân trong núi rừng thâm u; nào
dè anh run …vì ánh mắt ngưỡng mộ va say mê theo dõi của em. Thì ra nhãn
lực của em cũng khá đấy anh Duy nhỉ?
Dạo ấy lần đầu tiên nghe anh trả bài thầy giáo, em mới để ý thấy
cách phát âm của anh khác với những học trò con trai trong huyện. Chẳng
hạn, “mờ mịt” thì anh phát âm thành “mờ mịch” hay “vui quá” thành “vui
góa”. Và còn nhiều chữ độc đáo nữa…
Mới đầu bọn học trò trong lớp, rồi về sau bọn học trò của cả
trường thường nhại cách phát âm ấy để trêu ghẹo anh. Thoạt tiên em cũng
cười hùa theo bọn chúng, nhưng thấy anh chẳng phản ứng gì, mà chỉ nhún
vai cười khỉnh rất là… Sàigòn, tự nhiên em đâm ra thích cái giọng ấy mới
kỳ chứ! Mỗi lần đến giờ học, em đều cầu mong thầy giáo gọi anh lên trả
bài để em được nghe cái giọng ngồ ngộ ấy.
Anh còn nhớ lần đi cắm trại đầu tiên do nhà trường tổ chức trước
vụ Hè 51 không? Lớp mình chia làm bốn toán mà anh thì ở toán A, còn em ở
toán B. Khi đến nơi, ai nấy đều lo căng lều dựng trại của toán mình,
trong lúc đó anh lại chạy sang loay hoay giúp em làm chuyện này chuyện
kia. Cử chỉ lăng xăng của anh có vẻ vụng về, khiến cho em vừa buồn cười
vừa cảm động. Vì thế, buổi tối họp lửa trại, em mới lén dúi vào tay anh
củ khoai em vùi trong bếp lúc nấu cơm chiều. Em còn trêu:
– Trại sinh bên toán B ăn hết “thịch” (thịt) cá rồi, em chỉ còn củ khoai nóng này tặng anh dùng đỡ cho “dzui”!
Chẳng những anh không giận vì bị em nhái giọng, anh chìa tay ra
cầm củ khoai một cách hồn nhiên, mà miệng còn ấp úng nói gì nghe không
rõ, em bỗng cảm thấy thương anh chi lạ!
Dân trong làng kế cận khu cắm trại, tối đến xong việc đồng áng
cũng ra tham dự trò chơi lửa trại của đám học sinh. Ánh lửa hồng chờn
vờn nhảy múa ngọn thấp ngọn cao, nhịp nhàng lung linh với tiếng đàn
guitar bập bùng của anh tạo nên cảnh tượng kỳ ảo rất liêu trai. Con
Thủy, con gái ông Xã Tài; con Nhạn, con gái ông Lý Trân, ngồi bên em cứ
huých cùi chỏ vào hông em từng chập, mỗi lần chúng nó trông thấy anh gật
gà gật gù theo điệu nhạc trầm bổng.> Dường như lúc bấy giờ anh say
sưa với âm thanh của từng nốt nhạc, không thèm biết gì đang xảy ra chung
quanh. Khách quan nhận xét, cả huyện mình đâu có cậu học trò nào chơi
đàn ngọt như anh? Chúng nó cũng khoái và để ý “người Sàigòn” có mái tóc
chải bảy ba tango lắm đấy! Anh có biết rằng anh đã lọt vào mắt xanh của
bọn học trò con gái tinh quái ấy không?
Em còn nhớ tính anh ít nói. Trong lúc mọi người ngồi huyên thuyên,
thình thoảng anh chêm một câu pha trò hóm hỉnh mà nhiều khi người nghe
không tinh ý, phải mất ba, bốn ngày sau mới hiểu. Cái tính “nghịch” ấy
ngày nay anh vẫn không bỏ. Trong bài “Giòng Ðời”, em vẫn đọc thấy thấp
thoáng cái văn phong đó.
Anh cao lớn, nhưng
không gầy như cây sậy và anh đâu có đen đúa xấu trai như anh tự chế diễu
mình trong bài văn? Lại còn bày đặt tự chê mình học dốt!
Xong màn văn nghệ và đọc tin thời sự về những chiến thắng công đồn
đả viện của bộ đội cụ Hồ cho dân chúng nghe, bọn học trò chạy xuống bờ
biển nô đùa với sóng nước. Em nhớ đêm đó trăng lên muộn và trời trong
xanh không một vẩn mây. Hình như đốm lửa trại cuối cùng tàn lụi rồi
trăng mới lên. Khác với những học trò khác cùng lớp, anh không xuống bờ
cát giỡn nước, giỡn trăng. Em thấy anh ngồi tựa lưng vào một cây dừa lả
ngọn và đôi mắt đăm chiêu nhìn ra trùng khơi. Anh ngồi yên một cách thư
thái, tự tại, đẹp như một pho tượng! Em biết rồi, người đó đang mơ mộng
vì người đó đang yêu?! Lúc bấy giờ những cơn sóng bạc đầu phản chiếu ánh
trăng nhấp nhô vờn nhau xô vào bờ, có làm cho tim anh xao xuyến, hởi
người nghệ sĩ với cây đàn?
Em là con gái, trời ban cho em cảm nhận bén nhạy hơn con trai.
Kinh nghiệm đời trải qua, chắc bây giờ anh đã hiểu rõ điều đó. Hồi ấy,
mới thoáng thấy cử chỉ ân cần và ánh mắt trìu mến của anh nhìn em trong
lớp học, ngoài sân trường, em đã đọc được ý nghĩ thầm kín của anh. Nhưng
em là con gái, đặc biệt vào thời buổi ấy, luân lý và bản tính rụt rè
của phụ nữ đâu cho phép em có một cử chỉ gì gọi là biểu đồng tình, dù
trong thâm tâm em cũng rất cảm mến anh. Cũng có những đêm nằm một mình
vẩn vơ bên cửa sổ ngắm trăng, bỗng nhiên ngửi thấy mùi hoa cau bưởi từ
đâu đưa lại, em chợt thèm có anh bên cạnh để… ngắm anh (!) Hoặc để luồn
những ngón tay thon nhỏ của mình vào tóc người yêu. Ðó là cái rạo rực
rất tự nhiên của người con gái ở tuổi dậy thì khi biết mình đang có một
anh chàng đang ngấm nghé.
Em đã đọc đi đọc lại nhiều lần lá thư anh trao. Vì sự bất cẩn của
em, con nhỏ Thủy – con gái ông Xã Tài – đọc trộm lá thư em dấu trong
sách cho mượn, thế là nó đem đi mách lẻo với mọi người, gây ra sự hiểu
lầm đáng tiếc khiến anh sinh lòng oán hận em. Nếu lá thư ấy bị một người
bạn gái nào khác đọc thì chẳng đến nỗi nào. Ðằng này con nhỏ Thủy vốn
thầm yêu trộm nhớ anh, nên khi nó vớ được lá thư là nó kháo ầm lên để
anh phải thẹn thùng với đám bạn gái của em và hai bà chị họ. Nghĩ lại,
em chẳng phiền trách gì nó. Âu cũng là tại sợi chỉ hồng không se duyên
cuộc tình chúng mình!
Ngày anh cầm tay em lần đầu (và cũng là lần cuối), em đã khóc, đã
hết lòng gạn hỏi tại sao anh bỏ học và cố tình lẩn tránh em. Anh cứ lầm
lì im lặng. Không ngờ bữa đó anh đã quyết định xuống tàu trở lại chốn
phồn hoa. Tuổi trẻ thường hay đặt tự ái quá cao! Anh đi biền biệt để lại
cho em nỗi nhớ đoạn trường. Em thẩn thờ biếng nhác việc học hành và
công việc trong nhà. Ba mẹ không hiểu chuyện cứ rầy la. Bỗng nhiên em
cũng sinh lòng trách cứ anh. Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau,
anh gieo vào lòng em một vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một
lời từ biệt. Bạn bè em một đôi đứa đem lòng thương hại, vài đứa trêu
ghẹo em mang mối sầu tương tư. Em lại càng giận anh hơn.
Năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ chia đôi đất nước. Một số người
trong làng xã tập kết ra Bắc. Gia đình em vẫn ở lại vì thuộc thành phần
địa chủ. Tổng Thống Diệm về nước, đẩy mạnh chiến dịch Tố Cộng. Gia đình
em không bị ảnh hưởng gì, vì người ta biết thời ấy ai cũng chống Tây.
Nhưng chỉ có một số cán bộ Tố Cộng của ông Diệm lợi dụng quyền thế, thấy
em có nhan sắc nên họ gây nhiều khó dễ để cưỡng bách em trao thân gởi
phận. Nếu em liều mình nhắm mắt đưa chân, chắc chắn em sẽ cũng được yên
thân. Nhưng tính em ương ngạnh, không chấp nhận sự hà hiếp, em bèn tìm
đường lên núi để rồi ngả về phía bên kia. Thân gái dậm trường, liều mình
bỏ gia đình ra đi đến phương trời vô định, em nào muốn làm một cuộc
phiêu lưu? Nhưng định mệnh nghiệt ngã đã đẩy em thành một kẻ ruồng bỏ
quê hương!
Anh Duy yêu dấu,
Nhiều đêm em đã khóc, vì nỗi bơ vơ của mình nơi xứ lạ quê người.
Em nhớ đến anh thật nhiều. Nhớ đến kỹ niệm của những đêm trăng ở làng
quê mình, của những buổi chiều hai đứa rong chơi lang thang trên bờ
ruộng lúa vừa mới gặt, của mùi hương ngai ngái từ gốc rạ thoảng đưa
trong gió. Và em còn nhớ đến cái giọng Sàigòn ngồ ngộ của anh nữa!
Sự đãi ngộ ở miền Bắc không tốt đẹp như những gì mà “người ta” đã
ngọt ngào dụ dỗ em. Cũng như những bộ mặt đàn ông nham nhở (xin lỗi
anh) tìm đủ mọi cách chiếm đoạt em. Ở vào bước đường cùng, lần này em
đành nhắm mắt đưa chân. Em kết hôn với một ông sĩ quan già hơn em mười
lăm tuổi. Trong bài “Giòng Ðời” anh kể rằng em làm lẽ một viên tướng già
là không đúng sự thực. Nhưng mà thôi, không sao! Làm vợ chính thức hay
làm lẽ, số phận em vẫn hẩm hiu “bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!”
Chiến tranh ngày càng lan rộng và khốc liệt. Phi cơ oanh tạc hầu
như mỗi ngày. Ða số nhân dân miền Bắc đều mong mỏi được quân đội miền
Nam giải phóng, vì họ hết chịu đựng nổi đói khổ và cuộc sống hắc ám,
rình rập. Em là người miền Nam tập kết muộn. Tập kết vì tưởng mình sẽ
đến một nơi như thiên đàng, chứ không phải vì lý tưởng hay bị huyễn hoặc
bởi cái chủ nghĩa hứa hẹn không còn cảnh người bóc lột người! Em chỉ
tha thiết một điều: Chiến tranh sớm chấm dứt, hòa bình mau trở lại để em
được quay về xóm làng xưa. Em tình nguyện xung phong đi chiến trường B
(tức là xuôi Nam ) với hy vọng nhìn lại Bố Mẹ già và đàn em dại. Em lên
đường như một người tìm về nơi chôn nhau cắt rốn, chứ không phải là kẻ
lên đường “làm nghĩa vụ quốc tế” như người ta cổ võ đề cao. Trở về đó,
em lại nghe tin đồn phong phanh rằng anh đã trở thành người phi công khu
trục của chính quyền Sàigòn. Chao ôi! có lần nào anh say sưa oanh kích
mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị trúng đạn phòng
không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh, thì không hiểu
bọn mình phải xử trí ra sao trong tình huống ấy? May mà điều ấy không
bao giờ xảy ra để chúng ta khỏi bị ngỡ ngàng.
Có lần em nhặt được tờ truyền đơn kêu gọi chiêu hồi từ trên phi
cơ thả xuống. Em vội dấu kỹ tờ truyền đơn vào lần túi áo trong để chờ
dịp thuận tiện là trốn thoát, nhưng cơ hội không bao giờ đến với em cả!
Khi miền Nam được “giải phóng”, em nghĩ rằng đây là cơ hội em có
thể tìm gặp người bạn tình năm xưa. Em biết rằng gặp nhau thì đôi ta mỗi
đứa ván đã đóng thuyền, không còn hy vọng gì chấp nối, nhưng ít nhất
mình cũng còn được thấy nhau sau mấy mùa chinh chiến. Niềm hy vọng ấy
vội tan biến khi em biết rằng anh đã ra đi nước ngoài. Tâm tình em xen
lẫn hai nỗi buồn, vui: Buồn vì không gặp được anh và vui vì anh không
phải rước cảnh tù đày. Anh còn nhớ Loan, em gái của em. Nó kết hôn với
Cảnh, một người Thiếu tá trong quân đội Cộng Hòa. Chồng nó bị đưa đi
“học tập cải tạo”, rồi chết vì lao lực trong rừng thiêng nước độc và vì
thiếu dinh dưỡng. Loan nhờ chồng em can thiệp cho Cảnh. Như anh biết
đấy. Tuy chồng em là tướng Việt cộng mà cũng đành bó tay bất lực. Từ đó
Loan không bao giờ nhìn mặt em nữa. Chị em cật ruột bỗng hóa thành kẻ
thù. Nỗi khổ tâm ấy do ai gây ra, mà một mình em phải hứng chịu sự khinh
khi của gia đình? Tại sao em phải chịu nhiều điều oan nghiệt thế hở anh
Duy?
Năm kia, chú Lâm về Sàigòn, chú ấy kể rất nhiều chuyện về anh. Em
vô cùng xúc động vì anh vẫn giữ được trong ký ức hình ảnh và tình cảm
trân trọng đối với người bạn gái đầu đời. Vận nước điêu linh, thế hệ
chúng mình chẳng may phải hứng chịu nhiều thua thiệt. Thật là vô lý khi
hai kẻ yêu nhau trở nên vô tình quay mũi súng bắn vào nhau. Ước mong sao
những lớp người thuộc thế hệ mình nhìn rõ chân lý để cùng nhau xây dựng
lại xứ sở hoang tàn bởi một thứ chủ nghĩa ngoại lai phi nhân. Mình phải
có bổn phận nói rõ cho con cháu nên lấy thương yêu, chứ không phải hận
thù, bù đắp những lỗi lầm của người đi trước. Có như thế thì mới hàn gắn
được những đổ vỡ lớn lao trong quá khứ.
Ðúng bốn mươi năm trước, dưới rặng dừa ở làng quê, anh e ấp trao
em lá thư tỏ tình. Anh nao nức chờ đợi hồi âm. Em chưa kịp hồi âm thì
không may xảy ra chuyện hiểu lầm. Bốn mươi năm sau, (nhờ đọc được bài
văn của anh trên báo), từ phương trời này, một người đàn bà góa bụa và
mái tóc đã bắt đầu điểm sương lại ngồi viết thư cho người bạn tình xa
cách nửa vòng trái đất để kể lể chuyện đời. Xin cám ơn anh đã cho em một
chút nắng trong buổi chiều tàn, “Một Chút Mặt Trời Trong Ly Nước Lạnh!”
Ðời em truân chiên đã gặp nhiều bất hạnh, nhưng kể từ khi đọc những
dòng tâm tư của anh trên trang báo, em cảm thấy được an ủi phần nào. Bây
giờ thì em mới biết ở nơi cuối trời xa thẳm kia có một chàng trai
Sàigòn thủa nào vẫn còn giữ trong tim hình ảnh và kỹ niệm đằm thắm của
người yêu ban đầu.
Thư viết cho anh đã khá dài. Những giọt nước mưa trên mái nhà
cũng đã thôi gõ đều đặn xuống tấm tôn. Ðêm đã xuống từ lâu. Cảnh vật yên
lặng như tờ, nhưng dường như trong tiềm thức em vẫn nghe tiếng sóng
biển rì rào và âm thanh xào xạc của những ngọn lá dừa cọ xát vào nhau.
Biết bao giờ hai chúng ta có thể lại cùng nhau dạo chơi hóng gió chiều
và nghe sáo diều trên đường làng quê cũ anh nhỉ? Ấy chết! Em lại lẩn
thẩn mất rồi! Ðừng! Chúng mình không nên gặp lại nhau để anh còn giữ
trong trí nhớ hình ảnh con bé Nga mười mấy tuổi, má lún đồng tiền và nụ
cười răng khểnh.
Em xin dừng bút. Cầu chúc anh dồi dào sức khỏe và gia đình gặp
nhiều sự may mắn, an khang, thịnh vượng. Và xin anh nhớ cho rằng ở nơi
xứ sở nghèo khó này vẫn có một người luôn luôn thương nhớ anh.
Thân ái,
Em gái anh, Nga
Tái bút: Ðể tránh sự kiểm soát của nhà nước, em trao lá thư này
cho một sĩ quan sắp sang Mỹ theo diện H.O. và nhờ ông ta gửi đến chú Lâm
bằng đường bưu diện. Em hy vọng rằng chú Lâm vẫn còn ở tại địa chỉ mà
chú cho em trước đây. Ðọc thư em, ước mong anh sẽ hài lòng khi thấu rõ
tâm tình của em.
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/Mar/2019 lúc 8:41pm |
||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22125 |
Gởi ngày: 26/Mar/2019 lúc 3:38am | |
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
||
IP Logged | ||
<< phần trước Trang of 92 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |