Bài mới Thành viên Lịch Tìm kiếm Hỏi/Đáp | |
Ghi danh Đăng nhập |
Chuyện Linh Tinh | |
Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh |
Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. | |
<< phần trước Trang of 92 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung | ||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 04/Aug/2019 lúc 4:08am | ||||
Người Góa Phụ Giờ Thứ 25
Tôi gặp chị trong buổi họp mặt của các anh
Khóa 17 Võ Bị Đà Lạt, được tổ chức tại một nhà hàng ở thành phố
Westminster, Nam Cali, nhằm kỹ niệm 55 năm ngày mãn khóa. Vợ chồng tôi
có chút cơ duyên được xếp ngồi cùng bàn với chị. Qua đôi lời chào hỏi
đầu tiên, chúng tôi biết chị từ Việt Nam mới sang theo lời mời của Ban
Tổ Chức, muốn dành cho chị một ân tình đặc biệt để có cơ hội gặp lại
những người bạn cùng khóa Lê Lai với phu quân của chị, Cố SVSQ Đoàn Đình
Thiệu.
Sau nghi thức chào quốc kỳ là một lễ tưởng
niệm những vị đồng môn đã hy sinh trong không khí rất trang trọng, cảm
động và mang nhiều ý nghĩa. Trên bàn thờ, phía sau những ngọn nến lung
linh là hình phóng lớn của tấm bia đá tưởng niệm có khắc đậm tên 79 vị
sĩ quan Khóa 17 đã lẫm liệt hy sinh trong cuộc chiến. Tấm bia này là một
kỳ công được các cựu SVSQ Khóa 17 thực hiện và dựng tại Công viên
Victor Memorial Veterans Park, thuộc Thành phố Greer, Tiểu Bang South
Carolina, Hoa Kỳ từ tháng 6 năm 2008.
Khi chị Thiệu cùng một số cô nhi quả phụ
khác của Khóa 17 được mời lên thắp hương trước bàn thờ tử sĩ và nhận món
quà lưu niệm của Khóa, qua lời giới thiệu của người điều khiển chương
trình, chúng tôi được biết nhiều hơn về chị. Và trong số những cô nhi
quả phụ cùng đứng chung với chị chúng tôi còn nhận ra cháu Võ Hải,
trưởng nam của Đại Tá Võ Toàn, vị đại tá duy nhất của Khóa, đã hy sinh
cũng vào giờ thứ 25 khi Quân Đoàn I di tản, đến bây giờ chưa biết thân
xác nằm ở nơi đâu; và phu nhân của Trung Tá Võ Vàng, một cấp chỉ
huy nổi tiếng trong Binh chủng Biệt Động Quân, đã bị kẻ thù sát hại dã
man tại trại tù Kỳ Sơn – Quảng Nam, sau 1975.
Thiếu Tá Đoàn Đình Thiệu tử trận tại Phú
Lâm vào khoảng 12giờ 30 trưa ngày 30.4.75, hơn một giờ sau lệnh “buông
súng” của Tướng Dương Văn Minh. Khi ấy anh là Tiểu Đoàn Phó của Tiểu
Đoàn 86 BĐQ mà Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Trần Tiễn San, một niên đệ
Khóa 19 Võ Bị của anh.
Trước khi ra đơn vị này, Thiếu tá Thiệu
phục vụ nhiều năm tại TTHL Biệt Động Quân Dục Mỹ với chức vụ Trưởng Khối
Yểm Trợ. Do quyết định của Tướng Đỗ Kế Giai, Chỉ Huy Trưởng Binh chủng
Biệt Động Quân, một số sĩ quan phục vụ lâu năm tại quân trường hay giữ
những phần hành tham mưu được điều động hoán chuyển ra các đơn vị tác
chiến. Cuối năm 1974, đúng vào lúc Thiếu Tá Thiệu nhận lệnh hoán
chuyển, tại TTHL/BĐQ đang có Liên Đoàn 8/BĐQ vừa mới được thành lập với
đa phần quân số từ các Tiểu Đoàn 7, 9, 11 Quân Cảnh giải tán bổ sung
cho Binh chủng Biệt Động Quân, nên nhân tiện, ông xin ra phục vụ ở đơn
vị tân lập này. Vì ở quân trường và đảm trách một phần hành tham mưu khá
lâu, nên khi ra đơn vị tác chiến, ông không thể đảm nhận một chức vụ
chỉ huy ngay trong thời gian ban đầu, do đó ông tìm gặp Thiếu Tá Trần
Tiễn San, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 86 và ngỏ ý muốn được về làm Tiểu Đoàn Phó
cho Thiếu Tá San, một niên đệ Khóa 19, mà lúc còn trong trường Võ Bị Đà
Lạt, ông có trách nhiệm hướng dẫn, dạy dỗ với tư cách niên trưởng. Biết
ông là niên trưởng lại có thâm niên cấp bậc hơn mình, Thiếu Tá San muốn
giúp đỡ, nhưng rất e ngại nên đề nghị ông phải làm đơn gởi lên Thiếu
Tướng CHT/BĐQ để trình bày nguyện vọng của mình. Cuối cùng ông được toại
nguyện. Để nhận Thiếu Tá Thiệu về làm Tiểu Đoàn Phó cho mình, Thiếu Tá
Trần Tiễn San còn phải giải quyết một vài khó khăn tế nhị khác. Vì lúc
ấy Tiểu Đoàn đã có Tiểu Đoàn Phó là Đại Úy Phan Trí Viễn. Thiếu Tá San
đã năn nỉ Đại Úy Viễn sang làm Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn và xin Liên Đoàn
nhận anh Đại Úy Trưởng Ban 3 cũ về giữ một chức vụ tại BCH/ Liên Đoàn.
Thông cảm cho anh, tất cả đều vui vẻ chấp nhận sự sắp xếp của anh.
Kính nể một niên trưởng có tư cách, Thiếu
Tá San đã dành cho vị Tiểu Đoàn Phó nhiều ưu ái đặc biệt. Có điều đúng
vào thời điểm Thiếu Tá Thiệu ra đơn vị, cuộc chiến đang ở giai đoạn khốc
liệt nhất. Sau khi Mỹ bất chấp những phản đối của VNCH, đã tự cho mình
ngồi ngang hàng với Cộng Sản Bắc Việt và đơn phương nhượng bộ quá nhiều
điều trong Hiệp Định Paris ký kết ngày 27.1.1973, chứng tỏ ý định sớm bỏ
rơi đồng minh, phủi tay cuộc chiến. Lợi dụng điều này, Cộng quân đã ồ
ạt tung nhiều sư đoàn với lực lượng chiến xa, từ miền Bắc và Lào, theo
đường mòn ************ xâm nhập Nam Việt Nam, đồng loạt mở các cuộc tấn
công qui mô vào các đơn vị phòng thủ của ta. Phước Long là tỉnh đầu tiên
bị thất thủ vào ngày 6 tháng 1/1975 nhưng không có bất cứ dấu hiệu nào
từ phía Hoa Kỳ can thiệp hay phản đối CSBV vi phạm hiệp định,. Điều này
đã báo hiệu cho số phận của VNCH.
Liên Đoàn 8 BĐQ ban đầu đặt dưới quyền chỉ
huy của Đại Tá Vũ Phi Hùng, với ba vị tiểu đoàn trưởng đều là niên đệ
Võ Bị của Thiếu Tá Đoàn Đình Thiệu. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nam (K.20)
TĐT/TĐ 84, Thiếu Tá Trần Tiễn San (K.19) TĐT/TĐ 86, và Thiếu Tá Nguyễn
Hữu Mạnh (K.20) TĐT/TĐ 87. Thiếu Tá Thiệu chọn về làm Tiểu Đoàn Phó cho
một niên đệ Khóa 19, là khóa đàn em có nhiều gắn bó và xem như học trò
của Khóa 17 thời họ còn là những sinh viên sĩ quan.
Dù chưa được trang bị và huấn luyện đầy đủ,
Liên Đoàn nhận lệnh của Bộ TTM di chuyển về Sài gòn để giữ an ninh
trong dịp Tết nguyên đán. Liên Đoàn đặc trách phòng thủ khu vực từ QL 1
đến QL 4, ngoại trừ TĐ 84 đặc trách một khu vực kế cận. Vào những ngày
đầu tháng 4/75, Liên Đoàn 8 BĐQ thường phối họp cùng Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù
tân lập mở các cuộc hành quân vào Mật khu Lý Văn Mạnh và đã phát giác có
sự hiện diện của nhiều đơn vị chính quy Bắc Việt đang hoạt động, ém
quân tại đây.
Để đề phòng cho trường hợp bị tấn công bởi
các đại đơn vị này của địch, Đại tá Vũ Phi Hùng, Liên Đoàn Trưởng bàn
bạc với các Tiểu Đoàn Trưởng, vạch ra một kế hoạch ứng phó khi tình hình
trở nên nguy ngập, được gọi là kế hoạch “Bravo”: Các tiểu đoàn tự rút
về Giáo xứ Tân Phú của Linh Mục Đinh Xuân Hải để tái phối trí và tiếp
tục chiến đấu tại đây.
Khoảng hai tuần lễ sau đó, Sư Đoàn 106 BĐQ
được thành lập, với vị Tư Lệnh là Đại Tá Nguyễn Văn Lộc. Đại Tá Vũ Phi
Hùng, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 8 BĐQ được chỉ định giữ chức vụ Tham
Mưu Trưởng, và bàn giao Liên Đoàn cho Trung Tá Chung Thanh Tòng từ BĐQ
Vùng I di tản.
Ngày 27/4/75 Cộng quân mở các cuộc tấn công
liên tục vào tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 84 và 87. Hai vị Tiểu Đoàn
Trưởng xuất sắc cùng xuất thân Khóa 20 VB đã anh dũng điều quân chiến
đấu, yểm trợ cho nhau để giữ vững phòng tuyến. Lực lượng địch quá đông
và có chiến xa T 54 hỗ trợ, trong khi bên ta đã có nhiều binh sĩ thương
vong, đạn dược cạn dần. Đến tối ngày 29/4/75 tình trạng trở nên tồi tệ
hơn nên các đơn vị đề nghị thực hiện kế hoạch “Bravo”, rút về Giáo xứ
Tân Phú lập tuyến phòng thủ mới như đã dự trù. Nhưng Đại Tá Vũ Phi Hùng
từ BTL/SĐ 106 cho biết kế hoạch này không thể thực hiện được nữa, vì
nhiều đơn vị Cộng quân đã thâm nhập vào Sài gòn từ các hướng khác.
Trong tình huống này, vẫn không có cách nào
khác hơn, sáng sớm ngày 30/4 Liên Đoàn ra lệnh bằng mọi giá phải mở
đường máu lui binh về hướng Sài gòn. Tiểu Đoàn 84 của Thiếu Tá Nguyễn
Văn Nam lúc ấy đang bố trí dọc theo xa lộ Đại Hàn, bị áp lực nặng nề
nhất do nhiều chiến xa của địch bao vây tấn công liên tục. Tiểu Đoàn 87
của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Mạnh rút ra từ Mật Khu Lý Văn Mạnh, mở đường cho
BCH/ Liên Đoàn và Tiểu Đoàn 86 của Thiếu Tá Trần Tiễn San vừa rút ra
sau cùng, vừa làm lực lượng án ngữ bọc hậu. Cuộc lui binh rất khó khăn
trong lúc bị địch quân bao vây, tấn công từ mọi phía.
Thiếu Tá San ra lệnh cho Tiểu Đoàn Phó Đoàn
Đình Thiệu thu nhặt hết số súng thặng dư bỏ vào ụ súng cối 81 ly để
thiêu hủy. Pháo Đội Pháo Binh trong căn cứ BCH/ Liên Đoàn có bốn khẩu
đại bác 105 ly, nhưng mỗi khẩu chỉ còn một quả đạn trong nòng. Thiếu Tá
San cho lệnh bắn trực xạ vào những điểm địch quân tấn công mạnh nhất,
sau đó phá hủy súng, và yêu cầu Pháo Đội rút theo BCH/ Liên Đoàn. Tiểu
Đoàn phải mở đường máu để có thể thoát ra khỏi vòng vây của địch, nên
tất cả thương binh đành phải bỏ lại phía sau. Trong lúc vừa điều quân
vừa chiến đấu, Thiếu tá San bị thương ở mặt, phải bò đến một mô đất tạm
ẩn nấp để tự băng bó. Đúng lúc ấy, Trung Úy Đoàn Ngọc Lợi (K.26VB),
Đại Đội Trưởng ĐĐCH chạy đến báo cáo là Niên trưởng Đoàn Đình Thiệu vừa
mới hy sinh bên bờ ruộng. Ông bị bắn đứt động mạch ở chân. Mấy người
lính trung thành ngỏ ý cõng ông theo, nhưng ông khoác tay, bảo “chạy gấp
đi, anh không thể sống được!” Trung Úy Lợi còn cho biết, trước khi nhắm
mắt ông hỏi Lợi: “Moa chết rồi ai sẽ nuôi vợ con đây?” Lúc ấy khoảng 12
giờ 30 trưa ngày 30/4, sau đúng một giờ Tướng Dương Văn Minh tuyên bố
đầu hàng!
Sau đó Thiếu Tá San cùng nhiều cấp chỉ huy
khác bị bắt đưa vào làng. Vì bị thương ở đầu, máu ra nhiều, nên anh được
cho về, gia đình đưa vào điều trị tại Bệnh viện Triều Châu. Một ông chú
nghe tin vào thăm, biếu anh 30.000 đồng. Anh cho người nhà tìm gặp gia
đình Thiếu Tá Đoàn Đình Thiệu báo tin về cái chết của người niên trưởng.
Chị Thiệu tìm đến thăm anh và hỏi kỹ địa điểm anh Thiệu đang nằm để đi
tìm. Anh San chỉ dẫn, chia buồn và biếu chị Thiệu 30.000 đồng mà ông chú
vừa mới cho anh.
Theo lời kể của chị Thiệu, vì tình hình lúc
ấy rất hỗn loạn, tiếng súng vẫn còn nổ khắp nơi, nhiều đơn vị của ta
không chịu buông súng và vẫn tiếp chiến đấu, nên chị không dám đi tìm
anh Thiệu, hơn nữa chị cũng không rành đường sá ở đây, đành phải nhờ
cậu em trai, dùng xe Honda len lỏi tìm đến vị trí mà Thiếu Tá San chỉ
dẫn. Cậu em tìm được xác anh Thiệu, nhưng không thể tìm được bất cứ một
phương tiện nào để chuyên chở, và cũng không biết sẽ chở về đâu, trong
tình thế lúc này. Cuối cùng, rất may mắn, một anh tài xế xe rác nặng tấm
lòng với QLVNCH, đã vui vẻ nhận lời giúp đỡ. Sau khi đổ hết rác trên xe
xuống vệ đường, theo sự hướng dẫn của cậu em chị Thiệu, nhưng cũng rất
nhiều khó khăn, anh tài xế mới đưa xe đến được vị trí, nơi anh Thiệu
nằm. Sau một lúc thảo luận, cuối cùng hai anh chở xác Thiếu Tá Thiệu đến
Nhà Thờ Bùi Phát để nhờ giúp đỡ. Và cũng rất may mắn, đã gặp đúng một
vị linh mục nhân từ. Cha Trần Quốc Phú vui vẻ nhận lời, đứng ra tẩm liệm
và chôn cất Thiếu tá Thiệu ngay trong khu đất của nhà thờ.
Chị Thiệu thường xuyên đưa các con đến đây
thăm viếng và xây lại ngôi mộ cho chồng. Mấy năm sau, chị xin hỏa táng,
và mang tro cốt anh về thờ tại tư gia ở Mỹ Tho. Lúc Thiếu Tá Thiệu mất,
anh chị có ba con, hai trai 9 và 7 tuổi, cô con gái út chưa tròn 12
tháng. Sau này, cháu trai lớn mất, cháu gái định cư ở Úc. Hiện nay chị
sống với cậu con trai thứ tại Mỹ Tho, quê hương của chị. Điều đáng
ngưỡng mộ hơn, khi chồng hy sinh, chị còn khá trẻ, nổi tiếng có nhan
sắc, nhưng không hề bước thêm một bước nào nữa, ở vậy nuôi dạy các con
trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, nghiệt ngã. Cả hai cháu đều nên người,
thành đạt, hiếu thảo và luôn sống với niềm tự hào về người cha Võ Bị,
từng sống rất tư cách và chết hiên ngang.
Cuộc chiến Việt Nam đã gây ra biết bao đau
thương tang tóc. Vào giờ thứ 25 của cuộc chiến có biết bao nhiêu người
đàn bà trở thành góa phụ, biết bao đứa con thơ trở thành cô nhi, nhiều
cháu chưa hề biết mặt cha mình. Không những không được hưởng bất cứ một
ân sũng nào của quôc gia khi chồng, cha hy sinh cho Tổ Quốc mà họ còn bị
kẻ thù phân biệt đối xử, nhục mạ và phải đương đầu với muôn vàn khó
khăn trong cuộc sống. Những người như chị Đoàn Đình Thiệu rất xứng đáng
để chúng ta biết ơn và ngợi ca. Sự hy sinh nào của những người lính, hay
vợ con của lính, cũng đều tiềm ẩn những ý nghĩa cao quý, cho dù những
cái chết vô danh, không được truy thăng hay chôn cất theo lễ nghi quân
cách. Với Tổ Quốc và lịch sử dân tộc, những hy sinh dù trong âm thầm,
vẫn mãi mãi là điều bất diệt.
Viết những dòng này, xin được thay bó hoa
hồng tươi thắm nhất, gởi đến Chị Đoàn Đình Thiệu và các cháu cũng như
những cô nhi quả phụ khác của giờ thứ 25, lòng tri ân và ngưỡng mộ của
những người một thời từng là đồng đội, là huynh đệ của phu quân các chị,
người cha đáng kính của các cháu. Và xin cầu chúc những điều tốt đẹp
nhất cho những người đã sẵn sàng chấp nhận những số phận nghiệt ngã, hy
sinh, nhưng vẫn luôn hãnh diện có chồng, cha là lính chiến VNCH, đã dám
chết cho quê hương, dân tộc.
Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Aug/2019 lúc 4:08am |
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
IP Logged | |||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 06/Aug/2019 lúc 10:12am | ||||
Chơi vậy, chơi với ai???Nhân việc chính quyền liên bang Mỹ đang đưa ra ánh sáng những trường hợp công dân Mỹ gốc Việt gian lận tiền thuế, khai gian để hưởng lợi an sinh xã hội, tôi cũng có ba câu chuyện để chia sẻ, để… góp buồn. Chuyện thứ nhất: Nhóm vượt biên của chúng tôi đi theo lộ trình của ban tổ chức dẫn đường, lên xe tại Sài Gòn vượt qua biên giới Kampuchia nửa đêm, đến Phnom Penh nghỉ ngơi vài ngày, rồi bắt xe đến thành phố biển Kongpongcham. Ðoạn đường này, chúng tôi bị bắt giam hai lần, sau đó ban tổ chức chuộc ra và đưa xuống tàu ra biển, trực chỉ Thailand. Khi cả nhóm bị mắc cạn trên bãi đá ong sát bờ biển Thái lúc màn đêm dần xuống, lạnh run, hoảng hốt đốt áo quần giầy dép để kêu cứu, một chú kia đã chửi đổng chủ tàu tổ chức (đang ở Việt Nam) và tuyên bố sẽ không trả sáu cây vàng tiền vượt biên (chú ấy đi với thằng con trai). Cái này lạ à nhe! Nếu đêm đó thuỷ triều dâng lên, nhấn chìm cả đám xuống đáy biển chầu Diêm Vương thì không ai phải trả tiền cho chủ tàu, nhưng khi vào được bờ, đến trại tỵ nạn thì phải trả cho người ta chớ. Trước khi đi, đã thoả thuận sòng phẳng, còn chuyện bị bắt ở Kampuchia, chuyến hải hành gặp mưa bão, thừa chết thiếu sống là chuyện ngoài ý muốn, nào phải lỗi của chủ tàu? Nay đã vào trại, không bị hải tặc cướp bóc hãm hiếp, thì hà cớ gì đòi quịt tiền người ta? Vài tháng sau khi đến trại, tôi hỏi chú ấy, vẫn câu hỏi cũ là trả tiền chưa, chú ấy gân cổ lên: “Dĩ nhiên là…chưa! Vì bây giờ phải đợi thanh lọc xem đậu rớt ra sao. Nếu đậu, qua được Mỹ tôi sẽ trả, còn nếu rớt, hồi hương về Việt Nam thì thôi”. Ủa, trại tỵ nạn đóng cửa là chuyện của Cao Uỷ, thanh lọc là việc của Bộ Nội Vụ Thailand, họ đâu có “bà con” gì với chủ tàu, mà kiếm cớ không trả tiền?! Cứ đà này, tôi dám ngờ rằng, nếu chú ấy có đậu thanh lọc, qua Mỹ, sẽ còn nhiều lý do lý trấu để chạy nợ, nào là mới qua chưa ổn định, rồi chờ có việc làm, sau đó phải mua nhà mua xe, chờ con cái học xong, dựng vợ gả chồng êm xuôi…Nói theo ngôn ngữ bình dân bàn nhậu hay quán trà đá vỉa hè, thì chú này “chơi cha thiên hạ”. Khi mượn nợ thì năn nỉ ỉ ôi, xong việc rồi phải trả nợ thì xót xa, đứt từng khúc ruột. Chơi vậy, chơi với ai?! Chuyện thứ hai: Những người từ trại tỵ nạn, khi qua định cư nước thứ ba, được chính phủ cho vay tiền vé máy bay, sau này trả lại. Họ cũng biết chúng ta mới qua còn nhiều khó khăn, nên mỗi tháng gửi thơ đòi nợ rất lịch sự, có thể trả mức thấp nhất là mười đô, hoặc nhiều nhất là năm mươi đô, từ từ mà trả, vài năm cũng xong. Vậy mà có một vài người đi chung chuyến bay với tôi từ trại Thailand qua Canada, hớn hở khoe “thành tích” tuyệt chiêu rằng, mỗi tháng nhận thư đòi nợ là họ xé bỏ vào thùng rác, không quan tâm. Sao vậy, tôi thắc mắc, họ đáp tỉnh bơ, chính phủ Canada đã bảo lãnh mình qua đây theo diện nhân đạo, trợ cấp hai năm cho mọi chi phí ăn ở, sinh hoạt, mà có cái vé máy bay cũng đòi, nên tui hổng trả (Ngon dữ hen!). Luật của nước người ta như thế, xin đừng “tự diễn biến” rồi tự quyết định… xù nợ. Bộ kiếp trước Canada mắc nợ mấy người, nên giờ phải rước mấy người qua, cho trợ cấp, bao luôn mọi thứ từ A đến Z hay sao ? Thấy người ta nhân đạo rồi làm tới, thử hỏi nếu còn ở với cộng sản Việt Nam thì có dám không, hay lại líu ríu xếp hàng để nộp tiền cho họ? Một thời gian sau tôi nghe tin, khi mấy người đó xin giấy tờ qua Mỹ chơi, đã bị phía Canada từ chối vì hồ sơ Sở Thuế còn ghi rõ: Nợ tiền vé máy bay chính phủ, “quên” thanh toán! Chơi vậy, chơi với ai?! Chuyện thứ ba: Gặp lại chị bạn cũ qua phone, hỏi thăm chị ấy về hai đứa con gái đang tuổi cập kê và tiêu chuẩn chọn rể, chị hăng hái phát biểu: – Chị dặn chúng nó rồi, ưu tiên một là quen người Việt Nam vì cùng màu da, ngôn ngữ, văn hoá; tiếp theo là các dân Châu Á, ví dụ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thailand, Tàu Singapore, Tàu Hongkong, chứ đừng Tàu Cộng nhe. Tụi Ấn Ðộ tuy hôi mùi cà ri nhưng được cái thông minh, ham học, và dứt khoát phải tránh xa tụi Philippines vừa dơ vừa đểu. Còn nếu không chọn được ai trong đám Châu Á thì phải quen tụi da trắng văn minh lịch sự, đừng có dại mà dẫn mấy thằng da đen mọi rợ về là tao nhảy lầu à … Chị nói một mạch nên tôi không kịp cản lại để nêu vài thắc mắc, ví dụ như, chị dựa vào đâu mà nói dân Philippines “dơ và đểu”, dơ chỗ nào, đểu chỗ nào? Chị nói da trắng văn minh lịch sự hở, tôi có thể kể tên mấy thằng lôm côm không ra gì cho chị coi, và chưa kể cái tư tưởng sặc mùi kỳ thị của chị khi phân biệt da trắng, da đen này kia… Lần sau nếu có dịp nói chuyện nữa, chắc chắn tôi sẽ hỏi chị: – Chị nè, nếu con gái chị quen với một anh chàng da trắng văn minh lịch sự đúng ý của chị, nhưng ví dụ như, (ví dụ thôi nhe), nếu đó là một gia đình cũng có máu kỳ thị, chị nghĩ sao nếu họ dặn con trai họ: Con nên tìm quen cô gái da trắng vì cùng màu da, văn hoá, phong tục tập quán, và nhớ tránh xa đám dân Châu Á, nhất là Việt Nam vì những lý do sau đây: Có những cặp vợ chồng sẵn sàng ly dị giả để ăn tiền “single mom”, những người làm tiền mặt trốn thuế để hưởng trợ cấp “low income”, những người ăn welfare nhưng mặc toàn đồ hiệu, mang giỏ xách LV, những người nghề nghiệp không ổn định mà chạy xe Lexus, ở nhà đẹp nhà to, những người đeo đầy hột xoàn nhưng vào chợ thì lục tung các thùng xoài các bịch nho để lấy những trái ngon nhất, mặc kệ những người xung quanh?! Vậy nghen chị, dân tộc nào, sắc dân nào cũng có đủ loại người, chớ vội vàng vơ đũa cả nắm, và cũng đừng tập tành thái độ kỳ thị, coi thường người khác. Chơi vậy, chơi với ai?! KLChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Aug/2019 lúc 10:15am |
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
IP Logged | |||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 08/Aug/2019 lúc 1:18pm | ||||
Người Lính Già Chỉ Mờ Đi
Trong ánh sáng dìu dịu của ngọn đèn chong nhỏ, tôi thấy
Ba tôi ngồi như một cái bóng mờ. Tôi rón rén đến gần. Ba nhìn lui. Tôi hỏi nhỏ:
“Sao Ba không mở đèn sáng lên hở Ba?”
“Ba xong rồi.”
Tôi đặt tách trà gừng lên bàn, liếc nhìn màn hình computer. Chỉ có tấm ảnh gia
đình, Ba thường cho nó “hiện lên” sau khi đã làm xong việc. Tôi hơi mỉm cười, mừng
vì Ba có thể nghỉ ngơi sớm.
Tôi kéo một chiếc ghế lại để ngồi gần Ba. Ba hỏi:
“Hôm nay chuyến đi của con thế nào?”
“Kể Ba nghe.”
“Chỗ nursing home này vui vì có nhiều người Việt. Họ cùng ca hát với mình vì những
bài hát khá quen thuộc với họ. Mà buồn vì cũng có nhiều người không thể thưởng
thức, không thể hòa mình được. Họ ngồi ủ rũ, lờ đờ.”
“Tội nghiệp! Nhưng chắc là họ có nghe, có nhận được hở con?”
“Dạ con tin là thế. Bởi vậy con thấy buồn. Nhiều người là cựu quân nhân Ba à!”
Dù đèn mờ, tôi vẫn thấy được Ba nhíu mày. Ba thở dài nhè nhẹ…
“ Ba ơi, nếu có thể quay ngược lại như một cuốn phim, con tưởng tượng những người
đó sẽ đứng lên, vui cười, đàn hát. Họ trở lại thời tuổi trẻ…”
Ba gật đầu:
“Phải, nếu có thể…”
Tôi chợt nhìn Ba thật kỹ. Ôi, nếu tôi có phép thần làm thời gian quay ngược lại,
tôi sẽ thấy Ba của thời trai trẻ. Ba đang ở trong trường lớp. Ba đang ở trong
quân trường. Ba đang ở ngoài mặt trận. Sinh động quá, Ba của tôi! Nhưng đó cũng
chỉ là những điều tôi tưởng tượng ra mà thôi! Vì tôi đâu có thấy Ba những lúc
như vậy ngoài đời thật. Tôi chỉ biết “Ba lúc trẻ” qua những tấm ảnh còn lưu lại,
cất trong quyển album gia đình với những trang giấy bọc plastic đã cũ vàng. Tôi
còn quá nhỏ lúc đi theo Mẹ vào thăm Ba ở nơi gọi là “trại cải tạo.” Lúc đó, Ba
trông rất cằn cỗi mặc dù tuổi còn khá trẻ. Tôi là đứa con gái út, ba tuổi, được
Mẹ bế trên tay khi đi vào trại. Lóc ca lóc cóc đến lần thăm Ba sau cùng tôi đã
là một cô bé mười lăm tuổi. Ba đi hết trại này đến trại khác, trong Nam ngoài Bắc.
Khi Ba ra khỏi trại tù, mái tóc Ba đã bạc hơn một nửa. Ôi! Nếu tôi có thể quay
ngược được thời gian để thấy Ba trẻ lại…
2
Ba chuyển hết những bài Ba viết cho tôi đọc để tôi sửa
lỗi đánh máy nếu có. Đó là những trang quân sử. Ba nói khi còn đi học, Ba rất
say mê môn Sử. Trải qua thời gian sống trong quân đội, Ba càng nặng lòng với
môn này, lúc đó không còn là môn học bắt buộc nữa, mà trở thành một niềm đam
mê. Bây giờ, hằng ngày, hằng đêm, Ba miệt mài viết. Trước thì viết, sau là
“gõ”. Ban đầu các con phụ “gõ” cho Ba, sau Ba tập dùng computer và tự mình gõ.
Bây giờ chúng tôi “gõ” không lại Ba đâu! Ba nói chiếc máy computer đã giúp con
người được tự do. Ba tra cứu tài liệu, kết hợp với kinh nghiệm chiến trường của
Ba, ghi lại những dòng, những trang khiến chúng tôi say sưa đọc. Không chỉ là
những sự kiện, mà còn có trong đó mồ hôi, nước mắt, máu và thịt xương.
Công việc của Ba là một công việc lâu dài. Chưa biết
lúc nào Ba sẽ dừng. Ba thong thả ngồi trước máy, gõ chăm chỉ. Có khi chúng tôi
đưa Ba đi thư viện để Ba xem sách, tìm kiếm tài liệu cho đúng ý. Từ ngày Ba bị
té sái khớp bàn chân, chúng tôi không cho Ba lái xe nữa.
Có khi tôi bắt gặp Ba ngồi trước ảnh của Mẹ, nói lẩm bẩm những gì tôi nghe
không rõ. Đôi lúc Ba mỉm cười thú vị, nhưng cũng có khi Ba lau nước mắt. Ba sống
với kỷ niệm vui buồn. Ba xem như Mẹ còn sống bên Ba. Nhưng Ba lại cũng rất thực
tế, đúng vậy. Ba giúp các con các cháu khi chúng cần đến Ba. Ba không phàn nàn,
không trách móc, không đòi hỏi. Ba nói Ba rất may mắn vì Ba vẫn còn hữu dụng.
Ba nói khi nào Ba yếu quá rồi thì các con đưa Ba vào viện dưỡng lão, vào
“nursing home”. Nhưng anh em chúng tôi không chịu. Chúng tôi dư sức chăm sóc Ba
mà! Tôi là con gái út chưa muốn lập gia đình, tự nguyện chăm sóc Ba. Anh chị
tôi chia nhau ngày nào cũng có người đến thăm, khi Ba bệnh thì ở lại đêm để phụ
tôi lo cho Ba. Chuyện đơn giản như thế.
3
Sau giờ làm, tôi đưa Ba đến viếng đám tang một người bạn
của Ba. Bác ấy mất trong viện dưỡng lão. Thời gian gần đây Ba vẫn có những cuộc
“viếng thăm” như vậy. Ba đứng rất lâu trước quan tài người bạn, Ba nói như thì
thầm với người nằm trong đó. Khi ra về, ngồi vào xe, thấy tôi có vẻ ái ngại, Ba
nói:
“Ba không sao đâu, con gái!”
Tôi nắm chặt bàn tay Ba, an ủi:
“Ba, con biết Ba rất buồn.”
“Phải, Ba rất buồn vì mất một người bạn. Nhưng Ba rất vui vì Ba đã từng có được
một người bạn quý như vậy.”
“Ba!”
“Con biết không, bác ấy là một người “chiến sĩ” đúng nghĩa của nó. Tuy là một vị
chỉ huy, nhưng bác ấy sống gần gũi với anh em trong đơn vị, sống đúng với nghĩa
“chia ngọt sẻ bùi” con ạ. Khi bác ấy qua bên này, bác ấy đi làm cực khổ nhưng vẫn
gom góp gửi tiền về giúp các anh thương binh nghèo khổ trong nước. Bác ấy
thương đồng đội, thương lính như thế!”
Tôi vui lây với lời kể của Ba, tôi nhắc:
“Ba, Ba cũng thương đồng đội, thương lính vậy. Ba chẳng đã nói rằng Ba còn vô số
mảnh nhỏ trong người chưa gắp ra hết, vì Ba che cho lính khi trái mìn nổ.”
Ba cười:
“Ừ, Ba không chết là may!”
Hai cha con về đến nhà. Ba lại ngồi vào bàn viết. Thế mà tôi vẫn cứ lo Ba ủ dột,
buồn phiền. Nhìn Ba ngồi gõ bài, bỗng tôi có cảm tưởng Ba đang chạy đua với thời
gian. Đừng, Ba ơi! Con muốn Ba sống lâu với con!
4
Tôi lại đưa Ba đến một nơi. Là bệnh viện. Ba đến thăm một
thuộc cấp của Ba ngày xưa. Chú ấy vừa qua một cuộc giải phẫu. Dù còn mệt mỏi,
chú ấy tỏ vẻ rất vui khi thấy Ba. Ba hỏi:
“Chú ra sao?”
“Dạ thưa niên trưởng, em… còn sống ạ!
Ba phì cười:
“Tốt!”
“ Niên trưởng coi, còn cái chân để cà nhắc qua ngày mà ông bác sĩ cũng lấy
luôn. Thiệt khổ ghê!”
Tôi nghe quặn thắt cả ruột. Nhưng hai người anh em kia vẫn trêu nhau vui vẻ. Nước
mắt tôi chực trào ra. Chú ấy đã bỏ lại một chân trên chiến trường. Sau này gia
đình bảo lãnh chú qua Mỹ sống cũng tạm yên. Cái chân còn lại, do chú bị bệnh tiểu
đường, bị hoại tử phải cắt bỏ. Từ nay chú sẽ có thêm một người bạn đồng hành là
chiếc xe lăn.
Người vợ mang cháo đến, đút cho chú ăn. Chú còn trêu vợ:
“Anh còn tay mà em!”
Rồi quay sang Ba, chú nói:
“ Em còn may mắn quá phải không niên trưởng?”
Ba gật đầu cười. Tôi thấy trong mắt Ba dâng lên một niềm cảm động.
5
“Con lại đi với Ba chứ?”
“Dạ có, Ba! Anh chị và các cháu cũng đi nữa.”
Lần này là ngày Chủ nhật. Tôi đưa Ba đến nhà sinh hoạt cộng đồng. Đây không những
là nơi có những hoạt động tương thân tương trợ mà còn là nơi tổ chức những sinh
hoạt văn hóa lịch sử để cho lớp trẻ sinh trưởng trên đất Mỹ tìm hiểu về nguồn cội
và không quên mình là người Việt. Theo từng thời điểm trong năm, nhà sinh hoạt
tổ chức lễ giỗ các vị anh hùng dân tộc của Việt Nam. Ba cùng quý vị bô lão thắp
hương trước bàn thờ Tổ Quốc. Rồi Ba chia sẻ một bài nói chuyện về Hồn Thiêng
Sông Núi. Đó là một giá trị thiêng liêng vẫn luôn có trong lòng những người con
dân nước Việt. Nhiều người trẻ sau đó đến gặp Ba để nghe Ba khuyên bảo, tâm
tình.
Và cũng như mọi lần, khi về đến nhà, Ba lại ngồi vào
bàn viết. Ba gõ thư thăm các bạn của Ba ở xa. Tôi mang đến cho Ba một tách cà
phê theo yêu cầu. Ba muốn được tỉnh táo để viết nốt chương sách về những ngày
khói lửa mà Ba có mặt trong đó. Tôi sợ Ba mệt. Nhưng không, Ba gõ một hơi không
nghỉ. Rồi sau đó, Ba kêu tôi lại, bảo tôi ngồi gần bên, nghe Ba nói.
“Tướng Mac Arthur dẫn một câu trong bản ballad nước
Anh, một bản “nhạc lính”, khi ông đọc bài diễn văn tại Quốc hội Mỹ trước khi chấm
dứt binh nghiệp. “Old soldiers never die, they just fade away.” Câu này nhiều
người đã trích lại, đã lấy làm cảm hứng làm thơ, đặt nhạc. Có người thấy câu nói
này đầy tính tích cực, tôn vinh người lính. Nhưng cũng có người cho rằng người
lính khi về già thật là buồn, như một cái bóng mờ nhạt.
“Những người lính Việt Nam ở thế hệ của Ba, bên chiến
tuyến của Ba, có một thân phận rất đặc biệt. Họ đã từng có và rồi như đã mất
đi. Họ mất quê hương. Và có khi họ không còn nhìn ra chính mình. Có khi họ nghĩ
rằng thà chết đi trên chiến trường lửa đạn khi họ còn là người lính trẻ mà hay.
Còn những người lính già, khi sống cuộc đời lưu vong hay ở lại trong nước, họ
có những nỗi buồn riêng. Ba có cái nhìn của Ba. Ba nghĩ xa hơn cái thân phận của
mình. Ba tin rằng Thượng Đế đặt cho mỗi người một nhiệm vụ, và cho họ ánh sáng
để nhìn thấy nhiệm vụ đó. Ba đã chiến đấu với chính mình để thoát ra khỏi sự dằn
vặt đến quằn quại sau chiến tranh, tình xót xa đối với chiến hữu, lòng thương
nhớ quê hương mà mình đã phải bỏ lại mà đi.”
“Con hiểu Ba. Ba ơi, khi con thấy Ba hết lòng gắn bó với
thế hệ trẻ, thương yêu bạn bè đồng đội, con biết người lính già này rất đáng
kính. Ba chọn đứng khiêm nhường như một vai phụ trên sân khấu, chỉ mờ đi, nhưng
là một điểm tựa rất vững chắc cho chúng con. Con hãnh diện lắm Ba à!”
6
Hôm nay đẹp trời, nhưng Ba không đi đâu. Ba dành một buổi
gọi điện thoại cho bạn bè. Xem ra Ba vui lắm. Tôi chỉ “bị nghe lóm” những câu
chuyện của Ba cũng đủ thấy vui theo rồi.
“Ông tướng, còn sống hở? Ông có nghe lời tôi,
"scan" hình gia đình lại chưa? Chưa được hả? Thì kêu “sắp nhỏ” nó
giúp mình. Đời này con trẻ giỏi hơn người lớn rất nhiều. Mình đừng có tự ái,
kêu nó bày cho. Ông mà làm ra cái album gia đình, chắc chắn ông sẽ vui lắm, mà
con cháu sẽ phục ông sát đất. Chúng nó sẽ có tài liệu quý giá về gia đình,
không phải ai cũng làm được đâu!”
“Ông bạn già, khỏe không? Sao, quyển hồi ký của ông viết
đến đâu? Quên cái gì, bảo tôi. Tôi quên cái gì, sẽ tìm trong tài liệu vậy. Trí
nhớ của mình bây giờ nhiều khi không như mình muốn. Nhưng lớp già như bọn mình,
viết hồi ký để lại cho con cháu đọc để biết cái đời của mình ra sao, là điều
đáng làm, và cũng là để “tập thể dục” cho trí óc của mình nữa. Tôi biết tính
ông, thích cái gì trung thực. Viết hồi ký là phải trung thực. Chính vì thế mà
tôi rất quý ông đấy, ông bạn!”
“Em, sao rồi? Vết thương cũ lại hành phải không? Anh
cũng vậy thôi, trời động là nhức lắm. Biết sao hơn bây giờ? Không ai gánh cái
đau giùm cho ai được. Thôi mình chấp nhận em à! Đồng hành với cái đau. Vợ con
em khỏe không? Mấy cháu chắc ra trường hết rồi? Các cháu có việc làm chưa?”
“Em, khỏe không? Gia đình thế nào? Bên nhà trời mưa nhiều
không? Ngõ vô nhà em chắc ngập hết? Cần gì em cứ nói cho anh biết, đừng ngại.
Anh giúp được gì sẽ ráng giúp. Em đừng buồn. Dù cho chế độ đó có ruồng rẫy anh
em, nhưng lòng dân vẫn thương quý và biết ơn anh em.”
Tôi vào bếp nấu nướng một lát, quay lại thấy Ba còn
chuyện trò trên điện thoại. Ba đi qua đi lại, như một ông thầy giáo đang say
sưa giảng bài. Tôi lại được “nghe lóm”:
“Chú à, đến ngày Trời kêu mình đi, thì mình đi thôi. Gánh đời buông xuống. Cốt
sao mình sống cho vui vẻ. Vui với gia đình, con cháu nếu có. Vào nursing home cũng
chấp nhận. Cũng có những người như con gái tôi vào giúp cho mình, an ủi, ca hát
với mình. Ai rồi cũng sẽ ra đi, mình cũng như bao người, không có gì lạ. Chỉ có
một điều khác: đó là mình đã từng là người lính. Tôi hãnh diện về điều đó. Tôi
không oán hận, mà tin tưởng vào tương lai…”
Ba quay lại, nói với tôi:
“Là chú hôm trước mình vào thăm trong bệnh viện đó con! Sức khỏe khá lên rồi. Mới
khoe với Ba là chú ấy đã cầm điện thoại lên, “on air” trên cái đài của chú ấy,
đài nói tiếng Việt. “Chì” thật!”
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh |
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
IP Logged | |||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 08/Aug/2019 lúc 1:23pm | ||||
Giọt nước mắt của lính
Đây là chuyện thật của người bạn học cũ của tôi và người lính Biệt Động Quân VNCH, sau 40 năm thất lạc nhau vì chiến tranh, một bất ngờ duyên trời đã cho anh chị gặp lại nhau, và tôi được nghe anh chị kể cho tôi về một phần đời của họ đầy vui, buồn, sợ hãi, chán chường của một người con gái đẹp đã vì hoàn cảnh mà ra nông nỗi ấy, của một người trai thời loạn thất chí, vì không làm tròn trọng trách đối với núi sông. Hôm được anh chị mời đến nhà chơi, qua một tách trà sen Huế (anh chị và tôi đều gốc Huế), anh nhìn vợ, âu yếm bảo: - Em kể lại chuyện tình mình cho Mousti ( nick của tôi ) nghe đi, anh nghĩ Mousti sẽ thích chuyện tình đẹp của mình, đẹp như một cổ tích...và chị bắt đầu kể, anh ngồi nghe, lâu lâu thêm vào một vài chi tiết.. Anh nhìn tôi, tay vuốt tóc chị, nói với tôi: - Cánh Hoa Thời Loạn. Xong quay lại nói với chị: Anh phải đem em về lại Huế ngày nào đó nhé cưng. Hạnh phúc thật là nhỏ bé mà đồng thời cũng thật lớn vô cùng. Gặp nhau chỉ có một giờ tình yêu bất tận chẳng ngờ tái sinh...( Thơ của anh )
*
Tôi
mất anh đã hơn 40 năm rồi, ngày mà quê hương còn rền vang tiếng súng,
tiếng đại bác.. của những trận chiến ác liệt như Pleime, Đồng Xoài, Bình
Giả...
Lúc
đó tôi còn là một người đàn bà 25 tuổi, mở một quán rượu gần đồn lính,
thời bấy giờ không biết làm gì để nuôi cuộc sống còn của mình, cha mẹ
chết, có người yêu đi lính cũng đã gục ngã trên chiến trường, nhà cửa
tiêu tan vì chiến tranh, buồn quá, nhân có con bạn học cũ hoàn cảnh gần
như tôi, nhưng nó còn đau hơn tôi là chồng nó bỏ gia đình đi tập kết ra
Bắc, bỏ lại vợ con nheo nhóc buôn thúng bán bưng sống qua ngày. Hai đứa
tôi, nhìn vẫn còn mặn mà lắm, ngày còn đi học là hai hoa khôi của Gia
Long. Bây giờ nghĩ lại thời gian đẹp này chỉ còn trong hoài niệm. Tôi
bây giờ đau đớn nói ra, mình đã là một cô gái giang hồ, nôm na là gái
điếm. Khách của Vân và tôi gần như là lính, vì thành phố tôi đang ở gần
một trại lính. Vân rủ tôi mở quán rượu ở đây vì vậy, lính là những người
không có tương lai, sống chết không biết ngày nào nên họ ăn chơi bạt
mạng, hễ cuối tháng lãnh lương ra là đến quán nhậu, rượu chè, gái...họ
sống như vậy, lao mình vào những ly rượu mạnh hay những cuộc truy hoan
để quên nỗi sợ những tiếng súng, những tiếng đại bác, những hầm chông
cọc nhọn đang chờ, quên đi tử thần đang rình đâu đó..
Cũng
may là Vân và tôi không còn gia đình, nếu không tôi không biết phải ăn
nói làm sao với cha mẹ mình về cái nghề tôi đang làm! Lúc mới đầu chưa
quen với nghề này, tôi ghét lắm những bàn tay vô tình để lên không đúng
chỗ trên thân tôi, hay tiếng đùa giỡn quá trớn của những anh lính uống
say, khi tôi đi ngang qua bàn, víu vai tôi xuống, ôm mặt tôi đặt chiếc
hôn nặc nồng mùi rượu... có lúc tôi chán nản, muốn bỏ nghề đi tìm một
nghề khác dù không đủ tiền nuôi mình, nhưng sau đó, ngày qua ngày, tháng
qua tháng rồi cũng bắt đầu quen. Tuy vậy nhiều khi nhìn Vân ngả ngớn
với mọi người, ăn mặc hở hang, lắm lúc nó ngồi luôn trên chân khách, ỏn
ẻn như muốn làm tình luôn ngay tại chỗ. Tôi nhìn những cử chỉ ấy, rồi
thấy tởm cho chính mình luôn. Có những chàng lính trẻ khuôn mặt còn non,
có thể nặn ra sữa được, phần đông là học sinh bị rớt Tú Tài, đến tuổi
phải đăng lính thì nhiều lắm là cỡ tuổi em trai út mình thôi, vậy mà
phải chịu đựng khói thuốc trong căn phòng bẩn không mấy sạch, vì làm gì
có thời gian để thay đổi chiếu, chăn, nhiều đêm phải tiếp vài người
khách là gần trắng đêm rồi, vì họ cho rằng tiền trao cháo múc, có những
lần tôi gọi là xáp lá cà vì sự hùng hục không chút dịu dàng, sao cho
thoả mãn sinh lý là được, không tình cảm trong đó, chính tôi, tôi cũng
chẳng muốn có tình cảm, tôi tuy là một gái điếm nhưng tôi vẫn trọng phần
hồn mình, chuyện làm tình với bất cứ ai chỉ là chuyện kiếm cơm mỗi
ngày, không ăn thua gì đến trái tim mình cả, quan niệm tôi là vậy.
Tôi
cũng không bao giờ hy vọng hay ước mong ngày nào đó sẽ có một người sẽ
đến yêu tôi và đưa tôi ra khỏi chốn bùn nhơ này. Rồi ngày tháng vẫn trôi
qua, cuộc đời của Vân và tôi vẫn vậy, vẫn nhịn nhục chiều chuộng những
người đàn ông thoáng qua đời chúng tôi trong vài giờ ngắn ngủi rồi ra
đi, không để lại chút gì luyến tiếc. Tiền trao cháo múc mà! Rất hiếm
những lần truy hoan có người nhìn tôi âu yếm, hay cử chỉ dịu dàng, chỉ
có vừa mới chưa kịp cổi đồ là mình đã như con vật bị lên bàn mổ vậy,
hùng hục, hùng hục, đúng như nghĩa của chữ này vậy, xong rồi, nằm thở
dốc, hút điếu thuốc, mặc lại quần áo và mở cửa bước ra, không một lời
chào hay một cái ngoắc tay từ giã.... Toán lính này đi, toán lính khác
đến, không có gì thay đổi trong cuộc sống, không biết Vân nghĩ thế nào,
phần tôi, tôi nhầy nhụa thêm như mình đang lội trong vũng bùn cuộc đời
vậy.
Vậy mà, một hôm anh đến, anh vừa đổi đến đơn vị này; hôm ấy là ngày phép của anh, anh theo đồng bạn đến quán, gọi một chai martell thứ nặng nhất, mắc nhất uống với nhau. Con Vân đi ngang bàn, ngả ngớn với bạn anh, vuốt tóc anh, anh để tự nhiên cho Vân làm, chỉ mỉm cười chào lịch sự. Bàn anh gọi thức nhậu, Vân lo tán tỉnh với bạn anh, nó ngoắc tay nhờ tôi làm giùm. Tôi mang mấy dĩa đồ nhậu đến bàn anh, tôi thấy ánh mắt anh đậu lại trên mắt tôi một khắc, mỉm cười cám ơn; cà bàn gom tiền lại trả, anh móc túi cho riêng tôi một số tiền khá, anh cầm tay tôi, mở tay tôi ra, đặt tiền vào đó và đóng tay tôi lại, rồi thôi. Chiều ấy, anh nói với Vân muốn tôi tiếp anh, tôi bằng lòng, đưa anh lên phòng. Trong lúc anh ngồi trên ghế, tôi lấy drap và áo gối mới thay, vì chăn chiếu cũ đã có nhiều người nằm trên ấy, mùi thuốc lá, mùi đàn ông, những dấu vết vàng vàng của những lần làm tình trước dơ dáy. Không hiểu vì sao tôi lại đối với anh đặc biệt như vậy, tôi cũng tự đang hỏi mình. Anh có một khuôn mặt thật...tôi không biết tả ra sao, cái nhìn ấm áp khi anh nhìn tôi. Sửa soạn giường gối sạch sẽ, tôi như bình thường, mời anh lại giường, tôi đứng cởi đồ trước mặt anh, xong tôi dìu anh nằm dài xuống, và từ từ cởi quần áo cho anh, anh để yên cho tôi làm, xong tôi ngồi xuống giường, nằm xuống cạnh anh, anh dang tay anh ra cho tôi đặt đầu lên, xong quay lại vuốt tóc tôi, hôn lên môi tôi dịu dàng, làm tôi hụt hẫng, bất ngờ trước những cử chỉ trìu mến ấy, rồi anh bắt đầu cuộc chơi. Tôi thú nhận là lần đầu tiên từ ngày tôi làm điếm, tôi có cảm tưởng như tôi là người con gái còn trinh được người yêu yêu mình lần đầu, có một rung động không tên chuyền vào tôi, tôi đáp trả lại anh, tôi không gọi lần này là cuộc truy hoan của một người đàn ông và cô gái điếm. Xong cuộc, anh lấy tấm khăn để trên bàn lau cho tôi và anh, xong anh bảo tôi nằm yên đó, anh chồm dậy lấy bao Capstan châm lửa hút, chợt anh nghe tôi ho, anh giập tắt ngay điếu thuốc chưa kịp hút. - Tôi làm em ho? Em không chịu được khóí thuốc? Tôi giật mình xin lỗi nói không phải vì khói thuốc mà ho mà tại tôi có cái tật từ nhỏ là nhạy cảm, và lúc nào bị xúc động là tôi ho. Nghe tôi trả lời, anh ôm đầu tôi lại gần và hôn tôi như anh đang hôn người tình của anh vậy. Rồi hứng lên, anh lại đưa tôi vào cuộc chơi thứ nhì. Sau lần yêu này, anh đặt đầu anh giữa hai vú tôi, hôn lên đó, và hai vai anh bỗng rung lên, anh khóc nức như đứa trẻ làm tôi sửng sốt. Tôi ôm đầu anh, trìu mến, hỏi anh nguyên do nhưng anh không muốn trả lời... Anh và tôi nằm yên như vậy một lúc lâu, tôi không còn nghe anh khóc nữa, tôi nhìn anh, anh đang ngủ trên ngực trần tôi. Tôi lấy tay gỡ nhẹ đầu anh, đặt đầu anh lên gối, nhìn anh ngủ, lòng tôi chùng xuống, một tình cảm mới mẻ hiện ra trong tôi không có tên. Tôi đứng dậy đi tắm và trước khi xuống quán, tôi nhìn anh ngủ, tôi cúi xuống đặt lên môi anh một chiếc hôn hình như có thương yêu trong đó, tôi cũng không hiểu luôn cử chỉ này tại vì sao nữa! Từ ngày hành nghề, tôi luôn tránh nếu có thể những chiếc hôn môi, cái cảm giác lợm giọng hôi nồng nặc thuốc lá và rượu làm tôi muốn ói, nhiều khi khách hôn mình, tôi muốn đấm vào mặt khách một cái, đạp cái thân thể trần truồng xuống đất và chồm dậy mặc nhanh áo quần, chạy trốn như vừa gặp phải ma. Vậy mà chính tôi lại hôn anh. Tôi xuống quán xem Vân có cần đến tôi không, nhưng tối nay ít khách nên Vân để cho tôi yên. Tôi xuống bếp làm vài món ăn đem lên phòng, anh đã tỉnh, vẫn nằm yên trong tư thế con nhộng,trên môi một nụ cười hóm hỉnh, nhìn tôi như nói: - Em thẹn thấy anh trần truồng phải không? Tôi cười nhẹ không trả lời, trả lời sao bây giờ trong hoàn cảnh tôi, một cô gái điếm mà lại mắc cỡ đứng trước người đàn ông trần truồng như gái nhà lành! Tôi nói anh đi tắm rồi ra ăn cơm với tôi. Trong lúc anh tắm, tôi lại giường, nằm xuống úp mặt lên gối, ngửi mùi tóc anh và mùi mồ hôi anh còn thoảng trên đó, có chút gì thật dễ thương khó quên! Xong buổi cơm chiều, hai đứa cởi hết đồ, ôm nhau nằm trên giường, chợt nghe anh thở dài, tôi hỏi anh tại sao và anh chưa hề hỏi cho biết tên tôi cũng như tôi chưa biết tên anh, anh nói: - Anh với em, mình không có tương lai, mai anh đi rồi, biết sống chết ra sao, và em cũng vậy, ngày anh may mắn còn sống trở về, chắc gì mình còn gặp lại nhau, thì thôi nếu em có chút tình cảm cho anh thì cứ giữ vậy làm kỷ niệm, anh không hề xem em là cô gái giang hồ, chỉ xem em là người con gái bất hạnh của cuộc đời trong chiến tranh mà thôi. À, mà đây, vừa nói anh vừa tháo ở cổ anh sợi dây chuyền vàng có miếng mề đay nhỏ bằng vàng hình trái tim, có khắc số quân của anh. Tôi ngơ ngác, giương mắt nhìn anh: - Đó là quà cuối cùng của Mẹ anh cho anh trước khi bà mất trong Tết Mậu Thân Huế, bà cho thợ vàng khắc số quân của anh khi lỡ anh chết trận, có trên cổ anh vừa tấm thẻ bài lính và số quân này, như vậy chắc ăn hơn, bà nghĩ vậy. Bây giờ anh gửi tặng em, giữ lấy như quà cưới, vì hôm nay anh không ngờ trước một sự gặp gỡ dễ thương và đáng nhớ như vầy, xem như hôm nay là ngày cưới anh và em, và đêm nay là đêm động phòng của mình. Anh cảm nhận được tình cảm em qua mấy lần yêu nhau chiều nay, em đã đặt tình cảm em trong đó; anh hiểu rõ lắm, vì trước đây, anh cũng đã sống trong trụy lạc, mê đắm trong thuốc lá, trong rượu, cùng gái điếm với những đêm truy hoan nhưng thú thật em, chỉ vì lâu ngày thèm khát đàn bà, với em hôm nay, anh không thèm khát chuyện xác thịt, lúc đầu anh cũng nghĩ sẽ như những cuộc truy hoan với những cô gái giang hồ khác (trong cuộc nói chuyện, anh vẫn tránh chữ gái điếm, và tôi thầm cảm ơn, sự tế nhị này của anh.) nhưng hôm nay thì không, anh có cảm tưởng người đang nằm bên anh là người yêu của anh. Anh xem em như người bạn đời của anh dù chỉ gặp nhau trong một đêm, và cuộc tình ngắn ngủi này sẽ theo anh suốt dọc quãng đường anh đi tiếp. Tôi tháo chiếc nhẫn bạc kỷ niệm sinh nhật 18 tuổi của mình, đeo vào ngón tay út anh. Tôi tắt đèn, và hai đứa lại lao vào những trận yêu bỏng cháy đầy tình cảm... 1. Chút Quà Gửi Em Liên tiếp tuần sau đó, tôi gặp lại người lính không tên này ngày chủ nhật. Anh đến quán cùng với vài người bạn lính khác, các anh và anh, nhất là anh vẫn oai hùng trong bộ quân phục với áo hoa rừng và chiếc mũ nâu, cũng vẫn khuôn mặt dễ mến mà từ tuần trước khi anh ra về, tôi ra điều kiện với Vân, nếu Vân còn muốn tôi giúp Vân trông nom quán tiếp Vân, tôi sẽ không tiếp khách nữa. Vì hình như tôi vẫn đợi anh đến, tình cảm tôi hình như có sư đổi thay, và hình như tôi có linh tính là cuộc đời tôi đang đến một ngã rẽ khác. Anh ngồi chơi với bạn, uống một chai bia lạnh hiệu 33, trong không khí đầy khói thuốc lá, mùi rượu, những mẩu chuyện lính đầy tính chất gái giang hồ, và sexe; tôi lén để ý anh, anh chỉ ngồi cười nghe bạn, không hoà đồng vào với bạn, Vân lăng xăng ôm cổ người này đến người khác, bằng lòng cho khách hôn hít, sờ soạng...
Tôi
đứng yên sau quầy rượu, giả vờ lau ly, cốc... Anh quay lại nhìn tôi,
mỉm cười chào nhẹ bằng một nụ cười thật hiền và dễ thương. Anh làm hiệu
cho tôi đến gần anh, anh đứng dậy kéo ghế cho tôi ngồi cạnh. Nhiều bận
mấy đồng đội anh định giở trò ờm ờ, những cử chỉ như đối với Vân, anh
đưa tay như bảo họ stop, và lạ lùng nhất là họ nghe anh răm rắp, tôi
nghĩ trong toán lính này, anh là huynh trưởng của họ, vai vế lớn hơn.
Sau đó, chiều lại, mấy người lính kia đứng dậy đi về trại, anh ngồi lại quán, hỏi Vân với tôi có thể cho anh ăn cơm chiều ở đây không, Vân cười nhìn tôi, ý là cô nàng hiểu anh muốn gì. Vân đứng dậy dọn ly cốc và vỏ chai không trên bàn, đem đổ tàn thuốc, đưa mắt cho tôi như bảo: Mày lo cho chàng đi. Mâm cơm chiều này tự tay tôi nấu, ngon hay vì cảm tình anh dành cho tôi mà anh thấy ngon? Chiều nay anh uống hơi nhiều một chút, rồi ngà ngà say, Vân và tôi không để anh về một mình, giữ anh lại cho anh ngủ lại đây. Sáng hôm sau, khi anh ấy dậy, tôi pha nước cho anh tắm, bưng điểm tâm lên phòng cho anh vì tôi muốn hưởng trọn với anh ấy những giờ phút cuối trước khi anh ấy trở về đơn vị. Anh kéo ghế sát lại, bảo tôi ngồi cạnh anh, một tay anh cầm cốc café, tay kia anh ôm ngang người tôi, tôi cảm nhận được hơi nóng từ thân thể anh thấm vào người tôi, lòng tôi nhũn ra, nước mắt muốn ứa nhưng không dám vì sợ anh buồn biết tôi đang buồn. Anh ôm tôi chặt trong vòng tay mạnh mẽ của anh, chặt nhưng trìu mến chứ không như lũ khách tôi thường gặp. Rồi cũng phải đến giờ xa nhau. Anh cầm tay tôi, quàng cổ tôi đi xuống cầu thang, tôi không để ý đến bao thuốc Capstan anh quên trên bàn. Xuống quán, anh hôn má Vân từ giã, và hôn tôi nồng nàn, môi tôi và anh như bị gắn chặt bởi một thứ keo đặc biệt mà thiên hạ gọi là keo sơn. Vân hỏi anh bao giờ anh ghé ngang, anh chỉ cười, đưa tay lắc lắc như nói không biết được, rồi anh đi. Tôi nhìn theo bóng anh, tim tôi muốn ngất đi vì thương nhớ. ôi bỏ Vân một mình vì sớm quá, quán chưa đông, tôi lên phòng, đóng cửa định ngồi khóc cho đã, cThợt nhìn thấy trên bàn gói Capstan anh quên, nhưng tôi biết anh xa rồi nên thôi. Tôi mở gói thuốc xem còn thuốc nhiều hay không, chợt tôi khựng lại; trong bao thuốc có một bao giấy gói, tôi mở ra xem: một photo anh ngày còn sinh viên chắc, vì trẻ lắm, một số tiền và một lá thư ngắn có theo một bài thơ. - Em giữ hộ anh nhé khoản tiền lương tháng này anh vừa lãnh, vì lúc này anh chưa cần đến, và anh tặng em hình chụp ngày anh vừa 17 tuổi như một kỷ niệm. Em giữ số lương anh đến khi nào gặp lại anh em hãy đưa trả anh, còn nếu rủi không gặp nữa, em cứ giữ lấy phòng thân vì không ai biết ngày mai như thế nào với chiến tranh.
2-Gửi Em Chút Quà
(Bài thơ này anh viết trong đêm khi em ngủ ngon giấc bên cạnh, anh ngồi dậy viết vội tặng em.) mai lên nớ bao giờ gặp lại ta biết em trong phút si cuồng thằng lính trận thấy lòng ấm lại tình của mình dù chỉ một đêm.... mai lên nớ thèm môi nào ngọt phút hiến dâng như cả đời mình ta bỗng chốc thành thằng ngu độn chín bệ vàng hoàng hậu nương nương mai lên nớ say cùng chiến trận dòng chữ ghi ân hận chút tình bao giấy thuốc thơm tình lính trận gửi cho người tấc dạ trung trinh mai lên nớ nhớ thân thể nóng em rướn người vào bóng trăng tan..... Người lính không tên...
*
Trước
khi anh đi, Anh hỏi tôi có tấm hình nào không? Tôi mở tủ, tìm được một
tấm hình mặc áo dài trắng có gắn huy hiệu bông mai của trường Gia Long,
hình này tôi giữ kỹ vì để nhớ thời gian mình còn là một nữ sinh trong
trắng chưa vướng bụi đời. Tôi đưa cho anh, anh bảo như vậy những khi nhớ
tôi anh sẽ nhìn cho nhớ mặt tôi vì hình lúc 10 năm về trước và tôi bây
giờ không khác nhau bao nhiêu, tôi ngồi thừ trước hình anh... nước mắt
chan hoà..
Sáng hôm sau, anh dậy sớm trở về trại vì đã hết phép. Anh hôn tôi nồng nàn, từ giã Vân và tôi. Tôi nhìn theo anh...hình như tôi vừa mất một cái gì thật thương qúi... 3. Giọt Nước Mắt Biết Đau Quán Vân và tôi bây giờ khách thật đông, ngoài trại lính bên cạnh, tấp nập khách thương di chuyển hàng ngang thành phố, thêm gia đình vợ con lình cũng lên đây để thăm viếng chồng, anh, em trai cho tiện. Quán bây giờ không còn là ổ gái giang hồ mà là quán café và quán ăn. Vân cũng chán cái nghề mà thiên hạ vẫn gọi là nhơ nhớp và đê tiện. Vân trở về với đời sống bình thường, ngày ngày lo công việc rót rượu và các thức uống, mướn thêm người để tiếp khách, phần tôi vì tôi giỏi về nấu ăn nên Vân để trọng trách này cho tôi đảm đương. Cuộc đời tôi không ngờ lại có sự thay đổi bất ngờ không tính trước, vì vài tháng sau, tôi đang thái rau cải, bỗng cơn buồn nôn thúc tôi chạy vào nhà sau ói, và tắt kinh: tôi mang thai với người lính không biết tên. Tôi nửa mừng nửa lo, mừng là tôi sẽ lên chức mẹ, nhận ra tôi đã yêu thương anh ta vô cùng và tôi muốn giữ cái bào thai này như một kỷ niệm đẹp của đời mình, lo là không biết rồi đây cái thai lớn lên, rồi tôi sẽ làm gì và đi đâu, tôi kể cho Vân nghe, tôi muốn bỏ quán đi về quê quán để sinh nở nhưng Vân cản lại, Vân bảo thứ nhất là tôi mang thai, không chồng lại mang tiếng đồ gái chửa hoang, thứ hai tôi lấy gì để sống và nuôi cháu bé, Vân bảo tôi hãy ở lại với Vân, nó rất tốt với tôi, thương tôi như ruột thịt, ở lại đây, dù sao tôi vẫn sống qua ngày được, tôi mềm lòng, cảm ơn Vân và tiếp tục công việc của mình. Đêm đêm trước khi ngủ, tôi vẫn lấy hình người lính không biết tên ra nhìn, nhớ anh ấy như nhớ người tình hay người chồng của mình. Nhiều khi tôi nghĩ dại, lỡ anh chết ở chiến trường, chắc tôi khóc đến giọt nước mắt cuối cùng, và vui là biết bây giờ tôi còn thêm một kỷ niệm sống với anh sau mấy đêm thương yêu nhau thật như hai người tình. Ngày tháng cứ theo nhau trôi qua, cuộc sống tạm ở quán Vân và tôi cũng đắp đổi qua ngày. Bây giờ tôi đã sinh nở xong, cháu bé trai ra đời trong tình thương của tôi và Vân.Tôi đặt tên cho cháu là Việt Nam, gọi Vân là dì Vân giùm cho cháu bé. Mỗi lần tôi ngồi cho con bú, tôi nhớ anh ấy kinh khủng, không biết bây giờ tiểu đoàn của anh đã trôi nổi ở chiến trường nào. Quán chúng tôi bây giờ rất đông đảo, tấp nập đủ hạng khách, nhất là lính. Nhưng lúc này tôi cảm nhận hình như có gì không yên ổn lắm; trên gương mặt của những đám lính đến uống nước ở quán, lúc này có vẻ lo âu, tôi nghe lóm ở họ những tiếng di chuyển, thuyên chuyển, nào những địa danh như Đồng Xoài, Bình Giả...Pleime. Tiếng máy bay trực thăng rền trên đầu, ngoài đường cái những xe tăng, xe cứu thương, xe jeep, từng đoàn convoi chở đầy lính không biết đi đâu... và càng ngày càng nghe tiếng súng, tiếng đại bác, tiếng bom gần lại. Tôi đâm lo, tôi nói với Vân, Vân cũng nghĩ như tôi, thấy tương lại bấp bênh quá. Trong toán lính còn đóng ở đơn vi cạnh quán, có một người mặt mày thật chân hậu, dễ mến, xem ra hình như rất cảm nàng Vân và nàng ta cũng vậy, Vân đối với anh ta rất đặc biệt. Thấy anh mặc áo hoa rừng, trên vai có mang chữ V, tôi hỏi nhỏ một người lính bạn anh, anh ấy trả lời, ah, Hậu nó mang lon trung sĩ mà chữ nghĩa lính gọi là cánh gà đó chị. Một trưa quán ít khách, tôi ngồi ru cháu bé ngủ ở nhà sau, để cho Vân và Hậu (anh ta tên là Nghĩa Hậu) nguyên buổi trưa. Lúc Hậu trở về đơn vị, Vân gọi tôi tâm tình, Vân thố lộ với tôi là hai anh chị mết nhau lắm, và Hậu bảo Vân, Hậu muốn cùng Vân thành vợ chồng ngày Hậu mãn lính. Vân bằng lòng chờ đợi anh. Vân thú hết với Hậu về đời Vân, nhưng Hậu bảo Hậu không nề hà dĩ vãng của nàng, Hậu bảo Vân và tôi là hai sắc hoa trong thời loạn. Vân rất vui và cảm động tấm lòng độ lượng của Hậu, Vân nói nhưng làm sao anh giới thiệu Vân với gia đình của Hậu ở Đà Lạt lần tới khi anh được nghỉ phép vài ngày, Hậu trả lời không cần phải nói rõ Hậu gặp Vân ở đâu, hơn nữa, anh lớn rồi và anh là lính cuộc đời nay sống mai chết nên anh muốn cho Vân hưởng hạnh phúc cùng anh cho dù vài tháng, vài ngày, vài giây.... Vân hứa sẽ lấy Hậu làm chồng và sau đó sẽ gửi quán lại cho tôi trông nom. Tuần sau đó, Vân bảo tôi Vân sẽ về thăm người dì ruột ở Quảng Trị và hôm rồi sẽ trở về với tôi trông coi quán và chờ Hậu về. Nhưng Vân sẽ không bao giờ về với mẹ con tôi nữa. Chuyến xe đò trong đó có Vân đã trúng mìn, tất cả xe đều chết hết. Thế là tôi lại bơ vơ thêm lần nữa, mất người bạn thiết, lạc người lính không biết tên mà tôi đã đem lòng yêu thương, tôi khóc hết nước mắt. Hậu cũng đi rồi, không biết phải ra chiến trường nào! Nhiều lúc nghe tiếng súng và đại bác gầm trong đêm, tôi ước có viên đạn lạc nào đó lấy luôn sự sống của tôi cho rồi, nhưng khi tôi nghe tiếng khóc con thơ bên cạnh, tôi sực tỉnh cơn ác mộng. Tôi đã tự hứa với mình là tôi sẽ nuôi cháu cho thành người vì tôi vẫn có hy vọng có thể ngày nào đó mẹ con tôi sẽ gặp lại người xưa. Tôi vẫn tiếp tục ngày ngày cho quán, nhưng rồi cũng bối rối quá vì hình như có cái gì đó không ổn. Ngoài đường bây giờ từng đoàn người tay nải, tay bế tay bồng chạy, mà chạy đi đâu, không hỏi ai được, rồi thêm vào đó xe chở lính đầy đường, máy bay trực thăng bay rền trời, tôi cũng đâm hoảng, lúc này không còn thấy lính đến uống nước nữa.
...
Cuối tháng Tư 75. Đang hoang mang chưa biết phải làm gì thì ngay sáng hôm đó, Hậu không biết từ đâu chạy bay vào quán, réo tôi bảo thu xếp vài thứ cần thiết cho cháu bé, bảo hai cô gái giúp quán cũng vậy, tôi đang còn tần ngần không biết đem gì bỏ gì thì Hậu hét to lên bỏ hết, bỏ hết, mau lên, xong Hậu bồng thằng Nam, một tay nắm tay tôi dắt ra cửa, hai cô gái một cô dùng dằng không chịu đi vì em ấy còn mẹ già và em trai nhỏ, bảo chúng tôi cứ đi, để quán lại em lo tiếp. Hậu bồng Nam ra xe, trao cháu cho người lính ngồi trên xe, đẩy tôi và cô gái tên Uyên lên xe rồi nhảy phóc lên chỗ tay lái, cho xe chạy thẳng. Trên đường bây giờ thiên hạ như tổ ong vỡ, vừa chạy vừa gào vừa khóc, không còn biết chạy hướng nào nữa. Chiếc xe jeep Hậu phải lách tránh vừa người, vừa con voi lính, phải tay lái cừ lắm mới không đụng ai và cán ai, có nhiều người muốn níu xe lại xin cho quá giang, như Hậu không ngừng, thì giờ khẩn cấp quá rồi. Tôi như con ngáo, hỏi Hậu là thế nào, mới hay là miền Nam đã mất vào tay cộng sản, và chúng tôi đang tìm đường thoát. Tội thằng Nam, chắc nó cũng cảm được gì đó không an, nó ngồi êm rơ trong lòng người lính. Xe chạy như vậy không biết đã bao lâu và hướng nào vì đi từ sáng sớm tinh mơ, giờ đã tối thui. Hậu bảo chúng tôi là sắp đến Vũng Tàu. Tôi và cô gái cũng không dám hỏi thêm. Sau cùng, tôi nhận ra bãi biển Vũng Tàu với những hàng dừa như ngái ngủ bây giờ bị dựng đầu dậy bởi tiếng khóc, tiếng réo, tiếng cầu cứu loạn xà ngầu của đám người chạy loạn cũng đang tìm cách thoát ra khơi bằng đủ cách. Vì Hậu hình như đã tính toán sẵn trước nên khi vừa đến Bãi Trước, anh hối mọi người theo anh chạy xuống mé biển, ở đấy đã có sẵn một chiếc tàu quân sự nhỏ đang chờ chúng tôi, anh để người lính bạn nhảy lên tàu trước, đưa Nam cho anh ta, xong đến cô gái, đến tôi và Hậu cuối cùng, chiếc tàu nhổ neo chạy vọt ra khơi. Chiếc tàu chúng tôi chạy ra xa, và tiếng máy hình như vừa ngừng lại, trước mắt là một chiếc tàu lớn của binh chủng Mỹ vì có treo cờ Mỹ. Chiếc tàu dừng hẳn lại, trên tàu Mỹ, có mấy người lính Mỹ thả xuống một cái thang bằng dây. Hậu bảo người lính bạn leo lên, Hậu buộc cháu Nam trên lưng anh ta, xong Hậu đỡ tôi leo lên sau, rồi đến phiên cô gái và Hậu. Thường ngày, leo thang bằng dây như vậy thật là khó khăn, nhưng hôm nay, sự lo lắng và sợ hãi đã làm cho tôi như mọc cánh, leo thật dễ dàng. Lên đến tàu rồi, thấy Hậu lăng xăng nói chuyện với mấy người lính Mỹ anh gặp. Trong lúc đó tôi nhìn quanh, chiếc tàu lớn này chở có lẽ đến 5, 6 ngàn người vừa lính Mỹ, vừa quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, vừa đám người tị nạn như tôi, vợ con quân nhân...những người đầy may mắn chạy thoát đặc biệt như vầy. Qua khỏi cơn kinh hoàng, bất chợt tôi vừa nhận ra mình sẽ rời xa mãi Việt Nam thân yêu, tôi quay lại nhìn về phía Vũng Tàu, xa lắm nên tôi không còn thấy và nghe tiếng đám người chạy loạn, chỉ thấy lửa; toàn lửa đỏ cả một góc trời và đám khói đen nghịt bốc cao, Vũng Tàu vừa bị đốt. Tôi thở dài, thế là quê hương thân yêu tôi đã bỏ lại sau lưng mình! Tôi tìm anh lính để cám ơn anh đã lo cho Nam, tôi tìm Hậu để muốn nói một lời nào đó, và để hỏi Hậu về tin tức mình sẽ đi về đâu...Hậu thấy tôi đến gần, anh nhìn tôi, nở một nụ cười đón tôi nhưng thật buồn, rồi thôi, hai chúng tôi đứng bên nhau không nói thêm gì nữa, tôi thấy mắt Hậu nhìn về phia tôi cũng vừa nhìn lúc nãy, đôi mắt anh chứa một nỗi buồn kín đáo, trầm lặng, tôi biết anh đang nghĩ đến quê hương vừa bỏ mất, đến Vân, tình yêu đầu đời của anh nay chỉ còn là một hoài niệm khó quên, hình ảnh của những mảnh thịt da tan tác đó đây, nhầy nhụa máu cùng đất đỏ cao nguyên của Vân, của những người lính đồng đội của anh đã nằm xuống, của những người dân chết vì một viên đạn, một mảnh bom vô tình rơi trúng trên một quãng đường nào đó của quốc lộ... 4 - Giọt Nước Mắt Trở Hồng Long Lanh ( Tiếp theo giọt nước mắt biết đau ) Trên chiếc Hàng Không Mẫu Hạm Hoa Kỳ chở dân tị nạn chúng tôi bây giờ bớt người, vì đến đảo Subic Bay, có khu trục hạm khác đang đậu chờ để chia bớt số dân di tản chia làm hai ra, dân trên tàu chúng tôi thấy tàu kia tản bớt còn ít người nên ùn ùn xuống bớt tàu nầy qua bên tàu kia. Không biết là chiến hạm này sẽ đi Canada hay Úc thì tôi không rõ lắm. Thấy bớt được người, Hậu bảo anh bạn lính, Uyên và tôi cứ ở lại đây vì Hậu bảo tàu này chắc sẽ qua thẳng đảo Guam. Tôi mở ngoặc nói về người Mỹ một chút, những ngày trên tàu, hầu hết lính Mỹ đối với đám dân tị nạn chúng tôi rất tốt, chúng tôi mỗi ngày vẫn nhận được 3 bữa ăn có cơm chỉ khổ là họ không biết biết nấu kiểu Việt Nam, nhiều nước quá nên cơm nhão, nhưng dù sao khi đói ăn gì vẫn thấy ngon, đồ ăn toàn là đồ hộp như thịt hộp...các cháu bé thì được phát thêm sữa bột Mỹ...Tôi cám ơn những người Mỹ đã đón nhận chúng tôi với nỗi thông cảm sâu sắc tình người. Vì bớt người nên chúng tôi không còn nằm như cá mòi sắp lớp nữa, Hậu tìm được cho bọn con gái chúng tôi một chỗ trên boong, thoải mái. Những người lính Mỹ đem cho chúng tôi mỗi người một tấm nệm bằng cao su,một tấm mền.vừa ấm cũng vừa êm nên cũng đỡ khổ cho tấm lưng gầy, mấy hôm nay bị cong vì nằm hụt chỗ. Đêm nay, đêm bình yên đầu tiên tôi nhìn thấy trăng, bao ngày lênh đênh trên biển, sự lo âu và đau buồn vì cớ cái chuyện rời bỏ quê hương đang bị dày xéo bởi chế độ khắc nghiệt độc tài sau chiến tranh. Nhớ cái chết thảm thương tội nghiệp của Vân, tôi như người ngồi trên lửa và mắt tôi như mù đi. Đêm nay ngồi ôm cho bé Nam ngủ, tôi ngồi cạnh Hậu, Sang – anh lính chưa quen và Uyên, tôi chợt thấy trên nền trời đêm xanh trong, có mặt trăng và những ngôi sao lấp lánh, chợt tôi nhớ đến 4 câu thơ của người lính không biết tên đọc cho tôi nghe lúc anh nằm cạnh, anh vuốt tóc tôi âu yếm: Giữa khuya tay gối đợi chờ em đi vào giấc mơ đời lênh đênh trăng vào xiêm áo nhẹ tênh oằn thân ngà ngọc cong vênh cội nguồn....
mắt
tôi chợt ướt, tôi lắc đầu cho quên đi kỷ niệm, vì giờ này đâu còn là
lúc để nhớ mà chỉ lo ngay ngáy ngày mai mình và con sẽ ra sao, tương lai
sẽ đi về đâu...
Lênh đênh trên biển như vậy, sau 11 ngày, thì chiến hạm đến hải phận của đảo Guam. Trước khi cho chúng tôi sang những chiếc tàu nhỏ của tuần dương hạm để vào đảo, họ phát cho chúng tôi ít quần áo, các người đàn ông mỗi người một chiếc sơ mi chim cò kiểu người Phi Luật Tân . Bỗng tôi nghe có tiếng thét từ trên boong cao, tôi đưa cháu Nam cho Uyên, đưa mắt tìm Hậu nhưng không thấy, tôi chạy vội leo lên boong, thấy Hậu và một nhóm người đang nhìn xuống biển, tôi vội vàng chạy đến tìm Hậu, đưa mắt hỏi. Chỉ nghe Hậu thở dài và đám người kia phần nhiều là quân nhân VNCH, mặt họ thật buồn. Hậu kể cho tôi nghe câu chuyện từ đâu có tiếng thét nhói tim người nghe lúc nãy: Lúc mọi người được phát cho quần áo, chiếc áo sơ mi chim cò kiểu Phi Luật Tân vẫn mặc. Như mọi người quân nhân khác, Hậu cầm chiếc áo trong tay, tần ngàn không biết nên cởi bộ quân phục đang bận trên người để thay, chợt Hậu thấy đằng xa một anh quân nhân cầm trên tay chiếc áo, vẻ mặt như đang nghĩ ngợi một điều gì quan trọng, có lẽ anh ta đang đối diện với một sự thật tàn nhẫn không thể chối bỏ hay quên được: Đó là danh dự tổ quốc, lý tưởng của người làm trai đã hy sinh cả cuộc đời, tuổi trẻ, gia đình để bảo vệ miền đất tự do của anh đã mất hết. Trong một khắc ngắn, như đã quyết định, anh leo lên bờ boong tàu, lao mình xuống biển mà sóng đã nuốt chửng mất hút thân anh trong biển mênh mông trong lúc Hậu chưa kịp làm một cử chỉ gì để giữ anh lại! Vậy là bao nhiêu chí lớn trong một khắc ngắn đã chìm theo những bọt sóng vô tình....Hậu nắm tay tôi, ngậm ngùi cho hoàn cảnh của những người cầm súng không giữ được quê hương! Hậu nghĩ trong đầu, khi cầm chiếc áo chim cò anh vừa nhận được, anh cảm thấy lòng anh rất thẹn, thẹn vì anh thấy mình thật bất lực, anh là một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, trong tay anh cầm súng cùng với anh em chiến hữu cố chiến đấu đến phút cuối cùng, vậy mà không làm tròn được sứ mạng của người trai lúc quê hương đang gặp nguy biến, không ngăn chận được kẻ thù, anh cũng đã nghĩ đến chỉ có cái chết mới có thể xin tạ lỗi cùng quê hương, nên anh rất hiểu tâm trạng người quân nhân vừa đã nhảy xuống biển tự vẫn vừa rồi. Tôi nhìn Hậu, thấy sự xót xa trong mắt Hậu, tôi vội bấu chặt lấy cánh tay Hậu: - Hậu, Hậu đừng làm vậy, đã không có ích gì mà còn làm cho Vân dưới suối vàng buồn thêm, và còn những người còn sống, đồng bạn Hậu, mẹ con chị còn cần đến Hậu. Vào đến đảo, chúng tôi cũng được đón tiếp đàng hoàng. Mỗi gia đình được chia cho một căn lều vải. Chúng tôi là những người gần như đầu tiên đến đảo, được đối đãi rất tốt. Mỗi ngày nhận được 3 khẩu phần. Cuộc sống trên đảo cũng tạm qua ngày trong lúc chờ đợi Uỷ Ban Liên Hiệp Quốc quyết định cho tương lai của những người di tản. Trên đảo có một văn phòng đại diện Liên Hiệp Quốc, họ cần những người biết tiếng Pháp, tiếng Anh để làm thông dịch viên. Hậu và tôi tình nguyện vào làm vì chúng tôi nói thạo 3 thứ tiếng. Sau đó thấy Hậu độc thân, họ hỏi anh muốn đi đâu và có thân nhân ở đâu, Hậu bảo anh đã liên lạc được với vợ chồng em gái anh ở Mỹ và chịu bảo trợ cho anh, và anh đã được đồng ý cho đi Hoa Kỳ. Sau đó đến tôi, thấy tôi thạo tiếng Anh, và có con nhỏ, họ bảo tôi được quyền ưu tiên chọn xứ, và sau đó do sự bảo trợ của nhà thờ, họ tìm được cho tôi một gia đình hai vợ chồng người Mỹ cao tuổi đang cần một người giúp việc nhà, họ liên lạc với gia đình này và tôi được nhận. Cuộc đời mẹ con tôi đến một ngã rẽ may mắn, nhiều khi nghĩ lại, tôi cũng tự hỏi có phải tôi đẻ bọc điều không, hay định mệnh do Trời Phật xếp đặt. Ông bà Mỹ đối với mẹ con tôi như người nhà. Ngoài những giờ làm việc, bà chủ cho tôi theo học lớp tiếng Anh cho người ngoại quốc, vì dù tôi thạo tiếng Anh, nhưng ở Mỹ họ nói mau quá khó nghe vì nuốt chữ. Và vì chợ búa, món ăn tôi chưa thạo việc lắm, chỉ có cái vui là ông bà rất thích đồ ăn Việt nên mê những món tôi nấu. Ở đây có nhiều hội từ thiện các nhà thờ, thường cho mẹ con tôi quần áo …có mặc rồi nhưng chưa cũ lắm, cháu Nam thì ban ngày được đi mẫu giáo, tóm lại, cuộc đời tôi không đến nỗi nổi trôi lắm nếu hai ông bà Mỹ không mất đi. Từ đó, tôi lại phải lo tìm việc khác để làm nuôi con. Tôi nhờ nhà thờ tìm cho tôi chỗ làm, và tôi được nhận vào nấu ăn cho một nhà hàng Việt, với sự dành giụm, mấy năm sau tôi mua được một căn nhà nhỏ đủ cho mẹ con tôi ở. Tôi tiếp tục như vậy và nuôi con cho đến lúc nó ra đại học. Bây Giờ Nam đã là một luật sư. Nó tìm được chỗ làm tốt cùng với một luật sư người Mỹ gốc Việt. Hiên nay tôi đã ngoài lục tuần. Tôi vẫn sống độc thân nuôi con, dù có rất nhiều người thương và xin cưới tôi. Trong tim tôi, bao giờ cũng chỉ có một hình bóng duy nhất của người lính không biết tên mà tôi vẫn xem anh như chồng mình. Tôi cứ cầu nguyện Trời Phật cho tôi gặp lại anh ấy dù chỉ một lần là đủ mãn nguyện rồi. Nam từ nhỏ vẫn hỏi cha nó đâu, tôi giải thích cho con cha nó là một người lính trước đây của binh chủng Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà. 40 năm sau ....... Buổi tối hôm đó, tôi đi dự đám cưới con của bạn, tôi không thể nào ngờ là mình đã gặp lại người xưa. Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến. Trong một bữa tiệc cưới con trai bạn, tôi đi dự hôm đó, mặc chiếc áo dài tím như thời còn là học trò nhưng hở cổ, thân người vẫn mỏng mảnh, và nhìn chung sắc diện cũng còn dễ coi, chưa bị thời gian hằn những nếp nhăn mặc dù đời tôi quá ê chề lúc trẻ. Trên cổ trắng ngần của mình, sợi dây chuyền người lính không biết tên đã tặng vẫn nằm yên cùng chỗ khi người ấy đeo vào cho tôi. Tôi đang đứng nói chuyện với mẹ cô dâu, chợt thấy có một người đàn ông tóc hơi hoa râm nhìn tôi chăm chú, tôi cố nghĩ tìm xem có quen không, thì người ấy đã đi về phía tôi, nhìn đăm đăm vào khoảng cổ trần của tôi: - Xin lỗi bà về tội tôi đường đột sắp hỏi môt câu, nếu có gì thấy thất lễ, mong bà lượng thứ cho. Chưa kịp trả lời bằng lòng hay không, ông ta tiếp theo: - Xin lỗi bà, làm sao bà có sợi dây chuyền này? bất giác tôi nhìn tay ông ta đang cầm cốc rượu, một chiếc nhẫn bạc quen thuộc trên ngón tay út, cả hai người, ông ta và tôi đánh rơi hai cốc rượu xuống đất cùng một lần theo sau hai tiếng như thoát ra từ ngực mỗi người: - Anh - Em... Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến. Hôm ấy tôi làm một bữa cơm thật giản dị nhưng để hết thương yêu vào những món mà ngày anh đến quán Vân tôi đã tự tay nấu cho anh và nhân thể tôi gọi Nam đến ăn cơm nhưng chưa cho con biết vì sao, tôi căn dặn con là phải đến. Hôm nay tôi cũng sửa soạn làm đẹp một chút và nhìn gương, tôi rất tự hào mình vẫn còn những nét xưa. Nghe chuông cửa reo, tôi vội vàng ra mở cửa, thấy anh ôm trên tay một bó hồng đỏ và chào tôi bằng một nụ cười thật tươi, tôi sững hết một phút, ban ngày nhìn rõ, nụ cười đó của anh vẫn dành cho tôi những ngày ngắn ngủi thương yêu nhau ngày xưa. Anh đưa cho tôi bó hồng, anh bảo có 40 đoá hoa, tôi hỏi tại sao lại 40 đoá hoa? - Vì đã 40 năm anh chưa gặp lại em. Và mỗi một đoá hồng là một năm tròn anh nhớ em đó em. Nước mắt tôi ứa ra vì cảm động. Tối qua ở tiệc cưới, anh bảo anh vẫn ở một mình đến bây giờ vì cũng thầm mong ngày nào đó gặp lại tôi. Tôi mời anh vào nhà, mời anh vào salon, mời anh ngồi ở chiếc ghế bành một chỗ bên tay trái tôi, tôi mở chai champagne, rót vào hai cốc, mời anh uống rượu khai vị. Anh nắm tay bảo tôi ngồi xuống cạnh anh, anh ôm tôi hôn nồng nàn như đêm đầu tiên mới gặp. Qua hết những phút cảm xúc, tôi đứng dậy, đi lại bàn viết, mở hộc tủ lâu nay tôi vẫn khoá, tôi lấy bao thuốc lá Capstan cũ đưa cho anh, anh ngạc nhiên nhìn tôi, tôi ra dấu cho anh mở đi. Anh cầm bao thuốc, mở ra, anh như sững lại: trong bao thuốc anh để lại trên bàn khi anh trở về đơn vị còn y nguyên số tiền lương tháng cuối cùng anh để lại cho tôi, tấm ảnh cũ của anh và bài thơ anh viết vội tặng tôi trước khi anh lên đường. Anh lặng người đi mấy phút, xong anh kéo tôi lại, dang tay ôm trọn tôi trong vòng tay anh. - Sao em lại để dành số tiền này vậy? - Vì đó thuộc về những kỷ niệm ít oi anh để lại cho em trước khi anh đi. - Anh bảo em nếu em cần thì tiêu, không thì ngày gặp lại, em trả lại anh cũng được - ??? - Vì em không phải cần đến số tiền đó nên... Ngay lúc ấy, cửa nhà mở, cháu Nam bước vào, thấy anh, nó khựng lại một giây, xong bước lại gần, đứng cụp hai chân với nhau và đưa tay phải lên trán chào anh theo kiểu nhà binh.Thấy anh bỡ ngỡ, Nam lên tiếng trước: - Con chào Ba, rồi đến gần hôn anh trên má. Anh ngạc nhiên nhìn Nam rồi nhìn tôi, tôi chưa kịp lên tiếng thì Nam đã giành nói: - Thưa, con biết là Ba, vì khi con vừa bước vào phòng khách, thấy Ba ngồi trên chiếc ghế mà Mẹ con không mời ai ngồi trên ấy, kể cả bạn bè của Mẹ hay ngay cả chú Hậu, vì Mẹ con vẫn nói với con là người đàn ông nào bước vào nhà và được Mẹ con mời ngồi vào chiếc ghế này sẽ là cha của con mà thôi, vì vậy mà con biết là Ba. Anh nhìn tôi, tôi hiểu ra, tôi nói : - Mấy tháng sau khi anh đi, em đã có thai, và đây là con trai chúng mình đấy anh, con tên là Nam, Nguyễn Việt Nam, em khai họ mẹ vì không biết anh tên gì và họ gì, anh cười thật tươi: - Anh là Cường, Nguyễn Việt Cường. - Còn em là Trầm Hương, anh trả lời hộ tôi, vì phía trong chiếc nhẫn em tặng anh đêm đó, anh đọc thấy tên em khắc trong nhẫn : Tôn Nữ Trầm Hương, rồi ôm tôi âu yếm...Hạnh Phúc thật bất ngờ còn đến với những người bạc hạnh như tôi. st.
|
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
IP Logged | |||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 14/Aug/2019 lúc 4:08am | ||||
Tôi nằm gác tay lên trán
Nhớ hồi nhỏ, nằm gác tay lên trán là bị người lớn rầy : “Lất tay xuống! Làm vậy không nên!”. Không ai giải thích tại sao không nên, nhưng rồi khi lớn lên, không ai dạy mà tự nhiên cũng biết nằm gác tay lên trán, và cũng không ai dạy mà tự nhiên cũng biết thở dài …
Tôi bỏ xứ đi chui từ cuối 1978. Bao nhiêu năm “trôi sông lạc chợ” ở nhiều nơi, tôi không thấy ai nằm gác tay lên trán hết! Và tôi cũng quên mất cái cử chỉ tầm thường đó, cho đến hồi nãy đây tôi bắt gặp lại “nó” trong lúc nằm một mình trong phòng. Thì ra “nó” đã theo tôi đi lưu vong, ẩn mình một cách khiêm nhường trong tiềm thức, để bây giờ “nó” cầm cánh tay tôi gác lên trán, tự nhiên như ngày xưa – ba mươi năm trước – khi tôi chưa rời khỏi quê hương …
Ở đây - ở Pháp - thời tiết đang vào thu. Lá cây chỉ mới lai rai ngả màu vàng chớ chưa rơi rụng vội. Trời còn sáng trong, đầy nắng chớ chưa ảm đạm âm u và cũng mới se se lạnh thôi, chỉ cần quấn cái khăn lên cổ là ra đường đủ ấm.
Một chút “tả cảnh” để thấy tôi không bị tù chân tù cẳng trong chung cư như vào mùa đông tháng giá, cái mùa mà một người già “tám bó” như tôi ngày ngày vì sợ lạnh nên cứ ru rú trong nhà bước qua bước lại trong sáu chục thước vuông hay xem tê-lê để ngủ gà ngủ gật! Như vậy, thì đâu có gì bắt tôi phải nằm nhà để gác tay lên trán?
Kể ra, từ ngày tôi vượt biên rồi định cư ở Pháp, chắc nhờ Ông Bà độ nên cuộc đời lưu vong của tôi đã không bị “ba chìm bảy nổi”. Có … lang bang ba tháng đầu đi tìm việc làm, nhờ tiền trợ cấp của nhà nước nên không đến nỗi te tua, mấy đứa con cũng có chỗ ăn chỗ học. Rồi duyên may đưa tôi qua Phi Châu làm việc hết mười mấy năm, khi về hưu ở Pháp thì con cái đã lập gia đình và “ra riêng” hết. Vợ chồng tôi thâu gọn lại, liệu cơm mà gắp mắm, nên cuộc sống cũng an bày. Lâu lâu chạy lại nhà con giữ cháu nội cháu ngoại, và lâu lâu đi “đổi gió” xa xa gần gần … Tóm lại, cuộc sống về già mà được như vậy là … “có phước rồi còn muốn gì nữa?”. Vậy mà hồi nãy tôi đã nằm gác tay lên trán và lâu lâu lại thở dài …
Hồi sáng, một thằng bạn già gọi điện thoại cho hay vợ chồng thằng A về Việt Nam bị chận lại ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Sau đó, “họ” cho bà vợ “nhập khẩu” còn ông chồng thì bị đuổi trở về Pháp, dĩ nhiên là không cho biết lý do ! Ông chồng khuyên vợ cứ vào đi, dẫu là gì gì đi nữa thì cũng là quê hương mình mà! Nghe kể đến đó, tôi tưởng tượng như chính tôi đang đứng ở trong nhà ga phi trường Tân Sơn Nhứt, nhìn qua các khung cửa kiếng thấy quê hương tôi ở ngay bên ngoài, cái quê hương mà ba mươi năm tôi chưa nhìn lại, cái quê hương mà ngay bây giờ, mặc dầu đang đứng bên trong nhà ga, khứu giác của tôi vẫn nghe rõ được mùi …
Ờ … mùi quê hương! Có mùi bông lài, bông bưởi, bông cau … Có mùi lúa chín, mùi rơm mùi rạ …Rồi mùi đống un, mùi chuồng trâu chuồng bò …Rồi mùi bùn non khi nước ròng bỏ bãi, v.v... Tôi biết, vợ chồng thằng A - nhỏ hơn tôi gần một con giáp – cũng có gốc “ruộng” như tôi, nghĩa là đã lớn lên ở thôn quê, đã lội bưng lội đồng bắt cá mò cua từ thuở nhỏ bị nước phèn đóng lớp vào tay chân nên lúc nào cũng thấy mốc cời! Tôi chắc chắn vợ chồng nó đứng trong ga phi trường cũng nghe mùi quê hương như tôi đã tưởng tượng. Vợ thằng A - người VN được chánh quyền VN cho phép về quê hương để dời mồ mả ông bà cha mẹ họ hàng ra khỏi đất hương hỏa theo lịnh của nhà nước – nghe lời chồng khuyên “vào đi em” bèn nhìn qua lần cửa kiếng để nhận thấy cái mùi quê hương nó hấp dẫn vô cùng, nó lôi kéo vô cùng, chỉ cần bước có mấy bước là đặt chân vào mảnh đất thân yêu mà mình đã xa cách gần ba mươi năm … Tôi biết, vợ thằng A là một người dàn bà thật thà trung hậu, chắc thế nào cô ta cũng quay lại nhìn chồng rồi rơi nước mắt lắc đầu.
Đúng như tôi nghĩ, thằng bạn già kể tiếp trong điện thoại: “Hai đứa nó đã về đến Paris hồi sáng, phone từ phi trường Charles de Gaulle cho hay nội vụ và nhấn mạnh rằng tụi nó coi như tụi nó thí cô hồn!”. Nói xong, thằng bạn già cười vang khoái trá trước khi nói “au revoir”!
Tôi gác máy, nhìn quanh nhớ lại hôm nay rằm vợ tôi đi làm công quả ở chùa tới tối mới về, tôi bèn vào phòng nằm đọc báo. Tờ Figaro đầy chữ như vậy mà tôi không làm sao đọc được một hàng! Trong đầu tôi còn vang vang tiếng cười của thằng bạn già và câu nói “thí cô hồn” của vợ chồng thằng A. Tôi buông tờ báo, nghiêng người nhìn ra cửa sổ, nghĩ đến cảnh vợ chồng nó bị “quây” trong phi trường Tân Sơn Nhứt, mà thương! Ở xứ người, mình vào ra dễ dàng – dĩ nhiên là đừng … mang dao hay mang bom mang súng, cũng đừng mang bạch phiến cần sa! – còn mình về xứ mình, mặc dầu trong thông hành có “Giấy Miễn Thị Thực – Certificate Of Visa Exemption” do Đại Sứ Quán VN tại Pháp cấp, mình vẫn gặp khó khăn trắc trở bất ngờ mà mình không bao giờ được biết lý do! Vợ chồng A “thí cô hồn” là phải! Ở đó mà cãi à? Toàn là một lũ cô hồn thì nói thứ tiếng gì cho chúng nó hiểu?
Tôi trở mình nhìn lên trần nhà, miên man nghĩ về quê hương, hay nói cho rõ hơn, tôi nhớ về cái làng quê của tôi nằm bên sông Vàm Cỏ. Không biết cái “Chợ Nhỏ” bây giờ còn đó hay đã bị “di dời” đi nơi khác, theo … truyền thống đổi đời của cách mạng? (Trong làng chỉ có một cái chợ, vậy mà thiên hạ gọi là Chợ Nhỏ, làm như còn một cái chợ nào khác lớn hơn vậy!) Còn “Ngã Ba Cây Trôm” nằm trên con lộ cái, chỗ có bãi đất trống để xe đò tấp vô rước khách, chỗ có cây trôm mà dân trong làng hay đem dao đến chém vào thân cây để lấy mủ đem về pha nước đường uống giải khát giải nhiệt … không biết có nằm trong một “quy hoạch cải cách đô thị có trình độ khoa học cao” của nhà nước? Còn cái đình làng, bây giờ đã thành một cơ quan gì chưa? Cái bến cát nằm dài theo ven sông, chỗ mà ngày xưa - thuở nhỏ - tụi tôi kéo nhau một lũ cởi truồng tắm giỡn đùng đùng … bây giờ vẫn còn là bến cát hay đã bị chiếm dụng để mấy “ông lớn” xây dinh thự với tường rào kiên cố và nhà thủy tạ có cầu tàu nằm trườn ra sông ngạo nghễ? Cái lò đường trong Xóm Mới, vào mùa mía chạy che ép mía ngày đêm nghe trèo trẹo, nấu đường làm mùi thơm ngọt lịm bay trùm cả xóm … bây giờ còn là “Lò Đường Ông Út K” hay đã … biến thành “Nhà Máy Đường của Nhà Nước”? Trường tiểu học mà thời tôi còn đi học, ông đốc H cho gắn trên trụ cổng tấm bảng “Cấm Trâu Bò Vào Trường” vì mấy ông chủ bò hay thả bò vào ăn cỏ dọc hàng rào bông bụp … bây giờ đã thành … cái gì rồi? Và nghĩa địa của làng, thường gọi là “gò đồng mả”, nằm một bên con đường đất đỏ dẫn vào Xóm Trong, cái gò đó - cả trăm năm – là nơi an nghỉ cuối cùng của dân trong làng, không phân biệt lớn nhỏ giàu nghèo … vẫn còn đó hay đã nhường chỗ cho những “Công Trình Văn Hóa Phục Vụ Nhân Dân”?
…Nhớ đến đó, tự nhiên tôi thở dài … Rồi tự nhiên tôi gác tay lên trán … Tôi vẫn nhìn lên trần nhà: trần nhà trắng phau, ở đó không hiện lên được một nét nào của quê hương tôi hết. Rồi tôi nghĩ: nếu tôi có trở lại VN, có “được phép” đặt chân lên vùng đất mẹ, chắc chắn tôi sẽ không tìm lại được những hình ảnh cũ. Bởi vì quê hương tôi đã bị “họ” bôi xóa trắng như trần nhà tôi đang nhìn, để thay vào đó một cái gì không ra một cái gì hết, mang nhãn hiệu “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh”, nghe mà … điếc con ráy !
Bây giờ, tôi hiểu tại sao tôi đã nằm gác tay lên trán mà thở dài …
Tiểu Tử Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 14/Aug/2019 lúc 4:11am |
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
IP Logged | |||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 14/Aug/2019 lúc 4:24pm | ||||
Anh Hùng Không Tên
|
|||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||||
IP Logged | |||||
Nhom12yeuthuong
Senior Member Tham gia ngày: 13/Sep/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 7120 |
Gởi ngày: 15/Aug/2019 lúc 8:54am | ||||
M-16
Ta với Em Mười Sáu thuở nào Ánh hỏa châu soi rực chiến hào Đâu quản gian truân nguy hiểm nào Kỷ niệm không quên ở Hạ Lào Từng biết bao phen nhuộm máu đào Thép lửa bừng hoa tại tuyến đầu Trần Quốc Bảo Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 15/Aug/2019 lúc 8:55am |
|||||
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
|
|||||
IP Logged | |||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 17/Aug/2019 lúc 10:31am | ||||
Chiếc Áo Len
Năm 1969, Minh học lớp
Đệ Nhất trường Quốc Học Huế. Gia đình Minh ở Vỹ Dạ, một vùng ngoại ô
quen thuộc đối với người Huế. Năm nay Minh đã 19 tuổi, nhưng Minh rất nhút nhát
trong việc giao thiệp với người khác phái, vì vậy cho đến nay, Minh vẫn chưa có
bạn gái.
.
Minh có một sở thích khá
lạ lùng, là mỗi buổi sáng, anh thích đứng trước nhà, nhìn người qua lại một lúc
trước khi đạp xe đạp đi học. Môt thời gian sau, anh đã nhớ mặt bác
đạp xích lô, với chiếc áo nhà binh đã bạc màu, chị bán bánh dầy, một bà đứng
tuổi với gánh bún bò thơm ngát...
. Nhưng cái đặc biệt mà Minh nhớ nhất là việc chú ý đến một cô gái gánh đậu hủ trên vai, nhẹ nhàng thoăn thoắt đi bên kia đường. Anh không nhìn rõ mặt cô gái , vì chiếc nón lá che khuất nửa khuôn mặt của cô ấy; anh chỉ nhìn được chiếc lưng thon nhỏ của cô. Cô gái mặc một chiếc áo dài vải thô màu hạt dẻ, ôm lấy thân hình mảnh mai của cô. Minh ngạc nhiên , vì đang mùa đông lạnh lẽo mà sao cô ấy ăn mặc sơ sài quá vậy. Từ đó, mỗi buổi sáng, Minh ra đứng trước cửa nhà, nhưng anh không còn nhìn vẫn vơ như trước nữa, anh đã có đối tượng để trông chờ, đó là cô gái bán đậu hủ. Từ xa, anh đã thấy cô gái đang đi tới, cô vẫn mặc chiếc áo dài cũ kĩ, mỏng manh. Tự nhiên, Minh thấy lạnh, không phải anh lạnh vì thời tiết , nhưng anh cảm nhận cái lạnh từ cô gái...Một ý nghĩ đáng yêu thoáng qua trong trí óc anh: "tại sao mình không tặng cho cô âý chiếc áo len, để cô đỡ rét trong những ngày đông giá lạnh nầy".
Minh đánh liều , xin mẹ
anh đan cho anh một chiếc áo len con gái. Mẹ anh mĩm cười :" Đã có
chuyện rồi đây!"
Ba ngày sau, mẹ anh trao
cho anh chiếc áo len mịn màng , màu cánh sen. Minh lí nhí cám ơn mẹ.
Hôm sau, anh ra đứng
trước cửa sớm hơn thường lệ, tay ôm chiếc áo len, lòng rộn ràng...Minh đã thấy
cô gái đi đến, với dáng điệu quen thuộc . Minh thu hết can đảm , băng qua bên
kia đường để đón cô gái. Minh đứng chắn ngang đường , làm cô gái bỡ ngỡ dừng
lại ngạc nhiên nhìn anh. Đây là lần đầu tiên anh được đứng gần cô gái và nhìn
rõ mặt cô ấy, lòng anh lâng lâng như vừa uống một ly rượu mạnh. Chàng nhỏ
nhẹ nói với cô gái:"Tôi tặng cô chiếc áo len nầy..
" và trao chiếc áo cho cô gái. Ngần ngừ một chút, cô gái mới đón chiếc áo
len. Cô nhìn Minh, cảm động nói : "Cám ơn anh". Cô
khoác chiếc áo len vào người, thong thả đặt gánh đậu hủ lên vai, rồi từ từ bước
đi. Minh ngẩn ngơ nhìn theo cô gái, anh thấy lòng mình rộn rã, chơi vơi...anh
đang sống những giây phút đẹp nhất mà anh chưa bao giờ có trong đời.
Hôm sau, và hôm sau nữa,
mỗi buổi sáng, Minh lại ra cổng đứng nhìn cô gái đi qua. Mấy hôm nay, anh thấy
hình như cô gái có ngước nhìn anh, khi đi ngang qua chỗ anh đang đứng, chỉ có
thế mà anh vui vẻ suốt ngày, anh cảm thấy cuộc sống thật hạnh phúc. Tuy nhiên,
những ngày hạnh phúc đó sớm qua đi, chỉ mấy tháng, sau khi anh đậu Tú Tài toàn
phần, anh nhận được giấy gọi nhập ngũ. Anh theo học khóa Sĩ Quan Trừ Bị Thủ
Đức. Giữa năm 1970, anh ra trường với cấp bậc Chuẩn Úy. Anh được điều động về
phục vụ ở Tiểu khu Phong Dinh, anh xa Huế từ đó. Anh được cử giữ chứcTrung Đội
trưởng, rồi Đại Đội Trưởng Địa Phương Quân ở Chi khu Phụng Hiệp, thuộc Tiểu khu
Phong Dinh ( Cần Thơ). Những lúc đi hành quân, hay những đêm ngủ ngồi trên bờ
kinh...anh nhớ cô gái ấy lắm. Nhưng đời binh nghiệp trong thời chiến đã giữ
chân Minh, ngày đêm sống chết với mãnh đất nầy, anh chưa có cơ hội
nào để về thăm lại "người yêu".
.
Rồi ngày 30 tháng 4
-1975 ập đến. Cũng như các Sĩ Quan khác của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, anh bị
bắt đi tù cải tạo. Anh bị chuyển từ trại nầy qua trại khác ở Miền Tây , cho đến
năm 1985, anh được trả tự do. Trước khi được tha về, họ hỏi anh "về
đâu" để họ viết vào "Giấy Ra Trại". Anh trả lời : "Nhà
của tôi ở Huế đã bị họ lấy, cha mẹ tôi đều đã qua đời". Họ lại hỏi
"Trước khi đi lính, anh ở đâu?" Anh trả lời :" Ở
Huế .." Và họ ghi vào giấy ra trại của anh "Về trình diện
chính quyền thành phố Huế"
.
Ở trại giam ra, họ phát
cho anh 16 đồng. Minh mua vé xe đò, đi về Sàigòn, xin tạm trú ở nhà một người
bà con. Người nầy cho anh biết, mẹ của anh qua đời năm 1979, sau khi
bà mất, họ cướp luôn căn nhà của anh.
.
Trong mấy ngày ở Sàigòn,
anh đi lang thang hết đường nầy , đến đường khác. Tình cờ anh đi ngang qua Nhà
Thờ Ba Chuông, anh đi vào nhà thờ. Chung quanh anh, nhiều người đang quì gối
đọc kinh, cầu nguyện. Nhìn lên Chúa chịu nạn trên bàn thờ, anh lâm râm cầu
nguyện với Chúa: "Lạy Chúa, con biết Chúa yêu thương con, Chúa đã phù
hộ, nâng đỡ con từ nhỏ, cho đến hôm nay. Nhưng lạy Chúa, con đã mất tất cả mọi
sự ở đời nầy, nhưng phúc cho con còn có Chúa. Lạy Chúa, con biết làm gì bây
giờ, xin Chúa chỉ cho con." Anh vô cùng ngạc nhiên khi nghe một tiếng
nói mơ hồ, từ sâu thẳm vọng lại :"Con nên đi về Huế"
.
Minh như sực tỉnh, anh
mua ngay vé xe lửa để về Huế. Qua một đêm, sáng hôm sau xe dừng lại
ở ga Huế. Hành khách vội vã xuống xe; nhưng Minh cứ ngồi thừ ra đó, vì anh
không biết đi đâu bây giờ. Bỗng anh có ý nghĩ là hãy về xem lại căn
nhà cũ của mình...
.
Căn nhà quen thuộc của
anh, nay đã thay đổi, hoàn toàn xa lạ. Anh đứng trước nhà, lơ đãng nhìn người
qua lại. Bỗng anh tái mặt, run rẫy khi thấy từ xa, một cô gái gánh đậu hủ đang
đi đến. Anh quá bối rối, không tin ở mắt mình nữa. Nhưng kìa cô gái đã đến gần,
anh vội vã đi qua bên kia đường, đứng đón cô ấy. Một điều làm anh vô cùng sững
sốt là cô gái lại mặc chiếc áo len màu cánh sen mà năm xưa anh đã tặng cho người
con gái anh thương, nhưng khi nhìn kỹ, Minh thấy cô gái nầy còn trẻ
quá, khoảng 15, 16 tuổi, không thể là người mà anh đã thầm yêu, trộm
nhớ. Thế còn chiếc áo len ? Minh đánh bạo hỏi cô gái : "Cô ơi, cô có
thể cho tôi biết, ở đâu mà cô có chiếc áo len nầy ?" Bỗng nét mặt
của cô gái tươi hẵn lên. Cô không trả lời anh, cô lại nhìn vào khoảng không và
nói như reo :"Tạ ơn Trời Đất, chắc mẹ tôi vui mừng lắm, vì tôi đã gặp
dược ngươì mà mẹ tôi trông chờ từ bao năm nay!" Cô gái nhìn Minh và
thân mật nói :"Nếu ông muốn biết ở đâu mà tôi có chiếc aó len nầy, ông
đi theo tôi.."
.
Không chờ Minh trả lời,
cô gái nhẹ nhàng gánh đậu hủ lên vai, và đi ngược lại hướng chợ Vỹ Dạ. Anh lặng
lẽ đi theo cô gái, anh không biết chuyện gì sẽ xảy đến với anh đây. Cô gái đi
vào một căn nhà xưa cũ, cô đặt gánh đậu hủ xuống trước sân. Bỗng có tiếng từ
trong nhà vọng ra: "Ủa ! bửa nay sao con về sớm rứa mà có ông nào đi
với con vậy ?". Cô gái hớn hở nói lớn:"Mạ ơi, mạ có tin vui,
có ông nầy hỏi con ở đâu mà con có chiếc áo len nầy, nên con đưa ông ấy về nhà
đây"
.
Im lặng một lúc, rồi một
ngươì đàn bà khoảng 40 tuổi xuất hiện ở ngưỡng cửa. Khi nhìn thấy Minh, bà
không dấu được sự xúc động tột cùng của mình, bà cảm động thốt lên : "Ông
Trời không phụ tấm lòng của tôi, tôi đã đợi chờ ngày nầy, từ 20 năm nay!"
Minh nhìn kỹ ngươì đàn bà, anh nhận ra ngay đây là cô gái mà anh đã yêu từ lúc
còn đi học. Người đàn bà nhỏ nhẹ nói với Minh : "Mời ông vào
nhà"
.
Trước đây, dù yêu nàng,
nhưng anh đã không đủ can đảm để hỏi tên của nàng. Và nàng cũng không biết anh
là ai. Nhưng Ông Trời đã sắp đặt cho hai người yêu nhau. Trải qua biết bao biến
đổi của cuộc đời, hôm nay Minh được đứng cạnh người mình yêu và nhìn thẳng vào
đôi mắt của nàng. Minh thầm nghĩ, đây là mộng hay thực?
.
Một giọng nói âu yếm
vang lên, cắt ngang tư tưởng của Minh: "Ngày ấy sao anh không hỏi tên
em?' Minh ngập ngừng trả lời: "Lúc đó, anh là một đứa con trai mới
lớn, dù đã để ý đến em, nhưng anh luôn luôn xem em như một nàng tiên, anh sợ
đến gần em, hỏi han em..có thể nàng tiên sẽ bay đi mất. Anh chỉ đứng bên nầy
đường nhìn em đi ngang qua, cũng đã cảm thấy hạnh phúc lắm rồi "
.
Cô gái bùi ngùi nói với
Minh: "Anh biết không, vì sự lãng mạn của anh , đã
làm cho em phải chờ đợi anh qua bao năm tháng. Tinh thần và
thể xác của em đã quá mõi mòn. Vì vậy, cách đây khoảng hai năm, em đã chuyển
nghề bán đậu hủ nầy cho con gái của em. Em bắt cháu mỗi khi đi bán, phải mặc
chiếc áo len mà anh đã tặng cho em, với lời dặn dò con rằng nếu có
ông nào hỏi con về lai lịch của chiếc áo len nầy, thì người ấy là mối tình đầu
của mẹ đó. Em mong chờ, em hy vọng.. Tạ ơn Trời Đất, hôm nay em đã được gặp
anh!"Cô gái thân mật hỏi Minh: "Thế bây giờ anh có muốn
biết tên của em không ? Tên của em là Nga" Minh đáp ngay:"Còn
tên của anh là Minh". Nga vui vẻ hỏi Minh: "Tại sao lúc đó, tự
nhiên anh biến mất vậy? Mỗi buổi sáng khi đi ngang qua nhà anh, không thấy anh
đứng đó, em buồn lắm!". Minh thổn thức: "Năm đó, anh đậu Tú
Tài toàn phần, chỉ mấy tháng sau, anh bị gọi động viên đi Thủ Đức.
Ra trường, anh được điều động về phục vụ ở Tiểu Khu Phong Dinh. Đời binh nghiệp
đã giữ chân anh ở đó, cho đến năm 1975, anh bị đi tù cải tạo, vừa mới được tha
về từ tuần trước đây." Minh buồn buồn tâm sự với Nga:
"Nhà của anh đã bị họ lấy mất, người mẹ thân yêu của anh cũng
đã qua đời khi anh còn trong trại tù. Giờ đây anh là một kẻ tứ cố vô thân!"
.
Giọng Nga
trầm hẳn xuống: "Vậy em mời anh ở lại đây với mẹ con em nhé !".
Hạnh phúc chợt đến quá bất ngờ, làm Minh ngây ngất. Anh âu yếm nắm lấy tay Nga.
Thân hình của nàng bủn rủn ngã vào lòng anh, hai hàng nước mắt chảy dài xuống
má Nga.
.
Minh ôm Nga vào lòng mà
ngỡ như mình đang sống trong mơ.
Ngoài vườn, ánh nắng
lung linh, reo vui...
.
|
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
IP Logged | |||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 19/Aug/2019 lúc 8:18am | ||||
Con Trai Của Một Bác Sĩ Hy Sinh Trận Phước Long 12/12/74 |
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
IP Logged | |||||
Lan Huynh
Senior Member Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 22121 |
Gởi ngày: 19/Aug/2019 lúc 8:54am | ||||
CÒN SỐNG LÀ CÒN PHỤC VỤCha và con cựu Đại Úy Quách Vĩnh Trường ‘còn sống là còn phục vụ’Cả gia đình phục vụ. Từ trái, ông Quách Vĩnh Trường, phu nhân Nguyễn Thị Bích Kiều, con Quách Vĩnh Tiến và cháu Sidney Vĩnh Quách. (Hình: Đằng-Giao/Người Việt) HUNTINGTON BEACH, California (NV) – Có những người lính coi trọng bổn phận, trách nhiệm đến độ hy sinh thân thể mình để bảo vệ quê hương vẫn chưa đủ. Cựu Đại Úy Quách Vĩnh Trường là một trong số đó. Ông là người được Hội Đồng Y Khoa Quân Đội VNCH kết luận tàn phế 170% năm 1966, nhưng đến giờ phút này, ông vẫn không ngừng phục vụ non sông. Tinh thần phục vụ cao độ của ông đã ảnh hưởng đến vợ con ông. “Chỉ bị cụt một tay hay một chân là bị thương tật 100% rồi,” ông giải thích. Nhưng riêng ông thì “Tôi mất tay trái, chân trái, bị hư phần xương mặt bên phải và hư hai màng nhĩ.” Lần ấy, vào năm 1966, trong lúc đang phân công tác tại một bộ chỉ huy ở Gò Công, bất thình lình, Việt Cộng nằm vùng quăng lựu đạn vào. Không đắn đo, Trung Úy Trường chạy đến dùng chân trái đá quả lựu đạn ra ngoài. Chẳng may, chân vừa chạm, quả lựu đạn nổ tung, giết chết người y tá đại đội đứng gần đó, đồng thời cướp đi tay trái và chân trái của viên sĩ quan 26 tuổi này. “Tôi bị hất tung lên rồi ngất đi. Nhưng may mắn, tôi cứu sống được trên dưới 30 anh em binh sĩ hôm ấy,” ông hồi tưởng. Trước Tết Mậu Thân 1968, ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gắn Ðệ Ngũ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương có kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, nhằm tưởng thưởng và cám ơn ông đã hết lòng phục vụ tổ quốc. Thế nhưng, mất mát tưởng như quá to tát ấy không thể khuất phục được người chiến sĩ QLVNCH. Ông xin được tiếp tục phục vụ quân đội. Là người đầu tiên xin ở lại quân đội sau khi được xếp vào tình trạng giải ngũ, ông gặp rất nhiều khó khăn. Ban đầu, không ai cứu xét cho ông cả. Dần dà, ý chí kiên trì và nghị lực siêu phàm của ông đã làm cấp trên phải quan tâm. Ông kể: “Trước tôi, chưa hề có trường hợp này bao giờ. Tôi phải chật vật lắm mới xin được Thủ Tướng Trần Văn Hương ký quyết định cho tôi được tiếp tục ở lại phục vụ quân đội.” Cuối năm 1968, nhờ quyết định đặc biệt này, ông được Trung Tướng Trần Văn Trung nhận về Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị và được Thiếu Tá Phạm Hậu đón nhận về phục vụ cho Ðài Tiếng Nói Quân Ðội. Mất nước, cũng như bao nhiêu cựu chiến binh, gia đình ông lâm vào cảnh cùng kiệt. Được chính phủ Mỹ bảo lãnh với tư cách tị nạn chính trị năm 1986, trước khi có chính sách H.O., ông cùng vợ và con trai Quách Vĩnh Tiến lên đường làm lại cuộc đời. Anh Quách Vĩnh Tiến (phải) và cựu Thiếu Tướng Lê Minh Đảo. (Hình: Quách Vĩnh Trường cung cấp) Vĩnh Tiến, đứa con trai sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu lòng yêu nước, dĩ nhiên, đã tiếp bước chân cha, chọn binh nghiệp làm lẽ sống. Sau khi tốt nghiệp cao học ngành tâm lý học, anh thực hiện ước muốn từ khi còn nhỏ: Vào quân đội như cha. Năm 2009, anh là người gốc Việt duy nhất được Bộ Binh Hoa Kỳ phong tặng danh hiệu “Người Lính Xuất Sắc Nhất California,” một danh hiệu đòi hỏi phải vượt qua một cuộc thi đầy khó khăn, phải có kiến thức trong nhiều lãnh vực khác nhau, như thể thao, lịch sử quân đội, sơ cấp cứu, bản đồ địa lý, quy tắc, quân phong, quân kỷ… Hiện anh đang làm việc tại bệnh viện V.A. Hospital, Long Beach. Anh Tiến nói: “Tôi muốn sống và phục vụ mọi người để được xứng đáng là con trai của cha tôi.” “Ngay từ nhỏ, tôi đã được thấm nhuần ý chí cống hiến đời mình cho cộng đồng của ông,” anh nói một cách nhỏ nhẹ. “Tôi ngưỡng mộ tinh thần chiến sĩ QLVNCH của cha tôi.” Nhìn cha với ánh mắt kính phục, anh nói: “Tôi vô cùng hãnh diện được làm con ông, và tôi muốn cha mẹ tôi hãnh diện vì mình.” Sau khi có bằng cao học ngành tâm lý, anh đã giúp biết bao người có được cuộc sống ấm no. Một thí dụ đơn cử là anh giúp một cựu quân nhân từng tham chiến tại Việt Nam. Tinh thần không ổn định vì cuộc chiến, người lính này không nhớ được đơn vị cũ của mình cũng như những thông tin cụ thể để được hưởng trợ cấp của chính phủ. “Tôi phải mày mò trong những hình ảnh ông còn giữ để truy lục tất cả những gì chính phủ cần để hoàn tất hồ sơ cho ông,” anh Tiến kể. “Nếu gặp người khác thì ông sẽ chỉ là một người vô gia cư thôi.” Nhờ sự giúp đỡ của anh, đến nay, vị cựu chiến binh ở tuổi gần 80 này đang nhận $3,000 hằng tháng và đang làm chủ một căn nhà. Ngoài ra, anh luôn chọn những công việc trực tiếp giúp người. “Hồi 2017, đang có bão Harvey, chúng tôi đến Houston, Texas. Rồi đến bão Irma, chúng tôi đến Florida Keys, Florida. Chỗ nào có thiên tai, hỏa hoạn là chúng tôi đến ngay. Miền Bắc California hay có cháy rừng lớn nên chúng tôi thường có mặt ở đó,” anh Tiến cho thí dụ. Vẫn nể trọng tinh thần bất khuất của cựu chiến binh QLVNCH, anh Tiến thường tham gia sinh hoạt cộng đồng. Đã có lần anh tham gia diễn hành Tết trong cương vị một quân nhân. Là quân nhân Mỹ, anh Quách Vĩnh Tiến vẫn tham gia sinh hoạt cộng đồng. (Hình: Quách Vĩnh Trường cung cấp) Ngoài ra, anh cũng tham gia những sinh hoạt văn hóa trong cộng đồng người Việt. Anh từng đóng vai “Sơn” trong vở kịch “Mong Chờ” của ban kịch Quang Minh-Hồng Đào trong DVD Asia 64 “Thế Giới Mùa Lễ Hội.” Để có những đóng góp đa dạng như vậy, anh Tiến cho rằng tất cả là nhờ cha mẹ mình. Cha anh cho anh tinh thần phục vụ không mệt mỏi. “Mẹ tôi thì không bao giờ ngăn cản ý muốn của tôi dù trong tâm, bà không hề thích tôi đi lính,” anh Tiến nói. “Nhờ đó, tôi mới có thể an tâm mà phục vụ xã hội.” Mẹ anh, bà Nguyễn Thị Bích Kiều, người nữ luật sư không ngại biết bao gian khổ bên người chồng tật nguyền để cùng nhau sống trọn kiếp người, đã cho anh thêm nghị lực để quên mình. Mẹ anh, người đồng ý thành vợ ông Trường sau khi ông chỉ còn một tay, một chân, điếc tai, lại đang sống cơ cực dưới ách Cộng Sản đã cho anh niềm tin vào lý tưởng phục vụ. Bà Kiều nở một nụ cười nhân ái rồi nói: “Còn sống đến hôm nay, gia đình chúng tôi nhờ vào nhau.” Bà giải thích: “Tôi giúp anh có niềm vui để sống còn, nhưng anh cho tôi tinh thần bất khuất trước mọi nghịch cảnh. Anh thường nói, ‘Còn sống là còn phục vụ.’ Tinh thần phục vụ nhân quần, cháu Tiến học từ ba nó.” Riêng phần cựu Đại Úy Trường, ông vẫn không quên nhiệm vụ của một chiến sĩ QLVNCH. Ông dùng kỹ năng photoshop để giúp thực hiện những bộ sách như “Lược Sử Quân Lực VNCH” của ông Hồ Ðắc Huân (đồng tác giả) qua những công trình sưu tập và phục hồi những bức hình bị hư nát vì thời gian. Ngoài ra, ông còn đóng góp tiền bạc và dùng sự quen biết để kêu gọi quyên góp cho các thương phế binh còn sót lại ở Việt Nam. Ông vẫn chưa cho là đủ, ông tâm sự: “Hối tiếc duy nhất của tôi là nguyện vọng đóng góp cho Việt Nam vẫn còn dang dở.” Không rõ quan niệm về sự đóng góp của anh như thế nào, nhưng từ đời cha đến đời con, gia đình họ Quách đã không ngừng phục vụ xã hội. Năm 2003, bác sĩ cho biết ông bị ung thư ruột. Năm 2016, bác sĩ lại cho biết ông bị ung thư nhiếp hộ tuyến. Nhưng với bản tính “phải sống để phục vụ” cố hữu của mình, ông vượt qua tất cả và ngày nay, bác sĩ cho biết ông hoàn toàn không bị ung thư gì nữa. Có con gái đầu lòng mới tròn ba tháng tuổi, anh Tiến cười vang khi hỏi con anh, sau này có đi lính không. “Tôi không biết cháu sẽ quyết định ra sao về chuyện này, nhưng tôi dám chắc rằng con tôi sẽ là một công dân hữu ích cho xã hội, cho quê hương.” Gia đình ông Trường hiện sống tại Huntington Beach, California, và rất vui vì thành viên mới nhất, bé Sidney Vĩnh Quách. Cả gia đình cùng chọn con đường phục vụ xã hội. (Đằng-Giao) Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 19/Aug/2019 lúc 8:55am |
|||||
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|||||
IP Logged | |||||
<< phần trước Trang of 92 phần sau >> |
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |