Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 95 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Feb/2022 lúc 12:28pm

Về thăm chốn cũ

Tour%20Du%20Lịch%204N3D%20Khám%20Phá%20Cao%20Nguyên%20Huyền%20Thoại%20Từ%20Hà%20Nội%20-%20Gia%20Lai%20-%20%20DakLak%20-%20KonTum


Không rực rỡ, kiêu kỳ như phố núi ngàn hoa trên cao nguyên Đà-Lạt, Kontum cũng là phố núi nhưng quanh năm quạnh hiu sương phủ, ngõ vắng người thưa. Ngược ra miền Trung để về thăm chốn cũ, mưa như trút nước trên đoạn đường từ An-Khê đến đèo Mang-Yang, núi đồi xa lấp ló sau màn mưa mờ nhạt.

Có%20những%20cô%20gái%20trên%20cao%20nguyên%20-%20Bài%20thơ%20được%20viết%20trong

Ngày đó, vùng cao nguyên đất đỏ này thường xuyên bị bom cày đạn xới bởi những trận đánh đất trời cũng kinh hoàng. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, một màu xanh ngăn ngắt đã phủ lên những đồi núi trọc. Cô gái Thượng với chiếc gùi trĩu nặng trên vai đang mời mọc khách phương xa mớ nông sản gia đình. Tiếng ru con ầu ơ từ xa vẳng lại nghe buồn não nuột. Men theo quốc lộ 14 dẫn đến Dakto, Tân-Cảnh, vết tích chiến tranh đã bị xóa hẳn bởi những luống bắp, nương khoai. Căn cứ Tân-Cảnh ngày trước giờ đã bị san bằng, các hầm hố và giao thông hào chỉ còn lại những ụ đất khô gầy. Giữa bầu trời quang đãng, mây trắng xây thành, từng dãy cao su xanh tốt đang vươn lên từ lòng đất thấm đẫm máu xương của anh em đồng đội. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, có mấy ai may mắn được trở về từ nơi chiến trường khói lửa. Chân bước hững hờ trên nền cũ, lòng nghe xôn xao và mang nặng một nỗi buồn khó tả.

Chiến%20dịch%20Đăk%20Tô%20–%20Tân%20Cảnh%20%281967%29%20–%20Wikipedia%20tiếng%20Việt

Cuộc đọ sức không cân sức với sự yểm trợ bởi chiến xa T54 đã ào ạt tiến vào hướng Tây của Bộ Tư Lệnh tiền phương của Sư Đoàn 22 Bộ binh tại Tân-Cảnh, cách biên giới Việt-Miên-Lào 5 km. Mưa pháo, hoả tiễn dội liên tục hơn ba giờ đồng hồ, hầm chỉ huy hành quân bị trúng hoả tiễn, hệ thống điều khiển bị thiêu hủy, rất nhiều sĩ quan, binh lính bị thương nặng và qua đời. Một số may mắn thoát khỏi quận Dakto đã cho biết, căn cứ Tân-Cảnh đã bị chiếm cứ đêm đó. Mãi mãi những đồng đội không được về với gia đình và nằm lại trên trận địa còn vương mùi khói súng. Biết bao người vẫn chưa được yên mồ mã, hồn phách còn vấn vương nơi ngàn nội.

Charlie%20-%20điểm%20cao%20lịch%20sử%20-%20Báo%20Gia%20Lai%20điện%20tử%20-%20Tin%20nhanh%20-%20Chính%20xác

Từ Tân-Cảnh, nhìn thấy được Charlie rạng rỡ dưới những làn nắng vàng tươi. Căn cứ Charlie được báo chí nhắc nhở nhiều vào mùa xuân năm 1972 và sẽ mãi mãi đi vào sách sử. Đỉnh đồi Charlie có vị trí chiến lược quan trọng và được dùng để xây dựng một cứ điểm quân sự kiểm soát một vùng rộng lớn ngã ba Đông Dương. Giống như Dakto và Tân-Cảnh, Charlie bị cô lập bảy ngày đêm và thất thủ sau cái chết của trung tá Nguyễn Đình Bảo. Đường lên Charlie giờ đây được sửa chữa nhằm mục đích thu hút du khách. Đồi Charlie đã thay áo mới với một rừng thông bạt ngàn phủ lấp hết những dấu vết đạn bom ngày cũ. Dòng Poko vẫn lặng lờ xuôi chảy và đắp bồi cho màu đất đỏ Bazan thêm tươi thắm. Dẫu cho quá khứ đã theo thời gian chìm vào dĩ vãng, nhưng nỗi niềm đau thương vẫn chưa hề phai nhạt.

Ba-lô, giày sô, súng trận .. Tất cả đã bỏ lại sa trường ngày tan hàng vào một mùa xuân bất hạnh. Tù tội, đọa đày, bỏ thây nơi rừng thiêng nước độc hay trên đường vượt biển tìm tự do. Còn chua xót nào hơn nỗi đau thương nào hơn của những người bại trận và bị bỏ rơi.

Thời gian gần đây, anh em đồng đội ngày xưa bắt được một nhịp cầu và thường xuyên tề tựu, để còn được thấy nhau, còn được sống với nhau những ngày cuối của cuộc đời. Thời gian không là liều thuốc tiên, thời gian khiến cho vật đổi sao dời, thời gian làm tóc xanh đã phai phôi màu tro lạnh, kẻ thương tật, người nay yếu mai đau nhưng anh em vẫn yêu thương và quý mến nhau trong tình huynh đệ chi binh.


Biết bao mùa mưa nắng đã đi qua trên chiến trường “da ngựa bọc thây”, giờ đây còn gặp được nhau cũng là hữu duyên, hữu phước. Mỗi năm một lần, mọi người cố gắng “gom sức” để về lại chốn xưa, nhằm góp một chút thành tâm. Hương khói bay bay giữa rừng thiêng đất đỏ, giữa đất trời lồng lộng gió núi, người còn lại chỉ mong gửi đến anh em chiến hữu đã bỏ mình vì tổ quốc một chút ủi an, vỗ về và xoa dịu những linh hồn lạc thôi bớt lạnh lẽo. Về với nhau lần này, uống cạn chung rượu lạt, mình đã có nhau một thời và sẽ mãi còn nhau.

Vưu Văn Tâm



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/Feb/2022 lúc 12:40pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Feb/2022 lúc 1:28pm

Đôi mắt mùa xuân


Đặc%20trưng%20văn%20hóa%20các%20dân%20tộc%20ở%20Tây%20Bắc
Nếu không nhờ đôi mắt ấy có lẽ tôi không bao giờ nhận ra vợ chồng người bạn trẻ, từng là ân nhân đã giúp tôi giữ được mạng sống của nhiều đồng đội và của cả chính mình, thời tôi còn lăn lộn trên chiến trường, khi lằn ranh sống chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc.

Cuối năm 1966, vừa rút quân ra khỏi Mật Khu Lê Hồng Phong, Phan Thiết, tôi dắt đại đội theo toàn bộ tiểu đoàn di chuyển lên Quảng Đức, tham dự một cuộc hành quân dài hạn nhằm truy lùng một đơn vị địch mới xâm nhập từ biên giới Miên-Việt. Cuộc hành quân kết thúc vài ngày trước Tết Nguyên Đán, nhưng tiểu đoàn có lệnh phải tiếp tục ở lại, biệt phái dài hạn cho Tiểu Khu Quảng Đức. Tiểu đoàn (-) về nghỉ quân tại Đạo Nghĩa, một khu dinh điền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập nhằm định cư di dân từ miền Bắc sau Hiệp Định Genève, và cũng để tạo thành một vòng đai chiến lược. Riêng đại đội tôi được “solo” xuống tăng cường cho Chi Khu Kiến Đức, một quận hầu hết dân cư là người Thượng và tương đối mất an ninh. Quận trưởng lúc ấy là một sĩ quan lớn tuổi gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người Kinh, tuy chỉ mang cấp bậc trung úy nhưng khá dày dạn, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Các sĩ quan còn lại trong Chi khu phần đông là người Thượng, gốc Bảo An đồng hóa.

Sau một cuộc hành quân tảo thanh chung quanh khu vực, đại đội tôi về đóng quân bên cạnh Chi khu để binh sĩ ăn Tết. Nói vậy thôi, chứ lính đánh giặc thì có cái gì để mà ăn Tết, ngoại trừ được ăn cơm nóng thay vì gạo sấy lương khô. Riêng tôi, được ông quận trưởng biếu cho mấy lon bia và một gói đậu xanh với đường đen để nấu chè đón giao thừa. Tôi cho ban chỉ huy đại đội và trung đội vũ khí nặng đóng quân trên ngọn đồi thấp giữa một vườn cà phê khá lớn, nằm không xa quận lỵ. Ngọn đồi chỉ là một cái chấm rất nhỏ giữa trùng điệp những vòng cao độ trên tấm bản đồ quân sự đang có trên tay tôi, nhưng đây là một vị trí có xạ trường tốt và tầm quan sát bao quát chung quanh. Mặc dù chỉ còn hai ngày nữa là Tết, tôi vẫn lệnh cho đại đội luôn trong tư thế tác chiến. Ban ngày các trung đội tảo thanh chung quanh, tối tổ chức các toán tiền đồn và phục kích theo tin tình báo của Chi Khu.

Phía dưới chân đồi là con đường đất và bên kia đường là ngôi trường tiểu học. Trường chỉ gồm một dãy nhà cũ kỹ, mái tôn gỉ sét phủ đầy bụi đỏ. Đang mùa mưa, cả sân trường và các con đường chung quanh đều đầy bùn đỏ, nhão nhoẹt, nên bọn tôi cũng không muốn bước vào.

Buổi chiều ba mươi Tết, khi đang nằm trên võng mơ màng, hồi tưởng đến những cái Tết ngày xưa, thời còn thơ ấu ở quê nhà, bỗng tôi nghe văng vẳng tiếng đàn và tiếng hát khá hay, đặc biệt giọng hát không có chút âm hưởng gì của một người sắc tộc, tôi tò mò rủ thêm hai chú lính rảo bước xuống chân đồi, đi vào trường, tìm đến nơi phát ra tiếng hát. Khi thấy bọn tôi lấp ló ngoài cửa, một thanh niên cầm đàn bước ra cười chào mừng rỡ, mời vào phòng. Trông anh còn rất trẻ như một thư sinh, nên tôi khá ngạc nhiên khi nghe anh tự giới thiệu mình là hiệu trưởng, và căn phòng lớn nguyên là một lớp học được sửa sang lại làm chỗ ở cho anh. Trong phòng đang có một đám học trò, toàn là người Thượng, cả nam lẫn nữ. Bọn tôi đưa tay chào và mời thầy trò cứ tiếp tục cuộc vui. Anh hiệu trưởng yêu cầu tôi hát tặng thầy trò anh một bài, nêu lý do đám học trò hồi giờ chỉ nghe có mỗi giọng hát của anh nên cũng chán. Tôi khó từ chối, nên gật đầu nhờ anh dạo đàn rồi đứng lên hát bài “ Con Đường Mang Tên Em” , bài ruột của tôi khi ấy, vì cứ mỗi lần nghỉ quân, lính tráng thường năn nỉ “ông thầy hát bài rất tình này cho tụi em nghe để thấy đời còn lên hương một chút.” Trong những ánh mắt của các cô cậu học trò chăm chú nhìn lên, tôi bỗng lưu ý tới một đôi mắt đẹp, mở to, xanh biếc. Cô bé khoảng 14 – 15, có khuôn mặt khá xinh, mái tóc rối, màu nâu đỏ, mang nét hoang dại của núi rừng. Tiếc rằng ngày ấy không có máy ảnh, và tôi lại dốt về vẽ, nên chẳng giữ lại được hình ảnh đặc biệt của đôi mắt này, nhưng rồi nó vẫn ở mãi cùng tôi trong ký ức.

Ông thầy giáo trẻ luôn tỏ ra mừng rỡ, vồn vã. Có lẽ từ khá lâu rồi anh mới gặp lại những người Kinh. Anh ngưng hát, bảo đám học trò phụ anh làm thịt một con gà, nấu cháo đãi bọn tôi. Tôi xin cho bọn tôi được góp phần. Tôi nhờ chú lính chạy về lấy mấy ký gạo, một xâu bia, và gói đậu xanh cùng những thỏi đường đen của ông quận mới cho. Một buổi tiệc dã chiến xem như mừng giao thừa sớm, cũng vui và cảm động. Kể từ hôm ấy, tôi trở thành bạn của anh thầy giáo hiệu trưởng, có tâm hồn nghệ sĩ và rất dễ thương này. Quê anh ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp anh thi vào một Khóa Sư Phạm Cấp Tốc và chỉ học một năm thì tốt nghiệp. Chờ khá lâu mà chưa tìm được chỗ dạy, hơn nữa nhà nghèo, cần phải phụ giúp mẹ già lo cho hai đứa em nhỏ đang tuổi học hành, anh tình nguyện lên “vùng cao” nhận ngôi trường này, một nơi mà ai cũng chê. Vài người được chỉ định nhưng tìm cách chạy chọt để được ở lại hay chuyển về nơi khác. Nhưng bù lại, trong cùng khóa sư phạm mới ra trường, anh là người đầu tiên được nhận chức danh hiệu trưởng, ngoài ra còn được phụ cấp thêm một số tiền “đắt đỏ, vùng cao”. Anh ở đây đã tròn một năm. Tháng ngày gần như chỉ ở trong trường, làm bạn với đám học trò, hầu hết nói tiếng Việt chưa thông và hoàn toàn khác phong tục, tập quán. Nhưng cũng nhờ cuộc sống hiu quạnh giữa núi rừng này, lương tháng nào anh cũng còn nguyên để gởi về phụ mẹ, giúp các em ăn học. Học sinh không nhiều, có khi hai lớp khác trình độ phải dồn lại học chung. Ngoài công việc hiệu trưởng, anh còn phải dạy thêm lớp Nhì và lớp Nhất, nhưng cũng chỉ gần hai mươi học sinh được gộp lại thành một lớp. Có đứa đi học trễ, nên dù cùng lớp nhưng tuổi tác khá chênh lệch nhau.

Từ khi quen biết anh, lúc nào không bận hành quân, đặc biệt những dịp cuối tuần tôi đều ghé lại trường ca hát, ăn uống với anh. Dù vậy, tôi cũng cẩn trọng, không dám cho anh vào gặp tôi trong khu vực đóng quân.

Điều vui là lần nào ghé lại, tôi cũng gặp vài cô học trò xúm xít bên anh, giúp anh dọn phòng, nấu nướng. Trong số này có cô bé mang nét đẹp hoang dại với dôi mắt to, xanh biếc, từng làm tôi bất ngờ xao xuyến. Nhờ có thầy trò anh mà những ngày sống giữa núi rừng đất đỏ buồn hiu này trở nên thú vị. Tôi còn học được một số tiếng Ê-đê và vài tập quán khá lạ lẫm của họ. Đặc biệt khi sống gần họ, những con người hiền lành chân chất ấy, tôi cảm thấy tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng yên ả, tạm quên phía trước đang có nhiều trận chiến đẫm máu đang chờ.

Một hôm, khi trời sắp tối, anh thầy giáo nhờ một người lính nhắn tôi ra gặp anh gấp. Thấy anh có vẽ bồn chồn, lo lắng, trên môi không còn nụ cười vui vẻ như trước đây, tôi ưu tư, không biết có chuyện gì. Anh kéo tôi vào trong phòng, đóng kín cửa lại, bảo nhỏ cho tôi biết là một đám Thượng cộng sẽ tổ chức pháo kích và tấn công vào khu vực đóng quân của tôi, có thể ngay trong tối hôm nay. Anh bảo chính cô bé học trò có đôi mắt đẹp ấy, vừa chạy vào cho anh biết để báo tin gấp cho tôi. Cô bé cũng tỏ ra lo lắng lắm. Một người bạn của cô có cha mẹ quen biết, dính dáng đến đám Thượng cộng này. Tôi bắt tay cám ơn rồi vội vàng trở về đại đội, lệnh cho im lặng vô tuyến và âm thầm rời khỏi vị trí, di chuyển đến đóng quân tạm tại một địa điểm khác cách đó không xa, báo cho ông Chi khu trưởng biết, để có kế hoạch đề phòng, và cho Pháo Binh một số tọa độ tiên liệu để yểm trợ khi cần thiết. Và đúng như vậy, vào khoảng một giờ khuya hôm ấy Cộng quân đã pháo kích vào ngay vị trí Ban Chỉ Huy Đại Đội của tôi trên đỉnh đồi trong vườn cà phê, nơi tôi vừa rời khỏi, bằng hai khẩu súng cối 82 ly, bắn đi từ hai hướng.Tôi đã may mắn, kịp thay đổi phòng tuyến để đánh lừa, và có kế hoạch bao vây chúng, nhưng không hiểu vì sao chúng không tổ chức tấn công, nên đại đội tôi đã mất một dịp lập chiến công. Pháo Binh của Chi Khu phản pháo kịp thời, nhưng không hiệu quả, có lẽ không biết chính xác vị trí hai khẩu pháo của địch. Sáng hôm sau, trở lại vị trí, tôi giật mình khi thấy đạn pháo đã cày nát vị trí đóng quân của mình. Ngay chỗ tôi nằm, bây giờ trở thành mấy cái hố sâu, cỏ cây tung tóe.

Tôi kể cho ông quận trưởng biết sự tình. Ông cho mời anh thầy giáo vào quận khen thưởng và đãi anh cùng bọn tôi một chầu. Nhưng anh bảo, công này không phải của anh, mà là của cô học trò người Thượng. Hôm sau, chính tôi đã mang quà của ông Quận đến kín đáo trao cho cô bé, nói nhỏ lời cám ơn, và cùng ăn uống hát hò với thầy trò suốt ngày hôm ấy.

Khoảng năm tháng sau, đại đội tôi có lệnh rời khỏi Kiến Đức. đến phi trường Nhơn Cơ, sáp nhập với tiểu đoàn, để được không vận về Di Linh tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân bị địch quân phục kích và đang tăng cường vây hãm. Tôi chỉ kịp ghé lại trường vài phút để vội vã chia tay anh. Tôi mang tặng anh tấm poncho-light (loại chăn đắp rất mỏng và nhẹ) của một anh Cố vấn Mỹ đã tặng tôi trước khi về nước. Anh bảo sẽ rủ đám học trò ra ngã ba, nơi đoàn xe đang chờ, để tiễn tôi đi, nhưng tôi ngăn lại, không cho, bảo là không còn nhiều thời gian và tôi cũng rất bận với đồng đội của mình.

Tiểu Khu cho biết đã có một đại đội Bảo An mở đường, an ninh lộ trình, nhưng khi đoàn xe đến một ngã ba thì bị Cộng quân phục kích. Chiếc xe phía trước tôi bị giật mìn ngay chỗ đoạn đường đang sửa chữa. Tôi nhảy xuống khỏi xe vừa điều động phản công vừa gọi Pháo Binh yểm trợ và xin L-19 bao vùng. Mặc dù bất ngờ, và khoảng phân nửa một trung dội trên chiếc xe đầu bị giật mìn, bất khiển dụng, nhưng nhờ những người lính thiện chiến, can đảm, giàu kinh nghiệm, nên đại đội tôi kịp làm chủ tình hình. Khi đang đứng liên lạc tìm chiếc L-19 để hướng dẫn đến vị trí, một quả đạn súng cối rơi xuống cách tôi khoảng mấy mét, mảnh đạn đâm vào chân trái làm tôi có cảm giác tê buốt. Sau khi được anh y tá chich thuốc cầm máu, sát trùng và băng bó, tôi giao đại đội lại cho anh đại đội phó, và thay vì đi đến phi trường Nhơn Cơ, tôi được tản thương cùng các thương binh khác về bệnh viện tỉnh Quảng Đức ở Gia Nghĩa. Trưa hôm sau, Ông Chi Khu Trưởng Kiến Đức đến thăm, chở theo anh thầy giáo và cô học trò người Thượng đã từng giúp tôi một lần thoát chết trước đây. Cả hai người đã ôm chầm lấy tôi mà khóc, làm tôi cũng chạnh lòng.

Sau vài ngày, tôi được chuyển tiếp xuống QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang, ngay quê tôi, bằng loại máy bay Caribou của Úc Đại Lợi. An ủi phần nào vì được gặp lại cha tôi mỗi ngày và một số bạn bè thường xuyên đến thăm. Cái chân trái của tôi bị thương khá nặng, nhưng may mắn là không bị cưa. Tôi phải điều trị ở đây hơn ba tháng. Những ngày nằm treo cái chân băng bột cứng đơ lên thành giường, nghe những đồng đội thương binh bên cạnh rên xiết, tôi càng nhận ra mình chỉ là một thằng lính mạt hạng, năm tháng chỉ còn biết có đồng đội, súng đạn, chiến trường, và ranh giới giữa sống – chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc, thì đâu dám mơ gì đến chuyện tương lai hay công hầu khanh tướng! Đôi lúc, nhớ tới tiếng đàn giọng hát của anh thầy giáo trẻ và nhất là đôi mắt của cô bé học trò người Thượng, tôi cũng có chút xao xuyến, chạnh lòng. Đôi mắt hồn nhiên yên ả như mặt nược hồ thu giữa núi rừng tĩnh mịch mà sao cứ làm tôi gợn sóng mãi trong lòng.Tôi viết thư thăm và báo tin về cái chân ngày một phục hồi, nhưng mãi đến khi sắp xuất viện tôi mới nhận được tấm carte-postal, chỉ viết mấy dòng, với nét chữ của hai người. Tôi bỗng nhớ tới lần cuối cùng, khi hai thầy trò đến thăm tôi tại Bệnh viện Gia Nghĩa, và đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh của tôi.

Sau khi xuất viện, được nghỉ hai tuần phép, tôi về quê sống bên cạnh cha tôi. Từ ngày đi lính, ngoại trừ lần về phép ra trường, đây là dịp lâu nhất tôi được ở bên cạnh cha tôi, trong gió nội hương đồng nơi tôi đã ra đời và những năm tháng lớn lên không có mẹ. Về trình diện hậu cứ ở Ban Mê Thuột, tôi lại nhận sư vụ lệnh theo học khóa tham mưu đặc biệt một tháng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Trở về đơn vị, vì cái chân còn yếu tôi không được về lại đại đội mà sang nắm Ban 3 Tiểu Đoàn (đặc tránh hành quân & huấn luyện, một phần vụ có liên quan ít nhiều tới khóa học vừa qua.)

Tháng 6 năm 1970, lúc này tôi đã được điều động về Bô Chỉ Huy Trung Đoàn giữ một chức vụ khác , cả trung đoàn di chuyển lên Quảng Đức, để được tăng cường một tiểu đoàn Biệt Động Quân, và một Chi đoàn Thiết Quân Vận, thành lập Chiến Đoàn , mở cuộc hành quân khá qui mô sang địa phận Cam-Bốt. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đặt bên cạnh Phi trường Nhơn Cơ. Cuộc hành quân mang tên “ Bình-Tây III” này kết thúc sau hơn một tháng với nhiều thắng lợi. Các đơn vị thống thuộc được về nghỉ quân chung quanh khu vực, chờ phương tiện triệt thoái. Một tiểu đoàn đóng quân tại Kiến Đức, anh tiểu đoàn trưởng lại là ông anh rất thân, trước kia là đại đội trưởng đầu tiên của tôi khi tôi mới ra trường. Lính bắn được con nai, anh gọi máy bảo tôi lên nhậu với anh, nhân anh cố vấn tiểu đoàn mới nhận tiếp tế, biếu lại mấy chai whisky. Tôi mừng thầm, tuy thèm lắm. nhưng nghĩ đến rượu với thịt nai thì ít mà nhớ đến đôi mắt cô bé người Thượng lúc trước thì nhiều, tôi xin phép ông Trung Đoàn Trưởng rồi hú theo mấy chú lính hộ tống chạy lên Kiến Đức. Nhai mấy miếng thịt nai và uống vội mấy hớp rượu, tôi chạy sang ngôi trường tiểu học. Rất vui khi bất ngờ được gặp lại anh thầy giáo và có cả cô học trò thuở trước. Nhưng điều làm tôi bất ngờ hơn là hai người bây giờ đã là vợ chồng. Một tấm ảnh cưới thật đẹp được phóng lớn treo trên vách, Căn phòng ngày xưa giờ đã được nới rộng, sửa sang và trang hoàng khá ấm cúng. Tôi ngạc nhiên reo lên mừng rỡ và ôm lấy hai người. Anh còn cho biết, bây giờ cô cũng đang là cô giáo phụ trách lớp mẫu giáo của trường.

Tôi đùa, bảo “cô học trò cưới ông thầy làm chồng mà không cho tôi biết để có quà mừng”, rồi đưa cái nón sắt tôi đang cầm trên tay bảo cô ôm trước bụng, như một ví von khi chúc cho cô sớm có bầu, “bắt được cái con” để tôi gởi bù quà. Anh chồng đưa tay chỉ cái poncho-light trên giường, bảo “bọn em vẫn đắp chung cái mền quí mà anh cho đấy chứ!” Khi chia tay, tôi ôm vai hai người và nói với anh: “Chắc bây giờ anh đã chịu nhận nơi này làm quê hương rồi phải không?” Hai vợ chồng cười. Khi nói lời chia tay, cô vợ khệ nệ cầm cái nón sắt trả lại, ngước nhìn tôi với nét xúc động, đôi mắt đẹp của ngày xưa lại khuấy đông trái tim tôi. Tôi cười mà thấy lòng man mác!

Trong nhiều năm bị tù tội từ Nam ra Bắc, dù cuộc sống tăm tối khốn cùng, nhưng hình ảnh của anh thầy giáo và đặc biệt đôi mắt của cô bé người Thượng thỉnh thoảng vẫn thấp thoáng từ ký ức. Tôi nghĩ chắc chắn sẽ không bao giờ còn gặp lại họ. Hơn nữa lúc ấy, dường như tôi cũng chẳng còn tha thiết tới điều gì.

Ra tù một thời gian ngắn, tôi cùng ông anh và một số bạn bè cùng tù tổ chức vượt biển. Tất cả quá khứ đành bỏ lại phía sau lưng, có còn chăng chỉ thấp thoáng đâu đó ở trong lòng.

Mới đây tôi bất ngờ đọc được bản tin trên Facebook của một người nào đó ở trong nước, có kèm theo một clip ngắn. Bản tin với cái tựa “Người đàn bà khí khái của Dăk-Nông đã vĩnh viễn ra đi”. Đó là người đàn bà từng viết đơn gởi đi các nơi để phản đối việc chính quyền CS cho Trung Cộng khai thác bauxite và thiết lập nhà máy Aluminum ở Dăk-Nông (Tình Quảng Đức cũ). Bà cũng là người kịch liệt phản kháng khi chính quyền cưỡng chế, cướp đất đai canh tác của người Thượng, truy bức xô đuổi họ ra khỏi nương rẫy, bản làng, nơi mà họ đã từng bao đời khai phá và sống chết ở đây. Bà cùng người chồng đã từng bị đàn áp, bắt bớ, tù đày rất nhiều lần. Đặc biệt cái clip đã ghi lại hình ảnh bà cùng chồng tổ chức biểu tình vào tháng 7 năm 2016, khi đường ống từ nhà máyAluminum Nhơn Cơ của nhà thầu Chalieco Trung Quốc bị vỡ khiến 9,63 mét khối chất kiềm chảy ra ngoài, làm nhiễm độc trầm trọng nguồn nước và hủy hoại môi trường sống của dân chúng trong vùng. Đứng trước một rừng công an với đủ loại vũ khí trên tay, ông bà không hề nao núng, dang tay bảo vệ những người dân khốn khổ. Khi một đám công an lên đạn chĩa súng thị uy, bà bước tới, mở to đôi mắt sáng quắc đầy uất hận, thách thức. Tôi bỗng giật mình. Đôi mắt đâp mạnh vào tâm não làm tim tôi đau buốt. Tôi vừa nhận ra đó chính là đôi mắt đẹp hiền lành của cô bé học trò người Thượng ngày xưa, sau này là vợ anh thầy giáo mà tôi hằng quí mến. Họ đã từng cứu tôi cùng đồng đội của tôi một lần thoát chết. Và cũng chính từ đôi mắt đẹp này đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh tôi nằm, sau một lần tôi bị thương ở Quảng Đức, đúng 55 năm về trước. Zoom lớn cái clip trên màn ảnh computer, tôi xem thật kỹ lại một vài lần nữa để nhận rõ khuôn mặt và nhất là đôi mắt của cô nàng, mặc dù bây giờ ánh mắt ấy đã không còn hồn nhiên như mặt nước hồ thu thuở trước. Sau đó tôi cũng nhận ra người chồng, anh hiệu trưởng trẻ tuổi, dễ thương, đàn và hát rất hay ngày trước. Bây giờ cả hai đều già đi nhiều, tóc đã hoa râm và gầy gò hơn trước. Người viết bản tin cũng cho biết anh chồng đã chết trước đó gần hai năm, sau nhiều ngày bị đày ải, tra tấn trong tù. Giờ thì hai người đã gặp lại nhau ở chốn bình an vĩnh cữu.

Từ nay, tôi sẽ mãi mãi không bao giờ còn nhìn thấy hai người trên thế gian này, nhưng bóng dáng của họ và nhất là đôi mắt của cô bé người Thượng năm nào sẽ không bao giờ rời khỏi ký ức và trái tim tôi. Đôi mắt đã để lại trong tôi biết bao tiếc thương, cùng cả niềm tin yêu và hy vọng. Đôi mắt của mùa Xuân.


PHẠM TÍN AN NINH
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Feb/2022 lúc 9:10am
Một Chuyện Tình Khó Tin Nhưng Có Thật

NGƯỜI%20LÍNH%201
 
Vào dịp cuối năm 1994, một buổi họp mặt các cựu tù nhân chính trị được tổ chức ở San Diego. Xướng ngôn viên của buổi lễ cho biết : “Khi tôi xướng tên trại nào, nếu quý anh là trại viên của trại đó, xin đứng dậy và tự giới thiệu tên của mình để các anh em khác được biết”. Nhiều trại cải tạo ở miền Bắc được lần lượt xướng tên như “Phong Quang”, “Yên Báy”, “Vĩnh Phú”, “Thanh Cẩm”, “Lý Bá Sơ”, “Nam Hà”, “Phú Sơn” v.v Trại nào cũng có năm bảy anh đứng dậy và giới thiệu tên của mình. Khi xướng tên trại Nam Hà, tôi đứng dậy và có thêm bốn anh nữa , trong đó có một anh, tự giới thiệu tên của mình là Lê Trung Đạo. Tôi lẫm nhẫm Lê Trung Đạo, Lê Trung Đạo…sao tên nghe quen quá, hình như anh ấy ở chung đội với tôi thì phải. Khi phần giới thiệu các anh em trại Nam Hà chấm dứt, tôi đi đến bàn của anh Đạo, đứng đối diện và nhìn kỹ anh ấy. Tôi nhận ra anh Đạo ngay. Tôi ôm chầm lấy anh, và anh ấy cũng ôm tôi trìu mến. Tôi thì thầm bên tai Đạo : “Em còn nhớ anh không? ” Đạo trả lời ngay: “Anh Uyển, mà sao em có thể quên được, thật vui mừng được gặp lại anh. Em trông chờ ngày này đã lâu lắm rồi!”

Khi cùng sống trong cảnh đọa đày nơi trại Nam Hà, phân trại C, tôi và Đạo nằm gần nhau. Ra đồng, bắt được con cua, con cá, tôi và Đạo cùng chia sẻ với nhau. Đạo là một Thiếu Úy Cảnh Sát Đặc Biệt, mới ra trường, không biết làm Trưởng G hay H gì đó..mà bị đày ra cải tạo ở miền Bắc.Anh còn quá trẻ, khoảng 24, 25 tuổi. Tôi xem anh như một người em của tôi và tôi rất quý mến anh. Đạo chưa lập gia đình. Anh chỉ còn một mẹ già đang sống ở Vĩnh long. Vì vậy, từ ngày bị đưa ra Bắc, Đạo chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân từ trong Nam gởi cho anh. Anh sống hiền hòa, vui tính, nên anh em trong đội ai cũng mến anh. Đạo xem tôi như một người anh trong gia đình, anh tâm sự với tôi : “Đời em chẳng còn gì nữa, chỉ có một người mẹ, mà từ ngày bị đày ra Bắc, đã trên 5 năm rồi em chẳng có tin tức gì của mẹ em. Không biết bà còn sống hay đã ra người thiên cổ”

Đạo nắm tay tôi và cảm động nói: “Giờ đây em chỉ có anh là người duy nhất thương mến em, cho em chút an ủi để sống qua ngày!”

Như có một động lực nào thúc đẩy, Đạo tâm sự với tôi : “Anh ạ,mình phải sống chứ anh, mà muốn sống, dù là cuộc sống thấp nhất, cũng phải có một ước mơ gì đó để mà mộng tưởng, để tiếp sức cho mình. Các anh em ở đây , dĩ nhiên ai cũng mơ ước sớm được trở về với gia đình. Ngoài xã hội thì kẻ này mơ trúng số, kẻ kia mơ nhà cửa , ruộng vườn v.v. Nhưng sống nơi địa ngục trần gian này, anh em mình mơ ước điều gì đây? Tất cả đều nằm ngoài tầm tay của mình. Em chợt nhớ lại một câu chuyện cổ tích của Pháp, tựa đề là “Un Peu De Soleil Dans L’eau Froide” kể lại câu chuyện một ông lão nghèo khổ, sống cô đơn một mình trong căn lều nhỏ bé, trống trước, trống sau. Bổng một bà tiên hiện ra và cho ông một điều ước. Bà tiên cứ nghĩ, thế nào ông lão nghèo nàn này cũng sẽ ao ước có một căn nhà, hoặc ao ước có nhiều tiền bạc..v..v. Nhưng bà tiên vô cùng ngạc nhiên, khi ông lão nghèo khổ ấy chỉ xin “Một Nụ Cười”

Đạo như chợt tỉnh, ông lão bất hạnh trong câu chuyện cổ tích, đã chỉ cho Đạo một mơ ước, mà dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể đạt được, đó là một nụ cười. Không cần phải là nụ cười của giai nhân, mà chỉ cần một nụ cười thân ái của ai đó, chân thành trao cho anh, vì yêu mến anh, có thế thôi.

Cuộc sống tù đày cứ kéo dài triền miên trong đói khổ, vô vọng. Nhưng khi nghĩ đến một nụ cười, Đạo thấy tâm hồn mình có chút an ủi, nhẹ nhàng. Hằng ngày , Đạo ước mơ nhận được nụ cười. Đêm đêm Đạo cũng ước mong trong giấc mơ, anh sẽ gặp được một nụ cười. Nhưng buồn thay, những giấc mơ đến với Đạo chỉ là những cơn ác mộng mà thôi.

Nhưng thật kỳ diệu, từ ngày Đạo ôm ấp ước mơ có được một nụ cười, anh thấy cuộc đời của anh có chút ý nghĩa, vì dù sao anh cũng có một ước mơ, để mà thương, mà nhớ, mà mong chờ.

Một hôm, đội được dẫn đi gặt lúa, khi đi ngang qua cổng cơ quan, Đạo thấy nhiều chiếc áo vàng đứng ở đó. Nhìn lướt qua, Đạo chợt thấy một nữ cán bộ nhìn anh mỉm cười. Anh không tin ở mắt mình, anh nghĩ rằng có thể cô ta cười vu vơ gì đó, chứ đâu phải cười với anh. Anh quay lại nhìn một lần nữa, vẫn thấy cô ta nhìn anh và mỉm cười.

Từ ngày ấy, mỗi khi đội đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo đều bắt gặp nụ cười của người nữ cán bộ dành cho anh. Vì vậy khi đi lao động, Đạo luôn luôn đi cuối hàng để dễ đón nhận nụ cười của cô nữ cán bộ. Đạo cũng cười đáp lễ với cô ta. Đạo bắt đầu thấy cuộc đời của mình, có một chút gì thi vị, đáng sống. Khi ăn, khi ngủ, nụ cười đó luôn luôn theo anh, cho anh niềm an ủi, và chút lạc quan để sống. Anh em trong đội đều biết mối tình mắt nhìn mắt và trao đổi nụ cười của Đạo và cô nữ cán bộ.

Không những Đạo nhớ đến nụ cười, anh còn nhớ đến đôi mắt như muốn nói với anh muôn ngàn lời, anh nhớ đến người con gái ấy. Ban đầu anh nghĩ rằng cứ giã bộ vui vẻ cho qua ngày. Nhưng trong tâm trí anh, luôn luôn nhớ đến cô gái ấy và anh nhận ra rằng anh đã yêu cô ta. Đạo nhớ lại ngày xưa Elvis Presley đã hát một bài hát nỗi tiếng là bài Don’t Gamble With Love nay thật đúng như trường hợp của Đạo. Bây giờ Đạo không còncho rằng lao động là khổ sai nữa, mà anh trông chờ mỗi buổi sáng được đi ngang qua cỗng cơ quan, để đón nhận nụ cười của người nữ cán bộ.

Một buổi chiều khi đi lao động về,nghe các anh em Công Giáo tập hát bài “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, Đạo mới biết, đêm nay là đêm Noel. Khi cửa phòng giam đóng lại, anh em Công Giáo vội vã thiết trí một ngôi sao Giáng Sinh và hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh” ở vách tường cuối phòng. Họ nắm tay nhau ca hát, đọc kinh, cầu nguyện. Đạo nằm mơ màng, lơ đãng nhìn về cuối phòng, chung quanh hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh”, Đạo tưởng tượng như có những bóng đèn màu chớp sáng. Anh mơ hồ nghe như có tiếng nhạc bài Silent Night dịu dàng thoảng đi trong gió…Anh thiếp đi trong giấc ngủ yên lành.

Vào một buổi sáng chúa nhật, chúng tôi được gọi ra sân để nhận quà của thân nhân từ trong Nam gởi ra. Thường thì 80 đến 90 phần trăm anh em đều nhận được quà. Riêng Đạo thì chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân. Nhưng thật bất ngờ, hôm nay cán bộ lại kêu tên Đạo lên nhận quà, ai cũng ngạc nhiên và mừng cho Đạo.Anh nhận một gói quà bình thường, nhưng cách gói quà , khác với những gói quà từ trong Nam gởi ra. Đạo sững sốt nhận gói quà, đem về phòng, cẩn thận mở ra. Một mãnh giấy nhỏ nằm trên những gói đồ ăn, anh đọc vội hàng chữ “Trìu mến gửi anh Đạo – Em : Kim Chi”. Với mấy chữ ngắn gọn đó, Đạo biết ai gởi cho anh món quà tình nghĩa này. Anh ôm gói quà vào lòng. Anh không ngờ người nữ cán bộ có nụ cười dễ thương đó, lại dám liều lĩnh gởi quà cho anh. Hai hàng nuớc mắt chảy dài xuống má, đây là những giọt nước mắt hạnh phúc mà từ lâu anh không hề có.

Trại Nam hà, Phân trại C, nơi chúng tôi đang ở, phía sau là con đường làng. Trại chỉ ngăn cách với bên ngoài bởi những bụi tre thấp và hàng rào kẽm gai. Dân chúng đi ở ngoài, chúng tôi có thể thấy họ. Thường vào buổi chiều, sau khi ăn cơm xong , chúng tôi hay ra ngồi chơi ở sân sau đó, nhìn người qua lại. Một hôm, chúng tôi thấy cô cán bộ Chi đi lui, đi tới ở ngoài hàng rào, rồi thình lình quăng vào trong một cái gói nhỏ. Chúng tôi biết cô ấy gởi gì đó cho Đạo, chúng tôi mang vào cho anh. Đạo không biết Chi gởi gì cho anh, nhưng anh cảm động lắm. Anh em hiếu kỳ đứng quanh giường của của Đạo, để xem cô Chi đã gởi gì cho anh: đó là một gói xôi và một con gà vàng rộm. Đối với tù nhân, đói triền miên như chúng tôi, thì gói xôi gà này là cao lương mỹ vị bậc nhất trên thế gian này. Đạo rất hào phóng, anh chia đều xôi, gà cho tất cả 32 anh em trong đội, mỗi người được một muỗng xôi và chút ít thịt gà. Có người ăn ngay, nhưng cũng có vài anh em để đó, hít hít mùi thịt gà cho đỡ thèm.

Đạo thấy thương Chi quá, vì yêu anh, nàng đã gan liều làm những việc như vậy, vì nếu bị phát giác, nàng ở tù như chơi. Đạo càng thương Chi khi nghĩ đến tương lai : một cán bộ công an yêu một sĩ quan cảnh sát ngụy..thì đời nào có thể sum họp được. Anh thở dài !

Vào một sáng chúa nhật, một anh trật tự đến phòng chúng tôi, bảo anh Đạo chuẩn bị ra có người thăm nuôi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, vì từ bao năm nay, Đạo thuộc diện con mồ côi, chưa hề có ai gởi quà cho Đạo, nói gì đến chuyện thăm nuôi.Thế mà hôm nay, lại có người thân nào đó đến thăm Đạo. Chúng tôi mừng cho Đạo. Khoảng 9 giờ sáng, anh được cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi. Chúng tôi hồi hộp chờ Đạo trở vào để xem anh nhận được những quà gì của thân nhân đem đến.

Nhưng chúng tôi chờ mãi…đã ba , bốn giờ chiều rồi, vẫn chưa thấy Đạo trở vô trại. Thường một trại viên được gặp mặt thân nhân khoảng 15, 20 phút, tối đa là nửa giờ. Thế mà , Đạo ra nhà thăm nuôi đã hơn bốn, năm tiếng rồi mà chưa thấy vô. Chúng tôi bắt đầu lo lắng cho Đạo, không biết chuyện gì đã xảy ra cho anh, lành hay dữ. Và từ đó, chúng tôi không còn biết tin tức gì về Đạo nữa.

Hôm nay gặp lại Đạo, tôi đem chuyện ấy ra hỏi Đạo, anh đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:

“ Anh nhớ không, ngaỳ chúa nhật hôm đó, em được dẫn ra nhà thăm nuôi, nói là có thân nhân đến thăm. Em vô cùng ngạc nhiên vì em đâu có thân nhân nào từ trong Nam có thể ra thăm em. Bước vào nhà thăm nuôi, em thấy Chi và một ông Thượng Tá công an ngồi ở đó.Chi vội vã đứng lên giới thiệu : “Đây là cậu Du của Chi, đang công tác ở tỉnh Thái Bình, em nhờ cậu ấy đến thăm anh.” Đạo bối rối nhìn Chi, nhìn ánh mắt, nụ cười của Chi. Chi mặc đồ công an, trên cổ áo có đeo quân hàm Thiếu Úy. Chi biết Đạo ngõ ngàng, thắc mắc nên cô nói ngay : “Anh đừng lo, em bảo anh làm gì thì cứ làm theo, chớ có hỏi han gì hết”. Chi dẫn Đạo vào một căn nhà ở gần nhà thăm nuôi, nhà không có ai cả. Chi bảo tôi cởi bộ áo quần tù ra, và mặc ngay bộ đồ công an đã để sẵn ở đó; ngoài áo quần, có cả nón, cặp da và giấy chứng nhận đi công tác miền Nam. Tôi như trên trời rớt xuống, nhưng không có thì giờ để hỏi Chi, việc gì đang xảy đến cho tôi. Khi tôi đã mặc xong bộ đồ công an, Chi nhìn tôi mỉm cươì , rồi kéo tôi ra ngỏ, bảo tôi leo lên một chiếc xe Jeep nhà binh đậu sẵn ở đó., và chạy ra ga xe lửa Phủ Lý. Chi bảo tôi cứ ngồi trên xe, Chi vào mua vé xe lửa đi về Sàigòn. Khi đưa tôi lên xe lửa, Chi ân cần căn dặn: “Không nên về nhà, cũng đừng liên lạc với mẹ, mà tìm một người bà con nào đó ở tỉnh khác xin trú ngụ vài ngày, rồi tìm đường vượt biên. Tốt nhất là đi đường bộ qua ngã Campuchia”. Chi đưa cho tôi một gói giấy và nói: “Đây là ít tiền để anh tiêu dùng, nhớ là phải vượt biên ngay nhé!”. Chi cầm tay tôi và chân thành nói : “Em là vợ của anh, anh đừng quên em!”. Tôi ôm Chi vào lòng, nước mắt ràn rụa. Chi cũng khóc trên vai tôi. Xe lửa từ từ lăn bánh, hình ảnh Chi cô đơn đứng một mình trên sân ga, nhỏ dần, nhỏ dần.. Tôi thấy nhiều lần Chi đưa tay lên lau nước mắt. Trong tim tôi, mối tình mà Chi dành cho tôi quá sâu đậm, đã chiếm trọn cuộc đời tôi. Tôi vỗ vỗ vào trái tim của mình “Đạo, Đạo, mày phải sống xứng đáng để đền ơn đáp nghĩa cho Chi nghe chưa”

Khi xe lửa dừng lại ở ga Bình triệu, Sàigòn, tôi không về nhà tôi ở Vĩnh Long, mà đến nhà dì tôi ở Cần Thơ xin trú ngụ.Chồng của dì tôi là một Đại úy Công Binh Việt nam Cộng Hòa, trước năm 1975, ông phục vụ ở Tiểu Đoàn 24 Công Binh Kiến tạo, mới được trả tự do. Gia đình dì, dượng tôi đang âm thầm chuẩn bị vượt biên. Dì, dượng tôi vui vẻ chấp thuận cho tôi cùng đi theo. Tôi đã đưa gói tiền mà Chi trao cho tôi, cho dì tôi để bà tiêu dùng. Mở gói ra xem, dì bảo tôi : “Tiền đâu mà cháu có nhiều vậy?” Tôi trả lời ngay : “Của vợ con cho đó!”

Vào một đêm tối trời, ghe máy chở cả nhà ra cữa biển Đại Ngãi, vì tàu lớn đang đậu ở đó. Sau 3 ngày và 4 đêm, tàu của chúng tôi đã đến hải phận Thái Lan, được tàu tuần duyên của Thái Lan đưa về trại Sikiew. Trong cuộc phỏng vấn thanh lọc, nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc hỏi tôi rất ít. Tôi nghĩ là họ có đầy đủ hồ sơ cá nhân của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ chỉ hỏi tôi là làm Trưởng G hay Trưởng H, tôi trả lời. Người nhân viên đó lấy trong tập hồ sơ ra một tấm ảnh, anh nhìn tôi rồi gật đầu.Thế là tôi vượt qua cuộc thanh lọc. Mấy tháng sau, họ chuyển tôi qua trại Pulau Bidong ở Mã Lai, để chờ chuyến bay đi định cư ở Mỹ.

Tôi mau chóng gởi thư cho má tôi ở Vĩnh Long, báo tin tôi đã bình yên đến trại Pulau Bidong ở Mã Lai, đang chờ chuyến bay để đi định cư ở Mỹ. Khoảng 2 tuần sau, tôi vui mừng nhận được thư hồi âm của má tôi, và một bất ngờ thú vị đến với tôi là có cả thư của Chi nữa! Má tôi đã viết cho tôi : “Đạo con, má rất vui mừng nhận được tin con đã đến nơi bình yên. Má cho con biết là Chi đang ở đây với má. Chi đã kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất hạnh phúc có được một con dâu hiếu thảo như Chi, má mừng cho con”

Đạo run run mở thư của Chi ra đọc: “ Anh Đạo yêu quí của em, nghe anh đã đến đảo và đang chờ chuyến bay để đi Mỹ, má và em mừng quá anh ơi. Khi anh đi về Nam chưa đầy một tháng, họ đuổi em ra khỏi ngành công an. Em đã về Vĩnh Long ở với má, em thay anh phụng dưỡng, săn sóc má, anh yên tâm ! “

Với lời lẽ chân tình, mộc mạc, tôi uống từng chữ, từng lời trong bức thư ngắn gọn của Chi, tôi áp bức thư vào ngực và đi vào giấc ngủ.

Năm 1982, tôi được đi định cư ở Mỹ. Khi có thẻ xanh, tôi đã làm hồ sơ bảo lãnh Chi. Trong thời gian ở với má tôi ở Vĩnh Long, không biết Chi hỏi thủ tục bảo lãnh ở đâu mà nàng ra Thái Bình, nhờ người cậu Thượng Tá Công An của nàng, làm một giấy hôn thú của tôi và Chi, có đầy đủ chữ ký và khuôn dấu đỏ xác nhận của chính quyền địa phương.

Năm 1987 khi tôi được nhập quốc tịch Mỹ, tôi đã bổ túc hồ sơ bảo lãnh. Chi đã nhanh chóng được phỏng vấn. Lúc này, những trường hợp gian dối chưa xảy ra nhiều, nên việc chấp thuận cho chồng bảo lãnh vợ tương đối dễ dàng nếu có đầy đủ giấy tờ chứng minh.

Vào một ngày se lạnh ở miền Nam Cali, tôi và vài bạn bè thân quen đến đón Chi ở phi trường Los Angeles. Tôi ôm Chi vào lòng, vì quá cảm động, tôi chỉ thốt lên được một tiếng “Em!” Chi cũng vậy, nàng thổn thức trên vai tôi “Anh!”. Chỉ 2 tiếng “Anh” “Em”, nhưng đã gói trọn cuộc tình mà chúng tôi nghĩ là không bao giờ có thể sum họp được. Tạ ơn Trời Đất !

Đạo xây qua người đàn bà ngồi bên cạnh anh, và giới thiệu với tôi : “Thưa anh, đây là Chi, vợ em” Chi bẽn lẽn cúi đầu, che dấu nụ cười đã đem lại sức sống và hạnh phúc cho Đạo.

Tôi đã được nghe , được biết nhiều mối tình ly kỳ, éo le lắm. Nhưng nếu nói đến một mối tình thật lãng mạn, mà người con gái đã dám hy sinh sự nghiệp và cả tính mạng mình cho người yêu, thì không thể không nói đến mối tình của nàng Kim Chi và chàng Trung Đạo.


Bửu Uyển
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Feb/2022 lúc 10:31pm

Đôi mắt mùa Xuân

 BM

Nếu không nhờ đôi mắt ấy có lẽ tôi không bao giờ nhận ra vợ chồng người bạn trẻ, từng là ân nhân đã giúp tôi giữ được mạng sống của nhiều đồng đội và của cả chính mình, thời tôi còn lăn lộn trên chiến trường, khi lằn ranh sống chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc.

 

Cuối năm 1966, vừa rút quân ra khỏi Mật Khu Lê Hồng Phong, Phan Thiết, tôi dắt đại đội theo toàn bộ tiểu đoàn di chuyển lên Quảng Đức, tham dự một cuộc hành quân dài hạn nhằm truy lùng một đơn vị địch mới xâm nhập từ biên giới Miên-Việt. Cuộc hành quân kết thúc vài ngày trước Tết Nguyên Đán, nhưng tiểu đoàn có lệnh phải tiếp tục ở lại, biệt phái dài hạn cho Tiểu Khu Quảng Đức.  Tiểu đoàn (-) về nghỉ quân tại Đạo Nghĩa, một khu dinh điền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập nhằm định cư di dân từ miền Bắc sau Hiệp Định Genève, và cũng để tạo thành một vòng đai chiến lược. Riêng đại đội tôi được “solo” xuống tăng cường cho Chi Khu Kiến Đức, một quận hầu hết dân cư là người Thượng và tương đối mất an ninh. Quận trưởng lúc ấy là một sĩ quan lớn tuổi gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người Kinh, tuy chỉ mang cấp bậc trung úy nhưng khá dày dạn, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Các sĩ quan còn lại trong Chi khu phần đông là người Thượng, gốc Bảo An đồng hóa.


BM

Note: hình trong bài là minh họa


Sau một cuộc hành quân tảo thanh chung quanh khu vực, đại đội tôi về đóng quân bên cạnh Chi khu để binh sĩ ăn Tết. Nói vậy thôi, chứ lính đánh giặc thì có cái gì để mà ăn Tết, ngoại trừ được ăn cơm nóng thay vì gạo sấy lương khô. Riêng tôi, được ông quận trưởng biếu cho mấy lon bia và một gói đậu xanh với đường đen để nấu chè đón giao thừa. Tôi cho ban chỉ huy đại đội và trung đội vũ khí nặng đóng quân trên ngọn đồi thấp giữa một vườn cà phê khá lớn, nằm không xa quận lỵ. Ngọn đồi chỉ là một cái chấm rất nhỏ giữa trùng điệp những vòng cao độ trên tấm bản đồ quân sự đang có trên tay tôi, nhưng đây là một vị trí có xạ trường tốt và tầm quan sát bao quát chung quanh. Mặc dù chỉ còn hai ngày nữa là Tết, tôi vẫn lệnh cho đại đội luôn trong tư thế tác chiến. Ban ngày các trung đội tảo thanh chung quanh, tối tổ chức các toán tiền đồn và phục kích theo tin tình báo của Chi Khu.

 

Phía dưới chân đồi là con đường đất và bên kia đường là ngôi trường tiểu học. Trường chỉ gồm một dãy nhà cũ kỹ, mái tôn gỉ sét phủ đầy bụi đỏ. Đang mùa mưa, cả sân trường và các con đường chung quanh đều đầy bùn đỏ, nhão nhoẹt, nên bọn tôi cũng không muốn bước vào.


BM


Buổi chiều ba mươi Tết, khi đang nằm trên võng mơ màng, hồi tưởng đến những cái Tết ngày xưa, thời còn thơ ấu ở quê nhà, bỗng tôi nghe văng vẳng tiếng đàn và tiếng hát khá hay, đặc biệt giọng hát không có chút âm hưởng gì của một người sắc tộc, tôi tò mò rủ thêm hai chú lính rảo bước xuống chân đồi, đi vào trường, tìm đến nơi phát ra tiếng hát. Khi thấy bọn tôi lấp ló ngoài cửa, một thanh niên cầm đàn bước ra cười chào mừng rỡ, mời vào phòng.


Trông anh còn rất trẻ như một thư sinh, nên tôi khá ngạc nhiên khi nghe anh tự giới thiệu mình là hiệu trưởng, và căn phòng lớn nguyên là một lớp học được sửa sang lại làm chỗ ở cho anh. Trong phòng đang có một đám học trò, toàn là người Thượng, cả nam lẫn nữ. Bọn tôi đưa tay chào và mời thầy trò cứ tiếp tục cuộc vui. Anh hiệu trưởng yêu cầu tôi hát tặng thầy trò anh một bài, nêu lý do đám học trò hồi giờ chỉ nghe có mỗi giọng hát của anh nên cũng chán.


Tôi khó từ chối, nên gật đầu nhờ anh dạo đàn rồi đứng lên hát bài “ Con Đường Mang Tên Em” , bài ruột của tôi khi ấy, vì cứ mỗi lần nghỉ quân, lính tráng thường năn nỉ “ông thầy hát bài rất tình này cho tụi em nghe để thấy đời còn lên hương một chút.” Trong những ánh mắt của các cô cậu học trò chăm chú nhìn lên, tôi bỗng lưu ý tới một đôi mắt đẹp, mở to, xanh biếc. Cô bé khoảng 14 – 15, có khuôn mặt khá xinh, mái tóc rối, màu nâu đỏ, mang nét hoang dại của núi rừng. Tiếc rằng ngày ấy không có máy ảnh, và tôi lại dốt về vẽ, nên chẳng giữ lại được hình ảnh đặc biệt của đôi mắt này, nhưng rồi nó vẫn ở mãi cùng tôi trong ký ức.


BM

https://www.youtube.com/watch?v=VmdisGzxLQE


Ông thầy giáo trẻ luôn tỏ ra mừng rỡ, vồn vã. Có lẽ từ khá lâu rồi anh mới gặp lại những người Kinh. Anh ngưng hát, bảo đám học trò phụ anh làm thịt một con gà, nấu cháo đãi bọn tôi. Tôi xin cho bọn tôi được góp phần. Tôi nhờ chú lính chạy về lấy mấy ký gạo, một xâu bia, và gói đậu xanh cùng những thỏi đường đen của ông quận mới cho. Một buổi tiệc dã chiến xem như mừng giao thừa sớm, cũng vui và cảm động. Kể từ hôm ấy, tôi trở thành bạn của anh thầy giáo hiệu trưởng, có tâm hồn nghệ sĩ và rất dễ thương này. Quê anh ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Sau khi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp anh thi vào một Khóa Sư Phạm Cấp Tốc và chỉ học một năm thì tốt nghiệp. Chờ khá lâu mà chưa tìm được chỗ dạy, hơn nữa nhà nghèo, cần phải phụ giúp mẹ già lo cho hai đứa em nhỏ đang tuổi học hành, anh tình nguyện lên “vùng cao” nhận ngôi trường này, một nơi mà ai cũng chê. Vài người được chỉ định nhưng tìm cách chạy chọt để được ở lại hay chuyển về nơi khác. Nhưng bù lại, trong cùng khóa sư phạm mới ra trường, anh là người đầu tiên được nhận chức danh hiệu trưởng, ngoài ra còn được phụ cấp thêm một số tiền “đắt đỏ, vùng cao”. Anh ở đây đã tròn một năm.  Tháng ngày gần như chỉ ở trong trường, làm bạn với đám học trò, hầu hết nói tiếng Việt chưa thông và hoàn toàn khác phong tục, tập quán.


BM


Nhưng cũng nhờ cuộc sống hiu quạnh giữa núi rừng này, lương tháng nào anh cũng còn nguyên để gởi về phụ mẹ, giúp các em ăn học. Học sinh không nhiều, có khi hai lớp khác trình độ phải dồn lại học chung. Ngoài công việc hiệu trưởng, anh còn phải dạy thêm lớp Nhì và lớp Nhất, nhưng cũng chỉ gần hai mươi học sinh được gộp lại thành một lớp. Có đứa đi học trễ, nên dù cùng lớp nhưng tuổi tác khá chênh lệch nhau.

 

Từ khi quen biết anh, lúc nào không bận hành quân, đặc biệt những dịp cuối tuần tôi đều ghé lại trường ca hát, ăn uống với anh. Dù vậy, tôi cũng cẩn trọng, không dám cho anh vào gặp tôi trong khu vực đóng quân.

 

Điều vui là lần nào ghé lại, tôi cũng gặp vài cô học trò xúm xít bên anh, giúp anh dọn phòng, nấu nướng. Trong số này có cô bé mang nét đẹp hoang dại với đôi mắt to, xanh biếc, từng làm tôi bất ngờ xao xuyến. Nhờ có thầy trò anh mà những ngày sống giữa núi rừng đất đỏ buồn hiu này trở nên thú vị. Tôi còn học được một số tiếng Ê-đê và vài tập quán khá lạ lẫm của họ. Đặc biệt khi sống gần họ, những con người hiền lành chân chất ấy, tôi cảm thấy tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng yên ả, tạm quên phía trước đang có nhiều trận chiến đẫm máu đang chờ.


BM


Một hôm, khi trời sắp tối, anh thầy giáo nhờ một người lính nhắn tôi ra gặp anh gấp. Thấy anh có vẽ bồn chồn, lo lắng, trên môi không còn nụ cười vui vẻ như trước đây, tôi ưu tư, không biết có chuyện gì. Anh kéo tôi vào trong phòng, đóng kín cửa lại, bảo nhỏ cho tôi biết là một đám Thượng cộng sẽ tổ chức pháo kích và tấn công vào khu vực đóng quân của tôi, có thể ngay trong tối hôm nay. Anh bảo chính cô bé học trò có đôi mắt đẹp ấy, vừa chạy vào cho anh biết để báo tin gấp cho tôi. Cô bé cũng tỏ ra lo lắng lắm. Một người bạn của cô có cha mẹ quen biết, dính dáng đến đám Thượng cộng này. Tôi bắt tay cám ơn rồi vội vàng trở về đại đội, lệnh cho im lặng vô tuyến và âm thầm rời khỏi vị trí, di chuyển đến đóng quân tạm tại một địa điểm khác cách đó không xa, báo cho ông Chi khu trưởng biết, để có kế hoạch đề phòng, và cho Pháo Binh một số tọa độ tiên liệu để yểm trợ khi cần thiết.


Và đúng như vậy, vào khoảng một giờ khuya hôm ấy Cộng quân đã pháo kích vào ngay vị trí Ban Chỉ Huy Đại Đội của tôi trên đỉnh đồi trong vườn cà phê, nơi tôi vừa rời khỏi, bằng hai khẩu súng cối 82 ly, bắn đi từ hai hướng. Tôi đã may mắn, kịp thay đổi phòng tuyến để đánh lừa, và có kế hoạch bao vây chúng, nhưng không hiểu vì sao chúng không tổ chức tấn công, nên đại đội tôi đã mất một dịp lập chiến công. Pháo Binh của Chi Khu phản pháo kịp thời, nhưng không hiệu quả, có lẽ không biết chính xác vị trí hai khẩu pháo của địch. Sáng hôm sau, trở lại vị trí, tôi giật mình khi thấy đạn pháo đã cày nát vị trí đóng quân của mình. Ngay chỗ tôi nằm, bây giờ trở thành mấy cái hố sâu, cỏ cây tung tóe.


BM


Tôi kể cho ông quận trưởng biết sự tình. Ông cho mời anh thầy giáo vào quận khen thưởng và đãi anh cùng bọn tôi một chầu. Nhưng anh bảo, công này không phải của anh, mà là của cô học trò người Thượng. Hôm sau, chính tôi đã mang quà của ông Quận đến kín đáo trao cho cô bé, nói nhỏ lời cám ơn, và cùng ăn uống hát hò với thầy trò suốt ngày hôm ấy.

 

Khoảng năm tháng sau, đại đội tôi có lệnh rời khỏi Kiến Đức. đến phi trường Nhơn Cơ, sáp nhập với tiểu đoàn, để được không vận về Di Linh tiếp viện cho một đơn vị Biệt Động Quân bị địch quân phục kích và đang tăng cường vây hãm. Tôi chỉ kịp ghé lại trường vài phút để vội vã chia tay anh. Tôi mang tặng anh tấm poncho-light (loại chăn đắp rất mỏng và nhẹ) của một anh Cố vấn Mỹ đã tặng tôi trước khi về nước. Anh bảo sẽ rủ đám học trò ra ngã ba, nơi đoàn xe đang chờ, để tiễn tôi đi, nhưng tôi ngăn lại, không cho, bảo là không còn nhiều thời gian và tôi cũng rất bận với đồng đội của mình.


BM


Tiểu Khu cho biết đã có một đại đội Bảo An mở đường, an ninh lộ trình, nhưng khi đoàn xe đến một ngã ba thì bị Cộng quân phục kích. Chiếc xe phía trước tôi bị giật mìn ngay chỗ đoạn đường đang sửa chữa. Tôi nhảy xuống khỏi xe vừa điều động phản công vừa gọi Pháo Binh yểm trợ và xin L-19 bao vùng. Mặc dù bất ngờ, và khoảng phân nửa một trung dội trên chiếc xe đầu bị giật mìn, bất khiển dụng, nhưng nhờ những người lính thiện chiến, can đảm, giàu kinh nghiệm, nên đại đội tôi kịp làm chủ tình hình. Khi đang đứng liên lạc tìm chiếc L-19 để hướng dẫn đến vị trí, một quả đạn súng cối rơi xuống cách tôi khoảng mấy mét, mảnh đạn đâm vào chân trái làm tôi có cảm giác tê buốt. Sau khi được anh y tá chich thuốc cầm máu, sát trùng và băng bó, tôi giao đại đội lại cho anh đại đội phó, và thay vì đi đến phi trường Nhơn Cơ, tôi được tản thương cùng các thương binh khác về bệnh viện tỉnh Quảng Đức ở Gia Nghĩa. Trưa hôm sau, Ông Chi Khu Trưởng Kiến Đức đến thăm, chở theo anh thầy giáo và cô học trò người Thượng đã từng giúp tôi một lần thoát chết trước đây. Cả hai người đã ôm chầm lấy tôi mà khóc, làm tôi cũng chạnh lòng.


BM


Sau vài ngày, tôi được chuyển tiếp xuống QYV Nguyễn Huệ, Nha Trang, ngay quê tôi, bằng loại máy bay Caribou của Úc Đại Lợi. An ủi phần nào vì được gặp lại cha tôi mỗi ngày và một số bạn bè thường xuyên đến thăm. Cái chân trái của tôi bị thương khá nặng, nhưng may mắn là không bị cưa. Tôi phải điều trị ở đây hơn ba tháng. Những ngày nằm treo cái chân băng bột cứng đơ lên thành giường, nghe những đồng đội thương binh bên cạnh rên xiết, tôi càng nhận ra mình chỉ là một thằng lính mạt hạng, năm tháng chỉ còn biết có đồng đội, súng đạn, chiến trường, và ranh giới giữa sống – chết nhiều khi còn mỏng hơn sợi tóc, thì đâu dám mơ gì đến chuyện tương lai hay công hầu khanh tướng!


Đôi lúc, nhớ tới tiếng đàn giọng hát của anh thầy giáo trẻ và nhất là đôi mắt của cô bé học trò người Thượng, tôi cũng có chút xao xuyến, chạnh lòng. Đôi mắt hồn nhiên yên ả như mặt nước hồ thu giữa núi rừng tĩnh mịch mà sao cứ làm tôi gợn sóng mãi trong lòng. Tôi viết thư thăm và báo tin về cái chân ngày một phục hồi, nhưng mãi đến khi sắp xuất viện tôi mới nhận được tấm carte-postal, chỉ viết mấy dòng, với nét chữ của hai người. Tôi bỗng nhớ tới lần cuối cùng, khi hai thầy trò đến thăm tôi tại Bệnh viện Gia Nghĩa, và đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh của tôi.

 

Sau khi xuất viện, được nghỉ hai tuần phép, tôi về quê sống bên cạnh cha tôi. Từ ngày đi lính, ngoại trừ lần về phép ra trường, đây là dịp lâu nhất tôi được ở bên cạnh cha tôi, trong gió nội hương đồng nơi tôi đã ra đời và những năm tháng lớn lên không có mẹ. Về trình diện hậu cứ ở Ban Mê Thuột, tôi lại nhận sư vụ lệnh theo học khóa tham mưu đặc biệt một tháng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Trở về đơn vị, vì cái chân còn yếu tôi không được về lại đại đội mà sang nắm Ban 3 Tiểu Đoàn (đặc tránh hành quân & huấn luyện, một phần vụ có liên quan ít nhiều tới khóa học vừa qua.)


BM


Tháng 6 năm 1970, lúc này tôi đã được điều động về Bô Chỉ Huy Trung Đoàn giữ một chức vụ khác , cả trung đoàn di chuyển lên Quảng Đức, để được tăng cường một tiểu đoàn Biệt Động Quân, và một Chi đoàn Thiết Quân Vận, thành lập Chiến Đoàn , mở cuộc hành quân khá quy mô sang địa phận Cam-Bốt. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đặt bên cạnh Phi trường Nhơn Cơ. Cuộc hành quân mang tên “ Bình-Tây III” này kết thúc sau hơn một tháng với nhiều thắng lợi. Các đơn vị thống thuộc được về nghỉ quân chung quanh khu vực, chờ phương tiện triệt thoái. Một tiểu đoàn đóng quân tại Kiến Đức, anh tiểu đoàn trưởng lại là ông anh rất thân, trước kia là đại đội trưởng đầu tiên của tôi khi tôi mới ra trường. Lính bắn được con nai, anh gọi máy bảo tôi lên nhậu với anh, nhân anh cố vấn tiểu đoàn mới nhận tiếp tế, biếu lại mấy chai whisky. Tôi mừng thầm, tuy thèm lắm. nhưng nghĩ đến rượu với thịt nai thì ít mà nhớ đến đôi mắt cô bé người Thượng lúc trước thì nhiều, tôi xin phép ông Trung Đoàn Trưởng rồi hú theo mấy chú lính hộ tống chạy lên Kiến Đức. Nhai mấy miếng thịt nai và uống vội mấy hớp rượu, tôi chạy sang ngôi trường tiểu học.


Rất vui khi bất ngờ được gặp lại anh thầy giáo và có cả cô học trò thuở trước. Nhưng điều làm tôi bất ngờ hơn là hai người bây giờ đã là vợ chồng. Một tấm ảnh cưới thật đẹp được phóng lớn treo trên vách, Căn phòng ngày xưa giờ đã được nới rộng, sửa sang và trang hoàng khá ấm cúng. Tôi ngạc nhiên reo lên mừng rỡ và ôm lấy hai người. Anh còn cho biết, bây giờ cô cũng đang là cô giáo phụ trách lớp mẫu giáo của trường.


Tôi đùa, bảo “cô học trò cưới ông thầy làm chồng mà không cho tôi biết để có quà mừng”, rồi đưa cái nón sắt tôi đang cầm trên tay bảo cô ôm trước bụng, như một ví von khi chúc cho cô sớm có bầu, “bắt được cái con” để tôi gửi bù quà. Anh chồng đưa tay chỉ cái poncho-light trên giường, bảo “bọn em vẫn đắp chung cái mền quý mà anh cho đấy chứ!” Khi chia tay, tôi ôm vai hai người và nói với anh: “Chắc bây giờ anh đã chịu nhận nơi này làm quê hương rồi phải không?” Hai vợ chồng cười. Khi nói lời chia tay, cô vợ khệ nệ cầm cái nón sắt trả lại, ngước nhìn tôi với nét xúc động, đôi mắt đẹp của ngày xưa lại khuấy động trái tim tôi. Tôi cười mà thấy lòng man mác!


BM


Trong nhiều năm bị tù tội từ Nam ra Bắc, dù cuộc sống tăm tối khốn cùng, nhưng hình ảnh của anh thầy giáo và đặc biệt đôi mắt của cô bé người Thượng thỉnh thoảng vẫn thấp thoáng từ ký ức. Tôi nghĩ chắc chắn sẽ không bao giờ còn gặp lại họ. Hơn nữa lúc ấy, dường như tôi cũng chẳng còn tha thiết tới điều gì.

 

Ra tù một thời gian ngắn, tôi cùng ông anh và một số bạn bè cùng tù tổ chức vượt biển. Tất cả quá khứ đành bỏ lại phía sau lưng, có còn chăng chỉ thấp thoáng đâu đó ở trong lòng.


BM


Mới đây tôi bất ngờ đọc được bản tin trên Facebook của một người nào đó ở trong nước, có kèm theo một clip ngắn. Bản tin với cái tựa “Người đàn bà khí khái của Dăk-Nông đã vĩnh viễn ra đi”. Đó là người đàn bà từng viết đơn gởi đi các nơi để phản đối việc chính quyền CS cho Trung Cộng khai thác bauxite và thiết lập nhà máy Aluminum ở Dăk-Nông (Tình Quảng Đức cũ). Bà cũng là người kịch liệt phản kháng khi chính quyền cưỡng chế, cướp đất đai canh tác của người Thượng, truy bức xô đuổi họ ra khỏi nương rẫy, bản làng, nơi mà họ đã từng bao đời khai phá và sống chết ở đây. Bà cùng người chồng đã từng bị đàn áp, bắt bớ, tù đày rất nhiều lần. Đặc biệt cái clip đã ghi lại hình ảnh bà cùng chồng tổ chức biểu tình vào tháng 7 năm 2016, khi đường ống từ nhà máy Alumin Nhơn Cơ của nhà thầu Chalieco Trung  Cộng  bị vỡ khiến 9,63 mét khối chất kiềm chảy ra ngoài, làm nhiễm độc trầm trọng nguồn nước và hủy hoại môi trường sống của dân chúng trong vùng.


BM


Đứng trước một rừng công an với đủ loại vũ khí trên tay, ông bà không hề nao núng, dang tay bảo vệ những người dân khốn khổ. Khi một đám công an lên đạn chĩa súng thị uy, bà bước tới, mở to đôi mắt sáng quắc đầy uất hận, thách thức. Tôi bỗng giật mình. Đôi mắt đâp mạnh vào tâm não làm tim tôi đau buốt. Tôi vừa nhận ra đó chính là đôi mắt đẹp hiền lành của cô bé học trò người Thượng ngày xưa, sau này là vợ anh thầy giáo mà tôi hằng quý mến. Họ đã từng cứu tôi cùng đồng đội của tôi một lần thoát chết. Và cũng chính từ đôi mắt đẹp này đã nhỏ những giọt nước mắt ân tình xuống giường bệnh tôi nằm, sau một lần tôi bị thương ở Quảng Đức, đúng 55 năm về trước. Zoom lớn cái clip trên màn ảnh computer, tôi xem thật kỹ lại một vài lần nữa để nhận rõ khuôn mặt và nhất là đôi mắt của cô nàng, mặc dù bây giờ ánh mắt ấy đã không còn hồn nhiên như mặt nước hồ thu thuở trước. Sau đó tôi cũng nhận ra người chồng, anh hiệu trưởng trẻ tuổi, dễ thương, đàn và hát rất hay ngày trước. Bây giờ cả hai đều già đi nhiều, tóc đã hoa râm và gầy gò hơn trước. Người viết bản tin cũng cho biết anh chồng đã chết trước đó gần hai năm, sau nhiều ngày bị đày ải, tra tấn trong tù. Giờ thì hai người đã gặp lại nhau ở chốn bình an vĩnh cửu.


BM


Từ nay, tôi sẽ mãi mãi không bao giờ còn nhìn thấy hai người trên thế gian này, nhưng bóng dáng của họ và nhất là đôi mắt của cô bé người Thượng năm nào sẽ không bao giờ rời khỏi ký ức và trái tim tôi. Đôi mắt đã để lại trong tôi biết bao tiếc thương, cùng cả niềm tin yêu và hy vọng. Đôi mắt của mùa Xuân.


image

https://www.youtube.com/watch?v=-sp5rar2HHk

 

 

 

Phạm Tín An Ninh
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Feb/2022 lúc 9:39am

Kỷ Yếu Một "H.O" 

 

Cha Mẹ tôi vốn là phú nông, còn buôn bán thêm từ Huế ra Vinh. 

Hồi nhỏ, tôi học trường Don Bosco tại Quảng Trạch -  Quảng Bình, do các Cha và các Thầy dòng dạy. 

Tháng Bảy 1954, hiệp định Genève ngừng bắn, gia đình tôi Di cư vào Nam lập nghiệp tại Kim Long - Huế. 

Vào Nam tôi học các trường Nguyễn Công Trứ - Phan Thanh Giản 

- Sao Mai. 

Ra trường đi làm và tự lập. 

Năm 1959, Cha Mẹ từ Huế vào cưới vợ cho tôi tại Ðà Nẵng.

Ðến năm 23 tuổi, tôi được động viên học khóa 12 Trần Hưng Ðạo - Sĩ quan Thủ Ðức. 

Tháng Tám 1960 ra trường với cấp bậc Chuẩn úy. 

Ðược tuyển chọn một trong số 10 người trên 1250 sinh viên, về ngành An Ninh Quân Ðội ANQĐ - Bộ Quốc Phòng. 

Ðậu thủ khoa trên 25 Sĩ quan và trên 100 Hạ sĩ quan, tôi được Ðại tá Ðỗ Mậu - Giám đốc Nha ANQÐ - Bộ Quốc Phòng, sau là Thiếu tướng thông tin, trao bằng Danh dự cùng quà tặng trước sự hiện diện của Quân nhân, gia đình binh sĩ và ban Văn nghệ bậc nhất thời bấy giờ.

Ra trường, tôi được Ðại úy Dương Tiến, sau là Trung tá Chánh Sở I ANQÐ, giới thiệu về làm việc ở Sở I ANQÐ. 

Tôi được chỉ định làm Trưởng Ban I/ Phòng Nhân viên, theo dõi điều chỉnh hồ sơ, vẽ sơ đồ.. 

Sau một thời gian, tôi nhận được công điện thuyên chuyển về cục ANQÐ tại Saigon, được “bố trí” trưởng ban I, phòng bảo vệ do Ðại úy Phạm Thành Kiếm làm Trưởng phòng. 

Tại Cục ANQÐ, tôi được yêu cầu huấn luyện cho Sĩ quan, Hạ sĩ quan về đề tài bảo vệ Cơ sở. 

Sau đó lại được hoán đổi về Sở I ANQÐ tại Ðà Nẵng, Sở yêu cầu tôi tổ chức liên tục các khóa An ninh căn bản cho Sĩ quan, Hạ sĩ quan An ninh trong đơn vị, trong số học viên khóa tu bổ tại Ðà Nẵng có Trung tá Tài là cấp bậc lớn nhất. 

Mỗi khóa học một tháng, số học viên từ 40 đến 50 người, bằng cấp do Trung tá chánh Sở ký, với kiến thị của Trung tướng Tư lịnh Quân đoàn I. 

Sau đó tôi được theo học hai khóa cấp I và cấp II tình báo tại trường Quân báo Cây Mai, rồi Du học tại trường phản tình báo Okinawa - Nhật Bản, tốt nghiệp hạng ưu.

Ðại tá Chu Văn Sáng về làm Chánh Sở I ANQÐ, gia đình tôi được cho ở trong dãy nhà Sĩ quan tại sở. 

Trong 17 năm làm việc tại Sở I ANQÐ, tôi đã giữ các chức vụ: 

Phụ tá Trưởng ty ANQÐ Quảng Trị, phụ tá Trưởng Phòng An Ninh Quân đoàn cho Thiếu tá Hồ Văn Thống, Trưởng phòng Ban Khai Thác, Chánh văn phòng. 

Ngày 1 tháng 3, Ðại tá Sáng vào Nha Trang nhận chức Chánh Sở II ANQÐ, tôi vào nhận chức Trưởng chi ANQÐ Ninh Hòa. 

Sau đó tôi làm Trưởng ban phản tình báo Cam Ranh - Khánh Hoà cho tới ngày “mất nước”, thầy trò dắt nhau đi ở tù “cải tạo.”

Sau 30/4/1975, vợ và các con tôi không nhà, không nơi nương tựa phải đi “kinh tế mới”. 

Mấy mẹ con lên kinh tế mới được một năm thì vợ tôi bị bịnh sốt rét, và qua đời tại bịnh viện Khánh Hòa. 

Cha Mẹ tôi đưa xác về chôn cất tại Cam Ranh. 

Một người vợ hiền lành, mảnh mai, lâm cảnh cơ hàn, chết bơ vơ trong cảnh đổi đời. 

Các con mồ côi, đào bới đất đá nơi núi rừng mà sống. 

Còn tôi trong trại tù, lao động cực khổ, sắn ăn cầm hơi. Tôi lãnh “ba nhiệm kỳ”, chín năm tù, ra trại bị quản chế tại kinh tế mới ở Khánh Hòa ba năm.

Ở trại tù miền Bắc, tôi được cho đi làm ngoài, toán sáu người đi chặt nứa. Anh em lo chặc nứa phần của tôi, để tôi vào nhà dân mua bán đổi chác giùm anh em. Anh em đưa áo quần cho tôi nhờ đổi con gà luộc hoặc ký đường cát. 

Nhờ vậy mà mỗi ngày tôi có điều kiện luộc sắn cho anh em ăn, còn đem về trại cho một hai anh em bạn thân khác, trong số có người bạn quê Lệ Thủy là ưu tiên. 

Về sau, hắn đổi qua láng khác, tôi vẫn cho đồ ăn, nhưng hắn ghen tỵ nên báo cáo để cán bộ bắt quả tang. 

Thật ra, mua bán đổi chác chỉ nhốt năm ba bữa, nhưng tôi bị xui là buổi sinh hoạt đêm qua, tôi phát biểu về mánh khóe bớt xén gạo nhà bếp của Thượng úy Tẩu làm hậu cần, quê ở Quảng Nam. 

Tên này, do tôi tố cáo với Thượng úy Huệ, Sĩ quan thanh tra liên trại, nên bị sa thải tại chỗ. Tuy nhiên đêm trước đó, hắn đã ra lệnh nhốt tôi phòng cách biệt, phòng cách biệt rộng khoảng 1 thước vuông, làm bằng nứa, đổ đất ở giữa. 

Đêm đến hắn cho lính canh vào đánh tôi, may là tụi lính canh thương hại nên chỉ đánh đá vào vách tường.

Tuần đầu tôi bị nhốt, do Trung sĩ Phát trông coi rất dễ chịu. Tuần thứ hai, tên Trung sĩ Minh đổi toán thay cho Trung sĩ Phát. Bàn giao xong, tên Trung sĩ Minh đi một mình xuống trại giam, bắt trói hai tay tôi ra sau, vào cột nhà. 

Hắn đánh đập vào đầu, đá vào ngực tôi liên tục nhiều giờ. 

Biết tên này hung dữ, lỡ đánh chết mình thì oan, hắn mang lòng thù oán vì có hai người anh tử trận ở miền Nam, tôi giả vờ nói:

“Qua một tuần lễ suy nghĩ, tôi biết việc làm sai trái, cán bộ để tôi cung khai, cả người mua lẫn người bán”. 

Hắn tin, đưa tôi lên bàn ăn ngoài láng, đưa bút giấy cho tôi khai. Hắn giao cho tên Ngọc là Tàu lai đứng trên chòi, canh chừng tôi. Hết giờ làm việc, tên Ngọc quay mặt ra ngoài, chậm rãi đánh kiểng. 

Đây là giờ khởi sự cho việc trốn trại của tôi. 

Tôi vội chạy vào trại thay bộ đồ đi rừng, chụp cái nón lá, đạp hàng rào ra ngoài, rồi lẻn quay ngược lên khu vệ binh riêng biệt cạnh trại để trốn. 

Bọn chúng không ngờ tôi còn ở trong trại, nên rải quân hàng ngang từ lính chí quan, lần lượt từ đồi sắn này đến đồi sắn khác, cán bộ dùng loa kêu gọi bảo lãnh tánh mạng cho tôi. 

Ðến khoảng 2 giờ, mệt lả, đói bụng, chúng kéo nhau về.

Tôi xuống đồi, đến nhà anh Triệu Mai Tân, vợ anh người Tày tên Nghĩa. Anh cho tôi bộ bà ba đen, một dao phay và một cái nón cối. Trước giờ chia tay, tôi nhờ anh lên đồi đốn cho năm cây nứa cỡ bằng cườm chân để vượt hồ Thác Bà rộng chừng hai cây số. 

Trời tối đen, tôi vượt hồ Thác Bà. 

Ra giữa hồ tôi phải tránh né những bè mảng của dân câu cá. Trong lúc đó, trại cũng cho đốt đuốc truy lùng. 

Tôi lên núi, đi bốn ngày đêm, ăn sắn tươi, bắp sống. 

Công an, du kích, dân làng các xóm truy lùng tôi ngày đêm. Khi họ cầm đèn bão, bao vây chỉ còn cách nơi tôi trốn khoảng 50 mét, tôi biết mình sẽ bị bắt và sẽ bị đánh đến chết, tôi đọc kinh cầu nguyện dọn mình chịu chết. Bỗng trời đổ cơn mưa gió dữ dội, chịu không nổi vừa mưa gió vừa lạnh, nên họ từ từ rút dần xuống đồi. 

Cảm tạ ơn Chúa, Mẹ đã cho tôi thoát chết.

Qua một ngày lội theo ven suối, vào khoảng sáu giờ chiều, tôi vào trình diện liên trại. Tôi được mấy ông Trung tá, Thiếu tá ở liên trại chỉ thị nhà bếp cho tôi một dĩa cơm. 

Ăn xong, Thượng úy Huệ dùng đèn pin dẫn qua cánh đồng đưa đến trại 4. Ông này lấy thêm lời khai của tôi vụ Thượng úy Tẩu bớt xén gạo nhà bếp, chi tiết do anh Châu đầu bếp cho tôi biết. 

Anh này bị lật mảng, chết đuối tại hồ Thác Bà khi mang cơm cho anh em lao động ăn trưa tại chỗ. 

Trung tá Luyện ở trại cũ mang tư trang lên cho tôi, có tên Ngọc gác cổng dẫn đi. Tên Ngọc đi lên với hy vọng đánh tôi vài báng súng. Thiếu úy Huệ ở liên trại bảo hắn ra ngoài chờ bàn giao nên tôi thoát bị đòn. 

Tôi được chuyển về trại 3 Tân Kỳ - Nghệ Tĩnh, được chỉ định làm tổ trưởng tổ chuyển vận gồm 10 người từ năm 1982. 

Đến năm 1984 tôi được thả về.

Tôi về, ở cùng các con vùng kinh tế mới làm ruộng rẫy, chặt lồ ô về chẻ hom đem ra chợ bán. 

Cuộc sống cha con khổ cực, cơm độn khoai sắn, mắm muối qua ngày. 

Tại đây, người ta tổ chức một cuộc tập trung nhân dân toàn xã, bắt tôi đọc tiểu sử. 

Trưởng công an huyện nói: 

“Tiểu sử của anh rất huy hoàng, nhưng anh sống trên xương máu của nhân dân”. 

Tôi trả lời:

 “Sống chế độ nào, phục vụ chế độ đó, chính phủ trả lương, tôi chẳng bóc lột xương máu nhân dân bao giờ”. 

Kết luận, hắn khuyên tôi hòa mình với nhân dân, xây dựng Xã hội Chủ nghĩa. 

Tôi bị trưởng Công an huyện, tù ở đảo về, coi trọng vì tôi là Sĩ quan ngành An ninh phản tình báo. Hắn buộc tôi phải ghi vào một quyển sổ những gì đã học tập, lao động, sinh hoạt hằng ngày... Trình diện, báo cáo cho Công an xã hàng tuần, Công an huyện hàng tháng, suốt ba năm.

Mấy năm sau, nhiều người lo thủ tục giấy tờ đi Mỹ diện “H.O”. 

Cái khó khăn bấy giờ của chúng tôi là tiền đâu để lo thủ tục và ở ngoài Trung xa Saigon. 

Tôi chạy đến anh em, bà con họ hàng xin xỏ vay mượn, được chừng nào thì lo chừng đó. 

Thật tình thì cha con chúng tôi cũng không hy vọng gì mấy, làm hồ sơ thì làm chứ không có đủ tiền để lo lót đến nơi đến chốn, chỉ cầu may. 

Chờ đợi mấy năm, chúng tôi nhận được giấy báo, rồi giấy phỏng vấn. Chúng tôi lại chạy vay tiền bạc vào Saigon phỏng vấn, khám sức khỏe. Cuối cùng, chúng tôi cũng tới được ngày được đi Mỹ.

Từ chốn núi rừng đói rách, đặt chân lên đất Mỹ văn minh, nhà cao, đường lớn, tâm trạng chúng tôi thật háo hức và cũng đầy âu lo. 

Gia đình tôi đến Mỹ năm 1994. 

Sau 16 năm định cư tại Hoa Kỳ, các con tôi ai cũng từ độc thân, tay trắng, nay đều đã có gia đình, con cái, nhà cửa, xe cộ. 

Cuộc sống chúng tôi mọi sự thật đầy đủ, hạnh phúc, duy chỉ có điều buồn là tôi sắp lìa xa các con cháu vì tôi bị ung thư giai đoạn cuối.

Nằm nhà thương, như cây đèn cạn dầu, tôi thở, ăn uống bằng những ống dây, không nói được lời nào đã gần hai năm nay. 

Thân xác tôi ốm yếu, nhỏ thó như một đứa con nít thiếu ăn, tinh thần yếu kém, mọi chăm sóc cá nhân đều nhờ người khác. 

Bác sĩ nói, tôi không còn sống được bao ngày nữa. 

Thế là hết một kiếp người.

Cảm tạ ơn trên đã quan phòng, che chở cho gia đình tôi bình yên. 

Cám ơn các ân nhân đã giúp cha con tôi được định cư tại Hoa Kỳ.

“H.O” - 26, viết trên giường bệnh trước khi từ giã gia đình và bằng hữu.....


Phuoc An Thy



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 19/Feb/2022 lúc 9:45am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Feb/2022 lúc 3:56pm


 Sân%20chim%20Vàm%20Hồ%20Bến%20Tre%20|%20Yong.vn


Nhạc “Ngụy” bị cấm, nhạc “cách mạng” thì cứ bao nhiêu bài đó, đàn hát hoài đến nhàm! Nhưng điều khó xử là Trực nhất quyết không đàn hoặc hát nhạc “cách mạng”! Kỳ này, nhân có phái đoàn cao cấp đến “tham quan”, cần có vài tiết mục khác lạ để buổi văn nghệ thêm khởi sắc, ông Chánh – Bố của Trực, ở tù cùng trại cải tạo với Trực – xin ban quản giáo cho phép hát nhạc ngoại quốc. Cán bộ hỏi “nhạc ngoại quốc” là nhạc gì? Ông Chánh đáp nhạc của Pháp, Anh, Mỹ. Cán bộ bảo đó là “nhạc nước ngoài”. Ông Chánh không dám cười, chỉ “dạ”. Cán bộ bảo nếu muốn như thế thì bảo ai hát bài gì, người đó phải viết lời ca ra làm ba bản để ban quản giáo bảo ba người khác nhau dịch sang tiếng Việt. Nếu cả ba lời dịch đều giống nhau, nghĩa là không có ý đồ chống phá “cách mạng” thì cán bộ sẽ chấp thuận.

Sau khi Trực viết lời ca lên ba tờ giấy khác nhau, thấy tựa đề, ông Chánh thở dài, vì hiểu Summer là mùa Hè, có nơi gọi là Hạ. Vợ của Trực tên Ngọc Hạ! Trao ba tờ giấy cho cán bộ, ông Chánh và Trực đều nghĩ rằng ban quản giáo sẽ bảo “người của cách mạng” dịch; không ngờ, ba sĩ quan “Ngụy” được gọi lên, ngồi ba nơi riêng rẽ để dịch từ tiếng Anh ra tiếng Việt tình khúc Summer's gone của Paul Anka.

Đêm trình diễn, trong hội trường được lợp bằng tranh, vách bằng cây tre, tiếng hát nồng nàn của Trực vang lên:

“Summer's gone and no songbirds are singing.

Because you're gone, gone from my arms,

gone from my lips but you're still in my heart …”

Mọi người bị tiếng ca nức nở của Trực thu hút hoàn toàn. Trong khi những sĩ quan “Ngụy” cao cấp lặng người, tưởng như được sống lại thời gian cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60, khi nhạc Mỹ và nhạc Pháp được phổ biến tràn ngập cả miền Nam thì những sĩ quan “Ngụy” trẻ lại cảm thấy não lòng; vì nhiều vị đã thầm thì “ngân nga” những lời ca ướt lệ này khi hay tin vợ tử nạn trên đường thăm nuôi hay vợ vượt biển hoặc vợ lấy cán bộ!  

Riêng Trực, theo tiếng guitar trầm trầm, đều đều trong giai điệu slow và giọng ca nghẹn ngào của chính chàng:

 

... What to do?

Oh, I'm left here just crying over you.

Oh, I'm so blue!

What can I do, now that you’re gone?...”

Trực tưởng như chàng có thể thấy lại được dòng người tuôn về Bộ Chỉ Huy Hải-Quân Vùng I Duyên Hải để tìm phương tiện di tản! Tiếng gào khóc của đoàn người khổ nạn không thể nào át được tiếng hỏa tiễn 122 ly của cộng sản Việt Nam (csVN) bắn liên tục, bắn dai dẳng, bắn điên cuồng vào đoàn người đang tìm đường lánh nạn! Trực loay hoay” tìm Ngọc Hạ; nhưng tìm không ra và chàng cứ bị sức đẩy của dòng người dồn về phía trước. Mỗi khi hỏa tiễn của csVN rơi vào khoảng nào của dòng người thì nhóm người nơi vùng đó gục xuống, tạo thành một khoảng trống với xác người bầy nhầy và máu! Nhưng chỉ vài giây sau, đoàn người lại dẫm cả lên xác người thân để chạy, hy vọng sẽ thoát được “lò sát sinh” do csVN tạo nên! Là một sĩ quan chỉ phục vụ các đơn vị tác chiến Hải-Quân, Trực không còn lạ gì với máu và xác người. Nhưng khi máu và xác người đó là của người dân không khí giới để tự vệ thì sự phẩn uất ngập cả hồn chàng! Nhưng, Trực đành bất lực, để dòng người xô đẩy…

 Nghĩ đến đây, bao nhiêu thương nhớ trào dâng ngập lòng, giọng Trực nghẹn ngào:

“…The days, they prolong now that you're gone.

My nights, they leave me blue (you're so blue).

I don't know why there are tears in my eyes.

Can it be that I'm still in love with you?...”

Khi Trực cúi chào, cả hội trường vẫn im lặng; phải vài tích tắc sau tiếng vỗ tay mới vang lên dòn dả và kéo dài cùng với nhiều tiếng “bis…bis…” từ tù nhân.

 Nơi hàng ghế đầu tiên, nhiều nhân vật quan trọng của “bên thắng cuộc” chợt xôn xao:

 -Chúng nó “hô” cái gì thế?

 Đại tá Bùi cười, vẻ mặt rất tự hào:

-Chúng nó yêu cầu hát lại hoặc hát thêm đấy.

 -Ui giời! Sao đồng chí biết?

Ông Bùi chưa kịp trả lời thì Trực nói vào micro:

 -Xin cảm ơn quý vị và các bạn. Tiếp theo đây, tôi xin trình bày ca khúc Diana cũng của Paul Anka.

Trong tiếng vỗ tay vang dội, tiếng guitar của Trực dạo Cha Cha Cha rộn rã. Nhìn Trực gật gật đầu, hai vai lắc lắc và đôi chân nhún nhảy liên hồi, tất cả cán bộ và vệ binh hiện diện đều tự thẹn về những lúc nắm tay nhau nhảy “xôn đố mì” chân đưa qua đưa lại như trẻ con nhảy “lò cò”. Cả hội “trường tre” dường như sôi động hẳn lên. Những người tù dường như quên những tháng ngày nhục nhằn, đói khổ để nhớ về khoảng thời gian tươi trẻ trong một xã hội với nền giáo dục cao và đầy nhân bản. Phải đến phân đoạn thứ hai tiếng vỗ tay mới lắng xuống và mọi người mới nghe:

“…’Cause forever I will pray

You and I will be as free as the birds up in the trees.

Oh, please stay by me, Diana…”

Sáng sớm hôm sau, Trực bị mời lên “làm việc” với ban quản giáo. Trực thầm nghĩ, có lẽ vì bài Diana chưa được dịch sang tiếng Việt để trình ban quản giáo và mấy chữ “You and I will be as free as the birds up in the trees” làm cho ban quản giáo nghĩ rằng Trực có ý tưởng phản động, muốn trốn trại. Nhưng nghĩ lại, nếu ban quản giáo hiểu tiếng Anh thì họ đã không gọi ba sĩ quan “Ngụy” dịch bài Summer’s gone! Ý nghĩ này giúp Trực yên tâm.

Bước vào phòng, Trực nhận ra ngay người ngồi sau chiếc bàn gỗ là Đại Tá Bùi – người Trực đã gặp tại nhà ông bà Chánh, sau khi Trực từ Đà Nẵng trở về bằng đường bộ. Trực gật đầu chào. Ông Bùi chào lại, chỉ chiếc ghế:

 -Anh ngồi đi, chúng ta nói chuyện.

Trực bình thản ngồi vào ghế, nhìn ông Bùi, như sẵn sàng cho những hình phạt hoặc những lời lẽ nặng nề. Ông Bùi thong thả:

 -Anh nhận ra tôi chứ?

Làm sao Trực có thể quên được buổi chiều, sau nhiều ngày theo đoàn người di tản bằng đường bộ, trên lưng cõng vu Bê – đứa con đầu lòng – Trực về đến nhà, thấy một Đại Tá csVN đang ngồi “thù lù” cạnh ông Chánh nơi mái hiên trước ngôi biệt thự của gia đình! Trong khi ông Chánh vui mừng, rối rít gọi bà Chánh thì Trực “lừ lừ” bước lên mấy bậc cấp, nhìn ông Bùi bằng ánh mắt đầy phẫn hận! Vờ như không thấy ánh nhìn của Trực, ông Chánh giới thiệu Trực với Đại Tá Bùi. Ông Bùi và Trực chỉ gật đầu chào chứ không bắt tay. Ông Chánh cố ý vừa đẩy nhẹ Trực vào nhà vừa nháy mắt với bà Chánh.

Bà Chánh theo Trực về phòng của bốn anh em trai của Trực. Bà vội gỡ tấm khăn trải giường dùng để quấn ngang lưng của Trực cho cu Bê khỏi tuột, rồi đóng cửa phòng, bế cu Bê về phòng của ông bà, dỗ cho cu Bê ngủ tiếp.

Còn lại một mình, Trực cố nhớ lại những lần ông Chánh kể chuyện với bạn hữu về thời gian Ông theo kháng chiến chống Tây, vợ con đói khổ vì Việt Minh áp dụng chính sách “bần cùng hóa nhân dân”, “tiêu thổ kháng chiến” và Việt Minh cũng quyết tâm cho những thành phần trí thức “ra rìa”.

Trong khi ông Chánh bị cấm dạy Pháp văn cho học sinh thì, mỗi tối, nhiều cán bộ vẫn kín đáo đến nhà ông Chánh học văn hóa, Pháp văn và nhạc; trong số cán bộ này có một người trẻ rất ham học, tên Bùi. Bùi rất quý ông Chánh và Bùi cũng thầm mê bà Chánh; vì, vào thời điểm đó, những thiếu phụ có văn hóa và xuất thân từ tỉnh thành – như bà Chánh – rất khó tìm tại Liên Khu V.

Bất ngờ Bùi hay tin ông Chánh trốn khỏi “vùng kháng chiến”, đưa gia đình về lại “vùng bị chiếm”. Bùi không ngạc nhiên, vì sau khi nhận rõ bản chất bóc lột, tàn ác, dối trá và dã man của Việt Minh, nhiều cán bộ – trong đó có Bùi – đã đổi danh từ “kháng chiến” thành “khiến chán” và tìm cách trốn về Thành. Bùi nghĩ, những người như ông Chánh, khi về Thành họ dễ hội nhập vào xã hội văn minh; còn Bùi, lớn lên từ nơi “cày lên sỏi đá” và chỉ với số vốn văn hóa và Pháp văn khiêm nhường nhờ ông Chánh dạy thì Bùi chỉ có thể làm “cu ly”! Thôi, chi bằng Bùi cứ theo Việt Minh, biết đâu “sống lâu lên lão làng”.

Năm 1954, Bùi tập kết ra Bắc. Thỉnh thoảng nghe Bùi “xi lô xi la” vài câu tiếng Pháp, nhiều cán bộ cao cấp nghĩ rằng Bùi thật sự có trình độ và họ đề nghị cấp Trên cho Bùi sang Nga du học. Từ đó, con đường công danh của Bùi thênh thang.

Sau 30/04/1975, nhân chuyến ghé thăm Bách – con của Đại Tá Bùi – làm trưởng Ty Công An, ông Bùi mới tìm ra ông Chánh. Bằng vào những trải nghiệm đau lòng của chính mình suốt thời gian theo cộng Sản, ông Bùi đang trách ông Chánh tại sao không tìm cách đưa gia đình di tản, thì Trực thất thểu bước vào nhà…

Bây giờ, bất ngờ gặp lại tên caVN đã ngồi “chần dần” ngang hàng với Bố mình cách nay không lâu, Trực hờ hửng đáp:

-Vâng.

-Anh có tài, giống ông Cụ anh. Tôi không muốn tài nghệ của anh bị mai một nơi xó núi này. Tôi đã đọc hồ sơ “ný nịch” của anh và biết anh dạy Anh ngữ rồi bị động viên, đúng không?

-Vâng.

-Tôi muốn tạo điều kiện để anh có cơ hội phát triển tài năng.

-Ba tôi, anh tôi, bạn tôi và tôi bị kêu gọi đi học tập cải tạo, bảo đem theo tiền ăn cho 10 ngày; nhưng đến bây giờ là bao nhiêu lần 10 ngày rồi, chúng tôi vẫn còn trong tù? Vì vậy, tiếng Việt của “cách mạng” chúng tôi không hiểu. Đại Tá vui lòng nói rõ hơn. 

-Tôi muốn đề nghị cấp trên cho anh về thành phố – dưới sự giám sát chặt chẽ của công an khu vực – để anh dạy tiếng Anh và dạy nhạc cho người của chúng tôi. Tôi cũng muốn sẽ đề nghị cấp trên xét lại để hủy bỏ vấn đề cấm đoán nhạc miền Nam và nhạc nước ngoài. 

Im lặng! Ông Bùi tiếp:

-Anh nghĩ như thế nào? 

-Nếu đó là lệnh, tôi phải vâng lời; nếu không thì… 

Trực mím môi, bỏ lững câu nói. Tâm trạng của Trực bây giờ cũng tương tự như tâm trạng của chàng vào hôm chàng gặp Đại Tá Bùi lần đầu tại nhà ông Chánh. Hôm đó, sau khi bị ông Chánh đẩy xa ông Bùi, Trực ném về phía ông Bùi ánh mắt đầy phẫn hận rồi đi thẳng vào phòng của mấy anh trai, gục đầu vào lòng bàn tay trong niềm thống khổ và phẫn uất tột cùng! Một lúc lâu vẫn không tự chế được, Trực đứng lên, vung tay đấm mạnh vào mặt kính của tủ đựng quần áo! Tiếng động lớn, tiếp theo là tiếng mảnh kính rơi khiến ông bà Chánh hốt hoảng chạy vào, thấy tay của Trực rướm máu vì vết xước của kính. Tiếng động lớn rồi nhiều tiếng “loảng xoảng” cùng thái độ của ông bà Chánh khiến ông Bùi nghĩ đến ánh nhìn “tóe lửa” của Trực lúc nãy, ông Bùi cảm biết có điều bất ổn, vội âm thầm rời nhà ông Chánh.

Nhớ ánh mắt đầy thống hận của Trực và tiếng động tại nhà ông Chánh và bây giờ nghe câu trả lời miễn cưỡng của Trực, ông Bùi có vẻ hơi “bức xúc”:

-Thì sao? Anh từ chối à? 

-Vâng! Nếu có sự lựa chọn, tôi xin được ở lại trại tù này! 

-Tại sao anh lại hành động như thế? 

Trực nhớ – sau khi ông Bùi rời nhà ông bà Chánh – ông Chánh đã giải thích với Trực rằng ông Bùi rất thất vọng khi biết đại gia đình ông bà Chánh không di tản! Ông Bùi khuyên ông Chánh nên tìm mọi cách đưa gia đình “đi đi”; ở lại, những thành phần như ông Chánh và bốn người con trai của Ông Bà sẽ bị trả thù, khốn khổ đến ba đời, sống không nổi đâu!

Lý do ông Chánh không đưa gia đình di tản vì bốn người con trai của Ông Bà bị kẹt ngoài Trung, ông Chánh không nở ra đi; nhưng ông Chánh không dám nói thật với ông Bùi mà ông Chánh lại bảo Ông không muốn di tản vì Ông còn tin tưởng và chờ đợi những người bạn thời kháng chiến – như ông Bùi – trở về! Ông Bùi cười khẩy, lắc đầu, bảo ông Chánh gặp khó khăn gì thì “niên hệ” với Bách. Ông Bùi đã có những lời nhân nghĩa như vậy; nhưng thực tế lại hoàn toàn khác. Trực đáp:

 -Tôi đã mất tất cả. Vợ tôi thất lạc khi quân của “cách mạng” nã hỏa tiễn 122 ly vào đoàn người di tản, không vũ khí tự vệ! “Cách mạng” đã tịch thu tất cả tài sản của Cha Mẹ tôi, của các anh tôi, bắt Cha, các anh tôi và tôi đi tù rồi đuổi Mẹ và các em gái của tôi đi kinh tế mới…

Ông Bùi cố giữ bình tĩnh, chận ngang:

-Những chuyện đó đã qua rồi. Hãy nhìn vào thực tế và bản thân anh xem anh cần gì? 

-Tôi chỉ còn Cha và ba người anh đang ở tù. Tôi muốn ở lại đây để cùng chia xẻ những đắng cay, cơ cực và nhục nhằn với Cha và các anh tôi. 

Ông Bùi ngạc nhiên: 

-Thế ông Chánh cũng cải tạo ở đây à? 

-Ba tôi là Trưởng Ty Công Chánh, là một công chức. Ba tôi không đích thân cầm súng bắn các ông thì Ba tôi có tội gì mà phải cải tạo? Nếu Ba tôi có cầm súng – như chúng tôi – để bắn các ông thì cũng vì các ông khởi đầu và cứ tiếp tục cuộc chiến xâm lăng miền đất mà chính phe các ông đã ký vào Hiệp Định Genève, đồng ý chia hai; rồi năm 1973, phe các ông lại ký hiệp định ngưng bắn, rồi cũng chính phe các ông vi phạm nặng nề. Thế thì tại sao gọi chúng tôi là kẻ có tội? 

-Anh giữ mồm! 

-Tôi là lính. Tôi không biết sợ. Người lính miền Nam chỉ chiến đấu cho Tổ Quốc, cho Quê Hương chứ người lính chúng tôi không bị nung náu căm hờn để “thề phanh thây uống máu quân thù”(1) chỉ với mục đích tôn vinh cá nhân ông Hồ hay đảng cộng sản! 

Biết Trực nói đúng, nhưng bản chất cộng sản bừng lên, ông Bùi đập bàn, quát: 

-Anh dám xúc phạm đến Bác và Đảng! Quỳ xuống, nhìn ảnh Bác mà xin lỗi! 

Trực nhìn ông Bùi cũng với ánh nhìn “tóe lửa” như khi chàng thấy ông Bùi lần đầu tại nhà ông Chánh: 

-Tôi chỉ quỳ một lần – trong lễ mãn khóa sĩ quan Hải-Quân – để thề trung thành với Tổ Quốc thôi! 

-Mày có quỳ hay không thì bảo? 

-Tôi không quỳ! 

Ông Bùi đập bàn, quát: 

-Vệ binh! 

Vệ binh bước vào. Ông Bùi vừa đứng lên vừa bảo: 

-“Xử ný” nó!

******

Sau khi trôi dạt từ Đà Nẵng vào Phú Quốc, rồi từ Phú Quốc đến Guam, trở về bằng thương thuyền Việt Nam Thương Tín, vào tù – ngắn hạn – và mãn tù, Ngọc Hạ tần ngần, đứng trước ngôi nhà mà đám cưới của nàng và Trực được tổ chức rất trang trọng sau khi nàng tốt nghiệp đại học sư phạm. Nghĩ rằng có thể Trực và cu Bê đã trở về đây, nhưng sao Ngọc Hạ lại cảm thấy xa lạ quá! Nhìn quanh hàng xóm, nàng không thấy một người quen! Giữa khi Ngọc Hạ bơ vơ, chưa biết phải làm gì thì một người đàn ông trẻ, từ trong nhà bước ra, hỏi: 

-Chị cần gì? 

-Ông làm ơn cho biết ông bà Chánh còn ở đây không? 

-Chị “nà” gì của cụ Chánh? 

-Dạ, là dâu ạ! 

-Thế thì mời chị vào. Cụ Chánh và Bố tôi là bạn xưa đấy. Tôi tên Bách. 

Câu nói của Bách làm Ngọc Hạ yên lòng. Bách mở cổng, Ngọc Hạ vừa theo vào vừa đáp: 

-Tôi tên Ngọc Hạ ạ! 

Vẫn màu sơn ấy, vẫn bộ xa lông ấy, vẫn bộ bàn ăn bằng gỗ lim ấy, vẫn chiếc TV nơi góc phòng và máy nghe nhạc hiệu Sony nơi góc đối diện, nhưng gia đình Trực và cu Bê ở đâu? Bách cho biết, mọi người đi đâu Bách không biết. Bách chỉ biết Bách được “nhà nước” cấp cho ngôi nhà này! 

Nhìn ra cửa, thấy màn đêm đang kéo về, Ngọc Hạ khóc; vì nàng không biết sẽ làm gì và tá túc nơi đâu! Bách nhỏ nhẹ an ủi: 

-Chị bình tĩnh. Mọi việc sẽ “ổn” thôi, vì có “cách mạng” “no”! 

Ngọc Hạ vẫn im lặng, quẹt nước mắt

Từ ngày vào Nam, thấy đa số phụ nữ miền Nam xinh đẹp, tươi thắm, có học vấn và nhất là trông hiền lành, đạo đức chứ không chua ngoa, đanh đá như những “cán bộ gái” mà Đảng đã kết hợp để đảng viên hoặc cán bộ “quản lý”, Bách cứ dùng dằng, chưa muốn đem vợ con vào. Bây giờ, bất ngờ thấy một thiếu phụ trẻ, đẹp, trong tình cảnh khốn cùng, lòng Bách nảy sinh ý tưởng … 

Trong khi Ngọc Hạ thút thít khóc, Bách ngõ lời an ủi

-Chuyện đâu còn có đó, không nên quá buồn phiền. 

Thái độ từ tốn, tử tế của Bách làm Ngọc Hạ hơi yên lòng, hỏi về bốn người con trai của ông bà Chánh. Bách bảo bây giờ đất nước “giải phóng” rồi, “cách mạng” kêu gọi quân đội Saigon tụ họp lại để “cách mạng” truyền đạt “ý tưởng cách mạng và tư tưởng bác Hồ”, trong thời gian ngắn thôi, không có gì phải lo lắng; ngoài ra, “cách mạng” cũng đã ân cần chăm sóc thân nhân của quân đội Saigon bằng cách chuyển họ về sống gần với thiên nhiên, có cuộc sống tự túc, tốt đẹp. Ngọc Hạ lại hỏi làm thế nào để tìm ra ông Chánh và các con của ông bà Chánh? Bách đem ông Bùi ra khoe rồi hứa sẽ nhờ ông Bùi tìm giùm. Ngọc Hạ muốn tìm con, vội hỏi làm thế nào để biết vùng nào mà gia đình bà Chánh dời đến? Bách bảo Bách không biết nhưng sẽ cố giúp. Nhận thấy Ngọc Hạ có vẻ tin tưởng, Bách mời nàng dùng cơm tối. Thấy Bách không sàm sở gì, lại nghe Bố của Bách là bạn của ông Chánh, Ngọc Hạ cảm ơn và theo Bách qua bàn ăn. 

Nhìn Ngọc Hạ ăn uống và nói chuyện rất từ tốn, lễ độ, Bách thầm nhủ: Thảo nào những thằng cán bộ vào Nam đều cố chinh phục vợ của sĩ quan “Ngụy”! 

Vừa và được vài miếng cơm, Ngọc Hạ thấy một người đàn ông cao tuổi bước vào. Bách vui mừng, đứng lên: 

-Ơ kìa, Bố! Bố đi đâu… 

Bách chưa dứt câu, chợt nhận ra ánh mắt tò mò của ông Bùi liết nhanh về phía Ngọc Hạ. Bách cười, nháy mắt: 

-Bố dùng cơm chưa? Con vừa mới ngồi vào thôi. Mời Bố cùng ăn với chúng con cho vui. Đây “nà” Ngọc Hạ, con mới quen. 

Trong khi Bách quay ra sau, bảo osin lấy thêm chén đũa, ông Bùi ngồi vào ghế, gật đầu chào Ngọc Hạ. Ngọc Hạ hơi nhổm người lên, chào lại. Ông Bùi thầm nghĩ, thằng này “gớm” thật, mới đó mà hắn tìm đâu ra “con bé” xinh gái mà lại trông lành thế này! 

Trong bữa ăn, vì những điều xảy ra tại trại cải tạo Nghĩa Phú làm ông bị “bức xúc” từ hôm qua đến nay, lòng cảm thấy bất nhẫn, ông Bùi cứ lầm lỳ ăn, nét mặt đăm chiêu. Nhận ra thái độ của ông Bùi và cũng vì cố tình không muốn ông Bùi biết Ngọc Hạ là dâu của ông bà Chánh – vì ngại ông Bùi sẽ ngăn cản ý đồ riêng của  bách – Bách hỏi: 

-Bố có gì khó nghĩ, phải không? 

-Cũng chả có gì! Một thằng thì quá bướng… Ừ, mà tại sao đa số bọn sĩ quan của “Ngụy” đều bướng và chả biết sợ, nhẩy! 

Bách nhìn ông Bùi, chẳng hiểu gì cả. Ông Bùi tiếp: 

-Mấy thằng vệ binh của mình cũng dã man thật, hễ được dịp “nà” bọn vệ binh trả thù! Bảo chúng nó “xử ný” thôi, thế mà chúng nó đánh chết con người ta! 

-Con ai thế, Bố? 

-Con của người bạn thời kháng chiến với Bố, thế mới tội! 

-Con của cụ Chánh à, Bố? 

Ngọc Hạ giật mình, ngưng nhai, trố mắt nhìn ông Bùi. Ông Bùi khẻ gật đầu. Bách xúc động về tình cảnh gia đình của chủ ngôi biệt thự mà chàng đang chiếm ngụ, tò mò hỏi tiếp: 

-Thế bốn thằng con của cụ Chánh thì thằng nào bị vệ binh đánh chết, Bố?

-Thằng Trực Hải-Quân đấy! 

Ngọc Hạ hét lên, vất chén đũa, tung ghế chạy ra đường. Bách chạy theo trước ánh mắt ngỡ ngàng của ông Bùi.

******

 Nhiều người lên Tháp Bà xin xăm cho những chuyến vượt biên đều thấy một thiếu phụ trẻ, gầy gò, áo quần rách rưới, thường ngồi trên tảng đá hát nghêu ngao, không đầu không đuôi, từ bài này bắt sang bài khác:

“Giặc từ miền Bắc vô đây,

bàn tay dính máu đồng bào.

Giặc từ miền Bắc vô đây,

 bàn tay vấy máu anh em…

Hận thù đó chất cao trong lòng người! …”(2)

Trẻ em gọi thiếu phụ này là bà Điên. Khi người nào đến gần, cử chỉ thân thiện hay cho tiền hoặc bánh trái, bà Điên đều hỏi:  

-Biết anh Trực chôn ở đâu không?  

Ban ngày bà Điên chỉ hỏi câu đó. Nhưng khi đêm về, nhìn dòng sông Cái xuôi ra biển, bà Điên chợt nhớ khoảng không gian bao la của biển khơi vào những đêm dài trên thương thuyền Việt-Nam Thương Tín từ Guam trở về. Những đêm đó, thương con, nhớ chồng, Bà Điên vừa quẹt nước mắt vừa “ngân nga” những lời tình tự:

 “…Lonely rivers flow to the sea, to the sea, …

Lonely rivers sigh ‘Wait for me, wait for me’.

I'll be coming home, wait for me…” (3). 

Nghe báo cáo, nhóm công an lên bắt bà Điên, còng tay. Bà Điên vẫn cười, hỏi:

-Biết anh Trực chôn ở đâu không?

Đám công an nạt:

-Địt mẹ, câm mồm!

Khi bị dẫn ngang nhiều người lớn và trẻ em tò mò đứng dọc theo bậc cấp dẫn xuống đường, bà Điên vẫn cười và hát.

“…Người Việt Nam quên nòi giống.

Một ngục tù nuôi da vàng.

Người Việt nằm nhớ nước non…” (4).

 Vì bà Điên thường hát tới hát lui bài này, đám trẻ con thuộc. Thấy bà Điên bị tống vào xe, người lớn thở dài xót thương trong khi đám trẻ con hát vang:

“Một người già trong công viên.

Một người điên trong thành phố.

Một người nằm không hơi thở…” (5).  

Chiếc xe vừa nổ máy, những người tò mò thấy bà Điên cố nhoài người ra, vừa cười vừa hát:

“…Một ngục tù trên quê hương.

Người Việt Nam quên nòi giống.

Người từng ngày xây uất hận.

Rồi hình hài khuất núi non!...(6).

Bà Điên vừa hát đến đây, mọi người thấy một bàn tay bụm miệng Bà và một bàn tay khác nắm tóc Bà, ghì xuống!...

ĐIỆP MỸ LINH

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Feb/2022 lúc 4:07pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Feb/2022 lúc 6:45pm

Một Thoáng Thiên Thu

 10.000%20tỷ%20khôi%20phục%20đường%20sắt%20Tháp%20Chàm%20-%20Đà%20Lạt:%20Có%20khả%20thi?

Xin Vinh Danh các bà vợ, các người yêu và gia đình đã yêu thương và mang hy vọng đến cho các tù cải tạo qua những năm tháng đen tối của đời người                           

V. Chánh 

*****        

Chỉ vài tháng sau lần thăm nuôi duy nhất kể từ ngày bước chân vào trại cải tạo, và ngay sau Tết 1977, nhiều nhóm tù ở trong trại Xuân Lộc chúng tôi được sàng lọc, phân loại, rồi bất ngờ bị chở đi giữa đêm khuya. Riêng nhóm chúng tôi khoảng chưa đến 40 người được tập trung cũng vào nửa đêm, đưa lên một xe bịt bùng chở đến một khu rừng hoang dã rộng lớn.

Trong nhiều ngày kế tiếp, lán trại chúng tôi tiếp nhận nhiều toán tù cải tạo từ nhiều trại tập trung khác chở dồn đến, toán đến trước trộn chung với các toán đến sau, lập thành 10 đội.     

Mỗi đội có 50 người, chia làm 10 tổ, ở chung trong một căn nhà dài do đội tự cất lấy theo mẫu chỉ định. Tổ chúng tôi có 5 người, gồm một giáo sư biệt phái, một dược sĩ, 2 nha sĩ độc thân cùng một lớp và cùng một khóa trưng tập, và một bác sĩ, là tôi. Bốn người kia sinh trưởng từ Miền Nam, chỉ một mình tôi trọ trẹ tiếng Huế. Bốn người kia thuộc Bộ Binh, tôi lại của Nhảy Dù. Nhìn quanh cả đội, có lẽ tôi là đứa “ác ôn” nhất, nhưng không vì thế mà các bạn trong tổ “né” hay lạnh nhạt với tôi. Ngược lại, theo thời gian, chúng tôi liên hệ với nhau rất mật thiết, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, người này sẵn sàng choàng qua làm giùm công việc cho người khác, nấu nướng cho nhau, chuyện trò tâm sự cùng nhau…

Lán trại của chúng tôi nằm sâu trong rừng, cách con đường xe lửa khoảng một cây số. Một lán trại tù tương tự nằm phía bên kia đường sắt, đối diện với lán chúng tôi. Những khi đi lao động tự giác, như để cắt tranh, chặt tre, đốn cây, làm rẫy, chúng tôi đều bước dọc theo con đường rầy xe lửa, ngang qua một trạm ga nhỏ mang tên Ga Trảng Táo (*) trước khi tiến vào một cánh rừng ở xa hơn và rộng lớn hơn. Càng về sau, những chuyến đi càng ít có hoặc không có lính cảnh vệ đi kèm theo ra bên ngoài trại. Rất nhiều lần, chúng tôi gặp những chuyến tàu chợ chạy ngang, nhiều gói bánh cốm của bá tánh quăng xuống cho tù cải tạo chia nhau ăn. Có một lần tổ chúng tôi nhận được cả chục cây cà rem khi đang còn ì ạch gánh tranh gần con đường sắt. Phải nói là thần tiên khi mút được một cây cà rem mát lạnh giữa nắng trưa trong lúc người ướt cả mồ hôi.

Nương theo bìa rừng, cách đường xe lửa khoảng ba bốn trăm thước hay vào sâu hơn bên trong, thỉnh thoảng chúng tôi bắt gặp một vài bạn tù cải tạo được vợ lén tìm thăm. Không biết họ liên lạc với nhau như thế nào mà hay vậy, tôi tự hỏi. Một đôi khi, chính các anh em chúng tôi được nhờ vả canh me cho các cặp vợ chồng ấy để họ an tâm gặp gỡ, tâm tình. Chúng tôi thường tình nguyện đi chặt tre, cắt tranh thế cho phần của các bạn may mắn đó để họ có thêm được thì giờ riêng tư bên vợ hay người yêu. Các chị thường hẹn hò rủ nhau đi từng nhóm nhỏ hai ba người. Đi cầu may, không chắc gì sẽ gặp hay kiếm được người mình muốn tìm. Dù không gặp gỡ được, rất ít khi các chị nhờ chúng tôi trao giùm quà lại cho chồng. Phần chúng tôi cũng né tránh chuyện nguy hiểm đó, vì quản giáo trong trại thường xuyên lục soát chúng tôi trong những lần điểm danh khi về đến trại.

Sau giờ lao động, trong những lúc rảnh rỗi, cùng với cả trăm bạn tù khác, năm anh em chúng tôi thường hay đứng xa xa, chờ chuyến xe lửa cuối ngày từ hướng Phan Thiết về Sài Gòn đi qua, nhìn cảnh các cô các bà trên xe lửa thảy các gói quà xuống cho thân nhân của họ hay cho các tù nhân đang đứng dọc theo đường xe lửa. Hiện tượng này ngày càng xẩy ra nhiều và khó cấm cản được. Chính nhờ một chút liên hệ với thế giới bên ngoài, dù vẫn có khoảng cách, phần nào đã giúp các bạn tù bớt căng thẳng vì cảnh chim lồng cá chậu, quên đi nỗi nhọc nhằn của lao động cùng cực.

Được tập trung với hành trang đủ cho 7 ngày, để rồi không biết đi về đâu và không biết ngày về, ngoài chuyện thương nhớ gia đình, lo âu cho vợ con không biết xoay xở trong cuộc sống mới, nỗi sợ hãi tận cùng cho mọi người cùng hoàn cảnh là bị lãng quên, bỏ rơi, phụ bạc theo thời gian. Khi niềm hy vọng đoàn tụ quá mơ hồ, những bạn tù được thân nhân lén tìm thăm, tiếp tế, là những kẻ hạnh phúc nhất đời, vì biết mình còn được yêu thương. Tuy nhiên, những gói quà nhỏ do lòng từ tâm của những người có cùng niềm đau, đôi khi gây ra cảnh giành giật hỗn độn, khiến lính cảnh vệ quát tháo ầm ĩ, lăm le bắn chỉ thiên để giải tán đám đông.

Trong một xế chiều của tháng 4, có đến gần cả trăm người đang chờ chuyến tàu hàng chạy qua. Tôi bỗng rời nhóm bạn cùng tổ và bước vội qua phía bên kia đường sắt để tránh hướng mặt trời đang gay gắt chiếu vào mắt, một điều tôi chưa hề làm trước đây vì lệnh trên cấm tù của hai lán trại qua lại chuyện trò với nhau.

Theo sau tiếng còi hú, con tàu giảm dần tốc độ vượt qua ga Trảng Táo. Nhưng khi đến gần chỗ những tù cải tạo đứng hai bên đường, tốc độ tàu tăng nhanh hơn để tránh chuyện tù cải tạo nhảy tàu trốn trại. Tiếng xình xịch, xình xịch nặng nề của con tàu và tiếng ken két của bánh xe nghiến trên đường sắt dội mạnh dần, rung động mặt đất, khiến nhịp tim tôi đập mạnh. Không tính trước và như bị con tàu hút vào, tôi thấy tôi từ từ tiến sát gần đường rầy, gần nhất từ trước đến nay, hình như chỉ cách mươi thước. Tôi bắt đầu nhìn thấy nhiều cô nhiều bà nhoài cả nửa người ra khỏi cửa sổ hay chen chúc đứng trên các thềm nối giữa các toa tàu.

Con tàu chạy ngang trước mặt tôi. Nhiều cánh tay đưa ra, nửa như vẫy chào, nửa như muốn với nắm lấy những bàn tay bên dưới. Những khuôn mặt đăm chiêu, lo lắng. Những con mắt mở lớn tìm kiếm. Những ánh mắt sáng lên khi nhìn thấy người thân. Những cái nhìn đau buồn xót xa như chia xẻ với người tù trong bộ quần áo lao động thùng thình, bạc màu, rách rưới. Có những cái miệng cười méo trong nghẹn ngào vì chợt thấy một thân hình ốm yếu hao gầy quen thuộc. Có những đôi môi mấp máy như thầm nhắn gởi bao lời. Có những bàn tay đưa lên bịt miệng để kịp ngăn tiếng khóc nức nở. Và có cả những giọt nước mắt rơi xuống, hạnh phúc lẫn chua xót trong một thoáng nhìn thấy nhau. 

Một loạt bì thư cột trong viên đá nhỏ để tránh gió thổi bay xa được quăng xuống, cùng với hàng chục gói quà to nhỏ khác nhau, kèm theo là những tiếng gọi tên thật lớn. Người đứng bên dưới chạy dọc theo đường sắt, vẫy vẫy, nói nói, cười cười với người trên tàu. Người nhanh chóng cúi lượm gói quà lẩn mất trong đám đông. Vài người chạy theo thu lượm những bức thư bỏ vào túi… Cảnh tượng cứ thế hiện ra trước mắt tôi, thực nhanh, có khi rõ ràng từng chi tiết nhỏ, có khi chợt đến chợt đi như trong một cảnh phim quay nhanh, hỗn độn.  

Chừng mươi giây nữa cái đuôi con tàu sẽ chạy ngang chỗ tôi đứng. Vừa một chớp mắt,  tôi thấy 3 cô gái có vóc dáng nhỏ nhắn đứng cạnh nhau trong khung cửa của toa tàu, nhìn chăm chú vào đám người bên dưới. Từ trong tiềm thức, tôi nhận ra dáng hình bé nhỏ và đầu tóc quen thuộc của nàng. Trời ơi, đúng là vợ của tôi, bằng xương bằng thịt, trong chiếc áo ngắn tay màu xanh da trời, bên cạnh cô em và người bạn gái. Dưới ánh sáng vàng rực của cuối ngày, chúng tôi nhìn thấy nhau trong tích tắc, kẻ ở trên tàu, người dưới đất, khoảng cách không xa nhưng tưởng như vạn dặm. Tôi la lớn giữa những tiếng kêu réo chung quang, tiếng ken két của con tàu, vừa gọi tên nàng liên tục, vừa xoay người vội vã chạy theo con tàu.

Em chồm hẳn thân hình ra phía bên ngoài, tay nắm chặt song sắt, đôi mắt mở lớn mừng rỡ như muốn thu nhận tất cả hình ảnh của chồng. Tôi đau đớn nhìn thấy em gầy gò. Đôi mắt của em, ôi con mắt đã từng nhốt hồn tôi vào trong đó, vẫn còn nét tinh anh trong sáng và đoan trang của ngày nào. Tôi bỗng cảm thấy thân hình mình nhẹ hẫng như được đôi tay thiên thần nâng đẩy, tim tôi như ngừng đập trong đê mê, bước chân tôi như đang chạy trên mây, tay tôi rộng với về nàng như thể muốn níu ôm lấy em vào lòng.

Tất cả xung quanh tôi như chậm lại, mơ hồ. Cả hai chúng tôi tròn mắt nhìn nhau trong vô tận. Chỉ có em và tôi hiện hữu trong khoảng khắc thần tiên này. Qua ánh nhìn, em gởi đến tôi thông điệp “Anh an tâm. Mọi việc ở nhà bình yên. Em yêu anh. Anh phải sống. Em sẽ chờ đợi với tất cả lòng trung tín.”

Có lẽ tôi đã chạy theo con tàu chừng mấy mươi bước, tim đập như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, rồi tôi thấy mình dừng lại. Đứng yên tại chỗ để nhìn nàng được rõ hơn khi con tàu từ từ đưa nàng xa dần tôi. Dù con mắt có đuôi, dù cái nhìn kéo dài đầy nuối tiếc, rồi cũng đến lúc mờ khuất bóng nhau. Tôi muốn em biết tôi đã yêu em đến chừng nào, tôi ước mong có cánh để bay đến bên em, ôm chặt vào lòng, truyền cho nhau sức sống. Như hiểu tôi sắp òa khóc vì quá xúc động, nàng thoáng nhẹ lắc đầu, ánh nhìn thầm nhắc nhở dặn dò đừng bao giờ bày tỏ sự yếu đuối trước kẻ hành hạ mình. Em đã cho tôi nguồn hy vọng.

Cùng lúc, em gái nàng và cô bạn hứng chí ngoắc vẫy tôi liên tục, miệng cười tươi rói. Cả hai ra dấu muốn đẩy giỏ quà xuống, nhưng có lẽ thấy nàng và tôi, vẫn mãi nhìn nhau không hề biết đến xung quanh, không có lấy một cử chỉ đồng thuận, nên cả hai cứ mãi do dự cho đến lúc không còn có cơ hội nữa.

Con tàu xa dần. Tiếng còi tàu báo hiệu sắp quẹo phải và tăng tốc độ lên dốc con đồi nhỏ đàng trước như xé lòng. Nàng vẫy tay chào tạm biệt trong giây phút phân ly. Văng vẳng tiếng khua động của các toa tàu đưa tôi về với thực tại.

Tôi lặng người trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mê, ngẩn ngơ, tâm trí hoàn toàn bị tràn ngập bởi hình ảnh của nàng. Tinh thần tôi rối loạn với cảm giác vừa diễm phúc đê mê trong hạnh ngộ, vừa cay đắng ngậm ngùi với chia ly. Thể xác như lâng lâng ngây ngất của hoan lạc, choáng váng xây xẩm như một triệu chứng mất máu. Sự tình cờ may mắn thấy mặt nhau ngày hôm nay nói lên được định mệnh ràng buộc giữa chúng tôi, làm chúng tôi càng thêm gắn bó. Chỉ trong một thoáng mà cuộc tình ngỡ như thiên thu bất tận. Chỉ một lần nhìn thấy nhau trong đớn đau là cả một ghi nhận nghìn năm không phai.Tuy xa nhau mà tình vẫn còn đầy!

Quay bước trở về hướng các bạn đứng chờ bên kia con đường sắt ở tuốt phía xa, bước chân tôi lúc đầu chậm nhưng rồi vụt nhanh dần. Trong một kích thích khó dằn lòng, tôi vội vã kể ngay chuyện vừa mới bất ngờ thấy được vợ mình đứng trên toa xe lửa cuối cùng. Nghe qua, bạn nào cũng sững sờ, quá ngạc nhiên trước câu chuyện khó tin vừa xẩy ra. Mà phải, khó tin thật, ngoại trừ đây là thiên định.

Không thể nào giải thích được vì sao bỗng nhiên trong chiều hôm nay tôi lại nhảy sang đứng phía bên kia đường sắt. Các bạn tỏ vẻ vui mừng cho tôi và không tiếc lời khen vợ tôi chịu khó lặn lội đi tìm chồng, rằng đây thật là một cuộc hạnh ngộ quá đặc biệt. Một bạn còn ý kiến nếu giỏ đồ ăn được quăng xuống, không chắc gì tôi đã lấy được vì khó chứng minh với những người lượm được cái giỏ là của mình.

Hân hoan với niềm vui bất ngờ và diệu kỳ ngoài sự tưởng tượng, cũng như muốn chia xẻ hạnh phúc vô tận của mình có được trong chiều hôm nay, tôi kéo các bạn đến ga Trảng Táo, móc hết tiền túi còn lại mua ngay 5 trứng vịt lộn đem vào trại để cùng nhau ăn mừng.

Tối hôm đó, 5 chúng tôi quây quần ngồi ăn chung với nhau, gồm đồ ăn do nhóm ẩm thực của đội phân chia cho tổ, chút cơm bo bo và chút canh bí đỏ nấu với muối, dọn chung với chút đồ ăn riêng của nhau dành dụm qua lần thăm nuôi trước. Để dành món ngon nhất cho cuối bữa, sau một vài câu mở đầu, tôi trịnh trọng đặt từng cái trứng vịt lộn vào tay mỗi bạn. Mọi người ăn một cách chậm rãi, ăn luôn cả cục mề cứng và khen trứng vịt lộn ngon quá.

Không khí vui nhộn hơn nữa, khi nhiều bạn tù khác trong đội biết tin vui của tôi đã không ngần ngại mang nước trà (nấu bằng các loại lá lấy trong rừng), cà phê (pha chế với râu bắp, trộn chung với rễ tranh và cơm cháy), vài miếng đường tán chặt nhỏ, thuốc lào...  đến chung vui với tổ chúng tôi. Một chương trình văn nghệ bỏ túi không chuẩn bị, không hẹn trước, tự nhiên thành hình trong đêm. Trong tình thân ái. Ấm cúng. Cảm động. Khó quên. Bạn nào hát cũng mở đầu bản nhạc với câu gởi tặng cho vợ hay người yêu ở nơi xa, cho các bạn tù, và cho tôi, mà các bạn bỗng gọi đùa là Dr. Zhivago, một biệt danh dính theo tôi trong thời gian kế tiếp.

Tôi ngồi nghe hát mà lòng xúc động cho thân phận. Tê tái nhớ lại giây phút nhìn thấy em. Nhớ ánh mắt, khuôn mặt, đầu tóc của em. Khi đến bản nhạc Như Cánh Vạc Bay, với đoạn “Nơi em về ngày vui không em. Nơi em về trời xanh không em. Ta nghe nghìn giọt lệ rớt xuống thành hồ nước long lanh,” tôi đã không cầm được lòng và đã khóc nức nở.

Đó là những giọt nước mắt chưa một lần đổ xuống trước đây kể từ ngày vào tù, dù qua bao nhiêu đọa đày bầm dập thể xác, qua bao nhiêu nhẫn tâm chà đạp lên nhân phẩm, qua sự chứng kiến cái chết tức tưởi của những bạn tù khác, nay được dịp vỡ bờ. Một bạn khác ngâm một bài thơ của Hàn Mạc Tử có câu “Người đi một nửa hồn tôi mất, một nửa hồn tôi bỗng dại khờ” khiến tôi lại càng xúc động mạnh và để mặc cho nước mắt tuôn trào.

Trong đêm, tôi thao thức khó ngủ, dù sau khi đọc một kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng và kinh Sáng Danh - như Măng tôi vẫn thường làm trong những lúc tuyệt vọng sau khi Ba tôi mất. Tôi cầu nguyện, thầm nhớ đến những lúc quấn quýt đắm đuối bên nàng, chuyện nàng bị sẩy thai sau khi cả chồng và cha đều đi tù.

Tôi cuộn mình như con sâu nằm trong cái vỏ ngập đầy hình ảnh và tình yêu thương của nàng, cái vỏ luôn cho tôi sức mạnh tinh thần để nâng đỡ tôi vượt qua nhọc nhằn thử thách khi nản lòng đuối sức.

Sau đó nàng còn tìm thăm lén tôi được thêm mấy lần, khi ghé nhà một người làm rẫy không quá xa lán trại, lúc tôi đang lao động ở trong rừng tranh… Khoảng 2 tháng sau khi nàng có phép thăm và ở lại đêm với chồng, tôi được thả về nhà trong đợt đầu tiên của trại vào ngày 24 tháng 8, 1977. Sau phân ly thì đến tương phùng. Cứ như thế chúng mình đã sống chết bên nhau, vượt biển đến bến bờ tự do.

Em yêu dấu, khi ở xứ người, có những lúc tâm hồn anh bị chìm đắm trong bóng tối, có những lúc anh chạy theo phù du mê muội, những lạc lối đáng trách, hình ảnh của em trên chuyến xe lửa ngang qua trại tù cải tạo đã làm anh sực tỉnh, đưa anh về lại con đường chính trực. Con đường của chúng mình, của hạnh phúc trời ban và của thứ tha.

Anh sẽ chẳng đem theo báu vật gì khi lìa đời, ngoại trừ hình ảnh của em đi tìm thăm chồng trên toa xe lửa trong ánh sáng vàng cháy của một chiều tàn. 

Qua bài viết này, xin vinh danh các bà vợ, các người yêu và gia đình đã yêu thương và mang hy vọng đến cho các tù cải tạo qua những năm tháng đen tối của đời người.

Tôi viết bài này để tặng các bạn tù học tập cùng trại L19T9, cùng đội, cùng tổ, ở Xuân Lộc với Hoàng Văn Tân (Không Quân, Oklahoma City), Hồ Xuân Tịnh (Quân Y, ở Orange, CA), Nguyễn Mạnh Trinh (nay là nhà văn, Orange County, CA), Nguyễn Trường Xuân (Bác Sĩ, CA), Đinh Văn Khai (Bác Sĩ), Nguyễn Địch Ứng (Dược Sĩ), Phạm Hậu “cà lăm” (Dược Sĩ), Phạm Văn Minh (Dược Sĩ), Bác Cảnh (Trung Úy, từ Quảng Trị chạy vào)… Và Ở Trảng Táo với  anh Ba Trí (Giáo Sư), Lâm Văn Trác (Dược Sĩ, Huntington Beach, CA), Hà Tô (Nha Sĩ), Lộc (Nha Sĩ, chết đuối năm 1978 khi công tác cho Đoàn Thanh Niên Xung Phong tại Miền Tây), anh Tôn Thất Sơn (Bác Sĩ Nhảy Dù, Na Uy), anh Nguyễn Diêu (Bác Sĩ Hải Quân, Melbourne, Úc)…

Xin thắp một nén hương cầu nguyện cho những bậc trưởng thượng, những niên trưởng cùng bao bạn tù cải tạo đã bị giam cầm khốn khổ và đã chết trong cảnh tù đày của địa ngục trần gian.

Nguyện xin Ơn Trên phù hộ cho những người đang chịu gông cùm dưới chế độ CS và mong một ngày mai tươi sáng hơn cho Việt Nam.

 

Vĩnh Chánh

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/Mar/2022 lúc 12:54am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Mar/2022 lúc 12:51am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Mar/2022 lúc 6:56am

Món Nợ Ân Tình 

Cha%20và%20con%20–%20Bức%20Tường%20–%20Harmonica%20Tab%20|%20The%20Harmonica

Tôi sang Mỹ cùng với Ba Dượng theo diện H.O - nhờ tờ khai sinh giả tôi có được qua những đồng tiền đút lót mà tôi trở thành con ruột của Ba. Cha mẹ tôi và một đứa em trai còn ở lại Việt Nam. Nhiều người rất ngạc nhiên, không hiểu vì sao mỗi khi nhắc đến gia đình ruột thịt tôi có phần lạnh nhạt trong khi tôi lại rất thương yêu và chăm sóc Ba Dượng. Thật sự, tôi thương Ba Dượng hơn cha ruột của tôi rất nhiều. Tôi không biết điều đó đúng hay sai nhưng tình cảm luôn xuất phát từ trái tim, không thể gượng ép và cũng không thể theo một khuôn mẫu đã định sẵn. Duy nhất một điều tôi có thể hiểu được là cha tôi chưa một ngày bồng ẵm tôi nhưng Ba Dượng đã nuôi nấng tôi từ thuở ấu thơ.

Khi mẹ mang thai tôi được sáu tháng thì cha đã bỏ mẹ con tôi để vào rừng, theo “Quân giải phóng”. Mẹ ở lại, một mình một thân yếu đuối với cuộc sống vất vả nghèo nàn, vừa nuôi mẹ chồng, vừa nuôi con dại. Ngay lúc ấy, Ba Dượng tôi xuất hiện. Ông là một Sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ Thành phố ông thuyên chuyển về nơi gia đình tôi đang sinh sống. Tôi không nhớ rõ những gì đã xảy ra, chỉ biết rằng đến khi bốn tuổi tôi mới có được một người mà tôi gọi bằng Ba. Ba là một người hiền lành, chân thật và rất vui tính, cởi mở. Ba chăm sóc bà nội như mẹ ruột, vì thế bà nội cũng rất thương Ba. Ngược lại, mẹ tôi không yêu Ba. Mẹ tiếp nhận Ba - một cuộc hôn nhân không giá thú - chỉ để tìm nơi nương tựa. Ba biết điều đó nhưng vẫn chấp nhận.

Năm bảy mươi lăm cha tôi bất ngờ trở về, còn Ba thì lại khăn gói vào “trại cải tạo”. Mẹ vui mừng vì sự trở về của cha bao nhiêu thì tôi lại đau lòng vì sự tù tội của Ba bấy nhiêu. Tôi không hiểu được tình cảm của mẹ. Tại sao với một người chồng hết lòng thương yêu mẹ mà trái tim bà vẫn dửng dưng? Tại sao chỉ một năm ngắn ngủi sống với cha mà tình yêu bà vẫn bền vững suốt cả chục năm hơn? Tại sao mẹ có thể chấp nhận việc cha đã có vợ khác và người vợ “đồng chí” của cha đã nghiễm nhiên trở thành vợ chính thức, còn mẹ, chỉ là một người vợ danh không chính, ngôn không thuận, để mỗi lần đến thăm, cha phải nhìn trước, ngó sau như một kẻ đang phạm tội ngoại tình. Chưa kể có lần vợ của cha còn đến nhà, mắng chửi mẹ là “dâm phụ” và cũng không cần biết bà nội tôi là ai, bà chống nạnh xỉa xói:
- Cả nhà chúng mày phải tránh xa chồng bà, không thì bà cho chết cả lũ về cái tội cấu kết với cái thằng lính ngụy đang ở tù rục xương.

Cha tôi nắm tay kéo bà vợ đi xềnh xệch trước những cặp mắt tò mò của hàng xóm. Mặt bà nội xanh như chàm, bàn tay cầm cây gậy run lên bần bật vì tức giận. Mẹ ngồi bệt xuống sàn nhà với những giọt nước mắt không ngừng tuôn chảy trên khuôn mặt lơ lơ, láo láo như người mất hồn. Tôi cũng không nhớ rõ cảm giác của mình lúc ấy ra sao nhưng hình như có một nỗi vui nào đó hiện đến rất nhanh khi tôi chợt nghĩ, đây cũng là một điều hay để giúp mẹ tôi sáng mắt ra mà nhận biết ai là người thật sự yêu thương mình. Nhưng không, mẹ tôi vẫn tối tăm quay cuồng trong mớ tình cảm hỗn độn đó dù bà nội khuyên mẹ hãy quên cha tôi đi để lo thăm nuôi Ba đang chịu tù tội, đói khát.

Phần tôi, tôi rất bất mãn trước thái độ của mẹ khi bà không có một chút quan tâm, lo lắng nào dù thật nhỏ cho cuộc sống của Ba trong cảnh khốn cùng. Mỗi lần theo cô Tư đi thăm Ba, tôi phải nói dối đủ điều về lý do tại sao mẹ vắng mặt. Dĩ nhiên, cô Tư cũng không muốn anh mình phải đau khổ - nếu biết được người vợ đầu ấp tay gối đã nhẫn tâm phủi tay, rũ bỏ tình nghĩa vợ chồng bao nhiêu năm - nên cô dặn dò tôi phải nói dối với Ba rằng mẹ đi buôn xa không về kịp, hoặc bà nội bệnh bất ngờ mẹ phải ở nhà chăm sóc.
Có lần, sau khi thăm Ba trở về, tôi hỏi mẹ bằng thái độ khó chịu:
- Ba ở tù bốn năm rồi mà sao mẹ không đi thăm Ba một lần?
Mẹ trả lời một cách thản nhiên:
- Vì mẹ không thể phản bội cha con!
Tôi tức giận:
- Mẹ không thể, nhưng mẹ đã phản bội cha rồi.
Mẹ cho rằng tôi bất hiếu vì không phân biệt ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Tôi cười chua xót:
- Con không cần biết ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Con chỉ biết Ba là người đã cực khổ nuôi nấng con từ lúc còn bé. Con chỉ biết Ba là người đã bất kể hiểm nguy, giữa đêm khuya bế con đến Bệnh viện cứu cấp khi con đau nặng. Mẹ không nói cho con biết nhưng bà nội vẫn nhắc hoài chuyện ấy.
Mẹ quay đi sau khi ném cho tôi ánh mắt giận dữ. Tôi biết mẹ không thể bỏ cha ruột của tôi, dù ông đối xử với bà tình không trọn mà nghĩa cũng chẳng tròn, nhưng ít ra bà cũng không nên rũ sạch ơn nghĩa cưu mang của Ba hơn chục năm trời.
- Mẹ hãy dẹp tình cảm qua một bên để tỉnh táo suy nghĩ xem cha đối với mẹ như thế nào. Ông đi bao nhiêu năm trời không một tin tức. Chắc trong lòng ông không hề vấn vương, thương nhớ mẹ hay nghĩ đến đứa con chưa kịp chào đời. Bằng chứng là đứa con riêng của cha nhỏ hơn con một tuổi, có nghĩa là xa mẹ chưa đầy một năm cha đã có người đàn bà khác. Rồi khi trở về đây gặp lại mẹ, đáng lẽ cha phải giải thích cho bà vợ của cha hiểu ai là người đến trước, ai là người đến sau, chứ lẽ nào cha đứng đó để chứng kiến bà ta làm hùm làm hổ với mẹ, cứ y như mẹ cướp chồng của bà ta...
Nhìn bà nội ngồi ở góc bàn sụt sùi lau nước mắt, tôi cảm thấy ân hận nên quỳ xuống cạnh bà:
- Nội à! con không muốn nói những lời làm đau lòng nội. Nhưng thật tình con không thể nào chấp nhận thái độ bạc bẽo của mẹ con. Nội thử nghĩ, nếu như ngày xưa không có Ba thì cuộc sống của gia đình mình sẽ ra sao? Nội bệnh hoạn cũng một tay Ba lo thuốc men mà không hề phân biệt rằng, đây là mẹ chồng chứ đâu phải mẹ ruột của vợ tôi. Ba nuôi nấng con từ nhỏ đến lớn không rầy la một tiếng dù con có phạm lỗi lầm. Ba thương yêu con như một đứa con ruột thịt...
- Rồi sao nữa? Cái thằng Sĩ quan ngụy đó cũng giỏi thiệt... nó dụ dỗ được mày đứng về phe nó để chống lại cha mẹ.
Cha tôi bước vào nhà, quăng cặp táp lên chiếc phản gỗ, tay đập bàn rầm rầm:
- Anh đã nói với em rồi, con bé này đã bị thằng ngụy đó đầu độc mười mấy năm không thể nào tẩy não được mà.
Tôi lùi lại, đứng sau lưng bà nội. Dù trong lòng cũng có chút nao núng, nhưng khi nghe cha xúc phạm đến Ba, tôi tức giận đến độ không còn biết sợ là gì:
- Thưa cha, cha có biết cái “thằng ngụy” xấu xa đó đã dạy con điều gì không?

Tôi cười chua chát tiếp lời:
Ông ấy đã dạy con, dù đi đâu xa cũng phải nhớ ngày giỗ của cha mà về nhà đốt nén nhang cho bà nội và mẹ vui lòng. Hồi mẹ được tin cha chết, mẹ khóc lóc, đau khổ nhưng không dám lập bàn thờ, thì chính cái “thằng ngụy” mà cha luôn miệng chửi rủa đó đã mang ảnh ba ra tiệm hình để rọi lớn, rồi đem về trịnh trọng đặt lên đầu tủ với lư hương, với chân đèn để làm bàn thờ cho cha. Nếu đêm nào mẹ lỡ quên vì bận bịu thì cũng chính “thằng ngụy” đó dù đã lên giường cũng vội vàng leo xuống để đốt nhang cho cha. Chưa bao giờ con nghe “thằng ngụy” đó nói một lời thất lễ với cha, nhưng cha thì lúc nào cũng chửi bới người ta, trong khi đáng lẽ cha phải cám ơn người đã thay cha gánh vác việc gia đình. “Thằng ngụy’ đó đã cho con thấy hình ảnh một người chồng, người cha cao thượng, nhưng cha thì sao?... cha hãy suy nghĩ lại để từ nay đừng bao giờ xúc phạm đến Ba của con.

Hình như tình thương đối với Ba đã cho tôi thêm sức mạnh và sự bình tĩnh để dõng dạc nói lên suy nghĩ của mình không chút sợ hãi. Điều đó khiến mẹ tôi lo quắn quíu:
- Con này... ma nhập nó rồi hay sao mà ăn nói bậy bạ, hỗn láo!
Mặt cha tôi như xám lại, ánh mắt ông long lên sòng sọc, đôi môi mím chặt khiến khuôn mặt ông đanh lại, hung hãn không thua gì các diễn viên đang vào vai một nhân vật phản diện độc ác. Cha đưa chân đạp chiếc ghế văng vào bàn. Ông quay lại hét vào mặt mẹ tôi:
- Em dạy dỗ con cái như thế này đây hả? Nó nói chuyện với cha nó như một phường mất dạy. Anh nói rồi... ngày nào nó còn ở trong nhà này anh sẽ không bao giờ đặt chân đến đây nữa.
Tôi nghênh mặt khiêu khích:
- Cha không cần đuổi con cũng sẽ ra khỏi nhà ngay hôm nay. Con xin nói thật... con không muốn gặp mặt người cha vô trách nhiệm, bỏ vợ, bỏ con mấy mươi năm rồi bây giờ trở lại trách vợ mình không dạy dỗ con. Cha có biết trách nhiệm dạy dỗ con thuộc về ai không?
Cái tách trà bay về phía tôi, chạm vào thành ghế bà nội đang ngồi vỡ toang. Tôi không biết nếu cái tách trúng ngay đầu bà nội thì việc gì sẽ xảy ra? Có lẽ tôi lại hứng thêm một cái tội “Tại cái con mất dạy này mới ra cớ sự!”

0ooo ||| ooo0

Sau cuộc cãi vã đó tôi thu dọn quần áo ra đi. Bà nội chạy theo níu tay tôi mếu máo dặn dò:
- Con xuống nhà cô Tư ở, đừng đi đâu bậy bạ nghe con.
Tôi cười trong nước mắt:
- Con có tư cách đến nhà cô Tư sao bà nội? Cô Tư đâu phải ruột thịt gì của con!
Mẹ đứng ngang ngạch cửa mai mỉa:
- Biết vậy là khôn đó con. Cứ đến ở thử vài ngày để xem người ta đối xử ra sao cho biết thân.

Không hiểu sao câu nói nào của mẹ cũng châm chích, cay nghiệt. Không lẽ mẹ đã quên hết những ngày cô Tư chạy đôn chạy đáo đem hàng về cho mẹ bán kiếm lời. Chẳng những thế, cô còn nhường cả khách hàng của cô cho mẹ. Ngay từ lúc Ba đến với mẹ, đâu phải cô Tư không biết tôi là con riêng của mẹ, nhưng lúc nào cô cũng đối xử với tôi ngọt ngào, thân thương như đứa cháu ruột. Mẹ không nhớ hay cố tình chối bỏ? Tôi thất vọng não nề vì cách cư xử của mẹ nên cay đắng trả lời:
- Cô Tư đối xử với con ra sao thì cả chục năm nay con đã biết rồi không cần phải thử đâu mẹ. Con nghĩ người mà con cần thử là cha đó, cả mẹ bây giờ nữa... Mẹ à! mẹ thay đổi quá nhiều... đến độ con không còn nhận ra mẹ là người con vẫn hằng yêu quý. Trời cao, đất rộng không tha thứ cho mẹ cái tội bạc đãi Ba đâu.
Tôi quay lưng đi mà không chút luyến lưu, nuối tiếc. Tội nghiệp bà nội. Bà vừa khóc vừa gọi tên tôi rồi lúc thúc chạy theo, dúi vào tay tôi một nắm tiền:
- Cầm tiền theo mà tiêu xài đi con. Ở đâu nhớ cho nội biết để nội an tâm. Có đi thăm Ba thì lấy tiền này mua một chút đồ ăn đem theo, nói nội gửi cho Ba và xin lỗi Ba dùm... nội già yếu rồi không thăm Ba con được.
Tôi ôm chặt lấy bà nội, nước mắt chan hòa.

0ooo ||| ooo0

Sau sáu năm học tập Ba được thả về. Hộ khẩu của Ba là căn nhà ngày xưa gia đình tôi đã chung sống, nhưng nay mẹ không đồng ý cho Ba vào nhà. Bà nội khóc hết nước mắt cũng không lay chuyển được quyết định của mẹ - đúng hơn là mẹ đã làm theo lệnh của cha tôi. Ông Năm hàng xóm thương Ba sa cơ thất thế, giận mẹ tôi là “Phường vong ân bội nghĩa” - cụm từ này đã thay vào tên mẹ tôi mỗi khi ông nhắc đến - ông cho Ba cất cái chái nhỏ phía sân sau của ông, sát cạnh nhà mẹ trong thời gian chưa ổn định vì hàng ngày Ba phải ra Công an phường trình diện.

Ba hoàn toàn không nói một lời trách móc mẹ. Tất cả nỗi đau Ba giấu kín trong lòng. Có lần bà nội sang thăm Ba, bà ân cần nắm tay Ba nói trong nước mắt:
- Má xin lỗi con. Má không biết phải làm sao cho đúng!
Ba cười hiền từ:
- Cũng là số phận của con thôi. Má đừng buồn!
Phải hơn nửa năm sau cô Tư mới đút lót được Công an để chuyển hộ khẩu của Ba về nhà cô. Và tôi đã có những ngày tháng vui vẻ sống bên cạnh Ba và cô Tư. Một mái gia đình đâu phải thật sự là của tôi nhưng sao tình cảm tôi nhận về quá thiết tha, sâu đậm. Cha “bắn tiếng” hăm dọa sẽ từ bỏ, không nhận tôi là con nữa. Ba khuyên tôi nên trở về xin lỗi cha mẹ, tôi nhăn mặt trách Ba:
- Con đang ở thiên đàng sao Ba lại nỡ lòng đẩy con xuống hỏa ngục. Ba hết thương con rồi phải không? Ai muốn từ con thì cứ từ... con không sợ. Con chỉ sợ Ba từ con thôi.
Đôi mắt long lanh, đỏ hoe của Ba cho tôi biết rằng Ba đang rất hạnh phúc khi biết rằng, trong lòng tôi, Ba mới thật sự là người cha tôi yêu kính.
Ngày bà nội mất Ba không đến nhưng trong căn phòng hẹp của Ba, Ba đã lập một bàn thờ nhỏ và lặng lẽ quấn vành khăn tang. Nếu mẹ đã làm tôi thất vọng vì sự bạc tình, bạc nghĩa đối với Ba thì tình cảm của Ba và bà nội làm tôi cảm động rơi nước mắt. Ba nói “Ba mồ côi từ bé, bà nội lại đối xử với Ba rất tốt, nên Ba thương bà nội như chính mẹ của mình”.

0ooo ||| ooo0

Những năm gần đây Ba mang một chứng bệnh nan y. Có lẽ, Ba sợ khi mất đi tôi sẽ bơ vơ vì không có ai là người thân thích ruột rà nơi đất khách quê người nên cứ nhắc nhở tôi trở về Việt Nam thăm “gia đình” nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều đó. Sự oán giận và ray rứt trong lòng tôi vẫn chưa nguôi ngoai dù thỉnh thoảng tôi vẫn gửi tiền về cho mẹ theo lời khuyên nhủ, nhắc nhở của Ba. Tôi muốn được ở cạnh Ba cho đến ngày cuối cùng để đền bù món nợ ân tình quá lớn mà mẹ tôi đã nợ của Ba.

Ngân Bình(FB Hannah Ha)


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 07/Mar/2022 lúc 7:01am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22255
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Mar/2022 lúc 7:03am

Người Lính Miền Nam

 
Người%20Lính%20Việt%20Nam%20Cộng%20Hòa...Tôi%20nợ%20Anh

Nói tới người lính miền Nam thì nói hoài không hết . Một nông dân  dầm sương dãi nắng hàng ngày ngoài đồng , đêm về đờn ca tài tử với chòm xóm láng giềng quanh bàn trà hay lưng xị đế . Một thanh niên phụ gia đình chăm lo mảnh vườn, mảnh rẫy, săn sóc cây trái đến mùa thu hoạch kiếm tiền nuôi sống  gia đình . Hay một thanh niên đang ngồi trong  lớp học cố gắng xây dựng tương lai  cuộc sống của mình . Hoặc cậu nhóc  cùng cha mẹ bỏ hết tất cả ngoài kia để vào Nam năm nào  nay đã là thanh niên  khoẻ mạnh biết rằng mình có cùng bổn phận  trách nhiệm bảo vệ quê hương  (mới ) như những bạn bè chung quanh . Chấp nhận chạy trốn CS cậu và gia đình đã trở thành người miền Nam ngay giây phút rời tàu há mồm đặt bước chân đầu tiên lên thủ đô Sài Gòn.

Đáng lẽ đời họ đã yên bình như thế . Đùng một cái, họ phải từ bỏ tất cả cha mẹ vợ con gia đình bè bạn lên đường cầm súng . Họ đâu  muốn như thế , họ thoải mái bằng lòng với những gì họ đang có, tự dưng phải dẹp hết để ra ngoài trận tiền  mà cơ may trở về nguyên vẹn với gia đình gần bằng con số không !! Những thanh niên này đâu có điên , nhưng họ không còn lựa chọn nào khác !!

Họ phải lên đường , không muốn cũng  cầm súng . Chưa từng cắt cổ con gà nhưng bây giờ  học cách thọc lưởi lê vào bụng địch thủ , và phải thật nhanh  nếu không chính mình là người sẽ bị đâm !!

Tại sao vậy ?? bởi vì ở phía trên vĩ tuyến 17 của Việt Nam , cầm quyền miền Bắc ( Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ) không chỉ công khai gởi quân xâm lược , khích động bọn tay sai du kích nổi lên khuấy phá ở thôn quê mà còn xúi dục bọn nằm vùng mang danh đủ thứ ( sư , cha , trí thức...) chổi dậy như những hồn ma  nhằm lật đổ một chính quyền do người dân bầu lên bằng lá phiếu của mình .

Thế là công dân  ( cả những cô thiếu nữ đẹp gái tình nguyện) từ mười tám tuổi trở lên đều buộc trưng tập vào quân đội . Thanh niên ưu tú  Việt Nam Cộng Hoà dù không muốn chiến tranh , không muốn chém giết vẫn đành để lại tất cả đằng sau lưng ( cha mẹ, vợ con , anh em ...)  ra trận . Họ lớn lên từ miền Nam được dưỡng dục bởi hạt gạo hớp nước  miền Nam, cha mẹ gia đình anh em bè bạn là người miền Nam nên  họ phải bảo vệ  tất cả  . Từ đó người lính chấp nhận  khổ ải cực nhọc băng rừng lội suối... với nhận thức mình chịu hết  cho   người thân yên hưởng một hâu phương an bình .

Cậu sinh viên ngồi trong giảng đường ngày nào giờ khoác trên mình quân phục dẫn đầu những thằng em xung phong vào đội hình của giặc . Mấy " đứa nhỏ " có đứa trước đây  làm  ruộng , có đứa mới  thi rớt , tuổi đời chỉ  mười tám mười chín . Thanh niên trai tráng miền Nam lao vào chổ chết không chần chừ chớp mắt để hậu phương được đi mua sắm , đi xem xi nê, nhẩy đầm ăn nhậu, mà không sợ VC đe dọa .

Đại đa số tình nguyện vào các binh chủng Tổng Trừ Bị . Không phải họ không biết đây là những đơn vị " Đi đông về ít , đi khít về thưa..."  xác suất  tử trận rất cao ( do đó  chỉ lấy lính tình nguyện ) , nhưng sống hùng sống mạnh  thì vẫn đáng để hãnh diện hơn là sống lâu . Chẳng ngẫu nhiên mà lính đối phương tránh né chạm trán với các đơn vị tinh nhuệ của miền Nam ,  bởi vì khoác vào quân phục của binh chủng, người lính miền Nam rất sẵn sàng thí mạng sống mình cho mầu cờ sắc áo , cho tình huynh đệ chi binh trên chiến trường . Ở đơn vị nào cũng có những gương chiến đấu  đáng nêu gương trong quân sử  thế giới . Cứ thử hỏi  " Làm sao An Lộc  đứng vững trước sức tấn công bằng đại pháo, chiến xa hung hản của quân miền Bắc khi chẳng còn gì nguyên vẹn dưới mưa đạn 130mm, 122mm? và Tống Lê Chân  cầm cự được 510 ( Năm trăm mười ) ngày bị bao vây cô lập  chỉ với quân số trên dưới 300( ba trăm !!)  Biệt Động Quân ??  "

Tinh thần chiến đấu của lính miền Nam là như thế !!.

Lính chết vẫn chết hậu phương cứ bình chân như vại . Bọn tranh đấu tiếp tục quậy tanh bành thủ đô bằng những cuộc biểu tình . Giới nhà giàu vẫn nhậu nhẹt truy hoan , giới thượng lưu vẫn nhảy đầm  nhạc trẻ ; coi như không mắc mớ dính dáng gì tới xe GMC chở quan tài chạy vòng thành phố mỗi ngày . Lính biết mình chiến đấu gian khổ là để bảo vệ những  tự do như thế ở hậu phương nên chẳng oán trách than van gì . Nhưng giá như hậu phương một lòng một dạ với tiền tuyến.....

************

Không chỉ khổ thời chiến, lính miền Nam sau 30/04/1975 còn bị trả thù một cách tàn bạo bởi nhà cầm quyền miền Bắc . VC cố tình chối bỏ , phủ nhận  đó là nguồn tài nguyên vô cùng quý báu  vì sĩ quan miền Nam  có học một cách bài bản từ văn minh thực tế Tây phương ( không i tờ kiểu  sĩ quan Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà sống lâu lên lão làng như Đồng Văn Cống , Đinh Đức Thiện...) thêm kinh nghiệm chiến đấu mà quốc gia nào trên thế giới cũng mơ ước .  Nhưng vì mặc cảm thua kém về mọi mặt ,VC đày đoạ tù binh cho bỏ ghét . (Nếu  miền Bắc khôn ngoan đã biết trọng dụng , ưu đãi  những người miền Nam mà họ coi là kẻ thù  . Mà  họ thực sự khôn ngoan thì họ đâu bị miệt thị là " ĐỐ VIỆT CỘNG !!")

Chiến binh miền Nam sống sót được qua chiến tranh cộng thêm những năm tù đày hành hạ nơi rừng sâu nước độc quả là phép lạ  nhờ ơn của Thượng Đế . Nhiều đồng đội họ bỏ xác trên quê hương  trước  và cả sau 75 ( lúc không còn tiếng súng) vì kiệt sức, vì bom đạn còn sót lại rải rác trong rừng thâm nước độc , vì tai nạn bệnh tật trong trại giam  . Trừ số được  định cư nước ngoài (H.O) , vẫn còn hàng bao nhiêu đàn em  ô đô  hay  thương binh đồng đội ngày xưa đui què sứt mẻ  (vẫn không chấp nhận mình  là " Phế" ; hàng ngày bương chải trên xe lăn , trên hai cái ghế đẩu bán từng tờ vé số , từng món đồ ngoài hè phố )

Nhìn hình lính chụp chung trong quân trường ,  gương mặt còn đậm  nét học trò nhăn răng  cười cùng thế giới, vậy mà ra đơn vị chưa bao lâu đã nằm xuống vĩnh viễn  lúc tuổi đời chưa tròn con số chẳn . Ai còn ai mất trong mấy tấm ảnh đen trắng lưu lại với đời ?

Ra trận lính nghe đạn bay vèo vèo chung quanh mình . Không có thì giờ để sợ vì bên phải bên trái đằng trước đằng sau đồng đội tràn lên như sóng biển . Chiếm mục tiêu rồi lính mới ngồi xuống thở phào rùng mình . Kiếm được phép về Sài Gòn một tuần lễ , chỉ mới ngày thứ ba lính đã cảm thấy lạc lỏng nhớ anh em giữa nơi ồn ào ,  quần là áo lượt  như trẩy hội . Lính muốn trở lại chiến trường với đồng đội,dù nguy hiểm  nhưng  cảm thấy êm đềm thân thuộc ,hơn ở giữa phố thị mà luôn luôn bị lạc lỏng dư thừa .

Người không né đạn và nếu có viên nào nhắm hướng mình bay tới thì lính hết còn cơ hội trở về . Bạn đồng đội không  thì giờ khóc thương , chỉ kịp lắc tay nhè nhẹ giã từ người chết , nuốt vội vài muổng cơm gạo sấy với muối ớt , tu  vài ngụm nước rồi chống súng xông vào mục tiêu mới theo lệnh . Được vài ngày phép , đồng đội ngồi một mình trong quán gọi chai bia ( hay nước mắt quê hương ) rót đầy hai ly mầy một tao một , đốt điếu thuốc Quân Tiếp Vụ...uống đi uống đi thằng C.C , mầy chơi không đẹp !! bỏ tao mà đi trước...  . Ba trăm ngàn Tử Sĩ nằm xuống trên  quê hương cộng hàng triệu Thương Binh là những minh chứng cho tình yêu Tổ Quốc của  LÍNH MIỀN NAM .

Một tấm hình chụp tốp  Nhảy Dù  trẻ măng cưòi toe toét trưóc ống kính , không ai già hơn hai mươi mốt tuổi . Khắc tinh của VC mà mặt hiền khô nhưng đụng chuyện rồi mới biết . Đánh nhau có thắng có thua , mà thua thì cả đơn vị tình nguyện cạo trọc  đầu chờ ngày phục hận . Vinh dự về màu cờ sắc áo chiếc mũ trên đầu đáng giá hơn mạng sống .

( Vài chuyện về lính Nhảy Dù :

1) Thằng Quyền về phép với áo bốn túi thẳng nếp , Mủ Đỏ , giày sô sáng bóng . Con nít cả xóm cứ quay chung quanh " Anh Quyền ngầu quá " .

Ngày tết " anh Quyền " và hai thằng bạn vào sạt bài cào với dân chơi xóm trên . Khi mở bài  cái được ba kẹ , ăn hết , nhưng chưa kịp vùa  thì  " anh Quyền "gom tiền trên sòng bỏ túi . Hỏi sao "anh Quyền " trả lời :

- Ba tây THUA BA THẰNG LÍNH NHẢY DÙ !!

2)Trên xe đò đi Vũng Tàu năm 1968 . Một lính Nhảy Dù bước lên xe lập tức hàng ghế ba thằng thanh niên ốm nhom ốm nhách mặc áo sơ mi có nhấn eo đứng dậy nhường chổ . Một trong ba thằng còn khúm núm hai tay chìa gói thuốc mời . Chúng nó chắc cũng thuộc loại phản chiến , cà phê đèn mờ , hút bồ đà theo thời thượng hồi đó . Chúng nó thương lính chăng ? không phải !! chúng nó sợ lính Dù nổi khùng tát cho vài cái nên lấy điểm trước . )

Lính Dù , Biệt Động , Thuỷ Quân Lục Chiến , hay dử dằn như Biệt Cách 81 , Biệt Hải thì VC e dè là phải rồi . Nhưng có một sắc lính mà họ cũng không muốn kiếm chuyện ( trừ trường hợp bất khả kháng ) là Nghĩa Quân . Trang phục vũ khí không khác VC bao nhiêu , gốc  nông dân địa phương , người Nghĩa Quân bảo vệ xóm giềng mình còn hơn con ngươi trong mắt họ . Chung quanh là cha mẹ, vợ con , chòm xóm họ biết hể VC chiếm được đồn bót chúng sẽ giết không chừa một ai . Cho nên khi chiến đấu lính Nghĩa Quân thà chết chứ không đầu hàng . VC rất ngán công đồn do Nghĩa Quân trấn đóng vì quân số chiến đấu sẽ tính luôn vợ con , những người lính không số quân bên chồng cha mình.

Còn cả chục đơn vị anh hùng của lính miền Nam mà kể hết phải cần một cuốn sách ( chẳng hạn như Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu ngày 30/04/1975 ...)

Vợ Lính :

Lính ra trận mạc đối đầu làn tên mũi đạn để hậu phương yên vui thì là chuyện tất nhiên . Và cái  " hậu phương " đó rất đáng được tuyên dương , nhớ tới

Nhiều người lính nhập ngũ chưa từng có mối tình vắt vai . Ra trận xông xáo xung phong như cọp dử nhưng chưa biết cầm tay con gái coi cảm giác như thế nào , nói gì tới chuyện " uống môi em ngọt "?

Trong vụ này thì lính rất dễ tính  . Lính cứ thấy em nào hợp nhản là rủ " Em Hai  đi uống nước mía với anh hông ? " uống nước mía rồi sẵn ghé rạp coi phim luôn cho gọn để tha hồ mà  " tìm hiểu " nhau . Vài tháng sau hai đứa thành vợ chồng gọn bân .

Mấy ông tú tài , sinh viên  đang học luật , khoa học , hoặc các trung học  tới tuổi xếp bút nghiên vào lính nay thành sĩ quan Chuẩn Uý, Thiếu Uý  . Chàng gặp nàng qua trung gian bạn bè khi nàng còn đang xách cặp táp tới trường  (Đồng Khánh ,Gia Long,  Trưng Vương , Lê Văn Duyệt các nữ trung học hay Văn Khoa , Luật Khoa…) . Thời buổi ai cũng đi lính nên nàng chẳng còn lựa chon nào khác ngoài việc " em theo chàng về camp " . Vả lại chàng coi oai hùng quá trong bộ quân phục ( quân phục lính Việt Nam Cộng Hoà bộ nào cũng đẹp ) . Biệt Động Quân cũng ngầu mà áo liền quần của Không Quân hay bộ đại lễ trắng toát của Hải Quân làm tim em mềm nhủn  . Cho nên chỉ vài tháng thả dê , em sẵn sàng nhắm mắt đưa tay mặc cho anh dẫn em đi đâu cũng được .

Chiến tranh càng leo thang , vợ lính càng dể bị đau tim vì hồi hộp . Cứ thấy xe GMC đầu ngỏ là muốn xỉu . Vợ chồng chưa kịp quen hơi thì anh đi biền biệt không thấy về . Hồi đó đâu có email , internet để em và con  nhìn thấy anh hàng ngày . Còn thư từ thì cả tháng trời hoạ may mới nhận được một cái làm sao thoả hết nổi nhớ nhung , mong đợi anh ơi .

Thấy xe  chở quan tài ngoài đường, về nhà em không ăn được chén cơm vì sợ . Và có những thiếu nữ trở thành goá bụa ở tuổi chưa tới hai mươi . Người lính tử trận thì đã đền xong nợ nước nhưng còn cha mẹ , vợ con anh ta ? bắn chết một người lính không phải chỉ giết người đó mà cả gia đình đàng sau nữa.

Những người vợ may mắn chồng bình yên tiếp tục sống trong hoang mang lo sợ bao giờ sẽ tới lượt mình ? . Họ mong chiến tranh chấm dứt để chồng con anh em trở về yên lành , tiếp tục hạnh phúc bị đứt đoạn  . Không người mẹ, người vợ nào không quỳ trước Chúa, Phật mỗi ngày van xin cho người lính ngoài mặt trân được tai qua nạn khỏi...

****************

30/04/1975  người lính có sự chọn lựa  : buông súng theo lệnh về với vợ con  , hoặc nhảy lên tàu , máy bay rời đất nước càng xa càng tốt để khỏi phải sống với VC , hoặc " tự xử " !!  hai ba người ngồi chung quanh trái lựu đạn . Có quân đội nào trên thế giới dám hành xử như những người lính miền Nam trong phút cuối ??

Chưa kịp nối lại yêu thương  chồng lại phải khăn gói quả mướp tình nguyện vào rừng sâu nước độc , chịu sự đày đoạ của kẻ thù , Trước  nay vợ lính chưa từng bương chải , dang mưa dang nắng ngoài trời . Phần lớn  phụ thuộc vào lương bổng của chồng, nay  bổng chốc vợ lính thấy mình phải phơi mặt , phơi lưng ra đường cho đến khi bán hết nồi xôi nồi bắp mới được ngã lưng  ngơi nghĩ .Coi  trong nhà còn cái đồng hồ treo tường nào chưa bị lôi xuống mang ra chợ trời, còn tấm tôn nào chưa bị lột đem  bán cho thương lái . Nhiều người chọn cách uống thuốc độc tự sát cả gia đình vì chịu hết nổi .

Vợ lính chắt mót từng đồng dành dụm chút tiền đi thăm nuôi chồng . Ông bà nội ngoại cũng góp phần chút đỉnh cho con dâu con gái đón xe lửa ra những vùng đất xa lạ tận ngoài Bắc ( mà chẳng ai thực sự biết nó ở đâu ) .Người vợ lính miền Nam cắn răng một thân môt mình lủi thủi tay xách nách mang vài kí ruốc, đường , muối ớt muối mè,  bột gạo vượt hàng ngàn cây số , bỏ con cho nội ngoại chăm sóc dùm . Tù lớn chẳng sướng gì hơn tù nhỏ , có khi còn không kiếm đủ khoai để luộc lên cho mẹ con người một miếng . Nhưng tất cả phải tập trung cho  " TÙ" . Biết bao đau lòng xãy ra khi  vợ lính đi thăm chồng mà không dám kể ra...

Nhà cửa vợ chồng dành dụm tự tay gầy dựng  nay bị quân xâm lược quyết định xung công để xử dụng hoặc bán rẻ lại cho thành phần  cách mạng  . Cha đi tù ngoài Bắc , mẹ con bị đuổi ra khỏi nơi cư trú  trắng tay, không được phép đem theo bất cứ vật dụng gì  ( tài sản giờ thuộc về nhân dân ) lôi thôi lêch thếch thành kẻ  đầu đường xó chợ. Cả miền Nam đều bị đoạ đầy như thế

Trời nhìn thấy và thấu hiểu sự oan khiên đau đớn của con cái ở phía Nam  , nên Ngài cho họ con đường sống . Thời ăn đói mặc rách đã qua , thời tù tội cũng hết nhưng những di hại của nó thì vợ lính vẫn đối diện hàng ngày . Chồng giờ đôi khi nhức nhối thân xác vì thương tích cũ hay mảnh đạn pháo trồi lên trong lòng ngực không ngủ được . Những đêm chồng  gặp ác mộng vợ phải ôm lấy thân hình già nua của người yêu thuở nào mà vổ về an ủi . Vết tích chiến tranh một khi đã " chém " vào tâm hồn thì sẽ ở mãi đó cho tới ngày chết !!

Ôi những người vợ lính miền Nam !!!

Hậu Duệ ( con lính )

Khi người lính Việt Nam Cộng Hòa bị buộc phải buông súng theo lệnh của tổng tư lệnh - trái với ý muốn của họ - họ cũng buông xuôi vận mệnh mình . Bản thân người lính bị trả thù , và vợ con họ chịu cùng số phận . Thương binh chưa kịp lành vết thương bị đuổi khỏi giường bệnh , đàn bà con nít trong gia đình bị dí súng buộc phải rời nhà cửa bỏ lại hết mọi thứ cho những chủ nhân mới vào từ miền Bắc. Những phụ nữ xuất thân quý phái , học thức giờ ngồi lê ngoài đường mua bán từng gói xôi , gói bắp ….

Những đứa trẻ ngoan ngoản giỏi giang trong trường nhưng có cha là lính bị đình chỉ  việc học . Thành tích biểu thường chiếm từ hạng bình trở lên ( 80 - 95 điểm )  giờ đạp xe  chở nước đá đi giao cho mấy quán nhậu , cà phê , kiếm từng đồng bạc lẻ phụ mẹ nuôi gia đình . Có cháu làm chè , kem chuối  đi bỏ mối..... Mới mười mấy tuổi đầu mà tương lai đen như than đá, không thấy ánh sáng  cuối đường hầm ...Cha đi chẳng  biết ngày về , mẹ càng gìà yếu , phận làm con phụ hợ được chút gì hay chút đó . Lính khổ , vợ con lính cũng khổ theo .

VC tưởng đày đoạ người miền Nam như thế sẽ tiêu diệt được ý chí của họ , sẽ thuần phục họ, buộc họ tung hô như những người ngoài Bắc ( một miếng cơm cũng cám ơn bác đảng ) . Nhưng cả chục năm bị hành hạ tù đày trong rừng sâu nước độc lính miền Nam khi được trả tự do vẫn giữ nguyên bản chất , vẫn hiên ngang xưng danh binh chủng như chưa từng qua  tù cải tạo . Vợ lính con lính chịu bao nhiêu khổ cực vẫn kiêu hãnh mình là vợ con của lính Việt Nam Cộng Hoà , coi đó như niềm vinh dự , tự hào . Với người miền Nam chương trình tẩy nảo độc ác của VC bị phá sản hoàn toàn !!!

Rời Việt Nam định cư nước ngoài , đối diện với môi trường sống hoàn toàn xa lạ, lính và gia đình lại lao đầu chiến đấu . Lính chấp nhận làm đủ mọi thứ miễn có tiền , không ngại gian khổ ( sống nổi tù VC thì còn gian khổ nào không thể vượt qua ??) .  Vợ con lính cũng vậy , ai ngờ những đứa trẻ từng có thời chở  nước đá bỏ mối nay là  Tiến Sĩ , Kỷ Sư, Bác Sĩ ...thuộc loại giỏi hàng đầu ? Ai ngờ đứa nhỏ ngày nào đạp xích lô kiếm sống giờ là khoa học gia của NASA - cơ quan không gian hàng đầu thế giới ? - Đời lính VNCH thật là ly kỳ , nhiều chuyện đáng nói .

Lính mang hào hùng thời chinh chiến ra nước ngoài . Con lính ngưỡng mộ hãnh diện vì cha và tình nguyện theo gót . Vợ lính từng có thời sợ hãi khi người yêu ngoài mặt trận   không muốn tiếp tục lo lắng cho con . Khóc lóc ỉ ôi nhưng ý con đã quyết làm sao cản được , đành ngồi sắp xếp vật dụng cá nhân vào ba lô ngày con lên xe bus nhập trại . (  Gần sáu ngàn quân nhân tại ngủ trong quân đội Mỹ gốc Việt - chưa kể các quốc gia khác - trong đó hơn ba phần tư có ông , cha từng phục vụ  quân lực VNCH - con sãi ở chùa lại quét lá đa - )

Cha, ông giờ là " QUÂN CỤ " hết rồi ( trẻ nhất cũng gần bảy chục ) cho nên không còn bao lâu nữa ... Người bi quan sợ rằng lớp cựu chiến binh năm xưa khi nằm xuống sẽ không còn ai tiếp tục nêu cao vinh quang  thời chinh chiến  . Nhưng đừng lo , thế hệ con lính ( hậu duệ ) sẽ nối tiếp . Người con nào không hãnh diện về gốc lính VNCH của ông, cha , chú mình ? hậu duệ nào không suýt xoa khi nhìn thấy vết sẹo, vết đạn trên ngực trên lưng trên bụng mỗi khi má cạo gió cho ba ( mình vô tình nhìn thấy ?)  rồi còn những câu chuyện một chống năm, mười thời chiến trường xưa , và khi hết  "đường binh " thì bình thản gọi phi pháo dập ngay trên đầu mình để " thí mạng với tụi nó!!!". Hậu duệ được nuôi dưỡng bởi dòng máu ""Dân Chơi Thứ Thiệt !!" sẽ tiếp nối những gì cha ông đang bỏ dở . ( Đã nhìn thấy nhiều cháu  tự động treo cờ Vàng Ba Sọc Đỏ trong phòng để nhắc nhớ mình là ai , tại sao mình ở đây ? Có cháu theo gia đình  đi biểu tình chống văn công tuyên truyền , mặc áo , đội nón mang hình Quốc Kỳ hãnh diện . Có cháu cương quyết phản đối bị người Mỹ buộc chấp nhận cờ sao vàng là đại diện cho mình !! " CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ MỚI ĐẠI DIỆN CHÚNG TÔI, những người Việt Nam yêu Tự Do "

 Chừng nào còn những cháu  như thế VNCH sẽ tiếp tục tồn tại.

Những người lính già  không chết nhưng chỉ nhạt nhoà dần theo thời gian . Mỗi ngày đọc báo thấy từng người ra đi như thời xưa đọc trang tư cáo phó . Một thời ngang dọc , giờ yên tâm nghĩ ngơi , con cháu sẽ tiếp nối dựng lại cờ . Tập thể quân đội anh hùng như những chiến binh VNCH sẽ sống mãi trong tâm hồn người Việt và những cộng đồng Việt Nam trên toàn thế giới .

Máu người lính miền Nam đổ ra không uổng phí . Trước năm 75 thế giới khờ khạo bị CS lừa bịp nên về phe với chúng và tưởng rằng cuộc xâm lược núp bóng giải phóng của VC là chính nghĩa . Bây giờ thì tất cả  đã mở mắt nhìn thấy sự tàn bạo của CS . Chúng bắn đại pháo vào thường dân thời chiến , hành hạ trả thù người cùng màu da tiếng nói thời bình ... và khi cần tiền chúng lại năn nỉ van xin, kêu gọi hoà hợp hoà giải .... ( Thế mà vẫn có người phụ họa với chúng ,thật là tởm lợm !!!!!!!)

Rốt cuộc cả thế giới nhận ra - dù muộn màng- rằng người lính miền Nam chiến đấu cho chính nghĩa . Nhờ họ mà cuộc xâm lăng tàn bạo của chủ nghĩa CS  trên thế giới bị chặn lại chậm hơn hai mươi năm

( 1954-1975)

Viết thêm một chút :

1) Con trai , mười bảy tuổi năm cuối trung học Mỹ . Một hôm tình cờ bước vào phòng khách có ông nội đang ngồi xem truyền hình . Giật mình vì thấy nước mắt chảy ra  hai bên má ông trong khi trên truyền hình có cảnh chiến tranh và bên góc là hình lá cờ Vàng vẫn nhìn thấy trong các tiệm phở , ông nội đang khóc !! . Cháu rón rén giật lùi , khép nhẹ cửa . Mười phút sau cháu mở bằng cùi chỏ , hai tay bưng ly cà phê sửa bốc khói đặt  xuống trước mặt nội :

- Uống đi nội !!

Cháu vổ nhè nhẹ vào vai nội như một người bạn ….

 Tuần sau cháu he hé mở cửa phòng mình khoe với nội ( nội qua nhà , giúp ba má coi mấy đứa nhỏ ) :

- Đẹp hông nội ?

Trên tường phòng cháu là lá Quốc Kỳ Vàng lớn bày ra , bốn góc có bốn cây kim găm giử chặt . Cháu tự động mua on-line và tự động treo một mình ...

2) Cách mười năm trước , con gái , mười bốn tuổi ở Middle School .Một hôm học về  hớt hải báo với ba :

- Ba ơi trường con treo cờ Việt Cộng !!

- Sao biết ?

- Thì ba chỉ cho con phân biệt . Cờ có sao vàng đó... Ba  lên nói chuyện với Principal được không ?

Hôm sau cháu không đón xe bus tình nguyện  theo xe ba và hai bác bạn ba . Cháu cũng tình nguyện làm thông dịch viên cho cuộc trò chuyện . Ngày hôm sau nữa " phái đoàn " tăng lên  hai chiếc xe chở tám ông già người Việt Nam tới trường tiếp tục cuộc đàm phán ....

Bà Principal có người anh từng phục vụ trong chiến tranh VN cuối cùng tháo cờ sao và treo cờ Vàng sau khi lấy biểu quyết của hội đồng quản trị...

 

Nguoiviettudo



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 07/Mar/2022 lúc 7:07am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 95 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.344 seconds.