Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 92 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22108
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Jan/2023 lúc 10:32am
Nữ%20đeo%20Nhẫn%20Cưới%20Tay%20Nào%20Và%2025%20điều%20Bạn%20Chưa%20Biết?%20|%20UMA


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 16/Jan/2023 lúc 10:38am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22108
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Jan/2023 lúc 10:08pm

Một Người Anh 


Gia đình tôi được đi định cư ở Pháp đã được 8 năm. Vào năm thứ 3 tôi nhận được tin về Tân từ 1 người bạn cùng xóm đang sống ở Việt nam. Trong thư người bạn viết: “Tân mới được ra khỏi tù cải tạo, bịnh rất nặng phải vào nhà thương để mổ. Trại cải tạo cho Tân về nhà để chữa trị”. Anh em bạn bè ai cũng khổ, có đóng góp giúp Tân nhưng chẳng được bao nhiêu, nên có ý kiến nhờ người bạn viết thơ yêu cầu tôi giúp Tân tài chánh để trang trải chi phí bịnh viện; họ nghĩ tôi sống nước ngoài nên kinh tế có thể khá hơn.

Gia đình tôi vượt biển và được tàu Pháp vớt, cho tam trú tại Singapour 3 tháng trước khi được Cao ủy tị nạn làm thủ tục cho đi Pháp.

Tôi được định cư tại thành phố Dijon, cách xa Paris khoảng 300 cây số. Tôi và vợ tôi may mắn được nhận làm việc trong 1 cơ sở sản xuất sữa bò sau 5 tháng đến Pháp.

Tuy rất mừng khi biết Tân được ra khỏi tù cải tạo, nhưng tôi cũng buồn và lo lắng cho bịnh tình và hoàn cảnh thiếu thốn của Tân.

Biết tôi chuẩn bị lên Paris để gởi tiền cho Tân, vợ tôi đưa nửa tháng lương của nàng để góp vào số tiền tôi muốn gởi. Hai vợ chồng tôi mới đi làm nên đời sống chưa ổn định lắm, tuy nhiên có đóng góp của vợ làm tôi yên tâm vì số tiền gởi đi không đến nỗi ít quá, hy vọng Tân có thể giải quyết được tiền bịnh viện và thuốc men.

Lúc bấy giờ, người nào muốn gởi tiền về Việt nam đều phải lên Paris, vì đó là nơi duy nhất có một cơ sở ngoại vi của tòa đại sứ Việt Cọng làm công việc nầy. Tôi lấy chuyến xe lửa khởi hành từ ga Dijon lúc 6g sáng thứ bảy để đến Paris 9g, hy vọng chuyển tiền xong, trể nhất là 3g chiều, sẽ lấy chuyến xe lửa trở về lúc 6g.

Phía truớc cơ sở chuyển tiền Sicona đã có ít nhất là 10 nguời đang sắp hàng chờ đến phiên mình.

Người đàn bà ngồi làm giấy tờ nhận và chuyển tiền không còn trẻ, ước chừng trên 40 tuổi. Hình như tôi đã gặp bà ta ở một nơi nào đó.

Đến khi chỉ còn 2 khách hàng nữa đến phiên tôi, tôi có dịp quan sát bà kỹ hơn. Tôi nghĩ rằng tôi lầm, tôi không tin bà ta là Mỹ. Có lẽ người giống người thôi. Còn 1 người nữa trước tôi. Tôi hơi hồi hộp và quan sát bà kỹ hơn khi bà ngước lên nói chuyện với người khách.

Đỉnh vành tai trái của bà khuyết đi một phần thịt, như một vết cắt.

Tôi lắng nghe giọng nói của bà, cái giọng Quảng Nam đặc sệt. Tôi biết tôi không lầm, chính là Mỹ, người tôi biết trước đây khi còn ở quê nhà. Có lẽ bà không lưu ý đến khách hàng nhiều nên bà không nhận ra tôi, tôi cũng cố tình kéo sụp vành mũ che trán để bà không nhìn rõ mặt. Thay vì viết tên người nhận tiền là Tân, tôi gởi qua tên của người bạn.

Gia đình tôi và gia đình Tân cùng sống chung trong 1 khu phố. Nhà tôi ở đầu hẻm, nhà Tân ở cuối hẻm. Tân lớn hơn tôi 5 tuổi nên tôi gọi Tân bằng anh. Ba của Tân phục vụ trong quân đội, cấp bậc hạ sĩ, làm việc tại đồn Quân cảnh Đà nẵng. Mẹ Tân bán nước mía ngoài chợ Hàn.

Bà có tật bẩm sinh, một chân cao, chân thấp nên Tân hàng ngày giúp mẹ ngoài chợ. Nhiệm vụ của Tân là đi ra bến đò sông Hàn mua mía cây của dân buôn từ quê chở ra bán, rồi vác mía đem về cho mẹ. Liên tiếp mấy năm thi bằng trung học đệ nhất cấp không có kết quả,Tân nản nên không muốn tiếp tục thi nữa. Năm học đệ tứ, tôi rủ Tân cùng nộp đơn thi lấy bằng với tôi. Tân đồng ý. Tân lấy bài học của tôi để ôn bài lại.

Ba mẹ Tân chỉ có anh là con duy nhất. Tôi là con trai thứ 2 trong gia đình có 3 chị em gái. Tân hiền lành, chất phát nên ba mẹ tôi rất thương. Tôi cũng vậy, rất thương mến anh. Thỉnh thoảng tôi nghe anh hỏi mẹ tôi mỗi khi anh đi ngang qua trước nhà: “Cô ơi, thằng Ti có nhà không cô, hắn đi mô mà 2 bữa ni con không thấy?” Cái giọng nói đầy âm Quảng nam mang âm sắc thân ái và lo lắng của anh làm tôi suốt đời không quên được. Tôi nghe tiếng mẹ tôi trả lời: “Em nó đang ở trong nhà, năm nay thi, bài vỡ nhiều, đi học về là ở miết trong phòng để "gạo" bài.” 

“Rứa mà con lo nó bịnh.” 

Anh trả lời mẹ tôi.

Tôi nhớ mỗi khi ba tôi đi đâu về khuya thường hỏi mẹ tôi: “Mấy đứa nhỏ ngày ni có chi lạ không mình? Hôm ni đi sớm quá, chưa nhìn thấy mặt đứa mô hết.” Giọng hỏi của ba tôi cũng như giọng hỏi của anh, đầy ắp thương yêu!

Đôi khi tôi nghe hai đứa em gái tôi nhỏ to với mẹ: “Mẹ ơi! Anh Ti nhà mình được anh Tân con bà bán nước mía thương quá hả mẹ, anh ấy cho anh Ti nhà mình uống nước mía thả cửa, anh Tân chẳng bao giờ cho 2 chị em con một chút nào hết”. Nghe câu nói phân bì của 2 đứa em, tôi mỉm cười hãnh diện. Anh quan tâm đến tôi rất nhiều, anh nhắc tôi mỗi ngày nên dành ít thời gian rỗi rảnh để tập thể dục, cuối tuần nên đi tắm biển, buổi tối nên ngủ sớm để có sức khỏe…

Tôi đã có lần nghe mẹ tôi hỏi: 

“Sao anh thương thằng Ti quá vậy?”

Anh cười hiền lành: 

“Trong nhà con không có anh em chi hết, con chỉ có một mình nên thương Ti như em vậy.” 

Mẹ tôi tiếp lời: 

“Vậy anh đem nó về bên anh nuôi đi. Tôi cho không anh đó!” 

Rồi cả 2 người cùng cười.

Kỳ thi trung học phổ thông, tôi và anh đều có kết quả tốt. Anh tình nguyện vào quân đội học khóa hạ sĩ quan Đồng đế. Mọi người đều khuyên anh nên thi vào trường sư phạm để dạy học, hay học thêm 1 ngành nghề gì đó để được làm việc văn phòng... thời buổi chiến tranh, ai cũng muốn tìm chỗ bình yên mà anh lại tìm vào chỗ chết. Anh đang có quyền miễn dịch, khỏi vào quân đội vì anh là con trai duy nhất trong gia đình, có cha đang phục vụ trong quân đội và mẹ khuyết tật. Anh chỉ trả lời một câu duy nhất: “Tôi thích làm lính hơn làm các công việc khác.”

Không may cho anh, 1 tháng sau khi anh nộp đơn tình nguyện đi lính, cha mẹ anh chết vì bị nước lụt cuốn trôi trong 1 ngày về quê thăm bà con. Việc tìm xác và chôn cất cha mẹ anh làm trễ ngày trình diện vào lính. Anh thường tâm sự với tôi: “Từ ngày cha mẹ anh chết, anh cô đơn và hụt hẫng trong cuộc sống, bà con họ hàng gần gũi không có ai. Anh muốn đi đâu thật xa để quên đi đau buồn”. Nghe anh nói, tôi cảm thấy buồn vô hạn, vừa thương anh vừa sợ mất anh. Tôi chỉ biết im lặng.

Nhờ quen biết, ba tôi tìm cho anh 1 chân thư ký cho 1 hãng làm nước tương. Anh làm việc cho hãng nước tương được 2 năm thì cưới vợ.

Ba mẹ tôi đại diện làm chủ hôn cho anh. Anh cưới cô Mỹ. Mỹ là cháu của 1 bà bán gạo, các thứ đậu và cá khô trong chợ, sạp kế cận xe bán nước mía của mẹ anh trước đây. Tôi không biết anh quen biết cô Mỹ lúc nào. Trước ngày cưới tôi cũng chưa 1 lần thấy anh đi chung với cô Mỹ, và cũng chưa 1 lần anh kể cho tôi nghe về sự quen biết giữa 2 người. Đến khi anh nhờ ba mẹ tôi làm chủ hôn cho anh, anh mới kể sơ lai lịch của cô nầy.

Cô Mỹ có cha mẹ sinh sống bên Thái Lan nhưng cô được cha mẹ gởi về Việt nam để đi học. Cô học không khá mấy nên ở nhà giúp bà dì buôn bán trong chợ. Trong tương lai, cô chưa biết cha mẹ cô sẽ về Việt nam sống hay cô phải trở qua Thái Lan với cha mẹ. Nghe anh sắp cưới vợ, tôi buồn quá. Dường như có một chút ghen ghen trong lòng. Cảm thấy như anh không còn dành trọn vẹn cái tình cảm của anh trước đây cho tôi. Và từ đó, tôi tránh gặp anh thường xuyên, lòng tôi như mất mát cái gì đó. Có lẽ anh biết tôi buồn chuyện anh sắp cưới vợ, nên mỗi khi gặp nhau, anh hay vỗ vai tôi và nói: “Ti là em trai của anh, lúc nào em cũng là em của anh, nhưng anh phải cưới vợ chứ, gần 30 tuổi đời rồi! Em hãy giữ lòng tin của em nơi anh. Sống thui thủi một mình buồn lắm em ơi! Nếu ông bà già anh còn sống, anh chưa cưới vợ đâu”. 

Ngày cưới của anh, tôi làm phụ rễ. Thấy anh sung sướng, tươi cười có vẻ hạnh phúc tôi rất vui. Nỗi buồn của tôi cũng tan đi từ ngày cưới hôm đó.

Đổ Tú tài phần 2 xong, tôi thi đậu vào Đại học sư phạm Huế. Tôi nhập học được 2 tháng thì mấy em gái tôi báo cho biết Tân treo bảng cho thuê nhà, và chuẩn bị theo vợ đi Thái lan. Vì mới nhập học nên tôi không về Đà Nẵng để tiễn vợ chồng anh đi Thái Lan. Trong một thư anh gởi cho tôi, anh viết: “Ti ơi, như có lần anh nói với em sau cái chết của ba mẹ,anh muốn đi một nơi nào thật xa để quên đi nỗi buồn, nay vợ anh đề nghị cùng đi Thái Lan để tìm cách làm ăn cùng gia đình bên vợ và đồng thời để biết gia đình bên vợ, anh đồng ý ngay, vì đây là dịp thực hiện ý định của anh mà Ti đã biết.

6 tháng sau, tôi đang về nhà nghỉ hè, chuẩn bị đi ngủ thì nghe tiếng mẹ tôi gọi: “Ti ơi, Ti ơi, anh Tân về này, còn đang ở ngoài sân.

Tôi nhảy vội ra khỏi giường, nhưng lòng vẫn nghi là mình nghe lộn. Cả gia đình tôi đều vui mừng, những người nhà bên cạnh cũng chạy qua nhà tôi chào Tân. Tôi đứng yên nghe anh trả lời những câu hỏi  của mọi người: “Kỳ này về, chừng nào qua lại Thái Lan?” Tôi nghe anh nói về luôn, vì anh không hợp với cuộc sống bên đó. Vợ anh sẽ về sau. Sự thật vợ anh sẽ không bao giờ trở lại Việt Nam. Anh đã tâm sự với tôi sau nầy như thế. Chưa lấy lại được nhà cũ đã cho thuê vì còn trong hạn giao kèo, ba mẹ tôi dành cho anh ở 1 phòng trên căn gác lững được dùng chứa những vật dùng không cần thiết lắm. Ba tôi tìm được cho anh chân thư ký cho 1 phòng khám của một bác sĩ vốn là bạn học cũ của ông. Một buổi tối cuối tuần tôi rũ anh đi xem chiếu bóng, phim "Chúng tôi muốn sống". Trên đường trở về, sau khi xem phim, anh vỗ vai tôi:

“Ti thấy tụi Cọng sản nó ác không?” Tôi chưa kịp trả lời anh nói tiếp: “Ti chưa biết đâu, gia đình ông nội anh gồm 4 người bị chúng giết thả trôi sông, mất xác, chúng buộc tội họ hoạt động cho Việt nam Quốc dân Đảng. Bà chị của anh, lúc đó còn nhỏ ở với ông bà nội cũng bị chúng bắt đi, mục đích điều tra tìm ba anh. May là ngày hôm trước vụ thảm sát nầy, ba mẹ anh đưa anh về bên ngoại chơi nên thoát nạn. Sau nầy dân địa phương kể lại, chị anh có khai là ba mẹ anh về bên quê ngoại, nhưng chúng không tin, chúng bắn chị chết rồi đem xác thả trôi sông.” Kể đến đây, tôi nghe giọng anh nghẹn lại. Anh đang khóc, tôi nhìn anh mà lòng cũng đau đớn cùng anh. Anh nói: “Anh thù bọn Cộng sản nầy lắm, ông bà nội và 2 người chú của anh bất đồng quan điểm chính trị với chúng bị chúng giết đã đành, nhưng chị của anh, còn bé dại có biết gì đâu mà chúng cũng không tha!” 

Hôm đó anh nói chuyện với tôi rất nhiều. Về đến nhà, đêm đã khuya, anh và tôi ngồi nơi bực tam cấp trước hiên nhà, anh quàng vai tôi, nói tiếp:

“Em có biết tại sao vợ anh, chị Mỹ không cùng về với anh không? Anh rất đau lòng phải xa vợ anh, và có lẽ vĩnh viễn anh và chị không còn có cơ hội gặp nhau nữa. Khi vợ chồng anh đến Thái Lan một thời gian ngắn anh khám phá ra cha mẹ Mỹ là cán bộ Cộng sản hoạt động kinh tài cho miền Bắc Việt Nam. Sau hiệp định đình chiến năm 1954, cha mẹ Mỹ được đưa qua hoạt động miền Đông Bắc Thái làm chủ 1 cơ xưởng sửa xe du lịch và vận tải. Anh rất hụt hẩng khi biết được việc nầy. Đến khi cha mẹ Mỹ đề nghị anh thay thế người con trai trưởng phụ làm quản lý cơ xưởng để người nầy trở về Bắc học tập chính trị, anh từ chối. Anh hỏi em làm sao anh có thể chấp nhận được yêu cầu của cha mẹ vợ? Cả gia đình bên nội anh và chị anh đều bị bọn chúng giết, còn ba của anh là lính Quân đội Quốc gia... nếu anh chấp nhận làm việc, anh nghĩ cũng chỉ tạm thời,1 mai chúng điều tra lý lịch liên hệ gia đình của anh thì chắc chắn chúng sẽ đuổi anh ngay. Anh bàn với Mỹ, trở về Việt Nam. Mỹ không chịu và còn tiết lộ cho anh biết: sau khi người anh về Bắc học chính trị 6 tháng, sẽ qua lại Thái chuẩn bị mở thêm 1 cơ xưởng mới tại Lào. Mỹ sẽ qua Lào làm quản lý cơ sở mới. Cha mẹ Mỹ sẽ đưa Mỹ đi Bangkok gặp nhân viên sứ quán Bắc Việt tuyên thệ gia nhập đảng Cộng sản đồng thời nhận chỉ đạo về công tác bên Lào. Không thuyết phục được Mỹ trở về nước, anh đã lặng lẽ mua vé máy bay trở về, chỉ để lại cho Mỹ vài dòng:

“Anh phải trở lại Miền Nam vì anh không thể nào hợp tác với Việt cộng.

Em đã không muốn cùng anh trở lại Miền nam sống cho đến hết cuộc đời thì chúng ta chia tay. Mỗi chúng ta có con đường đã chọn, anh không thể đánh mất lý tưởng Quốc gia của anh. Anh đau lòng, nhưng không có lựa chọn khác, mặc dầu anh vẫn yêu em. Vĩnh biệt em”.

Kể đến đây anh yên lặng khá lâu, tôi như nghe được tiếng đập buồn bã của tim anh. Tôi quàng tay qua lưng anh, chia sẽ nổi buồn vô tận của anh. Vài tháng sau, anh báo tin đang học khóa hạ sĩ quan. Rồi anh báo tiếp, anh đã ra trường phục vụ trong binh chủng nhảy dù. Từ đó tôi và anh không còn gặp nhau nữa. Anh theo đơn vị đi khắp 4 vùng chiến thuật. Còn tôi ra trường đi dạy ở Lâm đồng.

Ngày tôi lập gia đình anh không về được, anh báo cho tôi biết, anh

được đơn vị gởi đi học khóa sĩ quan trường bộ binh Thủ Đức nhờ những thành tích chiến đấu ngoài chiến trường.

Khi tôi có đứa con gái đầu tiên, anh gởi lời chúc mừng đồng thời báo

tin anh vừa được thăng cấp thiếu úy tại mặt trận. Tháng 4 năm 1975, khi cộng sản Bắc việt chiếm đoạt toàn lãnh thổ miền Nam, anh bị tù"cải tạo", tôi và gia đình vượt biển tìm tự do.

Lần thứ 2 tôi lênParis để chuyển thêm tiền cho Tân, anh đã có thư cho tôi biết bịnh tình anh đã ổn định. Anh không nhờ gởi thêm tiền nhưng tôi biết đời sống của 1 người tù cải tạo được thả về trong chế độ hiện tại rất ngặt nghèo, không có phương kế sống. Anh không có gia đình thân thích giúp đỡ trong những ngày ra tù đầu tiên. Nghe anh nói anh sống tạm trong gia đình những người bạn trong quân ngũ ngày trước, tuy họ cũng thiếu thốn như anh, nhưng họ còn có cái nhà để trú mưa nắng.Tôi gởi thêm tiền cho anh. Tiền nầy tôi tặng anh với ước muốn giúp anh có vốn buôn bán thuốc tây ngoài chợ trời. Những lần tôi gởi thuốc tây cho anh, anh kể lại anh đem bán ngoài chợ trời những thuốc không cần dùng. Anh có ý tiếc rằng anh không có vốn để mua thêm thuốc rồi bán lại.

Mỹ vẫn làm việc tại cơ sở chuyển tiền và đang ngồi thâu nhậntiền của khách gởi. Còn 5 người khách nữa mới đến phiên tôi. Tôi lại quan sát kỹ Mỹ lần nữa, lo rằng chỉ là người giống người, nhưng không, cái vành tai bị sứt thì ít khi có sự trùng hợp được. Khi đến phiên tôi làm thủ tục gởi tiền, vì bị phân tâm, tôi lấy mũ để qua một bên, trên cái kệ trước bàn chuyển tiền. Nhìn vào căn cước của tôi, Mỹ lại nhìn mặt tôi. Tôi vội lấy mũ đội lại và kéo sụp vành mũ xuống. Một lần nữa Mỹ lại nhìn tôi, cặp mắt Mỹ sáng lên, vẻ ngạc nhiên, hỏi tôi: “Chú Ti phải không?” Tôi chưa trả lời câu hỏi. Mỹ lại nhìn căn cước của tôi đọc lớn:

Lê ngọc Đoàn... Lê ngọc Đoàn...

Mỹ lại hỏi: “Chú Ti phải không? Đoàn là tên trên giấy tờ, Ti là tên gọi trong gia đình.”

Biết không thể giấu được với sự nhận diện nầy, tôi gật đầu xác nhận.

Mỹ hỏi tiếp giọng vừa xúc động, vừa vui mừng:

“Ti, Ti nhớ chị không? Chị là Mỹ, vợ anh Tân của Ti đây! Ti có tin tức gì của anh Tân không?” 

Tôi trả lời gượng gạo: 

“Em đâu biết chị làm việc ở đây, em không nhận ra chị. Em không có tin tức anh Tân từ sau biến cố năm 1975.” 

Một thoáng buồn hiện trên mặt Mỹ. Mỹ thở dài... Mỹ hỏi tôi giọng như năn nỉ: 

“Hiện nay Ti đang ở đâu? Gần đây không? Có thể chị gặp Ti trưa nay cùng ăn trưa và nói chuyện được không? Gặp Ti, chị mừng lắm, lâu lắm chị em mới gặp lại nhau”.

Biết không thể từ chối được, tôi đồng ý, nhưng cũng nói cho Mỹ biết:

“Em ở tận Dijon, em phải trở về chuyến tàu lúc 15g”. 

Còn hơn 1 giờ nữa mới đến lúc hẹn ăn trưa. Tôi lang thang trên hè phố, suy nghĩ không biết có nên kể hết sự thật về anh Tân cho Mỹ biết không? Không biết anh Tân có đồng ý khi chưa có ý kiến của anh? Anh Tân chống cộng sản còn chị Mỹ làm việc cho cộng sản, quan điểm về tư tưởng đối chọi nhau, vấn đề nầy chỉ có người trong cuộc mới tự giải quyết. Tôi cần biết chuyện của chị Mỹ trong thời gian sau khi không còn sống với anh Tân.

Trưa hôm đó, tôi không tiết lộ 1 tin tức nào của anh Tân cho chị Mỹ biết. Chị kể cho tôi nghe chuyện của chị từ sau ngày 2 người chia tay nhau:

...Chị được cha mẹ đưa về Hà Nội học chính trị rồi qua Lào phụ giúp người anh thứ 3 quản lý hãng sửa chửa xe.  Trên nguyên tắc chị làm quản lý, nhưng khi anh Tân về xứ, chị mới biết chị có triệu chứng mang thai. Cha mẹ chị không muốn chị giữ bào thai vì sợ ảnh hưởng về chính trị cho công việc của chị sau nầy. Chị không chịu, vì vậy sau khi học khóa chính trị xong chị bị kiểm điểm, bị phê bình đang lưu giữ tàng tích của Ngụy quyền Sàigòn, nên họ tạm thời cho chị làm phụ tá hãng sửa chửa xe thay vì làm quản lý theo dự tính của phân bộ đảng. Chị sinh được 1 bé trai và làm việc tại Lào được 3 năm, hãng xe bị thua lỗ vì dân Lào không hợp tác; người Lào lúc đó thân chính quyền VNCH.

Biết hãng sửa chửa xe là cơ sở kinh tài của Cộng sản Bắc Việt nên họ tẩy chay, hãng phải đóng cửa, chị đem con trở lại Thái Lan.Chị được đảng bộ cọng sản tại Thái điều đến làm việc cho 1 nhà hàng ở Chiengmai, nhà hàng nầy cũng là cơ sở kinh tài cho lãnh sự quán Bắc Việt. Làm việc ở nhà hàng được vài năm, đến năm 1975, Việt nam thống nhất. Lãnh sự quán Cộng sản bên Pháp thay đổi nhân sự, thiếu nhân viên làm việc, chị lại được điều qua Paris,được chỉ định phụ giúp điều hành cơ sở chuyển tiền về Việt nam như hiện nay chị đang

làm. Con trai của chị đang là y tá trưởng 1 bệnh viện vùng ngoại ô Paris. Con trai chị lấy vợ vài tháng trước đây, vợ là 1 người Pháp.”

Tôi hỏi chị: 

“Chị có lập gia đình sau khi chị và anh Tân chia tay?”

Chị thở dài, lắc đầu: 

“Tưởng là bất đồng tư tưởng lúc đầu, tạm thời chia tay, rồi tìm cách đoàn tụ, nhưng anh Tân quả quyết quá nên bao nhiêu thư chị viết cho anh ấy đều không được anh ấy trả lời. Vì không có tin tức của anh Tân nên chị đành phải tuân theo mọi sự sắp xếp của gia đình chị. Chị là đàn bà con gái đang mang thai, không có chồng bên cạnh trong khi ở xứ lạ quê người, theo em, em có cách nào lựa chọn khác không? Trong cuộc sống đưa đẩy, chị cũng gặp nhiều người thương chị, muốn tiến đến hôn nhân nhưng chị từ chối. Lòng chị chỉ có hình ảnh của anh Tân, tình yêu của chị chỉ dành cho anh Tân. Không có tin tức của anh ấy, nhưng chị cầu mong anh ấy vẫn còn hiện hữu 1 nơi nào đó và an bình bên vợ con của anh ấy. Anh ấy là người chân thật, tình cảm, biết yêu thương mọi người. Đức tính ấy chắc sẽ được xã hội và cuộc đời đền đáp. Tôi nghe giọng chị lắng xuống như nghẹn lại, hai mắt chị đầy nước.

Khi chia tay, tôi hứa sẽ có dịp thăm chị tại nơi làm việc khi có dịp trở lại Paris.

Những dịp sau nầy tôi lên Paris chơi cuối tuần hay chuyển tiền giúp anh Tân, tôi đều tiếp xúc chuyện trò thân mật với chị Mỹ. Chị một lòng vẫn yêu anh Tân. Một lần chị mời đến nhà chị, phòng khách chị vẫn còn trang hoàng vài tấm ảnh ngày đám cưới của chị và anh Tân. Tôi có gặp Vũ, con của hai người. Vũ cao lớn như anh Tân, có nụ cười rất giống anh. Vũ nói với tôi: “Mẹ luôn luôn tìm hỏi thăm tin tức của ba, nhưng không có chút ánh sáng nào cả. Mẹ có về Việt nam vài lần với mục đích tìm ba,nhưng cũng vô vọng. Nghe Vũ nói, lòng tôi trào dâng nghẹn ngào trong im lặng. Tôi lại nghĩ đến anh Tân, không biết tôi có nên kể lại chuyện nầy cho anh biết không? Tôi cảm thấy tôi quá tàn nhẫn khi giữ mãi sự im lặng đối với cả 2 bên. Tôi suy nghĩ rất nhiều, và tôi đã quyết định.

Mãi cho đến khi anh Tân qua Mỹ theo chương trình HO, tôi có qua Mỹ thăm anh. Anh đã già đi nhiều, có lẽ những năm tháng ở tù cải tạo đã làm thay đổi thân xác anh, nhưng sự chân thật của tâm hồn anh vẫn còn nguyên sơ. Anh ôm tôi, tôi yên lặng đón nhận sự thân ái của anh từ xưa kia trở về. 2 anh em cùng nghẹn ngào, 2 anh em cùng xúc động. Tôi lưu lại Mỹ với anh 1 tuần rồi trở về Pháp.

Anh và tôi không thể bỏ công việc đang làm.

1 ngày, trước khi lên máy bay, đang ăn cơm tối với anh, tôi chợt hỏi: 

“Anh Tân, từ ngày anh và chị Mỹ xa nhau đến nay anh có tin tức gì của chị ấy không?” 

Anh lắc đầu thở dài:

- Thôi đi Ti, chuyện đã qua rồi nhắc lại làm chi nữa. Chắc bây giờ chị ấy cũng chồng con rồi dầu có gặp lại nhau cũng chẳng ích gì.

Anh lại thở dài. Tôi hỏi tiếp: 

“Lúc anh xa chị ấy, chị ấy đã có thai với anh chưa?”

Anh lại lắc đầu và thở dài: 

“Anh không biết và cũng không nghe chị ấy nói.”

Tôi lại hỏi: 

“Chẳng hạn như lúc đó anh biết chị ấy có thai với anh, thì anh giải quyết làm sao, đi về hay ở lại?”

Anh đứng lên đưa tay đập vai tôi: “Câu hỏi của Ti cũng khó trả lời, nhưng anh nghĩ lúc đó cũng có cách giải quyết. 

Biết anh không trả lời thẳng câu hỏi, sợ làm mất vui trước ngày chia tay nên tôi bắt qua chuyện khác: 

“Anh không lấy vợ nữa sao? Tìm một người nào đó chung sống với nhau, để nâng đỡ nhau những lúc khó khăn trong cuộc sống”. 

Anh cười lớn tiếng:

- Anh già rồi, đâu có bà nào để mắt tới đâu mà có vợ, gần 60 rồi... thôi đành sống cô độc cho yên thân”.

Anh lại thở dài, hớp một phần ly rượu, ngồi yên đưa mắt nhìn trần nhà.

Nhìn nét mặt đăm chiêu của anh, nghe những hơi thở dài của anh từ khi bắt đầu câu chuyện, tôi nghe được lòng anh, thấy được chị Mỹ vẫn còn ẩn náu 1 chỗ khuất nào đó trong anh. Tối hôm đó 2 anh em tâm tình với nhau đến khuya,tôi ngủ lúc nào không hay. Buổi sáng hôm sau, tỉnh dậy, chai rượu còn lại hai phần ba của đêm hôm trước trống rỗng nằm lăn trên bàn.

Khi rời nước Mỹ, tôi không quên mời anh Tân qua Pháp chơi với gia đình tôi nhân dịp lễ phục sinh năm kế tiếp, anh nhận lời. Tôi cũng mời chị Mỹ và vợ chồng cháu Vũ xuống nhà tôi chơi vào cuối tuần của lễ phục sinh năm đó. Anh Tân đã đến với gia đình tôi được vài hôm thì đến ngày chị Mỹ và vợ chồng cháu Vũ đến.

Chiều hôm đó, tôi nói với anh Tân: 

- Em bận đưa mấy con và vợ đi lễ nhàthờ. Em có mời gia đình 1 người bạn từ Paris xuống chơi, nếu anh ở nhà, người ta đến em chưa về kịp, nhờ anh đón tiếp họ dùm em.”

Tôi lại điện thoại cho chị Mỹ: 

“Nếu chị và vợ chồng cháu Vũ đến mà em không về kịp vì cả gia đình em bận đi lễ nhà thờ, chị cứ bấm chuông, có người nhà em đón.”


Buổi chiều giữa tháng tư, đã là mùa xuân, nhưng vẫn còn tuyết rơi muộn, nên trời vẫn vắng bóng mặt trời. Vợ con tôi còn đang ở trong nhà thờ, tôi lái xe chạy ngang trước nhà,nhìn thấy chiếc xe của chị Mỹ đã đậu ở đó từ lúc nào rồi, ánh điện trong phòng khách cũng đã được thắp sáng. Tôi lái xe trở lại nhà thờ, tự dưng thở một hơi mạnh và dài, tưởng tượng ra cảnh vợ chồng, cha con ngỡ ngàng nhìn nhau, gặp nhau, rồi tôi tự hỏi chuyện làm nầy của mình có đúng không?

Tôi chợt nhận ra mình đang mỉm cười./.


Nguyễn Đại Thuật

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22108
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Jan/2023 lúc 6:48am

Giao Thừa Ở Suối Máu

Trại Tù Suối Máu - Biên Hoà

Từ cuối năm 1975, hàng ngàn tù nhân Sĩ quan cấp tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ nhiều trại tập trung quanh Sài Gòn đã bị chuyển về nhốt tại trại tù Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hòa.

Vào một đêm giữa tháng 10, 1975, từ Long Giao, tôi bị chuyển tới đây trên một chiếc Molotova bít bùng kín mít. Tôi bị dẫn vào khu K2. Hai tuần sau có lệnh “biên chế,” tôi lại bị chuyển sang khu K3. K3 chỉ chứa Sĩ quan cấp Thiếu tá. Tôi bị giam ở đây từ ngày 1 tháng 11, 1975 cho tới ngày lên tàu Sông Hương ra Bắc (Tháng 7, 1976). Thời gian này, tin tức truyền thanh, truyền hình về tình hình thế giới càng lúc càng xấu đi. Người ta đồn rằng, hình như Cộng Sản Việt Nam đang trên đường tiến chiếm Thái Lan. Thế Giới Tự Do như càng lúc càng xa chúng tôi hơn.

Anh em chúng tôi gặp nhau thường ngày, tụ tập từng nhóm, đánh cờ tướng, tán gẫu, bàn chuyện nhà cửa, gia đình, nước non, thời quá khứ. Trong những lúc tụ tập chuyện trò, chúng tôi nghe bạn bè rỉ tai rằng, chính quyền giải phóng đang nghiên cứu hồ sơ cá nhân của từng người, để xét tha (?).Cũng có tin bi quan, cho rằng chúng tôi sắp bị đưa ra Tòa án Nhân dân để xử tội. Chúng tôi thực sự hoang mang, chẳng biết tương lai mình sẽ đi về đâu.


Tôi ở lán 24 thuộc K3 (Lán là nhà, K là Khối, danh từ VC). Mỗi lán chứa khoảng hơn 40 tù nhân, trong lán 24 đó có vài cựu Sĩ quan Ðà Lạt gồm anh Trần Ngọc Dương (K10), Nguyễn Lành (K16), Hoàng Thế Bình (K18), Tạ Mạnh Huy (K19), khóa 20 có Ngô Văn Niếu và tôi (Vương Mộng Long). Lán tôi cách lán 17 vài thước. Lán 17 có ba anh Biệt Ðộng Quân K20 Võ Bị là Nguyễn Cảnh Nguyên, Trịnh Trân, và Quách Thưởng. Trong cảnh thiếu đói thường xuyên, chúng tôi phải chia nhau từng mớ rau rền, tán đường thẻ, miếng cơm cháy.


Lán 24 lúc nào cũng hôi thối đầy ruồi nhặng, vì nó nằm trên đường đi ra cầu tiêu, mà bệnh kiết lỵ của tù ở đây hầu như bất trị. Anh trưởng lán 24 tên Trần Thành Trai nguyên là Y sĩ Thiếu tá làm việc tại Quân y viện Duy Tân, Ðà Nẵng. Bác Sĩ Trai luôn luôn xác định lập trường của anh là quyết tâm “Học tập tốt” để được tha về với vợ con, vì vậy mỗi lệnh của ban chỉ huy trại đưa xuống, anh luôn luôn tìm cách thi hành đúng đắn.


Thằng Niếu, bạn tôi, được một chân làm bếp, nó ăn uống dưới bếp, nên phần cơm của nó dư, được mang về tiếp tế cho tôi và anh Nguyễn Phong Cảnh (K10/TÐ) người nằm cạnh tôi.


Vào những ngày cuối năm Ất Mẹo, không khí ở đây trở nên rộn rịp vô cùng. Những người liên lạc được với gia đình thì có những gói quà nhỏ gởi vào cho ăn Tết, những kẻ ít may mắn hơn thì đành trông chờ vào những gì ban chỉ huy trại ban cho. Thời gian này, các lán gấp rút tập văn nghệ để trình diễn đêm giao thừa.


Ðể khỏi tập ca hát nhảy múa, tôi tình nguyện làm công tác tạp dịch, quét tước. Trong khi mọi người ca múa, xả rác, tôi đi lượm rác và xách nước về cho bạn cùng lán rửa mặt rửa tay.


Hai ngày trước Tết, lán tôi phải tập họp đi làm cỏ ngoài rào K3.


Trại Suối Máu vốn dĩ là trại tù Phiến Cộng Tam Hiệp của Quân Ðoàn 3. Trại có hai khu, hai hệ thống hàng rào. Lớp rào trong nhốt tù, rồi tới khu canh tù, ngoài cùng là rào mìn phòng thủ. Trại tù Phiến Cộng này có sáu khối. Mỗi khối cách biệt nhau bởi một khoảng đất trống, có rào mìn. Từ khối này muốn liên lạc với khối kia chúng tôi phải hét lên mới nghe tiếng nhau. Ra khỏi hàng rào thứ nhất, tôi chứng kiến vài sự đổi đời.


Cái miếu thờ Thổ Ðịa trở thành cái chuồng nuôi heo. Nhà Thờ và Niệm Phật Ðường của trại tù binh đã thành chuồng gà sản xuất. Sư và Cha, Tuyên úy của trại này, chắc cũng đi tù đâu đây không xa! Ngoài xa, bên kia hàng rào mìn là bãi cỏ trống rồi tới đường Quốc lộ 1.


Trên Quốc lộ, xe Lam chạy xuôi ngược; người người vội vàng buổi chợ cuối năm. Có vài bàn tay giơ lên ngoắc ngoắc về hướng trại tù, đôi người dân có liên hệ, hoặc ai đó còn nhớ tới chúng tôi, những Sĩ quan cấp tá của QLVNCH, những người bảo vệ chế độ đến giờ cuối cùng, và những người chậm chân, chạy không kịp, đang bị nhốt ở đây, trong khu nhà tù do chính tay Công Binh Việt Nam Cộng Hòa xây dựng lên trước đó nhiều năm.


Sáng nay bầu trời mầu xanh, không một gợn mây. Từ hướng phi trường Biên Hòa, bên kia cánh đồng trồng khoai mì, những chiếc F5 thực tập lên, xuống, lượn vòng.


Ðưa tay chỉ những cánh chim sắt đang bay trên trời cao, anh bạn Thiếu Tá Không Quân, Trần Chiêu Quân nói với tôi rằng, sau 30 tháng 4, có một số phi công của Việt Nam Cộng Hòa bị trưng dụng để huấn luyện cho phi công Bắc Việt lái những máy bay chúng ta còn để lại. Những chiếc F5 sáng như bạc đảo lộn trong không gian. Tiếng rít của phi cơ làm cho tâm hồn người cựu chiến binh nao nao.


Làm sao quên được? Lần đầu ra trận (Tháng 2, 1966). Hôm đó, cũng vào một sáng đầu Xuân, đơn vị tôi án binh dưới chân núi Trà Kiệu (Quảng Nam) chờ lệnh xuất phát. Tôi ngồi bên bờ Nam sông Thu Bồn, say sưa nhìn những cánh F-4C, F-5A Hoa Kỳ đan nhau trên vùng trời Bắc. Bên kia sông, vùng trách nhiệm của Trung Ðoàn 51 Biệt Lập, khói đạn bom cuồn cuộn…


Rồi tới trận Mậu Thân (1968) với những chiếc AD 6 Skyrader dềnh dàng, chậm rãi phóng từng trái Napalm dài như chiếc xuồng màu trắng, lướt trên đỉnh 1632 cuối phi đạo Cam Ly, Ðà Lạt. Khi bom chạm mục tiêu, từ đó, những sợi lửa lân tinh trắng xanh, trông giống như những cái vòi bạch tuộc, vươn cao…


Còn nữa…


Nhớ thời chống giữ Pleime, ngày ngày, tôi nghe quen tiếng L19 lè xè của Võ Ý (K17). Chiếc L19 như cánh diều mảnh khảnh, lững lờ quanh đỉnh Chư Gô, hay trên Ya Drang, thung lũng Tử Thần. Chúng tôi trông chờ đôi lúc trời trong, những phi tuần A-37 theo nhau tuôn bom… chờ những chiếc trực thăng rà sát đọt cây, lướt trên ngọn cột cờ căn cứ. Xạ thủ trên tàu chỉ kịp đạp vội xuống sân trại vài thùng pin, đạn, gạo sấy, con tàu đã lật bụng đảo một vòng, thoát chạy về Đông. Phòng không như lưới, thảy xuống cho nhau được thùng nào, hay thùng nấy! Thảy đồ xong là chạy. Ðồ tiếp tế, có thùng còn nguyên dạng, có thùng vỡ tan, có thùng bay vào bãi mìn. Như thế cũng quý hóa lắm rồi! Cám ơn người anh em Nguyễn Công Cẩn (K21) và phi đoàn 229 Lạc Long.


Rồi đêm xuống, cứ như “Đúng hẹn lại lên,”


“Thái Sơn đây Hỏa Long gọi!”


Chiếc AC-47 của anh Trần Bạch Thanh (K16) đã có mặt trên vùng. Những đóm hỏa châu lập lòe, vừa trải rộng tầm quan sát cho người trấn giữ tiền đồn, vừa làm cho họ cảm thấy ấm lòng.


Ðã mất rồi, ngày xưa ấy!


Giờ này tôi đang đứng nhìn những cánh chim sắt chao lượn trên đầu, người lái không phải là quân bạn.


Tiếng động cơ F5 nghe sao quá xót xa!


* * *


Tôi đang nhổ cỏ thì thấy một đoàn người từ hướng ban Chỉ huy trại hò nhau khiêng một cái cổng gỗ rất to vừa đóng xong.


Tấm bảng nền đỏ chữ vàng “Không Có Gì Quí Hơn Ðộc Lập Tự Do” được nâng niu như trứng trên vai những người tù nhễ nhại mồ hôi. Những người tù đang bị sức nặng của cái cổng đè trĩu trên vai. Họ phải lên gân chân mỗi lúc bước tới trước.


Mới vài tháng trước đây họ còn là những vị Chỉ huy oai phong lẫm liệt. Giờ đây đành cam thân sống cảnh đọa đày, đóng vai những anh thợ mộc bất đắc dĩ không công. Ngày nào họ cũng ra đi rất sớm, chiều tối mới trở về trại. Họ dựng những cái cổng chào. Họ tu sửa, sơn phết những khẩu hiệu trên tường. Họ trồng lại hàng rào trại.


Mọi việc làm này là để chào đón ngày Quốc Hội Việt Nam Thống Nhất ra đời. Những vị Sĩ quan cao cấp này đã khởi đầu nghề thợ mộc của họ bằng những cái bảng “Không Có Gì Quí” ở trại tù Tam-Hiệp.


Tôi có quen vài người trong số những người hằng ngày xuất trại làm mộc, như cựu CHT/BÐQ/ QLVNCH là Ðại Tá Trần Công Liễu (K8 VB) và cựu Tiểu Ðoàn Phó Nhảy Dù là Thiếu Tá Trương Văn Vân (K20 VB). Cả hai vị đó, sau này nơi đất Bắc, đã thành hai ông đội trưởng nổi tiếng. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh!


Chín tháng sau ngày chế độ Cộng Hòa sụp đổ, tôi đang chứng kiến một hoạt cảnh chẳng bao giờ ngờ:


Trên trời, phi công Việt Cộng đang lái F5, trước cổng trại tù, Sĩ quan cấp tá VNCH đang dựng cổng chào, quanh rào trại tù, Sĩ quan cấp tá VNCH đang làm cỏ. Nơi nơi, người người, chuẩn bị đón Xuân. Mỗi người mang một tâm sự riêng…


Tới trưa, khi nghe tiếng kẻng phát cơm của nhà bếp, chúng tôi được dẫn trở lại trong vòng rào trại K3. Khi đi ngang qua sân bóng chuyền, tôi thấy người ta đang cá độ nhau trận đấu tay đôi đang diễn, một bên là Thiếu Tá Trần Ðạo Hàm, Thủ khoa K17/VB, bên kia là một tay Thiếu Tá Không Quân. Anh Lê Hữu Khái (K15) và thằng bạn tôi, thằng Nguyễn Bích (K20) đang nhảy tưng tưng cổ vũ cho anh Hàm. Cái miệng thằng Bích lớn lắm, nó la hét vỗ tay, bình luận ào ào. Anh Hàm thật là may mắn, có cái loa phóng thanh cỡ bự Nguyễn Bích cổ vũ nên anh có vẻ như đang dẫn điểm.


Tôi thấy nhiều người đã để ghế “xí” chỗ tốt cho buổi TV văn nghệ tối; ngày nào cũng thế, cứ đến trưa là bà con đem ghế ra đặt sẵn trên sân bóng để “xí” chỗ xem phim TV của đài Sài Gòn Giải Phóng. Ai chậm chân thì không còn chỗ tốt. Thời gian này TV Sài Gòn Giải Phóng liên tiếp chiếu bộ phim nhiều tập “Trên Từng Cây Số” và “Ðại úy Ðen” của Ba Lan.


Trong các lán, có nhiều bạn tụ tập bóc lột nhau bằng những con bài. Xì phé, sập xám và mạt chược là những môn chơi phổ thông khắp nơi trong trại. Tôi đã chứng kiến nhiều anh thua bạc phải bán cả những quà cáp từ gia đình gởi vào, như kem đánh răng, thuốc lào, thuốc tây để trừ nợ.


Sau Tết ít lâu, tôi nghe một câu chuyện đau lòng ở K3 năm ấy: có một vị Thiếu tá Quận trưởng khi cắt bánh thuốc lào làm đôi để chi cho chủ nợ một nửa, thì phát hiện ra một bức thư “chui” của người nhà giấu trong ruột bánh thuốc lào. Bức thư vắn tắt đôi lời làm đau lòng người đọc,


“Chị ấy đã gởi hai đứa con của anh cho bà nội của chúng nuôi. Chị đã đi lấy chồng rồi! Anh đừng buồn, ráng học tập lao động cho tiến bộ để sớm được thả về mà nuôi dạy con anh.”


Cái tin bất ngờ sét đánh ấy đã làm cho ông Quận sững sờ, buông rơi những con bài cơ, rô, chuồn, bích. Từ đấy, tôi thấy ông suốt ngày thẫn thờ bên rào, nhìn về phía xa xôi. Ðôi lúc tỉnh táo, ông ôm cây đàn Guitar Solo những bài nhạc xưa, buồn đứt ruột.


Tôi bồi hồi nhớ lại lời tổng thống nói ngày nào:


- “Ðất nước còn, còn tất cả. Ðất nước mất, mất tất cả!”


Ôi! Lời Tổng thống nói thật là hữu lý!


Tổng thống ơi! Chúng tôi đã cố gắng hết sức mình để giữ nước, nhưng chúng tôi đã không thể giữ nổi.


Chúng tôi lấy làm xấu hổ vô cùng.


Sao Tổng thống không ở lại giữ nước với chúng tôi?


Lúc này chúng tôi đã mất tất cả rồi Tổng thống ơi!


Về tới lán tôi nhận được một vỉ thuốc ho, một nắm xôi đậu xanh, và mười cục đường tán do anh bạn BÐQ Bắc Hải (Phan Văn Hải) ở lán 22 gởi cho. Tôi, Phan Văn Hải, cùng Phan Ðộ (K20), Huỳnh Bá An (K20), Trần Hữu Bảo (K20), xuất thân từ trường Nam Tiểu Học Ðà Nẵng. Chúng tôi là học trò của cô giáo Phạm Thị Tịnh Hoài, lớp Nhất C.


Hải là Sĩ quan khóa Đặc biệt Thủ Ðức, anh về phục vụ cùng đơn vị BÐQ của tôi ở Pleiku. Những ngày cuối của cuộc chiến, Thiếu Tá Phan Văn Hải giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng TÐ89/BÐQ. Khi đi tù, bạn tôi không có ai thư từ, tiếp tế, nhưng hắn bài bạc rất giỏi, nên lúc nào cũng sung túc.


Chiều hôm đó, anh lán phó hậu cần, Hải Quân Thiếu Tá Bùi Tiết Quý thâu tiền của trại viên trong lán, gởi cán bộ trại mua giùm mì gói, tương, chao, xì dầu và đường tán để ăn bồi bổ thêm trong ba ngày Tết. Tối đến, sau khi đã chia hết phần đường cho người mua, anh Quý cạo được một chén đường chảy dính trong thùng giấy và bao giấy gói đường. Anh ung dung ngồi thưởng thức nồi chè đặc biệt, nấu bằng đường mót được với hột su su và mấy hạt bắp non anh trồng được bên rào. Làm đội phó hậu cần cũng có chút bổng lộc!


Sáng ba mươi Tết, lại gặp ngày tổ tôi trực lán, tôi và một số bạn bị chỉ định xuống làm việc tăng cường cho lán 9 nhà bếp. Tôi phụ việc vo gạo cho thằng Niếu và anh Cung. Những tạ gạo đựng trong bao viền chỉ xanh rất cũ được chuyển về từ bưng biền. Gạo thì mốc vàng, mốc xanh. Những tổ sâu gạo to như nắm tay.
Khi tôi tách những cái tổ sâu ra từng phần nhỏ thì những con sâu gạo trắng ngần có khoang, béo núc, to gần bằng đầu đũa và dài cả phân, ngo ngoe, ngo ngoe…Anh Cung không cho phép tôi vứt bỏ những cái tổ sâu ấy, anh nói rằng nếu vứt bỏ sâu đi thì hết gạo.


“Nếu vứt sâu đi thì còn cái gì mà ăn? Cứ nấu tưới đi! Sâu cũng bổ béo, cũng nhiều ‘Prồ-tê-in’, sâu gạo chứ có phải là dòi ở ngoài chuồng xí đâu mà ngán!”


Khi chảo cơm bắt đầu sôi thì nhiều khách khất thực nước cơm đã cầm ca đứng đợi. Anh Cung cho vài người, mà cũng từ chối đôi người. Người có phần, thì riu ríu cám ơn, người không có phần tiu nghỉu ra về, miệng lầm bầm, “đ.m, đ.m…”


Những trại viên nhà bếp gọi đám người chờ xin nước cơm là “Đội quân cầm ca.” Chữ “cầm ca” ở đây không có nghĩa là ca sĩ, ca hát, hay ca kỹ mà có nghĩa đen chỉ sự cầm cái ca U.S dùng để đựng nước uống, cái ca nằm dưới cái bi-đông bộ binh ấy mà! Dân cầm ca phải đứng xếp hàng cả giờ đồng hồ trước cửa lò cơm để chờ xin một ly nước cơm. Chuyện xếp hàng trước, xếp hàng sau, đôi lúc cũng gây ra ẩu đả. Nước cơm có Vitamin B1 chữa được bệnh phù thũng (?).


Sau này, khi ở trại tù Phú Sơn 4, Thái Nguyên, tôi có đọc một tài liệu nói về cái chất độc của nấm cúc vàng từ gạo mục, gạo mốc. Nấm cúc vàng có chứa một loại chất độc nguyên nhân gây ung thư gan. Nước cơm lại là phần đậm đặc nhất của chất độc nấm cúc vàng từ gạo mốc. Không biết có bao nhiêu nạn nhân của bệnh xơ gan sau này có mặt trong đội quân “cầm ca” ngày ấy?


Chiều ba mươi Tết, bữa ăn có thịt heo kho. Thằng Niếu đem thêm về cả phần lòng heo bồi dưỡng nhà bếp của nó.


Thời buổi khó khăn, thuốc lá bắt đầu khan, những tay nghiền miền Nam bắt đầu nói chuyện thuốc lào.


Những danh từ “điếu cày,” “điếu bát,” “Cái Sắn,” “Hố Nai,” “Vĩnh Phúc,” “Tiên Lãng” nghe mãi cũng quen tai.


Anh Hoàng kim Thanh, Liên Ðoàn Trưởng LÐ24/ BÐQ của tôi, từ bên K4 nhờ ai đó chuyển cho tôi được một bao 555 và một lạng cà phê.


Trong khi thằng Niếu và anh Cảnh lo bếp núc cúng Tất Niên thì tôi đi vòng vòng tán dóc với Lưu Văn Ngọc (K20), cựu Sĩ quan Quân Pháp Quân Ðoàn 2.


* * *


Tối ba mươi Tết ở K3 Suối Máu không khí thật là rộn rã tưng bừng. Mọi lán đều đã chuẩn bị sẵn sàng chương trình văn nghệ chào đón Chúa Xuân. Sân khấu văn nghệ được thiết lập giữa sân tập họp. Ðèn điện sáng choang. Cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam che kín cả sân khấu.


Trước giờ văn nghệ, loa phóng thanh truyền đi những bản nhạc từ đài Sài Gòn Giải Phóng mà Tô lan Phương là giọng ca chính. Những nghệ sĩ tù cũng ăn mặc tươm tất để sẵn sàng trình diễn giúp vui. Ðàn ghi ta, trống, sáo đều làm bằng vật liệu lấy từ kho của nhà bếp như tôle, củi, ván gỗ…các nghệ nhân tự đẽo gọt, cắt xén, dán, ghép thành các nhạc cụ.


Tám giờ tối, buổi “Liên hoan Văn nghệ” đêm ba mươi Tết bắt đầu.


Mở màn chương trình là bài đồng ca “Như Có Bác” tôi không nhớ do lán nào trình diễn.


Kế tiếp, người Thiếu Tá Không Quân Hoàng Ðình Ngoạn (K17 VB) lên đài trong tiếng hoan hô vỗ tay của “đồng bọn” tù Võ Bị. Anh vừa hát được nửa bài tình ca, nhạc vàng “Mùa Xuân Trên Ðỉnh Bình Yên” thì bị “Cán bộ” chặn lại, đuổi xuống đài. Lý do, “Nhạc Ngụy ủy mị!” Sau đó, chỉ những bài hát “giải phóng” được phép trình diễn.


Tiếng sáo trúc Tô Kiều Ngân lâm ly bài “Mùa Xuân Trên Thành Phố HCM” hòa ca cùng tiếng sáo miệng của Nguyễn Tuyên Thùy. Tôi nghe vọng lại từ các khu khác, đại để, bạn tù cũng chỉ hát những bài ca eo éo, nghe rợn tóc gáy, như “Cô Gái Vót Chông,” “Tiếng Ðàn Ta Lư,” “Năm Anh Em Trên Chiếc Xe Tăng” vân vân… Khắp sáu K sáng rực ánh đèn, vang rền tiếng nhạc…


Năm mới đang từ từ tiến về…


Ðến khi màn trình diễn của lán 24 vừa được giới thiệu, thì tôi bỏ chạy về lán. Tôi ngồi một mình trong cái nhà tôle vắng tanh. Nỗi đau đớn nhói tim tôi!


Ngoài kia, bạn cùng lán của tôi, không tự nguyện, đang phải đóng vai “dân quân chống Tầu, chống Tây, chống Mỹ, chống Ngụy” trong một vở trường kịch. Khi họ tập bài bản trong lán, tôi biết họ cũng đau lòng lắm.


Bạn Võ Bị của tôi, Tạ Mạnh Huy vì là Tây lai phải đóng giả làm Tây cho người ta trói. Thằng Niếu phải đóng vai BÐQ “Ngụy” giơ tay đầu hàng để anh Dương Bắc Kỳ đóng vai ông bô lão nông dân Việt Nam “đả đảo”. Mỗi lần tập xong, các bạn tôi đều buồn, họ đề nghị anh lán trưởng Trần Thành Trai cho tập một kịch bản lịch sử “Vua Quang Trung diệt quân Thanh” nhưng anh lán trưởng không đồng ý.


Anh Trai nói, “ban chỉ huy trại đã ra lệnh” cho anh phải thực hiện cho được trường kịch này để mừng Giao Thừa, vì nó có tính cách “Lô gích lịch sử”(?). Và đêm ấy, anh Đội trưởng Trần thành Trai đã thực hiện thành công xuất sắc vở trường kịch “Việt Nam 4000 năm anh hùng.”


Ngay sau khi bế mạc buổi văn nghệ mừng xuân Bính Thìn, mùa xuân đầu tiên của nước “Việt Nam Thống Nhất” (Mùa xuân đầu tiên quân và dân Miền Nam mất nước) anh đội trưởng Trần Thành Trai đã được “ban Chỉ huy trại tuyên dương công lao” trước trại.


Khi trên sân khấu người diễn kịch bắt đầu hát bài “Tiến Quân Ca” thì tôi bật khóc. Một mình, ngồi trong đêm tối, tôi nức nở khóc vùi. Tôi chưa bao giờ thấy cái khóc lại có hiệu lực chữa đau đớn hiệu nghiệm như đêm ấy! Chợt tôi nghe tiếng chân ai ngoài cửa lán. Rối tiếng lên đạn súng AK…


Thình lình, tia đèn pin chiếu ngay mặt tôi, làm mắt tôi chói lóa.


- “Anh kia! làm gì ngồi khóc đấy? Sao không đi “rự nễ” mừng Xuân?”


Tên bộ đội đi tuần tra lớn tiếng hỏi.


Tôi lấy tay che mắt, nhưng không nhìn thấy gì. Tôi lặng thinh. Tiếng quát lại tiếp:


- “Anh có mồm không thì bảo? Câm à? Sao không giả nhời tôi?”


Tôi vẫn ngồi im. Ánh đèn đảo một vòng quanh vách lán rồi tắt. Căn phòng tối om. Tôi nghe tiếng chửi:


“Ðịt mẹ thằng câm! Mới xa nhà có mấy tháng mà đã nhớ nhà phải khóc. Ông đây xa nhà hai ‘lăm’ rồi mà ông có khóc đâu! Ðồ không biết xấu hổ!”


Tôi vẫn lặng thinh.


“Rầm!”


“Chảng!”


Tên bộ đội giận dữ, đóng sập cửa lán. Nó còn bồi thêm một cái đá cật lực vào vách tôle. Vài giây sau, tôi nghe tiếng dép râu bước đi xa dần về hướng sân. Tôi nhìn đồng hồ tay (Khi đó chưa có lệnh thu giữ tư trang của tù) lúc ấy hai cái kim lân tinh chập nhau trên số 12: Giao Thừa!


Ngoài sân tiếng ca hát còn đang tiếp tục. Tôi mồi một điếu thuốc 555. Trong trí óc tôi, hình ảnh những Giao Thừa đã qua trong đời hiện về, mờ nhạt như từ thế giới nào rất xa…


Ngày xưa, mỗi độ Giao Thừa, cho dù lúc đó tôi đang đi hành quân với một toán Biên Vụ (Viễn Thám) quân số chỉ có năm người, lần mò trên những nhánh của hệ thống “đường mòn ************” trên đất Lào, hoặc len lỏi trong rừng tre gai Plei-Trap Valley, hay lúc tôi đang chỉ huy cả năm, sáu trăm quân trấn giữ Pleime, hoặc ải địa đầu Bu-Prang miền biên giới Việt Miên, tôi không lần nào quên nghe chương trình Giao Thừa của Ðài Phát Thanh Quân Ðội.


Giao Thừa Xuân Bính Thìn là Giao Thừa đầu tiên trong đời, tôi không tìm thấy lá cờ nước tôi, không nghe được câu hát: “Này công dân ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi…”


Bài quốc ca này đã đi vào lịch sử.


Một thế hệ đã hát nó với cả bầu máu nóng trong tim. Bao nhiêu người thân của tôi, bao nhiêu bạn bè của tôi đã cống hiến tuổi trẻ và cả thân xác mình cho bài ca đó.


Một thế hệ đã lớn lên thành người với bài ca đó.


Một thế hệ sẽ mang theo nó xuống tuyền đài…


Chợt tiếng anh lán trưởng Trần Thành Trai vọng lại trên loa phóng thanh,


“Ðổi đời đã tới! Cách mạng đã thành công!”


Tiếng hô lặp lại hai chữ “Thành công!” của trại viên vang dội đêm Trừ Tịch. Tôi cảm thấy tiếng hoan hô đã làm rung những tấm tôle trên mái.


Trời đêm Trừ Tịch tối đen.


Tôi không biết những vạt đen ẩn hiện sau hè, là bóng những bụi rau rền, giàn mùng tơi hay những hồn ma đói cuối năm chập chờn.


Ngoài xa vẳng lại, từ bên K4, ai đó bắt đầu hát bài “Lá Ðỏ”...


* * *


Vài năm sau, tôi nghe tin, cựu Y sĩ Thiếu tá quân y viện Duy Tân, Ðà Nẵng, Trần Thành Trai đã được tha khỏi trại cải tạo. Bác Sĩ Trai đã cùng Bác Sĩ Trần đông A, cựu Y sĩ Thiếu tá Nhảy Dù, nổi tiếng sau những ca mổ tách rời trẻ song sinh ở Sài Gòn. Tôi cũng đã nghe tin, giờ này, Bác Sĩ Trai đang là một “Dân biểu” của “Quốc Hội nước CHXHCNVN”.


Nhân ngày đầu Xuân Ất Dậu (2005), tôi nhớ lại chuyện xưa, ba mươi năm trước. Nhớ những bạn Võ Bị, cựu tù lán 24 K3 Tam Hiệp. Trong số những người bạn đó, thì hai người đã qua đời, là Hoàng Thế Bình và Ngô Văn Niếu. Còn những bạn khác như Dương, Lành, và Huy thì đang ở Mỹ, không rõ họ có còn nhớ chuyện ngày xưa hay không? Riêng tôi, cái đêm Giao Thừa ba mươi năm trước ấy đã trở thành không thể nào quên, vì đó là lần đầu trong đời, tôi đón năm mới với thân phận một người tù mất nước…!!!

 


(Seattle, Lập Xuân)

Vương Mộng Long (K20)

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22108
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Feb/2023 lúc 4:08am

Đứa Con Lưu Lạc 

Cha%20mẹ%20tốt%20chưa%20chắc%20đã%20nuôi%20dạy%20con%20tốt,%20đảm%20bảo%20ai%20đọc%20xong%20cũng%20phải%20%20ngẫm%20lại%20mình

Sau 30-4-1975, tất cả công chức, quân nhân VNCH đều bị bắt đi tù cải tạo. Một số đi cải tạo ở Miền Nam, một số ở các trại cải tạo trên Cao Nguyên, một số ở miền Trung , và một số lớn thì bị đưa ra Miền Bắc. Tháng 12 năm 1976, tôi bị đưa xuống tàu “Hải Phòng” và chuyển ra Bắc.

Trại cải tạo đầu tiên tôi đến là Trại Phong Quang, tỉnh Hoàng Liên Sơn . Đến năm 1979, khi Trung Quốc đánh qua biên giới Việt – Trung, tôi được chuyển về Trại Phú Sơn, thuộc tỉnh Bắc Thái. Một thời gian sau, họ lại chuyển tôi về Trại Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh.

            

Trong thời gian tôi đi tù cải tạo ở Miền Bắc, vợ con tôi đang sống ở Cần Thơ với vô vàn khổ cực, đau thương. Vợ tôi vất vả mua bán quần áo cũ ở vĩa hè, cũng chỉ đủ ăn cho 4 mẹ con ( vợ tôi và 3 con nhỏ). Nhà tôi rất đau khổ khi nghĩ đến tương lai của các con. Nhiều gia đình trong xóm đã cho con đi vượt biên, một số đã đến đảo bình yên, đem đến cho họ chút hy vọng tương lai cho các cháu nhỏ.

            

Năm 1982, nhà tôi gom góp được 1 lượng vàng, và hy sinh cho cháu Tèo   (cháu lớn nhất – 7 tuổi) đi theo một tổ chức chuyên đưa con nít vượt biên, giá 1 lượng cho mỗi cháu. Sau khi đóng tiền, họ đưa cháu ra Đà Nẵng để chuẩn bị ra đi.

            

Nhà tôi ngày đêm cầu nguyện, mong ngóng tin con đã đến đảo..Nhưng chờ đợi 1 tháng rồi 2 tháng, rồi 1 năm sau cũng không có tin tức gì của con. Nhà tôi đau khổ ngày đêm thương nhớ con, không biết cháu có đến được đảo không, hay đã chết trên biển cả mênh mông rồi.

            

Năm 1984, tôi được tha về, chỉ còn da bọc xương. Vợ chồng, cha con chúng tôi vui mừng gặp lại nhau, không thấy cháu Tèo. Tôi hỏi :”Tèo đâu ?” Biết không thể dấu được, nhà tôi phải kể rõ mọi chuyện cho tôi biết.

Tôi ngã nhào, úp mặt xuống đất khóc nức nở. Tôi kêu gào :”Tèo ơi ! Tèo ơi!! để ba chết thay cho con!“Cả nhà cũng khóc theo. Chúng tôi quá đau đớn vì mất đi một đứa con, nhưng dù thương tiếc, thì chuyện đã rồi; chúng tôi phải sống cho 2 cháu còn lại, 1 trai và 1 gái.

            

Ngày tháng qua đi, bỗng chương trình HO đến, đem lại cho những gia đình tù cải tạo chút hy vọng le lói. Chúng tôi làm hồ sơ, được phỏng vấn HO và sau đó , được định cư ở Mỹ từ năm 1992.

            

Từ ngày qua Mỹ, khi chúng tôi có dư được đồng nào, cũng gom góp gửi về VN, đặc biệt giúp cho các trại nuôi trẻ mồ côi. Ban đầu thì giúp nhiều nơi, nhưng sau một thời gian, khi nhận thấy yểm trợ lung tung như vậy kém hiệu quả, chúng tôi chọn lọc lại, và quyết định chỉ giúp cho một trại mồ côi mà thôi do khả năng tài chánh của chúng tôi có hạn.


Tình cờ, chúng tôi chọn giúp cho trại mồ côi Sao Biển, ở vùng Đà nẵng mà thôi. Từ đó chúng tôi  chỉ giao dịch với trại mồ côi Sao Biển, và trở nên thân thiết với quí  Xơ (Soeur)  trông coi trại nầy. Chúng tôi thường xuyên liên lạc với trại mồ côi đó, thăm hỏi tình hình sức khỏe và sinh hoạt của các em. Dù sự chu cấp của chúng tôi không dồi dào lắm, nhưng các em luôn luôn có đủ cơm ăn, áo mặc và được học hành.

            

Năm 1997, Xơ Bề Trên của Nhà Dòng, cũng là người quản lý trại mồ côi Sao Biển, mời chúng tôi về  VN một chuyến để thăm Nhà Dòng và thăm các em mồ côi. Lúc nầy vấn đề tài chánh của gia đình chúng tôi bắt đầu thoải mái, nên chúng tôi quyết định sang năm 1998, chúng tôi sẽ về Đà Nẵng theo lời mời của Xơ Bề Trên để thăm Nhà Dòng  của Xơ và thăm các em mồ côi trong 2 tuần.

            

Máy bay của chúng tôi đến phi trường Đà Nẵng lúc 3 giờ chiều ngày 14 tháng 5 năm 1998. Khi đến  nơi nhận hành lý, chúng tôi đã gặp các Xơ đến đón chúng tôi. Quí Xơ và chúng tôi chuyện trò vui vẻ, như những người thân lâu ngày gặp lại nhau.

            

Xe đưa chúng tôi về Nhà Dòng, cơ sở  của quí Xơ và cũng là nơi tọa lạc  nhà trẻ mồ côi Sao Biển. Khi xe đi vào cổng, chúng tôi thấy nhiều Xơ đứng đón chúng tôi. Nhìn vào trong, nhiều trẻ mồ côi, áo quần sạch sẽ, đứng 2 hàng đón chào chúng tôi, các em cùng vỗ tay và nói lớn : “Chào mừng Ông Bà ân nhân của chúng con .” Chúng tôi cảm động quá. Nhà tôi ngồi xuống, ôm nhiều em nhỏ vào lòng. Chúng tôi tạ ơn Chúa, đã cho vợ chồng tôi được hưởng những giây phút tuyệt vời như thế nầy. 

            

Xơ Bề Trên đưa chúng tôi lên phòng nghỉ. Xơ dặn dò chúng tôi : ” Ông bà  rửa mặt mau mau rồi đi xuống Hội trường, chúng ta còn nhiều việc phải làm “

            

Một Xơ trẻ dẫn chúng tôi đến Hội trường. Hôm nay Hội trường được trang hoàng lộng lẫy : hoa giấy , bong bóng màu được trưng bày khắp nơi. Đông đủ quí Xơ và nhiều trẻ mồ côi đã hiện diện, ngồi ngay ngắn trong Hội trường.      

            

Xơ Bề Trên nói lớn : ” Mọi người hãy đứng dậy, vỗ tay chào mừng Ông Bà Trần Quốc, là ân nhân  của Nhà Dòng  và của các em mồ côi“. Tiếng vỗ tay ròn rã khắp Hội trưòng, vài em lại nói:” Chào Ông Bà ! Chào Ông Bà !” Chúng tôi quá cảm động, không nói nên lời.

            

Khi chúng tôi đã ngồi yên chỗ, Xơ Bề Trên nói : “Thưa Ông Bà, từ năm 1994 đến nay, Ông Bà đã ưu ái giúp đỡ cho Nhà Dòng và cho các em mồ côi ở đây quá nhiều. Đêm ngày, chúng tôi băn khoăn không biết đến bao giờ mới có cơ hội đền ơn Ông Bà. Nhưng tình cờ, chúng tôi tìm gặp được một món quà đặc biệt mà chắc chắn ông bà thích thú đón nhận”. Xơ Bề Trên hớn hở nói lớn : ” Thưa Ông Bà, đây là món quà mà chúng tôi trang trọng gởi đến Ông Bà“.

            

Từ một cửa lớn ở cuối Hội trường, một Xơ dẫn một chàng thanh niên vào Hội trường, đi đến Xơ Bề Trên. Khi chàng thanh niên vừa xuất hiện, nhà tôi đứng bật dậy, chạy ào đến ôm chầm lấy chàng thanh niên và khóc sướt mướt :” Tèo, Tèo, con của mẹ. Lạy Chúa , con tôi đây mà “. Tèo cũng ôm chầm lấy mẹ, khóc nức nở trên vai mẹ và cứ luôn miệng gọi: “Mẹ ơi! Mẹ Ơi! Con nhớ mẹ quá!”

            

Tôi quá vui mừng, ôm con tôi vào lòng, và thì thầm bên tai con : “Tèo ơi! Ba đây con! Ba thương, ba nhớ con biết chừng nào “

            

Cả Hội trường ngạc nhiên, vui mừng rơi lệ khi  bất ngờ chứng kiến cảnh vợ chồng tôi gặp lại đứa con đã 15 năm mất tích. Mọi người chia xẻ niềm vui với chúng tôi bằng tiếng vỗ tay kéo dài. Một Xơ đem đến tặng cho vợ chồng chúng tôi một bó hoa rực rỡ. Xơ nói : ” Chúc mừng Ông Bà gặp lại đứa con yêu quí của mình , mà mười mấy năm nay Ông Bà cứ nghĩ là cháu đã chết !”

            

Các em mồ côi chạy đến ôm Tèo và nói :”Anh Tèo sướng nhé, hôm nay anh có cha, có mẹ. Nhưng anh đừng quên tụi em nhé, tụi em thương anh lắm !”

            

Hôm nay, Xơ Bề Trên đãi mọi người ăn bánh ngọt và uống Cô-Ca. Các em mồ côi nói cười vui vẻ. Trong khi đó, nhà tôi cứ ngồi ôm con vào lòng, nắm chặt tay con, có lẽ nhà tôi sợ cháu lại biến mất một lần nữa.

            

Trong khi mọi người đang ăn bánh ngọt, Xơ Bề Trên nói với cháu Tèo: ” Con kể lại cho mọi người nghe , vì sao mà con vào ở trại mồ côi Sao Biển, và trường hơp nào, con phát hiện được Ông Bà Trần Quốc là cha, mẹ của con.”

            

Cháu Tèo vâng lời, đứng dậy và nhỏ nhẹ nói :”Lúc con còn rất nhỏ, khoảng 7,8 tuổi gì đó, mẹ con nói với con là sẽ lo cho con đi vượt biên để có tương lai, rồi con có điều kiện  để giúp ba, mẹ và hai em nữa. Với trí khôn non nớt của con, con đồng ý đi.

            

Vài hôm sau, có người đến đem con ra Đà nẵng, gởi con ở nhà Dì Tư; họ nói với con là hai, ba ngày nữa sẽ ra đi. Hằng ngày con chơi với thằng Út , con Dì Tư, và bình thản chờ họ đến đem con đi. Nhưng chờ mãi mà, đã lâu mà không thấy ai đến kêu con đi. Dì Tư nói là Dì không thể tiếp tục nuôi con được nữa, nên Dì đem con đến giao cho các Xơ của trại mồ côi Sao Biển. Từ đó, con bắt đầu sống cuộc đời của một trẻ mồ côi, như các em khác đang sống ở đây.

            

Con không thiếu ăn, không thiếu mặc, lại được các Xơ thương mến, nhưng cứ thẫn thờ buồn bã, vì con nhớ ba mẹ con lắm. Con thường lặng lẽ khóc một mình .

            

Từ lâu, con đã quên hết quá khứ trẻ thơ của con, khi con còn ở với ba, mẹ con. Thậm chí con không nhớ tên con là gì, chỉ biết mọi người gọi con là Tèo.

            

Ngày đêm con nhớ ba, mẹ con lắm. Con đau xót nghĩ rằng, con sẽ vĩnh viễn không còn gặp lại ba mẹ con nữa. Không biết giờ nầy ba mẹ con ở đâu !

            

Cách đây 3 ngày, tình cờ con đi ngang chỗ mấy Xơ đang đứng bàn luận việc gì đó, con nghe Xơ Bề Trên nhắc đến tên một vị ân nhân của Nhà Dòng là Ông Bà Trần Quốc. Tiếng “Trần Quốc” khi lọt vào tai của con, nó như một tiếng sét phá vỡ bức tường u ám của trí nhớ con. Con lập lại “Trần Quốc, Trần Quốc ” sao cái tên nghe quen quá. Ngay lúc đó, trí nhớ của con chợt trở về, con nhớ rõ ràng, “Trần Quốc” là tên của ba con.      

            

Con đi đến bên Xơ Bề Trên và nói với Xơ : ” Thưa Xơ, Xơ mới nhắc đến tên Ông Trần Quốc, ông ấy là ai vậy ?” Xơ nhìn tôi rồi trả lời : “Ông Bà Trần Quốc là ân nhân của Nhà Dòng và cũng là ân nhân của các em đó. Thứ năm nầy, Ông Bà sẽ từ Mỹ về thăm chúng ta. Mà sao em lại hỏi về Ông Bà Trần Quốc làm gì vậy ?” Con trả lời :” Thưa Xơ, trí nhớ đã trở lại với con  khi con nghe tên Ông Trần Quốc. Con nhớ một cách chắc chắn rằng Ông Bà Trần Quốc là cha, mẹ của con !”


Xơ Bề Trên ngạc nhiên nhìn tôi :”Thật vậy sao? mà con còn nhớ mặt cha mẹ của con không ?”. Con thưa với Xơ :”Hình ảnh thân yêu của cha mẹ con, luôn ở trong trái tim con ” Xơ Bề Trên đi vào phòng làm việc, lấy ra một tấm ảnh và đưa cho con xem. Con không thể kềm chế được, con reo lên :”Ba! Mẹ! Con của ba mẹ đây nầy !” Con quá xúc động, con khóc òa như một đứa bé. Con ôm bức ảnh vào lòng, và nói với bức ảnh :”Ba, mẹ ơi, con nhớ ba, mẹ quá ! “

            

Xơ Bề Trên , sau một phút giây ngỡ ngàng, Xơ đã ôm vai con và nói :”Tạ ơn Chúa, đây quả thật là một phép lạ, Chúa đã trao ban cho gia đình Ông Bà Trần Quốc. Rồi Xơ nói với con :”Xơ mừng cho con, 3 ngày nữa con sẽ gặp lại cha, mẹ con”

            

Mọi người im lặng lắng nghe cháu Tèo kể lại câu chuyện của đời mình. Khi cháu vừa dứt lời , cả Hội trưòng như bùng lên, vỗ tay chào mừng một ngày vui quá to lớn của gia đình tôi.

            

Xơ Bề Trên đến bắt tay vợ chồng tôi, Bà trang trọng nói :”Chúa đã trả công bội hậu cho Ông Bà vì những việc bác ái mà Ông bà đã làm từ bấy lâu nay. Xin Chúa chúc lành cho Ông Bà và cháu Tèo, để gia đình Ông Bà được sống những ngày hạnh phúc tuyệt vời bên nhau“.

 


Bửu Uyển

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 24/Feb/2023 lúc 4:16am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22108
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Feb/2023 lúc 7:02am

Chuyện Thật Kể Về Tấm Thẻ Bài Của Cô Bác Sĩ Vivian Le.(Đ.Văn)

4719%201%20ChuyenThatTamTheBaiTrDinhNgoc%20NgtVan%20ST

       Con gái 9 tuổi lạc qua Mỹ ngày 30 tháng 4 năm 1975, trở thành bác sĩ về Việt Nam chửa bệnh từ thiện, ra Nha Trang tìm lại cha mẹ các em, tình cờ xe hết xăng ngay chỗ mẹ ruột và hai đứa em đang cải táng mộ cha là một quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cấp bậc Trung Sĩ tử thương vào ngày 30/04/1975, sau đó cô đã bảo lãnh cả mẹ và các em qua định cư tại Hoa Kỳ.

       Câu chuyện được bắt đầu vào sáng ngày 23-3-1975. Sau khi chồng và con trai bị chết vì đạn pháo kích của Việt Cộng đồng thời bị thất lạc đứa con gái trong ngày di tản tại bãi biển Chu Lai tại Quảng Tín, chị Buôn tất bật chạy khắp nơi để hỏi thăm về đứa con gái của mình…chị đã được một người chạy nạn cho biết:“Con bé khoảng 9 hay 10 tuổi mặc cái áo xanh, quần đen, cổ có đeo cái thẻ bài của lính là con chị sao? Nó được một người trên ca-nô nhào xuống nước bơi vào vớt nó đưa lên ca-nô ra tàu lớn rồi.

4719%202%20ChiecTheBaiTrDinhNgoc

       Thật là may mắn cho nó!”…Lệ, đứa con gái thất lạc của chị Buôn được đưa lên tàu Hải quân với chiếc thẻ bài đeo tòng teng nơi ngực.Người ta thấy có khắc tên:Lê văn Buôn Số quân: …. Họ hỏi Lệ.Lệ nói đó là tên ba nó, ba Buôn của nó, bị lọt lại với má và ba đứa em tại bãi biển Chu Lai.Mới đầu Lệ sụt sùi khóc nhưng có người đàn bà ngồi gần bảo nó khóc không ích gì.Nó cắn răng nghe lời bà này, làm theo những gì người ta chỉ bảo. Tiếng nổ làm cho nó ù tai nhưng cái sợ làm nó quên cả.Kể từ lúc quả lựu đạn nổ, nó gần như mê đi cho đến khi có người vớt nó đưa lên ca-nô rồi lên tàu.

       Người vớt nó lên ca-nô và đưa nó lên tàu, nhận nó là con nuôi là một Thiếu Uý Hải quân.Sau thời gian huấn luyện dài đằng đẳng, tim anh còn đầy ắp tình người dành cho đồng hương và cả nhân loại.Ước mơ của anh là những chuyến hải hành xa, đi đến chân trời góc biển, đi đến những đô thị lớn hoa lệ, nguy nga, ngợp ánh đèn về đêm và nườm nượp xe cộ, người đi bộ trên hè phố ban ngày.

4719%203%20TheBaiTDNgoc

minh hoạ

       Anh tên Lê trọng Nghĩa, 28 tuổi, quê quán ở miệt Thủ Dầu Một, ra trường với hạng cao trong số hơn 60 sinh viên tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang và hiện là một sĩ quan ưu tú của Giang đoàn 240 đóng ở miền Trung. Chiếc tàu Nghĩa và đứa con nuôi là Lệ về đến bến Bạch đằng Sàigòn vào tuần đầu tháng 4-1975, đang lúc Sàigòn lên cơn sốt y như miền Trung mấy tuần trước. Nghĩa đưa Lệ đến gửi tại nhà vợ một người bạn trong trại Sĩ quan bến Bạch đằng, lại gửi tiền và nhờ Xuân Hà, tên vợ người bạn, đi mua sắm quần áo và những thứ cần thiết hàng ngày cho Lệ. Xuân Hà nhìn Nghĩa rồi nhìn Lệ và hỏi nhỏ Nghĩa:

“Con bé xin được ở đâu mà xinh quá vậy? Tốn vài tạ gạo nữa là đã ra dáng tiểu thư rồi. Anh lựa hay lắm.”

Nghĩa nghiêm nét mặt bảo Xuân Hà:

“Chị đừng nghĩ vậy.Ba má nó và ba đứa em còn kẹt lại Chu Lai. Chỉ có mình nó được tôi cứu lên tàu. Tôi nhận nó làm con nuôi.”

       Xuân Hà tính đùa thêm một câu nhưng thấy mặt Nghĩa lạnh như tiền nên không dám cợt nhả nữa. Ngày 28-4-1975, Nghĩa lại mang Lệ lên một chiếc tàu Hải Quân HQ lớn để chạy sang Guam. Nghĩa con một, cha mẹ Nghĩa đã lớn tuổi muốn sống và chết ở Thủ dầu Một nên không đi mặc dù trong thời gian ở Sàigòn, Nghĩa đã cải trang về thăm và mời ông bà đi.

       Sau 5 tháng ở trong trại tạm cư ở Guam, Nghĩa và Lệ được một nhà thờ bảo trợ đi định cư tiểu bang South Carolina.Từ đây, Nghĩa xin Basic Grant của tiểu bang để vào Đại học học Kỹ sư cơ khí. Ngoài giờ học, Nghĩa đi làm part time cho tiệm Sears ở downtown để lấy tiền chi phí ăn ở cho hai cha con.

4719%204%20TheBaiTDinhNgoc

minh hoạ

       Nghĩa xin cho Lệ vào học ở trường tiểu học địa phương, có xe bus nhà trường đưa đón mỗi ngày và ăn sáng, ăn trưa miễn phí vì hai cha con Nghĩa chưa có lợi tức.Nghĩa chỉ thêm bài vở cho Lệ mỗi buổi tối sau khi cơm xong.

       Lệ thông minh nên học rất nhanh.Để giúp ba Nghĩa, nó biết đặt nồi cơm điện, luộc rau, luộc trứng, làm những món giản dị rồi chờ ba Nghĩa về ăn cơm.

       Mặc dầu vào ngang thiếu căn bản 4 lớp đầu (học trình Hoa Kỳ), nhưng Lệ đã học xong lớp 5 Việt Nam, Lệ học lại với ba Nghĩa và một cô giáo Mỹ dạy kèm (tutor) tất cả những gì cần thiết chưa được học ở các lớp dưới, nhất là Anh ngữ, vì vậy Lệ tốt nghiệp Trung học lúc mới 17 tuổi với điểm trung bình 4.0, một thành tích vượt mức ngay với học sinh bản xứ.Nhiều lúc Lệ nhớ ba má, nhớ các em day dứt nhưng nghe ba Nghĩa khuyên, Lệ phải cố quên.Lệ cũng nghĩ và tự nhủ lòng, có khóc, có nhớ ba má và các em cũng không làm được gì, chỉ cản trở việc học.Đã từng ở trong cảnh nghèo của cha mẹ ở Việt Nam,

       Lệ biết được đi học thế này là một diễm phúc vì vậy Lệ cố gắng và chăm chỉ hết mức.Ba Nghĩa cũng khuyên Lệ, sau này có thể có bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, khi ấy Nghĩa sẽ tìm cách hỏi thăm tìm ra tung tích ba má và các em Lệ.

       Lệ nghe thế lại tạm yên lòng và hy vọng.Mùa Thu năm đó, Lệ vào trường Đại học Y khoa South Carolina.Sau 3 năm, Lệ lấy Cử nhân Sinh Vật học với lời khen của Hội đồng Giám Khảo. Lệ chuyển qua học ngành Nhãn Khoa (Opthalmology). Năm 1990, Lệ đậu bằng Bác sĩ Nhãn Khoa hạng tối Ưu với lời ngợi khen của Ban Giám Khảo. Lệ được mời dạy môn Nhãn Khoa cho sinh viên cùng trường.

4719%205%20TheBaiTDNgoc

       Lệ hỏi ý kiến ba Nghĩa, sau đó Lệ xin khất cho đến khi trở về từ Việt Nam.Tốt nghiệp xong, Lệ bàn với ba Nghĩa, lúc này đã có vợ và một đứa con trai 2 tuổi, ba Nghĩa đồng ý, Lệ đi mua vé máy bay về Việt Nam tìm cha mẹ và các em.

       Sau hơn 10 năm bế quan toả cảng cả nước sắp chết đói, lúc này (từ 1985) chế độ bắt buộc phải mở cửa cho kinh tế thị trường nên cũng dễ dàng cho Lệ đi lại.Lệ và một người bạn thân về đến Chu Lai vào một buổi chiều mùa Hạ năm 1990 sau khi đã lặn lội đi bằng đủ thứ xe từ Sàigòn ra miền Trung. Sau 15 năm, quang cảnh cũ đã thay đổi nhiều.Có những căn nhà mới mọc lên nhưng cũng có nhiều căn trại cũ biến mất. Chỉ có bãi biển, trông vẫn như trước mặc dù có nhiều hàng quán mọc lên bán thức ăn, thức uống cho du khách.

       Trại Gia binh ngày nào không còn. Lệ muốn được gặp lại những người hàng xóm của ba má Lệ ngày xưa như vợ chồng bác Sáu, vợ chồng chú Đàm, vợ chồng cô Bé để hỏi thăm về cha mẹ và các em nhưng đi quanh quanh làng xóm, Lệ không kiếm ra một người quen cũ.

       Lệ đeo cái thẻ bài vào cổ như ngày 23-3-1975 ra bãi biển Chu Lai, nhà nào Lệ cũng vào hỏi thăm và cho con cái họ quà bánh Lệ đem từ Hoa Kỳ về, giơ chiếc thẻ bài cho họ coi và hỏi thăm xem có ai biết ba má và các em Lệ không? Nhưng tuyệt nhiên không ai biết. Vốn đã có định kiến, Lệ xin phép chính quyền sở tại, không quên quà cáp cho họ, để mở phòng mạch khám mắt miễn phí cho mọi người.

       Một nữ bác sĩ Hoa Kỳ, cô Ruthie O’Brien, bác sĩ gia đình, vốn là bạn thân và cùng ra trường một ngày với Lệ, cùng đi với Lệ về chơi thăm miền Trung Việt Nam, nhân dịp cũng bỏ đồ nghề ra khám bệnh và cho thuốc cùng những lời khuyên hữu ích để phòng ngừa bệnh tật.Các gia đình đến khám mắt và khám tổng quát, nhất là những ông già bà cả đều được hỏi về Trung sĩ Lê văn Buôn, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1, Sư đoàn 2 Bộ binh vào tháng 3 năm 1975 nhưng không một ai biết.

4719%206%20TheBaiTDNgoc

       Mỗi buổi chiều khi khám bệnh xong, Lệ và Ruthie thường ra bãi biển Chu Lai ngồi ngắm sóng và ngắm hoàng hôn trên biển, nghe những tiếng rì rào của sóng biển chạy vào bờ rồi lại trườn ra xa.Thấy bạn buồn vì không tìm ra gia đình, Ruthie lựa lời khuyên nhủ và hỏi Lệ có còn muốn đến nơi nào khác để kiếm không?

       Lệ nghĩ chỉ có hai nơi khác ba má Lệ có thể ở là Nha Trang, quê của ba và Trà Vinh, quê của má. Lệ nói cho Ruthie nghe những nơi Lệ hy vọng nhiều nhất, sau đó Ruthie khuyên Lệ nên đi Nha Trang.Nha Trang không hứa hẹn nhiều cho việc tìm kiếm vì Lệ đã đến đây gần một tuần, đi khắp nơi hỏi nhưng không ai biết cựu Trung sĩ Lê văn Buôn và vợ con.Lệ thất vọng hoàn toàn, thầm nghĩ chỉ còn một nơi nữa là Trà Vinh.Nếu tại Trà Vinh cũng không có tung tích thì coi như gia đình Lệ đã bị tiêu tán trong hoặc sau ngày 23-3-1975.

Nghĩ đến đó, Lệ cảm thấy buồn muốn khóc.Ba má và các em đi hết chỉ để lại mình con thôi sao, thế thì con có sống cũng mang mối u hoài đau khổ ấy suốt đời!Thà con ở lại nhà chia sẻ những đau khổ với ba má và các em rồi chết chung một huyệt cũng là xong một kiếp người.Lệ buồn khôn tả và khóc mỗi đêm về nhưng không dám cho Ruthie biết.Một buổi sáng, Lệ cùng Ruthie mướn một chiếc xe hơi với tài xế để đi thăm Hòn Chồng, nơi thắng cảnh đẹp có tiếng của Nha Trang.Thật ra Lệ không còn tâm trí đâu ngoạn cảnh vì “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nhưng để chìu Ruthie, Lệ cho Ruthie đi nơi này nơi kia chụp hình lưu niệm và dọc đường có thể tìm vào các quán ăn ngon, các khách sạn sang trọng mướn phòng ngủ qua đêm.Lẽ ra trong chuyến đi này, Lệ mang theo vị hôn phu là bác sĩ Vĩnh quang Dũng, chuyên khoa bệnh tiêu hoá, tốt nghiệp trước Lệ 3 năm và hai người quen nhau khi cùng làm việc trong một bệnh viện nhưng Dũng phải đi Á căn Đình dự một Đại Hội Y Khoa toàn cầu về bệnh tiêu hóa, đại diện cho Bộ Y Tế Hoa Kỳ.Còn vị hôn phu của Ruthie có cha già đang nằm bệnh viện chữa trị bệnh tiểu đường nên anh cũng không thể theo Ruthie đi du lịch Việt Nam được.

4719%207%20TheBaiTDNgoc

       Sau khi đã dạo chơi bãi biển hơn hai tiếng đồng hồ, Lệ đề nghị tài xế chở vòng qua con đường phía sau, nơi đây lưa thưa có dăm cái nhà trên bãi cỏ hoang.Phong cảnh quá tiêu sơ và u buồn, không có bóng một đứa trẻ.Lệ và Ruthie bàn với nhau đi xuống cuối con đường rồi trở lại, trở về thành phố Nha Trang.

       Mới đi thêm một khoảng ngắn, đột nhiên chiếc xe bốc khói ở máy.Tài xế vội cho xe ngừng lại và kiểm soát máy thấy máy cạn khô không còn một giọt nước.Anh ta hoảng hồn tắt máy và ngơ ngáo đi tìm xung quanh để kiếm nước châm vào máy.Đó đây, ngoài con lộ đắp bằng đất đỏ thì toàn là gò đống và bụi cây mọc lưa thưa, tít tắp xa mới thấy vài mái tranh hiện trên nền trời xanh lơ.Lệ và Ruthie phải ngồi chờ dưới gốc cây cho bớt nắng trong khi bác tài lội bộ đi tìm nước.

       Chợt Lệ trông thấy một đám người lố nhố trên một cái gò, cách xa Lệ khoảng 400 mét.Lệ chợt nghĩ hay là họ đào huyệt chôn người chết như hồi còn bé Lệ đã thấy ở Chu Lai nhưng sao không nghe tiếng khóc cũng không thấy quan tài.Trí tò mò thúc đẩy Lệ vào đó coi xem sao. Lệ cũng có ý nghĩ giúp đỡ công việc họ đang làm, nếu họ quá nghèo, cần đến một, vài chục đô-la của Lệ.

       Lệ nói cho Ruthie nghe ý nghĩ của mình, bảo Ruthie ngồi đó chờ mình nhưng Ruthie không chịu, đứng lên cùng đi với Lệ.Hai cô gái cứ tưởng gần và ruộng khô, nào ngờ coi vậy nhưng khoảng cách khá xa và có những chỗ nước ngập mắt cá, hai cô phải tháo giầy cầm trên tay để đi.Khoảng sáu, bảy người vừa đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ cắm cúi nhìn vào một cái lỗ huyệt đang đào do 4 thanh niên khoẻ mạnh, người cầm xẻng xúc đất đổ vào mê tre, kẻ bê đất đổ lên bờ, để dần dần hiện ra tấm nắp thiên bằng gỗ đen sì một cái quan tài.Từ xa lội tới, hai cô gái đã bị những cặp mắt tò mò của đám người trên gò nhìn thấy và theo dõi.

       Khi hai cô tới gần, tất cả đều ngừng tay nhìn chằm chằm như nhìn một hiện tượng lạ.Họ quá lạ lùng bởi từ xưa đến nay chưa có người ngoại quốc nào ăn mặc đẹp đẻ thế kia – đám người cho rằng cả hai cô là gái Mỹ, Pháp, Anh, Úc chi đó, lại lội ruộng vào cái gò này để coi cải mả.Phải, họ đang cải mả.Họ đào cốt người thân chết đã lâu năm, bỏ sang một cái tiểu sành, kiếm chỗ thuận tiện, gần gũi hơn đặt xuống.

4719%208%20TheBaiTDNgoc0

minh hoạ

       Lệ mở lời khi nhìn một người đàn bà lam lũ, già yếu, mặt mày nhăn nheo:

“Chào các bác, các chú, các anh, các chị.Cháu là người Việt sống tại Hoa Kỳ về thăm quê hương.Các bác, các chú đang cải táng cho thân nhân, phải không ạ?”

       Nghe cô con gái nói tiếng Việt, cả đám người thật ngạc nhiên.Sao cô gái trông như Mỹ này, chỉ khác mớ tóc đen, lại là người Việt, nói tiếng Việt thạo quá.Họ bỏ xẻng cuốc đứng vây xung quanh hai cô gái.Người đàn bà lớn tuổi trả lời:

“Phải, người ở dưới huyệt là chồng tôi, chết từ năm 1975.”

       Lệ nghe giọng nói người đàn bà có điều ngờ ngợ nhưng chưa dám tin là mình có thể đúng.Nhân tiện, cứ hỏi thăm xem có ai biết được ba mình không?Lệ chìa tấm thẻ bài đeo trong ngực áo ra cho họ coi, nói:

“Tấm thẻ bài này của ba tôi. Tôi không biết gia đình ông còn sống không và nay ở đâu.Ông tên là Trung sĩ Lê văn Buôn.”

4719%209%20TheBaiTDNgoc

minh hoạ

       Người đàn bà trân trối nhìn Lệ xong ngập ngừng nói: “Thế này thực không phải. Xin lỗi…Có phải tấm thẻ bài này của lính Việt Nam Cộng hoà và cô là …Lệ phải không?”

       Điều Lệ nghi ngờ đã đúng.Giọng nói người đàn bà và nhìn kỹ từ đầu đến chân, Lệ thấy đúng là má Lệ, không còn sai vào đâu được.Lệ ôm chầm lấy bà khóc rưng rức:

“Má ơi! Con đây, Lệ của má đây.Má còn nhận ra con không?”

       Bà Buôn, phải, vì người đàn bà đó chính là vợ goá của Trung sĩ Lê văn Buôn, càng ôm chặt Lệ hơn. Bà rên rỉ:“

       Lệ ơi, má đâu có ngờ Trời Phật còn cho gia đình mình ngày hôm nay. Người nằm dưới huyệt kia chính là ba con đó.Quả lựu đạn ngày 23-3 đã giết ba và thằng Chưởng.Còn lại hai đứa đứng kia, thằng Tung, con Bi giờ đã lớn từng đó.”

       Lệ quay ra ôm hôn đứa em gái và thằng em trai.Chúng cũng xúc động nhưng không xúc động bằng má Lệ và Lệ vì khi xẩy ra biến cố tan nát gia đình, chúng còn quá nhỏ. Bà Buôn hỏi Lệ:

“Con đeo tấm thẻ bài này 15 năm nay để đi tìm ba má và các em phải không?”

“Dạ, đúng thế má.Con đi tìm ba má và các em vì con đâu biết ba đã hy sinh ngày hôm đó.”

      Ruthie đứng ngó mấy mẹ con ôm nhau cũng xúc động nhưng trong ánh mắt cô đọc thấy những tia sáng hân hoan vô bờ của bạn và của mẹ của bạn.Chuyến đi hoàn toàn thành công quá sức mong mỏi, cô lẩm bẩm.Bốn thanh niên lại tiếp tục đào.Họ cậy tấm nắp thiên.Bộ xương người đen sì lõng bõng nước.Ruthie nhìn thấy sợ quá phải đứng tránh ra xa.Cô đã quen với xác chết trong các bệnh viện nhưng không phải là bộ xương đã rữa mục này.

       Lần đầu tiên Lệ nhìn thấy bộ xương cải táng nhưng Lệ không sợ mà Lệ muốn đứng thật gần để nhìn cho rõ hình hài của người cha đã sinh ra mình.Khi má Lệ hỏi Lệ vì sao biết mà vào đây.Lệ thuật lại từ đầu tới cuối, vì sao xe phải ngưng lại, bác tài xế phải đi kiếm nước đổ vào máy xe để đi tiếp v.v…

       Bà Buôn thắp lên mấy cây nhang và hai ngọn nến trong khi mấy người đàn ông đổ rượu trắng ra cái chậu sành và rửa từng khúc xương cho sạch, lấy giấy bản lau khô xong xếp vào một cái tiểu sành mầu đất nung đỏ quạch.Trong số người lo chuyện cải táng, có chú Năm thợ hồ có nhiều kinh nghiệm.Chú vừa làm vừa chỉ dẫn cho mấy anh thanh niên làm. Chú nói:

4719%2010%20TheBaiTDNgoc

minh hoạ

“Tôi học nghề cải táng từ năm mới 16 tuổi mà năm nay đã 55, coi như 39 năm trong nghề mà tôi chưa thấy một vụ nào lại linh thiêng như Trung sĩ Buôn đây.Nghe cháu Lệ vừa nói thì cháu đã để tâm tìm ba má cháu nhiều năm nhưng không ra tung tích; đến bữa nay hồn thiêng Trung sĩ dun dủi làm cho chiếc xe hơi đang chạy ngon lành bỗng hết nước ở ngay khúc đường này, xe bốc khói xuýt cháy máy và từ đó cháu Lệ mới có cơ hội lặn lội vào cái gò này vì tính tò mò và cũng vì tính thương người, muốn giúp đỡ người nghèo.Vì thế mà Trời Phật không bỏ cháu.”

       Bác tài xế đã lặn lội đi xin được một bình nước đổ vào xe.Thay vì hai thanh niên phải khiêng chiếc tiểu sành, giờ này chiếc tiểu sành được bỏ lên xe, mọi người về nghĩa trang gần nơi cư ngụ của gia đình bà Buôn.Nghe Lệ kể sơ lược từ lúc được ba Nghĩa nuôi vớt lên tàu và được học hành ở Hoa Kỳ, hiện đã là một bác sĩ Nhãn khoa Hoa Kỳ, tiền bạc dư dã, tương lai sáng lạn, bà Buôn quá sung sướng lại khóc.Bà chạnh lòng nghĩ đến người chồng bạc phước đã chẳng được sống thêm để nhìn thấy sự thành công của đứa con gái ông yêu quý nhất đời.Huyệt mộ cho cái tiểu sành đựng nắm xương của người cha bạc số của bác sĩ Vivian Le đã đào xong, nhỏ và nông nên đào rất nhanh.

4719%2011%20TheBaiTDNgoc0

minh hoạ

       Lần này nó không nằm trên gò đất chung quanh là sa mạc sỏi đá, cây cỏ hoang vu mà ở trong một nghĩa trang đẹp đẽ bên ngoài thành phố Nha Trang.Khoảng 4 giờ chiều, mọi việc hoàn tất, bà Buôn, Lệ và hai đứa em của Lệ thắp hương, sụp quỳ, vái lậy, khấn khứa.Lệ cố hết sức giữ cho khỏi quá xúc động nhưng khung ảnh trắng đen của cha Lệ trước mặt lúc nào cũng như đang nhìn Lệ âu yếm làm Lệ tràn nước mắt và cái ngày độc địa 23-3-1975, tại bãi biển Chu Lai, lại hiện rõ mồn một như Lệ đang đứng sát bên cha Lệ, bám vào tay ông cho khỏi sóng đánh ra xa.

       Nỗi buồn năm xưa dù chưa quên được nhưng hiện tại vẫn là đáng sống. Mẹ con bà Buôn đành phải khép lại trang sử đẫm máu của gia đình và của xóm giềng, thân thuộc để xây dựng ngày mai tươi sáng hơn.Lệ đã đưa tiền cho má và em đi chợ mua các thức ăn về làm một bữa cơm đãi đằng chòm xóm và những người thân thuộc, trả công hậu hỉnh cho những người cải táng hôm đó.

       Ai cũng tấm tắc khen sao lại có cái thần giao cách cảm đó để mà đến đúng chỗ, đúng lúc, gặp lại mẹ và em và nhìn được hài cốt của cha. Chuyện thực mà khó tin, xẩy ra như trong một giấc mơ.

       Nhờ có nghề nghiệp cao và lợi tức vững vàng lại công dân Mỹ của Lệ, hơn hai năm sau bà Buôn và Tung, Bi đã đoàn tụ với Lệ ở Hoa Kỳ. Bà Buôn lập một bàn thờ, một bên để di ảnh cuối cùng của thằng Chưởng khi nó 3 tuổi, một bên treo tấm thẻ bài, ở giữa bàn thờ là bát hương, có bài vị và di ảnh đen trắng của Trung sĩ Lê văn Buôn, người Chiến sĩ kiêu dũng VNCH đã hy sinh vì Tổ quốc, người chồng, người cha thân yêu vẫn luôn luôn như đang mỉm cười với vợ và các con!

     Đây là câu chuyện thật mà người viết đã lấy từ bài viết "Tấm Thẻ Bài" của Bút Xuân Trần Đình Ngọc đăng trong website: http://www.tinvasong.com/?arti cleId=373001, người viết có cắt xén để bài viết được gọn lại.

Nguồn: Internet - Nguyệt Vân Sưu tầm

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22108
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Mar/2023 lúc 4:58pm

Chuyện Tình Cô Gái Phú Yên


                      

Đã%20tìm%20thấy%20cô%20gái%2016%20tuổi%20mất%20tích%20khi%20đến%20TP.HCM%20-%20Xã%20hội

Anh lính Sư Đoàn 22
Hành quân Phú Tài,
Gặp cô gái Phú Yên.
Vừa đẹp, vừa hiền,
Ái tình chớm nở, mối tơ duyên đậm đà.
 
Thương ai ăn nói mặn mà,
Anh vượt Đèo Cả, anh ra thăm nàng.
- Em đợi anh ở bến Đà Rằng.
Đan tay tình tự,
Ta đi giữa hai hàng dừa xanh.
 
Tuyệt vời bãi biển Phú Yên,
Sóng hiền ôm bờ cát,
Cùng nhau tắm mát hồn nhiên!
Nhìn lên Núi Chúa, em nặng lời nguyền:
“Trao người chiến sĩ mối duyên trọn đời!”
Anh sung sướng nghẹn lời,
Hôn em giữa trùng khơi sóng gió!
 
           
- Tắm xong.  Vào quán nhỏ,
Lính nghèo nhưng chịu chơi,
Đãi em xoài tượng Xuân Đài,
Sơn Hoà đặc sản, mía lùi thịt nai.
Món ngon có một, không hai,
Nổi danh sò huyết, bắt ngoài đầm Ô Loan.

Rồi … nàng đưa anh chàng về Tuy An,
Thưa trình cha mẹ, để những lo toan mối tình.
- Ba ngày phép qua thật nhanh,
Nắm tay bịn rịn, tiễn anh trở về,
Miệng cười … bỗng lệ đầm đìa!
Nghẹn ngào nhắc lại lời thề,
Cầu mong anh chiến thắng,
Có ngày về Phú Yên.
Để em giữ trọn lời nguyền,
“Trao người chiến sĩ mối duyên trọn đời!"

 Sao bây giờ mỗi đứa một nơi?
Chưa có chồng, mà goá bụa!
Để em cô đơn… một góc trời Phú Yên !
   Trần Quốc Bảo


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 02/Mar/2023 lúc 8:35am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22108
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Mar/2023 lúc 9:21am

Thơ: ANH Ở ĐÂU ? Nhạc: Concierto de Aranjuez - Francis Goya - 1/28/2023 <<<<<<

White%20&%20Purple%20Foxtail%20Orchids%20at%20Rs%20350/piece%20|%20Orchids%20in%20New%20Delhi%20|%20ID:%20%2024928271048


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/Mar/2023 lúc 9:24am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22108
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Mar/2023 lúc 9:22am

Người Tù Kiệt Xuất

 

Tôi đã nhiều lần định viết về những người tù kiệt xuất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa: những anh em Biệt Kích Dù, những người “từ trên trời rơi xuống”, nhưng tôi cứ lần lựa mãi. Lười biếng thì chỉ có một phần. Lý do chính yếu là những người bạn tù mà tôi bội phần cảm phục ấy đang ở trong một tình trạng hết sức khó khăn. Chúng tôi đi cải tạo sau tháng 4 đen 1975, dù đớn đau, khổ nhục đến đâu, vẫn có tên, có tuổi, hằng tháng, hằng quý vẫn còn liên lạc được với gia đình. Anh em, bè bạn ở nước ngoài vẫn còn có chút âm hao để mà theo dõi.


Những anh em Biệt Kích Dù thì đúng là “thượng diệt, hạ tuyệt” – không có quân bạ, quân số, không có tên có tuổi nào được đăng ký, không có chính phủ nào, quân đội nào công nhận có những con người ấy ở dưới tay. Không được liên lạc với ai, coi như không còn hiện diện trên trái đất. Ở trên trời rơi xuống Bắc Việt vào đầu thập niên 60 thời Đệ Nhất Cộng Hòa, những anh em Biệt Kích Dù đã tham dự một cuộc chiến tranh tối mật (secret war). Những người tình nguyện tham gia cuộc chiến này đã tự coi như mình đã chết; nhảy xuống, tìm được địa bàn hoạt động, trà trộn được, ẩn dấu được là sống, là thi hành xong nhiệm vụ, nếu bị lộ, bị bắt, bị giết thì “Anh tự lo liệu cho cái thân anh, không có cơ quan nào, tổ chức nào đứng ra can thiệp hay bảo trợ cho anh được”. Những người tù “đứt dây rơi xuống” này không được hưởng chút quyền lợi nào từ quy chế tù binh (Genève); các cơ quan nhân đạo quốc tế như Hội Hồng Thập Tự, Hội Ân Xá Quốc Tế cũng không biết làm sao để can thiệp, vì các anh đâu có quân bạ, quân số, đâu có tên có tuổi được đăng ký hợp pháp ở một chính phủ nào.


Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, (thời tổng thống Ngô Đình Diệm), nghe nói đại tá Lê Quang Tung, em là thiếu tá Lê Quang Triệu phụ trách công tác này. Ở đàng sau có cơ quan tình báo hay phản gián nào của Mỹ yểm trợ hay không, điều này ai cũng hiểu là phải có, nhưng cơ quan nào: CIA hay thuộc cơ quan tình báo Ngũ Giác Đài, không ai dám đoan chắc, mà cũng không ai dám biết.

Nghe nói những người được tuyển chọn vào Biệt Kích Dù tham gia vào cuộc chiến tranh tối mật, ngoài những người khả năng đặc biệt về nghiệp vụ như tình báo, truyền tin, phá hoại, trà trộn dưới đồng bằng, ẩn dấu trong rừng sâu, chiến đấu với đối phương, với bệnh tật, với thiên nhiên, được trang bị thật kỹ từ A đến Z về mưu sinh thoát hiểm, họ còn phải là những người tuyệt đối tin tưởng vào quốc gia, vào lãnh tụ. “Sống không rời nhiệm vụ, chết không bỏ lập trường” đó là vũ khí chung của anh em Biệt Kích…..


Như mọi người đã biết, cuộc chính biến 1 tháng 11 năm 1963 đã làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa, anh em tổng thống Ngô Đình Diệm bị hạ sát; người rất thân tín, người ủng hộ đến cùng anh em tổng thống Diệm là anh em đại tá Lê Quang Tung, thiếu tá Lê Quang Triệu tất nhiên cũng bị triệt hạ theo. Các anh em Biệt Kích Dù sau tháng 11 năm 1963, khi anh em tổng thống Diệm chết đi, khi anh em người chỉ huy chiến dịch là Lê Quang Tung-Lê Quang Triệu bị hạ sát, đã bị rơi vào tình trạng rắn mất đầu. Sự tan vỡ như thế là không tránh khỏi. Không biết có một sự kiện “vỡ kế hoạch” vô tình hay cố ý nào không, nhưng các anh em Biệt Kích Dù ra Bắc lần lượt bị phát giác, bị truy bức, bị giết và bị bắt. Không ai biết rõ hay biết mà không ai dám nói ra, đã có bao nhiêu Biệt Kích Dù ra Bắc, công trạng họ lập nên được những gì? Bao nhiêu người sống, bao nhiêu người chết? Chiến tranh tối mật nên những người thực hiện sống hay chết đều nằm trong bóng tối. Đó là quy luật của cuộc chơi. Một cuộc chơi quyết liệt và tàn nhẫn. Có nhiều người cho rằng trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, người có công nhất chưa chắc đã là viên thống soái chỉ huy ba quân tướng sĩ, mà người có công nhất có thể là người chiến sĩ vô danh chết chồng đống trong chiến hào, chết âm thầm trong rừng sâu, chết lạnh lùng dưới biển cả. Thời gian cũng như lòng người, đều vô tình như nhau. Nào ai còn nhớ trong biết bao nhiêu người chiến sĩ Biệt Kích Dù ra Bắc đầu thập niên 60 năm ấy, ai còn, ai mất?


Năm 1980 khi lũ tù cải tạo chúng tôi đến huyện Như Xuân, chốn rừng sâu Thanh Hóa, gần biên giới Lào, chúng tôi thấy đây là một trại tù mới dựng giữa rừng sâu. Trước đó, chắc trại Thanh Phong này chưa có trên bản đồ các trại tù miền Bắc. Đây là một trại tù “ẩn giấu”.Lũ tù cải tạo chúng tôi đến đây, thuộc loại được đánh giá là “ác ôn nợ máu” gồm thành phần An ninh, Phòng nhì, Trung ương tình báo, Chiến tranh chính trị, Bình định nông thôn … thành phần mà “Cách mạng” cho rằng có liên hệ với CIA. Nhưng so với anh em tù nhân lưu cựu ở đây thì chúng tôi chưa có kí lô nào hết. Chúng tôi ở phân trại mới K2; phân trại chính và có mặt ở đây trước là K1, nơi giam giữ tù nhân kêu bằng CIA, nhưng thực ra chính là anh em Biệt Kích Dù từ đầu thập niên 60 đã nhảy dù ra Bắc.


Lũ chúng tôi mới tới được đưa ra tắm suối. Chợt gặp hai người, lưng mang dao quắm, khiêng mỗi người một bó nứa khá to. Hai người đặt bó nứa xuống và hỏi: “Các bác vừa ở Tân Lập, Vĩnh Phú xuống?” Chúng tôi gật đầu đồng ý. Hai người liền lật đật đứng nghiêm, giơ tay chào theo đúng lễ nghi quân cách và đồng thanh nói: “Chúng em là Biệt Kích Dù đây”.

Chúng tôi vừa xúc động, vừa hoang mang chưa biết nói năng gì thì một người vừa giơ ống tay áo lên lau mắt vừa nghẹn ngào: “Gần hai mươi năm nay chờ đợi các anh. Không ngờ lại gặp các anh trong tình cảnh này, đau đớn quá”.


Anh em Biệt Kích Dù về miền thượng du Thanh Hóa, gần biên giới Hạ Lào này trước chúng tôi chừng vài năm, sau khi đã trải qua những năm tháng tù đày khốn khổ ở những trại tù rùng rợn vùng biên giới phía Bắc: Trại Cổng Trời Hà Giang, trại “Mục xương” Cao Bằng hay trại Sơn La “âm u núi khuất trong sương mù”. Nếu quân “bành trướng Trung Hoa” không tấn công 6 tỉnh miền Bắc sát biên giới hồi đầu 1979, thì có lẽ anh em Biệt Kích Dù vẫn còn quẩn quanh nơi rừng núi phía Bắc. Ở đâu anh em cũng bị “cất giấu” chốn rừng sâu, cách biệt hẳn với loài người. Một anh Biệt Kích nói với tôi “Coi như ở đây, trại Thanh Phong này là tụi em được gần gũi với “nhân dân” nhiều nhất. Cũng vì thế nên mới được gặp các anh hôm nay”.

 

Trong số các anh em Biệt Kích Dù ở trại Thanh Phong năm ấy (1980) người tù lâu nhất là 20 năm, người ít nhất là 17 năm. “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” chúng tôi đi cải tạo đã được 5 năm, đã thấy cuộc đời tù dài dằng dặc, nhưng so với anh em Biệt Kích Dù này thì thật là chưa thấm vào đâu. Anh em cải tạo tụi tôi vẫn còn liên lạc được với gia đình, vẫn nhận thư, nhận quà, có anh còn được người nhà từ trong Nam ra thăm nuôi nữa. Mới đây một số anh em trẻ, cấp bậc nhỏ đã lác đác được về. Như vậy là ở cuối đường hầm chúng tôi chúng tôi đã có leo lét một vài tia sáng. Anh em Biệt Kích Dù thì từ 20 năm nay, hoàn toàn nằm trong bóng đêm, sống cách biệt hẳn với loài người, coi như những người “bị bỏ quên” trên hành tinh trái đất. Người tù truyền thuyết trong cổ tích Trung Hoa là ông Tô Vũ cũng chỉ chăn dê ở Hung Nô đâu có 17 năm. Xem ra thâm niên đi tù của ông Tô Vũ cũng còn thua xa anh em Biệt Kích Dù. Từ 20 năm nay, tù Biệt Kích chưa hề có ai được tha về. Không, cũng có một số anh em được về – nhưng … đó là “về với đất”.


KHẨU LỆNH BIỆT KÍCH DÙ

Phân trại K2 của chúng tôi nằm cách K1 nơi giam giữ anh em Biệt Kích Dù chừng 4 cây số đường rừng. Ở cách K2 chừng một giờ đi bộ còn có K3 – nơi giam tù hình sự dữ nhất: cướp của, giết người. Từ huyện lỵ Như Xuân, vào đến K1 khoảng 15 cây số. Ngày xưa, hồi kháng chiến chống Pháp cuối thập niên 40, đi vào khu 4, nghe nói đến địa danh Hồi Xuân, La Hán ở trên rừng là đã rợn người. Nhưng mà đường đến Hồi Xuân-La Hán so với đường vào trại Thanh Phong thì chưa đi đến đâu…

 

Một người bạn có vợ thăm nuôi vào được đến Thanh Phong, gặp chồng rồi là cứ ôm chồng mà khóc. Người vợ đau khổ ấy không dám nói cho người chồng xấu số biết chị vừa trải qua những khốn khổ nào. Chỉ biết chị đi từ huyện Như Xuân vào đây chưa đầy 20 cây mà 2 ngày mới đến, phải ngủ giữa rừng. Cái gì đã xảy ra cho người đàn bà miền Nam một nách trên 30 ký quà cáp, không có xe phải đi bộ trên những con đường băng rừng lội suối. Nếu đang đi mà trời mưa đổ xuống thì là tai họa. Suối đang nông lội qua được, mưa xuống chẳng bao lâu là nó thành sông. Miền Trung đất hẹp, rừng không giữ được nước, nên trời đổ mưa xuống là nó theo sông theo suối cuốn trôi ngay ra biển. Suối liền trở thành sông. Người ở đâu ở đó làm gì có phương tiện sang sông nước đang lên cuồn cuộn. Nước lên rất mau mà xuống cũng mau. Người đàn bà đi thăm nuôi chồng phải nghỉ qua đêm ở một cái chòi vắng ven rừng. Đêm đến, những “con người thú” đã khai thác đến tận cùng thân xác và của cải người đàn bà thân cô thế yếu giữa rừng sâu. Sáng ra chị đã muốn cắn lưỡi tự tử, nhưng vì không muốn bỏ rơi mấy đứa con nhỏ còn ở lại Sài Gòn, nên chị mới lê tấm thân nhơ nhớp đến gặp chồng đang cải tạo. Quà cáp cũng bị cướp đi luôn. Hai vợ chồng cứ ôm nhau mà khóc.


Câu chuyện đau khổ ấy, dù người chồng câm nín không tiện nói ra nhưng dần dần anh em ai cũng biết. Nó trở thành một nỗi âu lo âm ỉ trong đám tù cải tạo. Ai mà không mong một ngày nào đó được thăm nuôi, được gặp vợ, gặp con. Nhưng nếu vợ con mình, thân nhân của mình phải hứng chịu những tai vạ đau thương nhường ấy để được thăm nuôi mình thì khốn nạn cho vợ con mình quá. Nhưng lo thì lo vậy, biết tính làm sao. Thân mình còn chưa chắc là của mình thì còn lo cho ai được nữa. Trước sự kiện mất an ninh, cướp bóc, hiếp đáp giữa đường như vậy trại cũng ra thông cáo là sẽ điều tra, sẽ trừng trị nhưng chưa thấy biện pháp nào cụ thể.

 

Anh em Biệt Kích Dù thì ngược lại phản ứng tức thời. Đa số anh em Biệt Kích Dù ở đây là “diện rộng” tỏa ra đi lao động trên rừng. Trại Thanh Phong ngán ngại anh em Biệt Kích Dù nhưng trong thực tế, trại “nể” anh em. Trại nể anh em Biệt Kích Dù vì tác phong của họ, vì sự trên dưới một lòng của họ, nhưng lý do chính yếu nhất là vì Biệt Kích Dù chính là cái “túi tiền” của ban Giám thị trại. Trại tù ở trên rừng, đâu còn chấm mút được gì. Nhưng vì ở chốn rừng sâu, không ai léo hánh đến đây, nên trại dễ làm mưa làm gió. Tục ngữ có câu “Nhất phá Sơn lâm, nhì đâm Hà bá”. Chỉ cần có nhân công biết nghề rừng, có kỹ thuật và có sức. Điều này thì không ai sánh được với Biệt Kích Dù. Rừng ở đây thuộc loại rừng đại ngàn nên gỗ quý thiếu gì, lại còn có quế. Quế Thanh Hóa xưa nay vẫn có tiếng trong nền y dược Đông Phương.


Bây giờ không còn bao nhiêu nhưng một tổ anh em Biệt Kích Dù vẫn được lên rừng tìm quế cho trại trưởng Thùy “mồi”, nhưng bên ngoài gọi là đi lấu nứa. Anh em diện rộng Biệt Kích Dù có 3 đội đi rừng lấy gỗ. Lấy về trại xây dựng thì ít mà lấy gỗ súc đem ra Thanh Hóa bán chui thì nhiều. Tôi được biết trại trưởng Thùy “mồi”, phân trại trưởng K2 Vũ B. ai cũng được anh em Biệt Kích Dù lo sẵn mỗi người một số danh mộc (như lim, như sến, cán bộ vừa vừa thì có gỗ thao lao, bằng lăng) đủ làm một căn nhà bề thế ở quê nhà.


Anh em Biệt Kích Dù như vậy là một thứ tù “thượng thừa” của trại. Tiếng nói của anh em rất được lắng nghe. Phần lớn anh em Biệt Kích Dù là hạ sĩ quan, có một số là dân sự nữa. Chỉ có một sĩ quan chỉ huy, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Chưa được gặp anh, nhưng tất cả anh em Biệt Kích Dù nói đến người chỉ huy của họ với tất cả lòng kính mến. Rất ít người được gặp vị sĩ quan Biệt Kích Dù này, vì anh không lao động, không đi ra ngoài. Tuy vậy, một mệnh lệnh của vị chỉ huy Biệt Kích Dù đưa ra, dù là ở trong cảnh tù đày, nhưng anh em Biệt Kích Dù vẫn tuân hành răm rắp.


Phản ứng trước sự mất an ninh con đường từ huyện Như Xuân đến trại, anh em Biệt Kích Dù đề nghị mở một “dịch vụ chuyên chở” từ huyện lỵ đến trại Thanh Phong. Lúc ấy đang có phong trào “hạch toán kinh tế”. Anh em Biệt Kích Dù có kế hoạch đóng 2 cái xe trâu, do trâu của trại kéo cùng với hai anh em Biệt Kích Dù phụ trách. Hai xe, một ra một vào, giúp cho thân nhân của anh em cải tạo viên có phương tiện đi lại, khỏi phải gồng gánh đi chân như trước, trại cũng có một nguồn thu ổn định. Hoặc có thể dùng xe trâu để chuyên chở nông lâm sản hay hàng tiêu dùng cho trại và dân chúng. Đề nghị này được chấp thuận và sau đó gia đình cải tạo viên tới thăm nuôi có xe trâu chở hàng, chở người, tuy chậm nhưng mà chắc, không bị dân vùng đó hà hiếp, bắt chẹt về giá cả gồng gánh – quà cáp và thân nhân tù cải tạo cũng được bảo vệ an toàn.


Cùng một lúc với việc đóng xe trâu chở hàng, chở người, anh em Biệt Kích Dù “diện rộng” đi “rỉ tai” khắp các vùng thôn bản xa gần trong huyện Như Xuân “khẩu lệnh” của Biệt Kích Dù . Khẩu lệnh như sau: “Thân nhân cải tạo viên ở trại Thanh Phong này là bà con ruột thịt của Biệt Kích Dù. Anh em Biệt Kích Dù xưa nay không động đến ai, nhưng thằng nào con nào động đến thân nhân anh em cải tạo, dù là về của cải, dù là về nhân thân, là Biệt Kích Dù nhất định không để yên. Luật của Biệt Kích Dù là “mất một đền mười”. Động đến thân nhân cải tạo viên, nhẹ là chặt chân, chặt tay, nặng là giết mà giết cả nhà. Biệt Kích Dù không có gì để mất, đã nói là làm”.

Từ đó về sau, thân nhân cải tạo viên trại Thanh Phong đi thăm nuôi an toàn tuyệt đối…


NGƯỜI CHỈ HUY BIỆT KÍCH DÙ

Hai cái xe trâu, một ra một vào từ trại Thanh Phong tới huyện Như Xuân do anh em Biệt Kích Dù phụ trách không những giúp cho thân nhân cải tạo viên thăm nuôi đi lại an toàn thuận tiện, mà còn là một đường dây giúp chúng tôi liên lạc với “thế giới bên ngoài”? Muốn “bắn” một cái thư khẩn cấp về Sài Gòn, muốn mua thuốc lào, thuốc lá, hay thuốc tây, báo chí… cứ nhờ anh Biệt Kích Dù đánh xe trâu. Chiều nào, vào khoảng ba, bốn giờ là xe trâu của anh Biệt Kích Dù cũng lịch kịch đi qua mấy lán của đội mộc, đội rau, đội mía, đội nông nghiệp tụi tôi ven đường. Biệt Kích Dù hầu như quen biết hết cán bộ coi tù. Anh em có “mánh” để giao thiệp với họ. Bao giờ anh em cũng làm đầy đủ thủ tục đầu tiên: đồng quà, tấm bánh, ít ra cũng là điếu thuốc có cán, hay là tờ báo. Cán bộ nào tới đây cũng nhờ vả anh em Biệt Kích Dù không ít thì nhiều. Vài bó nứa sửa lại cái căn nhà, cây tre làm cột, ít vòng mây buộc lại cái cổng, cái giàn hoa. Cán bộ có chức có quyền thì như đã nói, anh em Biệt Kích Dù “đấm mõm” hết: không một bộ khung nhà bằng danh mộc thì cũng gỗ súc hay đóng bàn đóng ghế. Trên 250 anh em Biệt Kích Dù ở K1 làm đủ mọi thứ nghề, cung cấp nhân lực và kỹ thuật cho hoạt động của toàn phân trại K1. Diện rộng đi rừng lấy gỗ, lấy nứa, lấy mây – ở nhà thì có các đội mộc, đội rèn, đội xây dựng, đội chăn nuôi… anh em Biệt Kích Dù bao thầu hết. Tù thâm niên 20 năm có khác. Biết rõ hết đường đi nước bước của cán bộ coi tù.

Tôi, Nguyễn Hữu Luyện, đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa… tôi chưa thua các anh. Tôi mới thua một trận, chưa thua cuộc chiến này.

 

Trên nguyên tắc trại Thanh Phong K1 đặt dưới quyền chỉ huy của trại trưởng, trung tá Công An Thùy “mồi”, nhưng trên thực tế anh em Biệt Kích Dù suốt 20 năm tù đày gian khổ, vẫn tuân hành tuyệt đối mệnh lệnh của vị chỉ huy của họ, đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Đây là một con người huyền thoại. Chúng tôi nghe đến tên anh từ lâu nhưng chưa bao giờ được gặp, vì anh không đi lao động ở ngoài. Anh em Biệt Kích Dù đều tỏ ra rất nghiêm trang, rất kính cẩn mỗi khi nhắc đến “ông thầy” của họ. Truyện về đại úy Biệt Kích Dù này khá nhiều, đầy vẻ hoang đường, truyền thuyết. Đây là người sau 20 năm bị bắt vẫn còn tuyên bố: “Tôi Nguyễn Hữu Luyện, đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa… tôi chưa thua các anh. Tôi mới thua một trận, chưa thua cuộc chiến này”. – Bắt Nguyễn Hữu Luyện đi lao động, anh nói: “Các anh có thể giam tôi, bắn tôi, nhưng danh dự của một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không cho phép tôi làm những công việc mất nhân cách. Quy chế sĩ quan không cho phép tôi làm như vậy”.


Anh đã bị kiên giam nhiều năm tại rất nhiều trại rùng rợn, dã man nổi tiếng nhưng Nguyễn Hữu Luyện trước sau vẫn là Nguyễn Hữu Luyện, không thay đổi, không khiếp sợ, không khuất phục. Việc Nguyễn Hữu Luyện, không đi lao động như mọi tù nhân khác từ gần 20 năm nay đã trở thành một nề nếp đặc biệt, các trại tù ngoài Bắc dù muốn dù không đều phải chấp nhận. Người ta chưa lường được hết quyền năng của Nguyễn Hữu Luyện đối với anh em Biệt Kích Dù như thế nào. Khi cần Nguyễn Hữu Luyện ra lệnh là tất cả anh em Biệt Kích Dù nghỉ hết. Như bữa ở trại Thanh Phong có một anh em Biệt Kích Dù ho “tổn” nhiều năm không có thuốc nên anh “về nước Chúa”. Phần lớn các anh em Biệt Kích Dù đều là người Thiên Chúa Giáo nhiệt thành, kể cả Nguyễn Hữu Luyện. Nói chuyện với anh em Biệt Kích Dù họ đều nói “anh em lãnh tụ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu chúng tôi chưa có chết. Còn ẩn lánh đâu đó… Lãnh tụ chúng tôi ngày nào đó sẽ trở về…”. Nghe anh em Biệt Kích Dù ho tổn nằm xuống, các đội Biệt Kích Dù khi có lệnh xuất trại đều ngồi yên không đi làm. Họ nói “được lệnh của đại úy Nguyễn Hữu Luyện, anh em Biệt Kích Dù ở nhà để lo hậu sự cho người anh em vừa mới mất”. Cán bộ trực trại đến hỏi Nguyễn Hữu Luyện tại sao ngăn trở việc điều hành của trại. Nguyễn Hữu Luyện trả lời: “Các anh tôn trọng đồng chí của các anh thì chúng tôi cũng yêu thương đồng đội của chúng tôi. Nghĩa tử là nghĩa tận, anh em chúng tôi phải ở nhà để một lần cuối cùng vĩnh biệt người nằm xuống”. Sau điều đình mãi, chỉ có đội Biệt Kích Dù lo về cơm nước cho phân trại và bộ phận chạy máy điện là đi làm, kỳ dư anh em Biệt Kích Dù khác đều nghỉ hết.

 

Gặp gỡ anh em Biệt Kích Dù, nghe chuyện kể về đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện tôi vừa tự hào vừa buồn bã. Tự hào vì đồng đội đã có những người kiệt xuất như vậy, buồn bã vì nhìn lại bản thân, nhìn anh em xung quanh mình thấy khá nhiều người bất xứng. Những năm tháng trong trại tù giữa rừng núi Thanh Phong, anh em Biệt Kích Dù đối với chúng tôi, vừa là một đường dây yểm trợ vật chất, mà cao trọng hơn, còn là một nơi nương tựa tinh thần.

o0o

Tết năm 1982. Một số lớn anh em trong trại K2 đã chuyển về Nam. Đội văn nghệ nghiệp dư của tụi tôi thiếu rất nhiều “nhân tài” nhưng vẫn phải trình diễn cho anh em vui Tết. Thiếu người, thiếu tiết mục, chúng tôi nhập luôn đội múa lân vào đội văn nghệ cho xôm tụ. Không ngờ đội văn nghệ “què” như vậy, Tết lại phải đi “lưu diễn” trên K1 và K3. Mùng 2 chúng tôi lên K1 – đường dài 4 cây số chúng tôi đi gần hai tiếng đồng hồ, khoảng gần 9 giờ mới tới. Một đại diện anh em Biệt Kích Dù nói rằng: “Chẳng mấy khi được đón tiếp các anh bữa nay, anh em K1 chúng tôi xin hạ một con heo để đón mừng anh em văn nghệ”. Tôi được biết sau này sự hậu đãi ấy là do ý kiến của đại úy Nguyễn Hữu Luyện đề xuất. Chưa bao giờ đội văn nghệ tù chúng tôi được tiếp đón long trọng và săn sóc chu đáo như vậy. Theo chương trình, đội văn nghệ trình diễn buổi trưa, diễn xong ăn uống rồi về.


Đang trông nom cho anh em dựng sân khấu ở hội trường, chợt có một anh em Biệt Kích Dù đến bên tôi khẽ nói: “Anh Luyện em mời anh vô trong lán uống trà”. Đi lên đây K1, ước mong thầm kín của tôi là được gặp người sĩ quan Biệt Kích Dù truyền thuyết ấy. Xem con người thật và con người “huyền thoại” giống nhau, khác nhau ra sao. Tôi vội vàng theo người anh em Biệt Kích Dù đi vào trong lán. K1 cũng như K2, K3 lán tù thường tối và thấp. Đi qua hai ba căn nhà dài hôi hám, mờ mịt tôi tới một căn buồng đầu lán. Vừa bước chân vô chưa kịp định thần, tôi đã thấy một con người cao lớn, mắt sáng trán cao đứng phắt dậy, chụm chân theo động tác quân sự, giơ tay chào đúng lễ nghi quân cách, miệng nói: “Mes respects, mon colonel!”.

 

Tôi thảng thốt không biết phản ứng ra sao? Đi tù 5, 6 năm nay, mình là giai cấp đang bị triệt tiêu, là tù nhân đứng hàng thứ bét của nấc thang xã hội, tại sao lại có người chào mình trân trọng như vậy. “Mes respects mon colonel” đây là lễ nghi theo kiểu Pháp. Bao nhiêu năm nay, có nghe thấy, nhìn thấy kiểu chào này đâu. Mình bây giờ, là tù khổ sai biệt xứ, đâu còn gì mà “kính chào trung tá”.

Tôi vội vàng tiến tới nắm lấy tay người đang đứng cứng người chào tôi theo đúng lễ nghi quân cách mà hỏi: “Thưa anh, anh là Nguyễn Hữu Luyện?” Người ấy, vẫn đứng nghiêm, chỉ đưa tay xuống rồi nói tiếp: “Vâng thưa anh, tôi là Luyện”, “Anh Luyện ơi, anh làm vậy tôi khó xử quá, thời buổi này, anh em mình gặp nhau là quý”. Lúc ấy, Nguyễn Hữu Luyện mới rời bỏ tư thế đứng nghiêm, khẽ nói “Thưa anh, anh vẫn cứ phải cho phép tôi làm như vậy. Dù sao chăng nữa, anh vẫn là đàn anh của tôi”.


Nguyễn Hữu Luyện học khóa 4 phụ Thủ Đức. Tôi học khóa 2 có ra trường trước anh vài khóa thật, nhưng 20 năm qua, nếu anh còn ở lại miền Nam, với khả năng ấy, thiện chí ấy, không biết anh đã lên tới cấp nào, đâu có lẹt đẹt như tôi. Khóa 5 Thủ Đức đã có người lên tướng. Nhưng đối với người như Nguyễn Hữu Luyện, theo tôi cấp bực là thứ yếu, nhân cách mới là chính yếu. Ở trong quân đội miền Nam, về nhân cách, ai xứng đáng là đàn anh của đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện bây giờ?


Sau một tuần trà, Nguyễn Hữu Luyện chậm rãi nói nhỏ với tôi: “Có một “thằng em” vừa nhận được một cái tin rất lạ, rất mới. May là lại được gặp anh hôm nay ở đây. Được biết anh vốn là một nhà báo. Xin anh cho ý kiến về tin vừa mới nhận này”. Nói xong Nguyễn Hữu Luyện ra dấu cho một anh em nào đó đứng gần bên “Gọi Th. lên đây”. Trước khi Th. tới, anh Luyện có cho tôi hay Th. là một biệt kích dù cấp bậc thượng sĩ chuyên lo về truyền tin. Th. là một chuyên viên về địa hạt này. Hai chục năm bị bắt nhưng Th. vẫn xử dụng được tay nghề. Ở ngoài Bắc lúc ấy, tiêu chuẩn của một người “phấn đấu tiến bộ” là đạt 3 Đ: xe đạp, đồng hồ và Đài (radio). Trong hàng ngũ cán bộ thì công an vốn là một nơi an toàn mà “kiếm được”. Chỉ có hàng ngũ bộ đội là phải đi chiến trường chết banh thây mất xác hoặc phải đóng quân ở những nơi đầu sóng ngọn gió nghèo mạt rệp mà thôi. Cán bộ Công an tương đối có nhiều người đạt tiêu chuẩn 3 Đ. Nhưng đài ngoài Bắc phần lớn thuộc loại xưa, khó xài, dễ hỏng. Vì vậy nên chuyên viên truyền tin Th. luôn luôn có việc làm. Một lát sau, anh Th. lên gặp chúng tôi. Anh nói rằng: “Em sửa đài cho cán bộ quanh năm không lúc nào hết việc. Nhưng không bao giờ em sửa đài xong xuôi, rốt ráo. Lúc nào em cũng phải lấy cớ này, cớ kia để giữ lại bên mình một cái đài “chạy được”. Em giữ lại để đeo “ê-cút-tưa” vào nghe tin tức một mình. Thưa anh, tối hôm qua, mùng 1 Tết, chính tai em nghe có một ông tướng Mỹ mà em không nhớ được tên đang ở Việt Nam, nói chuyện với các nhà lãnh đạo Hà Nội về vấn đề cựu chiến binh Mỹ mất tích, về tù nhân chính trị… Lần đầu tiên chính tai em nghe là những biệt kích nhảy dù ra Bắc đầu thập niên 60 cũng được xét đến trong dịp gặp gỡ này. Thưa anh, vài chục năm nay nghe đài, đây là lần đầu em nghe đài nhắc đến số phận tụi em. Chúng em là những người bị bỏ quên, coi như đã chết rồi. Không số quân, không tên tuổi, không nơi nào nhận. Chúng em là những người “đứt dây rơi xuống” luôn luôn sống ở một xó rừng góc núi “trên không chằng, dưới không rễ”, không còn liên hệ gì với xã hội loài người. Bây giờ em nghe tin ông tướng Mỹ sang Hà Nội nói đến số phận tụi em, em nghe xong mà tự nhiên nước mắt chảy ròng ròng… không biết là mơ hay thật đây”. Tôi vội cầm lấy tay người thượng sĩ Biệt Kích Dù mà nói: “Đúng đấy bạn ơi, thời gian này ông tướng Vessey, đặc sứ (special envoy) của tổng thống Mỹ Reagan đang viếng thăm Hà Nội. Các báo Việt Nam đều nhắc đến sự kiện này. Tin mà bạn vừa nghe được rất đáng tin cậy”. Nguyễn Hữu Luyện vội chen vào “Làm sao mình tin được đài Hà Nội”. Tôi nói tiếp “Đây là một sự kiện có tính cách quốc tế, truyền thông thế giới đều theo dõi sự viếng thăm của tướng Vessey, nên đài Hà Nội dù muốn dấu cũng khó lòng. Vả chăng thông tin của khối Xã Hội Chủ Nghĩa xưa nay chỉ loan những tin nào có lợi cho họ. Tin bất lợi, họ quên đi ngay. Việc tướng Vessey đến Việt Nam, ở bên trong chắc đã có một thỏa thuận nào có lợi cho Hà Nội không mặt này thì mặt kia. Mình chưa biết được sự thỏa thuận ấy đến đâu, chi tiết ra sao, nhưng việc loan tin sự hiện diện của đặc sứ Vessey đến Hà Nội, nhìn chung là một chỉ dấu thuận lợi cho lũ tù nhân chúng ta, đặc biệt là đối với các anh, những người mà trên 20 năm nay họ cố ý hay vô tình quên lãng”. Nguyễn Hữu Luyện trầm ngâm “Như bản thân tôi và anh em chúng tôi ở đây đã từng rút kinh nghiệm không nên tin tưởng nhiều quá vào người Mỹ” – “Đồng ý trên nguyên tắc, nhưng trong số những người Mỹ còn nhớ đến đồng minh cũ, còn lưu ý đến số phận khốn khổ của chúng ta thì ông Reagan này là số 1. Nếu năm ngoái cái tên Mỹ khùng nào nó bắn ông ấy chết thì chúng ta còn vất vả hơn nhiều. Bây giờ đặc sứ của ông Reagan, tướng Vessey sang đây có đích thân nhắc đến Biệt Kích Dù thì tôi nghĩ sớm muộn trường hợp các anh sẽ được giải quyết. Các bạn có thể được về…”. Một nụ cười mơ hồ trên khuôn mặt Nguyễn Hữu Luyện. Anh như nói một mình “Được về, được về, mà về đâu…..”

o0o

Lời bình Mao Tôn Cương của tôi hồi đầu năm khi lưu diễn ở K1 không ngờ được chứng nghiệm. Đến giữa năm 1982, có hai lượt thả Biệt Kích Dù, mỗi lượt trên dưới 100 người. Chuyện không ai ngờ mà tới. Ông tướng Vessey đặc sứ của tổng thống Mỹ Reagan đã giở lại chồng hồ sơ mật đầu thập niên 60, can thiệp với Hà Nội để cho những Biệt Kích Dù bị giam trên dưới 20 năm ở nơi thâm sơn cùng cốc được trở về hội nhập với loài người. Cùng thời gian đó chương trình “nước sông công tù” đem cải tạo viên đến khai hoang những vùng rừng núi âm u (như trại Thanh Phong huyện Như Xuân giáp với Hạ Lào này) trở thành nông trường, lâm trường, rồi đem gia đình cải tạo viên lên chỉ định cư trú ở những chốn rừng sâu nước độc, cũng được dẹp bỏ luôn. Phần lớn anh em tù chính trị được chuyển về Nam hay đổi đi trại khác. Đến cuối năm 1982, trại Thanh Phong K2 chỉ còn lại trên 50 tù chính trị. Còn lại toàn là tù “đui, què, mẻ sứt” già yếu, bịnh tật… hay là thuộc loại “không tiện cho về Nam”. Tôi thuộc số trên 50 người còn lại này. Ngày 14 tháng 11 năm 1982 trên nguyên tắc phân trại tù chính trị K2 giải thể. Những người tù còn lại đi ra K1. Ở đây tù chính trị sẽ cùng anh em Biệt Kích Dù còn lại lên xe đi đến một trại khác ở Nghệ Tĩnh: Trại Tân Kỳ.


VỀ TRẠI TÂN KỲ

Trại Tân Kỳ này là một trại “trung chuyển”. Bao nhiêu tù chính trị ra Bắc còn lại hồi 76-77 trước khi về Nam về tập trung ở trại nầy và có một số khác ở trại Ba Sao, Hà Nam Ninh. Trại Tân Kỳ này chứa đựng đủ loại tù: tù chính trị, tù CIA, tù Biệt Kích, tù Fulro, tù hình sự thứ dữ. Trại này có 2 khu, khu Tây và khu Đông. Chúng tôi gọi là “Tây Đức” và “Đông Đức” vì khu Tây tương đối dễ thở hơn khu Đông. Ở đây tôi gặp được nhiều loại người: ông Võ Tr. lãnh tụ VNQDĐ ở miền Trung, Quảng Ngãi, linh mục duy nhất Trần Hữu L., những ông tướng Fulro, mấy ông thủ tướng, bộ trưởng “chính phủ trong bóng tối” và đặc biệt tôi được ở cùng lán với người thủ lãnh Biệt Kích Dù. Chính trong thời gian này, vì chung đụng, gần gũi nên tôi mới được hiểu thêm về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện.


Anh em Biệt Kích Dù về trại Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh) chỉ còn độ trên 50 người. Vì có tay nghề riêng nên các anh em Biệt Kích Dù được biên chế về các đội chuyên môn như đội mộc, đội rèn, đội chăn nuôi… Riêng thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện lại chuyển đến một đội khác, đội rau. Tôi xưa nay đi tù cũng có chút “chuyên môn” nên ở đây, trại mới, tôi cũng được xử dụng đúng theo “tay nghề”: chuyên trị về phân và nước tiểu. Ở các trại, đội rau nào cũng cần đến loại phân bón này. Tôi nghiệm ra ở các trại cũ như Yên Hạ (Sơn La), Tân Lập (Vĩnh Phú), Thanh Phong (Thanh Hóa) và bây giờ ở đây Tân Kỳ, đồng nghiệp phân tro của tôi thường được tuyển lựa trong mấy ngành Quân huấn, Quân pháp hay Chiến tranh chính trị. Đồng nghiệp cũ của tôi là thượng tọa nguyên giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo, là mục sư Tin Lành, là thẩm phán Tòa án Quân sự, là giáo sư Trường Võ Bị Quốc Gia v..v… Ở đây thì đại loại cũng như vậy, ở khu Tây Đức này có 4 lán, có 4 người lo về nhà cầu thì 1 là biện lý, 1 là đại đức, 1 là ông thầy dạy Anh văn trường Chiến tranh Chính trị và tôi. Sự tuyển dụng “trước sau như một” này là chấp hành đúng tinh thần “Mao-ít”: “Chữ nghĩa không bằng cục phân”. Tôi lại nhớ đến thái độ của đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện khi anh nhất định không đi lao động. Ở đây cũng như ở các trại khác từ trên 20 năm qua, và đã trở thành biệt lệ, Nguyễn Hữu Luyện được biên chế về đội rau nhưng anh nhất quyết không đi làm.


Toán “nhà cầu” tụi tôi khoảng 10 giờ sáng là công việc tạm xong. Phân, nước tiểu đã dọn sạch, chuyển cho đội rau. Nhà cầu đã quét tước, rắc vôi. Lúc bấy giờ là lo đi tắm vì dù đã đeo khẩu trang, bịt mũi bịt mồm, nhưng tự thấy thân thể mình hôi hám quá. Mùa nực được đi tắm là một cái sướng, nhưng mùa rét mà phải đi tắm trong khi bụng đói cồn cào lại là một cực hình. Nước suối lạnh cắt da, mấy tên tù mặt mũi xám xịt, thân thể gầy còm, co ro run rẩy, ngần ngại đứng bên bờ suối. Nguyễn Hữu Luyện không lao động, người luôn luôn sạch sẽ, nhưng ngày nào dù rét đến đâu Luyện cũng cùng chúng tôi đi tắm. Người lội xuống suối đầu tiên là Luyện. Anh nói: “cứ ào một cái là xong”. Cái lạnh ở miền Trung này đối với Nguyễn Hữu Luyện xem ra không có nghĩa lý gì. Anh bao nhiêu năm nằm trong hốc đá ở trại cổng trời Hà Giang. Bao nhiêu năm cùm kiên giam trong trại mục xương Cao Bằng. Ở miền cực bắc nước ta, cái lạnh còn ác liệt hơn nhiều. Người tù Biệt Kích trên 20 năm, đi qua mọi gian lao thử thách bằng một câu nói vô cùng giản dị: “Cứ ào một cái là xong”.


Ở gần bên, trong cùng một lán, tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện sống như một thiền sư. Trong tù có một vấn đề hết sức quan trọng là ăn. Ai cũng đói mờ người. Bữa ăn và cái ăn là giấc mơ lớn nhất của tù. Nhưng đối với Nguyễn Hữu Luyện hình như anh coi rất nhẹ vấn đề ăn. Anh được phát đồ ăn thế nào, ăn thế ấy, mà ăn rất lẹ, rất nhanh, không biết anh ăn lúc nào. Không thấy anh phàn nàn bao giờ về vấn đề đói. Hình như anh ở tù lâu quá, đói trở thành thường trực nên anh đã quen đi. Một vài anh em được thăm nuôi, hoặc nhận quà, có lòng quý mến anh, biếu anh cục đường, nắm xôi, tấm bánh hay mời ăn một bữa cơm, nhưng trước sau không thấy anh nhận của ai một tặng vật nào. Tôi một bữa nhận quà có đưa đến anh một chiếc bánh chưng nho nhỏ. Anh nhất định chối từ. Tôi mới nói: “Chỗ anh em sao anh kỹ quá”. Nguyễn Hữu Luyện cười cười, nắm tay tôi mà nói nhỏ: “Bao nhiêu năm tôi tập cho cái bao tử nó đòi hỏi thật ít. Bây giờ anh em cho tặng vật, ăn vào nó quen dạ đi thì lại khổ đấy anh ạ”.


Nhưng có một thứ mà ai cho anh cũng nhận. Nhận một cách hân hoan. Đó là xà bông. Không hiểu sao, Nguyễn Hữu Luyện có một nhu cầu về tắm rửa, về sạch sẽ một cách lạ lùng. Xà bông đối với anh thật là cần thiết. Như đã nói ở trên, chúng tôi dân “nhà cầu” làm việc xong, mình mẩy hôi hám nên cực chẳng đã mùa rét mà phải đi tắm. Nguyễn Hữu Luyện không đi lao động mà trưa nào cũng ra suối với chúng tôi.

Nguyễn Hữu Luyện người rất cao, ít ra là 1,75m. Quần áo trại phát anh mặc vào ngắn cũn cỡn. Người đã cao anh lại còn đi đôi guốc mộc do anh đẽo lấy nên trông lại càng lênh khênh. Đi tù anh nào anh nấy chân nứt nẻ, bè ra như tổ tiên giao chỉ, riêng Nguyễn Hữu Luyện chân trắng bóc, gót đỏ hồng. Trông gót chân của người Biệt Kích Dù đi tù trên 20 năm tôi bỗng nhiên nhớ đến 2 câu thơ của Vũ Hoàng Chương thuở nào:

Ta van cát bụi trên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này


Trong món đồ hàng ngày đi tắm của Nguyễn Hữu Luyện có một vật rất lạ, rất ít có ở đây. Tù đi tắm thì cứ thế cởi truồng ra, vục tay xuống suối mà kỳ cọ, tắm rửa. Hoặc buổi sáng có ra giếng rửa mặt thì cũng chỉ mang cái thùng kéo nước với bàn chải đánh răng là cùng. Nguyễn Hữu Luyện đi tắm khác với người ta, mang theo một cái chậu men xanh thật đẹp. Màu men óng ả chói ngời…tương phản rõ rệt với màu cố hữu của trại tù là màu xám xịt. Tôi mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện: “Ở đâu mà có cái chậu men xinh đẹp vậy?”. Nguyễn Hữu Luyện trả lời: “Tôi cũng không ngờ là tôi lại nhận cái chậu này. Của tên trại trưởng trại “mục xương” ở Cao Bằng tặng cho tôi đấy. Cao Bằng giáp với biên giới Trung Hoa nên vẫn có hàng lậu đi từ Trung Quốc sang. Cái chậu này là đồ làm từ Quảng Châu có nhãn hiệu chỉ rõ. Dạo cuối thập niên 70, tên trại trưởng Thiếu tá Công an nó hành tôi ghê lắm. Nhất định nó bắt tôi đi lao động. Tôi thì nhất định không đi. Nó liền cùm chân. Cùm chán rồi đem xuống hầm tối. Rồi bắt nhịn ăn. Mùa lạnh nó còn đổ nước xuống hầm nữa. Tôi người Công giáo nên tôi cầu Đức Mẹ Maria, trong cơn thập tử nhất sinh, tôi cũng cầu luôn Phật Bà Quan Âm nữa. Nó hành tôi mãi năm này sang năm khác mà cuối cùng tôi vẫn còn sống. Nhưng mà chết thì thôi, tôi nhất định không đi lao động. Không chịu thua chúng nó”. – “Như vậy thì tên trại trưởng này nó hận anh ghê lắm, tại sao nó lại tặng anh cái chậu này?”- “Tôi cũng không biết nữa, hắn hành tôi luôn mấy năm, nhưng cuối cùng hắn thả tôi ra khỏi hầm kiên giam. Một bữa hắn cho gọi tôi lên. Hắn nói: “Tôi sắp đổi đi trại khác, có phải anh ưa tắm rửa lắm phải không? Tôi tặng anh cái chậu Trung Quốc này”. Tôi từ chối nhưng hắn ta cứ để cái chậu lại, rồi bắt tay từ biệt. Chẳng đặng đừng, tôi phải giữ cái chậu men xanh này, mà tôi cũng không hiểu tại sao hắn lại làm như thế”.


TẤM HÌNH NHẬN ĐÊM CUỐI NĂM

Ở cùng lán tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện là một người ít nói, ít giao thiệp. Không đi làm, cả ngày tôi thường thấy anh ngồi quay mặt vào tường, kiểu thiền sư diện bích. Nhưng không phải anh ngồi thiền mà anh đọc sách. Một cuốn sách dày để trước mặt. Anh người Công giáo, tôi tưởng anh ngày ngày đọc thánh kinh. Nhưng một hôm tôi biết là không phải. Một buổi chiều anh mời anh bạn giáo sư Anh văn lại chỗ anh. Anh hỏi về văn phạm, về cách đọc một vài chữ khó. Thì ra cuốn sách dày anh luôn để trước mặt là một cuốn tự điển Anh Việt. Bạn tôi hàng ngày ngồi học thuộc từng trang tự điển. Tôi mới hỏi: “Ông học Anh văn kiểu ấy thì bao giờ cho xong?” Luyện trả lời: “Được chữ nào hay chữ nấy mà cũng để cho nó quên ngày quên tháng đi ông ơi”.

Nhưng học Anh văn, theo tôi nghĩ rất khó mà tự học. Còn văn phạm còn cú pháp, còn cách đọc, cách nhấn…..làm sao cho người ta hiểu. Ông bạn giáo sư Anh văn và tôi cùng dân “nhà cầu” nên ở gần nhau. Thỉnh thoảng buổi chiều, buổi tối Nguyễn Hữu Luyện lại tới rù rì bàn chuyện tiếng Anh. Ở trong trại cải tạo, tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Pháp, tiếng Anh nguyên tắc là cấm chỉ. Nhưng dạo này ở Sài Gòn có phát hành tuần san Nga Sô ấn bản tiếng Anh gọi là New Time. Vì nhu cầu đọc báo cũng như nhu cầu tìm học tiếng Anh, nên tờ New Time anh em nhận được từ gia đình gởi tới khá nhiều. Thấy sách báo của đàn anh Nga Sô vĩ đại là cán bộ trực trại gật đầu cho nhận. Anh em đọc New Time với quan niệm “Nó nói gì, kệ cha nó – miễn là mình có tài liệu học Anh văn”. Nguyễn Hữu Luyện là người tìm đọc New Time kỹ nhất.

o0o

Chúng tôi về trại mới Tân Kỳ đã được gần 3 tháng. Anh em Biệt Kích Dù được tha về từ trại cũ Thanh Phong có lẽ cũng đã được trên dưới nửa năm. Đã gần tới Tết, sắp sang năm mới 1983. Anh em nhận được quà nhà gởi “đông” hơn dạo trước. Trại này ở gần ngay huyện lỵ Tân Kỳ nên thư từ, quà cáp thành tới mau hơn Thanh Phong nhiều.Tôi nhận thấy hằng ngày vào khoảng buổi chiều sắp sửa đóng cửa lán, thế nào cũng có một vài anh em Biệt Kích Dù đến nói điều gì đó với Nguyễn Hữu Luyện, như là “báo cáo” hằng ngày của anh em với chỉ huy trưởng. Vừa có một sự kiện đặc biệt xảy ra với anh em Biệt Kích Dù. Trên 20 năm nay, anh em Biệt Kích Dù không bao giờ nhận được thư, được quà…Anh em là những người bị bỏ quên trong xã hội loài người. Nhưng gần đến Tết năm 1983, có trên 10 gói quà gửi đến cho một số anh em Biệt Kích Dù. Những anh em được về từ nửa năm trước đã họp nhau gửi quà cho những người còn ở lại. Trong một buổi tối lên ngồi nói chuyện với tụi tôi, Luyện kể: Một số lớn anh em được về nhưng không còn liên lạc được với gia đình nữa. 20 năm qua gia đình xiêu tán không còn nhận được âm hao. Có anh thì vợ đã lấy chồng khác, đã an phận với một cuộc đời mới từ mười mấy năm qua. Ván đã đóng thuyền, người trở về không muốn gây phiền muộn cho cố nhân làm gì nữa. Những anh em tìm lại được thân nhân, gia đình phải nói là rất hiếm. Vì vậy nên một số lớn anh em Biệt Kích Dù sau khi đi tù 20 năm biệt xứ trở về đành tụ họp cùng nhau, tùy nghề nghiệp, tùy hoàn cảnh mà quây quần bên nhau xây dựng một cuộc đời mới, trong một xã hội mới đầy khó khăn, thù hận. Cuộc sống mới của anh em hẳn là vất vả, gian nan, nhưng những món quà của anh em ở ngoài gửi vào cho anh em ở lại đều là những đồ gia dụng cả: gạo nếp, gạo tẻ, mì, trứng muối, thịt ướp, cá khô, cá hộp v.v… những thứ cần thiết cho một ngày Tết cổ truyền. Anh em được về như vậy đã không quên những người ở lại. Tôi có nghe buổi chiều Luyện dặn một anh em Biệt Kích Dù “sẽ họp lại ăn chung”.Một số anh em nhận được quà, được thư, nhưng bản thân Nguyễn Hữu Luyện thì không. Anh là người ít nói, không thích tỏ bày nên tôi cũng không tiện hỏi. Không biết gia đình của anh bây giờ ra sao? Có thể bản tính anh kín đáo, hoặc là nghề nghiệp Biệt Kích, được huấn luyện về bảo mật quá kỹ nên anh không muốn nói về mình; hay là những năm tù kiên giam trong hầm đá đã làm cho anh quen đi với bóng tối và im lặng. Tôi không biết nữa. Tôi chợt nhớ đến chi tiết khi tôi gặp anh lần đầu ở trại Thanh Phong, sau khi nghe tin đặc sứ của tổng thống Mỹ Reagan, tướng Vessey can thiệp thì các anh em Biệt Kích Dù có thể được về, Nguyễn Hữu Luyện đã âm thầm khẽ nói “được về, được về…..mà về đâu?”


Bây giờ tôi mới hiểu hơn hai chữ “về đâu?” của Nguyễn Hữu Luyện. Không biết anh có còn gia đình, có còn người thân chờ đợi? Trên 20 năm biệt xứ, không thư từ, không liên lạc, không tin tức….. đâu phải người đàn bà nào cũng bền gan hóa đá vọng phu? Cái dấu hỏi sau 2 chữ “về đâu” của Nguyễn Hữu Luyện là hoàn toàn hữu lý. Gần Tết năm nay, khi một số khá đông anh em Biệt Kích Dù đã có tin tức…tôi băn khoăn, hồi hộp lo lắng cho tình trạng của anh mà không dám nói ra. Đây là một vấn đề riêng tư rất tế nhị, có khi thiêng liêng nữa, không nên vội vàng đề cập tới.


Một buổi tối Nguyễn Hữu Luyện đến với tụi tôi, dáng điệu hấp tấp hơn thường lệ, trên tay không cầm tờ New Time như mọi khi mà thay vào đó là một bao thư. Chuyến quà buổi trưa vừa tới có thêm một số gói cho anh em Biệt Kích Dù, và trong gói quà mới có bao thư này. Gói quà gởi cho một anh em Biệt Kích Dù khác, nhưng có một số hình ảnh nhờ anh Biệt Kích Dù này gửi cho Nguyễn Hữu Luyện, anh vừa nhận được buổi chiều. Anh ngồi quay lại, đưa hình cho chúng tôi coi. Hình ảnh một đám cưới. Cô dâu, chú rể đang đứng lạy trứơc bàn thờ khói hương nghi ngút. Trên bàn thờ có tấm hình phóng lớn của thân sinh cô dâu. Đôi trẻ vừa thành hôn đang cúi đầu trước người đã khuất. Tấm hình trên bàn thờ nhìn kỹ đâu phải ai xa lạ chính là hình Nguyễn Hữu Luyện 20 năm về trước. Nguyễn Hữu Luyện nói trong xúc động: “Khi tôi đi con gái đầu lòng tôi mới có 4 tuổi, năm ngoái con tôi nó đã lấy chồng. Hơn 20 năm cách biệt không thư từ, không tin tức, vợ con tôi tưởng rằng tôi đã chết”.

Đây là lần đầu tiên tôi thấy một giọt nước mắt ngập ngừng trên khuôn mặt phong sương của người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Trong đêm cuối năm giá buốt ở trại Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh, có 3 người tù cùng âm thầm nhỏ lệ trong đêm.


BẠN TÙ FULRO

Ở trại “Tây Đức” có 4 lán thì 3 lán là tù chính trị ở cùng với tù Fulro, lán còn lại là tù hình sự. Trại Tân Kỳ này, thời kỳ “phồn thịnh” chứa trên 1000 tù, bây giờ tù chính trị được đưa về Nam khá đông nên cả hai khu “Đông Đức – Tây Đức” chỉ còn lại chừng 500 tù. Chúng tôi ở đội rau cùng lán với anh em Fulro thuộc đội “củ quả”, chuyên trồng bí, trồng khoai, trồng tra, trồng mía… Những anh em Fulro theo chức danh ghi trong “lý lịch trích ngang” đều là những nhân vật lớn như thiếu tướng, chuẩn tướng, đại tá, trung tá, thiếu tá v.v… nhưng thật ra chỉ là những đồng bào thiểu số không biết chữ, nói tiếng Việt không bỏ dấu, rất khó nghe… luôn luôn cười nhe hai hàm răng cà sát lợi. Sự ngây thơ, chân thật hiện rõ trong từng dáng điệu, từng lời nói. Nghe, nhìn họ khó có thể tưởng tượng đó là tướng, tá trong mặt trận giải phóng liên kết các dân tộc bị áp bức Fulro (Front unifié pour la libération des races opprimées). Phong trào này đã phát khởi từ lâu, giữa những năm 60 và đã gây phiền nhiễu không ít cho chính quyền miền Nam. Sau tháng 4 đen 1975 khi miền Nam rơi vào tay cộng sản, phong trào Giải phóng các dân tộc bị áp bức Fulro không những không tiêu trầm mà ngược lại Fulro lại trở thành một mặt trận võ trang chống đối cộng sản rất mạnh mẽ tại miền Cao nguyên Trung phần thuộc Hoàng Triều Cương Thổ cũ. Rất đông các đồng bào thiểu số thuộc nhiều bộ tộc ở Kontum-Pleiku bị bắt, cho rằng có dính líu tới Fulro. Riêng ở trại Tân Kỳ này có tới hơn 200 tướng, tá Fulro bị bắt giữ.


Chúng tôi tù ngụy quân, ngụy quyền, biệt kích ở với anh em Fulro tương đối thuận thảo, không thấy anh em Fulro lộ vẻ “căm thù” gì hết. Nhiều khi anh em còn tiếp tế củ khoai, đẫn mía… Anh em đội rau thì đưa lại su hào, rau cải. Không nói ra nhưng tù chính trị và tù Fulro thông cảm nhau trong tình cảnh “cùng một lứa bên trời lận đận”. Nhưng một buổi tối có một sự kiện không ngờ xảy ra. Trong số anh em Fulro ở lán tôi có một anh còn trẻ, nghe nói là thiếu tá, trước đây có đi lính Biệt Kích Mũ Xanh (green beret) của Mỹ hoạt động trên vùng Cao nguyên “Hoàng Triều Cương Thổ”. Anh này chắc làm việc lâu ngày bên người Mỹ, nên ở nơi anh hiện ra một sự kiện nghịch thường. Anh không biết chữ nhưng ngược lại nói tiếng Anh rất “chạy”. Anh nói tiếng Anh dễ hơn, giỏi hơn nói tiếng Việt nhiều, một loại tiếng Anh người ta thường nghe thấy nơi các ghetto ở Mỹ. Tâm tính anh cũng là một sự cộng hưởng kỳ lạ, cái thơ ngây man dã ở bên cái khôn lanh quỷ quyệt. Anh có củ khoai, khúc sắn thì anh đánh đổi lấy rau, lấy đường với anh em tù chính trị “tiền trao cháo múc”. Đêm nằm anh nghêu ngao một bài hát núi rừng nào đó, nghe không hiểu được nhưng phảng phất một nổi buồn rờn rợn, trầm thống như nghe một khúc spiritual của người da đen ở Hoa Kỳ. Anh thạo nghề mưu sinh trong rừng nên anh luôn luôn bắt được cá, lươn, ếch, nhái, có khi rắn nữa để cải thiện bữa ăn. Ăn không hết anh mới bỏ những con vật ấy vào trong một cái hũ sành để làm một thứ mắm riêng. Cái hũ sành nầy anh để dưới sàn, gần chỗ đầu nằm. Lâu ngày mắm có mùi, anh thì chịu được nhưng mấy anh em tù chính trị nằm gần chịu không nổi mới nói với anh trực buồng. Anh trực buồng, một anh công binh già cận thị phải nhờ một anh Fulro có tuổi, nghe nói là đại tá, nói với anh bạn thiếu tá Fulro xin dời cái hũ mắm của anh đi chỗ khác. Anh này nghe xong gạt phăng ông già đại tá sang một bên rồi vùng vằng đi nằm, hết sức bất bình. Cái hũ mắm càng ngày bốc mùi càng nặng, nên một buổi nhân mọi người đi làm hết, anh trực buồng mới mang cái hũ ấy ra ngoài, đặt ở sau lán, bên đống củi. Đi làm buổi chiều về khi lán đã đóng cửa, anh thiếu tá Fulro mới nhận thấy cái hũ mắm của anh không còn ở chỗ cũ. Anh nổi giận đùng đùng, chửi mắng loạn xạ. Một người nào đó mới chỉ anh trực buồng. Anh này chạy bay đến chỗ anh trực buồng già cận thị, nắm ngực áo lôi xền xệch hét lên: “Sao mày lấy của tao, I’m gonna to get you, to kill you…” (Tao sẽ đánh mày, giết mày). Một anh Fulro có tuổi ở gần đấy liền đứng dậy, định can ra; anh Fulro trẻ tuổi đang cơn nóng giận, đẩy anh Fulro già ngã chúi, kéo áo anh trực buồng rách toạc, cái kính cận văng xuống đất. Người ta không biết sự thể sẽ diễn biến ra sao khi anh Fulro đang lên cơn điên loạn rừng rú. Bỗng có một người cao lênh khênh bước tới, đó là tay thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Không biết bằng một chiêu thức Judo hay cẩm nã thủ tuyệt vời nào, hai tay của anh Fulro điên loạn đã bị khóa chặt. Anh Fulro vùng vẫy nhưng không thoát ra được. Nguyễn Hữu Luyện nói gằn giọng: “Đừng làm ồn”. Tay Fulro hét lên: “It’s none of your business” (không phải chuyện anh đừng dính vô). Luyện ôn tồn nói tiếp: “Chuyện không đáng gì. Sáng mai chúng ta gặp nhau giải quyết”. Không biết lời nói của tay thủ lĩnh Biệt Kích Dù có một mãnh lực gì mà sau đó tay thiếu tá Fulro đang trừng trợn bỗng nguôi đi, nhìn xuống đất, Nguyễn Hữu Luyện dừng tay khóa, nhẹ nhàng vỗ vai anh Fulro, khẽ nói “Thôi đi nghỉ đi….”.


Sáng sớm hôm sau trước khi đi làm, hai người (anh thiếu tá Fulro và Nguyễn Hữu Luyện) có gặp nhau và không hiểu sao cái hũ mắm được để lại ngoài lán, bên đống củi. Mối giao hảo giữa anh em tù chính trị với tù Fulro, tưởng rằng sau vụ này sẽ căng thẳng, không ngờ ngược lại, nó tốt hơn lên, kiểu “đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận anh em”. Tay Fulro Biệt kích mũ xanh bây giờ mới nhận ra “ông thầy”, ở nơi thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Thỉnh thoảng buổi tối tôi lại thấy anh bạn Fulro tới chỗ Nguyễn Hữu Luyện nói tiếng Anh, nói bất cứ chuyện gì để cho Nguyễn Hữu Luyện luyện “accent”. Có khi anh ta còn đem tới củ khoai, đẫn mía nữa, nhưng theo như cựu lệ, Nguyễn Hữu Luyện chỉ cám ơn mà không nhận bao giờ.


Sau khi những tấm hình của vợ con anh nhờ một anh em Biệt Kích khác được gởi tới trại Tân Kỳ, tôi một bữa mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện “Tại sao anh không có thư, có quà riêng của gia đình?” Trầm ngâm một lát Nguyễn Hữu Luyện mới nói: “Thực tình tôi không nghĩ là vợ con tôi còn đó, đợi chờ tôi. Khi một số anh em Biệt Kích Dù được về, tôi có nhờ anh em kín đáo đi tìm hộ….Rất may là đã tìm ra. Vợ con tôi đã rời Sài Gòn, xuống Cần Thơ sinh sống. Tôi cũng đã dự phòng trường hợp này. Gần 20 năm nay vợ con tôi, anh em, họ hàng, bè bạn tôi nghĩ rằng tôi đã chết. Thôi cứ để như thế cho tiện, chết là hết, phải không anh. Không phiền ai, gây trở ngại cho ai. Nhược bằng vợ con tôi còn nghĩ đến tôi, còn chờ đợi tôi thì đó là ơn riêng của Chúa đã ban cho. Nhưng tôi đã nói trước là vợ con tôi nếu còn đó, khi nhận được tin tôi thì không bao giờ được viết thư, được gửi quà. Nhận thư nhận quà rồi là tôi phải trả lời. Làm sao mà mình không thương vợ, thương con mình cho được. Xưa nay mấy chục năm ở các trại tù, mình là thằng trọc đầu, trên không chằng dưới không rễ, họ không nắm mình vào đâu được. Bây giờ mình thương vợ mình, thương con mình, họ đọc thư, họ biết như vậy, thì mình không sống được yên đâu anh ơi. Họ không hành được mình, bây giờ họ hành vợ con mình để bắt mình quy phục, thì làm sao đây thưa anh. Cho nên tôi không muốn nhận thư, nhận quà riêng là vì thế…”


ĐỨNG VỮNG KHÔNG LÙI

Có lẽ trại Tân Kỳ này trươc đây đã xây dựng trên một vạt rừng. Trong sân trại còn một số cây cổ thụ còn sót lại. Ở cuối sân “tập kết” bên “Tây Đức”, trước cửa mấy lán tù có một cây đa cổ thụ. Cụ Nguyễn Du đã nói “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ở đây không những người buồn, (một lũ tù nhân rạc rài đói cơm thiếu áo xác xơ như một lũ vượn người thời mông muội) mà cây lá cũng buồn theo. Cây gì mà khẳng khiu, trơ trụi, không còn một chút màu xanh, chỉ có những rễ phụ nâu đen rũ xuống, trông giống như một ông già đầu râu tóc bạc đang đứng giơ tay chịu tội giữa trời. Xưa nay cây thường là một biểu tượng thuần hậu của thiên nhiên: cây cho lá cho hoa, cho bóng mát, cho nơi che chở, cho chim ca và gió hát. Ở đây thì ngược lại; cây đa già trơ lá trụi cành đang biểu tượng cho sự tàn bạo của con người và sự lạnh lùng của thiên nhiên khắc nghiệt. Lũ tù nhân chúng tôi ít khi dám ra chơi dưới gốc cây đa. Những cái rễ ngoằn ngoèo nổi lên sần sùi trông giống như một đàn trăn gió đang rình mồi, những hốc tối mò làm liên tưởng đến hang ổ của lũ cáo, chồn, rắn rết, nhưng điều chúng tôi ngại nhất là bên gốc cây đa này nghe nói đã có hơn một người tù treo cổ chết. Người tù treo cổ thường thiêng lắm. Tiếng bình dân gọi là “có hương”. Con ma treo cổ thường dẫn dụ một người nào khác kết liễu cuộc sống giống như mình để oan hồn uổng tử kia được đầu thai kiếp khác.


Hôm ấy vào khoảng cuối tháng 3 năm 1983. Trời dù đã cuối Xuân nhưng cái lạnh miền bán sơn địa vẫn còn buốt giá. Như thường lệ buổi sáng các đội ra sân tập kết ngồi xuống, đợi điểm danh xuất trại đi làm. Chợt một tiếng thét thất thanh vang dậy, phát ra từ cuối sân tập kết, phía cây đa. Mọi người nhìn lên, một bóng người đang đứng trên chạc ba của cây đa trụi lá, vươn cổ ra hò hét: “Tộ cha bây. Bây hại dân hại nước. Bây hại con tao, hại vợ tao. Tộ cha bây, bất nhân, vô hậu…”. Cán bộ trực trại vội vàng đi lại gốc cây đa, giơ tay quát nạt “Anh kia, anh chửi ai?”- “Tao chửi bây, chưởi tổ cha tụi bây”. Một công an bảo vệ xách carbine chạy tới, kéo “cu lat” loạch xoạch. “Anh kia, xuống ngay”. Một phát súng nổ vang lên; mọi người giật mình nhưng nhìn lại, đó chỉ là phát súng chỉ thiên, bắn dọa… Người đứng trên cây, nhìn kỹ, cổ đã quàng sẵn vào một sợi dây thừng buộc vào một cành cây cao cạnh đó. Người đó nói như thét: “Bắn cho tao một phát đi, tao khỏi thắt cổ”. Cán bộ trực trại giơ tay, anh công an bảo vệ hạ carbine xuống. Người đứng trên cây tiếp tục chưởi bới, tiếp tục hò hét, trong khi cán bộ trực trại hấp tấp đi ra trước sân tập kết, vội vã thổi còi ra lệnh xuất trại gấp. Tù nhân vừa xúc động vừa tê điếng trước phản ứng bất ngờ của một bạn tù. Các đội hôm nay được ra khỏi trại rất mau, rất vội. Trại không muốn các tù nhân ở lại nghe những lời chửi rủa tận từ kia. Anh em xì xào “Ai đấy nhỉ?”- “Nghe như tiếng Th. thiếu tá địa phương quân người Huế hay Quảng Bình, Quảng Trị”- “Đúng hắn rồi còn ai nữa, nghe đâu ít lâu nay hắn bị tâm thần”.


Các đội tù xuất trại hết rồi. Sân tập kết trở lại vắng người, im ắng. Tiếng chưởi rủa của thiếu tá Địa Phương quân Th. vẫn còn róng rả: “Tộ cha bây, bây giết con tao”. Mấy tên làm việc trong trại như đội “nhà cầu” tụi tôi vẫn tiếp tục làm việc nhưng không ngớt băn khoăn, lo lắng cho người bạn tù đang nổi cơn điên loạn. Ông bạn đồng nghiệp nhà cầu, Đại Đức Như L. cho hay “Tội cho anh ta lắm. Anh ta đi tù cải tạo mà con trai mới lớn lên ở nhà lại phải đi “nghĩa vụ” sang Campuchia. Anh vừa nhận tin con trai anh mới chết; chết mà không mang được xác về. Vợ anh ta là cô giáo, nghèo sát ván, ngất đi khi nhận được tin con và từ đó bịnh luôn. Đi làm lương không đủ nuôi con, làm gì có quà cáp cho chồng nữa. Th. lâu nay là con bà phước. Ở nhà vợ anh ta ốm nặng, đứa con gái phải nghỉ học ở nhà nuôi mẹ, nuôi em. Đứa em trai út khốn thay lại bị bệnh tâm thần ngớ ngẩn. Cả nhà bây giờ trông vào một cô con gái mới đâu 15, 16 tuổi. Đêm nằm anh Th. thường ú ớ gọi vợ, gọi con… Anh ta vẫn đi làm được, không ngờ sáng nay anh ta lại phản ứng bất thường như vậy…”


Anh Th. vẫn đứng trên cây, vẫn chửi bới, hò hét. Nhưng tiếng chửi bới, hò hét thưa dần vì không còn “đối tượng”. Vào khoảng 9 giờ sáng, trại trưởng Trung tá công an T. mới từ từ đi tới gốc cây đa nói: “Anh Th., có chuyện gì xuống đây tôi giải quyết”.- “Bắn cho tôi một phát đi, tôi không xuống”. Thấy không xong, trại trưởng liền đi vào trong lán tù. Hình như y đi tìm một người nào đó. Tôi được nghe nói là Trung tá công an đi tìm đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Trời đã gần đứng bóng. Anh bạn tù nổi cơn điên vẫn đứng trên cây, cổ quàng sẵn vào một vòng dây thừng oan nghiệt. Chợt có một bóng người cao lênh khênh đi ra đứng dưới gốc cây đa. Đó là Nguyễn Hữu Luyện. Hai người đứng nói chuyện gì với nhau không rõ. Nhưng sau đó người tù nổi cơn điên Th. tháo bỏ cái vòng dây oan nghiệt ra khỏi cổ, và từ từ trèo xuống. Nguyễn Hữu Luyện đỡ người bạn tù bước xuống đất và dìu anh ta vào trong lán. Không biết người thủ lãnh Biệt Kích Dù đã nói những gì, đã làm thế nào để cho người tù khốn khổ kia trở lại với cuộc đời.

o0o

Những ngày tiếp theo đó cả trại Tân Kỳ nín thở theo dõi hậu quả đến với người tù cựu Thiếu tá Địa Phương Quân. Hậu quả đầu tiên là biên chế lại. Tù đội này đổi sang đội kia, từ lán này sang lán khác. Giản bớt khu “Tây Đức”. Cho một số đội sang khu “Đông Đức”. Mỗi lần biên chế là mỗi lần trại phá bỏ những khuôn sinh hoạt tinh thần cũng như vật chất của tù gây dựng được trong những tháng ngày qua. Đội mới, chỗ mới, bạn mới. Cái thân quen vừa tạo lập đã mất đi. Chủ trương của trại tù là luôn luôn bắt tù nhân ăn ở trong một tình trạng tạm thời, nghi ngờ, bất trắc.


Sau vụ biên chế này, tôi vẫn làm công tác nhà cầu nhưng không ở cùng lán với Nguyễn Hữu Luyện nữa. Ba ngày sau, một chuyến xe GMC (lấy được của miền Nam) chở một số tù mới đến trại Tân Kỳ. Tôi vội chạy ra xem có gặp lại người quen? Tưởng bạn tù nào xa lạ, hóa ra toàn là bạn cũ. Đây là chuyến xe chở một số các linh mục tuyên úy Công giáo từ trại Bình Đà ngoài Bắc đổi trại vào miền Trung. Các bạn tù linh mục này năm ngoái tháng 4, 1982 đã từ biệt tụi tôi ở trại Thanh Phong ra Bắc. Tôi gặp lại bạn cũ, đội trưởng đội rau kiêm đội trưởng văn nghệ nghiệp dư, linh mục Nguyễn Quốc T. Chúng tôi ôm lấy nhau, linh mục Nguyễn Quốc T. nói “Xã hội tù xoay chuyển vòng tròn. Mình lại gặp nhau ở đây, mừng quá”.


Nhưng cái mừng của người bạn cũ không được lâu. Ngày hôm sau (tôi nhớ là ngày 23 tháng 3, 1983), chuyến xe GMC lại chở một số tù từ trại Tân Kỳ đi nơi khác. Trong số 33 người tù di chuyển kỳ này có tên tôi. Chuyến xe đi vội vã. Ngồi trên xe chật cứng, tôi giơ một bàn tay vẫy vẫy. Từ biệt trại Tân Kỳ, từ biệt những người bạn tù đã cùng tôi trải qua một thời kỳ gian khổ. Tôi nhìn thấy trong lán tù ở lại có những bàn tay vẫy theo. Trong số những bàn tay tiễn biệt kia, biết đâu chẳng có bàn tay của người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Tôi không được gặp lại các anh từ ngày ấy, đến nay thấm thoát đã 12 năm rồi. Xin những anh em tù cải tạo nào từng có mặt tại trại Tân Kỳ đầu năm 1983, hiện giờ ở hải ngoại tình cờ đọc đến những dòng này, nếu các anh được biết tin gì về người bạn tù khốn khổ của chúng ta Thiếu tá Th. Địa Phương Quân xin các anh vui lòng cho tôi được biết.


Đặc biệt về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện tôi lúc nào cũng nhớ anh, cũng cảm phục anh, nhưng có một điều tôi hứa với anh mà tôi không giữ được tròn. Một buổi sau khi anh cho tôi xem tấm hình con gái anh bữa lấy chồng, đang cúi lạy trước chân dung người cha đã khuất (là anh) tôi mới nói với anh rằng “Sau này nếu có dịp tôi sẽ kể, sẽ viết ra chuyện này”. Anh nắm tay tôi mà nói: “Thôi đừng anh ạ, mình xét ra cũng chỉ làm nhiệm vụ của một người lính tình nguyện gia nhập cuộc chiến tranh bí mật. Quy luật của nó là thế thì mình đành phải chịu, thưa anh”.


Nhớ lời nhắn nhủ của anh, nên mấy năm nay ở nước ngoài, có dịp viết đôi ba bài báo tôi đã muốn lắm, muốn được kể chuyện người tù kiệt xuất là anh và đồng đội của anh, những anh em Biệt Kích Dù bất khuất. Nhưng tôi cứ đắn đo e ngại mãi. Bây giờ tôi được biết rõ là anh đã tới Hoa Kỳ được một thời gian và anh đang đứng ra lo lắng cho một số anh em Biệt Kích Dù đồng đội của anh làm thủ tục xuất ngoại. Chuyện Biệt Kích Dù trên 30 năm cũ tưởng đã nằm im trong cát bụi lãng quên bây giờ đang được mở lại hồ sơ. Cho nên bữa nay tôi mới dám viết ít dòng này với tư cách của một người bạn tù cùng trại nói ra những điều tai nghe mắt thấy…..


Phan Lạc Phúc

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22108
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Mar/2023 lúc 3:29pm
Một lát cắt của chiến tranh


lonely%20man%20walking%20on%20a%20sunset%20beach%20-%20YouTube

Nửa đêm, biển động! Hắn tỉnh dậy chậm chạp mặc quần áo rồi ra đứng trước ban thờ châm một nén hương, chỉ một nén hương cắm vào bát hương trên bàn thờ rồi cứ thế đứng lặng chăm chăm nhìn vào hai bức ảnh trên ban thờ. Một bức ảnh là một ông già, có lẽ là bố hắn. Lồng cùng bức ảnh là một tờ lịch đề ngày 18 tháng tư .Dưới bức ảnh ấy là vỏ của một chai thuốc trừ sâu được đặt trên những quyển sách chữ nho đã cũ nát cùng năm tháng. Bên trái ban thờ là ảnh một người đàn bà còn rất trẻ và cũng có một tờ lịch cùng đề ngày mười tám tháng tư . Dưới bức ảnh là một sợi dây thừng được xếp lại thành một bó dài.
Hắn cứ đứng như thế cho đến khi cái chấm đỏ cuối cùng trên cây nhang tắt hẳn , tàn của chiếc nhang không gãy rụng mà mà uốn cong về phía hắn. Đợi cho khói hương tan hết, hắn mở cửa đi ra ngoài bãi biển.
.Năm nào cũng thế, cứ đúng đêm nay hắn lại ra đứng suốt đêm bên bờ biển và hình như từ khi hắn đến ở đây năm nào vào đêm nay biển cũng động. Đêm mưa bão, bầu trời đen kịt. Những đám mây dông vần vũ che kín cả bầu trời. Xa xa phía cuối đường chân trời nhưng lằn chớp trắng lóa đang đua nhau rạch nát trời đêm . Những con sóng lừng đen ngòm cao năm sáu mét lừng lững từ ngoài khơi xa xô lại phía hắn rồi đâm sầm vào vách đã dựng đứng của một dải núi ăn ra biển để lại một cột nước trắng xóa . Những con sóng liên tiếp nhau như muốn xô đổ vách núi . Gió hú lên những tiếng hú dài điên loạn. Trời giận dữ! Biển cuồng nộ còn hắn cứ đứng lặng im bất động phóng tầm mắt hút về phía chân trời.
- Anh ơ...i
Một tiếng gọi vọng lên từ lòng biển sâu thẳm.
-Con ơ....i
Một con sóng lừng hất tung tiếng gọi con nức nở lên cao để ngọn gió điên cuống ném tiếng gọi ấy về phía hăn. Hắn nhô người vươn tay ra phía biển như muốn níu giữ, nắm bắt một cái gì. Rồi bỗng nhiên hắn nghe thấy một tiếng thì thào đứt quãng.
-Đ..ừ....tr...á...ch v..ợ c...on.

Trời bắt đầu mưa. Bỗng ai dó khoác lên vai hắn một chiếc áo mưa. Hắn quay lại. Con gái hắn. Hắn nhìn con gái một thoáng trong ánh mắt lộ ra một tia sáng cảm động rồi hỏi bằng một giọng trầm đục.
-Con về bao giờ thế?
-Con vừa về. Vào nhà không thấy bố con biết là bố lại ra đây. -Giọng cô gái bỗng trở nên cầu khẩn. -Về thôi bố! Trời bắt đầu mưa rồi.
Hắn cắn môi, nuốt khan một cái như định nói điều gì nhưng rồi hắn dừng lại chậm chạp cùng cô con gái quay lại ngôi nhà bên bờ biển.
-Năm nay bố vẫn không cho em con về giỗ mẹ hả bố?

Tiếng cô gái hỏi, hắn chỉ khẽ gật đầu. Một tia chớp bừng lên đủ giúp cho cô gái nhìn thấy hai hàm răng hắn nghiến lại. Tia chớp dội vào mắt hắn để rồi từ đấy hắt ra một tia sáng âm u, lạnh lẽo đến rợn người. Cô gái im lặng không hỏi gì nữa. Cô sợ!
*
* *
Hôm sau nhà hắn có giỗ. Không có khách khứa, chỉ độc nhất có hai bố con. Hắn châm ba cây nhang cắm lên bát hương, không chắp tay khấn vái mà chỉ đứng lặng nhìn không chớp mắt vào hai bức ảnh, một ảnh ông già bố hắn và một ảnh một người đàn bà còn rất trẻ vợ hắn. Con gái hắn đứng cạnh chắp tay lầm nhầm khấn tuy là khấn rất nhỏ nhưng vì đứng ngay nên cạnh hắn vẫn nghe thấy rất rõ.
-Ông ơi! Mẹ ơi! Xin hai người hãy phù hộ cho bố con có thể quên đi!.
Nghe con gái khấn, tự nhiên môi hắn nhếch lên một nụ cười cay đắng và từ đôi mắt già nua, nhăn nheo, một giọt nước mắt, chỉ một giọt thôi, trào ra rơi xuống làn môi đã héo quắt và nứt nẻ một giọt mặn chát.
Hương tàn, con gái hắn hạ mâm cỗ xuống còn hắn rót rượu ra chén và uống! Con gái hắn ngồi cạnh, không nói gì chỉ thỉnh thoẳng gắp thức ăn vào bát cho bố và nói với giọng nằn nì.
-Bố ăn miếng này đi .
Còn hắn , hình như hắn không dám cãi lời con gái, hắn gắp lấy miếng thức ăn mà cô vừa bỏ vào trong bát đưa lên miệng. Mắt hắn đã kè đỏ.
-Có phải con vẫn muốn biết ông và mẹ con chôn ở đâu phải không?
Hắn bỗng hỏi. Mắt cô gái sáng lên, nhưng rất nhanh chóng cô đã che dấu được tia sáng đó.
-Vâng! - Cô nói nhỏ . –Con muốn xây mộ cho ông và mẹ bố ạ. Bố nói cho con biết đi.
Hắn đặt chén rượu xuống bàn trân trân nhìn con gái. Không ai đọc nổi ánh mắt ấy nghĩ gì. Đột nhiên, hắn cầm chén rượu còn đầy nguyên lên uống ực một nhát cạn trơn rồi hất hàm ra phía biển nói bằng một giọng khê đục.
-Ở đó!
Mắt cô gái hơi nhíu lại tỏ vẻ nghi ngườ.
-Sao bố bảo ngày ấy bố chôn ông và mẹ ở quê cơ mà.
Ừ! -Hắn khẽ gật đầu thừa nhận. –Nhưng rồi sau đó bố đã quay trở về quê đào trộm mộ hai người mang cốt về đây hỏa táng. Bố đã trộn tro của hai người vào nhau và mang rắc xuống biển.
- Vào đêm hôm nay hả bố
Cô gái hỏi, hắn khẽ gật đầu. Cô gái không hỏi gì nữa. Cô biết bố đã nói thật. Năm nào cũng thế cứ đúng đêm hôm giỗ là cô lại thấy bố mình ra đứng suốt đêm bên bờ biển
Bỗng nhiên cô cảm thấy sợ! Một nỗi sợ vô hình ám ảnh cô. Đã bao nhiêu năm rồi bố cô luôn giấu kín điều này . Sao hôm nay ông lại nói ra? Cả hai im lặng ngồi ăn. Cái im lặng ngột ngạt của một cơn bão sắp kéo đến.
-Em con ….dạo này ….thế nào?
Hắn hỏi giọng ngắc ngứ khó nhọc. Hình như hắn phải dồn hết nghị lực để hỏi câu hỏi đó. Hỏi xong, hắn lại nâng chén rượu lên uống ực một nhát như để chiêu đi một cái gì vẫn còn vướng víu trong cổ họng. Cô gái nhìn bố. Cô đắn đo không biết mình nên nói với bố thế nào. Một cái gì lành lạnh chạy dọc sống lưng cô. Chưa bao giờ ông hỏi về đứa em trai của cô. Đây là lần duy nhất kể từ khi ông bỏ đi để lại toàn bộ tài sản rất lớn cho hai chị em với một mảnh giấy với duy nhất một dòng chữ ngắn ngủi.
“Con hãy chăm sóc em thay bố”
-Nó vẫn tốt bố ạ . Nó vừa nhận được học bổng nghiên cứu sinh sau tiến sĩ của trường đại học Harvard Có lẽ tháng sau nó đi Mĩ.
-Thế à!
Hắn buông hai từ gọn lỏn rồi lại nâng chén rượu lên. Cô gái đột nhiên giữa lấy tay hắn, cô quỳ sụp xuống ngước lên nhìn bố giọng run run.
- Đừng uống nữa! Con xin bố . Sao bố lại hận em con đến thế? Bố cho con biết đi. Cánh tay cầm chén rượu đang đưa lên bỗng dừng lại. Hắn cúi xuống nhìn con gái. Mặt con gái hắn ướt đẫm. Hắn không nói gì , lặng lẽ gỡ bàn tay đang níu chặt tay mình của đứa con rồi loạng choạng đi về phía trước ban thờ. Hắn nhấc tấm ảnh của bố ra khỏi giá , cầm trên tay và nhìn như đóng đinh vào tấm ảnh.
- Bố nghe rõ rồi chứ? -Hắn lẩm bẩm. –Em con đã nên người. Dòng họ Đặng của bố đã có người tiếp nối. Bố có vui không? Còn con…?
Đột nhiên hắn gầm lên một tiếng. Một tiếng gầm thê lương như xé rách cả trời xanh. Hắn nâng bức ảnh lên cao rồi thẳng cánh quật bức ảnh vào cạnh chiếc bàn thờ. Bức ảnh vỡ tan. Bàn tay gân guốc của hắn nắm lấy một miệng thủy tinh to và sắc nhọn như một mũi dao găm, thẳng cánh đâm vào cổ mình.
- Bố !
Tai hắn còn kịp thoảng nghe một tiếng kêu đầy đau đớn của cô con gái.

*
* *
-Không!
Hắn hét lên một tiếng . Tiếng hét phá tan cái yên tĩnh của cái bệnh viện tuyến huyện vắng vẻ lức nửa đêm. Cô bác sĩ trực nhảy bổ đến gường bệnh. Người hắn quằn quại trong cơn mê sảng. Con gái hắn đang cố gắng ghì chặt lấy cánh tay hắn không cho cái kim truyền máu bật ra. Hắn lại nằm im, rồi một tiếng nấc rồi tiếp theo là một tiếng lầm bầm.
-Sao em lại bỏ con, bỏ anh. Anh có trách em đâu.
Cô bác sĩ nhìn vào mặt hắn. Trong cơn mê sảng nhưng một dòng nước mắt vẫn cứ ứa ra.
-Bố em hình như gặp phải một chấn động cực lớn về tâm lí thì phải. Chuyện gì vậy?
Cô bác sĩ nhìn con gái hắn thăm dò. Con gái hắn lắc đầu.
-Em cũng không biết chị ạ. – rồi như để cho người bác sĩ tin điều mình nói là thật. Cô gái nói tiếp. –Em cũng rất muốn biết chuyện gì đã xảy ra với bố em trong quá khứ nhưng ông không chịu nói.
-Chắc phải là một điều gì đó khủng kiếp lắm .
-Vâng ! Em cũng nghĩ thế.
Nói xong, con hắn thở dài lấy khăn khẽ lau dòng nước mắt trên mặt bố. Hắn nằm im, ngực lên xuống một cách khó nhọc. Miệng hắn cứ lầm bầm một điều gì đó . Con gái hắn quỳ hẳn xuống dưới đất ghé tai vào sát miệng hắn cố gắng nghe xem bố mình đang nói điều gì. Cô chỉ nghe thấy nhưng tiếng đứt quãng.
- Đừng …..em đồng ý ?….. nối dõi……dòng họ….
Rồi đột nhiên hắn chồm lên ngồi thẳng dậy, mắt mở trừng trừng, sợi dây truyền máu đứt tung máu phun ra lênh láng cả chiếc giường bệnh. Hắn thét to, Tiếng thét như một mũi dùi khoan vào màn đêm sâu thẳm.
-Ông chết đi!
Rồi hắn lại đổ vật xuống, người hắn quằn quại. Con gái hắn và cô bác sĩ trực đêm cố gắng ghì chặt lấy người hắn nhưng không được. Hắn vung mạnh hai cánh tay xô ngã cả hai người rồi hắn bật dậy đứng sừng sững giữa căn phòng, hai cánh tay hắn vươn lên cao ngửa mặt lên trời cười cuồng loạn. Những vòng băng ở vết thương sổ tung, máu phun thành vòi lên mặt con gái hắn.
-Cháy! Cháy rồi ! Cháy hết đi !
Hắn gào lên trong tiếng cười man dại rồi đột ngột, tiếng cười tắt ngấm, hắn đổ sập xuống nền nhà.
- Bố!
Con gái hắn kêu lên một tiếng rồi cứ thế gục vào ngực bố mình ngất lịm.

*
* *

Bàn thờ nhà hắn có thêm một bức ảnh mới. Ảnh hắn. Đứng trước ban thờ là hai chị em. Người em hình như chỉ nhỏ hơn chị mình có vài tuổi và có khuôn mặt giống ông nội như tạc.
_ Chị!
Người em gọi một tiếng khe khẽ, người chị khẽ quay người nhìn sang đứa em mình chờ đợi còn người em môi mấp máy như muốn nói một điều gì đó nhưng lại không dám nói. Anh ta sợ. Người chị cũng sợ. Không một ai dám nói lên một cái điều lờ mờ trong tâm trí . Người em thu hết can đảm, anh ta khẽ nắm lấy tay chị gái mình.
- Có điều gì xảy ra với bố vậy hả chị.? Có phải là lỗi tại em không. ?
Người chị nhẹ kéo em trai lại khẽ ôm lấy đứa em trai mình .
- Chị không biết điều gì đã xảy ra với bố. Nhưng chắc chắn là em không có lỗi. Lỗĩ là của chiến tranh.
- Nhưng chiến tranh đã kết thúc mấy chục năm rồi mà chị.
Người em hỏi. Người chị khẽ lắc đầu.
- Chưa đâu em ! Chiến tranh vẫn đang hiện diện trên mảnh đất này.
Người em không hỏi gì nữa. Anh ta biết , chị mình đã nói đúng. Tiếng súng đã ngừng mấy chục năm nay nhưng tiếng nổ của chiến tranh chưa dứt. Thỉnh thoảng ở một đâu đó trên mảnh đất đầy đau thương này lại có một tiếng nổ phát ra do chiến tranh để lại.
Hai chị em rời bàn thờ, họ mang đồ đạc của hắn ra kiểm lại. Kỉ vật của hắn không có nhiều. một vốc nhưng huân chương, một tờ giấy báo tử, một tấm bằng gia đình vẻ vang và một cuốn sổ ghi chép đã vàng úa theo thời gian.
Người em cầm tờ giấy báo tử lên chăm chú đọc. Lông mày anh ta nhíu lại. Anh ta đưa cho chị mình tờ giấy báo tử.
-Chị ! chị đọc cái tờ giấy báo tử này đi !
Người chị ngạc nhiên nhìn em.
-Sao có điều gì à ?
- Bố mất trước khi em ra đời.
Người chị vội vàng giật lấy tờ giấy báo tử trong tay em trai mình . Cô gái lặng người đi mắt không rời nói tờ giấy báo tử.
-Chị ! -Người em khẽ nắm lấy tay chị mình gọi nhỏ. –Có phải là..... ?
Người chị như bừng tỉnh, cô hấp tấp dùng bàn tay nhỏ nhắn của mình bịt miệng em trai lại.
-Em đừng nói gì cả !- Giọng cô nghẹn lại - Chị xin em !
Một thoáng ngắn ngủi, ánh mắt hai chị em gặp nhau và cả hai cùng bối rối nhìn đi nơi khác. Họ tiếp tục lục tìm trong những di vật mà người bố để lại một cái gì đó mà không ai dám nói ra nhưng cả hai đều mong muốn, một cái gì có thể phủ định cái điều mà họ đã manh nha nghĩ trong đầu.
- Chị !
Người em trai thoảng thốt kêu lên. Toàn thân anh ta run bắn . Mấy tờ giấy trong tay anh ta rung bần bật. Năm ngón tay anh co quắp lại chọc thủng cả mấy tờ giấy to bản loại năm hào hai ngày xưa mà anh ta đang cầm. Người chị vội vàng nắm chặt lấy bàn tay em trai mình cố gắng gỡ những ngón tay đang co rút bấu chặt lấy mấy tờ giấy để cho nó khỏi bị rách. Cô ôm lấy mặt bật khóc. Người em quỳ xuống , anh ta ôm chặt lấy chị mình nghẹn ngào.
-Chị ơi! Đó là lỗi của em.
Người chị đã bình tĩnh lại. Cô gái nhẹ nhàng vuốt tóc đứa em trai mình khẽ nói.
-Em đừng nghĩ vậy ! Không một ai có lỗi cả. Em chính là một sự hi sinh cho tình yêu. Em đọc lại những lời của mẹ đi.
Vừa nói , người chị vừa trải rộng tờ giấy ra trước mặt em trai mình. Tờ giấy viết bằng máu. Có lẽ người mẹ đã cắn ngón tay mình để viết lên trang giấy.
ĐỪNG TRÁCH BỐ. ! EM YÊU ANH NÊN KHÔNG THỂ ĐỂ CHO DÒNG HỌ ĐẶNG CỦA ANH BỊ DỨT MẠCH
- Thế còn ông ! Sao......
Người em giận dữ nói gần như quát lên nhưng đột nhiên anh ta bắt gặp ánh mắt tức giận của người chị nên vội vàng ngừng lại. Người chị nét mặt đanh lại hắt những tia mắt giận dữ vào mặt đứa em trai mình gằn giọng.
- Ông cũng không có lỗi. Em đọc đi ! Ông đã phải lấy cái chết của mình để tạ lỗi với bố. - Người chị trải tờ giấy thứ hai ra trước mặt em mình . Cũng là một tờ giấy năm hào hai được viết bằng máu.
ĐỪNG TRÁCH VỢ CON. DÒNG HỌ TA ĐỘC ĐINH. BỐ XIN LẤY CÁI CHẾT ĐỂ TẠ LỖI VỚI CON
Giọng người chị bỗng trầm hẳn xuống đau sót - Sự trường tồn của những dòng họ cũng giống như sự trường tồn của một dân tộc. Vì sự trường tồn đó nhiều khi ta phải đau đớn bước qua cái ranh giới của đạo đức.
- Vậy là không có ai phải chịu trách nhiệm trước những nỗi đau và mất mát của gia đình ta sao ?
- Có em ạ ! Đó là chiến tranh

*
* *

Đêm ! Biển lặng ! Hình như sau một cơn bão đi qua biển êm đềm hơn và đẹp hơn. Mảnh trăng non cưỡi trên đầu những ngọn sóng lăn tăn theo gió trải ra đến vô tận. Dưới ánh trăng, dải núi hiện lên sừng sững, uy nghi như một lồng ngực vạm vỡ đang ưỡn ra thách thức với sóng gió của biển cả.
Hai chị em đi từng bước ngắn chậm rãi tiến dần ra ngoài biển, vừa đi họ vừa rắc tro cốt của bố lên trên đỉnh những ngọn sóng. Sóng ôm lấy ông, Biển ôm lấy ông
- Ông ơi ! Bố ơi ! Mẹ ơi ! Con cầu mong ba người sẽ ôm lấy nhau trong biển cả.
Cô gái thầm nghĩ. Ngoài xa, một con tàu đi qua để lại một vệt lân tinh lấp lánh làm cho cô gái có cảm giác như biển đang cười.



Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22108
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Mar/2023 lúc 9:36am

Câu Chuyện Một Người Con Gái Đi Tị Nạn  
Người%20Việt%20tị%20nạn%20ở%20Đông%20Nam%20Á%20ngày%20càng%20gặp%20khó%20khăn%20—%20Tiếng%20Việt



Hương sinh ra và lớn lên bên Lào măc dù em là người Việt. Cha mẹ em đã sang nước láng giềng này lập nghiệp vào những năm năm mươi, sau ngày đất mẹ chia đôi, phần trên là chính thể Cộng Sản và phần dưới Quốc Gia. Năm nay em đã bốn mươi lăm tuổi và đã sinh sống bên Ý Đại Lợi gần ba chục năm. Em đã lấy chồng Ý vì bên ấy kiếm chồng Việt quá khó. Trông em vẫn trẻ đẹp, có lẽ vì em vui tính, hay cười, ít suy tư, không biết buồn khổ là gì. Có lẽ cả đời, ngay cả những lúc khó khăn nhất, em cũng không khóc hay cảm thấy khổ sở. Em nhí nhảnh như một cô gái tuổi hai mươi hơn, vừa nói vừa cười, duyên dáng làm sao. Em kể cho tôi hay rằng khi em còn nhỏ, em tinh ranh và hay cùng những đứa bạn trốn học đi chơi. Người em bé nhỏ xinh xắn, khá đẫy; tôi đứng bên em sao muốn ôm em vào lòng và hôn em trên tóc. Chỉ tiếc em có liên hệ gia đình với mình, làm thế không phải.

Ngồi trên chuyến xe lửa đi Venezia, tôi nói chuyện với em lần đầu, em kể cho tôi những gian truân của những ngày em mới mười lăm, mười sáu, khi Cộng Sản cướp được chính quyền tại Viên-Chi-An. Cha mẹ em đã phải bỏ nơi em chôn nhau cắt rốn là thành phố Lu-Ăng-Pơ-Ra-Băng để đi về sinh sống nơi ngoại ô thủ đô Viên-Chi-An. Sau này em mới biết rằng mục đích của cuộc di chuyển này là để cho gia đình em đến sống nơi gần biên giới, đợi lúc thuận tiện thì trốn đi sang bên Thái. Viên-Chi-An chỉ cách biên giới có chừng vài chục cấy số theo đường chim bay. Ở những vùng biên giới, trốn đi sang đất Thái rất dễ dàng, và những thanh niên khỏe mạnh thường hay bỏ nhà ra đi một mình sang bên kia biên giới bằng cách bơi qua con sông Cửu Long.

Gia đình em ngoài ba mẹ còn chín anh em, đều còn nhỏ vào cái thời âý, đi tản cư sao thấy quá khó nhọc. Kỷ niệm vui của những chuỗi ngày buồn khổ đó là nhà người hàng xóm người Tàu mà em hay mò sang xem ông giết heo và mổ ra để bán cho những người sống trong vùng lân cận. Tiếng heo rít lên vang cả một khung trời khi bị chọc tiết, máu heo tuôn ra cả thau lớn, thau nhỏ, trông thấy mà hãi hùng, màu máu đỏ như mầu chế độ Cộng Sản tàn bạo gian ác. Hình ảnh ấy đã đi xâu vào tâm khảm em cùng với bao nhiêu hình ảnh ghê rợn khác mà em đã phải chứng kiến vào cái tuổi thơ ngây khi đang dậy thì, cái tuổi đáng lý ra em phải sung sướng, nếm mùi yêu đương và mơ mộng.

Chiếc xe lửa đã đến nhà ga thành phố Milano. Chúng tôi vội vã xuống bến và len lõi giữa đám đông để đi tìm bảng chi dẫn những đường xe đi. Tôi vừa đi vừa ôm đít bên phải, nơi có cái ví vì  bọn móc túi chầu chực những lúc mình sơ hở để làm việc. Ý cũng như Pháp là những nơi, không giống Hoa Kỳ, có tệ nạn móc túi lộng hành. Hương lại nơi có bảng chỉ dẫn lộ trình và em đã tìm ra nơi chuyến xe đi Venicia sẽ khởi hành. Chúng tôi nhìn những tấm bảng có ghi những số to lớn, 15, 16, 17, 18 và đi qua những bến ấy để lên chiếc xe lửa tốc hành có chiếc mũi nhọn và thon dài. Đây là một loại xe lửa hạng sang nên các ghế ngồi đẹp và tiện nghi hơn con tàu thường. Trên tàu có cà toa phòng ăn và toa bán hàng ăn uống. Khi đến giờ, con tàu lao đi vùn vụt. Tôi ngồi trước mặt Hương nghe em kể tiếp câu chuyện dở dang.

Kể từ ngày Cộng Sản lên nắm chính quyền, rất nhiều gia đình đã tìm đường trốn đi sang đất Thái bằng cách vựơt qua con sông Cửu Long. Vào mùa hè, khi nước cạn, kẻ đi trốn có thể lội bộ đi băng con sông, trên đầu đội những túi đồ mang theo hay để những em bé  ngồi trên vai. Tuy nhiên nhiều nơi nước chảy mạnh lôi cuốn cả người đi, gây ra cảnh chết đuối cho đàn bà và con nít. Nhiều dân ở vùng cận sông Cửu Long biết rành địa thổ đã làm nghề đưa đường kiếm sống. Hương nhớ, vào những ngày đó, bao nhiêu thanh niên đã can đảm bỏ nhà ra đi tìm tự do một mình. Họ đã cùng các bạn đi băng rừng, trốn tránh những tên lính gác, để đi tìm tư do. Thật là một hành động can đảm, nhưng đối với em, đó cũng chỉ là chuyện bình thường. Chính em cũng đã cùng với một cô bạn khác và hai thanh niên trốn đ,i nhưng không thoát, vì khi thấy binh lính Cộng Sản trấn đóng trên con đường cả nhóm đang đi, các em đã hoảng sợ và trở về.

Năm 1978, gia đình em quyết định ra đi như bao nhiêu gia đình khác. Bố em quyết định trốn đi trước cùng với em, mẹ em và các đứa con kia còn nán ở lại xem tình hình bố em và em đi có thoát không đã. Thế rồi vào một đêm có trăng soi sáng cả vùng trời bao la, lúc khoảng một giờ đêm, ba em sách chiếc tay nải lớn mà mẹ em đã khâu và chất chứa những gì cần thiết cho hai bố con ra đi tìm tự do. Năm ấy bố em tuổi đã quá năm mươi, nhưng ông vẫn còn khoẻ mạnh. Người dẫn đường, một người Lào không biết nói tiếng Việt, đến tận nhà em đưa hai bố con em đi. Nhóm ba người khởi hành sau khi ba em trao tiền cho người dẫn đường và như thế đôi cẳng nhỏ bé của em đã phải cố gắng đi theo bước chân thoăn thoắt của hai người đàn ông lớn, đi hết quãng đường hàng mấy chục cây số và băng qua khu rừng rậm rạp để đến một con sông nhỏ. Vào cái tuổi mười sáu hơn, em còn đủ ngây thơ để thấy rằng cuộc đời vẫn còn đẹp mặc dù những trớ trêu của cuộc sống do hoàn cảnh gây ra. Em thấy thích thú khi được đi mạo hiểm và em không thấy sợ hãi vì em nghĩ có bố em bên mình. Vả lại, cuộc ra đi đó rất may mắn, không hề gập khó khăn nào cho đến khi ba em và em đến được một chiếc chòi bên bờ sông. Trời đã ửng sáng và khi hai cha con vào nhà thì đã có một gia đình người Việt khác, gồm một người mẹ và ba đứa con trai nhỏ tuổi mươi, mười hai. Sau khi dừng chân nghỉ khoảng nửa tiếng, ba em theo người dẫn đường và gia đình người đàn bà kia xuống bờ sông để lên chiếc thuyền nhỏ đi tiếp đến vùng biên giới Thái.

Chiếc thuyền nhỏ chòng chành một phút rồi lấy lại thăng bằng. Người lái đò, một người Lào trung niên bắt đầu chèo con thuyền ra giữa sông. Tên dẫn đường nhìn ba em và người đàn bà kia rồi dõng dạc nói:

  • Cuộc chạy trốn này rất nguy hiểm. Tôi muốn ông bà trả thêm tiền cho tôi và bác lái đò, công chúng tôi đưa ông bà sang đến đất Thái!

 

Tên dẫn đường đã lấy tiền đủ của ba em rồi, trước khi nó đưa ba em và em đi! Bây giờ nó lại giở chứng đòi thêm tiền nữa. Ba em làm gì có tiền mà đưa cho nó vào lúc này? Nó mà không đưa đi cho đến nơi thì lắm chuyện, vì ba em và em sẽ lại phải trở về. Đì được nửa đường rồi, thật là phí công toi! Mà em thì vẫn ao ước ra đi, vì bên kia biên giới có bao nhiêu đứa bạn của em đã đi trước. Chúng nó mà gập lại em chắc sung sướng lắm! Đất tự do tha hồ ma vui chơi thỏa thích. Vả lại em muốn đi Mỹ, đi Pháp xem những tòa nhà chọc trời. Em muốn xem Paris nơi có bao cảnh đẹp mà em chỉ đựơc thấy trong phim xi nê hay trong sách vở. Paris, la ville de Lumiêre, thành phố của ánh sáng, em mơ ước đến đó để đi trên đại lộ Champs Elysées, đi xem tháp Tour Eiffel, và nhất là ăn kem và bánh ngọt. Em vẫn thích ăn bánh ngọt mà lâu lắm em đâu có được ăn? Ngày em còn nhỏ, bố em thường đưa em đi ra tiệm Pâtisserie Francaise ở Lu-Ăng-Pơ-Ra-Băng ăn kem dứa và choux à la crème.

  • Tôi không mang theo tiền, nhưng nếu anh đưa chúng tôi đến nơi, khi về vợ tôi sẽ thưởng nhiều tiền cho anh!

Tiếng ba em nói làm em trở về với thực tế. Tên dẫn đường với đôi mắt lấm la lấm lét nhìn sang phía người đàn bà. Chồng bà đi đã lâu rồi, có lẽ đã đến đất Thái nhưng sao không thấy có thư về? Bà nóng lòng nóng ruột muốn đi tìm xem hiện tình ông ấy ra sao. Hay lại đang bay bướm với một nàng Lào, nàng Thái nào, quên cả bá vợ xồn xồn này rồi? Cả mấy năm rồi bà mong đợi có ngày được gập lại ông chồng. Vắng ông, bà thấy thiếu thốn làm sao!

  • Còn bà? Bà có chịu đưa tiền cho tôi không? Hay để tôi liệng bà xuống sông cho bà bơì về? Cả những đứa con nhỏ nữa?

Người đàn bà cũng không phải là tay vừa. Bà nói:

  • Tiền bạc gì nữa? Lấy bấy nhiêu đó chưa đủ hay sao?

Tên khốn nạn xấn tới:

  • Con mẹ này muốn chết hả?

Ba em đứng dậy, nắm tay tên dẫn đường giữ hắn lại và nói:

  • Anh đừng làm thế, không tốt! Giết người là có tội đấy! Để từ từ tôi nói cho ra phải trái!

Tên kia quay lại nhìn ba em, nguôi bớt cơn giận, nhưng vẫn còn tức tối:

  • Chẳng tội thì đừng tội. Ông bảo nó đưa tiền thêm cho tôi nếu không tôi cho thuyền quay về!
  • Chị có mang theo tiền thì trả thêm cho anh ta cho xong chuyện đi!

Người đàn bà lườm tên dẫn đường một cái dài, rồi lấy từ chiếc ruột gà đeo nơi bụng một mớ tiền Thái. Bà đếm, miệng lẩm bẩm, rồi đưa cho nó mấy tờ giấy bạc còn mới tinh.

  • Hai ngàn thôi ư? Bốn người mà đưa có hai ngàn!
  • Lấy thì lấy, không lấy thì đưa tao về! Tao ra công an Việt báo cáo cho mày đi tù!

 

Tên Lào nghe thế thấy hoảng, bèn im tiếng. Hắn đưa một ngàn cho tên lái đò và bỏ túi một ngàn. Người lái đò cho nổ chiếc máy đuôi tôm và chiếc thuyền lao đi vùn vụt. Gió sông thổi mát rười rượi và nước sông bắn tung tóe cả vào mặt em. Em cảm thấy một niềm sảng khoái tràn đầy lan khắp người. Còn vài tháng nữa em sẽ tròn mười sáu tuổi, cái tuổi của người con gái quá dậy thì, bắt đầu lớn, bắt đầu biết yêu đương. Nhìn những thanh niên đẹp trai vạm vỡ, em đã bắt đầu biết quyến luyến, trong cơ thể em đã thấy rạo rực lạ thường. Những khi đó, em chỉ biết mỉm cười một mình, và vì là con nhà tử tế, em tự cảm thấy hơi xấu hổ. Em không dám nói với ai những cảm xúc thầm kín của mình. Dường như mẹ em biết em đã lớn nên cho em đi theo ba để săn sóc cho ông.  Mẹ em rất tận tụy với gia đình; măc dù bận bịu với chín đứa con nhưng bà luôn luôn dành thì giờ để chăm sóc bố em một cách tận tình. Sau bao nhiêu năm, bà vẫn thuơng ông như thuở ban đầu.

Trời đã xế trưa, nắng đã bớt gay gắt. Gió sông vẫn thổi lồng lộng. Chiếc ghe đã ra khỏi con sông nhỏ từ lâu và đang chạy trên sông Cửu Long mênh mông bát ngát. Lúc nãy ba em hỏi tên dẫn đường và nó cho hay chì còn vài tiếng nữa là đến nơi đổ người xuống đất Thái. Chiếc ghe đã đi khoảng bấy tám giờ rồi và mỗi khi có ghe lớn đi tới, cả tên dẫn đường lẫn ba em phải nằm rạp xuống và người lái ghe tắt chiếc máy đuôi tôm và dùng mái chèo để ngụy trang làm ghe người địa phương. Những lúc ấy tim em đập mạnh vì hồi hộp nhưng rồi mọi chuyện cũng trôi qua êm thắm. Nhờ đi ghe nhỏ ít người nên cũng đã tránh bớt được sự nghi nghờ của bọn lính Cộng sản.

Tới chiều hôm đó, chiếc ghe đậu lại tại một bờ sông hoang vắng bên đất Thái và tên dẫn đường bảo ba em là cứ đi thẳng vào bên trong đất liền sẽ có người tiếp đón đưa vào trại tị nạn. Quả nhiên sau khi đi vào sâu khoảng một tiếng đồng hồ thì bọn em gặp lính Thái, chúng đưa chúng em về một trại tị nạn gần biên giới, nơi tiếp đón những người Lào, Hmong, và một số ít người Việt từ bên Lào trốn qua. Những ngày ở đấy cũng ngắn ngủi vì chỉ sau đó hơn một tháng thì ba em và em được đưa đến một trại tị nạn lớn ở Si-Khiu thuộc tỉnh Nakhon Ratchasima.

Thời gian ở trại tạm cư cũng buồn tẻ, chẳng có việc gì làm ngoại trừ hằng ngày  nấu nồi cơm cho ba và em ăn và đi tắm giặt nơi con suối gần đó. Những lúc đi tắm là những lúc làm em khó chịu nhất vì em cứ bị một người đàn ông theo em và y cứ nhìn em chằm chặp, ngay cả những lúc em nấu cơm hay giặt rũ nữa. Lần đầu trong đời, em ý thức được rằng em đã trở thành một đối tượng cho đàn ông, và sự khó chịu xen lẫn với một cảm giác lạ nó làm cho em đỏ mặt, làm cho tim em đập nhanh hơn trong lồng ngực và như thể máu lưu thông nhanh hơn trong người em. Em đã bắt đầu nghĩ vu vơ và kể từ những ngày ấy, em thích nhìn những thanh niên cao lớn, vạm vỡ, và đẹp trai ở xung quanh em.

Và như thiên định, em gặp một thanh niên người Lào cao lớn có vẻ mặt tuấn tú. Em được anh ấy lân la gần em làm quen và sau này cứ theo em khắp nơi. Những ngày trong trại bắt đầu từ khi có Vi-Chanh bớt tẻ buồn và lúc đầu em không hiểu vì sao anh ấy lại có nhiều tiền, anh hay cho em để em đi chợ ở nơi làng gần đó mua thêm thức ăn cho ba. Vi Chanh thường đến căn chòi nơi em ở với ba để tán tỉnh và ve vãn em. Em thấy thương anh ta một chút vì anh ấy tốt với em, giúp đỡ em mọi chuyện trong trại, nơi đấy anh quen cả bọn lính Thái. Sau này em mới biết được rằng anh ta làm cái nghề nguy hiểm là đưa những người đi trốn từ đất Lào sang trại tị nạn này. Có lần Vi-Chanh hỏi ba em có cần anh giúp đưa mẹ em và các em em sang đấy hay không, nhưng ba em nói đã nhờ người dẫn đường cũ rồi và cám ơn lòng tốt của anh.

Người đàn bà đi cùng chuyến đò thấy Vi-Chanh cho em tiền, dở chứng nằng nặc đòi tiền em; con mẹ đó nói rằng nếu nó không đưa thêm hai ngàn cho tên đưa đường thì giờ này ba em và em cũng không ở nơi đây. Cuồi cùng, Vi-Chanh phải đưa cho con mẹ đó tiền để nó khỏi làm phiền em.

Chiều chiều, Vi Chanh và em thường nắm tay nhau đi chơi xung quanh trại. Anh đưa em đến những quán nước ăn chè, kẹo bánh, hay uống cà phê. Em không hiểu có phải vì em uống cá phê từ hồi đó hay không mà sau này em nghiện uống cà phê, nhất là từ ngày em sang Ý Đại Lợi, nơi nổi tiếng có cá phê ngon nhất thế giới.

Nói đến cà phê, em bỗng chợt nhớ ra rằng từ sáng đến giờ đó, em chưa có giọt cá phê nào vào bụng. Chúng tôi đã dậy rất sớm, lúc 5 giờ 30 sáng đi đến Pavia để lấy xe lửa đi Milano, và tính đến Milano thì uống cà phê ăn sang, nhưng không kịp vì bọn tôi muốn cố gắng đi Venicia sớm. Từ Milano đến Venicia  phải mất gần ba tiếng và em nói rằng em muốn tôi tận hưởng những giây phút ở Venicia.

  • Mình đi kiếm cà phê uống đi anh!

Hương kéo tay tôi đi sang toa bán hàng ăn. Trước chiếc quầy bán và ngay tại những bàn nhỏ, những ông bà người Ý ăn mặc sang trọng đang ăn sang. Chúng tôi ăn croissant và uống cà phê. Tôi nhìn em ngồi trước mặt. Trông em không ai bảo em đã có chồng. Em tươi vui và nhí nhành như còn con gái. Chồng em Alfredo, một anh chàng người Ý đẹp trai, thương em và cho em tự do hoàn toàn. Em đi làm gần nhà mẹ em, cách xa nhà chồng em cả 60 cây số nên thường hay ở lại nhà mẹ, chỉ cuối tuần mới về nhà chồng. Ở nhà mẹ, em thấy em vẫn còn là đứa con gái như xưa, vẫn được mẹ nuông chiều, được ăn cơm, ăn phở, ăn bánh cuốn mẹ làm, không phải ăn những món pasta italiano mà lúc mới ăn thì ngon nhưng ăn mãi thành ngán.

Hương từ nhỏ đến lớn vẫn là đứa bé vô tư lự. Em chỉ huởng những cái vui, những cái gì bận tâm, những gì có thể làm cho em buồn, em bỏ sang một bên. Nhìn em nói, em cười tươi, em làm những điệu bộ rất dễ thương, tôi nghĩ anh chồng Alfredo của em tất nhiên phải lấy làm sung sướng có được em làm vợ. Em yêu chồng em nhiều lắm và chắc em cũng đa tình như những người đàn bà Ý, nếu không hơn thì cũng không kém. Một ngày bên em, tôi thấy em gọi điện thoại cho anh chàng bốn năm lần, nói nói cười cười như thể hai đứa còn là tình nhân chứ không phải là vợ chồng. Em nói với Alfredo:

  • Mai sau, khi chết rồi, em vẫn còn muốn ở bên anh!

Alfredo trả lời đùa:

  • Thôi sống với cô một đời là đủ rồi! Cô còn để cho tôi tự do chứ!

Hương còn một đam mê khác là chơi lotto. Em mua báo Lotto hàng tuần và nghiên cứu các con số như một chiêm tinh gia nghiên cứu số mạng con người. Người em gái của Hương trách móc:

  • Những khi chị ấy vào mua vé số, chị ấy đứng hàng giờ tìm và chọn số! Anh thấy có khổ đời không?
  • Đã thế người ta nghiên cứu trước ở nhà để khi mua đã có sẵn những con số, thì có phải là nhanh chóng không?

Hương chẳng để tâm những lời chỉ trích của người em. Em chỉ cười xoà. Đã có lần em hỏi tôi:

  • Tại sao anh không như em, bỏ hết những ưu tư sang một bên?

Em vừa nói vừa lấy tay phải làm dấu hiệu gạt những ưu phiền sang một bên. Chẳng như thế, sao em cứ vui cứ trẻ mãi? Trái lại, người em gái của Hương thì lúc nào cũng chỉ nghĩ đến trách nhiệm và bổn phận, trán nàng đã có những vết nhăn.

  • Chị ấy không biết đi đâu anh. Lúc nào chị ấy cũng chạy. Đi với chị ấy, em không theo kịp!

Có một điều lạ là cả hai chị em đều gọi nhau bằng chị và xưng bằng em. Lúc mới gặp tôi bối rối không biết ai là chị ai là em! Hai chị em khác hẳn nhau về cả tính tình lẫn vẻ mặt. Hương thì giống mẹ, còn người em, Ngọc thì giống bố. Tất cả mọi công chuyện trong nhà đều do Ngọc lo và chu toàn. Bà cô tôi đã một lần nói với tôi:

  • Cả nhà trông cậy vào ở nó đấy anh!

Quả thật, tôi chưa thấy một người con gái nào đảm đang và lo lắng cho gia đình như Ngọc. Tôi nghĩ thầm, “Ai may mắn lắm thì lấy được cô ấy!”

  • Đã có chị ấy lo rồi thì em đâu còn phải lo nữa, phải không anh?

Hương trêu chọc người em gái. Nhưng tôi thấy hai chị em rất gần gũi và thương yêu nhau. Hai người có hai quan niệm sống trái ngược nhau, thật đúng là “bố mẹ sinh con, trời sinh tính.” Một người đi tìm hạnh phúc cho chính mình mà không làm phiền gì đến người khác. Người kia thì đi tìm hạnh phúc cho người khác và hy sinh bản thân mình.

Sau khi ăn sáng xong, chúng tôi lại trở về ghế nơi chúng tôi đã ngồi. Chiếc xe lửa tốc hành lao đi vùn vụt trong lớp sương mù nhẹ của buổi sáng. Những ngày tôi thăm nước Ý, rất may không bị mưa, trời tương đối nắng tốt. “Mấy hôm trước trời mưa nhiều! Thế là anh hên lắm đấy!” Trời đầu tháng tư cũng vẫn còn hơi lạnh nhưng cũng không lạnh gì nhiều hơn ở thành phố San Francisco của tôi. Quang cảnh nước Ý cũng không khác miền nam nước Pháp gì nhiều. Nhà cửa bên Âu châu có những nét giông giống các thành phố lớn ở Việt Nam làm tôi chạnh lòng nhớ đến quê mẹ. Tôi ngồi đối diện với Hương, nghe em kể chuyện về cuộc đời của em. Hương hỏi tôi:

  • Liệu về đến Mỹ anh có còn nhớ không mà anh đòi viết lại câu chuyện đời em?

Đầu óc tôi lúc này cũng không còn tốt như xưa, nhưng tôi vẫn còn khả năng nhớ lại những gì tôi muốn nhớ, tôi hỏi Hương:

  • Cái gì không nhớ thì anh bịa ra, có được không em?

Em phụng phịu, và thấy thế tôi vội nói thêm:

  • Nói đùa em đấy! Viết xong anh sẽ gởi qua cho em đọc, cái gì sai thì em sửa, có gì khó đâu?

Ngoài kia trời cũng đã hết sương mù. Ánh nắng đã bắt đầu chiếu xuống và quang cảnh bỗng thấy đẹp hẳn lên. Chiếc xe lửa vẫn lao vùn vụt. Tôi nóng ruột hỏi Hương:

  • Sắp đến Venezia chưa em?
  • Chắc cũng phải một tiếng nữa anh ạ! Em trả lời.

Chúng tôi đến nhà ga xe lửa Venezia lúc 10 giờ sáng. Trời nắng đẹp và vì hôm đó là ngày thứ hai lễ Phục Sinh nên Venezia tràn ngập những người đến xem thắng cảnh. Từ những toa xe lửa tuôn ra hàng ngàn người, một số là du khách ngoại quốc, một số là người Ý từ những nơi khác đến. Trên những con hẻm ngoằn ngoèo của thành phố du lịch nổi tiếng này hàng hàng lớp lớp người đi ngắm những cửa tiệm nhỏ bán đủ thứ loại hàng cho du khách ngắm có, mua về có, mua để rồi thì cũng chỉ một thời gian ngắn thì bỏ xó. Venezia là một thành phố lạ vì nó được xây cất ở một vùng gần bờ biển trên hàng trăm hòn đảo nằm san sát nhau và biển làm thành những con nước chạy khắp thành phố tạo thành một hệ thống lưu thông thế cho đường xá. Những toà nhà cổ xưa trông cũng lạ mắt, cứ đi một lúc lại băng qua một cây cầu nhỏ cho người bộ hành qua những con sông lạch; trong thành phố không có đường cho xe hơi chạy. Khu đẹp nhất của thành phố là bến tầu nơi có nhiều quán ăn và cửa hàng.

Chúng tôi lấy tầu đi đến một nơi kêu là San Marco, để đi thăm một nơi sản xuất sản phẩm mỹ nghệ bằng thủy tinh và pha lê. Hương đi đến đâu cũng mua sắm những đồ lặt vặt. Em nói em thích mua về để trưng bầy. Tôi thấy em là người rộng rãi, thích tiêu tiền, em mua cả những thứ tôi thấy không đáng mua. Tính em dễ dãi, đi đâu có người chào hàng mời mua là em ghé lại mua. Trong số hàng chục thứ em mua hôm ấy, tôi thấy em mua hai cái nón mặc dù trên đầu em đã có nón đội. Em kể cho tôi rằng khi em hết tiền, em cần 10 đồng bỏ túi, em hỏi anh chàng Alfredo, thì luôn luôn chồng em đưa cho em hai ba chục. Em nói em thương anh ta là vì anh ta cũng rộng rãi như em, và không coi nặng đồng tiền. Nhiều khi em bận, em sai chồng đi mua sổ số cho em, nói mua 5 đồng thì Alfredo mua 10, làm em khoái vô cùng. Là con người phóng khoáng, Hương thích sống tự do theo ý mình, em không thìch bị ai kiểm soát cho nên em nói em đã không chịu lấy chồng liền. Em nói em muốn “hưởng đờì” cho đã đã. Dạo đó, em chơi với Alfredo năm năm mà em vẫn chưa muốn làm lễ cưới.

Kể lại đám cưới của em, em nói đó cũng là một chuyện vừa lạ lùng vừa đáng ghi nhờ. Sau năm năm chơi với Alfredo, vì anh chàng dễ thương, chiều em và hay đưa em đi ăn và đi chơi biển, em vẫn chưa chịu lấy anh ta, cho đến khi chị Alfredo bảo em rằng chơi lâu như vậy rồi thì phải làm đám cưới, em nể người chị chồng và chịu nghe theo. Nhưng nhà Alfredo, như tất cả những nhà người Ý khác, là người công giáo nên em phải đi học đạo ở một nơi xa nhà hàng mấy chục cây số, vào những ngày thứ bẩy. Em nói em ngại đi nhưng không làm sao được đành phải chịu. Mà cứ đến ngày đi học đạo, khi đang ngồi học thì trời tối xầm xuống và chuẩn bị đổ mưa, em bèn làm dấu hiệu chỉ chỏ cho Alfredo biết và anh ta bắt đầu lo lắng, vì anh chàng ghét lái xe lúc trời đổ mưa. Thế là suốt buổi học đạo Alfredo đầu để đâu đâu, em thì khoái chí vì thấy anh chàng cứ như đang ngồi trên tổ kiến chứ không phải trong nhà thờ. Hỏi thế có lạ lùng không?

Rồi khi học đạo xong, hai đứa tính ngày để làm lễ cưới. Khi em nói chọn ngày này thì một người chị của Alfredo nói không được vì nàng đã hẹn đi biển rồi, chọn ngày khác thì người chị khác lại nói rằng không được vì ngày ấy chị có công chuyện. Em đành bảo Alfredo:

  • Hay là mình thôi không cưới nhau nữa hà anh?

Alfredo trợn tròn đôi mắt ngạc nhiên rồi anh ta tuởng em nói thật, anh bắt đầu lo lắng. Em nói em không muốn lấy chồng vì sợ bận bịu, em vốn là người không thích làm thêm việc, nhưng Alfredo muốn cưới em thì làm sao bây giờ? Đến ngày cưới, ông cha đỡ đầu cho Alfredo gởi hai đứa cho một ông cha khác để làm lễ, cha đỡ đầu chúc hai đứa hạnh phúc và cho quà, tưởng thế là xong bổn phận của mình. Không dè đến hôm cưới, bất thần ông cha kia đì du lịch và gởi lại cho ông cha đỡ đẫu cho Alfredo làm lễ. Em nói như vậy rút cuộc chính ông cha này lại phải đứng ra làm lễ cưới cho hai đứa. Thế có buồn cười không?

Đi chơi với em tôi quên cả mệt, đến trưa em hỏi tôi đã đói chưa. Em ghé nhìn các menu bầy trước những tiệm ăn rồi em nói không ngon, mình nên đi tiệm khác. Tôi tin tưởng em biết ăn nơi nào ngon vì em đi ăn nhiều, biết rành các món Ý. Ở San Francisco, cũng có nhiều tiệm ăn Ý ngon, nhưng tôi nghĩ những tiệm ấy cũng không thuần túy Ý, cũng như hủ tiếu hay bùn bò Huế ở San Jose đâu có thuần túy Việt nam? Nhưng không phải vì thế mà không ngon. Mỗi thứ nó có cái ngon của nó, mình ăn riết mình đâm quen với cái vị nơi mình hay ăn.

Như thế chúng tôi đi loanh quanh đến khi không còn thấy nhiều nhà hàng nữa, em đành dẫn tôi vào một nhà hàng vắng vẻ nơi ít tiệm ăn, nhưng trông cũng lịch sự. Chúng tôi ăn pasta với những con nghêu nhỏ tí, chằng bù với ở Mỹ nghêu con nào con nấy to tướng. Quả nhiên nhỏ mới ngon, như ớt chỉ thiên nhỏ xíu mới cay, những con nghêu nhỏ nhưng thịt ngọt, uống với rượu trắng thật thú vị. Tôi uống rượu gần nguyên chai vì em không uống bao nhiêu mặc dù em khoe nhà chồng em làm rượu, em thường uống khi ăn. Khi ra khõi tiệm ăn, tôi lâng lâng say, thấy cuộc đời đẹp hẳn, em hỏi tôi ăn có được không, tôi thiệt tình nói cũng không có gì đặc biệt, em cũng đồng ý nói tiệm đó ăn cũng không ngon lắm. Tôi nói đùa với em:

  • Sao Hương nói em biết ăn tiệm nào thì ngon cơ mà?

Em vui vẻ đáp:

  • Có ăn thử mới biết có ngon không chứ anh?

Và em cười xinh như mộng. Quả nhiên ở đời cái gì cũng thế, có thử mớì biết của tốt hay xấu, thật hay giả. Có điều có nhiều thứ mình không thử được, mình phải quyết định mà không đựơc thử, hoặc khi thử rồi mà không tốt mình cũng phải chịu thôi, phải không em?

Tôi thương em vì em là người vô tư lự, không có gì làm em bận tâm. Mới găp em lần đầu nhưng em rất thân thiện, tôi tưởng như đã quen biết em từ bao nhiêu lâu rồi. Em giầu tình cảm, em vẫn còn nhớ người thanh niên Lào đã giúp em nơi cái trại tị nạn ở vùng biên gìới Tháí năm xưa, ngày em mới mười lăm mười sáu. Tôi không biết em có thương anh ta hay không nhưng có điều chắc là em vẫn còn mang ơn người đó. Em nói:

  • Lúc đó em nghèo khổ được anh ta giúp đỡ, cho tiền tiêu, em mang ơn anh ấy, Bây giờ em muốn tìm lại anh ta để trả ơn!

Hương đáng yêu là ở chỗ ấy, em biết mang ơn và có nhiều tình người, một điều khó thấy trên cõi đời này.

 st

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 92 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.336 seconds.