Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Apr/2019 lúc 8:33am

Bố Tôi


Related%20image

Ngày bố tôi sắp về hưu, lúc ấy ông gần sáu mươi lăm tuổi, tôi thấy ông có thái độ lạ lùng, không là con người ông vẫn là lúc trước. Ông đã thay đổi không những về tính nết mà cả về cách cư xử và hành động. Nói cách khác, ông đã trở thành một con người khác lạ trong gia đình. Ông càng ngày càng ít nói và cuối cùng gần như không còn nói một câu nào suốt ngày, chỉ trả lời vắn tắt “có” hay “ không” khi chúng tôi hỏi, và nhiều khi im lặng không trả lời khi câu hỏi bắt ông phải nói ra một câu dài. Đối với mẹ tôi, ông càng không nói, chỉ lầm lầm lì lì.

Ông vốn là một người nóng tính, hay cau có gắt gỏng, hơi một tí là la hét um sùm. Bây giờ ông chỉ suốt ngày yên lặng, không để ý tới ai, như thể ông chỉ còn sống cho mình ông. Có lẽ vì ông không còn giao tiếp với mẹ tôi nhiều nữa nên ít còn cọ sát, ít đụng chạm. Những vụ to tiếng thường xuyên đối với mẹ tôi đã mất hẳn, vì ông không còn nói gì với bà nữa, ông chỉ còn là một sự hiện diện trong nhà, có cũng như không.

Ông cũng đã cả đời tỏ ra là một người khó tính, luôn luôn đòi hỏi sự tuyệt mỹ, đòi hỏi cái tối đa, cái nhất, không hẳn là chỉ đối với mẹ tôi và chúng tôi mà ngay cả đối với chính ông nữa. Ông ít khi bằng lòng liền với những công việc chúng tôi làm, ông thường hay phê bình chỉ trích, đôi khi bắt chúng tôi sửa hay làm lại. Chúng tôi thấy ở nơi ông một con người khó hợp với, khó sống cùng vì thế!

Nhưng ông lại là một con ngưòi nhiều tình cảm, ông sống cả đời vì chúng tôi, ông thương chúng tôi hơn cả chính ông, ông làm cái gì cũng vì người khác, kể cả những người không ruột thịt máu mủ. Ông lo lắng từng tí cho chúng tôi, ngay cả khi chúng tôi đã trường thành và đã có gia đình riêng. Ngày ông có các cháu nội, ông dành bao nhiêu thì giờ rảnh chơi với chúng, đùa nghịch với chúng như một đứa bé con, ông cũng giỡn, cũng cười, cũng chơi như chúng, coi chúng như những đứa bạn nhỏ của mình. Ấy thế mà bỗng nhiên ông đả thay đổi hoàn toàn, ông không còn thân thiết với ai trong nhà nữa. Dường như ông chỉ còn sống cho bản thân ông, ông chỉ còn nghĩ đến ông, không còn ai xung quanh ông là quan trọng nữa. Ngay cả các cháu nội, ông cũng không còn bồng bế, nô đùa với chúng, ông đã quên chúng, ông không xa lánh nhưng không còn gần gũi như xưa.

Nhưng cái khác lạ rõ ràng nhất là sự đối xử của ông đối với mẹ tôi. Ngày xưa ông thương yêu mẹ tôi biết là chừng nào. Ông sống vì bà, ông cố gắng, hy sinh vì bà. Ông đã từng chăm sóc cho bà như chăm sóc cho một người tình, lúc nào cũng muốn có bà bên cạnh. Nhưng mối tình nóng hổi ấy đã phai nhạt với năm tháng, một phần bởi vì mẹ tôi không hiểu rằng có ông là một cái gì quí mà trời cho, bà luôn luôn coi việc có ông như là một sự đương nhiên, bà không gây dựng hay tìm cách nuôi dưỡng cho mối tình tiếp tục nẩy nở hay ít ra là không suy tàn. Vì thế mà dần dần giữa hai người không còn sự thắm thiết của thuở xưa nữa, không còn sự cảm thông, sự hiểu biết nhau, không còn mối tương quan thắm thiết giữa hai người bạn đời, trái lại chỉ còn sự cay đắng, sự chống đối, sự bất đồng, và có thể nói gần như là sự hận thù. Vì vậy mà mẹ tôi coi sự thể ông đã thôi không giao tiếp với bà nữa như là một điều may mắn, bà khỏi bận tâm, khỏi suy nghĩ, và nhất là khỏi phải đối phó với những khó khăn mà, bà nói do ông gây ra.

Sau ngày ông về hưu, ông lại còn lạ lụng hơn nữa. Ông cứ suốt ngày ngồi trong phòng đọc sách, viết văn, hay suy tư. Ông hay ngồi hàng giờ với một ly rượu và bao thuốc nghĩ ngợi, tôi không hiểu ông nghĩ gì, cái gì làm cho ông bận tâm khi mà ông đã về hưởng tuổi già, khi đáng lý ra ông phải được hưởng sự thanh thản của tâm hồn? Tôi không dám hỏi ông, mặc dầu những lần tôi về thăm nhà cùng đứa con ba tuổi, tôi không thấy ông vui, ông chỉ ra ôm đứa cháu, hôn nó một cái rồi lại đi vào trong phòng riêng của ông. Tôi có cảm tưởng ông sống trong một thế giới cô lập cũa riêng ông, ông không còn màng tới những gì xẩy ra bên ngoài căn phòng đó, ông đã bị lôi cuốn vào một thế giới của ảo tưởng, của tiềm năng, ông sống với những mơ ước mà ông đã không thực hiện được trong cuộc đời mình.

Thế rồi một hôm, khi không ai để ý đến ông, ông đã ra đi, ông đã biến mất để cho đến khi đứa cháu nội vào gọi ông ra ăn cơm chiều thì cả nhà mới hay ông không còn ở đó nữa, ông đã đi rồi. Tôi vào trong phòng ông lục lọi xem ông có mang thứ gì theo hay không, thì thấy ông chỉ đi người không, ông đã mặc bộ đồ khi ông còn đi làm. Trên bàn có tờ giấy nhỏ xíu, trên đó ông viết: "Tôi đi rồi tôi sẽ về, không có gì phải lo lắng cả. Đừng đi tìm tôi vô ích."

Và đúng như lời ông dặn dò, chúng tôi không đi tìm ông. Mẹ tôi chẳng tỏ vẻ lo lắng gì cả. Bà nói:

  • Để cho bố chúng mày đi chơi cho sướng cái thân. Ở với tao ông thấy khổ, tao cho ông ấy đi ở với gái trẻ, đi chán ông ấy sẽ về!

Cái sai lầm ở mẹ tôi là ở chỗ ấy. Bà nói cứ để cho bố tôi đi, nhưng rồi ở nhà ai lo công việc trong nhà? Mặc dù bố tôi có vẻ bất thường nhưng ông vẫn là người quyết định mọi việc, ông vẫn lo giải quyết những vấn đề khó khăn như vấn đề tiền bạc, vấn đề sửa sang nhà cửa, và nhất là khi phải đối phó với người ngoài. Nay ông đi rồi thì mẹ tôi đâu có biết phải làm những công việc ấy? Tôi sẽ phải đứng ra thế ông, nhưng nay tôi đã có gia đình riêng, tôi lo thân tôi chưa xong, nhiều khi còn phải hỏi ý kiến bố tôi thì làm sao bây giờ?

Vả lại có ông ở nhà thì mẹ tôi còn lo dọn dẹp nhà cửa, đi chợ đi búa về làm cơn cho ông ăn. Nay ông đi vắng mẹ tôi, vốn dĩ lười, cứ để nhà bừa bộn, không lau chùi nên nhà bếp nhà tắm bẩn như hủi.  Trong phòng ngủ quần áo mặc rổi mẹ tôi chất đống, chẳng buốn treo lên mà cũng chẳng đem đi giặt. Phòng khách phòng ăn ôi đủ thứ la liệt, sách báo, kẹo bánh, đồ dùng xài xong vẫn vứt đó, chén trà, cốc nước uống xong không buồn dọn, có khi để đó vài ba ngày, một tuần. Đồ đi mua về vứt ngay cửa ra vào có khi cả mấy tuần không đem cất. Mỗi khi về nhà thăm mẹ tôi, hai vợ chồng tôi phải dọn dẹp cho bớt ghê mắt, riêng tôi chỉ sợ bố tôi về bất tử thì lại có chuyện.

Mẹ tôi hay cãi lại ông làm ông nổi giận đập phá đùng đùng. Bà có tật hay dựng đứng câu chuyện lên rồi đổ lên đầu bố tôi, làm cho bố tôi phát điên lên thì mới thôi. Hơn nữa, mẹ tôi là dân Hà Đông, bà có cách nói xéo, làm người nghe rất khó chịu. Bố tôi ghét cái tính xấu đó của bà nhưng chẳng làm được gì. Bố tôi nói càng về già mẹ tôi càng có nhiều hành đông làm cho bố tôi bực bội. Tối đến bà thức có khi đền hai giờ sáng chỉ để ngồi xem báo hay xem truyền hình. Bố tôi dục đi ngủ bà cứ lờ đi. Sáng ra bà không dậy nổi, bố tôi chuẩn bị bữa ăn sáng xong, bà cũng chưa chịu dạy, đến khi bố tôi ăn xong bà mới ra ngồi ăn. Cơm tối cũng vậy, mẹ tôi đi làm tan sở không về liền, bố tôi chờ không được dành dọn cơm lên ngồi ăn, ăn nửa chừng thì bà về. Bố tôi ăn xong đi nơi khác, mẹ tôi ngồi ăn, cả tiếng đồng hồ sau vẫn chưa xong, bà cứ ngồi một mình chậm rãi ăn, lúc nào muốn thôi thì thôi.

Nay bố tôi đi rồi thì mẹ tôi chẳng còn đối tượng để mà chống đối nữa, bà dành toàn thì giờ đọc báo hay coi truyền hình. Bà có thể ngồi đọc báo hoặc coi truyền hình hai  ba tiếng đồng hồ, quên ăn quên ngủ. Tin tức gì bà cụng thuộc nằm lòng. Bà cứ kể đi kể lại những gì bà học được, nhiều khi người nghe phải nhắc là bà đã nói hai ba lần rồi thì bà mới thôi kể. Bà cũng có thể ôm điện thoại nói chuyện với bạn bè hết giờ này sang giờ khác. Còn nói đến việc đi mua bán thì có khi mẹ tôi đi không còn biết giờ về. Bà đi đến đâu cũng xem hết thứ này đến thứ kia nhưng không mua, bà chỉ thích xem để mà xem, để mà biết. Cái gì bán ở đâu bà đều biết, nói đến cái gì bà cũng hay.

Có một điều là mẹ tôi hay nói nhưng không bao giờ làm. Bà muốn cái gì thì cứ nói lên cho bố tôi nghe, rồi nếu ông không làm thì bà than, bà trách. Bà nói bảo làm không làm để bây giờ như thế này, như thế kia. Mà khi bà không bằng lòng một chuyện gì thì bà cứ nói tới nói lui, có khi cả hai ba năm sau bà vẫn còn lôi chuyện cũ ra mà nói. Bố tôi đến khổ vì bà, nhưng ông cho đó là vì bà già, bà thay đổi tính nết, bà khó chịu cũng như tất cả những người đàn bà khác khi về già. Khi bố tôi góp ý với bà thì bà nói với bố tôi:

  • Không vừa ý thì đi tìm gái mười tám cho nó hầu hạ, để cho tôi yên thân.

Tôi không hiểu trong đầu bà nghĩ gì mà lại nói thế, nhưng tôi biết bà cũng không sung sướng gì. Câu nói đó thể hiện một sự bất mản cùng cực. Có một điều tôi thấy lạ là thay vì đạp đổ, tại sao bà không chịu có một thái độ xây dựng? Tâm lý người đàn bà vào cái tuổi trên năm mươi hẳn là rất phức tạp, tôi không hiểu được những biến chuyển sinh tâm lý xẩy ra nơi họ. Tôi nghe nói là chính những người đàn bà đó cũng không hay biết rằng họ đã thay đổi, họ đã khác xưa, và vì thế họ khăng cho rằng họ vẫn thế, lỗi là do những người khác chứ không phải tại họ.

Tôi nghĩ bố tôi đã chán cái cảnh cơm không ngọt canh không bùi, ông đã không chịu nổi cái uơng ngạnh của mẹ tôi, ông muốn sống những ngày còn lại trong yên bình, và vì thế ông đã rút lui vào cái thế giới của riêng ông, vào giữa bốn bức tường của căn phòng làm việc mà xưa kia ông không thích vào. Nhưng như thế cũng không mang lại cho ông niềm sung sướng, vì ai sướng khi chỉ sống trong môi trường chết, môi trường im lìm, không tiếng nói, tiếng cười? Ai có thể ngày đêm chìm đắm trong sự u mê, sự day dứt của nội tâm? Tôi biết ông đang bị giằng co giửa bổn phận và hạnh phúc cá nhân. Ông đã không chịu ly dị vì còn con cái, còn các cháu của ông mà ông thương yêu vô ngần. Mẹ tôi đã bao lần nói thẳng vào mặt ông:

  • Sao ông không ly dị tôi cái quách đi cho rồi? Để mà còn đi tìm gái tơ mà hưởng đời chứ? Ông còn tiếc cái gì nữa?

Tôi không biết bà có thực sự muốn thế không, nhưng tôi thấy bố tôi chỉ cắn răng lại để khỏi nói câu gì, vì tôi biết nếu đổ thêm dầu vào lửa tất nó sẽ bùng lên và không còn cứu chữa được nữa.

Ngày bố tôi ra đi, chúng tôi tưởng ông đi đâu chơi một hai ngày. Nhưng cả tháng trôi qua chúng tôi không thấy về, tôi cũng hơi lo lắng. Tôi gọi điện thoại đến các bác, các chú, bạn bè của ông thì không ai biết ông đi đâu, ông không hề thổ lộ kế hoạch của ông cho ai hết. Họ cũng ngạc nhiên về hạnh động này và không ngờ bố tôi lại có thể làm cái chuyện bất thường như thế. Nhưng tôi thì không ngạc nhiên chút nào. Ngày ông còn trẻ ông đã làm nhiều chuyện ngông cuồng. Đang đi làm yên bình ở sở này, ông vì bất bình một chuyện gì, ông xin nghỉ và sang làm một sở khác. Trong cuộc đời ông, ông đã thay đổi việc làm như chong chóng, ông đã không làm một công việc gì quá năm năm. Ông tuyên bố làm lâu một nơi chán, ông thấy cần thiết phải thay đổi. May mà ông là người có chí, ông luôn luôn trau dồi kiến thức, và ông có khả năng trí tuệ phi thường, không có một công việc gì mà ông không làm cho bằng được. Cuộc đời ông đã có những lúc khổ cùng cực, ông đã phải làm những công việc nặng nhọc hay thật tầm thường để tạm sống. Ông có tinh thần đấu tranh phi thường, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào ông cũng cố vươn lên để thoát khỏi sự cơ cực. Ông rất tự hào về những thành quả ông gặt hái được trong cuộc đời. Tất nhiên tôi rất hãnh diện về con người phấn đấu của ông, tôi rất muốn giống ông và ông đã là gương sáng dẫn đường cho tôi đi. Chính vì tôi nhìn vào ông, noi gương ông, mà cũng đã thành công nhanh chóng và tiến lên trong sự nghiệp của mình.

Và như thế bố tôi đi đâu, không ai biết, cho đến một hôm chúng tôi nhận được một tấm thiệp ông gởi về đề tên Bé Mai, đứa con gái đầu lòng của em tôi, sanh ra khi ông không có nhà. Tấm thiệp mang những giòng chữ nắn nót của ông như sau

Cháu Mai thương yêu của Ông Nội,

Ông rất tiếc khi cháu ra đời ông không có mặt để bồng cháu ngay từ khi mới lọt lòng mẹ. Vì hoàn cảnh đặc biệt ông không thể về ngay thăm cháu, nhưng khi nào ông về thì ông hứa sẽ không quên có quà cho Bé Mai của ông.

Ông hôn cháu và yêu cháu vô cùng.

Nhìn con dấu bưu điện chúng tôi ngạc nhiên thấy rằng ông đã gởi nó từ một tiểu bang xa xôi cách chúng tôi cả mấy ngàn dậm. Thì ra ông đã quyết định ra đi thật xa, đi như thể đi trốn cái nơi đã làm cho ông buồn khổ, đi để mà quên lãng, đi để không còn gì gắn bó với một dĩ vãng đau thương.

Thành phố ông đang ở cũng là một thành phố lớn, nơi đó cũng có nhiều ngưới Việt sinh sống. Tôi chưa bao giờ đặt chân đến nơi đấy nhưng tôi nghe nói nơi đó sinh hoạt của cộng đồng cũng cao, cũng có nhiều người làm ăn buôn bán nhộn nhip, và nhiều khu cũng sầm uất không khác gì nơi tôi đang ở.

Trong khi chúng tôi rất xúc động khi nhận thiệp ông gởi về thì mẹ tôi vẫn dửng dưng như không. Bà cũng chẳng buồn cầm đến lá thơ mà cũng chẳng hỏi xem bố tôi đã viết những gì trong ấy. Tôi lấy làm lạ sao mà mẹ tôi lại có thể dứt tình với bố tôi như vậy. Tôi muốn tìm hiểu xem bố tôi đi xa như thế để sống với ai, không phải vì tôi tò mò hay muốn tìm cách kết tội ông, mà là vì tôi thương ông. Tôi thương bố tôi vì tôi biết chẳng đặng đừng bố tôi mới phải ra đi như thế, tôi biết rằng xa các con cháu ông nhớ lắm và cũng khổ sở không ít. Và tôi định tâm một ngày nào gần đây tôi sẽ xin nghỉ một tuần lễ để đi tìm ông.

Tôi chưa kịp đi thì bố tôi về. Ông về  vào lúc đêm tối khi mẹ tôi đã đi ngủ, ông lẳng lặng mở cửa vào nhà, rồi vào phòng ông nghỉ. Sáng hôm sau khi mà mẹ tôi còn ngủ thì ông đã thức dậy pha trà uống và ngồi đọc báo ở ngoài phòng khách. Nghe tiếng động mẹ tôi tỉnh dậy và thấy ông, bà rất ngạc nhiên. Ông đi như vậy là gần ba tháng trời, ra đi ông không nói cho ai hay mà về cũng chẳng báo trước. Mẹ tôi nói:

  • Tôi tưởng ông đi luôn rồi chứ! Sao lại còn về?  Tôi tưởng ông đi cho sướng cái thân thì còn về nhà làm gì cho khổ thêm cả tôi nữa?

Bố tôi cứ im lặng chẳng nói câu gì. Mẹ tôi nói thêm:

  • Nó bòn hết của rồi nó đuổi ông đi chứ gì. Bây giờ lại về lấy thêm tiền mang đi nuôi nó chứ gì?

Cáu quá bố tôi nói lại:

  • Bà xem tôi có lấy đồng xu nào mang đi không nào? Bà đừng có ăn nói hồ đồ. Đừng có làm cho tôi điên tiết lên. Khôn hồn thì để cho tôi yên!

Mẹ tôi vừa đi xuống bếp vừa nói:

  • Ông không có tiền thì nó ăn bả gì mà nó nuôi ông?

Thế là bố tôi đập bàn một cái rầm, rồi nói:

  • Đã bảo câm cha nó cái miệng lại mà không chịu câm.

Bố tôi đi vào phòng của ông đóng xầm cửa lại. Thế là ông lại trở về với cái thế giới của ông, trong cái thế giới đó không có người vợ oái oăm, khó chịu mà ông nay ghét thậm tệ.

Chiếu thứ bẩy nghe tin bố tôi về, hai anh em tôi mừng rỡ, định tổ chức đi ăn cơm chiều cho cả gia đình. Em tôi bế bé Mai về ra mắt ông nội, ông mừng hết sức, ông ẵm bé, ông hôn, ông không chịu rời đứa cháu cưng của ông. Ông về ông đã mua cho cháu ông một tấm lắc đeo tay bằng vàng tây, ông lấy ra đeo cho cháu rồi bắt chụp cho ông cả chục tấm ảnh ông bồng bé Mai của ông. Thấy ông vui sướng, chúng tôi mừng quá chừng, mẹ tôi tức tối nói:

  • Sao ông không đẻ một bé Mai của ông mà ôm mà thương yêu? Lấy một con vợ mười tám tuổi thì nó đẻ cho chứ có khó gì?

 

Thế là bố tôi giận, không đi ăn cơm chiều nữa, ông nói ông “không đi ăn với con mẹ khó chịu đó”. Ông bảo mẹ tôi là việt cộng, chuyên môn phá hoại, cứ đến lúc cả gia đình vui vẻ thì bà phải làm một cái gì để phá, để chọc giận bố tôi, làm cả nhà hết vui vẻ. Mẹ tôi chẳng cần có bố tôi đi, bà nói tỉnh bơ:

  • Bố mày dỗi, để cho ông ấy ở nhà. Mình đi mình cứ đi!

Chúng tôi đành đi mua đố ăn về nhà, bố tôi không còn hứng, ông ăn hai ba miếng rồi bồng bé Mai vào trong phòng ngồi ôm cháu. Mẹ tôi ngồi ăn vui vẻ như không có chuyện gì, trong khi chúng tôi thì rầu thối ruột.

Những ngày ông ở nhà, chiều nào ông cũng đến thăm các cháu nội, nhất là cháu bé gái bé bỏng của ông. Nhưng vì ở nhà không được vui, hai tuần sau ông lại ra đi, ông đi mà không nói trước với ai, tự dưng ông biến mất, không để lại một vết tích gì.
Thế rồi mỗi tháng ông biên thơ về cho các cháu, ông hỏi thăm, nói chuyện này nọ, và thơ nào ông cũng nói ông nhớ chúng nó, nhất là bé Mai của ông. Ông muốn chúng tôi gởi hình các cháu cho ông và ông cho một hộp thơ để chúng tôi gởi tới đó.

Sáu tháng trôi qua, không thấy ông về thăm nhà, chúng tôi sốt ruột, tôi bèn xin nghỉ một tuần đi tìm ông. Tôi nghĩ tôi biết thành phố nơi ông ở, tôi chỉ cần đi hỏi thăm thì sẽ tìm được ra ông, nhưng tôi đã lầm. Năm ngày trời tôi đi khắp các khu phố có người Việt làm ăn buôn bán hỏi thăm, không ai biết và không ai nhận ra người trong tấm hình của bố tôi mà tôi đưa cho xem. Ban ngày tôi đi mỏi cả chân, chiều tối về khách sạn, tôi điên thoại cho những người quen biết ông hiện đang ở vùng này để xem bố tôi có liên lạc với ai không, thì cũng không ai biết tin gì vì ông không hề tiếp xúc với họ. Thật là một chuyện lạ lùng, như thể ông muốn giấu hết tất cả mọi người về sự hiện diện của ông ở nơi đây.

Đến tối hôm thứ sáu, khi tôi đã thất vọng tưởng phải bay về tay không, thì bố tôi gọi điện thoại đến khách sạn hỏi tôi. Ông nói ông được biết tôi đi tìm ông nên ông muốn gập tôi nói chuyện. Ông hẹn sáng thứ bẩy hai bố con đi ăn sáng gặp nhau, vì chiều tôi đã lên máy bay trở về. Ông cho nơi hẹn và giờ hẹn rồi thôi không nói gì hơn nữa.
Đêm hôm ấy tôi trằn trọc không ngủ được. Tôi không hiểu tại sao ông biết tôi đến đây đi tìm ông mà ông gọi? Tại sao ông lại chọn nơi này mà đến ở? Ông sống với ai nơi đây?Thật là những điều bí hiểm.

Sáng hôm sau tôi đến nơi hẹn sớm cả nửa tiếng đồng hồ vì tôi muốn xem ông tới bằng cách nào và với ai. Đúng giờ hẹn tôi thấy một chiếc xe hơi loại sang đậu lại cách nơi đây vài trăm thước và tôi thấy ông bước xuống. Ông mặc một bộ đồ mà tôi chưa thấy bao giờ, trông rất lịch sự, ông bước rất khoan thai, vẻ mặt tươi tỉnh, không ủ rũ như khi ở nhà. Cái gì làm ông thay đổi như vậy, tôi tự hỏi. Tôi thấy ông đẩy cánh cửa tiệm ăn, nhìn một vòng, thấy tôi, ông cười và tiến tới. Ông nói:

  • Làm gì mà con phải đi tìm bố vậy? Thư thả rồi bố về chứ gì?
  • Con muốn sang đây thăm bố và xem bố sống làm sao. Ở nhà chúng con hơi lo…
  • Sao phải lo? Bố sống ở đâu chẳng được? Thôi con đã đến đây thì để bố kể hết chuyện cho con nghe. Con lớn rồi chẳng có gì mà phải giấu con nữa.

Người hầu bàn đến, chúng tôi gọi phở và cà phê đen. Bố tôi hỏi chuyện ở nhà ra sao, tôi nói mọi chuyện vẫn bình thường, các cháu nhớ ông lắm, chúng cứ hỏi ông đâu. Nghe nói vậy vẻ mặt bố tôi hơi thay đổi, phảng phất một nỗi buồn, tôi biết ông cũng nhớ các cháu ông lắm.

Phở mang ra, chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện. Tôi hỏi:

  • Bố ở đây với ai? Ăn uống làm sao?

Ông ngừng ăn, tay vẫn còn cấm hai chiếc đũa, nhìn tôi như muốn xem tôi có ẩn ý gì không. Ông ăn thêm vài ba gắp rồi đẩy bát phở sang một bên, cho đường vào cà phê uống. Ông nói:

  • Bố ở với một người bạn quen từ lâu lắm rồi, con không biết bà ấy. Bố quen từ trước khi lấy mẹ con.
  • Bố tìm bà ấy hả bố?
  • Không, tình cờ bố gập lại. Đã gần bốn mươi năm trôi qua. Bố không nhận ra bà ta nhưng bà nhận ra bố. Thật là một chuyện lạ lùng!
  • Bố gập hồi nào?
  • Cách đây năm năm, ở Paris, tại nhà một người bạn chung của hai người.
  • Sau đó bố vẫn tiếp tục liên lạc?
  • Thỉnh thoảng, bố nói chuyện điện thoại thôi. Lúc sau này bố buồn thì tâm sự nhiều hơn. Bà ấy góa chồng đã hơn mười năm nay rồi, có một đứa con gái nay cũng bằng tuổi con. Bà làm ăn buốn bán nên khá gỉa, nhà cửa rộng mà không có ai ở, chỉ có hai mẹ con nên mời bố sang chơi.
  • Thế rồi bố ở luôn ?
  • Không bố đâu có tính ở luôn? Ở nhà lúc nào tinh thần cũng căng thẳng, làm sao bố chịu mãi cho được. Bố bị suy nhược thần kinh vì thế. Ở đây thoải mái, bố thấy dễ thở, bồ bớt u sầu, không còn buồn bực. Bố ở tạm một thời gian cho khỏe lại…
  • Con thấy bố có khá hơn ở nhà, bố bình thường hơn trước, con mừng lắm. Nhưng ở như thế mãi sao tiện?
  • Người ta mời bố, chứ bố có xin đâu? Nhà cửa rộng thênh thang để không, không ai chăm nom, bố làm quản gia, người ta còn mừng. Nói thế chứ bà ta thương bố, thấy bố buồn khổ, muốn giúp. Bố không thấy có gì phiền hà…
  • Cơm nước thì sao hả bố?
  • Ở chung nhà thì ăn chung chứ có gì đâu? Bố ăn đâu có bao nhiêu?
  • Bố có góp tiền hàng tháng không?
  • Bà ấy đâu chịu lấy? Bà nói, bố đến ở là vui cửa vui nhà, bố không phải lo lắng gì cả. Tiền mà làm gì hả con?
  • Thế còn tiền máy bay đi về?
  • Con Thủy nó mua cho bố. Quần áo bố mặc cũng vậy, nó thương bố lắm! Mỗi lần bố về nhà, cả hai mẹ con cứ thấp thỏm, chỉ sợ bố không qua nữa!
  • Vì vậy mà lâu quá bố không về nhà?
  • Có lẽ vậy. Không có vé máy bay thì làm sao về? Mà về đến nhà là lại có chuyện, bố không muốn về nữa! Mẹ con đâu còn thương bố nữa?
  • Bà ấy thương bố nhiều lắm phải không?
  • Không biết, nhưng ở đây không bao giờ có một vấn đề gì để buốn phiền!
  • Bố thích ở đây hơn?
  • Không hẳn là thế! Hoàn cảnh bó buộc. Bố đâu còn cách lưạ chọn nào khác? Xa con và các cháu, bố nhớ lắm chứ!
  • Con biết! Thôi con nghĩ thế này cũng được. Bố cần có cuộc sống riêng của bố, con không dám nói gì.
  • Con về cứ coi như không tìm ra bố. Chớ có nói gì với ai. Cái này là bí mật giữa hai bố con mình.
  • Thưa bố vâng!

Chưa bao giờ bố tôi lại tâm sự với tôi như thế! Tôi nghĩ ông cảm thấy thoải mái hơn sau khi cho tôi biết những gì ẩn náu trong lòng ông từ nhiều năm nay. Sau khi ông đã chia sẻ nỗi lòng của ông với tôi, ông không còn phải chịu cái gánh nặng ấy một mình.  Tôi thấy hình như ông thở ra khoan khoái, và ông ra về vui vẻ. Ông ôm vai tôi, chúng tôi ra cửa, ông leo lên chiếc xe vẫn chờ từ nãy giờ nơi đó, tôi về khách sạn đệ chuẩn bị ra phi trường.

Những lần sau ông về, ông ở nhà hai vợ chồng tôi, ông vui chơi với các cháu nội, nhưng về được một tuần, ông lại sốt ruột đòi ra đi. Tôi hiểu ông nên không dám nói gì. Chỉ có các cháu nhỏ, chúng cứ nhao nhao “Ông nội đừng đi! Ông nội đừng đi!” làm ông chảy nước mắt mỗi khi ra đi.

Tôi cũng một năm hai lần lấy cớ đi họp, sang thăm ông vài ba ngày. Chúng tôi chỉ gập nhau ở nơi công cộng, ông không bao giờ cho tôi biết nơi ông ở, càng không cho tôi biết ngươì đàn bà bí mật mà ông ở nhờ.

Cứ như thế được mười năm trời. Rồi một hôm ông về, ông ốm nặng đòi tôi đưa vào nhà thương. Mới vào hôm trước hôm sau thì ông qua đời. Những lần tôi vào với ông vào những giờ chót ông sắp ra đi, tôi thấy hai người đàn bà, một người lớn tuổi như mẹ tôi, ăn mặc sang trọng, ngồi nơi chiếc của sổ cách phòng bố tôi nằm chừng mươi thước. Trông họ nghiêm trang và có vẻ buồn rầu lắm. Tôi biết ngay đó là Thủy và mẹ chị, người đã nuôi dưỡng chăm sóc bố tôi hơn mười năm qua.

Những ngày xác bố tôi quàn ở chùa, tôi thấy suốt ngày bóng dáng hai người đàn bà ấy lảng vảng ở sân chùa, người mẹ cầm chiếc khăn tay lau mắt. Tôi lấy làm sót sa cho bà, vì bố tôi chết, mẹ tôi không buồn, không khóc mà bà thì đau đớn sụt sùi. Và bà lại không được khóc công khai! Thật là một sự bất công, nhưng làm sao được? Định mệnh đã an bài như thế! Ngày xưa bố tôi đả bỏ người con gái ấy để lấy mẹ tôi. Thế mà một đời, người ấy vẫn thương vẫn muốn làm sao cho bố tôi bớt khổ. Công lao ấy tôi ghi trong lòng mãi mãi.

huong duong txđ
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Apr/2019 lúc 2:21pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Apr/2019 lúc 10:52am

Những Người Không Đất Đứng


mh%20chai%20gheTôi gặp chị vào những ngày sau tháng tư năm bảy mươi lăm, khi hai người đàn ông của chị và tôi cùng vắng mặt trong gia đình. Tôi trở về nhà với mẹ trong một xóm nhỏ ở thành phố Cần Thơ, còn chị cũng dắt con về nhà người anh tá túc, vì cha mẹ chị không còn. Hoàn cảnh hai đứa thật giống nhau, hai người phụ nữ chân yếu tay mềm, mỗi nhà hai đứa con còn nhỏ dại. Hỏi ra thì trước kia tôi và chị cùng học một trường, cũng mái trường Nữ Trung Học và cũng những thầy cô năm cũ. Tôi đi làm một ít lâu, lấy chồng rồi bận rộn con cái, yên phận làm mẹ. Chị lý tưởng hơn, sau khi đậu Tú Tài, thích là "hoa lạc giữa rừng gươm" nên chị theo học khóa nữ trợ tá xã hội, tham gia công tác giúp đời. Chị có học qua một khóa trợ y, nhờ vậy sau này khi lâm vào bước đường cùng, chị đem chút tài mọn ra chữa bệnh cho dân nghèo ở vùng sâu, vô tình được phong làm cô bác sĩ dù không đỗ đạt được mảnh bằng y khoa nào hết.

Dạo ấy hai đứa đều dưới tuổi ba mươi, vì chưa lăn lộn với đời nên vẫn có nét ngây thơ của những người đàn bà trẻ con. Chúng tôi sống bám vào hai mảnh ny lông trên vỉa hè thành phố. Hai người cùng hoàn cảnh nên dễ thân nhau, cả hai đứa cùng có lúm đồng tiền trên má.

 

Chị thật thà bảo tôi:

“Người ta bảo những ai có lúm đồng tiền thì lúc nào cũng dư dả, sao hai đứa mình đói rách quá.”

Tôi ngắm chị. Một khuôn mặt hơi vuông nhưng rất ưa nhìn. Hai mắt sâu và sáng, vầng trán thông minh, mỗi khi cười hai lúm đồng tiền lõm xuống, trông chị rất có duyên. Ngày còn trẻ, chắc chắn có nhiều anh chết vì nụ cười của chị. Bởi vậy khi gặp chị, anh mau mau đón chị về, rồi không cho đi làm nữa, vì giữa chốn ba quân, chị như một bông hoa đẹp mà ai cũng muốn hái.

Tôi không đẹp như chị, chỉ dễ coi, cũng hai lúm đồng tiền trên má. Hai đứa có những bốn cái đồng tiền mà lúc nào cũng túng bấn, phải chia nhau từng đồng tiền vốn, xẻ cho nhau đồng tiền lời để mua thức ăn cho con. Có sống trong cảnh đời ấy mới thấy được lòng dạ con người tốt xấu ra sao. Hoàn cảnh bên ngoài đổi thay như chong chóng, anh em trong gia đình ai cũng lo thủ phận mình, hai điều ấy đã giúp những con người như tôi với chị xích lại gần nhau hơn. Những lúc hai đứa đi kiếm ăn, dồn cả bốn đứa trẻ lại nhờ mẹ tôi trông giúp. Hai đứa lớn đến trường, hai đứa nhỏ nhờ bà cụ già chăm bẵm, mỗi chiều về ngoài quà cho con, chị vẫn không quên mua mớ trầu, mấy quả cau tươi cho mẹ tôi. Có khi cả hai gia đình cùng ăn chung bữa cơm tối, những lúc ấy cả hai đứa cùng cảm thấy sự chia xẻ cái khổ, cái nghèo cho nhau thật là đáng quý. Dưới ngọn đèn điện đỏ quạch, chỉ có đàn bà và trẻ con, không ai nói ra nhưng tôi vẫn nhận thấy nỗi cô đơn và băn khoăn của những cuộc đời không lối thoát.

Không còn gì để bấu víu và tin tưởng, khi tương lai là một chuỗi mịt mù, tăm tối. Đêm nào mẹ con tôi cũng cầu nguyện, ngọn đèn dầu leo lét trên bàn thờ, đêm đêm chúng tôi chờ phép lạ, như chờ đợi từ ngày mùng một Tết dài mãi cho đến chiều ba mươi cuối năm, vẫn không có gì hơn. Chị đi chùa, hôm nào có tiền mang theo bó nhang, nải chuối. Không chỉ có Phật mà hễ nơi nào có thánh thần là chị đến, với một niềm hy vọng là anh ấy được mau trở về với chị. Dưới ngọn nến sáng bập bùng dưới chân Đức Mẹ, tôi nhìn nét mặt nghiêng của chị, mờ ảo và đẹp lạ lùng. Chị như một thánh nữ, đôi mắt ứa ra hai giọt lệ long lanh. Chân thành lắm, chỉ là những lời van xin, khấn khứa cầu sự an bình cho kẻ chân mây. Tuy vậy, có những khi thất vọng quá, hai đứa vẫn rủ nhau đi coi bói, bỏ mấy đồng bạc để nghe một niềm hy vọng. Thầy bói không thấy ai giàu, giữa ban ngày ngó lên nóc nhà lổ chổ như sao sa, chẳng thầy nào nói được tương lai của chúng tôi hết. Chị chìa bàn tay còn xinh đẹp cho lão thầy bói nắn đi nắn lại, lật tới lật lui, đo đạc dài ngắn rồi nói nhăng nói cuội. Lúc ấy nét mặt chị thật thành khẩn, để rồi trên đường về chị buồn bã bảo tôi:

“Bồ hên quá, có quý nhân phù trợ, ông ấy lại có đường về, còn mình sao mờ mịt quá.”

Tôi bật cười bảo chị:

“Chuyện, hơi sức đâu mà tin, cứ đợi đến con trăng này xem đương sự có về không đã, biết thế nào là hên với xui.”

 

Có đến chục con trăng qua đi mà bóng người vẫn biền biệt bóng chim tăm cá. Mỗi lần nói chuyện coi bói hai đứa lại cười, nhớ lại lúc còn đi học, mới biết yêu, vẫn nhờ người ta đoán hộ tình duyên, gia đạo. Lũ nhỏ lớn dần lên, đời chị và tôi vẫn chỉ là những con bài bích, những người chồng thời buổi đó vẫn chưa nhận được con cơ báo hiệu ngày trở lại.

Một hôm, chị nhận được thư anh, chiếc phong bì được xếp bằng giấy học trò như đồ chơi thủ công lại viết bằng mực tím, bút lá tre. Chị mừng mừng tủi tủi nhìn con dấu nhà bưu điện, lá thư vượt đèo, vượt suối đi cả hai tháng trời mới đến tay vợ, và chỉ là những con số không thấy nói nơi người gửi. Đọc thư anh, tả chút thay đổi thời tiết, chị biết anh ở xa lắm. Quê chị miền Tây Nam Phần, ven bờ Cửu Long, từ nhỏ đến lớn chị chỉ đi tới Sài Gòn là hết đất. Thư anh viết có một khuôn mẫu sẵn, không thấy nói gì đến nhớ thương, chị đọc thư khóc mùi mẫn, trách anh vô tình. Ngây thơ như một đứa trẻ, chị bảo tôi:

“Anh dặn mình mạnh dạn đưa các con đi xây dựng vùng kinh tế mới, chỉ có con đường ấy mới mở ngỏ cho anh có cơ hội làm lại cuộc đời. Hãy tin những gì anh nói, ngày về không còn xa”.

Tôi gạt đi, vì trước mắt tôi nhan nhản những gia đình sống lang thang trên hè phố, hoặc trở về làm một cái chái che nắng mưa trên chính nền đất của mình ngày xưa. Tôi khuyên chị:

“Đàn bà chân yếu tay mềm, trường học điện nước lại không có, ai bảo đảm an ninh cho mình giữa nơi đồng không mông quạnh. Họ nói thì mặc họ, tin làm sao được.”

 

Chị ngây thơ không hiểu những gì anh viết, giá chị hiểu ngược lại thì đâu có chuyện quyết định mẹ con dẫn nhau đi vùng kinh tế mới. Mẹ tôi ái ngại cho chị, có khuyên bảo nhưng chị quả quyết là sẽ tìm thấy tương lai. Tôi phục chị can đảm, vì tôi vẫn ở lại thành phố, bám trụ tấm ny lông trên vỉa hè. Tôi không quen nhìn những con đỉa no máu bám vào chân mình, và cũng không biết làm ruộng. Chị đi rồi, chỉ còn mình tôi lại nhập vào giòng người xoay quanh cái bẫy chuột lớn, lẩn thật nhanh vào những con ngõ thông thương khu chợ mỗi khi bị rượt đuổi. Chúng tôi không phải tội phạm mà lúc nào cũng mang mặc cảm của kẻ bị săn đuổi, không sống bám ai mà vẫn bị liệt vào thành phần cặn bã.

Có những lần tôi lan man nhớ đến người bạn hiền của mình, hình dung ra căn nhà trống trải của mẹ con chị giữa đồng không mông quạnh, đôi tay học trò ấy làm sao vật lộn nổi với những thửa ruộng đầy cỏ lác và đỉa vắt. Sức chịu đựng của chị có ngày cũng hết, tôi nghe tin chị tự tử và được cứu thoát. Ít lâu sau, chị về lại thành phố với nét mặt xanh xao, tiều tụy, đầu cạo trọc như một ni sư. Nguyên nhân làm chị tự tử cũng chỉ vì không chịu nổi cảnh sống quá cùng cực và cô đơn, và cũng vì những lời tán tỉnh lẫn hăm dọa của bọn địa phương. Ra đi thì dễ, nhưng về lại không đơn giản. Không nhà, không hộ khẩu, anh em nhìn chị hờ hững, vì không ai muốn đa mang vào mình những gánh nặng. Hai đứa tôi trở lại khu chợ nhỏ, trở lại với tấm ny lông trên vỉa hè, mỗi lần hàng phượng vĩ ven sông rưng rưng những cánh hoa màu đỏ rực rỡ, tôi thấy chị buồn buồn. Cả hai đứa có một lúc nào đó trong đời, vẫn bâng khuâng nhớ lại mình ngày xưa, tà áo trắng, mái tóc dài xõa trên lưng, nụ cười má lúm đồng tiền dễ thương làm say lòng người bạn trai cùng lớp.

Một thời gian sau, chị lại đưa con về quê chồng, vì người anh chồng đi tập kết về chia điền sản của cha mẹ để lại. Chồng chị được một phần, dĩ nhiên không nhiều lắm nhưng có còn hơn không. Căn nhà của ông bà nội lũ nhỏ dành cho ông anh cả, chị cất tạm một cái chái bên cạnh ngôi nhà từ đường của cha mẹ chồng để lại. Những ngày đầu ở quê chồng, gần gũi với gia đình ông “anh chồng cách mạng”, chị phục lăn ông về những bài học và cách sống của một xã hội tốt đẹp mai sau, khi con người không bóc lột người, mọi sự trên đời sẽ là của chung. Nhưng sau chị mới thấy triết thuyết đi một đàng lòng người lại đi một nẻo. Lúc ngỏ lời nhờ ông anh cứu giúp thằng em trong tù, ông cho chị nhiều bài học mà chính chị không ngờ chồng chị lại nhiều tội đến thế. Chị thấy mình luẩn quẩn, cứ đi từ bế tắc này sang bế tắc khác, chẳng cái nào dễ chịu hơn cái nào. Cuối cùng, chị gom hết vốn liếng, mua một cái ghe nhỏ có mái che, mẹ con dẫn nhau đi buôn bán dọc theo các làng xóm xa xôi, đổi chác sống qua ngày.

Từ một người phụ nữ trí thức thành phố, chị mau chóng trở thành một người phụ nữ miền quê đen đủi, đảm đang. Chân đi đất, đầu quấn khăn rằn, biết chèo xuồng và sống như một người nhà quê thứ thiệt. Trên chiếc ghe chật chội ấy thay cho mái nhà tranh, mẹ con chèo chống, trôi nổi như giề lục bình trôi theo giòng nước. Có chỗ để ngủ, có chỗ nấu ăn, có khạp nước uống, chiếc ghe như một cái nhà lưu động rày đây mai đó, thỉnh thoảng chị mới chèo ghe về chợ Quận, mua hàng hóa và thuốc men để trao đổi với người dân sống ven hai bờ kinh rạch. Lúc ấy, con chị mới được ăn tô hủ tíu, được nhìn ánh đèn điện sáng như trăng ở phố chợ, đôi mắt háo hức nhìn những đứa trẻ cùng cỡ tuổi đến trường.

Theo như chị kể lại, người nông dân quê mình là những người sản xuất ra lúa gạo, lại là những người chịu cảnh bữa đói, bữa no. Gặp lúc được mùa, có chút lúa bán xong phải mua phân, mua giống để dành, sửa cái nhà, cái ghe, sắm bộ quần áo chờ mùa tới. Chẳng may thất mùa lúa đóng thuế không đủ, trong nhà vét không ra hột gạo để ăn. Lại đi vay, nợ mẹ đẻ nợ con, lắm nhà chỉ có cơm ăn với muối xả ớt. Tuy vậy họ vẫn cần nhiều thứ cho sinh hoạt hằng ngày. Cuộn chỉ, cây kim, chai dầu gió, viên thuốc cảm, lúc ốm đau làm gì có bác sĩ, y tá nào mạo hiểm đến đó cứu nhân độ thế, hay để thực thi câu “lương y như từ mẫu” cho họ. Chính lúc ấy, chị trở thành thầy thuốc bất đắc dĩ của đám dân nghèo, bằng chút kinh nghiệm của sự học hành năm xưa, qua mấy cuốn y học thường thức chị được đọc, dẫu không có bằng cấp chuyên môn, chị vẫn là tia sáng trong cảnh tối tăm của đám người nghèo khổ. Người ta đón chiếc ghe của chị để mua viên thuốc cảm, thuốc ho, nhờ chị chữa giùm những chứng bệnh thông thường, vô tình chị trở thành cô bác sĩ của những người dân quê tội nghiệp.

Cuộc sống cứ thế trôi đi, chồng chị vẫn chưa về dù chị đã hai lần đi xây dựng quê hương mới. Hai đứa con không được đi học, nhưng những buổi tối neo thuyền trên bến sông, dưới ngọn đèn lù mù, chị dạy con học đọc, học viết. Sau này, anh được chuyển dần vào Nam, mỗi lần đi thăm chồng chị gửi ghe cho người bà con, mẹ con dắt nhau đi thăm nuôi. Chị dấu biệt anh về cảnh sống hiện tại, con không được đi học, mỗi lần về anh gửi thêm lá thư cho ông anh Cách Mạng nhờ giúp đỡ vợ con. Chị im lặng không nói, lúc phà về ngang bến bắc Cần Thơ, chị đọc thư rồi xé nhỏ từng mảnh thả trôi theo dòng nước. Bây giờ chị đã trưởng thành, sáu năm trời lận đận chị không còn ngây thơ như dạo trước. Lần chị về thành phố thăm tôi, dẫn theo hai đứa con nay khá lớn, chị hầu như lột xác để trở thành một người phụ nữ thôn quê biết an phận, đen đủi hơn và nét mặt đăm chiêu hơn. Tôi hiểu chị đã trưởng thành, từ những kinh nghiệm suốt sáu năm qua chị gặp phải.

 

Vẫn mái tóc được bới gọn đằng sau gáy, chiếc áo bà ba đen, nụ cười buồn vẫn còn hũm xuống lúm đồng tiền, có lẽ đấy là nét duyên dáng cuối cùng còn sót lại nơi chị. Hai đứa con chị thật tội nghiệp, chân mốc cời, mặt ngơ ngáo khi gặp lại những đứa bạn ngày thơ ấu, nay đã quá xa lạ. Ở chơi với tôi vài ngày, chúng tôi nhắc lại chuyện cũ. Chuyện nhà ông thầy bói giữa ban ngày mái lá sáng như sao sa, chuyện hai đứa giữa buổi chợ túm bốn góc ny lông chạy như vịt, chuyện về những người đàn ông vắng mặt trong nhà không biết đến mấy mươi trăng mới trở lại.

oOo

Mãi bảy năm sau chiến tranh anh mới được trở về xum họp với vợ con, đúng vào đợt cuối năm, kịp về ăn Tết với gia đình. Lúc thay bộ quần áo cũ ngày xưa, anh ngượng nghịu như người quen đi chân đất lần đầu tiên được mang giày, anh thấy mình trở thành con người khác. Hành trang anh chẳng có gì, cái gì còn xài được anh cho lại bạn bè, hai chữ Tự Do khiến anh hồ hởi, ước thành chim để bay ngay về với vợ con.

Hôm ấy là những ngày cận Tết, trên chuyến phà buổi chiều sang sông, anh nhìn thiên hạ chen chúc nhau, tay xách nách mang, người ta về quê ăn tết, trông ai cũng háo hức lạ. Còn một ít tiền vợ đưa hôm trước, anh mua cho con chục ổi, mấy xấp bánh phồng khoai, bao nhiêu năm tù tội anh chẳng còn gì, chỉ còn tấm thân tàn và túi hành trang rỗng tuyếch. Anh dựa vào lan can chiếc phà đang lướt sóng trên giòng sông Cửu Long, mặt sông như một miếng bông cỏ khổng lồ trải rộng ra từ bờ bên này tới bờ bên kia. Anh hít thở nhiều lần không khí trong lành của dòng sông quê mẹ, mắt nhìn theo giề lục bình lênh đênh trên dòng nước, không biết nó trôi về đâu, với những bến bờ xa lạ.

Cuối cùng anh cũng về tới quê nhà, nơi mà ngày xưa lúc còn chiến tranh, anh ít khi dám trở lại. Con đường cũ vẫn gập ghềnh như ngày nào, ngày xưa đã không ít những chuyến xe bị lật nhào sau tiếng nổ long trời của mìn bẫy, đã không ít những người vô tội chết thảm thiết trên nẻo đường yêu dấu của quê hương.

Bây giờ thì cảnh ấy không còn, nhưng đường xá vẫn lồi lõm còn hằn sâu dấu tàn phá của chiến tranh. Cảnh nào với anh cũng vậy. Miền Bắc heo hút những rừng, những suối, đường xe chạy những cây giang, cây nứa quẹt vào thành xe cào xước. Miền Nam sông rạch chằng chịt, nhà cửa xiêu vẹo vẫn y chang ngày trước. Cha mẹ anh qua đời từ lâu, vợ con anh đã thay anh về quê chồng lập nghiệp, anh thấy lòng mình vẫn ấm áp với hai chữ trở về thật thiết tha.

Khi anh tìm về căn nhà, làng xóm cũ năm xưa, người đầu tiên anh gặp lại là ông anh lớn, người đã theo tiếng gọi núi sông ra Bắc tập kết, nay trở về miền Nam sống trong căn nhà hương hỏa của gia đình. Dạo ông ra Bắc, anh còn nhỏ xíu đang đi học tiểu học, nay gặp lại hai người đã đứng vào hai phía khác nhau. Ông anh là hình ảnh của cha anh hồi trước, cũng chút hom hem khi đôi má hõm xuống bởi thiếu những chiếc răng. Sau vài lời hỏi thăm, anh được thêm những lời khuyên nhủ, y như những bài anh học được trong tù.

Lúc hỏi thăm đến vợ con, anh được biết “thím ấy và các cháu” đang sống trên chiếc ghe nhỏ, cuộc sống bập bềnh như cọng lục bình thả theo nước lớn, nước ròng. Tự nhiên anh muốn khóc, người anh cả lúc đưa anh ra mé sông tìm vợ con, đã hạ giọng nói với anh mà nghe rõ lắm mới thấy có gì rất ngậm ngùi:

“Thôi lỡ rồi, anh cũng không làm lại được mà chú cũng không làm lại được. Nói vợ em thu xếp cho các cháu lên bờ, dầu gì chúng cũng là cháu của anh.”

Ôi tình nghĩa anh em, dẫu có thế nào đi nữa cũng phải có phút giây sống thật với tình máu mủ. Không ai căm thù ai, vì ai cũng chỉ là nạn nhân của lũ kên kên thèm ăn thịt người, xô đẩy nhau chết chất chồng để làm vật tế thần cho chiến tranh.

May là anh về đúng dịp cuối năm, chị neo ghe vào bờ cho con ăn Tết. Dưới hàng dừa lả ngọn trên sông chiều, một làn khói trắng bốc lên trên mặt sông, lòng anh man mác buồn, rồi khi bước qua mấy bậc đá rêu trơn trợt để xuống ghe, tự nhiên anh bật khóc. Chưa bao giờ anh khóc ngon lành như thế, vì không phải lúc nào anh cũng có tự do để khóc, hơn nữa, nỗi đau khổ đã làm mắt anh ráo hoảnh, khô khốc không còn giọt lệ. Anh biết đời anh mất tất cả, chỉ còn chút này thôi. Nhìn vợ trong chiếc áo bà ba đen, hai bờ vai thon mảnh năm xưa nay u lên vì chèo chống nhiều quá, lòng anh như bị sát muối. Hai đứa con lơ láo nhìn cha, chân cẳng chúng nó mốc cời, anh ôm con vào lòng mà không làm sao ngăn được những giọt nước mắt, cứ thế lả chả rơi xuống mái tóc khét nắng của con.

Mùa Xuân ấy vợ chồng con cái anh đón ông bà trên chiếc ghe neo dưới mé sông, vì họ là những người không đất đứng, không có nhà, không có nơi chốn để về khi mùa Xuân tới. Anh còn sống nhiều năm, nhiều tháng chèo chống với vợ trên chiếc ghe thương hồ ấy, chấp nhận hoàn cảnh một cách bình thản vì không còn một chọn lựa nào khác. Hai đứa con được cho lên bờ đi học, tá túc với người bác trong căn nhà của ông bà nội. Dù sao con anh vẫn phải đi học, học gì không biết, nhưng từ trước đến nay, trường học vẫn là cái nôi êm ái nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Vợ anh vẫn là cô bác sĩ bất đắc dĩ của những người dân quê nơi vùng sâu, nhưng từ ngày có anh, chị đỡ vất vả hơn, nét mặt có tươi tắn và nụ cười vẫn còn dấu vết hai lúm đồng tiền in trên má.

 

Sống trên sông đã quen, người anh cứ bập bềnh, lúc được lên bờ là những ngày ít ỏi của anh trên quê hương. Mỗi lần bước đi anh cứ lảo đảo như người say sóng, chút xíu anh ngã vì lòng cứ mênh mông nghĩ đến một chân trời xa lạ. Anh để lại chiếc ghe cho đứa cháu họ, về ngôi nhà hương hỏa với người anh một thời gian trước lúc đi xa, có dịp sống lại với nhau một thời gian, nhờ vậy họ đã hiểu nhau thêm một chút. Khi chỉ còn hai anh em, không còn lằn ranh nào giữa tình huyết nhục, ông anh của anh đã khóc và mới có dịp nói hết những ray rứt mà ông dấu kín bao nhiêu năm, kể từ năm 54, ông bỏ nhà ra Bắc.

ĐOẠN KẾT
Đó là những gì tôi biết về anh chị, những người bạn cùng hoàn cảnh với tôi, đã không có đất đứng ngay chính trên quê hương của mình. Giờ này anh chị đã có một cuộc sống khá ổn định trên nước Mỹ, tôi không dám bảo nơi đây là đất thiên đường, nhưng nó cũng không phải là hỏa ngục.

Anh chị lập nghiệp trên miền Bắc, mùa Đông có tuyết phủ và mùa hè, trời vẫn mát mẻ với những ngọn thông xanh. Họ gửi cho tôi mấy tấm ảnh, anh tóc đã muối tiêu, chị đã tròn trịa hơn trước, riêng hai đứa nhỏ nay đã lớn, nhận không ra, đứa con gái thật xinh, nụ cười giống hệt mẹ thời còn trẻ. Nghe nói ông anh Cách Mạng của anh đã chết, những năm về sau anh vẫn gửi tiền, gửi quà và thuốc men về cho ông, ít ra nhờ vậy ông cũng được hưởng chút nào của thằng em trong những ngày cuối đời. Những người ở thế hệ anh năm xưa mất đi cũng nhiều, càng về già thì nỗi nhớ quê càng chập chùng, anh vẫn không quên được dòng sông miền quê cũ. Trong tấm hình mới nhất anh chị tặng tôi, chị nép vào vai anh mỉm cười, già rồi mà hai lúm đồng tiền vẫn còn mờ trên má. Chóng thật, mới ngày nào mà đầu đã hai thứ tóc.
                                                                                               Nguyên Nhung
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Apr/2019 lúc 11:01am

Lá rụng không về cội

Image%20result%20for%20anh%20dong%20la%20roi

Thứ bảy tuần rồi, ông Trương nhận được hai món quà, do ông bà sui vừa về thăm quê bên Việt Nam mang sang tặng. Hai món quà thực ra không đáng bao nhiêu tiền, nhiều lắm cũng chỉ bằng giá một tô phở bán ở Little Saigon, nhưng với ông nó lại là vô giá, đã làm ông xúc động, nghẹn ngào đến nỗi không thốt lên được hai tiếng cám ơn. Cả tuần nay, nhiều đêm ông trằn trọc mất ngủ, ban ngày ngồi thẫn thờ, hoặc chắp tay sau lưng lẩn thẩn một mình trong khuôn vườn nhỏ sau nhà, suy nghĩ mông lung.

Năm vừa rồi, con cháu đã tổ chức mừng Lễ Thượng Thọ cho ông, mặc dù ông thường cản ngăn điều ấy. Nhưng con cháu làm vậy là phải, vì gia đình ông trải qua bao đời sống trong gia phong lễ giáo, hơn nữa suốt một đời vào sinh ra tử mà ông sống được tới hôm nay cũng là lạ lắm. Con cháu không chỉ mừng ông mà còn phải cảm tạ Đất Trời.

Sinh ra ở vùng quê, một cái huyện nghèo, mà thơ mộng. Biển xanh nằm sát bên dãy trường sơn hùng vĩ, cực bắc tỉnh Khánh Hòa. Cuộc đời ông có nhiều may mắn bất ngờ. Vì sinh kế, cha mẹ ông phải vào Nam lập nghiệp. Ông được một người trí thức có lòng nhận làm dưỡng tử. Người này gốc Quảng Bình, tốt nghiệp kỹ sư công chánh từ École Centrale bên Pháp, vừa mới hồi hương và đang làm cho hãng thầu Descours &Cabaud đặc trách hai công trường xây cầu  NeakLuong và Norodom, cách thủ đô Nam Vang 6 – 10 cây số. Là “dưỡng tử” nhưng ông thường được xưng hô là “thầy trò”. Ông kỹ sư chưa lập gia đình. Để thuận tiện công việc làm, ông thuê một ngôi nhà đơn lập, nằm cạnh nhà của người bạn là một nhà giáo, và gởi gấm cậu dưỡng tử theo học. Thời đó Nam Vang không có một trường nào dành cho văn hóa Việt Nam, mà chỉ có trường Pháp và Miên. Ông kỹ sư sống ở Pháp hơn bốn mươi năm, thấm nhuần văn hóa Pháp, vì vậy “cậu bé” Trương tất nhiên chịu ảnh hưởng của người dưỡng phụ, nên học hành rất nhanh và sớm thi đỗ Diplôme.

Ngày 8 tháng 3 năm 1945, quân Nhật lật đổ chính quyền bảo hộ Pháp ở Đông Dương. Ông kỹ sư dưỡng phụ bị quân Nhật bắt đem đi mất tích. Không còn nơi nương náu, ông Trương chỉ còn con đường duy nhất là về lại quê xưa. Bảy tháng sau, quân Pháp từ Ban Mê Thuột đổ xuống đồng bằng như thế chẻ tre. Ông Trương, lúc này đã là một thanh niên, bị bắt. Khi Phòng Nhì Pháp thẩm vấn, ông đội (Phinh) thông ngôn dịch sai câu trả lời của ông Trương, làm cho viên sĩ quan Pháp hiểu lầm tức giận, đứng lên định tát vào mặt ông Trương. Nhờ lanh trí và với căn bản Pháp văn vững chãi, ông Trương trình bày tận tường sự việc,  làm cho vị sĩ quan Pháp ngạc nhiên, thán phục. Thay vì làm tù binh, ông Trương được đưa vào Nha Trang để làm thủ tục đồng hóa vào quân đội Pháp. Sau đó ông được sự giúp đỡ của một số Sĩ quan Pháp tốt nghiệp trường Võ Bị Saint Cyr, thi đỗ vào École Militaire InterArmes de Dalat (EMIAD) ( trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt). Tốt nghiệp với thứ hạng cao, ông được chọn làm huấn luyện viên cho các khóa Sinh Viên Sĩ Quan Hiện Dịch

Rồi từ ngày ấy ông biền biệt xa quê, nơi chôn nhau cắt rốn, cho tới hôm nay. Đúng ra, trong thời gian hơn sáu mươi năm ấy, ông chỉ sống ở quê mình vỏn vẹn có ba năm, khi ông bất ngờ được chọn về đây làm quận trưởng. Nhiều người cho đây là một điều may mắn. Hơn nữa lúc này là thời Đệ Nhất Công Hòa, tiêu chuẫn để chọn một quận trưởng rất khó khăn.Vậy mà khi nhận được Lệnh Bổ Nhiệm, ông đã xin từ chối. Ông biết làm việc ngay ở quê mình là một điều không dễ, bởi còn có nhiều người thân, em út trong nhà , bà con chú bác. Dù tình lý có phân minh, cũng khó tránh được đôi lời dị nghị.

Nhưng cuối cùng ông cũng phải mang balô, từ giã một tiểu đoàn thiện chiến, do chính ông dày công tổ chức và rèn luyện, về chính quê mình nhận trách nhiệm mới, nặng nề phức tạp. Lời khẩn cầu từ chối của ông không được chấp thuận. Lý do được Bộ Nội Vụ đưa ra: Ông (cố vấn) Ngô  Đình Nhu đang là dân biểu Quốc Hội (đảm trách hai quận thuộc tỉnh Khánh Hòa, trong đó có quận của ông), đề nghị Trung Ương bổ nhiệm một vị quận trưởng phải có đạo đức, lập trường kiên quyết chống Cộng, vừa có kinh nghiệm tổ chức chiến đấu vừa am tường địa hình và dân chúng trong quận. Trong danh sách những người được đề nghị, ông Trương là đối tượng duy nhất đáp ứng các tiêu chuẩn trên.

Ba năm, sau khi đã ổn định tình hình và tổ chức được một hệ thống chính quyền xã ấp cùng một lực lượng an ninh vững mạnh, xây xong một con đập lớn (Bình Trung) và ngôi trường trung học công lập đầu tiên cho quận, ông làm đơn xin được trở lại đơn vị cũ. Là một sĩ quan chiến đấu, ông không hứng thú với những thủ đoạn ở chính trường. Đơn chưa được xét, thì xảy ra cuộc đảo chính ngày 1.11.63. xóa bỏ nền Đệ Nhất Cộng Hòa một thời thịnh trị. Ông bị đám tướng tá “cách mạng” chụp cho chiếc nón Cần Lao, mặc dù ông là một phật tử ngoan đạo, thuần thành. Cuối cùng không tìm ra tội, họ phải chấp nhận đề nghị của ông: trả ông về quân đội. Ông được bỗ nhậm về Trung Đoàn 48BB biệt lập, đang quần thảo với địch quân trong Chiến khu D. Bàn giao công việc cho người kế nhiệm.Thêm một lần nữa ông phải ra đi trong thương tiếc của mọi người. Và ông cũng không ngờ, lần ra đi này cũng là lần vĩnh viễn xa quê.

Bao nhiêu năm lăn lộn ở các chiến trường, biết bao lần vào sinh ra tử, đơn vị ông đã tạo nhiều chiến thắng lẫy lừng. Bảo Quốc Huân Chương Đệ Ngũ rồi Đệ Tứ Đẳng ông được tưởng thưởng từ khi còn khá trẻ, được chính các vị nguyên thủ quốc gia trao gắn. Cũng có một thời ông được chọn về làm huấn luyện viên cho các quân trường lớn : Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, Võ Khoa Thủ Đức, Chỉ Huy Tham Mưu Đà Lạt. Ông cũng là đồng soạn giả của một số Binh Thư dành cho các cấp chỉ huy từ cấp đại đội, tiểu đoàn đến trung đoàn bộ binh.

Tình hình Vùng 1 Chiến Thuật ngày càng nặng nề, từ ngày đường mòn ************ với những ống dẫn dầu từ Bắc vào Nam – không hiểu vì sao – gần như bỏ ngõ (?), để từng đoàn xe pháo Bắc quân xâm nhập. Từ những chiến trường khu D, Bình Long,  ông được điều ra tận vùng địa đầu hỏa tuyến, tái tổ chức một trung đoàn biệt lâp, với trang bị và nhiệm vụ phù hợp với một sách lược do chính cá nhân ông biên soạn lúc còn phục vụ tại Trường Chỉ Huy Tham Mưu Đà Lạt.  Đó là kế hoạch“Chữ Tâm Trong Lũy Tre Xanh” (The Hearth Within The Green Bamboo Rampart), có nghĩa là phía quốc gia phải chinh phục được niềm tin của dân làng trước (và trong) kế Hoạch Bình Định & Xây Dựng Nông Thôn. Và cũng vì chính sách lược ấy, ông được thuyên chuyển đến vùng lãnh thổ này: Hai quận Hòa Vang và Điện Bàn thuôc tỉnh Quảng Nam được cơ quan MACV đề nghị làm thí điểm cho việc thực thi kế hoạch.

Chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã tái tổ chức xong trung đoàn, lấy Tâm Lý Chiến làm hành trang cho binh sĩ mang vào vùng trách nhiệm, đến tận những nơi thâm sơn để theo dõi, bám sát và tiêu diệt các đại đơn vị Bắc quân xâm nhập. Mặc dù luôn bóp méo, viết sai sự thực, nhưng trong quân sử của đối phương không hề dám viết một dòng nào về hai Sư đoàn 304 và 324B của chúng đã đụng độ với lực lượng Hưng Quảng I của ta tại Quảng Nam. Bởi theo yêu cầu và chỉ điểm của đơn vị ông, một ngày, bốn phi vụ B52 trải thảm tại một khu vực nhỏ hẹp ở Gò Nổi (Phù Kỳ, huyện Điện Bàn) mà sau đó, các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã phải dùng Rome Plough của Sea Bee để vào chôn xác quân thù. Đủ biết số tử vong của địch cao biết chừng nào.

Trong hồi ký, Y sĩ Thiếu Tá Nguyễn Gia Thọ, nguyên là bác sĩ quân y của Trung Đoàn, đã viết về ông khi vị bác sĩ này mới về trình diện:

….Tôi có cảm tình ngay với vị chỉ huy mới, vừa lịch sự vừa dứt khoát, lệnh lạc rõ ràng, và coi quân y quan trọng cho đơn vị. Tôi hình dung lại dáng người của ông, cao gầy, mặt xương. Sau tôi biết ông là người có tú tài Pháp, sùng đạo Phật, đêm nào cũng thắp nhang khấn ngoài trời, và trong ngôn ngữ truyền tin, ông là Phượng Hoàng…..

và về chiến tích đầu tiên mà vị bác sĩ này được vinh dự góp phần, một ngày không xa sau đó:

….Kết quả cuộc tấn công của Việt Cộng: ta gần như vô sự, chỉ có Canh, xạ thủ đại liên, rớt từ chòi cao xuống, xương sống gãy một đốt đi lom khom và tôi, bị miểng đạn vạt mất mông bên trái, không ăn thua gì. Còn địch thì để lại trên một trăm xác chết ngoài hàng rào.

Sau trận đó, tôi được thưởng anh dũng bội tinh với ngôi sao bạc, và chiến thương bội tinh.

Đại Tướng Hoa Kỳ Louis C. Wagner, từng là cố vấn trưởng trung đoàn, được ông Trương đề nghị ân thưởng Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, trong tập bút ký nổi tiếng Steel and Blood, đã hết lời ca ngợi trung đoàn dưới sự chỉ huy của ông.

Nhưng với ông, người Mỹ đã làm cho ông thất vọng. Từ sự trở mặt của một đồng minh cho đến cả cái tình một thời chiến hữu.

Ngoài trách nhiệm nặng nề của người anh cả một đại đơn vị, ông còn trách nhiệm của người anh cả đối với những đứa em trai không cha, mẹ già, chu cấp lo lắng cho các em học hành. Ông cũng không thể dắt díu hết bầu đoàn thê tử theo ông ra vùng lửa đạn, nên phải gởi cậu trai lớn về quê ngoại Ninh Hòa và hai cậu con trai nhỏ cho hai người em trọ học ở Nha Trang. Sau này, tất cả các em và con trai đều theo bước chân ông vào quân ngũ. Có người là sĩ quan biệt động quân, người ở hải quân, không quân.

Trung Đoàn Biệt Lập của ông trở thành một đơn vị hàng đầu thiện chiến, luôn ở tuyến đầu lửa đạn. Cuộc đời ông lại gắn chặt dưới những giao thông hào, trong những lô cốt làm bằng những bao cát (được gọi là trung tâm hành quân) và đại gia đình ông bây giờ chính là những người lính chiến dưới quyền, cùng ông sống chết, nhục vinh.

Với khả năng lãnh đạo chỉ huy, đức tính cương trực liêm khiết, cùng bao nhiêu kinh nghiệm chiến trường, ông được tướng Ngô Quang Trưởng, điều về làm Tư Lệnh Phó cho một Sư Đoàn thiện chiến vào bậc nhất miền Nam. Một Sư Đoàn đã tạo nên bao chiến tích lẫy lừng cùng những vị Tư Lệnh và nhiều cấp chỉ huy nổi danh một thời của Quân Lực: Ngô Quang Trưởng, Phạm văn Phú,   …,  Lê Huấn, Võ Toàn, …

Đầu tháng 3/75, sau khi  Ban Mê Thuột thất thủ, Quân Đoàn II có lệnh triệt thoái khỏi Cao Nguyên theo Tỉnh Lộ 7. Một cuộc lui binh tồi tệ nhất trong lịch sử chiến tranh. Tướng Ngô Quang Trưởng đau đớn nhận lệnh bỏ Quân Đoàn I,  trong khi người bạn đồng minh phủi tay và  chính quyền trung ương cùng cả một hậu phương rối ren, hổn loạn. Sư Đoàn của ông cũng cùng chịu chung số phận. Vị Tư Lệnh cùng vài vị trung đoàn trưởng tử nạn trực thăng, không ai tìm ra tung tích. Ông nhìn cả một đại gia đình tan tác mà trong lòng như có trăm ngàn vết chém. Cuối cùng ông cũng phải rời khỏi vùng đất địa đầu miền Nam, nơi có những người lính anh hùng,giẫm lên xác thù, cấm cờ trên Cổ thành Quảng Trị, có cố đô của một triều đại cũng từng một thời dẹp Bắc bình Nam, mở rộng cả một vùng giang sơn bờ cõi, nơi đã hơn 30 năm đứng vững trong bom đạn hung hãn của kẻ thù và những tranh chấp hận thù của những người nhân danh tôn giáo. Ông đã phải cắt ruột mà đi, không những chỉ bỏ lại máu xương, bao nhiêu nấm mồ đồng đội, cùng với những chiến tích vang dội một thời, mà còn cả một đứa con trai, cũng là lính chiến, rút lui theo đoàn quân lên tàu, nhưng chẳng bao giờ tới bến. Người con trai của ông đã nằm lại vĩnh viễn ở một nơi nào đó cùng với đồng đội – những chiến sĩ vô danh .

Như một phép màu, ông Trương đã được bốc đi vào đúng giờ thứ hai mươi lăm của cuộc chiến, khi địch quân cấm lá cờ oan nghiệt nửa đỏ nửa xanh trên nóc ngôi nhà ” Dinh Độc Lập”. Hôm đó người ông đi, mà hồn ông vẫn còn ở  lại trên quê nhà.

Đến Mỹ, ông tìm một nơi tạm cư vắng vẻ, cùng với một gia đình không trọn vẹn, sống âm thầm những tháng ngày còn lại. Ông tìm lãng quên trong sách vở, với những đứa cháu nội ngoại không hề biết quê hương nơi ông sinh ra và cả một đời chiến chinh và nỗi đau cắt ruột. Niềm vui duy nhất của ông bây giờ là tìm lại những đồng đội ngày xưa, nhắc nhớ nhau một thời trận mạc. Nhưng vui đó rồi lại buồn đó, khi bất chợt có ai nhắc lại tên một người đã mất hoặc vẫn còn sống mà khốn khổ lạc loài trên chính mảnh đất quê hương.

Những lúc rảnh rỗi, ông đóng cửa phòng, đọc sách, hồi tưởng lại cả một chuỗi quá khứ của đời mình, nhớ lại từng chi tiết trong các trận đánh, phân tích các điều thành bại rồi viết lại và lưu giữ trong computer. Lâu lâu ông lại mở ra đọc, nghiền ngẫm hằng giờ. Rồi thở dài. Ông tiếc thầm, vì những kinh nghiệm có được từ bao nhiêu máu xương này không còn biết đem truyền lại cho ai.

Nhiều lúc ông da diết nhớ quê, nhớ mồ mả cha mẹ tổ tiên, nhưng ông không bao giờ có ý nghĩ trở về, dù chỉ một lần, và chỉ một đôi ngày ngắn ngủi. Bởi một lý do đơn giản: ông nghĩ nơi ấy không còn là quê hương ông ngày xưa, mà chỉ còn là một vùng đất lạ lẫm, mà mỗi ngày, mỗi một phút, lũ cầm quyền vong bản, hèn mạt, bất tài, đua nhau bán rẻ quê cha đất tổ, cướp đi từng hạt cát của biển, hạt lúa của ruộng đồng, từng cành cây của rừng, từng tảng đá của núi và cả những giọt nước mắt, mồ hôi của những người dân khốn khổ, trong đó có nhiều người bà con của ông đã gần 50 năm chưa hề gặp lại. Ông cũng hổ thẹn, thấy chính mình có lỗi khi để quê nhà lọt vào tay bọn giặc man rợ, bất lương.

* * *

Suốt một tuần nay, buổi sáng nào, sau khi thức dậy, ông cũng rón rén đến bàn thờ, tìm hai món quà mà ông bà sui đã tặng : một chiếc nón lá và một bao nilon chỉ toàn là cát.

Hôm nay, ông ngồi thật lâu, dường như suy nghĩ một điều gì quan trọng lắm. Cuối cùng, ông đi tìm chiếc ghế, đứng lên đóng một cây đinh vào vách phòng khách, nơi mà trước đây ông luôn dặn dò, nhắc nhở vợ con mình không được làm điều ấy. Ông trịnh trong treo chiếc nón lá lên đó. Rồi ông lùi ra nhìn chiếc nón. Bất chợt trong nhạt nhòa nước mắt, ông nhìn thấy bóng dáng mẹ ông, nhớ tới bài văn xuôi rất học trò của ông Thanh Tịnh, mà ông đã bao lần đọc cho đám con cháu nghe đến độ thuộc lòng:

“….Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn  đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã đi lại lắm lần..”.

Ngày đầu tiên mẹ ông nắm tay dắt ông tới ngôi trường làng từ một thời rất xa xưa đó, bà cũng đội một chiếc nón lá .

Nhớ tới bao nilon cát, ông tìm một tấm nhựa mới, đổ hết cát từ trong chiếc bao hai lớp, lên tấm nhựa. Những hạt cát mà ông bà sui của ông đã hốt lên từ bãi biển ở quê ông, nơi mà thời còn nhỏ dại ông thường tụ tập tại đây tắm biển, vui đùa với đám bạn bè con nít, reo hò đón những chiếc ghe đầy cá của những bác ngư ông láng giềng trở về từ biển cả. Ông lấy cái lư hương trên bàn thờ xuống, lau chùi bên trong sạch sẽ, lót lên một tấm vải màu đỏ, rồi trịnh trọng bốc từng bốc cát bỏ vào. Những hạt cát đối với ông bây giờ là những hạt ngọc, trong lóng lánh ông tưởng chừng như bao nhiêu đôi mắt của người thân, của đồng đội, bạn bè, dù còn sống hay đã chết, bây giờ biền biệt ở nơi nào đó, mịt mờ trong cõi hư vô.

Ông chỉ bỏ vào chiếc lư hương một nửa số cát, nửa còn lại ông gói thật kỹ vào tấm vải đỏ, rồi bỏ vào trong một chiếc hôp thiếc, vốn là hộp trà kỷ niệm lễ cưới của thằng con trai út.

Ông dặn lòng, tối nay, ông sẽ thức khuya một đêm nữa, viết tờ di chúc cho vợ và các con. Cả một đời ông đã bỏ lại quê nhà, sang xứ người khi tuổi đã về chiều, ông chỉ còn biết đem hết công sức nuôi nấng, dạy dỗ các con. Trời không phụ lòng ông, tất cả con cái đều đã nên người, hiếu thảo. Mai này, khi nhắm mắt ra đi, ông cũng chẳng còn gì để lại, ngoài cuốn nhật ký ghi lại đời mình. Và bây giờ có thêm chiếc lư đồng, trong đó chỉ có những hạt cát quê hương, mà ông xem như “vật gia bảo” trên bàn thờ tiên tổ. Nửa số cát còn lại, ông cất kỹ dưới đầu giường và xin vợ con ông sẽ rắc trên di thể của ông trước khi đậy nắp quan tài.

Ông hình dung tới những chiếc lá trong cơn bão, tả tơi, tan tác, bị cuốn đi trong trời đất mênh mông, để không bao giờ được rơi về với cội. Lòng thấy xót xa. Bỗng bất chợt, ông nhìn lên bàn thờ, mắt ông sáng lên, rạng rỡ, khi nghĩ rồi đây bên cạnh mình còn có nắm cát của quê hương.

phạm tín an ninh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Apr/2019 lúc 11:40am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Apr/2019 lúc 10:36am

BA MƯƠI NĂM SAU



Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích


Chuông điện thoại reo vang, Hào vội vàng bắt phôn :

- Alô, tôi nghe ?

- Xin cho gặp ông Trần Thái Hào.

- Vâng, tôi là Hào, xin lỗi ai đầu dây ?

- Anh Hào, em đây !

Tiếng người phụ nữ bên kia đầu dây khựng lại, hình như vì xúc động. Một khắc yên lặng, giọng nói run run lại cất lên :

- Anh không nhận ra tiếng em sao, hở Hào ? Mộc Linh đây mà. Em gọi từ Canada.

Hào thật sự sửng sốt trước sự việc xảy ra quá bất ngờ. Chàng mất hẳn tin tức về Mộc Linh đã hai mươi mấy năm rồi. Nàng qua bên ấy bao giờ và đi theo diện gì. Hào vừa hồi họp cũng vừa nôn nóng, vội bảo nàng cho số phôn rồi cúp máy để chàng gọi lại.

- Alô, em nghe.

- Linh khỏe không, qua bên đó hồi nào vậy ?

- Cảm ơn anh, em vẫn mạnh. Em đến đây vừa đúng hai tuần, theo diện hợp đồng giữ trẻ. Hiện giờ em sống với một gia đình người Việt. Họ mướn em chăm sóc hai đứa nhỏ, một lên bốn và đứa kia chưa đầy một tuổi, thời hạn từng năm một.

- Thế chồng và con em ?

- Bọn em đã ly dị mấy năm rồi. Ông ấy càng ngày càng hư đốn, hủ hóa, bỏ bê gia đình. Nền đạo đức học đường mỗi ngày mỗi xuống cấp. Thầy giáo nhậu nhẹt với học sinh, thầy trò say xỉn ôm nhau ngủ dưới gốc cây giữa ban ngày ban mặt. Nhà trường phê bình, kiểm điểm mãi mà vẫn chứng nào tật nấy, cuối cùng ông ấy bị đẩy lên tận miền núi dạy đám học sinh vùng kinh tế mới. Con em, đứa lớn đã đi làm có thể lo cho em nó mới năm đầu đại học. À, còn phần anh thế nào ? Chị và mấy cháu ra sao?

- Các con anh đều lớn cả rồi, đứa út đang học đại học, thằng lớn sắp ra trường. Còn mẹ chúng nó... Hào ngập ngừng chẳng biết nói với Mộc Linh thế nào đây, bởi từ khi đến Mỹ, hai người chỉ gặp nhau trên phôn vài ba bận. Hào đành trả lời qua loa:

- Ừ thì bà ấy vẫn khỏe Linh à..

- Còn phần anh có vất vả lắm không ? Muốn em viết thư cho anh không hả Hào ?

- Cảm ơn em, phần anh thì sáng đi làm, chiều vào lớp học ngồi cho hết ngày, cuộc sống phẳng lặng chai lỳ. Anh có bao giờ chán đọc thư em đâu, cho anh địa chỉ được không ?

- Chưa được anh ạ, lát nữa em hỏi chủ nhà rồi gọi lại anh sau.

- Thôi nhé, đã đến giờ anh phải đi làm. Tạm biệt em . Hẹn gặp sau.

Hào gác phôn, nhanh chân vào phòng tắm làm vệ sinh sơ sài rồi vội vã thay quần áo lái xe đi làm.



Mộc Linh và Thái Hào yêu nhau từ lúc còn trung học. Hai người học cùng trường, nhưng nàng học dưới chàng hai lớp. Ngày Hào thi đậu tú tài toàn phần thì Mộc Linh vừa lên lớp đệ nhị. Chàng nộp đơn thi tuyển vào đại học sư phạm tại Sài Gòn nhưng tranh không nổi với đám thí sinh lớn lên và ăn học ở giữa lòng thủ đô, nơi quy tụ các trường nổi tiếng nhất miền Nam. Phần lớn trong số họ rất giỏi sinh ngữ và toán, còn Hào là dân miền Trung chân ướt chân ráo mà đã vội vàng muốn đi “hia bảy dặm” nên thất bại là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, Hào lại trúng tuyển vào khóa Giáo Học Bổ Túc hai năm của trường Sư phạm Sài Gòn. Mỗi khóa tuyển chừng 400 giáo sinh mà thí sinh nạp đơn vượt lên trên số 7000. Họ tranh nhau không phải muốn trở thành một giáo viên tiểu học mà thực tế trước mắt là khỏi vào quân trường. Với Hào, chàng rất trân trọng nghề dạy học, không phải là hạng người mượn mái trường để che chắn tấm thân. Cùng trong ngành, nhưng các thầy dạy trung học cũng phân biệt triệt để “chiếu trên chiếu dưới”. Vì vậy giáo viên tiểu học luôn bị mặc cảm nằm cấp thấp nhất của ngành giáo dục. Có ai nhận chân được tầm quan trọng của những cô thầy có trách nhiệm khai mở trí tuệ của tuổi măng non. Hình ảnh của các thầy cô giáo tiểu học sẽ khắc sâu trong tâm hồn trong trắng của các em. Vì vậy, mẫu mực của một giáo viên luôn luôn đi đôi với câu châm ngôn “Tiên học lễ hậu học văn”.

Ngày Thái Hào tốt nghiệp ra trường thì Mộc Linh cũng vừa lấy xong bằng tú tài và nàng theo gia đình vào sinh sống luôn ở Sài Gòn vì ba nàng, Giáo sư Dung được bổ nhiệm làm Chánh văn phòng Thứ trưởng bộ Giáo dục. Hào về giữ chức Phụ tá Hiệu trưởng tại một trường tiểu học ngay tỉnh lỵ Gia Ðịnh. Linh theo học một khóa luyện thi đặc biệt để thi vào đại học sư phạm và năm sau nàng trúng tuyển một cách dễ dàng.

Tình yêu của Hào và Linh mỗi ngày mỗi thắm thiết. Họ đã cùng nhau phác họa một mái ấm gia đình sau khi nàng tốt nghiệp. Tuy nhiên, cái viễn tượng tương lai “chiếu trên chiếu dưới” vợ giáo sư, chồng giáo viên nên Hào đã ghi tên vào đại học Văn khoa và quyết tâm lấy cho xong bằng cử nhân văn chương để chuyển lên bậc trung học.. Nhưng trời không chiều lòng kẻ có chí, vừa lấy được hai chứng chỉ thì Hào bị động viên.

Thời gian huấn nhục, Chủ nhật nào Linh cũng vào quân trường thăm Hào. Sau ngày gắn alpha, sinh viên sĩ quan được đi phép cuối tuần nên hai người lại gặp nhau ở Sài Gòn. Lúc dạo sở thú, khi vườn Tao Ðàn rồi dắt nhau vào rạp chiếu bóng hoặc tiệm kem. Những ngày tháng đó tình của hai người thật thơ mộng.

Gặp thời điểm chiến trường Trị Thiên đang sôi động, Bộ Tổng Tham Mưu ưu tiên bổ sung quân số cho Quân đòan I Vùng 1 Chiến thuật, nên Hào cùng với số đông tân sĩ quan vừa mãn khóa được điều động ra tận vùng giới tuyến. Những tháng ngày cách trở, Hào và Linh vẫn gởi thư cho nhau đều đặn. Bất hạnh thay, trận Tết Mậu Thân, Hào bị địch bắt sống và đơn vị báo tin về gia đình chàng mất tích.

Năm 1973, hiệp định Paris bắt đầu có hiệu lực, Hào được trao trả tù binh trở về quân ngũ. Mộc Linh đã lập gia đình. Cam chịu số mệnh, Hào âm thầm ôm nỗi đau của mối tình đầu dang dở. Ðể khỏi buồn lòng cha mẹ, chàng lấy vợ theo mong ước của ông bà muốn có cháu đích tôn nối dõi tông đường...



Có được địa chỉ chính xác, Thái Hào lợi dụng giờ nghỉ ăn trưa ở sở làm, vội vàng viết thư cho Mộc Linh và kèm theo cái séc 300 đô-la để nàng tiêu dùng. Thư đi trên mười ngày, hôm nay Hào mới nhận được thư hồi âm của Mộc Linh gởi đến:



Vancouver , ngày...

Anh yêu thương,

Cảm ơn anh đã gởi thư và tiền cho em. Ðọc thư anh mà nước mắt em chảy ràn rụa làm ướt đẫm cả bức thư. Ký ức gợi nhớ những cánh thư của anh gởi cho em từ chiến trường Trị Thiên năm nào giờ đây như lặp lại trước mắt em. Thuở ấy, cách nay đã gần ba mươi năm mà em thấy gần gũi thân thương quá. Em nuốt từng chữ từng lời cho niềm rung cảm tràn ngập trái tim em. Em yêu anh, yêu biết chừng nào Hào ơi. Lời yêu thương nầy em viết cho anh, nó hoàn toàn không phù hợp với hiện tại bởi anh đã có vợ con kề bên. Nhưng biết làm sao hở Hào, khi mà trái tim em đập rộn ràng như thuở ban đầu hai đứa mình yêu nhau.

Những ngày mất anh, từng đêm trong giấc ngủ em luôn mơ thấy anh. Anh đến với em cũng vòng tay đó, cũng bờ môi ấm nồng của những nụ hôn ngọt ngào đó và bao giờ anh cũng đưa em vào cơn say đắm. Em cảm thấy mình đang sống trong cảnh hạnh phúc êm đềm không phải bên người chồng mà là anh trong giấc mộng ! Ðến khi giật mình thức giấc chợt lòng em thấy trống vắng lạ thường mặc dầu Ð. đang nằm bên em bình yên trong giấc ngủ.

Ngày em nhận được tin anh mất tích, nỗi đau đớn như bóp nát trái tim em. Em đã ngất lịm bao nhiêu lần khiến má cũng phải đau lòng. Người đã phải gượng gạo an ủi con gái mình rằng định mệnh đã an bài. Nhưng định mênh nào lại tàn nhẫn cướp mất của em nguồn sống. Em thẫn thờ như người mất trí. Hình ảnh anh cứ chờn vờn mãi trong tâm trí em. Từ đó, em cứ ngỡ anh đã bỏ em mà đi, miên viễn rời khỏi cuộc đời nầy.

Cách đây hai năm, em tình cờ đọc trong tuyển tập thơ Cụm Hoa Tình Yêu của một người bạn gái mang về từ Canada. Em nhìn thấy tên anh và cả hình anh nữa. Ôi, em có cảm tưởng như mình đang nằm mơ. Em đọc bài thơ anh viết mà nước mắt em rơi lã chã. Bạn em ngạc nhiên hỏi có tâm sự gì thế ? Em bảo : “Tác giả bài thơ nầy có tâm trạng giống mình quá.” Hào ơi, em không ngờ anh vẫn còn ấp ủ hình bóng em và những kỷ niệm mối tình của hai ta. Anh có biết không, ngay trong giờ phút đó, con tim đã bắt đầu thôi thúc em phải tìm mọi cách để gặp anh. Em vẫn biết ý định ấy thật ngông cuồng, nhưng con tim thì có lý lẽ của nó. Và em cũng rất giận anh, tại sao không một lần tìm đến em sau khi sống sót trở về với gia đình. Có thể anh không đủ can đảm nhìn thấy hạnh phúc của em hoặc là anh không chịu đựng nổi cơn đau vò xé khi mất em. Nhưng như thế là nhẫn tâm với em bởi anh cứ để cho nỗi tiếc thương âm ỉ cắn rứt trong lòng em.

Hào ơi, em muốn được một lần gặp anh. Muốn được anh ôm em vào lòng cho em nhớ lại hơi thở nồng nàn của ngày xa xưa ấy. Em đã tìm đến với anh đây rồi nhưng hoàn cảnh của em bây giờ như con tàu mắc cạn... Xin hãy đẩy thuyền em đến dòng sâu may ra vượt qua bên kia tìm được bến bờ hạnh phúc. Thôi nhé, đêm đã quá khuya rồi em tạm ngừng, hẹn anh thư sau.

Hôn anh,

Em, Mộc Linh.



Canada, ngày...

Anh yêu,

Lẽ ra em không nên viết cho anh, tuy nhiên, những điều anh nói qua điện thoại đã làm cho em buồn lắm. Anh bảo sẽ tìm cho em một người đàn ông đã có quốc tịch Hoa Kỳ. Người ấy phải có tấm lòng, có nghĩa khí sẵn sàng bao bọc chở che em suốt quãng đời còn lại. Người ấy sẽ đứng ra làm hôn thú hợp pháp để bảo lãnh em qua sống trên mảnh đất trù phú và đầy cơ hội nầy. Hào ơi, Em vượt trùng dương qua đây, điều cốt yếu là em muốn gặp lại anh, dù chỉ để nhìn anh mà đau. Em không cần một người chồng để yên ấm tấm thân em. Vẫn biết giờ đây anh không còn vòng tay nào nữa dành cho em. Như anh đã từng nói :

“Vòng tay anh bây giờ chật hẹp quá, mong manh quá. Vòng tay anh ngày xưa, thời trai trẻ đầy sinh lực đã dành cho em với bao tháng năm đợi chờ cô đơn khắc khoải. Vòng tay anh bây giờ hụt hẫng cả tình yêu lẫn hôn nhân. Con tim và lý trí ít khi nào hòa thuận. Con tim muốn chiếm giữ tình yêu độc quyền nhưng lý trí lại đòi hỏi thực tế bởi hoàn cảnh anh hiện tại vượt ngoài tầm tay với”. Em thật sự hiểu anh muốn nói gì. Em cảm thông và càng thương anh điều đó. Em đã đi hết nửa cuộc đời đầy đắng cay và bất hạnh, có lẽ em không còn đủ can đảm để bước thêm bước nữa nhưng em sẵn sàng đi bên lề cuộc đời của anh.

Hào ơi, em van anh đừng bao giờ nhắc đến chuyện ấy nữa, bởi em có cảm tưởng rằng anh xem rất nhẹ tình yêu của em dành cho anh. Lòng em xốn xang không chịu được mỗi lần nghĩ đến cái “giải pháp” hoàn toàn nghịch lý với con tim.



Canada, ngày...

Hào yêu dấu,

Em đã nhận được thư anh. Xin cảm ơn những điều anh viết, nhưng xin lỗi anh, em không thể nghe theo lời khuyên của anh được dù anh có trách em là người cố chấp. Và em cũng xin được tỏ bày cùng anh, rằng đời em đã trải qua bao nỗi thăng trầm trái ngang, dù rằng đối với anh, em không có sự lựa chọn nào ngoài nỗi đơn độc thiệt thòi, em vẫn thấy bình yên khi biết rằng tình yêu của anh vẫn còn dành cho em ngọt ngào và sâu đậm. Không một ai có thể thay thế được mối tình đã kết đọng suốt ba mươi năm. Thì anh ơi, tại sao em lại không chọn lấy sự bình an dưới bóng mát tình anh. Em vẫn tự nguyện làm chiếc bóng đi bên anh của phần đời còn lại. Em không thể dối lòng em để sống với một người mà em không hề yêu. Như thế đấy. Những điều quyết liệt em viết từ trái tim em, mong anh hiểu cho.

Em Mộc Linh.



Những bức thư liên tiếp của Linh khiến cho Hào nhiều đêm trăn trở.. Nàng đã dành cho chàng những tình cảm cháy bỏng, đam mê suốt một thời thanh xuân cho đến bây giờ vẫn còn nguyên vẹn tình nồng thắm, thiết tha. Hào không ngờ qua bao nhiêu trái ngang, sóng gió cuộc đời mà tình của nàng vẫn còn bền chặt như xưa.

Những ngày lịch sử đen tối của đất nước hằn sâu trong tâm thức chàng mang những vết sẹo của nỗi đau chung và những mất mát riêng tư. Năm Mậu Thân chiến trường khốc liệt đã đẩy chàng mất Linh. Rồi tháng Tư, tàn cuộc chiến đã đẩy Thụy xa chàng. Giờ đây Thụy, vợ chàng đang sống chung với một người đàn ông tại một thành phố nào đó ngoài tiểu bang California. Hàng tháng về nhà gần gũi với các con vài ngày rồi ra đi.

Ngày chàng đến Mỹ theo diện HO, Thụy và con đến đón tại phi trường. Nàng đi xe riêng còn chàng lên xe cùng với hai đứa con về tại căn chung cư một phòng do Thụy mướn dành riêng cho Hào. Con chàng vẫn thản nhiên trước cảnh người cha bị tách rời khỏi cái tổ ấm mà họ đã tạo dựng từ mười mấy năm nay trên đất Mỹ. Lúc chia tay nàng chỉ nói với chàng một câu vắn tắt : “Hãy cố gắng thích ứng với hoàn cảnh mới, sẽ thảo luận với anh sau”.

Trước ngày miền Trung mất, Hào gởi vợ và hai con vào Sài Gòn rất sớm. Sau đó, nàng đã lên được tàu của hải quân VNCH đến Phi Luật Tân. Hai mươi năm trên xứ người, nàng vừa đi học vừa đi làm nuôi con còn nhỏ dại, giữ tròn bổn phận của một người mẹ là điều cao quý. Hào không có lý do nào để trách cứ nàng. Ngược lại, chàng rất thông cảm với nỗi cô đơn của người đàn bà sống vò võ xa chồng. Thụy có yêu, có lấy một người đàn ông khác cũng là điều tất yếu.

Những ngày đầu mới đến, Hào cảm thấy đôi chút cô đơn và buồn tủi trước thái độ dửng dưng của Thụy đối với chàng. Hào nghĩ : “Cho dù hai mươi năm xa cách nhưng tình nghĩa vợ chồng đã đầu ấp tay gối có với nhau hai mặt con thì làm sao tình cảm đó mau phai đến thế.” Nhưng rồi dần dà công việc cuốn hút, tâm tư phiền muộn của Hào cũng lắng dịu dần. Chàng đã tìm lại sự bình thản khi đối diện với Thụy. Trái tim chàng không còn thấy nhức nhối, xốn xang. Phải chăng, tình vợ chồng đã chuyển đổi qua tình bạn mà chính Hào không để ý. Hình như đó là diễn tiến tất yếu của cuộc hôn nhân không trải qua tình yêu. Cũng có thể là mối tình đầu của chàng và Linh đã làm thương tổn đến tình vợ chồng giữa hai người.

Con chàng, Thái Tú và Thái Bình xa cha từ thuở bé, lớn lên trong tình thương của mẹ và ảnh hưởng nếp sống của nền văn hóa đa chủng.. Vì vậy, tình phụ tử của chúng đối với chàng cũng không lấy gì mặn nồng cho lắm. Mới đầu, mỗi tuần chúng đến thăm cha một lần. Thời gian sau nầy những lần thăm viếng ấy cũng thưa đi. Riêng Hào lại năng lui tới thăm con trong những ngày nghỉ học. Phần Thụy, năm thì mười họa mới gặp chàng trên phôn.



Nhân mùa lễ Chrismas và New Year, Hào lấy một tuần lễ vacation đi Vancouver. Mộc Linh rất muốn qua Mỹ nhưng nhất định từ chối giải pháp kết hôn với người khác. Chuyến đi nầy Hào muốn gặp lại người yêu cũ để cố gắng thuyết phục nàng. Hào thật sự bối rối trước hoàn cảnh nan giải nầy.. Chàng mới định cư ở Hoa Kỳ chưa đủ thời gian thi quốc tịch, vả lại tình trạng hôn nhân giữa chàng và Thụy chẳng biết như thế nào. Ðã hai năm rồi mà nàng không hề đề cập tới.

Hào lấy vé máy bay đi Vancouver vào sáng thứ Bảy, trưa Chúa Nhật tuần sau sẽ về lại California. Còn năm ngày nữa, chờ đặt được phòng của khách sạn gần khu Linh ở, chàng sẽ gọi thông báo cho nàng hay để sắp xếp thời gian hai người có thể gặp nhau.

Như thường lệ, trên đường đi làm về, Hào ghé thăm hộp thư. Hôm nay lại có thư của Mộc Linh. Chàng sững sờ khi trông thấy địa chỉ ghi ngoài bì thư không còn là Vancouver ở Canada nữa mà là một địa chỉ khác thuộc tiểu bang Oregon, Hoa Kỳ. Vào trong xe, chàng vội vàng mở thư đọc :



Portland, ngày...

Anh yêu,

Em ngồi đây viết cho anh với tất cả niềm hạnh phúc. Anh không thể biết được em vui sướng đến độ nào khi em được đặt chân trên vùng đất mơ ước nầy. Thế là từ nay em được gần anh hơn, gần anh trong khoảng cách không gian nhưng với thời gian có rút ngắn được thêm chút nào chưa biết được.

Hào ơi, suýt nữa là em xa anh vĩnh viễn rồi. Giờ phút xe ngừng kiểm soát nơi cột mốc biên giới Mỹ và Canada, em nằm khoanh tròn trong thùng sau xe thay chỗ đặt chiếc lốp xơ-cua. Tim em như ngưng đập vì lo sợ. Hơi thở em khò khè vì thiếu dưỡng khí. Nếu thời gian kiểm tra kéo dài thêm mười phút có lẽ em chết mất. Anh biết không, lúc ấy em chỉ nghĩ về anh, nghĩ đến tình yêu của chúng ta, nghĩ đến giờ phút được gặp anh, được anh ôm em vào lòng sau bao nhiêu năm chờ đợi. Lúc bấy giờ em chỉ còn biết van vái, nguyện cầu đấng thiêng liêng phò hộ cho em tai qua nạn khỏi. Em nhủ thầm : “Mộc Linh ơi, hãy kiên trì và phấn đấu như những tháng năm ở quê nhà mầy sắp quỵ ngã vì những khổ đau dồn dập để đứng dậy vững vàng cho đến ngày hôm nay, Mộc Linh ơi, hãy gắng gượng thêm chút nữa, chẳng còn bao lâu mầy sẽ được thỏa lòng vì ước mơ đã thành tựu. Thái Hào ơi hãy tiếp hơi thở cho em” ! Ðó là ý nghĩ của em trong giờ phút cực kỳ nguy khốn. Mạnh, người em họ của em đã vực em dậy trong trạng thái bất tỉnh khi xe đã qua được bên nầy biên giới thuộc tiểu bang Washington. Mồ hôi ướt đẫm cả người em mặc dù thời tiết lạnh dưới không độ. Tuyết đổ trắng xoá trên mọi nẻo đường của dải đất Bắc Mỹ nầy.

Mạnh đã đưa em về tiểu bang Oregon trong ngày Chúa nhật vừa qua. Giờ nầy, mọi người đã đi làm hết cả rồi, còn mình em ngồi co ro trong phòng. Cây cối run rẩy dưới mưa. Mưa vờn trên mặt cỏ. Mưa phủ trên luống bông hồng làm rơi rụng những cánh hoa sắp tàn. Và anh ơi, mưa cũng làm tê lạnh hồn em. Ước gì giờ nầy có anh bên cạnh, có chết trong vòng tay anh em cũng thỏa nguyền. Anh đừng cho em là cường điệu. Nếu một ai có cùng chung tâm trạng của em trong giờ phút nầy thì sẽ thấy điều em viết không ngoa chút nào. Em nhớ anh đến cồn cào ruột gan. Hào ơi, đừng để em cô đơn trong những năm tháng sống bất hợp pháp thế nầy nhé. Em cảm thấy hụt hẫng và vô cùng lo âu. Em đợi anh cho em những lời khuyên thiết thực.

Em Mộc Linh"



Hào hết sức bối rối trước sự việc đã rồi. Mộc Linh ở Canada trong tình trạng hợp pháp, đã vội vàng trốn qua Mỹ để trở thành di dân bất hợp pháp. Do đó, không có cách nào giải quyết ổn thỏa ngoại trừ quay về lại Canada hoặc trốn chui trốn nhủi trên đất Mỹ. Nàng không thể thi lấy bằng lái xe, không thể xin việc làm hợp lệ trong các hãng xưởng và chẳng có quyền lập hôn thú với một ai trên đất Mỹ. Người em họ đưa nàng qua đây không biết anh ta có nghĩ đến những điều bất lợi đó không. Kế hoạch của chàng bỗng dưng đổ vỡ. Có lẽ Mộc Linh quá nôn nóng muốn gặp chàng. Tình yêu tăng thêm sức mạnh nhưng sự liều lĩnh làm rối rắm mọi tính toán cho tương lai. Thái Hào đành bỏ chuyến máy bay đi Vancouver, thay vào đó chàng quyết định thuê xe và tự lái đi Portland, một thành phố lớn thuộc tiểu bang Oregon.



Trời chưa hừng sáng, Hào đã lên xe trực chỉ xa lộ A5. Sau mười hai tiếng đồng hồ mò mẫm trên bản đồ, Thái Hào đến được Portland lúc trời đã về chiều. Chàng tìm đến địa chỉ ghi trong thư của Mộc Linh gởi cho chàng mà không ghi số điện thoại.. Một chuyến đi đột xuất ngoài dự kiến, Mộc Linh không hề được thông báo và Hào chỉ được bảy ngày phép nên không thể đợi chờ. Nhà của Mạnh, em họ Linh là khu biệt thự khá sang trọng.Vách tường màu trắng, chung quanh là bãi cỏ xanh rờn. Một luống hoa hồng khoe màu rực rỡ làm nổi bật những khung cửa sổ có treo rèm màu xanh lá chuối non. Ðậu xe bên lề đường trước mặt nhà, chàng nhìn lại địa chỉ một lần nữa rồi mở cửa xe bước ra. Hào tiến thẳng đến khung cửa chính đưa tay bấm vào nút chuông, hồi hộp đợi chờ.

Cánh cửa từ từ hé mở, một người đàn bà cỡ tuổi trung niên đứng trong khung cửa nhìn ra. Một khuôn mặt trái soan, màu da trắng mịn nhưng tiều tụy xanh xao. Dù tuổi đời không còn non trẻ và ánh mắt thoáng gợn chút u buồn nhưng vẫn ngời lên ánh tự tin của một tâm hồn cứng cỏi.

- Thưa, ông tìm ai ? Nàng lên tiếng ...

- Thưa bà, có phải đây là nhà ông Mạnh không ạ ? Hào ngập ngừng hỏi.

Người phụ nữ mở rộng cửa tiến về phía Hào. Bất giác nàng nhào tới ôm chầm lấy Hào thốt lên : “Ôi, Thái Hào, em Mộc Linh đây mà ! Có phải em nằm mơ không nhỉ ? Dù đã ba mươi năm em vẫn nhận ra anh mà”.

Bỏ chiếc cặp xuống bên chân, Hào nâng đầu nàng ra khỏi vai và hôn lên đôi mắt ướt đẫm lệ của nàng , đôi mắt đen tuyền long lanh đã bám riết cả cuộc đời chàng.

Một phụ nữ ăn mặc sang trọng đột ngột xuất hiện bên trong khung cửa. Bà kinh ngạc khi nhìn thấy hai người ôm nhau vội thốt lên:

- “ Ô hay, ông Hào, bà Linh”?

Hai người buông tay nhau, Hào giật mình khi nhận ra người mới hỏi là Thụy, vợ chàng. Vừa khi đó một chiếc xe hiệu Lexus bóng loáng chạy từ từ vào garage lúc cửa tự động đang cuốn lên . Người đàn ông trong xe bước ra vồn vã hỏi :

- Ai đó chị Linh ?

- Mạnh à, đây là anh Hào người yêu của chị đã thất lạc nhau gần ba mươi năm mà chị đã tâm sự với em từ Canada, anh tìm đến đây thăm chị.

Mạnh lịch sự tiến đến bắt tay Hào :

- Hân hạnh gặp anh.

Hào siết tay Mạnh và tự giới thiệu :

- Tôi là Trần Thái Hào từ tiểu bang California.

Mạnh bước vào tươi cười bảo vợ :

- Thụy, em mời khách vào nhà đi chứ.

Vừa nói Mạnh vừa ôm hôn Thụy rồi vui vẻ mời Hào vào phòng khách.

Câu chuyện vui vẻ bên khay trà nóng, Mạnh kể :

- Tôi có nghe Thụy nói anh qua Mỹ theo diện HO. Ðã khá lâu mà chưa có dịp gặp anh. Công việc nó làm mình bận rộn luôn nên không có cơ hội đến Cali thăm bạn bè. Vừa rồi tôi qua Vancouver thăm đứa con trai của tôi do bà vợ trước nuôi dưỡng. Bất ngờ gặp chị Linh là con bà dì của tôi đang được vợ cũ tôi mướn giữ hai đứa con thuộc đời chồng sau của nàng. Chị Linh có tâm sự với tôi là chị mong muốn được qua Mỹ và có ý hướng tìm anh.

Tôi cũng không ngờ người yêu của chị mang tên Hào lại là chồng cũ của Thụy, là cha của hai đứa con trai của bà ấy hiện ở Cali. Tôi và Thụy mới lấy nhau trong vòng bốn năm thôi, sau khi tôi ly dị bà vợ bên Canada.. Sự gặp gỡ của anh và chị Linh đã tạo ra bao nhiêu là bất ngờ nhưng lại khá thuận lợi để chúng ta có dịp trao đổi với nhau một vài mắc mứu giữa anh và Thụy.

Chúng tôi cưới nhau trên đất Mỹ nầy có hôn thú hợp pháp vì vậy theo nguyên tắc pháp lý, anh và Thụy chẳng có gì ràng buộc nhau. Tôi và cả vợ tôi nữa rất lấy làm vui mừng trong cuộc tái hợp ngày hôm nay của anh Hào và chị Linh. Tôi hy vọng chúng ta sẽ trở thành là người thân trong gia đình.

Hào đưa mắt nhìn Linh đang cúi xuống để che dấu sự xúc động và những giọt lệ đang lăn tròn trên má. Một khoảng thời gian yên lặng nghe rõ mồn một tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo trên tường. Bất chợt Mạnh dõng dạc lên tiếng :

- Ngày mai là lễ Giáng Sinh, tôi mời mọi người đi nhà hàng. Chúng ta dự một bữa tiệc mừng Chúa Kitô ra đời và đồng thời chúc mừng anh chị Thái Hào – Mộc Linh đoàn tụ.



Trong một quán kem giữa thành phố Portland, Hào và Linh ngồi kể cho nhau nghe những khổ lụy cuộc đời mà hai người đã trải qua. Nỗi nhớ nhung và đau khổ của mối tình kéo dài 30 năm. Trong dịp nầy, Hào đã thuyết phục được Mộc Linh đồng ý trở lại Canada. Hai người hẹn nhau cùng về Việt Nam làm thủ tục kết hôn. Sau đó Hào sẽ nộp hồ sơ bảo lãnh nàng qua Mỹ theo diện đoàn tụ. Nhưng trước khi quay về Vancouver, Mộc Linh nằn nì Thái Hào cho nàng cùng về tiểu bang California để thưởng ngoạn vài thắng cảnh, đồng thời được gần gũi chàng một thời gian ngắn cho thỏa lòng nhớ thương. Mặc dầu Hào lo ngại có thể gặp rủi ro cho Linh nhưng không thể chối từ trước niềm thiết tha mong đợi mà nàng đã ấp ủ trong mấy năm qua.

Hào lái xe quay về tiểu bang California ngay trong đêm. Chuyến đi nầy chàng không còn cô đơn nữa. Mộc Linh ngồi bên thỉnh thoảng đưa mắt âu yếm nhìn chàng. Chiếc xe phóng nhanh dưới bầu trời lấp lánh sao đêm. Ánh đèn đường vàng nhạt, loáng thoáng những cánh rừng thông dọc hai bên xa lộ khiến Linh nhớ đến lần hẹn hò đầu tiên thuở nàng vừa tròn mười sáu, Hào mười tám, nàng cất tiếng hỏi::

- “Anh còn nhớ đêm lửa trại Mừng Giáng Sinh do Liên trường tổ chức trên đồi thông Hạnh Phước?”

Hào nắm tay nàng:

- Nụ hôn đầu tiên trong đêm hôm đó cách đây đã ba mươi năm mà tưởng chừng như mới ngày hôm qua !

Linh xúc động nhìn Hào rồi cầm tay chàng đưa lên môi hôn.

Chiếc xe phóng đi trên đường đêm hun hút. Bóng tối vây phủ mịt mùng chỉ có bầu trời là rực rỡ ánh sao của đêm Giáng Sinh huyền mặc.


Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/Apr/2019 lúc 1:33pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Apr/2019 lúc 10:28am

Người Trở Về Từ Cõi Chết


Image%20result%20for%20Người%20Trở%20Về%20Từ%20Cõi%20Chết


Trời đã về chiều, gió biển lồng lộng thổi làm cho những cuộn mây đen khổng lồ vùn vụt bay trên vòm trời, những cây thông to lớn như muốn nghiêng ngả, cành rung chuyển, lá xào xạc. Tiếng gió hú nghe như tiếng than của ma quái hay của oan hồn những kẻ đã chết nơi nào đó dưới những vực thẳm lởm chớm đá có cạnh sắc bén như luỡi lê kẻ thù. Pinadas Palm Beach vẫn nổi tiếng là đẹp, là thơ mộng, nhưng chiều nay có nét hung dữ của một quái vật đang nổi giận. Những lớp sóng cao cả năm bẩy thước từ tuốt nơi xa cứ ào ào đổ vào bờ, hết lớp này đến lớp kia, bọt biển trắng xoá cả một vùng rộng có đến nửa cây số chứ không ít. Nước biển vỗ lên những tảng đá to lớn bắn tung tóe lên không trung, để rồi được gió mang đi xa, tuốt đến tận nơi Hoàng đang ngồi.

Anh đang ngồi ngắm cơn thiên đình của biển cả như muốn đo lường sức mạnh tầy trới của thiên nhiên. Theo lời tiên đoán của nha khí tượng, tối nay cơn bão sẽ bay tới từ phiá đông bắc, gieo tang tóc cho khu vực này. Nhà cửa sẽ đổ nát, mái sẽ bị tốc lên, bị gió cuốn bay đi, nước mưa sẽ làm cho cả vùng này ngập lụt. Không gì có thể ngăn chặn được sự tàn phá của cơn giông tố và nhiều người có thể sẽ bị thiệt mạng. Dân địa phương hoặc đã sơ tán đi vào vùng sâu bên trong đất liền, hoặc họ đã chuẩn bị cẩn thận để tự bảo vệ và bảo vệ tài sản của họ. Họ đã đóng những tấm ván dày hai, ba phân để bít kín cửa sổ nhà họ, họ đã để hàng trăm bao cát xung quanh nhà để ngăn không cho nước trào vào phía bên trong, và tất nhiên họ đã tích trữ nước uống, thực phẩm và những thứ cần dùng trong trường hợp khẩn cấp như là thuốc men, đèn pin, đèn cày, chăn mền, và hàng chục thứ khác nữa.

Hoàng không phải là dân địa phương. Anh đã đến nơi đây để nghỉ mát một tuần, để thưởng thức thắng cảnh thần tiên của vùng này mà anh đã nghe nói từ lâu, và nhất là để gập lại người tình mà anh đang khao khát muốn gập lại. Vả lại, khi quyết định đi tới nơi đây, anh đâu biết cơn giông bão sẽ đổ tới tối nay? Anh đã tới đây được ba ngày và đã sống yên bình đâu có dấu hiệu nào cho biết biến cố này sẽ xẩy đến? Làm sao anh có thể tiên đoán được những biến đổi của thiên nhiên? Anh đã chuẩn bị cho việc đến nơi đây trước đây cả tháng, sau khi được thư của Loan Anh. Trong lá thư, nàng hẹn sẽ đến gặp anh vào một ngày không định trước trong tuần. Giá mà là ngưới khác thì anh đã từ chối cuộc gặp gỡ bất định này. Ai đi hẹn người yêu mà lại không cho biết chắc ngày giờ hẹn như thế?

Nhưng Loan Anh, người anh yêu, lại là đàn bà có chồng và nàng phải trốn chồng đến đến với anh. Không còn chịu nổi cơn nhớ nhung mòn mỏi, nàng đã phải tìm cơ hội thuận tiện, phải mưu tính, và tất nhiên phải liều để đến thăm anh. Chính khó khăn làm cho anh càng thương nàng hơn và làm cho hai người càng thấy sức mãnh liệt của tình yêu. Yêu nhau lén lút làm tăng cái thú được gặp lại nhau, được ôm nhau hôn nhau và mức độ say đắm của yêu đương càng thêm nồng nàn, càng thêm  nóng bỏng. Chỉ nghĩ đến sự thèm khát nhau, lòng ham muốn được có nhau cũng đủ làm cho hai con người đó quên đi tất cả hiểm nguy, bổn phận, luân lý, đạo đức. Cả lời dèm pha của người ngoài lẫn sự phán đoán của xã hội đều vô nghiã trước sự khao khát của yêu đương.

Hoàng đã phải đi hàng ngàn dặm mới tới được những nơi hẹn  khác nhau và Loan Anh thường chỉ cho anh biết trước một thời gian ngắn. Lần này anh đã phải bay sang từ Cali nơi anh đang sống. Anh thông cảm vì đâu phải nàng muốn như thế? Nàng đâu có tự do
muốn gập anh nơi đâu, gập anh lúc nào thì gập. Nàng đâu có thể muốn đi đâu thì đi, muốn đi lúc nào thì đi? Nàng đã có chồng và phải trốn chồng đến với người tình. Ai bảo hai đứa yêu nhau làm gì cho khổ?

Như thế tình yêu lén trộm của Hoàng và Loan Anh đã kéo dài gần năm năm trời. Anh nhớ ngày anh gập nàng lần đầu tại một buổi dạ tiệc tổ chức cho các nghệ sỉ, văn sĩ toàn nước Mỹ, một buổi liên hoan để chào mừng những văn nghệ sĩ hải ngoại trẻ có tài và được nhiều người mến chuộng. Loan Anh đến nhận một giải thưởng gì đó anh không nhớ vì anh đâu cần biết đến chi tiết này? Anh chỉ biết rằng nàng xinh đẹp lại có tài, nàng lỗng lậy trong chiếc áo dài nhung đỏ xẫm lại thêu một cành hoa vàng giữa ngực làm cho anh càng chú ý đến bộ ngực căng phồng hấp dẫn, đầy nhựa sống của nàng. Vừa nhìn thấy nàng thướt tha bước lên trên bục anh đã thấy choáng váng mặt mày vì thân thể nẫy lửa và vẻ đẹp kiêu căng nhưng qúi phái của nàng. Sự chú ý của anh gia tăng khi nghe người ta giới thiệu nàng như là một nhà văn có biệt tài viết những truyện trinh thám và  lại là con gái của nhà hoạ sĩ danh tiếng Loan Hương mà anh vẫn nghe tiếng. Các truyện của nàng đã được dựng thành phim, anh đã từng đi xem một hai lần nhưng chưa bao giờ để ý đến người viết cốt truyện. Nay thì anh đã mê mẩn trước sắc đẹp nghiêng thành đổ nước của Loan Anh.

Lời phát biểu của Loan Anh trước cử tọa làm cho Hoàng rất ngạc nhiên không kém. Nàng đã nói:
……Nhân dịp này, em muốn xin gởi đến anh Hoàng Dương lời nhiệt thành biết ơn của em. Những tuyệt phẩm của anh đã hướng em đi vào con đường viết văn và cho em cảm hứng để sáng tạo….

Ngày đó nàng khoảng ba mươi và con đường văn nghệ của nàng đang mở rộng thênh thang. Nàng đang tiến lên cả đài danh vọng lẫn phú quí vì nàng đang có năm bẩy hợp đồng ký với những những hảng phim và nhà xuất bản và chồng nàng, nhà triệu phú Quang Minh là tổng giám đốc công ty địa ốc lớn nhất nhì Texas. Loan Anh đi đến đâu cũng được ái mộ và kính nể nhưng đối với anh, nàng chỉ là một người con gái bé nhỏ mà anh muốn chiếm làm người tình. Anh đã là một người từng trải qua nhiều sóng gió của cuộc đời, anh đã ngoài năm mươi, cái tuổi đã bắt đầu thấm mệt và nguồn cảm hứng sáng tác của anh, tuy vẫn dồi dào, không còn phong phú như trước. Sách của anh vẫn còn bán chạy, những tác phẩm của anh vẫn còn được ca ngợi, nhưng anh đã vượt qua cái thời điểm tột đỉnh của văn nghiệp. Anh vốn ghét mọi sự suy tàn và không muốn thấy mình, một ngày nào đó bị bỏ chìm trong quên lãng. Anh sợ bị dồn vào con đường chua sót của sự phai mờ. Vì thế, anh đã quyết định gĩa từ vũ khí, anh đã bỏ cuộc, anh vẫy tay chào từ biệt cái nghiệp dĩ anh đã đeo đuổi từ khi anh mới hai mươi tuổi. Trong ba mươi năm dòng dã, anh đã cho ra đời hàng trăm tác phẩm, anh đã được vinh danh như là một cây bút có thiên tài không ai có thể so sánh được. Marilyn Monroe đã giã từ cuộc sống sung sướng để luôn luôn được nhớ đến như là người đàn bà đẹp và khêu gợi hơn tất cả những người đàn bà khác. Cũng như thế, anh muốn được luôn luôn nhớ đến như là một nhà văn tài ba xuất chúng, một con người khác thường, không tìm được nơi một người khác. Anh nhớ ngày anh còn trẻ, anh đã muốn là một James Dean trong làng văn.

Cuồng giông vẫn lồng lộn ngoài kia, gió thổi cả trăm cây số giờ đập ầm ầm vào những khung kính lớn của toà nhà khách sạn kiên cố Carlston Ritz năm từng lầu như thể muốn phá tan lớp kính dày hai phân và ào vào bên trong. Gió làm rung chuyển những mái che bằng vải bố căng trên những cửa sổ và đã bốc đi một số, thổi chúng bay lên xa tít trên trời như thể chúng là những cánh diều vĩ đại đứt giây không còn ai điều khiển. Nhìn những cây dừa nước cao cả hai ba chục thước uốn éo  trước cơn gió, Hoàng thấy như thể chúng đang múa may quay cuồng trước sự kích động của thiên nhiên. Anh hình dung ra cảnh những người đàn bà điên trần truồng nhẩy múa ngoài sân của một viện dưỡng trí mà anh đã thấy khi anh đến thăm một người cô bị bệnh. Ngày đó anh mới lên mười, anh chưa hiểu được rằng những ức bách của cuộc sống có thể đẩy con người đến chỗ mất trí, không còn ý thức được những hành động của mình.

Hoàng với ly cognac đưa lên miệng hớp nhẹ, rồi ngả lưng ra phiá sau chiếc ghế nệm, tay trái vẫn giữ ly rượu. Anh dùng tay phải móc túi lấy bao Pall Mall đỏ, lắc lắc cho những điếu thuốc ló ra rồi đưa cả bao thuốc lên miệng cắn nhẹ một điếu vào giữa răng. Anh để bao thuốc trở lại túi áo rồi nhếch đít đưa tay vào túi quần lấy cây quẹt máy điện Dunhill bằng vàng. Anh nhấn nhẹ chiếc nút tròn để ngọn lửa phật lên cao, đưa nó tới gần điếu thuốc, rít một hơi dài. Mười giây sau, anh ngửng đầu lên trời, mở miệng nhả một làn khói xanh dài, rồi lim dim đôi mắt, anh nhìn lớp khói bay đi và tan dần trong không gian. Trong đầu anh vẫn là hình ảnh bữa liên hoan năm xưa, anh đã đến đó để gặp lại Quang, một người bạn thân, một nhà thơ nổi tiếng trong trào lưu Tân Lãng Mạn. Vừa thấy anh, Quang đã lớn tiếng:
- Đây rồi! Tớ chờ mãi mới thấy cậu đến! Chắc lại bị đào giữ chân phải không?
- Chẳng có đào với mơ nào hết! Lúc này tớ đang cô đơn đây!
- Cô đơn hả? Em Yến của cậu đâu rồi?
- Về Paris trở lại từ cả tháng rồi! “Em đi để anh buồn vương vấn…” Cậu làm tiếp cho tớ bài thơ để tớ tặng em.
- Thơ mà làm gì? Cứ để em đi, có em khác cho cậu đây rồi! Lại đây tớ giới thiệu cho…
- Ai đó mà cậu hớn hở thế?
- Loan Anh. Em vừa nhắc tên cậu đó. Câu có nghe không?

Hoàng giả vờ như không biết chuyện:
- Nhắc tên tớ? Làm gì có chuyện ấy! Cậu đừng đùa dai...
- Thật mà! Lại đây. Em sẽ rất sung sướng khi được gặp nhà văn Hoàng Dương của lòng mình...

Buổi liên hoan đêm đó có đến năm trăm người tham dự. Sau chương trình chào mừng quan khách, giới thiệu các văn sĩ trẻ trúng giải và trao giải thưởng là bữa tiệc rượu theo lối tây phương. Những tên bồi bàn ngoại quốc bưng rượu đi lòng vòng mời khách trong khi những em tiếp viên đầm đẩy chiếc xe mang đủ thứ thức ăn đi quanh để tùy ai nấy muốn ăn gì thì thò tay vào mà bốc. Tiếng nhạc rên rỉ, tiếng Khánh Ly, Lệ Thu nỉ non những bài ca tình buồn làm cho ai nấy chạnh lòng. Hoàng đã nhủ thầm: “Không  biết ai đã chọn những bản nhạc này thật thiếu thông minh! Tiệc vui mà lại cho hát toàn nhạc buồn!“ Anh đang chán đời, nghe những bản nhạc thất tình đó làm cho anh xuống tinh thần thêm. Cũng may mà anh đã tìm ra được Quang và hắn đã đưa anh đến với em Loan Anh.

Lần đầu em thấy anh bằng xương bằng thịt, em đã chớp chớp làn mi cong, đứng đó, nụ cười trên môi, không nói năng được gì. Tiếng xét ái tình đã đánh, em thấy rõ em đã yêu anh ngay từ giây phút ấy, tim em đập loạn đả trong lồng ngực, em thấy trong người em một ngọn lửa cháy lan ra, làm cả thân em nóng lên bừng bừng, em cố chấn tỉnh để không run rẫy. Em nghe anh khen em giỏi, em đẹp trong lòng dâng lên một nỗi vui suớng em chưa từng cảm thấy bao giờ.
- Rất hân hạnh được gặp Loan Anh. Tôi vẫn mến tài viết của em từ lâu, nay lại được chiêm ngưỡng em, thật là vinh hạnh cho tôi....

Em e lệ, vừa nhoẻn miệng cười duyên, vừa lí nhí:
- Cám ơn anh, em cũng rất hân hạnh...

Em quá súc động để có thể nói gì thêm.
- Để anh Hoàng take care Loan Anh giùm tôi nhe! Tôi đang lên cơn khát, phải đi tìm tí whisky đổ vào họng không cổ khô khan quá!
- Cậu đi đâu thì đi nhưng trước khi về cho tớ gặp lại một chút. Có tí chuyện muốn nói với cậu.
- OK. Mình sẽ gặp nhau sau.

Tiếng nhạc trổi lên, giọng ai nấy giống như giọng Lê Uyên hát bản “Bài Tango Cho Em“. Hoàng nắm tay đưa em ra sàn nhẩy. Hai đứa quấn quít bên nhau, quay cuồng trong điệu nhạc lời ca bất hủ. Anh để miệng sát tai em nói khẽ:
- Loan Anh ơi, em đẹp tuyệt vời! Chắc anh sẽ yêu em mất đi thôi!

Em chỉ nở nụ cười sung sướng, không nói câu gì. Anh ôm em sát hơn để hai thân mình dính vào nhau và hai đứa xoay người lướt đi trên sàn nhẫy. Khi tiếng nhạc chấm dứt, hai đứa đi sát bên nhau trở về chổ cũ, anh có cảm tưởng như anh đã quen biết em từ thuở nào.
- Thưa ông, ông có cần thêm chi nữa không ạ?

Tiếng người con gái phục vụ làm anh bừng tỉnh, thoát ra khỏi giòng suy tư đã đưa anh về với quá khứ. Anh nhìn người hầu bàn mỉm cười:
- Cô cho tôi thêm một ly cognac và một ít đậu phọng.
- Thưa ông vâng ạ.

Ngoài kia trời đã đổ mưa lớn mà anh không hay. Những hạt mưa nặng chĩu được cơn gió thổi bay đi dồn dập đập mạnh lên những tấm cửa kính lớn làm nên một tiếng khua động vang dội. Cộng thêm là tiếng gió rít luồn qua những khe nhỏ xíu nghe thật rùng mình khó chịu. Trời đã vể chiều và đa số khách ngồi nơi đây ngắm sóng biển lồng lộn trong cơn giông tố đã rút vào phòng ăn. Hoàng chưa thấy đói bụng. Anh đã làm năm sáu ly apéritif rồi nhưng sao miệng vẫn nhạt, anh vẫn chưa muốn ăn. Anh cảm thấy hơi buồn buồn, anh nhớ Loan Anh của anh.

Loan Anh yêu của anh ơi, em đang ở nơi nào? Em có hay rằng anh đã chờ đợi em từ ba hôm nay rồi hay không? Ba hôm chờ em là ba thế kỷ đó! Anh đâu sống để chờ em? Anh sống để được có em bên anh, để được ôm em vào lòng, ghì em chặt trong vòng tay, hôn em lên đôi mắt nhung, lên làn môi mọng đỏ, lên cổ nơi em có làn da mịn nõn nà. Em ơi anh nhớ mùi Chanel No 5, anh nhớ mùi da thịt, anh nhớ bộ ngực căng đầy, anh nhớ cặp đùi dài trắng của em. Anh nhớ em, nhớ hơi thở dồn dập, nhớ làn da nóng bỏng, nhớ tiếng em rên khe khẽ bên tai anh, nhớ cái run rẩy. Và anh thèm được nghe em nói “Em yêu anh ngút ngàn, em cám ơn anh, em cám ơn anh...“ Trong lúc em đã đi vào thế giới của ái ân, em đâu còn biết gì nữa mà cám ơn hả em? Loan Anh của anh ơi, anh nhớ em, thèm em đến phát điên lên mất! Em đâu? Em đâu rồi?
- Thưa ông, ly cognac và đĩa đâu phọng...
- Cám ơn. Cô để đó cho tôi.
- Thưa ông có cần chúng tôi giữ chiếc bàn ông vẫn ngồi dùng cơm?
- Vâng cô để dành nó cho tôi.
- Thưa chừng nào ông tính dùng cơm để chúng tôi chuẩn bị sẵn sằng?
- Một tiếng nữa. Bây giờ còn sớm quá!
- Thưa ông vâng ạ!

“Tiên sư con bé! Mình đang nhớ đến em, mình đang vui trong cơn mơ thì nó lại làm mình tỉnh dạy!“ Hoàng nhón lấy mấy viên đậu phòng bỏ vào miệng nhai. Cái bùi bùi của lạc làm cho anh bớt thấy nhạt miệng. Anh cầm ly cognac làm một hơi dài rồi châm điếu thuốc mới. Anh lại thả hồn về với những lần gặp gỡ người yêu bé nhỏ Loan Anh của anh. Anh nhớ lại nụ cười chúm chím của em tươi như bông hoa hồng chớm nỡ, anh nhớ những lời nói ngọt như đường mật em đã nói với anh, những lời nói chứa chan yêu thương, những lời nói nồng nàn em diễn tả cái hạnh phúc vô bờ bến khi được ở bên anh. Anh nhớ những lúc em dụi đầu vào ngực anh, để anh hôn nhẹ lên mái tóc huyền, đề anh xoa nhẹ đôi vai, những lúc em làm nũng với anh, hỏi anh có yêu em nhiều không, có thương em thật không, có nhớ em như em nhớ anh hay không. Em ơi anh không yêu em, thương em nhớ em thì anh thương yêu nhớ ai? Em là tất cả cuộc đời của anh, anh chỉ còn sống cho em, vì em. Không có em thì đời anh chẳng còn gì để vui, anh chẳng còn gì để sống.

Hoàng đang mơ màng nhìn vào hư vô, anh đang đi vào tiềm thức của chính anh, anh đang đi tìm những hình ảnh đẹp tuyệt với của hạnh phúc chứa chan thì anh thấy xa tít chân trời. nay đã tối đen. loé lên những tia chớp khổng lồ, liên tiếp làm sáng chói cả một vùng bầu trời rồi lại lịm tắt để rồi lại lóe lên. Và sau đó chưa đầy một phút, một tiếng gầm inh tai vang dội, làm cho anh giật nẩy mình, tiếng xấm khủng khiếp anh chưa từng nghe thấy trong đời, làm cho anh rụng rời chân tay. Thế rồi tất cả những ngọn đèn trong tòa nhà bỗng phụt tắt, bóng tối bỗng phủ xuống bao quanh tất cả vùng xung quanh anh. Anh chưa biết phải phản ứng ra sao thì anh nghe những tiếng thét kinh hoàng của những thực khách nữ vang lại từ phòng ăn bên trong. Anh cố gắng lấy lại bình tĩnh, cố gắng hoàn hồn. “Mình cứ ngồi yên đây! Có gì đâu mà phải hoảng? Chút xíu thì lại có điện trở lại chứ gì!“ anh tự nhủ.

Nhưng anh chưa hoàn hồn thì một luồng điện bỗng chạy từ sống lưng anh lên đến tận đỉnh đầu lan vào óc anh, làm cho anh vừa rùng mình vừa đau buốt như thể có hàng vạn mũi kim chích vào xương sống, vào xương tủy, vào những giây thần kinh chằng chịt chạy theo cột xương sống của anh, óc anh đau nhói như thể có một bàn tay khổng lồ vô hình đang bóp nát đầu anh. Anh thấy nghẹt thở, miệng anh há hốc cố hớp lấy những hớp không khí để khỏi chết ngộp, một cái gì đó đề nặng lên ngực anh, anh hốt hoảng đưa hai tay lên ôm lồng ngực rồi sờ lên cổ, nhưng không thấy gì. “Mẹ kiếp! Mình lại lên cơn gì đây? Những cảm giác lúc này là thật hay giả? Sao mình lại thấy kỳ cục như vậy?“ Anh cố lấy hết sức đứng dạy để lần mò đi nơi khác nhưng không được. Người anh như nặng ngàn cân, hai chân anh nhũn như bún, thân anh như đã dính chặt vào khung ghế, anh không sao nâng được thân mình lên.

Đang hồi hộp lo sợ như thế thì những tia chớp ma dại lại loé lên làm sáng cả căn phòng khách lớn mênh mông trong một vài giây rồi đêm tối lại chìm xuống. Thời gian như ngừng lại, anh có cảm giác một phút dài hơn một giờ. Tim anh vẫn đập thình thịch như muốn phá vỡ lồng ngực. Và ngay khi những tia chớp cứ lóe lên, anh bỗng thấy ngay trước mặt, sau khung kính to lớn nhìn ra biển, anh thấy cách xa anh chưa đầy mười thước, bóng một người đàn bà quen thuộc, một bộ mặt đẹp man dại, đầu tóc rũ tượi, thân mình ướt đẫm nước mưa, chiếc áo nàng mặc trên người rách nát nhiều nơi. Anh nhìn đôi mắt nàng, đôi mắt nhung đen láy, anh thấy đôi mắt ấy buồn diệu vợi, ánh mắt nhìn về phiá anh nhưng thể hiện một sự xa xăm, một ánh mắt đau đớn khổ sở trên một vẻ mặt bơ phờ như thể nàng đã đi từ nơi nào xa lắm để về đến nơi đây. Nàng đã đi trong cơn bão tố như thế ư? Nàng là một kẻ không nhà hay là một người đi lạc? Tại sao nàng không đi cửa phiá trước mà vào? Sao lại đứng ngoài mưa gió như thế?

Khi tiếng xấm vang rền thì những tia chớp đã ngưng loé lên và bóng người đàn bà cũng đã biến mất. Trong đêm tối mịt mờ, Hoàng không còn thấy cái bóng ghê hồn kia hiện ra nơi khung cửa kính nữa. Anh vẫn còn run rẩy trong chiếc ghế bành, cơn sợ hãi vẫn còn đó. Anh vội vã sờ soạng trước mặt tìm ly rượu, đưa lên miệng uống hết chỗ cognac còn lại. Cái nóng cháy cổ của chất cồn trong rượu làm cho anh tỉnh trí. Từ từ tim anh bớt đập nhanh, lổng ngực anh bớt bị đè nặng, óc anh không còn thấy buốt như lúc vừa qua. “Khốn nạn thật! Mình thức chứ có ngủ đâu mà nằm mê? Sao bóng người đàn bà đó cứ ám ảnh mình như thế này không biết?“

Hiện tượng ma quái đó đã đến với anh hai đêm qua. Anh đã thấy bóng người đàn bà ấy hiện ra trong cơn ngủ, anh đã có những cảm giác kinh hoàng như thế mỗi khi nàng hiện về. Hai lần nàng đã hiện về trong bóng đen của đêm tối, với ánh mắt buồn xa xăm thể hiện sự đau đớn vô cùng tận của tâm hồn nàng. Anh thấy ánh mắt đó mà thắt ruột, anh nhìn nổi buồn trong đó mà thấy thương sót đến thót con tim. Phải thấy ánh mắt đó mới thấy sự đau đớn của linh hồn, cái đau đớn xé tâm can người nhìn, làm cho người nhìn phải quằn quại đau khổ cùng với nàng. Anh đã thổn thức trong giấc ngủ vì ánh mắt đó, lúc tỉnh dạy mắt anh còn vướng đôi giọt nước, anh chẳng hiểu tại sao.

“Em là ai mà cứ về với anh trong những lúc thanh vắng như vầy?“ Hoàng tự nhẩm trong đầu. Vừa  nghĩ thế thì anh nghe một giọng nói quen thuộc ngọt nào thủ thỉ bên tai anh làm anh rợn tóc gáy, nổi da gà: “Anh không nhận ra em sao? Em, Loan Anh đây mà!” Anh cảm thấy choáng váng mặt mày. Anh không tin ở tai anh: “Không lẽ mình mê ngủ? Hay là mình bị bấn loạn tinh thần nên tưởng tượng ra như thế?” Anh cố lắc đầu như để dứt khỏi cơn u mê anh đã chìm vào từ lúc nào anh không hay.

Thế rồi ánh sáng trở lại, những ngọn đèn điện khắp nơi trong toà nhà đã lại bừng chiếu, sinh hoạt trở lại bình thường. Tất cả biến cố xẩy ra chưa đầy năm phút, nhưng sao Hoàng thấy nó kéo dài rất lâu, như cả giờ đồng hồ. Anh cảm thấy mệt mỏi lạ thường. Vài phút sau khi giòng điện được tái lập, anh uể oải đứng dậy đi về phòng ăn. Anh len lỏi giửa đám đông thực khách bấy giờ đã ngồi ăn uống, cười nói vui vẻ trở lại. Anh bước tới chiếc bàn dành riêng cho anh.

Hoàng kêu một cái steak filet mignon, một đĩa salade, và một chai vang đỏ. Trong đầu anh vẫn còn vấn vương những hình ảnh kinh dị và tâm trí anh vẫn chưa trở lại bình thường. Anh ăn vài miếng salade, nuốt vài miếng thịt bò rồi để những đĩa thức ăn sang một bên. Nhìn ra ngoài trời, anh thấy cơn mưa đã tạnh, gió đã bớt hung bạo, không còn sấm sét đùng đùng nữa. Cơn giông tố đã tạm ngưng hoành hành, có lẽ để chuẩn bị cho một cuộc tấn công sau đó dữ dội hơn, một cơn tàn phá ác liệt hơn. Hoàng không ăn nhưng anh vẫn ngồi nơi chiếc bàn uống vang và hút thuốc. Anh đã hút cả chục điếu thuốc từ chiều và gói Pall Mall đỏ nằm trên mặt bàn ăn nay đã gần xẹp. Anh đã uống hơn nửa chai rượu và anh thấy hơi say. Anh định bụng đi một vòng ra ngoài hàng hiên để cho gió biển làm cho anh bớt khó chịu. Anh không muốn về phòng mặc dù đã hơn mười giờ đêm. Bình thường ra, anh có thể dành phần buổi tối còn lại đọc sách hay coi truyền hình, nhưng đêm nay lời thủ thỉ của Loan Anh vẩn còn lơ lửng bên tai anh, vừa làm anh nhớ nàng vừa gieo một cảm giác ghê rợn trong lòng anh. Anh kêu bồi bàn tính tiền rồi đứng dậy bước đi.

Khi vừa bước tới ngượng cửa đưa ra hàng hiên, cơn gió thổi mạnh làm cho anh bật trở lại. Anh ngã người gần muốn té nhưng đã cố đứng bật dậy. Anh bám vào tường, mon men đi tới, trong đầu anh tính ra đứng ngoài này chừng năm phút đợi cho anh tỉnh trí rồi sẽ trở vào phòng khách ngồi nghỉ. “Không có em bên mình, về phòng ngủ làm gì cho thêm cô đơn? Loan Anh của mình đâu mà hẹn không thấy đến?” anh nghĩ trong đầu.
- Anh đứng ngoài này làm gì vậy? Em đi tìm anh muốn chết!

Tiếng Loan Anh sau lưng làm anh vừa giật mình vừa cảm thấy sung sướng. Em đã đến với anh đúng lúc anh cần có em bên anh nhất, vì anh đã mòn mỏi chờ em, vì anh đã hết chịu nổi sự vắng bóng em rồi.
- Em đến lúc nào mà anh không hay?
- Em đi một vòng tìm anh mà không thấy. Em chờ anh cũng cả tiếng đồng hồ rồi đó! Em bắt đền anh! Anh để em ngồi ăn một mình, anh đâu có biết đâu?
- Anh xin lỗi Loan Anh. Không hiểu chiều nay anh làm sao ấy!
- Làm sao là làm sao? Anh lại uống rượu hơi quá chứ gì? Em đã khuyên anh nên ngừng khi thấy say, anh có nghe em không vậy?
- Anh buồn vì không có em bên anh. Vắng em, anh chẳng còn biết làm gì hơn nữa!
- Thôi anh đừng buồn nữa. Em đây rồi, anh hãy ôm em đi, anh hãy hôn em đi, anh hãy ghì chặt em vào lòng đi. Anh làm em thương anh quá chừng!

Hoàng choàng tay ôm người yêu, kéo em vào sát bên mình. Anh cúi xuống hôn em như điên như dại, trên làn môi mọng của em, trên má em, trên đôi mắt nhắm nghiền của em. Anh chưa bao giờ cảm thấy sung sướng như bây giờ. Sức ấm từ người em làm cho anh ngây ngất, và trong anh bỗng dâng lên một sự thèm muốn dữ dội như chưa bao giờ anh thèm muốn như thế. Anh ghì chặt em trong vòng tay mình như thể anh sợ em lại bỏ đi, anh hít hà mùi da thịt em như thể anh sợ em không còn đó để cho anh hít hà nữa. Phảng phất từ thân người em là mùi Chanel No 5 mà anh ưa thích, anh đưa tay xuống xoa đùi em, mơn trớn làn da mịn, say sưa với cái cảm giác sung sướng ngây ngất anh đang chìm đắm vào. Anh thủ thỉ vào tai người tình:
- Em yêu, em yêu của anh ơi, anh chưa bao giờ thấy thương em hơn lúc này! Chưa bao giờ, chưa bao giờ, em biết không? Anh chưa thưong ai như thương em, em có biết không?

Hai đứa đứng dưới cơn gió lồng lộng ôm nhau cho bõ công chờ đợi nhớ nhung. Đã cả nửa năm nay Hoàng chưa được gặp lại Loan Anh. Hai đứa ở xa nhau hằng ngàn dặm, anh chỉ được gập người tình khi em đến được với anh. Mà Loan Anh thì đang gập bao nhiêu chuyện rắc rối trong gia đình, nhiều Khi tưởng như đã đổ vỡ đến nơi. Chồng em rất hay ghen mà em lại là con người nghệ sĩ, em rất đa tình đa cảm, em thích sống phóng khoáng, không muốn lệ thuộc vào ai. Sống trong một môi trường xã hội tự do bình đẳng, em có quan niệm cuộc đời riêng tư của em là thiêng liêng, em không muốn vì gia đình, chồng con mà phải hy sinh nó.  Em thích một cuộc sống độc lập, chồng em chỉ là một ràng buộc có tính cách xã hộ. Như những người đàn bà khác, em phải có chồng, thế thôi. Em sẵn sàng cặp tay chồng đi các buổi tiếp tân, để được thấy thiên hạ rầm rộ khen rằng em và chồng em vừa đẹp đôi vừa tràn trề hạnh phúc, vừa giàu sang vừa quí phái, và nhất là để những người đàn bà khác không đẹp bằng em, không tiếng tăm bằng em, và không có người chồng triệu phú như em, tức tối và ghen tị với em. Em thích nhìn bộ mặt sưng xỉa của những người đàn bà đó để tự thấy mình hơn họ vể mọi mặt.

Nhưng em sống tình cảm, em tràn trề hạnh phúc khi ở bên Hoàng, người em yêu tha thiết. Em chỉ hưởng những giây phút tuyệt vời, những cảm giác thần tiên, những rung động của cả thể xác lẫn con tim khi em nằm trong vòng tay anh mà thôi. Đối với em Quang Minh và Hoàng là hai thực thể khác biệt, có thể trái ngược nhau nhưng bổ túc cho nhau. Em muốn cùng một lúc có cả hai, vì em có hai nhu cầu. Nhưng Quang Minh không muốn chấp nhận như thế. Đã có lúc em nghĩ em phải dứt khoát với Quang Minh nhưng rồi nghĩ đi nghĩ lại, em thấy không được vì như thế em sẽ mất đi một phương diện, một yếu tố cần thiết cho cuộc sống. Còn dứt khoát với Hoàng thì em chưa hề bao giờ nghĩ tới, vì khi mất Hoàng, em sẽ mất phần tình cảm, phần chính của đời em. “Sống mà không yêu đương thì còn sống làm gì?” em tự hỏi.

Hoàng biết rõ hoàn cảnh của Loan Anh. Anh hiểu rằng người yêu một phẩn thuộc về anh và một phần khác thuộc về xã hội. Anh chỉ là yếu tố tình cảm con người trong cuộc sống của Loan Anh và Quang Minh, chổng em  là yếu tố xã hội. Đôi khi anh đã ghen tuông với Quang Minh, anh đã muốn em là hoàn toàn của anh, nhưng ngay sau đó anh đã ý thức lại, anh đã thấy đâu có thể như thế được. Vì thế mà anh phải chịu, anh phải chấp nhận tình trạng khó khăn, anh phải chịu sự nhớ nhung, và đôi khi sự dằn vặt khổ sở.
- Anh nghĩ gì mà thẫn thờ như thế vậy anh?

Tiếng Loan Anh bỗng kéo anh trở về với thực tại. Anh, như kẻ bị bắt gặp quả tang đang phạm lỗi, bèn ấp úng:
- Đâu có! Anh đang mơ mộng một chút, có thế thôi…
- Anh Hoàng à, hôm nay em có một việc quan trong muốn nhờ anh giúp…
- Chuyện gì em muốn anh làm, anh cũng sẽ làm mà. Đâu cẩn phải quan trọng…
- Anh cho em nói đi anh. Việc này, em phải nhờ đến anh vì em không còn ai để nhờ.

Nghĩ một chút như để cho người yêu tỉnh trí và chú ý đến lời mình, em nhìn thẳng vào mắt anh nói tiếp:
- Em muốn anh chứng kiến một cảnh tượng khá ghê rợn, một cảnh giết người...

Hoàng liển nghĩ trong đầu: “Em chuyên viết truyện trinh thám, chắc em lại muốn cho mình coi một  đoạn phim mới nhất của em đây! Em muốn biết ý kiến của mình chứ gì?"
- Không phải thế đâu anh à! Đây là một cảnh tượng có thật đã xẩy ra cách đây một tháng ....

Hoàng bỗng giật mình, anh thấy rợn tóc gáy và hơi rùng mình: “Làm sao em biết được điều mình đang nghĩ trong đầu mà nói thế? Không lẽ em đọc được tư tưởng của mình sao?"
- Em muốn anh chú tâm nghe em nói. Em đã thưa với anh lúc nãy, đây là một việc rất quan trọng em phải nhờ đến anh...
- Em nói đi, anh nghe em đây...
- Chuyện giết người này xẩy ra chỉ cách đây chục cây số. Một người chồng đã giết vợ mà không ai hay biết. Em muốn đưa anh đến nơi xẩy ra vụ án mạng. Anh cẩn biết chính xác vị trí đó..
- Ừ, thì em đưa anh tới nơi đó. Anh sẽ nhớ vị trí... Chừng nào em muốn anh đi với em?
- Em muốn mình đi bây giờ, có được không anh?
- Bây giờ? Sao gấp thế hả em? Anh đang muốn....
- Em biết anh đang muốn gì. Em yêu anh đã năm năm nay, có gì anh muốn mà em không biết đâu? Nhưng em đã thưa với anh rằng đây là một việc quan trọng, cần phải làm liền. Anh chiều em một tí đi mà...
- Ừ, em muốn anh đi thì anh đi thôi, nhưng sau đó...
- Sau đó anh muốn gì em cũng chịu.

Khi ra đến sân, anh mở cửa xe và tính ngồi nơi bánh lái, nhưng em nói:
- Anh để cho em lái, như thế em khỏi phải chỉ đường cho anh. Nhưng lúc về thì anh sẽ lái về nghe anh.

Loan Anh đưa anh đi đến một nơi vắng vẻ, ngay chỗ một cạnh sườn núi đâm thẳng xuống biển. Nơi đấy là một đường cụt, xe không còn lối nào đi tới và từ đó trở đi biển ăn vào tới chân núi. Đứng bên đường nhìn xuống bờ biển đến tận xa tít chỉ là những tảng đá khỗng lồ lởm chởm, nơi sóng vỗ ầm ầm làm sủi bọt trắng xoá. Hoàng đã đến nơi đây sáng ngày hôm trước, anh đã đứng nơi Loan Anh và anh đang đậu xe bây giờ, ngắm cảnh hùng vĩ của thiên nhiên, một bên là biển rộng bao la, nước xanh một mầu xanh biếc, một bên là dãy núi cao hùng vĩ. Du khách thường hay ngừng xe nơi đây để thưởng thức thắng cảnh, để nghe tiếng sóng biển vỗ về, và  để hít thở không khí trong lành. Nhưng bây giờ trong đêm tối mịt mờ, không có một ánh sáng nào ngoài đốm lửa nơi đầu điếu thuốc anh đang ngậm trên môi. Loan Anh đã tắt đèn và tắt máy xe, xung quanh anh trời tối đen như mực. Ngay cả Loan Anh ngồi kế bên, anh cũng không thấy mặt. Nếu bây giờ vì một lẽ gì em biến đi thì anh cũng chẳng biết được. Đêm nay trời đang có cơn giông nên chẳng có tí trăng sao nào. Giá mà không có cơn bão hồi chiều và có ánh trăng chiếu sáng thì quang cãnh sẽ thật là thần tiên, và dĩ nhiên thiên hạ đã lái xe đến đây ngồi hóng mát. Nơi đây nổi tiếng là chỗ tụ họp của những cặp nhân tình. Họ đưa nhau đến đây để vừa yêu nhau vừa ngắm cảnh.
- Anh hãy nhìn kỹ nơi đàng kia, ngay trước mặt mình. Khi những tia chớp phựt sáng lên, anh sẽ thấy một cảnh tượng hãi hùng. Anh hãy ghi nhớ những gì mắt anh thấy nghe anh...

Hoàng có cảm giác giọng nói của Loan Anh tự nhiên lạnh lùng, một giọng nói vô cảm làm cho anh vừa thấy lạ vừa thấy ghê rợn như thể nó báo hiệu một cái gì khủng khiếp sắp xẩy ra trước mắt anh. Anh lại có cái cảm giác hồi chiều, cảm giác điện giựt sau cột sương sống như thể một luồng điện chạy tuốt lên tận óc làm dựng tóc gáy, nổi da gà. Anh rùng mình hai ba cái và vừa lúc đó ánh chớp lóe lên liên hồi chiếu sáng cả vùng trời mênh mông trước mặt. Và anh thấy cái cảnh tượng hãi hùng mà Loan Anh đã báo trước.

Anh thấy một chiếc xe  lớn loại sang, một chiếc Lincoln hay Cadillac gì đó đậu cách xa anh khoảng hai trăm thước. Cánh cửa xe mở ra và một cặp vợ chồng còn trẻ, tuổi chừng bốn mươi, bốn lăm, ăn mặc thật sang trọng bước xuống. Anh không thấy mặt người đàn bà nhưng anh thấy giáng người rất quen, chắc chắn anh đã thấy nàng nơi đâu. Nàng mặc một chiếc váy mầu đỏ xậm, đi đôi giầy cao gót, trên vai có một khăn choàng cổ mầu đen. Tướng nàng đi thật khoan thai, nhìn nàng anh cứ ngờ ngợ. Anh cố moi óc xem nàng là ai, anh đã gập nơi đâu, nhưng không hiểu vì một lẽ gì, anh cảm thấy đầu anh nặng chĩu, tâm trí anh mù mờ, như thể một lớp xuơng mù bao phủ óc anh, ngăn cản anh nhận diên người đàn bà có giáng đi thật quí phái kia.

Anh không biết người đàn ông đó là ai. Anh chỉ biết ông ta mặc một bộ đồ complet sang trọng mầu xám đen, đi giầy đen, và tướng đi rất chững chạc. Anh thấy ông nắm tay nàng, hai người đi gần lại bờ vực đâm xuống biển. Anh không biết lúc đó biển ra sao, có sóng lớn hay không, nước biển có sủi bọt trắng xoá hay không vì phần anh không thấy được, phần anh còn đang chú tâm theo dõi cặp vợ chồng. Anh thấy hai người đứng nơi đó, ngay sát vực thẳm, và tim anh hồi hộp vì lỡ họ chóng mặt ngã xuống thì sẽ toi mạng. Có lẽ họ đang ngắm cảnh, người đàn ông đứng sau lưng người đàn bà, hai tay ôm eo nàng như thể một cặp tình nhân đang âu yếm nhau. Không biết họ có nói với nhau câu gì hay không, anh thấy họ cứ đứng yên đó, không cử động chừng năm phút.

Rổi bỗng nhiên, tim anh như thót lại, miệng anh như muốn hét lớn lên nhưng không hét được, anh trố mắt nhìn chừng chừng như thể anh đang lên cơn điên. cảnh hãi hùng anh chờ đợi đã xẩy đến. Anh thấy người đàn ông từ từ nhấc đôi cành tay lên ngang vai người đàn bà, anh thấy rõ ràng như trong một đọan phim quay chậm lại, đôi tay đó đẩy mạnh về phiá trước, người đàn bà hét lên một tiếng hét rùng rợn kéo dài cả phút đồng hồ, anh thấy nàng ngã về phiá trước, chậm chạp, để rồi bóng giáng nàng biến mất khỏi ánh mắt anh.

Anh thấy người đàn ông bình thản cúi đầu nhìn xuống vực thẳm, sau đó ông lẳng lặng trở lại nơi chiếc xe đậu. Ông mở cánh cửa, ngồi vào ghế. Cánh cửa xe xập lại rồi chiếc xe từ từ lăn bánh. Nhưng tia chớp không còn lóe lên nữa, xung quanh hoàng chỉ còn là bóng tối. Giọng nói lạnh lùng anh đã nghe trước đó chừng mươi phút lại vang lên bên tai anh:
- Anh Hoàng, anh đã chứng kiến vụ một người chồng giết người vợ mà cho đến giờ không ai hay biết.

Giọng nói ngừng lại như để lấy thêm sức, vì anh có cảm tưởng như càng ngày nó càng yếu dần. Trong bóng tối anh không thấy Loan Anh ngồi bên anh, nhưng tự nhiên anh thấy hồi hộp lạ. Anh cảm thấy một sự đau đớn xâm nhập hồn anh, anh thấy nước mắt anh như muốn trào ra, anh muốn nói một câu gì nhưng anh không mở được miệng, và anh thấy trong cái giây phút đau thương đó anh bất lực, anh hoàn toàn bất lực.
- Em muốn sáng mai anh đến bót cảnh sát báo cáo vụ ám sát này. Bây giờ em có thể cho anh biết người đàn bà bị chồng giết đó là ai...

Tim anh nhói lên như thể hàng vạn mũi kim đang đâm vào, cả thân anh run lên bần bật, đầu anh nhức như búa bổ, anh tự nói trong thâm tâm, “Anh không muốn biết, anh không muốn biết đâu. Anh van em, xin em đừng nói, anh van em... anh van em...“ Nhưng giọng Loan Anh vẫn văng vẳng bên tai anh:
- Anh Hoàng, Minh đã giết em anh ơi! Hắn đã giết em! Hắn đã giết em! Em muốn anh tố cáo hắn, em muốn hắn phải đền tội. Em đã chết oan, xin anh cứu cho hồn em...anh yêu ơi em xin giã biệt anh, em xin giã biệt anh, người em yêu ngút ngàn... em giã biệt anh yêu, anh ơi, em đã thương anh cho đến phút chót của cuộc đời em, anh có biết không, anh có biết không...

Khi tiếng nói tan đi trong không gian thì một tia chớp lại loé lên. Hoàng nhìn sang chiếc ghế trống trơn bên cạnh. Loan Anh, người tình bé nhỏ của anh, đã vĩnh viễn ra đi, anh sẽ không còn bao giờ gặp lại nàng. Anh nói khẽ như muốn để cho nàng nghe:

- Anh hứa sẽ trả thù cho em, anh hứa sẽ làm đúng như lời em dặn, Loan Anh ơi, anh cũng sẽ yêu em cho đến khi anh chết. Đối với anh, em là tất cả, em là linh hồn, em là niềm sung sướng, em là tình yêu, em là lẽ sống. Em đi rồi, anh còn ở lại làm gì hả em? Em ơi ….em ơi ….anh cũng yêu em ngút ngàn, em có biết không……………

Hướng Dương txđ


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 15/Apr/2019 lúc 10:45am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Apr/2019 lúc 9:47am

Mây Tóc

“Hot%20girl%20toc%20may”%20goc%20Viet%20khien%20cac%20co%20gai%20ganh%20ty%20vi%20qua%20xinh


Tuân thấy mái tóc ấy lần đầu tiên vào năm chàng 16 tuổi. Nhà chàng ở trên đường Lê Văn Duyệt, con đường đầy xe cộ và bụi bặm, mỗi buổi sáng nghẹt ứ với xe chở hàng, xe đạp, gắn máy, chen chúc với những xe thổ mộ kéo nặng nhọc bởi những con ngựa gầy giơ xương. Trước cửa nhà Tuân là trạm xe buýt chạy suốt con đường Lê Văn Duyệt lên trung tâm thành phố. Những chuyến xe buýt đầy nhóc người với khách đi xe dồn ra đầy hai bên cửa lên xuống, phần lớn là thanh niên đu đưa bám vào chấn song như những con khỉ lắc lư. Các cô thiếu nữ hay những người già cả gặp những chuyến xe này đều phải đợi lại một hoặc hai chuyến sau mới có chỗ lên được.

 

Tuân thường có thói quen mỗi sáng vừa ngồi ăn sáng đợi xe vừa nhìn ngắm đám đông tụ tập quanh cột xe buýt trước cổng nhà. Giờ chàng sắp đi học cũng là giờ các học sinh, phần lớn thuộc trường Nguyễn Bá Tòng đứng đợi xe và năm ấy Tuân đã bắt đầu để ý đến các cô nữ sinh áo dài trắng đứng xúm xít trước cổng sân nhà. Các cô thường đứng tụ với nhau thành một đám, chuyện trò ríu rít hoặc đứng yên lặng vừa đợi xe vừa ăn những nắm xôi của hàng quà chiếm cứ thường trực trước cửa nhà Tuân đã nhiều năm nay. Tuân thường chỉ thấy những tấm lưng của các cô thiếu nữ với những chiếc áo dài trắng đơn sơ và chàng cũng chỉ muốn nhìn có vậy. Tuân vẫn ít khi dám nhìn thẳng mặt các cô nữ sinh đồng lứa tuổi từ khi chàng bắt đầu dậy thì. Ngày đầu tiên Tuân thấy mái tóc, chàng vẫn nhớ rõ mồn một trong ký ức hầu như chẳng bao giờ phai nhạt.

 

Buổi sáng hôm ấy Tuân dậy muộn và sau khi đã ăn sáng và sửa soạn xong để đi học, chàng đứng khựng lại vì trong đám vài ba thiếu nữ áo dài trắng đứng quay lưng lại trước cửa nhà Tuân là một mái tóc dài lạ lùng. Người thiếu nữ với mái tóc đập ngay vào thị giác của Tuân chắc mới dọn đến xóm nhỏ bên hông nhà chàng và lần đầu tiên đứng đợi xe buýt đi học trước cửa nhà. Tuân đứng lặng người nhìn. Mái tóc dài đến gần gót chân, đen óng ánh trong nắng buổi sáng, dầy và mướt; mái tóc như một sinh vật có một đời sống riêng, lượn khúc và uốn éo mỗi khi người thiếu nữ cử động hay xoay mình. Tuân như bị thôi miên nhìn không chớp mắt. Chàng cảm thấy cảnh vật chung quanh như bỗng dưng trở thành bất động với tất cả mọi người và đời sống bên ngoài như vô tri, vô giác, chỉ còn chàng và người thiếu nữ với mái tóc dài kỳ lạ hiện hữu trên mặt đất này. Tiếng động ồn ào ngoài cổng cũng tự dưng trở nên im bặt, yên lặng một cách đe doạ như sự yên lặng của trời đất trước khi giông bão đổ đến. Tuân bỗng cảm thấy mường tượng như đời chàng từ đây cũng sẽ bắt đầu thay đổi lớn lao, với đời sống bình yên của 16 năm trước được thay thế bằng bất trắc và sóng động.


Khi chiếc xe buýt dừng lại và đám nữ sinh với người thiếu nữ tóc dài bắt đầu bước lên xe, Tuân như bừng tỉnh, chàng chạy vội ra và chen vào đám người đang giành lên xe ở cửa sau. Chàng cẩn thận lên xe cửa sau để tránh nhìn thẳng mặt người thiếu nữ tóc dài chàng tin chắc là đẹp tuyệt trần. Người có mái tóc dài đẹp kỳ lạ như vậy dĩ nhiên cũng phải đẹp khác thường. Tuân tự nhủ mình như vậy. Chàng thấy mình cũng chẳng cần vội vã gì biết mặt ngay và quả thật mái tóc của nàng là trung tâm điểm của tất cả sự chú ý và rung động của Tuân, chàng cũng chẳng thấy cần gì hơn là đứng sau lưng nàng, cách quãng chừng vài người đứng ở lối đi giữa hai hàng ghế ngồi, lặng lẽ dán mắt vào mái tóc dài, chăm chú nhìn vô hồn như người tử tội buổi sáng đứng nhìn sợi dây treo cổ buộc sẵn ở ngoài sân. Suốt quãng đường chiếc xe buýt dừng lại với khách lên xuống dọc đường Lê Văn Duyệt kẹt cứng, Tuân có dịp để ý kỹ hơn về người thiếu nữ. Nàng cao thanh thoát trong chiếc áo dài trắng cắt sát gọn với dáng uyển chuyển hơi có vẻ quý phái, tương phản một cách rõ rệt với sự thô kệch của người và cảnh vật chung quanh trong chuyến xe buýt buổi sáng hôm đó. Nàng chắc học trường Nguyễn Bá Tòng vì Tuân thấy nàng đứng với vài ba cô nữ sinh khách quay mặt về phía Tuân với phù hiệu của trường trên ngực áo. Xe dừng lại trước ngã ba đường Lê Văn Duyệt và con đường nhỏ dẫn đến trường.

 

Các cô nữ sinh lục tục đi xuống. Tuân vội vã quay mặt đi để tránh nhìn mặt nghiêng bên phải của người thiếu nữ tóc dài. Khi xe bắt đầu chuyển bánh, Tuân mới quay lại nhìn và hình ảnh của người thiếu nữ với mái tóc dài gần chấm gót đi cùng với mấy người bạn trên con đường nhỏ với hai hàng cây me cao tàn lá phủ là hình ảnh Tuân chắc sẽ ở mãi mãi với chàng trong ký ức sâu thẳm nhất. Mái tóc dài lung linh, gợn sóng chàng thấy không phải như con suối chảy nhưng như một làn mây bay – Mây tóc. Tuân cảm thấy tương đối hài lòng với sự so sánh của mình, thực sự chàng nghĩ, không có hình ảnh hay từ ngữ nào có thể diễn tả được sự rung động của chàng đối với mái tóc của nàng, và chàng đứng đó trên chiếc xe buýt chạy ngang qua con đường nhỏ, ghi nhận với tất cả tâm hồn và tư tưởng của mình dõi theo trong một thoáng của thời gian, mái tóc dài huyền ảo như một thứ định mệnh đã đi vào cuộc đời chàng, thay đổi tất cả, đưa chàng vào một cuộc đời khác, một cuộc đời và một thế giới khác lạ, tương phản và kỳ diệu, với sung sướng và đau khổ, với đi tìm và trốn chạy, với chấp nhận và gạt bỏ.

 

Tuân đứng xuất thần với những cảm giác mới lạ và những ý nghĩ chạy vùn vụt qua trong óc đến khi chuyến xe dừng lại trước trạm xe trước bùng binh, chàng mới sực tỉnh và xuống xe đi bộ đến trường. Kể từ hôm đó, đời chàng và mái tóc dài như gắn liền mỗi buổi sáng đi học, Tuân vẫn đứng sau lưng người thiếu nữ trên chuyến xe buýt ngắm nhìn mái tóc riêng của chàng, say sưa và no đủ như một buổi ăn mỗi ngày không biết chán. Chàng cẩn thận để tránh nhìn thẳng vào mặt người thiếu nữ và lâu dần như một phản xạ chàng như phát triển được linh tính để báo trước cho chàng biết mỗi cử động quay mặt của người thiếu nữ để chàng kịp thời nhắm mắt lại hay quay người đi. Trong suốt một năm học đó, người thiếu nữ với mái tóc dài đều đặn đi học bằng xe buýt và Tuân sung sướng với những ngày đi học, đợi chờ để mong sớm đến sáng hôm sau và thù ghét những ngày nghỉ cuối tuần hay ngày lễ.
Đầu tiên, Tuân không dám nhìn mặt người thiếu nữ tóc dài vì nhút nhát, chàng cảm thấy sợ hãi những người con gái trong lứa tuổi chàng đầy nhí nhảnh và duyên dáng; Tuân cảm thấy một hấp lực mạnh mẽ lôi kéo nhưng đồng thời cũng cảm thấy sợ hãi vì sự lôi cuốn đó. Từ ngày gặp người thiếu nữ với mái tóc dài phủ gót, chàng càng cảm thấy sự hấp dẫn nhưng sự sợ hãi của chàng lại càng tăng thêm. Tuân đã nhiều lần đứng sát ngay sau lưng gần như chạm hẳn vào mái tóc, mũi chàng đã ngửi thấy mùi hương đặc biệt của người thiếu nữ. Tuân đứng tận hưởng sự gần gũi của chàng với mái tóc dài bằng tất cả giác quan và ý thức của chàng, nhưng đồng thời cũng cảm thấy lòng dằng co mãnh liệt giữa những sợ hãi tự nhiên và ý muốn được biết mặt người con gái. Tuy vậy lần nào cũng thế, vào phút chót Tuân vẫn không đủ can đảm để xem mặt nàng.

 

Lâu dần khi tình yêu của chàng đối với mái tóc một ngày một tăng. Tuân lại nhận thấy một điều khác lạ. Chàng tưởng tượng ra những khuôn mặt đẹp tuyệt trần với mái tóc kỳ diệu chàng đang say mê, và mỗi đêm trước khi đi ngủ với hình ảnh mái tóc bồng bềnh bay phủ, chàng thấy bay lượn những hình ảnh tuyệt vời của những người đẹp toàn mỹ đưa chàng vào giấc ngủ. Tuân bắt đầu cảm thấy lo ngại và sợ hãi, lần này không phải là sự sợ hãi của một chàng thanh niên mới lớn với một cô gái nhưng là sự sợ hãi cho một sự thất vọng chàng nghĩ rằng sẽ không thể sống nổi nếu mái tóc dài kỳ diệu của chàng thuộc về một người dưới mức độ chàng tưởng tượng.

 

Niên học đã gần hết Tuân bắt đầu phải sửa soạn để thi Tú Tài và chàng tự nhủ với lòng sẽ nhất quyết xem mặt người thiếu nữ tóc dài vào những tuần lễ cuối của niên học. Chàng không biết nàng học lớp mấy và niên học đến có tiếp tục đi xe buýt đến trường nữa không. Tuân mất gần đến mấy tuần lễ mới quyết định được sau khi đắn đo và trằn trọc nhiều đêm. Trong khoảng thời gian này, tình yêu của Tuân càng gia tăng mãnh liệt, chàng hầu như tê liệt hẳn mỗi buổi sáng đứng sau lưng nàng trên chuyến xe buýt. Người thiếu nữ hình như cũng linh cảm thấy sự hiện diện của chàng, nhiều lần nàng gần như quay đầu lại để quan sát nhưng Tuân vẫn kịp thời quay người sang chỗ khác và chưa lần nào ánh mắt của hai người chạm nhau. Tuân có thể chỉ thấy một vài lần thoáng một chút gò má hồng của người thiếu nữ, làm chàng càng bị kích thích nhiều hơn nữa, nhưng tựu trung khuôn mặt của nàng thiếu nữ tóc dài vẫn hoàn toàn là một bí mật đối với Tuân; một bí mật làm tình yêu của chàng đối với mái tóc kỳ lạ càng ngày càng mãnh liệt, một bí mật chàng trìu mến và sợ hãi, đồng thời cảm thấy một nhu cầu che chở như người tu sĩ với lòng tin vào một sức mạnh siêu nhiên bảo vệ cung điện thờ thần bí.

Tuần lễ cuối cùng của niên học Tuân đã chọn để xem mặt người thiếu nữ tóc dài; tuần lễ đó đến như một thảm họa cho đời chàng. Người thiếu nữ đột nhiên biến mất. Ngày này qua ngày khác, Tuân đợi từng chuyến xe buýt trễ đến cả một hai tiếng đồng hồ vẫn không thấy nàng xuất hiện. Tuân như điên cuồng, lúc đầu chàng cho rằng nàng ốm hoặc bận việc gì đó nghỉ một hai ngày, nhưng hết tuần và sang đến những tuần lễ sau khi các trường đã vào hè chàng bắt đầu thấy tuyệt vọng. Hình ảnh của mái tóc dài phủ xõa hiện lên thường trực trong đầu óc chàng với một niềm đau đớn và xót xa. Mỗi buổi sáng ngồi ăn sáng và học bài thi chàng nhìn ra ngoài cổng xem từng chuyến xe buýt dừng lại và đi, thiếu người thiếu nữ áo dài trắng với mái tóc dài phủ gót, chàng thấy ngực đau nhói và khó thở, nỗi nghẹn dâng dần dần lên trên lồng ngực.

 

Tuân thấy mọi sự như trống rỗng, không còn ý nghĩa gì cả. Mùa thi năm đó, chàng chỉ vừa đủ điểm để đậu làm cho tất cả mọi người ngạc nhiên vì ai cũng nghĩ chàng sẽ phải đậu rất cao, nhưng Tuân nào có thiết gì. Tuân cương quyết từ chối không đi du học dù gia đình chàng đã sửa soạn tất cả và nài ép cho bằng được. Chàng muốn ở lại để có cơ hội gặp lại được người thiếu nữ tóc dài mặc dù trong thâm tâm chàng hầu như đoán biết sẽ không bao giờ gặp lại. Tuân lên đại học vào một ngành chuyên môn để chiều lòng gia đình nhưng đối với chàng học ngành nào cũng vậy. Chàng để tâm hơn vào hội họa và những giờ rảnh rỗi chàng lại nhà một họa sĩ nổi tiếng thân tình với gia đình chàng để học vẽ. Sau vài năm chàng đã bắt đầu vẽ được nhiều tranh có giá trị và sau khi hoàn tất bức tranh người thiếu nữ với mái tóc dài phủ gót với mấy người bạn nữ sinh trên con đường hai hàng me cao và tàn phủ rợp lá, người họa sĩ thân gia đình tuyên bố không còn gì để chỉ bảo thêm cho chàng nữa.

 

Những năm dài đằng đẵng trên đại học cũng không làm cho Tuân quên được hình ảnh người thiếu nữ với mái tóc dài. Phòng chàng treo đầy những tranh thiếu nữ với tóc dài phủ gót, nhiều tranh với những khuôn mặt đẹp một cách kỳ lạ hoặc thần bí, nhưng phần lớn là tranh vẽ sau lưng người thiếu nữ không có khuôn mặt. Phần linh động nhất vẫn là mái tóc chàng vẽ bềnh bồng bao phủ như một đám mây bay. Mặc dù người họa sĩ già thầy dậy nhiều lần giục chàng trưng bày tranh, chàng vẫn một mực từ chối, cảm thấy rằng tình yêu của chàng đối với mái tóc là của riêng chàng, không muốn chia sẻ với nhiều người khác. Càng những năm về sau Tuân càng cảm thấy niềm hy vọng gặp lại người thiếu nữ tóc dài càng giảm dần, chàng nhiều lần đi lại hàng giờ trong các khuôn viên đại học, Tuân nghĩ nàng có thể sẽ theo học: Văn Khoa, Luật Khoa, Sư Phạm… nhưng đều hoài công vô ích.

 

Một lần vào lễ Giáng Sinh khi dự lễ nửa đêm ở nhà thờ Đức Bà, chàng thoáng thấy bóng người thiếu nữ với mái tóc dài phủ gót từ đằng xa. Tuân mừng rỡ như điên cuồng, chàng chen vội lên nhưng người đi ra lễ quá đông, khi chàng đến nơi người thiếu nữ tóc dài đã biến mất. Tuân đi khắp các con đường cả đêm hôm đó nhưng bóng người thiếu nữ vẫn biệt tăm. Lần đó Tuân ngẩn ngơ đến cả mấy tháng trời. Hình ảnh mái tóc dài và người thiếu nữ như ẩn như hiện trong những giấc mộng của chàng mỗi đêm và ban ngày chàng phải dùng hết nghị lực mới tập trung trí tưởng được trong việc học.
Lần cuối chàng được gặp lại mái tóc dài cũng là ngày chàng và bao nhiêu người khác rời bỏ đất nước. Năm đó chàng vừa ra trường và gia nhập quân đội được vài tháng. Những ngày cuối cùng biến loạn của đất nước, Tuân may mắn chạy về được Sài Gòn và ngày đó Tuân thấy lại được mái tóc dài chàng ấp ủ trong tâm tưởng. Chàng vừa dừng xe lại vì đám đông tại tòa Đại Sứ Mỹ một ngày một đông. Trên nóc tòa nhà là chiếc trực thăng cánh quạt thổi vù vù với những người lính thủy quân lục chiến Mỹ đẩy người lên. Tuân đứng như bị thôi miên trong khung cảnh náo loạn chung quanh. Chàng chợt thấy bóng người thiếu nữ với mái tóc thật dài đang được người lính Mỹ kéo lên. Mái tóc dài bị những cơn gió từ cánh quạt trực thăng thổi tung bay. Tuân nhìn không chớp mắt, lòng chàng như chùng hẳn xuống, những tiếng hò hét hỗn loạn bên ngoài như xa dần, trước mắt chàng chỉ còn thấy mái tóc như đám mây phủ bay cuồn cuộn và người thiếu nữ dáng thanh thoát đang biến mình vào trong lòng chiếc trực thăng đen đủi và xấu xí. Tuân thấy đau nhói ở ngực, định mệnh lại bắt chàng một lần nữa lìa xa hình ảnh vừa tìm gặp lại được trong một thoáng giây ngắn ngủi.

 

Tuân rời Việt Nam ngay ngày hôm đó và như những người tỵ nạn khác chàng bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống đầy hoang mang và bỡ ngỡ. Chàng tìm được một chỗ thực tập lại ngành chuyên môn của mình trên New York và sau hai năm Tuân đã thấy mình thảnh thơi trong sự tranh sống được một phần nào. Chàng quen một người Do Thái làm nghề buôn bán các họa phẩm có phòng triển lãm tranh ngay tại Manhattan, và khi người bạn mới gốc Do Thái này thấy những bức tranh chàng đã cẩn thận cuốn lại và gói mang đi trong ngày cuối cùng của đất nước, đã khuyến khích chàng trưng bày tranh ngay tại phòng triển lãm của mình.

 

Tuân lấy làm khó nghĩ, chàng cảm thấy áy náy khi nghĩ đến chuyện những người khác nhìn vào tâm hồn của mình qua những bức tranh chàng vẽ riêng cho mối tình của chàng và mái tóc kỳ diệu, như một sự xúc phạm đến những gì đẹp nhất chàng hằng ấp ủ, làm tầm thường đi những cảm xúc của chàng. Tuy nhiên với sự thúc giục của người bạn và với ước muốn hão huyền biết đâu nhờ cuộc triển lãm chàng có thể gặp lại được người thiếu nữ tóc dài, Tuân sau cùng ưng thuận để triển lãm trong hai tuần.


Buổi ra mắt tranh của Tuân thành công rực rỡ với những lời khen ngợi không hết lời của các nhà phê bình, đặc biệt về bức tranh Mây Tóc vẽ hình ảnh thiếu nữ tóc dài trên con đường đến trường học. Tuân thấy lòng dửng dưng với những lời khen ngợi, chàng nhất quyết không bán một bức tranh nào vẽ với hình ảnh mái tóc và người thiếu nữ trong trí tưởng.

 

Ngày cuối cùng của cuộc triển lãm khi trời vừa chập choạng tối, Tuân từ căn nhà trọ đến phòng tranh để thu tranh, chỉ còn lưa thưa vài người xem đang sửa soạn ra về. Tuân bàng hoàng khi thấy trong căn phòng hơi tối, đứng trước bức tranh Mây Tóc là người thiếu nữ với mái tóc dài phủ góc bằng xương bằng thịt quay lưng lại phía chàng, lặng lẽ ngắm bức tranh trên vách. Tuân thấy như trời đất thu nhỏ lại, mười năm từ ngày đứng sau lưng nàng trên chiếc xe buýt xọc xạch đến nay như chỉ là khoảng khắc. Chàng tiến lại gần đến sau lưng nàng và đứng lại. Người thiếu nữ vẫn bất động ngắm tranh, tóc nàng vẫn óng mượt và dầy như mười năm trước phủ dài đến gót chân. Tuân nhìn không chớp mắt, chàng thấy không gian như mờ đi, mường tượng như đám sương mù tỏa ra như tình yêu của chàng tiến dần về phía người thiếu nữ, bao phủ lấy mái tóc dài của nàng và sau cùng bao phủ cả thân hình thanh thoát. Tuân không biết thời gian đã trôi đi trong bao lâu, có thể cả giờ hay chỉ trong khoảng khắc, chàng vẫn đứng sau lưng nàng bất động trong tình yêu dâng dạt dào bên trong và bên ngoài thân xác.

 

Người thiếu nữ hơi cử động đầu như sắp quay lại, Tuân như bừng tỉnh và như một phản xạ ngoài ý thức, chàng vội vàng thốt lên:
– Đừng!
Người thiếu nữ đứng yên, Tuân nói trong hơi thở:
– Tôi là người vẽ bức tranh này.
Người thiếu nữ khẽ gật đầu và vẫn không quay đầu lại. Tuân cảm nhận thấy ngay trong cử động của nàng sự nhận biết mình là người trong tranh, và chàng mường tượng một cách mơ hồ như nàng đã biết tất cả về tình yêu của chàng, từ những ngày theo nàng mỗi sáng trên chuyến xe buýt đến những năm dài đằng đẵng trên đại học, tình yêu của chàng đã phủ ra ngoài không gian đến với nàng và được nàng nhận biết. Tuân nói tiếp và ngay khi vừa nói xong chàng cảm thấy câu nói thừa thãi:
– Tôi đợi em đã mười năm.
Người thiếu nữ như run lên, mái tóc dài của nàng như lượn theo làn sóng và nàng sửa soạn quay mình lại. Tuân nín thở, tim đập nhanh như muốn phá tan lồng ngực, lần này chàng không chạy trốn, chàng đứng lại để nhìn mặt Tình Yêu, để mười năm đi tìm kết tinh lại trong giây sao ngắn ngủi này, để không gian của cả trời và đất thu hẹp lại trong phòng triển lãm tranh nhỏ này, nơi chàng tìm gặp lại Tình Yêu, vĩnh viễn. Tiếng đứa nhỏ vang lên trong căn phòng như tiếng gọi từ nơi nào vọng lại:
– Mẹ! Mẹ!
Người thiếu nữ tóc dài quỳ xuống ôm cô bé con từ phòng bên cạnh nhào lại gần mẹ và Tuân đứng đó như một pho tượng đã trở thành muối lạnh, nhìn mây tóc xõa bay phủ che lấp cả khuôn mặt nàng, khuôn mặt của Tình Yêu chàng vẫn chẳng bao giờ được biết, mười năm về trước và cho đến hết cả cuộc đời chàng. Tuân quay lưng đi ra khỏi phòng triển lãm tranh. Ngoài trời tuyết cũng vừa bắt đầu rơi và những cơn gió lạnh từ cuối phố thổi dốc vào gáy chàng, lạnh như tình yêu buốt giá của cả một đời chàng đã biến thành mùa đông.

Nguyễn Đình Phùng



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 16/Apr/2019 lúc 10:05am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 17/Apr/2019 lúc 9:34am





ĐÁNG GIÁ KHÔNG ???..


Cạm bẫy xinh đẹp

Trong quán bar lạnh tanh. Sau khi ngồi xuống ghế, người đàn bà ngẩng đầu nhìn quanh một lượt. Đúng lúc ấy, ánh mắt của nàng và ánh mắt của Cao Đắc Thắng không hẹn mà gặp nhau. Giữa lúc Cao Đắc Thắng sắp phải rút lui vì ánh mắt của nàng chiếu tướng, thì nàng lại đột nhiên cười. Một nụ cười đôi chút phiêu lãng.

Cao Đắc Thắng như được khuyến khích. Chàng không chút do dự đứng phắt
dậy, tay cầm cốc, bước thẳng đến trước mặt nàng, nói:

- Nếu không phản đối, tôi có thể ngồi xuống cùng chị nói chuyện không?

- Muốn bao tôi chăng? - Đối phương tung ra một câu hỏi bất ngờ làm Cao Đắc Thắng bỗng bối rối.

- Hay là thích qua một đêm?

Cao Đắc Thắng cứng họng, lúng túng như gà mắc tóc.

- Tôi là Lâm Đạt! - Đối phương đột nhiên mau lẹ chuyển làn, chốc lát đã giải vây cho chàng.

- Tôi là Cao Đắc Thắng! - Tim của Cao Đắc Thắng đập bình thường trở lại

- Kết bạn lung tung với người khác giới ở nơi tứ chiếng, lẽ nào đàn ông không sợ nguy hiểm sao? Đàn bà nguy hiểm lắm đấy! Nàng hỏi một câu làm cho Cao Đắc Thắng cảm thấy khó hiểu vô cùng.

- Nguy hiểm! Tại sao lại nguy hiểm? Không! Trái ngược một trăm phần trăm, chỉ có ở bên cạnh đàn bà, những người đàn ông mới có cảm giác an toàn thật sự. Nếu bàn về nguy hiểm tôi lại cảm thấy rằng đàn ông còn nguy hiểm hơn đàn bà! Lâm Đạt tình tứ nhìn chàng.
Đến lúc này, Cao Đắc Thắng mới ý thức được mình đã quá lời, vội vàng lái sang chuyện khác:

- “Chị không định uống chút gì sao? Ở đây tôi rất quen, tôi gọi cho chị!”
- Một cốc rượu vang đá! Cảm ơn! - Lâm Đạt mỉm cười nhìn chàng.
Cao Đắc Thắng nghĩ bụng, đêm nay rõ ràng lại là một đêm khó quên. Lát sau, họ vừa uống vừa nói chuyện, tỏ ra rất tâm đầu ý hợp. Bất giác, Cao Đắc Thắng nhẹ nhàng cầm tay nàng hỏi:

- “Nếu không phật ý, có thể nói c ho tôi hay bàn tay nhỏ xinh xắn này
dùng để cầm cái gì nào?”.
- Dao! - Nàng nói cộc lốc.
- Chị là bác sĩ ngoại khoa ư? - Cao Đắc Thắng ngạc nhiên.
- Nếu nói rõ hơn thì đã từng là một bác sĩ ngoại khoa! Còn nay lại là một người phụ nữ chủ gia đình một trăm phần trăm! Sao, anh không tin à?
- Xin lỗi! Trong ấn tượng của tôi, bác sĩ ngoại khoa đều là những động vật máu lạnh. Mà chị …
- Lẽ nào tôi lại không máu lạnh ư?
- Không! Không! Trông chị dịu hiền làm sao, hơn nữa còn rất phong lưu thanh nhã nữa...
- Anh đã tưởng tượng tôi là một người hoàn mỹ như thế ư? …
- Đúng thế! Từ khi chị vừa bước chân vào cửa, tôi đã bị chị làm cho mê muội, hoàn toàn bị mê muội! - Cao Đắc Thắng đắm đuối nhìn thẳng vào mắt nàng, nói.

- Nhưng, tôi đã kết hôn rồi...
- Nói thật lòng, tôi thích những người đàn bà thành thục. Chỉ có đứng trước người đàn bà thành thục tôi mới cảm thấy mình là một người đàn ông ra trò.
Người đàn bà áo đen khanh khách cười, má ửng hồng.
Giữa lúc tay Cao Đắc Thắng muốn đưa ra một lần nữa, thì nàng đột nhiên đứng bật dậy, nói:
-"Xin lỗi! Muộn quá rồi! Tôi nghĩ tôi nên ra về!".
Nói xong, nàng quay người lướt đi như bay.

Cao Đắc Thắng bỗng như ngây như dại. Chàng cảm thấy đau khổ quá, thậm chí còn có một cảm giác bị lừa dối, bị bỡn cợt. Chính giữa lúc Cao Đắc Thắng bải hoải tâm hồn, ngồi ủ dột, thì Lâm Đạt lại bất ngờ quay lại. Nàng nói:
- "Sao? Anh không muốn cùng đi với tôi à?".

Lát sau, hai người cùng ra khỏi cửa hàng...
- Nếu chàng không ngại gì, em mời chàng đến nhà em coi thử!
- Thật thế ư? - Cao Đắc Thắng hơi do dự.
Lâm Đạt cười, nói: - "Đừng lo! Chồng em, anh ấy thường không ở nhà!".
- Thế à? - Cao Đắc Thắng nghe vậy mới yên tâm.
- Nhưng trước khi lên xe, em có một điều kiện! - Nàng nói.
- Điều kiện gì nào?
- Trước khi tới nhà, em phải bịt kín hai mắt anh lại!
- Tại sao phải làm như vậy? - Cao Đắc Thắng ngạc nhiên, hỏi.

- Bởi vì, chồng em là một người có địa vị cao. Em không muốn do một sơ suất nhất thời của mình, mà đem lại bất cứ một phiền phức không đáng có nào.
- Em sợ sau khi biết nhà của em, biết đâu một lúc nào đó anh lại mò đến
tìm em? - Cao Đắc Thắng có vẻ giận dỗi, nói.
- Em đâu có nói anh đúng là loại người ấy! Song, một người ở vào bối cảnh gia đình như vậy, thì biện pháp đề phòng nhất định là không thể thiếu, nếu không, cuối cùng người bất hạnh chỉ có thể là một mình em! Lâm Đạt nhẫn nại giải thích.
- Sao không thuê phòng ở khách sạn chẳng hạn.
- Không được! Em thường cùng chồng em xuất đầu lộ diện ở những nơi công cộng, cho nên số người biết em rất nhiều, nếu bị họ phát hiện ra, thì em sẽ gay to!

Cao Đắc Thắng vẫn còn do dự.
- Anh Cao! Xin cứ tin vào em! Em làm như vậy cũng là bất đắc dĩ. Nói thật nhé, tối nay, em cũng như anh, cũng muốn có một người ở bên cạnh, nếu không thì vừa rồi em đã chẳng quay lại tìm anh nữa. Em biết, em làm như vậy là rất ngốc, rất manh động, biết đâu chẳng đem lại nguy hiểm chơi lửa đốt mình. Song, em đã hết cách khống chế được mình...

Vừa nói, Lâm Đạt bất giác nắm lấy tay chàng, nước mắt ngân ngấn. Cao Đắc Thắng cảm động vô cùng trước câu nói của Lâm Đạt. Chàng đột nhiên ôm nàng vào lòng: -"Anh nguyện hy sinh tất cả vì em!".

Như thế là Cao Đắc Thắng đã lên xe của Lâm Đạt. Sau khi xuống xe, Lâm Đạt vẫn chưa tháo tấm vải đen che mắt Đắc Thắng, mà cứ dắt tay chàng đi chầm chậm trên con đường nhỏ trải đầy đá quạ. Bốn bề im lặng. Trong gió lạnh thoang thoảng mùi hoa thơm. Cao Đắc Thắng đoán đây là vườn hoa của nhà Lâm Đạt, xem ra nàng đâu có lừa dối mình.
Lát sau, nàng dẫn chàng leo lên mấy bậc thềm, sau khi qua cổng lớn, lại đi dọc một hành lang dài, mãi sau mới dừng lại.

- Bây giờ anh có thể mở to mắt rồi! - Lâm Đạt tháo mảnh vải đen che mắt cho chàng, tủm tỉm cười, nói. Cao Đắc Thắng dụi dụi mắt, ngẩng đầu lên nhìn, thì ra mình đã ở trong một phòng ngủ xinh xắn.
Cao Đắc Thắng lớ ngớ không biết làm gì, cứ đứng trơ ra đó.
Đột nhiên, từ phía sau Lâm Đạt đã ôm chặt chàng, mặt áp sát vào tấm lưng rộng của chàng, nũng nịu:
- Bây giờ, chẳng có ai đến quấy rầy chúng ta được nữa!

Cao Đắc Thắng quay người lại, nâng mặt nàng lên, hôn thắm thiết. Người đàn bà bất giác thở dài, toàn thân mềm mại, rung động. Tiếp đó, nàng khẽ khàng cởi áo quần cho Cao Đắc Thắng, từng chiếc một, rất thứ tự ngăn nắp. Thân thể Cao Đắc Thắng vô cùng tráng kiện, do thường xuyên vận động thể thao. Lâm Đạt đứng ngây ra nhìn Cao Đắc Thắng đang trần như nhộng.
- Trẻ trung tuyệt vời! - Nàng nói.

Bây giờ, tay nàng bắt đầu khẽ khàng vuốt ve cơ thể Cao Đắc Thắng, di chuyển chậm chạp từng điểm một, từng tấc một, rất chi tỷ mẩn, vô cùng thận trọng, không sót một tí nào. Cao Đắc Thắng cảm thấy thần thái của nàng như đang kiểm tra tật bệnh cho bệnh nhân. Chàng đoán rằng đó là thói quen nghề nghiệp trước đây của nàng để lại. Cuối cùng, tay nàng dừng lại bên cạnh đoạn xương sống ở thắt lưng,
ngẩng đầu nói:
- Lưng anh chắc nịch. Em mê lắm!

Sau một trận mây mưa, người đàn bà tỏ ra khoan khoái như cá gặp nước, nói:
- Anh thật tuyệt vời! Còn tuyệt vời hơn em tưởng tượng nhiều!
- Đây còn chưa phải là trạng thái tuyệt nhất của anh đâu! Không tin hãy thử lại lần nữa xem! - Cao Đắc Thắng đắc ý, nói.
- Không được! Hãy nghỉ một lát đã! Anh muốn uống chút gì không? - Nàng nói.
- Tùy em ! - Chàng đáp.

Lát sau, từ ngoài cửa, nàng bưng vào hai ly nước cam, hai người cầm cốc trên tay, lặng lẽ uống. Bỗng nhiên Cao Đắc Thắng cảm thấy có cái gì không bình thường. Đầu tiên óc choáng váng, trời đất quay cuồng, sau đó bèn bất tỉnh nhân sự ngã gục trên sàn nhà. Người đàn bà cười lên một nụ cười quỉ quái, vẻ mặt thần bí ranh ma…

Khi tỉnh lại, Cao Đắc Thắng vội vàng kiểm tra xem mình có mất cái gì không. Song, những thứ quý giá đều còn cả! Chàng khó nhọc cố nhổm lên. Bỗng nhiên cảm thấy một trận đau điếng khó mà chịu được từ lưng truyền lên. Cao Đắc Thắng vội lấy tay sờ ra sau lưng. Đến lúc ấy chàng mới cảm giác thấy trên cơ thể có nhiều vết thương, mà hình như đã được khâu chỉ. Trái tim của Cao Đắc Thắng bỗng tựa hồ muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, suýt nữa chàng kinh hoàng thét lên.
Mấy giờ sau, Cao Đắc Thắng đã có mặt ở trong phòng hội chẩn của bệnh viện. Sau khi đã tiến hành kiểm tra xong cơ thể chàng, bác sĩ cơ hồ vô cùng kinh ngạc:

- Thiếu một quả thận! - Bác sĩ nói.
- Một quả thận? - Cao Đắc Thắng tối tăm mặt mũi, toàn thân suýt đổ gục xuống đất.
- Ngành cảnh sát nói rằng hiện ở ta đang có một tổ chức tội phạm chủ yếu đánh cắp các bộ phận trong cơ thể con người. Sau đó chúng bán cho những bệnh nhân có nhu cầu cấy ghép thể tạng. Cảnh sát đang ra lệnh truy nã một thủ phạm trong số bọn chúng. Đó là một nữ bác sĩ ngoại khoa, có biệt hiệu là "nữ sát thủ", tuổi khoảng trên ba mươi. Nghe nói, ả rất xinh đẹp, khéo léo mồi chài đàn ông...

Nghe bác sĩ nói vậy, Cao Đắc Thắng im lặng không nói được một lời nào.
Bác sĩ ngắm nhìn chàng, an ủi.
- Thật ra, anh cũng không nên quá đau buồn. Ít nhất trong cơ thể anh vẫn còn lại một quả thận nữa. Nếu lúc đầu cái mà ả nhắm vào không phải là quả thận, mà là quả tim của anh, thì kết cục sẽ không còn cảnh tượng như thế này nữa.
- Thưa bác sĩ, bác sĩ có thể nói cho tôi biết, một quả thận giá bao nhiêu tiền không?
- Tám mươi vạn nhân dân tệ!
Cao Đắc Thắng bỗng đờ đẫn, đổ oặt người xuống ghế.

Tolan
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.908 seconds.