Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 189 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22006
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Aug/2019 lúc 3:06pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22006
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Aug/2019 lúc 1:52pm

MỘT LÁT CẮT CỦA CHIẾN TRANH



https://res.cloudinary.com/twenty20/private_images/t_watermark-criss-cross-10/v1511906217000/photosp/f23a3e1b-265a-4612-b2ec-a983bd3cb637/stock-photo-gr***-shadow-water-tree-sky-reflection-sea-lake-dark-f23a3e1b-265a-4612-b2ec-a983bd3cb637.jpg
Nửa đêm, biển động! Hắn tỉnh dậy chậm chạp mặc quần áo rồi ra đứng trước ban thờ châm một nén hương, chỉ một nén hương cắm vào bát hương trên bàn thờ rồi cứ thế đứng lặng chăm chăm nhìn vào hai bức ảnh trên ban thờ. Một bức ảnh là một ông già, có lẽ là bố hắn. Lồng cùng bức ảnh là một tờ lịch đề ngày 18 tháng tư .Dưới bức ảnh ấy là vỏ của một chai thuốc trừ sâu được đặt trên những quyển sách chữ nho đã cũ nát cùng năm tháng. Bên trái ban thờ là ảnh một người đàn bà còn rất trẻ và cũng có một tờ lịch cùng đề ngày mười tám tháng tư . Dưới bức ảnh là một sợi dây thừng được xếp lại thành một bó dài.
Hắn cứ đứng như thế cho đến khi cái chấm đỏ cuối cùng trên cây nhang tắt hẳn , tàn của chiếc nhang không gãy rụng mà mà uốn cong về phía hắn. Đợi cho khói hương tan hết, hắn mở cửa đi ra ngoài bãi biển.
.Năm nào cũng thế, cứ đúng đêm nay hắn lại ra đứng suốt đêm bên bờ biển và hình như từ khi hắn đến ở đây năm nào vào đêm nay biển cũng động. Đêm mưa bão, bầu trời đen kịt. Những đám mây dông vần vũ che kín cả bầu trời. Xa xa phía cuối đường chân trời nhưng lằn chớp trắng lóa đang đua nhau rạch nát trời đêm . Những con sóng lừng đen ngòm cao năm sáu mét lừng lững từ ngoài khơi xa xô lại phía hắn rồi đâm sầm vào vách đã dựng đứng của một dải núi ăn ra biển để lại một cột nước trắng xóa . Những con sóng liên tiếp nhau như muốn xô đổ vách núi . Gió hú lên những tiếng hú dài điên loạn. Trời giận dữ! Biển cuồng nộ còn hắn cứ đứng lặng im bất động phóng tầm mắt hút về phía chân trời.
- Anh ơ...i
Một tiếng gọi vọng lên từ lòng biển sâu thẳm.
-Con ơ....i
Một con sóng lừng hất tung tiếng gọi con nức nở lên cao để ngọn gió điên cuống ném tiếng gọi ấy về phía hăn. Hắn nhô người vươn tay ra phía biển như muốn níu giữ, nắm bắt một cái gì. Rồi bỗng nhiên hắn nghe thấy một tiếng thì thào đứt quãng.
-Đ..ừ....tr...á...ch v..ợ c...on.

Trời bắt đầu mưa. Bỗng ai dó khoác lên vai hắn một chiếc áo mưa. Hắn quay lại. Con gái hắn. Hắn nhìn con gái một thoáng trong ánh mắt lộ ra một tia sáng cảm động rồi hỏi bằng một giọng trầm đục.
-Con về bao giờ thế?
-Con vừa về. Vào nhà không thấy bố con biết là bố lại ra đây. -Giọng cô gái bỗng trở nên cầu khẩn. -Về thôi bố! Trời bắt đầu mưa rồi.
Hắn cắn môi, nuốt khan một cái như định nói điều gì nhưng rồi hắn dừng lại chậm chạp cùng cô con gái quay lại ngôi nhà bên bờ biển.
-Năm nay bố vẫn không cho em con về giỗ mẹ hả bố?

Tiếng cô gái hỏi, hắn chỉ khẽ gật đầu. Một tia chớp bừng lên đủ giúp cho cô gái nhìn thấy hai hàm răng hắn nghiến lại. Tia chớp dội vào mắt hắn để rồi từ đấy hắt ra một tia sáng âm u, lạnh lẽo đến rợn người. Cô gái im lặng không hỏi gì nữa. Cô sợ!
*
* *
Hôm sau nhà hắn có giỗ. Không có khách khứa, chỉ độc nhất có hai bố con. Hắn châm ba cây nhang cắm lên bát hương, không chắp tay khấn vái mà chỉ đứng lặng nhìn không chớp mắt vào hai bức ảnh, một ảnh ông già bố hắn và một ảnh một người đàn bà còn rất trẻ vợ hắn. Con gái hắn đứng cạnh chắp tay lầm nhầm khấn tuy là khấn rất nhỏ nhưng vì đứng ngay nên cạnh hắn vẫn nghe thấy rất rõ.
-Ông ơi! Mẹ ơi! Xin hai người hãy phù hộ cho bố con có thể quên đi!.
Nghe con gái khấn, tự nhiên môi hắn nhếch lên một nụ cười cay đắng và từ đôi mắt già nua, nhăn nheo, một giọt nước mắt, chỉ một giọt thôi, trào ra rơi xuống làn môi đã héo quắt và nứt nẻ một giọt mặn chát.
Hương tàn, con gái hắn hạ mâm cỗ xuống còn hắn rót rượu ra chén và uống! Con gái hắn ngồi cạnh, không nói gì chỉ thỉnh thoẳng gắp thức ăn vào bát cho bố và nói với giọng nằn nì.
-Bố ăn miếng này đi .
Còn hắn , hình như hắn không dám cãi lời con gái, hắn gắp lấy miếng thức ăn mà cô vừa bỏ vào trong bát đưa lên miệng. Mắt hắn đã kè đỏ.
-Có phải con vẫn muốn biết ông và mẹ con chôn ở đâu phải không?
Hắn bỗng hỏi. Mắt cô gái sáng lên, nhưng rất nhanh chóng cô đã che dấu được tia sáng đó.
-Vâng! - Cô nói nhỏ . –Con muốn xây mộ cho ông và mẹ bố ạ. Bố nói cho con biết đi.
Hắn đặt chén rượu xuống bàn trân trân nhìn con gái. Không ai đọc nổi ánh mắt ấy nghĩ gì. Đột nhiên, hắn cầm chén rượu còn đầy nguyên lên uống ực một nhát cạn trơn rồi hất hàm ra phía biển nói bằng một giọng khê đục.
-Ở đó!
Mắt cô gái hơi nhíu lại tỏ vẻ nghi ngườ.
-Sao bố bảo ngày ấy bố chôn ông và mẹ ở quê cơ mà.
Ừ! -Hắn khẽ gật đầu thừa nhận. –Nhưng rồi sau đó bố đã quay trở về quê đào trộm mộ hai người mang cốt về đây hỏa táng. Bố đã trộn tro của hai người vào nhau và mang rắc xuống biển.
- Vào đêm hôm nay hả bố
Cô gái hỏi, hắn khẽ gật đầu. Cô gái không hỏi gì nữa. Cô biết bố đã nói thật. Năm nào cũng thế cứ đúng đêm hôm giỗ là cô lại thấy bố mình ra đứng suốt đêm bên bờ biển
Bỗng nhiên cô cảm thấy sợ! Một nỗi sợ vô hình ám ảnh cô. Đã bao nhiêu năm rồi bố cô luôn giấu kín điều này . Sao hôm nay ông lại nói ra? Cả hai im lặng ngồi ăn. Cái im lặng ngột ngạt của một cơn bão sắp kéo đến.
-Em con ….dạo này ….thế nào?
Hắn hỏi giọng ngắc ngứ khó nhọc. Hình như hắn phải dồn hết nghị lực để hỏi câu hỏi đó. Hỏi xong, hắn lại nâng chén rượu lên uống ực một nhát như để chiêu đi một cái gì vẫn còn vướng víu trong cổ họng. Cô gái nhìn bố. Cô đắn đo không biết mình nên nói với bố thế nào. Một cái gì lành lạnh chạy dọc sống lưng cô. Chưa bao giờ ông hỏi về đứa em trai của cô. Đây là lần duy nhất kể từ khi ông bỏ đi để lại toàn bộ tài sản rất lớn cho hai chị em với một mảnh giấy với duy nhất một dòng chữ ngắn ngủi.
“Con hãy chăm sóc em thay bố”
-Nó vẫn tốt bố ạ . Nó vừa nhận được học bổng nghiên cứu sinh sau tiến sĩ của trường đại học Harvard Có lẽ tháng sau nó đi Mĩ.
-Thế à!
Hắn buông hai từ gọn lỏn rồi lại nâng chén rượu lên. Cô gái đột nhiên giữa lấy tay hắn, cô quỳ sụp xuống ngước lên nhìn bố giọng run run.
- Đừng uống nữa! Con xin bố . Sao bố lại hận em con đến thế? Bố cho con biết đi. Cánh tay cầm chén rượu đang đưa lên bỗng dừng lại. Hắn cúi xuống nhìn con gái. Mặt con gái hắn ướt đẫm. Hắn không nói gì , lặng lẽ gỡ bàn tay đang níu chặt tay mình của đứa con rồi loạng choạng đi về phía trước ban thờ. Hắn nhấc tấm ảnh của bố ra khỏi giá , cầm trên tay và nhìn như đóng đinh vào tấm ảnh.
- Bố nghe rõ rồi chứ? -Hắn lẩm bẩm. –Em con đã nên người. Dòng họ Đặng của bố đã có người tiếp nối. Bố có vui không? Còn con…?
Đột nhiên hắn gầm lên một tiếng. Một tiếng gầm thê lương như xé rách cả trời xanh. Hắn nâng bức ảnh lên cao rồi thẳng cánh quật bức ảnh vào cạnh chiếc bàn thờ. Bức ảnh vỡ tan. Bàn tay gân guốc của hắn nắm lấy một miệng thủy tinh to và sắc nhọn như một mũi dao găm, thẳng cánh đâm vào cổ mình.
- Bố !
Tai hắn còn kịp thoảng nghe một tiếng kêu đầy đau đớn của cô con gái.

*
* *
-Không!
Hắn hét lên một tiếng . Tiếng hét phá tan cái yên tĩnh của cái bệnh viện tuyến huyện vắng vẻ lức nửa đêm. Cô bác sĩ trực nhảy bổ đến gường bệnh. Người hắn quằn quại trong cơn mê sảng. Con gái hắn đang cố gắng ghì chặt lấy cánh tay hắn không cho cái kim truyền máu bật ra. Hắn lại nằm im, rồi một tiếng nấc rồi tiếp theo là một tiếng lầm bầm.
-Sao em lại bỏ con, bỏ anh. Anh có trách em đâu.
Cô bác sĩ nhìn vào mặt hắn. Trong cơn mê sảng nhưng một dòng nước mắt vẫn cứ ứa ra.
-Bố em hình như gặp phải một chấn động cực lớn về tâm lí thì phải. Chuyện gì vậy?
Cô bác sĩ nhìn con gái hắn thăm dò. Con gái hắn lắc đầu.
-Em cũng không biết chị ạ. – rồi như để cho người bác sĩ tin điều mình nói là thật. Cô gái nói tiếp. –Em cũng rất muốn biết chuyện gì đã xảy ra với bố em trong quá khứ nhưng ông không chịu nói.
-Chắc phải là một điều gì đó khủng kiếp lắm .
-Vâng ! Em cũng nghĩ thế.
Nói xong, con hắn thở dài lấy khăn khẽ lau dòng nước mắt trên mặt bố. Hắn nằm im, ngực lên xuống một cách khó nhọc. Miệng hắn cứ lầm bầm một điều gì đó . Con gái hắn quỳ hẳn xuống dưới đất ghé tai vào sát miệng hắn cố gắng nghe xem bố mình đang nói điều gì. Cô chỉ nghe thấy nhưng tiếng đứt quãng.
- Đừng …..em đồng ý ?….. nối dõi……dòng họ….
Rồi đột nhiên hắn chồm lên ngồi thẳng dậy, mắt mở trừng trừng, sợi dây truyền máu đứt tung máu phun ra lênh láng cả chiếc giường bệnh. Hắn thét to, Tiếng thét như một mũi dùi khoan vào màn đêm sâu thẳm.
-Ông chết đi!
Rồi hắn lại đổ vật xuống, người hắn quằn quại. Con gái hắn và cô bác sĩ trực đêm cố gắng ghì chặt lấy người hắn nhưng không được. Hắn vung mạnh hai cánh tay xô ngã cả hai người rồi hắn bật dậy đứng sừng sững giữa căn phòng, hai cánh tay hắn vươn lên cao ngửa mặt lên trời cười cuồng loạn. Những vòng băng ở vết thương sổ tung, máu phun thành vòi lên mặt con gái hắn.
-Cháy! Cháy rồi ! Cháy hết đi !
Hắn gào lên trong tiếng cười man dại rồi đột ngột, tiếng cười tắt ngấm, hắn đổ sập xuống nền nhà.
- Bố!
Con gái hắn kêu lên một tiếng rồi cứ thế gục vào ngực bố mình ngất lịm.

*
* *

Bàn thờ nhà hắn có thêm một bức ảnh mới. Ảnh hắn. Đứng trước ban thờ là hai chị em. Người em hình như chỉ nhỏ hơn chị mình có vài tuổi và có khuôn mặt giống ông nội như tạc.
_ Chị!
Người em gọi một tiếng khe khẽ, người chị khẽ quay người nhìn sang đứa em mình chờ đợi còn người em môi mấp máy như muốn nói một điều gì đó nhưng lại không dám nói. Anh ta sợ. Người chị cũng sợ. Không một ai dám nói lên một cái điều lờ mờ trong tâm trí . Người em thu hết can đảm, anh ta khẽ nắm lấy tay chị gái mình.
- Có điều gì xảy ra với bố vậy hả chị.? Có phải là lỗi tại em không. ?
Người chị nhẹ kéo em trai lại khẽ ôm lấy đứa em trai mình .
- Chị không biết điều gì đã xảy ra với bố. Nhưng chắc chắn là em không có lỗi. Lỗĩ là của chiến tranh.
- Nhưng chiến tranh đã kết thúc mấy chục năm rồi mà chị.
Người em hỏi. Người chị khẽ lắc đầu.
- Chưa đâu em ! Chiến tranh vẫn đang hiện diện trên mảnh đất này.
Người em không hỏi gì nữa. Anh ta biết , chị mình đã nói đúng. Tiếng súng đã ngừng mấy chục năm nay nhưng tiếng nổ của chiến tranh chưa dứt. Thỉnh thoảng ở một đâu đó trên mảnh đất đầy đau thương này lại có một tiếng nổ phát ra do chiến tranh để lại.
Hai chị em rời bàn thờ, họ mang đồ đạc của hắn ra kiểm lại. Kỉ vật của hắn không có nhiều. một vốc nhưng huân chương, một tờ giấy báo tử, một tấm bằng gia đình vẻ vang và một cuốn sổ ghi chép đã vàng úa theo thời gian.
Người em cầm tờ giấy báo tử lên chăm chú đọc. Lông mày anh ta nhíu lại. Anh ta đưa cho chị mình tờ giấy báo tử.
-Chị ! chị đọc cái tờ giấy báo tử này đi !
Người chị ngạc nhiên nhìn em.
-Sao có điều gì à ?
- Bố mất trước khi em ra đời.
Người chị vội vàng giật lấy tờ giấy báo tử trong tay em trai mình . Cô gái lặng người đi mắt không rời nói tờ giấy báo tử.
-Chị ! -Người em khẽ nắm lấy tay chị mình gọi nhỏ. –Có phải là..... ?
Người chị như bừng tỉnh, cô hấp tấp dùng bàn tay nhỏ nhắn của mình bịt miệng em trai lại.
-Em đừng nói gì cả !- Giọng cô nghẹn lại - Chị xin em !
Một thoáng ngắn ngủi, ánh mắt hai chị em gặp nhau và cả hai cùng bối rối nhìn đi nơi khác. Họ tiếp tục lục tìm trong những di vật mà người bố để lại một cái gì đó mà không ai dám nói ra nhưng cả hai đều mong muốn, một cái gì có thể phủ định cái điều mà họ đã manh nha nghĩ trong đầu.
- Chị !
Người em trai thoảng thốt kêu lên. Toàn thân anh ta run bắn . Mấy tờ giấy trong tay anh ta rung bần bật. Năm ngón tay anh co quắp lại chọc thủng cả mấy tờ giấy to bản loại năm hào hai ngày xưa mà anh ta đang cầm. Người chị vội vàng nắm chặt lấy bàn tay em trai mình cố gắng gỡ những ngón tay đang co rút bấu chặt lấy mấy tờ giấy để cho nó khỏi bị rách. Cô ôm lấy mặt bật khóc. Người em quỳ xuống , anh ta ôm chặt lấy chị mình nghẹn ngào.
-Chị ơi! Đó là lỗi của em.
Người chị đã bình tĩnh lại. Cô gái nhẹ nhàng vuốt tóc đứa em trai mình khẽ nói.
-Em đừng nghĩ vậy ! Không một ai có lỗi cả. Em chính là một sự hi sinh cho tình yêu. Em đọc lại những lời của mẹ đi.
Vừa nói , người chị vừa trải rộng tờ giấy ra trước mặt em trai mình. Tờ giấy viết bằng máu. Có lẽ người mẹ đã cắn ngón tay mình để viết lên trang giấy.
ĐỪNG TRÁCH BỐ. ! EM YÊU ANH NÊN KHÔNG THỂ ĐỂ CHO DÒNG HỌ ĐẶNG CỦA ANH BỊ DỨT MẠCH
- Thế còn ông ! Sao......
Người em giận dữ nói gần như quát lên nhưng đột nhiên anh ta bắt gặp ánh mắt tức giận của người chị nên vội vàng ngừng lại. Người chị nét mặt đanh lại hắt những tia mắt giận dữ vào mặt đứa em trai mình gằn giọng.
- Ông cũng không có lỗi. Em đọc đi ! Ông đã phải lấy cái chết của mình để tạ lỗi với bố. - Người chị trải tờ giấy thứ hai ra trước mặt em mình . Cũng là một tờ giấy năm hào hai được viết bằng máu.
ĐỪNG TRÁCH VỢ CON. DÒNG HỌ TA ĐỘC ĐINH. BỐ XIN LẤY CÁI CHẾT ĐỂ TẠ LỖI VỚI CON
Giọng người chị bỗng trầm hẳn xuống đau sót - Sự trường tồn của những dòng họ cũng giống như sự trường tồn của một dân tộc. Vì sự trường tồn đó nhiều khi ta phải đau đớn bước qua cái ranh giới của đạo đức.
- Vậy là không có ai phải chịu trách nhiệm trước những nỗi đau và mất mát của gia đình ta sao ?
- Có em ạ ! Đó là chiến tranh

*
* *

Đêm ! Biển lặng ! Hình như sau một cơn bão đi qua biển êm đềm hơn và đẹp hơn. Mảnh trăng non cưỡi trên đầu những ngọn sóng lăn tăn theo gió trải ra đến vô tận. Dưới ánh trăng, dải núi hiện lên sừng sững, uy nghi như một lồng ngực vạm vỡ đang ưỡn ra thách thức với sóng gió của biển cả.
Hai chị em đi từng bước ngắn chậm rãi tiến dần ra ngoài biển, vừa đi họ vừa rắc tro cốt của bố lên trên đỉnh những ngọn sóng. Sóng ôm lấy ông, Biển ôm lấy ông
- Ông ơi ! Bố ơi ! Mẹ ơi ! Con cầu mong ba người sẽ ôm lấy nhau trong biển cả.
Cô gái thầm nghĩ. Ngoài xa, một con tàu đi qua để lại một vệt lân tinh lấp lánh làm cho cô gái có cảm giác như biển đang cười.



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 17/Aug/2019 lúc 1:56pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22006
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 19/Aug/2019 lúc 4:27pm

CHIỀU BUỒN BIÊN GIỚI


Related%20image
Mỗi lần nhìn hình ảnh bão lụt ở miền Nam Việt Nam, nhất là nơi gần biên giới với một vùng nước mênh mông trắng xóa, làm ngập chìm bao nhà cửa, ruộng vườn, gia súc lẫn cỏ cây hoa lá. Lòng tôi chợt nghe chua xót, ngậm ngùi nhớ về nơi đó, nơi tôi có một trời kỷ niệm dấu yêu, một trời buồn thương chất ngất không bao giờ có thể lãng quên…

Tôi có một người dì bà con lấy chồng xa xứ nên chưa từng gặp mặt. Vào năm tôi 18 tuổi dì bỗng xuất hiện với người con gái 21 tuổi tên Cẩm Hường đang theo học trường Sư Phạm tại Vĩnh Long. Tôi và chị Hường quen thân nhau nhanh chóng, chị mời chúng tôi xuống quê chị chơi nếu có dịp và cơ hội đó đã đến với tôi vào cuối mùa hè năm ấy.

Nơi dì ở là một làng quê thuộc quận Tân Châu tỉnh Châu Đốc, gần sát biên giới Miên-Việt.Tôi được biết qua vài tỉnh miền Tây và Sàigòn nhưng chưa bao giờ nhìn thấy những căn nhà như ở đây. Nhà cất trên nền sàn cao chừng hai mét, mỗi nhà đều có bậc thang đi lên giống như leo lên lầu. Ở miền rừng núi đồng bào Thượng cất nhà như thế để tránh hổ, báo, chó sói vào nhà nhưng ở đây…chung quanh là sông nước, đồng ruộng, cây cối xanh tươi sao có chuyện lạ lùng như vậy?Tôi không khỏi tò mò, hiếu kỳ vội hỏi chị Hường:

-Chị ơi, sao người ta cất nhà cao như vậy? Chắc có cọp vào nhà ban đêm hả?

Chị Hường vốn vui tính và tinh nghịch, chị mỉm cười bảo tôi:

- Em cứ ở lại chơi lâu lâu rồi sẽ biết. Bí mật mà, không cho em biết bây giờ đâu.

- Em được phép ở lại chơi một tháng, liệu bí mật đó có được giải đáp không?

Chị đưa mấy ngón tay tính toán lẩm bẩm rồi nói:

- Được chứ, khoảng ba tuần nữa em sẽ biết thôi.

Tôi cảm thấy sợ sệt, bất an vì chỗ nầy kỳ quái, đầy bí hiểm nhưng cố làm ra vẻ thản nhiên vì sợ bị chê là đứa nhát gan.

Dì tôi có bốn người con: anh Thiên Tường, chị Cẩm Hường, Thúy Hạnh và Ngọc Lan là cô gái út mới 10 tuổi. Chồng dì mất đã 8 năm rồi. Anh Tường là con trai lớn và duy nhất nên được miễn dịch vì lý do gia cảnh. Anh lo về tài chánh trong gia đình, hai chị Hường, Hạnh được gửi đi học xa nhà rất tốn kém, nghỉ hè họ mới được trở về nhà.Thật là gánh nặng cho người thanh niên mới 25 tuổi đời. Tôi lấy làm tiếc cho anh Tường, một thanh niên khỏe mạnh, tuấn tú, hoạt bát lại chôn cuộc đời nơi heo hút nầy. Những ngày ở đây tôi được anh hướng dẫn đi chơi nhiều lần và được nghe tâm sự của anh.

Anh đã học xong Tú Tài 2, tuy được miễn dịch nhưng anh không xin làm việc ở các công sở vì lương không đủ trang trải cho gia đình. Anh theo bạn bè đi buôn những chuyến “hàng lậu” từ Campuchia vượt qua biên giới về Việt Nam. Hàng lậu có nghĩa là trốn đóng thuế, đi qua bằng đường rừng hay đồng ruộng tránh gặp Quan Thuế. Nếu hàng đi trót lọt sẽ có lời thật nhiều, nếu bị Quan Thuế bắt gặp phạt nặng thì lỗ to, xem như một canh bạc.

Có lần Tường dẫn tôi đi chơi quanh trong làng. Một buổi trưa vùng quê miền biên giới êm ả, có tiếng chim ríu rít trên cành, tiếng lá xạc xào trở mình trong nắng, tiếng ru trẻ thơ hòa theo nhịp võng đưa kẽo kẹt nghe buồn man mác… Tôi không nhận thấy bóng dáng chiến tranh nơi đây dù đang trong thời kỳ loạn lạc. Bằng giọng trầm trầm anh kể cho tôi nghe về những chuyến đi buôn, có những lúc nguy hiểm trùng trùng, có những lần êm xuôi trót lọt… Nét mặt anh lộ vẻ đăm chiêu, nhiều suy tư. Tôi tuy có ái ngại cho anh nhưng tôi biết anh không còn sự lựa chọn khác. Anh nói:

- Anh hy vọng kiếm thêm ít tiền, anh sẽ ra tỉnh mở một tiệm chụp hình vì anh rất đam mê nghệ thuật hội họa, chỉ cần đủ nuôi sống gia đình là được. Nhiều lúc anh cũng cảm thấy xấu hổ với bạn bè vì việc làm ăn của mình.

Nói xong anh hướng mắt nhìn ra xa xa trông thật buồn bã, đáng thương. Ngoài kia dòng sông đang cuồn cuộn chảy, âm vang rầm rầm rì rì, dòng sông quê hương anh. Dòng sông nầy chắc đã nhiều lần đưa đón anh qua, lại với những chuyến buôn âm thầm. Chợt đâu đây có giọng hát huyền hoặc, đầy ma lực của Lệ Thu từ máy hát nhà ai loáng thoáng bên tai:

“ Chiều buồn len lén tâm tư, mơ hồ nghe lá thu mưa.
Dạt dào tựa những âm xưa, thiết tha ngân lên lời xưa.
… Lòng cuồng điên vì nhớ. Ôi đâu người, đâu ân tình cũ?”

Tường đưa mắt nhìn tôi:

- Em có nghe bài hát đó không?

- Dạ có. Không ngờ ở miền quê như vầy mà người ta cũng biết hưởng thụ quá nhỉ?

Tường cười:

Tuy là vùng quê nhưng họ không nghèo đâu. Một đứa bé 12,13 tuổi cũng kiếm được tiền dễ dàng. Chỉ cần nó ôm một bao cát thuốc lá thơm hay thuốc Tây qua được lằn ranh biên giới là kiếm khá tiền rồi.

- Thật vậy sao?

Anh gật đầu, anh đã đưa tôi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác. Ở đây đầy bí hiểm, tôi bắt đầu thấy lạnh xương sống. Tường như đọc được ý nghĩ trong đầu tôi nên nói:

- Anh cũng là người đi “buôn lậu” như họ vậy, em có sợ và khinh anh không?

Tôi an ủi anh:

- Không đâu, chính anh cũng biết việc làm ăn của mình không được tốt nhưng vì hoàn cảnh mà. Anh sẽ thực hiện được mong ước của mình sớm thôi. Hy vọng lần sau em đến thăm gia đình anh, anh là một ông chủ tiệm gì đó.

Anh dẫn tôi ra về, tôi để ý quan sát chung quanh. Người dân ở đây có vẻ sung túc, đầy đủ vật chất qua cách ăn mặc, qua nếp sống, qua những gương mặt bình thản, vô tư. Như anh Tường cho biết phần lớn họ cũng buôn bán như anh. Tôi thở dài, không biết mình nên vui hay buồn. Đất nước chiến tranh, cuộc sống khó khăn…phải thông cảm cho họ thôi.

Chị Hường vừa ra trường, nhận Sự Vụ Lệnh đi dạy học ở Long Xuyên nên chị thu xếp lên đường sớm để tìm chỗ ăn, ở cho tương lai. Thúy Hạnh không hợp với tôi lắm nên ít chuyện trò với nhau, bé Lan thì quá nhỏ nên ngoài dì ra tôi chỉ có anh Tường quan tâm và chăm sóc tôi.

Một hôm anh Tường dẫn về nhà một người lính trẻ tên Minh Hiền. Anh là bạn học ngày trước của anh Tường và gia đình anh cũng ở gần đây. Người thanh niên có dáng cao gầy, có đôi mắt sáng với mái tóc ngắn, gương mặt khôi ngô dày dạn phong sương đã chiếm được cảm tình tôi ngay từ buổi đầu.Tôi không biết tôi thích Hiền vì anh là bạn của anh Tường hay vì một ý do gì khác, chỉ biết tôi có nhiều thiện cảm với Hiền.

Những ngày Minh Hiền lui tới nhà dì, tôi được biết về anh nhiều hơn. Hiền hiện là trung úy thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh đóng quân ở Sa Đéc, đang về phép thăm gia đình. Ba anh không còn, mẹ anh có mảnh vườn và tiệm tạp hóa nhỏ đủ nuôi hai cậu em trai của anh còn đi học. Hiền nói năng hòa nhã, lịch sư, tế nhị và nét phong trần của anh rất dễ lấy cảm tình của người đối diện. Tôi quen anh chưa lâu nhưng chúng tôi thấy như thân thiết với nhau tự thuở nào. Những ngày anh Tường theo đoàn buôn đi xa, có khi 2,3 ngày mới về, Hiền thường đến chơi và dẫn tôi đi xem phong cảnh nơi quê hương anh. Có lần Hiền ngõ ý dắt tôi đi “chợ trời biên giới”. Tôi rất muốn biết nơi đó ra sao, họ buôn bán, trao đổi hàng hóa thế nào nên sốt sắng nhận lời đi ngay. Đến nơi tôi rất thất vọng vì nó không giống như những gì tôi từng nghĩ trong đầu. Đó chỉ là một khu chợ nhỏ, không rộng lớn, không tấp nập như những chợ của ta. Hàng hóa thì tầm thường như: dầu gió xanh, vải lãnh đen, vải sọc xà rong, và các thứ khác cũng là những loại hàng thường thấy ở các chợ của Việt Nam thôi. Đặc biệt giữa chợ là một hàng rào bằng cây, cao khoảng trên dưới một mét, có thể bước qua, lại được. Anh Hiền cho biết đó là lằn ranh biên giới, nửa chợ bên kia là của Campuchia, nửa chợ bên nầy của Việt Nam. Sự mua bán, đổi trao chỉ được diễn ra trong khu chợ thôi nếu bước sâu vào trong ranh giới sẽ bị đối phương bắt giữ ngay. Ôi! Tôi thật sự thất vọng vì tôi nghĩ rằng đường ranh biên giới phải là cái gì thật to lớn, thật kiên cố để ngăn ngừa ngoại bang xâm lấn lãnh thổ, giống như Vạn Lý Trường Thành của Trung Hoa mà tôi được thấy trong phim vậy.

Anh Hiền không đoán được ý nghĩ trong đầu tôi, có lẽ anh đã quen sống nơi đây từ bé nên không ngạc nhiên gì cả. Thấy tôi không mua sắm gì nên anh dẫn tôi về bằng con đường tắt trên ruộng. Mùa nầy lúa lên tươi tốt như giải lụa màu xanh mênh mông, bát ngát. Mây trắng bồng bềnh trôi về một phương xa nào, trên lưng chừng trời từng đàn chim đang luân vũ, tiếng gió ngàn rì rào thở than cùng sông núi…Tôi như ngây như dại, mê man trước vẻ đẹp thiên nhiên đó. Qua khỏi khu ruộng Hiền đưa tôi sang con đường khác, một con đường đất bằng phẳng còn in dấu ngựa và xe hai bánh. Đến một tảng đá lớn anh dừng lại bảo tôi:

- Như ngồi xuống đó nghỉ mệt rồi hãy đi tiếp.

- Như không mệt đâu nhưng ngồi đây chơi cũng được vì tất cả những gì nơi đây đều làm cho Như thích thú.

Anh Hiền chỉ mỉm cười không nói gì cả. Bỗng anh đưa tay chỉ về phía trước, nơi có con sông và chiếc cầu bắc ngang, anh nói:

- Em thấy cây cầu đó không? Tuy không sát biên giới nhưng lúc nhỏ mẹ anh thường căn dặn mỗi khi tụi anh đi chơi:

- Các con đừng qua bên kia cây cầu đó nghe.

-Tại sao vậy mẹ?

- Tại vì bên kia là biên giới. Nếu các con qua khỏi cầu đó, đi sâu hơn một chút người Miên sẽ bắt tụi con, mẹ không tìm thấy được.

Hiền mỉm cười nói tiếp:

- Kể từ đó bọn nhỏ tụi anh đã coi cây cầu đó như là đường ranh biên giới mặc dù nó vẫn còn nằm trên lãnh thổ của Việt Nam mình.

- Thật sao? Đến nơi đây Như thấy thật nhiều thú vị.

Sau đó cả hai chúng tôi ngồi yên lặng thật lâu. Hiền nhìn về phía chiếc cầu như đang suy tư, hồi tưởng điều gì trong quá khứ. Anh bỗng cao hứng cất giọng hát nho nhỏ:

“ Ngồi đây soi bóng bên dòng nước lũ. Cầu cao nghiêng dốc bên dòng sông sâu.
Sầu vương theo sóng xuôi về cuối trời. Một vùng đau thương chốn làng cũ quê xưa.
Em đến thăm tôi một chiều khi nắng phai rồi. Nắng ngừng bên chiếc cầu biên giới…”**

Tôi lặng nhìn Hiền đến khi anh dứt bài hát, tôi tò mò:

- Anh Hiền có tâm sự à? Có phải ai đó đã hát bài nầy cho anh nghe rồi không?

Anh gật đầu:

- Như đoán đúng. Bài ca nầy cô ấy từng hát cho anh nghe nhưng nay thì..

- Bây giờ cô ấy ở đâu?

Anh nhìn tôi lắc đầu:

- Thôi, đừng nhắc nữa.

Tôi càng hiếu kỳ muốn biết về mối tình trước kia của anh nên tỏ vẻ giận:

- Anh đã nói thì phải nói cho hết. Cô ấy ra sao?

Hiền nhìn tôi, ngập ngừng giây lát rồi nhỏ giọng:

- Cô ấy theo một người con trai khác vào mật khu rồi. Đúng lúc đó anh cũng nhập ngũ, hai hướng đời, hai lối đi. Cuộc đời lính chiến của anh nhiều hiểm nguy, phong sương dày dạn, ngược xuôi khắp nơi. Thỉnh thoảng có chút bâng khuâng, hoài niệm thoáng qua hồn, nhưng nay anh không còn luyến lưu gì cô ấy nữa.

Tôi nhìn Hiền ái ngại, không ngờ anh có một mối tình buồn như vậy. Bất giác tôi nắm lấy tay Hiền như muốn truyền sự thông cảm chân thành của tôi cho anh:

- Thôi hãy quên đi anh ạ! Anh sẽ gặp một người con gái khác chung thủy và thương yêu anh hơn nàng ấy.

Hiền cười buồn:

- Anh cũng hy vọng như vậy.

Chúng tôi tiếp tục đường về, cảnh vật chung quanh tôi không còn nên thơ đẹp đẽ nữa. Tôi nghĩ đến mối tình éo le của Hiền mà thương xót cho anh, cầu mong anh được vui vẻ trong những ngày sắp tới.

Hôm đó khi tôi trở về thì anh Tường cũng vừa về nhà sau hai ngày vắng bóng. Tôi ngạc nhiên khi anh trao cho tôi một gói quà và bảo:

- Anh tặng cho Như nhưng đừng nói cho mẹ anh biết nhé!

- Anh giấu dì tặng cho em sao? Thôi em không nhận đâu.

Tường nhăn nhó phân trần:

- Không phải mẹ anh ích kỷ, nhỏ nhặt gì nhưng anh không muốn mẹ tò mò…

- Tò mò việc gì? Anh chưa từng mua quà cho người trong gia đình à?

- Chuyện nầy anh sẽ nói cho em nghe sau. Em mở ra xem coi có thích không?

Tôi nghe lời anh mở gói quà. Trong đó có: 4 xấp vải lụa bông của Pháp loại vải đắt tiền và đang thịnh hành ở Việt Nam, 1 chai nước hoa Chanel #5 và 2 cây son môi L’oréal màu hồng (vào thời nầy tại Campuchia hàng hóa của Pháp rẻ hơn bên Việt Nam).

Anh chọn quà đúng tâm lý một cô gái mới lớn nên tôi rất cảm động và rối rít cám ơn anh. Tôi nhìn Tường, mặt anh lộ vẻ vui mừng hơn cả tôi.

Sau bữa cơm tối Tường rủ tôi đi dạo cùng anh. Hai đứa lang thang trên con đường nhỏ dọc bờ sông, thật lâu sau chúng tôi tìm được một băng ghế gỗ dưới tàng cây nên cùng ngồi xuống đó. Tường bỗng cởi áo khoác của anh khoác lên vai tôi. Trời sắp sửa vào Thu, cơn gió đêm mang chút se se lạnh từ bên kia biên giới đưa về. Trăng hạ tuần đã lên tự lúc nào ở cuối chân trời, ánh sáng nhạt nhòa, bàng bạc mong manh không đủ soi rõ gương mặt Tường lúc đó nhưng tôi đoán chắc anh đang căng thẳng vì giọng nói run run:

- Như à, anh tặng quà cho em không phải vì…Như là em gái của anh mà anh nghĩ mình tặng quà cho… bạn gái.

- Ơ, cái anh nầy. Anh nói gì vậy? Chúng ta là bà con mà.

- Bà con xa lắm, mẹ em và mẹ anh chỉ là bạn bè thôi. Tại sao anh và em không thể yêu nhau chứ? Tuyết Như, hôm nay anh phải lấy hết can đảm mới dám nói với em là “ anh yêu em”. Anh đã thấy mến em ngay khi vừa gặp mặt. Anh không thể im lặng để nhìn em yêu người khác.

Tôi nghe như sét đánh ngang tai, anh nói gì? Anh yêu tôi sao? Trời ơi! Không thể nào như thế.
Tôi cố lấy bình tỉnh vì tôi biết lòng Tường đang rối loạn:

- Anh Tường, hãy nghe em nói. Thật sự chúng ta chỉ là họ hàng rất xa, đúng ra nếu chúng ta yêu nhau cũng không có tội, nhưng việc nầy đến quá bất ngờ với Như nên anh cho em suy nghĩ lại, xét lại lòng mình rồi mới trả lời anh nhé!

- Ờ, anh chờ câu trả lời của em.

Tôi không dám ngồi lâu hơn nơi nầy nên đứng lên:

- Thôi mình về đi anh.

Tôi ngước nhìn lên, vầng trăng đã ở giữa đỉnh trời, đêm xuống lâu rồi, cả khung trời mờ mịt mù sương, gió biên thùy chợt làm tâm tư tôi buốt giá. Những lời nói của Tường như từng tiếng đàn gõ nhịp trong tim tôi, tôi không biết được cảm giác của mình lúc đó ra sao.

Đêm ấy tôi không thể nào ngủ được. Hình ảnh chiếc cầu lẻ loi nằm gần biên giới với dòng nước mênh mang chảy, với mây trời thênh thang, với không gian bát ngát. Hình ảnh tôi và Minh Hiền đi bên nhau trên cánh đồng xanh biếc, đôi mắt u ẩn buồn cùng giọng ca nồng ấm của anh. Rồi hình ảnh của Thiên Tường lại lồng lộng hiện ra với gương mặt thanh tú, với nụ cười ngọt ngào, trìu mến…Tất cả quay cuồng, hổn loạn, không thứ tự cứ hiện ra trong đầu tôi làm tôi lên cơn sốt. Tôi mê man, chập chờn vào giấc ngủ.

Khi có tiếng gọi của dì và Tường tôi mới mở mắt ra nhưng không thể ngồi dậy nổi, tôi thật sự ngã bịnh rồi. Tường lo lắng, cuống quýt, anh hỏi han tôi đủ điều nhưng tôi nghĩ tôi chỉ bị cảm lạnh thôi. Dì tôi bảo:

- Tại thằng Tường tối qua dẫn con ra ngoài chơi về muộn nên con bị “trúng gió” rồi. Để dì đi kiếm lá cây nấu “nước xông” cho con nghe.

- Dạ thôi dì à, con không sao đâu.

Mặc dù tôi ngăn cản nhưng dì cứ bỏ đi. Còn lại Tường, anh ngồi xuống bên tôi ái ngại nói:

- Tại anh nên em bịnh phải không? Anh xin lỗi, anh sẽ đền cho em.

Tường bước ra ngoài, một lúc sau anh trở vào với thau nước ấm và khăn. Anh kéo tôi ngồi dậy và lau mặt mũi cho tôi rồi anh biến mất. Thật lâu sau anh lại trở vào với một mâm gồm: cháo, nước cam vắt và mấy viên thuốc. Tường bảo:

- Ở đây xa bác sĩ nên anh phải tự chăm sóc mình và người nhà mỗi khi bị bệnh. Em phải tin anh, anh sẽ chữa hết bệnh cho em.

Tường bắt tôi ăn cháo, uống thuốc và nước cam rồi ép tôi nằm nghỉ. Anh ngồi bên giường nhìn tôi, nét mặt bình thản như chưa từng xảy ra chuyện gì. Sự chăm sóc tận tình của Tường làm tôi cảm động và suy nghĩ miên man. Tôi phải làm sao đây? Mới gặp được Hiền, chút cảm tình vừa nhen nhúm, tôi nghĩ mình sẽ có dịp tiến xa hơn với anh ta, nhưng Hiền chưa nói gì cả. Trái lại Tường đã thố lộ tình cảm với tôi rồi, tôi không biết tính sao!

Tôi bệnh kéo dài suốt ba hôm. Ba hôm liền Tường túc trực chăm sóc tôi khiến dì tôi cũng bắt đầu chú ý. Đang lúc tôi bối rối thì Hiền xuất hiện và mời tôi sang nhà anh dùng cơm với mẹ anh. Tôi nhận lời ngay vì tôi nghĩ đây cũng là dịp để tôi cân nhắc, quyết định dứt khoát những gì đã dày vò tôi suốt mấy ngày qua. Vừa khi đó Tường lại phải theo đoàn buôn ra đi nữa, thật tội nghiệp cho anh! Tôi nghe lòng xót xa thương cảm cho người con trai còn rất trẻ mà gánh gia đình oằn nặng đôi vai.

Hiền đến đón tôi và đưa về nhà anh không xa lắm. Đó cũng là một căn nhà sàn như bao nhiêu nhà khác. Nhà tuy không sang trọng nhưng sạch sẽ, ngăn nắp và đặc biệt là mẹ của Hiền rất dễ mến, từ tốn, dịu dàng khác hẵn những người đàn bà ở đây.Nghe nói ngày xưa bà cũng xuất thân từ gia đình có học vấn. Mẹ Hiền vồn vã với tôi:

- Bác nghe Hiền nói mới quen cháu, cháu xuống thăm bà con ở đây phải không? Nhìn cháu thật đúng như lời Hiền nhận xét: cháu nhu mì, dễ thương lại xinh đẹp nữa.

- Bác khen làm cháu xấu hổ. Anh Hiền đã quá lời rồi đó bác.

- Thôi mời cháu vào bàn ăn cơm với gia đình bác đi, đừng khách sáo nghe.

Hôm ấy ăn ở nhà Hiền tôi mới biết thêm những loại rau lạ mà dân ở đây thường ăn chung với bánh xèo như: lá điều chua, lá xoài non, lá bằng lăng non…và đặc biệt là món “gỏi lá Sầu Đâu “, gỏi trộn với cá lóc nướng và khô cá lóc xé nhỏ, ăn cùng nước mắm me. Món nầy mới ăn vào thì đắng nhưng khi ăn quen sẽ ghiền vì hương vị đặc biệt của nó.

Từ giã mẹ Hiền ra về tôi rất cảm kích sự hiếu khách của bà. Hiền càng tỏ vẻ thân thiết, qúy mến tôi hơn. Khi đưa tôi về Hiền nói:

- Anh sắp trở lại đơn vị rồi Tuyết Như có thể cho anh địa chỉ để viết thư thăm Như không? Anh thật sự muốn kết bạn với Như, mong rằng tình cảm chúng ta sẽ sâu đậm hơn sau nầy.

Tôi nhìn Hiền:

- Thì chúng ta đã là bạn rồi mà, đâu cần nói gì nữa. Như sẽ rất vui để chờ đọc thư anh.

Tôi cho anh địa chỉ nhà tôi. Anh tỏ vẻ lưu luyến không nở dời chân nhưng rồi cuối cùng chúng tôi vẫn phải chia tay. Nhìn theo bóng anh cô đơn trên con đường đất nhỏ, khuất dần sau rặng cây xanh tôi chợt nghe lòng bồi hồi xúc động. Người lính ấy chỉ có sa trường và máu lửa thôi, còn niềm vui nào nữa không anh? Anh đã đem cả tuổi thanh xuân dâng cho đất nước mà chưa được đền bù gì cả ngoài mối tình buồn làm hành trang nơi trận tuyến.

Sáng hôm sau khi tôi thức dậy một cảnh tượng khiến tôi kinh hoàng ngỡ mình đang trong giấc chiêm bao. Một vùng nước trắng xóa mênh mông ngập tràn cả thôn xóm. Thì ra đây là “bí mật” mà chị Hường nói khi tôi mới đến. Mực nước dâng cao lên sát mí nhà sàn của dì tôi, các nhà chung quanh đều như thế. Dì tôi bảo đây là chuyện mà hàng năm dân chúng vùng nầy phải chịu đựng, nhưng khi mực nước rút xuống thì tất cả trở lại bình thường tuy có những thiệt hại không đáng kể Mùa nầy tôm, cá từ Biển Hồ trên Nam Vang theo dòng nước lũ đổ về đầy sông nên đó cũng là niềm an ủi cho họ. Nhà nào cũng tìm mọi cách bắt cá, tôm làm mắm hoặc khô, để dành thức ăn cho những ngày tháng tới. Đứa con gái nhỏ của dì tôi ra ngồi ngay trước cửa nhà buông câu xuống cũng bắt được mấy con cá Leo thật to. Những bữa ăn lúc đó toàn là cá và tôm: tôm nướng, tôm kho, gỏi tôm, tôm luộc. Cá nướng, cá hấp, cá chiên, cá nấu canh chua rau muống, nấu canh chua hoa súng… Riêng tôi từ kinh sợ, ngạc nhiên trở nên thích thú với những gì xảy ra nơi đây.

Hai ngày sau anh Tường về nhà, anh lại đưa cho dì một số tiền lớn. Tuy nhiên tôi không thấy dì vui vẻ, trái lại dì có vẻ buồn, lo lắng và như có cái gì làm dì ray rứt. Tôi hiểu nỗi lòng của người mẹ khi con mình dấn thân vào nguy hiểm để lo gia đình.

Gặp lại Tường tôi phân vân khó xử vì phải trả lời về sự quyết định của mình.Tôi cố tránh mặt Tường nhưng anh đâu dễ tha cho tôi, buổi tối nhân lúc mọi người không để ý anh nắm tay tôi hỏi:

- Em đã suy nghĩ kỹ chưa? Trả lời anh đi, anh nôn nóng lắm rồi.

Thật khó xử cho tôi, tôi gỡ tay anh ra và nói:

- Anh cho em chút thời gian đi. Em muốn suy nghĩ thật chính chắn rồi mới trả lời anh. Dù sao anh vẫn là người em mến thương nhất.

Tường thở dài buồn bã:

- Em sắp về nhà rồi anh không sốt ruột sao được. Biết đâu khi em về thành phố vui vẻ, có nhiều bạn bè nên chẳng còn nhớ gì tới anh.

- Không đâu, em đã lớn, biết phân biệt mọi việc tốt xấu chớ không phải là trẻ con nữa. Em hứa sẽ trả lời anh sớm.

Đến kỳ hạn tôi phải trở về nhà. Mực nước sông vẫn chưa rút xuống, dì tôi ngõ ý muốn tôi ở chơi thêm nhưng tôi bỗng thấy nhớ nhà, tôi muốn rời nơi đây sớm để tâm trí được bình tĩnh, để suy xét, để có thời gian phán đoán tình cảm của mình. Tường đưa tôi ra tận tỉnh Châu Đốc bằng tàu “tắc ráng” với nhiều quà cáp.Tôi biết quà của dì chỉ có một ít còn Tường thì rất nhiều, phần lớn là những món quà anh mua bên Nam Vang cho tôi. Với sự nhạy cảm của người con gái tôi biết anh đã yêu tôi sâu đậm, điều nầy làm cho tôi càng khó xử thêm. Tại bến xe Tường quyến luyến không thể dời chân, tôi cũng bùi ngùi không muốn xa anh, thật là “người tiễn biệt không đành tiễn biệt, kẻ ra đi không nỡ ra đi”. Bỗng nhiên Tường ôm chầm lấy tôi và đặt vội một cái hôn lên má tôi, tôi cúi đầu bước nhanh lên xe không dám nhìn anh. Xe từ từ chuyển bánh, tôi quay lại thấy anh vẫn đứng đó, dáng cô đơn thật buồn…

Tôi trở về nhà tiếp tục cuộc sống bình thường nhưng tâm tư không còn bình thường nữa, nhiều xáo trộn, nhiều suy tư, nhiều thương nhớ. Hình bóng hai chàng trai tôi quen biết trong chuyến nghỉ hè vừa qua luôn ám ảnh tôi trong từng giấc ngủ.Tôi nhận liên tiếp những lá thư của hai anh.Thư Minh Hiền thì ấm áp, ngọt ngào, thiết tha, ân cần mong đợi.Thư Thiên Tường lại dạt dào thương nhớ, ray rứt xót xa, nồng nàn tình cảm. Tôi chưa hiểu được lòng mình, chưa dám quyết định thế nào. Thư của Tường đến với tôi hằng tuần, còn Hiền thì cả tháng mới có một lá và anh cũng không viết nhiều như Tường. Thật sự Hiền chưa nói gì với tôi cả, chúng tôi vẫn chỉ là bạn mà thôi. Mỗi khi đọc thư Hiền tôi thấy vui vui vì những câu chuyện anh kể, thư anh loáng thoáng chút tình cảm vu vơ, chút hy vọng…Còn thư Tường làm tôi rơi nước mắt mỗi lần đọc. Ngoài sự nhớ nhung Tường dành cho tôi còn những câu chuyện hiểm nguy thầm lặng anh mà phải đương đầu, sự cô đơn buồn bã không người chia xẻ. Những lúc không nhận được thư của Hiền tôi bâng khuâng, lo lắng nhưng không nhận được thư Tường tôi nôn nóng, sốt ruột ngồi đứng không yên.Tôi biết tình cảm của mình đã nghiêng về Thiên Tường rồi.Trong giấc ngủ của tôi tràn đầy hình bóng anh với nỗi nhớ nhung da diết. Những lời nói, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười cùng sự chăm sóc ân cần của anh đã giữ chặt được trái tim cô gái nhỏ, đã làm cô ngã gục trước tình yêu đầu đời. Cứ như thế tôi phải chịu đựng suốt một năm dài, âm thầm một mình không thể than thở cùng ai. Rồi bỗng nhiên tin tức về Tường vắng bặt gần ba tháng, tôi viết thư cho dì cũng không thấy hồi âm. Không thể chờ đợi lâu hơn nữa, tôi lấy vé xe đi ngay xuống nhà dì để mong được gặp Tường.

Khi đến nhà dì, vừa bước lên sàn nhà điều tôi nhìn thấy trước tiên là bức ảnh của Tường được họa lớn đặt trên bàn thờ giữa nhà. Tôi kinh hoàng, cảm thấy như trời đang sập xuống, đầu óc tôi hoảng loạn, tim nghẹt thở. Tôi chỉ kịp kêu hai tiếng “trời ơi” rồi qụy xuống trên tay dì.

Khi tôi gượng dậy được liền hỏi dì:

- Dì ơi, sao anh Tường chết vậy? Con không thể nào tin đây là sự thật. Người như anh ấy sao trời nỡ đành cướp đi mạng sống lúc tuổi còn quá trẻ.

Dì dìu tôi ngồi xuống ghế rồi lấy mấy nhang châm lửa đưa cho tôi và bảo:

- Con đốt nhang cho nó đi. Nói với nó vài lời vì nó thương con lắm, lúc nào cũng nhắc đến con. Dì là mẹ thì làm sao không hiểu con mình. Dì định sẽ bàn chuyện đó với mẹ con, nhưng bây giờ đã muộn rồi.

Dì nói xong đưa khăn lau nước mắt, nước mắt của người mẹ đau khổ trong cảnh “tre già khóc măng non”. Tôi nghe cay xé tâm cang, xót xa đau đớn như ai cắt từng đoạn ruột. Tôi hụt hẫng, chới với trước sự thật não lòng nầy. Tường ơi, tại sao anh không chờ em? Tại sao anh lừa dối em? Anh hứa sẽ thương yêu và lo lắng cho em suốt đời mà!

Tôi như ngây như dại ngồi lắng nghe dì kể lại sự việc đã xảy ra cho Tường:

“ Ngày hôm đó mấy người bạn thường đi buôn chung với Tường đến nhà bảo rằng có đường dây làm ăn tận bên Nam Vang tốt và đáng tin cậy lắm. Nếu chuyến hàng nầy thành công thì sẽ kiếm lời thật nhiều. Tường nói với dì:

- Con đi buôn chuyến nầy là lần cuối vì con đã dành dụm đủ tiền để mở tiệm chụp hình như ý nguyện. Sau đó con sẽ…cưới vợ và lo phụng dưỡng mẹ.

- Có nguy hiểm không con?

- Thật ra hàng hóa của tụi con buôn cũng là hàng hóa thường xài, chỉ có trốn thuế thôi chớ không phải hàng quốc cấm đâu mẹ: nước hoa, thuốc lá và một số thuốc Tây thông dụng từ Thái Lan về. Con sẽ không sao đâu.

Rồi sau đó mấy ngày liền dì không thấy Tường về. Dì chạy đi dò hỏi khắp nơi, đến gia đình của mấy người bạn nó, nhưng không ai có tin tức gì. Đến ngày thứ 5 thì hai đứa trong bọn nó trở về mặt mũi hốc hác tiều tụy như trở về từ ngục tù. Chúng cho biết rằng chúng phải qua biên giới để nhận hàng, trên đường về bị Cảnh Sát của Campuchia bắt gặp, rượt đuổi theo.Tụi nó sợ bỏ chạy nên họ đã nổ súng vào chúng. Khi hai đứa kia được an toàn thì thất lạc hết ba đứa, chúng chờ nghe ngóng tin tức hết mấy ngày không có nên nghĩ rằng tụi kia đã chết rồi mới quay về nhà báo tin. Dì và cha mẹ hai đứa kia đành xây mấy ngôi mộ giả gần biên giới cho chúng và thường đến đó cúng kiến, viếng thăm“.

Câu chuyện về cái chết của Tường dì kể như thế. Vừa nghe xong tôi bỗng có ý nghĩ là Tường chưa chết, có thể anh bị thương đang điều dưỡng hoặc bị Cảnh Sát Campuchia bắt hay đang trốn tránh, ẩn náu đâu đó để chờ ngày tìm đường về nhà.

Buổi chiều dì dẫn tôi ra nơi có ngôi mộ đất nằm hiu quạnh trên cánh đồng gần biên giới. Một tấm bia bằng gỗ đơn sơ với tên Lê Thiên Tường mất tháng... năm… không có ngày vì dì tôi không biết anh mất ngày nào. Dù không chắc chắn Tường đã chết nhưng tôi không khỏi đau lòng xót xa rơi lệ. Kỷ niệm về anh còn sâu đậm trong tôi, từng lời nói, từng cử chỉ âu yếm yêu thương như hiện ra lồng lộng. Tôi nhìn vào ngôi mộ giả thì thầm với anh:

- Tường ơi, nếu còn sống sót anh hãy trở về, em đang chờ đợi anh, đang nhớ thương anh từng giây từng phút. Nếu như anh chết rồi thì hãy báo mộng cho em biết, đừng dằn vật em trong hoang mang đau khổ thế nầy. Đến giờ nầy em mới thật sự hiểu được lòng mình, mới biết chắc rằng em đã yêu anh, nhưng anh nào nghe thấy.

Tôi ngồi lặng yên rất lâu ở đó, không tin là Tường đã ra đi vĩnh viễn. Biên cương chiều nay khói sương mờ mịt buồn tênh, trời đất lên cơn sầu như khóc tiễn đưa ai. Những cánh hải âu la đà trên sóng nước cất tiếng kêu lạc loài, buồn bã như còn nuối tiếc khoảng trời cao rộng của trùng dương. Tôi nghe mơ hồ, loáng thoáng, bàng bạc đâu đây có tiếng ai thổn thức. Không dằn được xúc động tôi cất tiếng gọi lớn:

- Anh Tường ơi! Hãy về nhà đi, em đang chờ anh, em đang nhớ anh mà.

Tiếng kêu của tôi như tiếng gió bay vào sa mạc, không vọng về một chút dư âm. Bên kia bờ sông là biên giới, đi qua bên đó là một đất nước mà tôi không quen nhưng sao nỡ ôm giữ thân xác Tường không trả anh về cho tôi? Tự nhiên tôi thấy căm giận người Miên, hận kẻ đã lấy mạng sống của Tường và… tôi cúi đầu ôm mặt khóc. Tôi khóc cho anh hay khóc cho tôi? Hay khóc cho một mối tình chưa hò hẹn mà đã ly tan? Tôi não nề, thất thiểu theo chân dì ra về, lòng trĩu nặng sầu thương.

Mỗi buổi hoàng hôn tôi đều nhờ dì dắt tôi ra thăm mộ Tường. Dì ngăn cản:

- Sao con cứ muốn đi vào buổi chiều vậy? Nguy hiểm lắm vì đường sá vắng vẻ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra.

- Vì con hy vọng sẽ gặp được anhTường dù là ảo ảnh hay hồn ma bóng quế. Buổi chiều có nhiều hy vọng hơn dì ạ!

Dì lắc đầu:

- Con ơi, ở đó chỉ là nấm mộ tượng trưng thôi, thân xác nó không biết bây giờ ở đâu. Nếu nó linh thiêng dù con ở nhà nó vẫn cho con gặp.

Mặc cho dì khuyên thế nào tôi vẫn một mình đi thăm Tường mỗi khi trời vừa nhạt nắng. Nhưng rồi tôi không thể lưu lại nhà dì lâu hơn được. Buổi chiều cuối cùng tôi đến từ giã anh với tâm tư rạn nứt khổ đau. Không nén được nỗi sầu thương, tôi đã khóc và kể lể tâm sự với anh rất nhiều. Tôi cứ ngồi đó mặc cho bóng chiều nhạt nhòa cảnh vật, tôi không còn biết sợ sệt, tôi miên man nghĩ về Tường. Bỗng đâu có một bàn tay dài từ phía sau đưa tới… chầm chậm bóp xuống vai tôi… làm tôi giật mình kinh hãi gần ngất xỉu. Khi tôi định thần nhìn lại thì nhận ra là Minh Hiền, tôi vừa mừng vừa giận:

- Trời ơi, tại sao anh không lên tiếng trước? Anh dọa chết em rồi đó.

- Thấy em nhập tâm suy nghĩ quá nên anh không dám gây tiếng động.

Tôi nhìn Hiền:

- Anh về hồi nào? Đi phép hay công tác ngang đây?

- Anh nghe tin Tường mất nên xin phép về thăm nó. Anh nghĩ có thể gặp được em vì thế nào em cũng xuống đây. Anh biết chuyện của Tường vì hắn đã thố lộ với anh hết rồi.

- Thật sao anh?

Hiền khẻ gật đầu. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao Hiền lại giữ khoảng cách với tôi mặc dù ngay từ buổi đầu gặp mặt chúng tôi đã có nhiều thiện cảm cho nhau.

Tôi nhìn Hiền thầm cảm phục, anh thật cao cả. Hiền dìu tôi đứng lên:

- Thôi mình về đi em. Trời tối rồi không nên ở đây lâu.

- Dạ, mình về.

Gió bỗng thổi lên lồng lộng, tiếng chim kêu “cú cú cú” trên cây nghe rờn rợn não nùng, âm vang tiếng sóng đưa về từ bờ sông như hờn như oán, như mang nỗi niềm u uất chưa tan của một linh hồn lạc loài, cô đơn bất hạnh. Vầng trăng cũng vừa nhô lên ở cuối chân trời, trăng hạ tuần mờ nhạt như đêm nào hai đứa ngồi bên nhau tâm sự. Giờ đây tôi đang chết cả tâm hồn còn anh về một phương nào? Tường ơi, Tường ơi!

Bên tai tôi Minh Hiền nói rất nhiều, nói miên man gì đó tôi không nghe hết, tôi chỉ nghe được câu cuối:

- Anh sẽ chờ em Như ạ! Chờ đến khi em quên hết chuyện đã qua.

Tôi không trả lời anh nhưng thầm nghĩ:

- Chắc anh sẽ chờ lâu lắm Hiền ơi! Chờ đến khi nào em quên được buổi chiều nay, một buổi chiều buồn nhất trong đời em.

Hiền kéo tay tôi đi nhanh giữa khi màn đêm bao phủ. Đầu óc tôi bỗng đau nhức, tôi lên cơn sốt và cảm thấy lâng lâng, mơ màng… hình như có tiếng nhạc từ đâu vẳng vẳng:

“…Chờ nhau hoài cố nhân ơi. Sương buồn che kín nguồn đời.
Hẹn nhau một kiếp xa xôi. Nhớ nhau muôn đời mà thôi…”

Trước mắt tôi hình ảnh của Tường chập chờn, nghiêng ngã, mờ mờ ảo ảo không rõ rệt. Tôi thấy mình như đang bay lơ lững giữa ngàn mây. Tôi trôi bồng bềnh, thênh thang… bay mãi vì không có lối quay về.

Vi Vân

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22006
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Aug/2019 lúc 8:12am

Chị Mè 


Đầu năm tôi vào học lớp nhất trường tiểu học, gia-đình tôi có thêm một người giúp việc. Lúc bấy giờ gia đình tôi đã có một chị giúp việc lớn tuổi chuyên lo về công việc đi chợ, nấu ăn, giặt giũ quần áo, lo giữ nhà cửa sạch-sẽ.

Cha mẹ tôi có tất cả năm người con, và trong tương lai gần mẹ tôi sẽ có thêm một đứa con nữa. Có lẽ vì vậy mẹ tôi đã thuê thêm chị Mè. Cha mẹ tôi có một cơ-sở làm ăn tương đối lớn, bận rộn công chuyện suốt ngày, mấy anh chị em chúng tôi thiếu người săn sóc, nên chị Mè được giao cho công việc nầy.
Chị Mè còn trẻ lắm, chị khá đep, tóc ngắn ngang vai, kiểu tóc mà thời bấy giờ người ta gọi là tóc thề. Chị gốc người làng Trà-Kiệu, thuộc tỉnh Quảng-nam, cả làng theo đạo Thiên-chúa, nơi người ta nói đã có lần Đức Mẹ hiện ra.

Hàng ngày chị Mè tắm rửa, thay quần áo, lo cho ăn uống và đưa đón anh chị em tôi đi học.

Chị Mè không biết chữ, nhưng chị thuộc kinh Chúa, đêm nào chị cũng đọc kinh trước khi ngũ. Cha mẹ tôi gốc đạo Phật, nhưng tôi chưa có dịp đi chùa lần nào, cũng chưa biết ông Phật là ai, nhưng qua chị Mè, tuổi thơ tôi thấm nhuần rất nhiều về đạo lý của Thiên-chúa do chị kể. Chị đã dạy cho tôi thuộc kinh Kính Mừng, Kinh Lạy cha và tôi đã được nghe chuyện rước mình Thánh chúa, nếu ai nhận mình Thánh chúa không để tụ tan trong miệng, nuốt liền vô bụng thì mình Thánh chúa sẽ biến thành lửa đố cháy ruột để trừng phạt. Chị khuyên tôi làm điều tốt, không nên làm điều ác, làm điều tốt sẽ được lên Thiên-đàng gặp Đức-chúa Trời, làm điều ác sẽbị đọa vào Hỏa-ngục, bị quỷ ăn thịt, bị đốt thành lửa.

Mỗi sáng Chúa-nhật, chị được cha mẹ tôi cho phép đi dự thánh lễ ở nhà thờ Con gà. Khi trở về nhà, chị thường kể lại cho tôi nghe những gì chị được nghe cha xứ đã giảng. Có một buổi sáng Chúa nhật chị chuẩn bị đi lễ nhà thờ, lúc bước xuống cầu thang thì guốc chị bị đứt quai, chị không có guốc khác thay thế, chị không đi dự lễ nhà thờ được, chị ngồi khóc bên chân cầu thang.Tôi phải xin phép mẹ tôi cho chị mượn guốc thay thế. Chị mừng quá, ôm tôi hôn rất nhiều lần vào má và không quên lắp bắp lời cám ơn. Có lẽ nhìn cảnh chị mừng rỡ khi có guốc tạm thay thế vào buổi sáng hôm đó nên vào lúc chị từ nhà thờ về nhà, cha tôi bảo mẹ tôi cho tiền chị mua đôi guốc mới. Tôi nghe cha tôi nói với mẹ:
- Mình cho con Mè tiền mua đôi guốc mới, guốc nó mòn và đứt quai không đi được".
Tôi nghe tiếng mẹ tôi:"

- Cứ sáu tháng tôi trả tiền công cho nó một lần, tôi mới trả cho nó chưa tới năm ngày, nói nó lấy tiền đó mua".
Cha tôi cười, nói:
- Bà nầy hay thật, tiền đó nó nhờ tôi gởi hết về cho cha mẹ nó rồi, bà biết mà".


Tôi không nghe mẹ tôi nói gì thêm. Chiều hôm đó, mẹ tôi dẫn chị ra chợ mua guốc. Đôi guốc sơn màu đen rất đẹp. Khi chị đem đôi guốc bằng gỗ vông của chị vứt đi, tôi nhìn thấy đôi guốc của chị mòn đến nổi không có đủ bề dày để giữ chiếc đinh khi đóng quai.
Chị Mè không biết chữ, thời đó chính quyền của ông Ngô-đình-Diệm khuyến khích dân chúng đi học trong kế khoạch xóa nạn mù chữ, vì vậy có những lớp học Bình-dân giáo-dục mở ban đêm cho dân chúng không biết chữ,bận công việc ban ngày,đêm có thời giờ đi học. Cha mẹ tôi cho chị đi học lớp Bình-dân giáo-dục trong đình của khu phố. Lúc đầu chị không chịu đi, tôi hỏi, chị nói:"chị lớn cái đầu rồi mà còn đi học, mắc cỡ chết đi dược".


Rồi trước tết năm đó mấy ngày, cha mẹ tôi cho chị về quê thăm gia-đình và phải trở ra làm việc những ngày tết. Sau tết, chị xin được đi hoc lại lớp bình dân giáo dục. Cha mẹ tôi cũng không hỏi lý do tại sao trước đây chị từ chối nay lại đòi đi. Nhưng sau tối đầu tiên đi học trở về nhà, tôi cắc cớ hỏi chị: "Hôm nay chị Mè vào lớp có mắc cỡ không?" 

Chị đập khẽ vào đầu tôi nói: "Có mà ít ít thôi, không bằng hôm trước Tết chị về quê, khi vào làng, bị mấy thanh thiếu niên giăng giây chận đường xem giấy tờ, bắt đọc chữ trước khi cho vào làng. Chị đâu có đọc được, mấy đứa đó đưa chị vào trụ sở hội-đồng xã, họ bắt chị làm ký giấy cam kết phải đi học cho biết đọc biết viết. Nếu kỳ sau chị về làng mà bị kiểm soát, không đọc được chữ thì họ không cho vào làng. Hôm đó chị mắc cỡ muốn chun đầu xuống đất luôn. Gặp toàn mấy thanh niên thiếu nữ và người quen trong làng khuyên chị nên theo lớp Bình-dân học vụ. Kỳ sau về làng, bị kiểm soát, không đọc chữ được chắc là họ không cho vô làng quá, xấu hổ lắm".

Bên cạnh nhà tôi có một hẽm nhỏ, đầu hẻm có một tiệm hớt tóc. Người hớt tóc thuê mái hiên của một căn nhà để mở tiệm. Mấy anh em trai tôi là thân chủ của anh chủ tiệm hớt tóc nầy. Mỗi một tháng rưỡi, anh em tôi được chị Mè dẫn ra đây giao cho anh chủ tiệm, rồi trở lại trả tiền để đón về. Chủ tiệm là anh Cường, người ta gọi anh Cường chay, bởi vì anh ăn chay, không ăn thịt cá.Theo lời của một bà bán rong bún ốc kể cho mẹ tôi nghe nhân một buổi sáng cả nhà tôi ăn bún của bà. Anh Cường chay ngoài việc hớt tóc anh còn biết nghề xem chỉ tay, được nhiều người tin cậy, trong đó có bà. Anh xem chỉ tay chứ không nhận tiền của một ai. Anh là người cùng làng với bà ở An-cựu thành phố Huế.


Anh Cường chay có một người cậu đi tu ở chùa Từ Hiếu. Anh học hết năm đệ lục trường Quốc-học thì bỏ học vì nhà quá nghèo. Anh là con trai một nên không bị đi lính. Anh học nghề hớt tóc của người cậu và được người dì em của mẹ đem vào Đà nẵng hành nghề, vì ở An-cựu có nhiều người làm nghề hớt tóc nên khó kiếm sống. Do tiết lộ của bà bán bún, thỉnh thoảng mẹ tôi mời anh Cường qua nhà nhờ xem chỉ tay. Mẹ tôi thường khen anh Cường chay với cha tôi:

- Thằng Cường chay xem chỉ tay hay thật, nó nói tôi trúng như gần hết".
Tôi không nghe mẹ tôi nói anh Cường chay đã nói đúng những gì, nhưng mỗi lần nghe mẹ tôi nói như vậy cha tôi “hừ” lên một tiếng:
- Bà toàn tin những điều nhảm nhí".
Mẹ tôi còn nhanh nhẩu mời mấy bà bạn đến nhà để nhờ anh Cường chay xem chỉ tay nữa. Những lúc như vậy, cha tôi không vui, mặt ông nhăn nhó, bỏ đi khỏi cửa hàng đang buôn bán. Tuy nhiên, những lúc cha tôi đi Sài-gòn mua hàng trở về đều có quà cho anh Cường chay, có lẽ để trả ơn những lúc anh đã xem chỉ tay cho mẹ tôi.

Khi tôi bắt đầu vào năm học lớp đệ thất, chị Mè cũng đã biết đọc. Không biết ai cho chị quyển Thánh kinh, chị nâng niu, giữ gìn rất kỹ. Chị để quyển Thánh kinh trên đầu tủ, buổi tối, trước khi đi ngủ, chị rửa tay rồi mới lấy xuống đọc. Có lúc tò mò muốn biết trong Thánh kinh viết những gì, tôi hỏi mượn để xem, chị đồng ý cho mượn nhưng bất tôi phải rửa tay và nhiều lần nhắc tôi không được để sách trên ghế ngồi, như vậy sẽ bị Chúa phạt,

Rồi có một thời gian, tự nhiên tôi nghe mẹ tôi hay la rầy chị Mè; mỗi lần bị la như vậy tôi thấy chị Mè đúng trong góc nhà bếp khóc, hai mắt đỏ hoe. 
Mẹ tôi la chị:

- Sao lúc nầy mi cứ dở dở ương ương, y như người trên mặt trăng, làm trước quên sau, làm gì hư nấy, lúc nào cũng thẩn thờ như bị ai hớp hồn. Chỉ việc pha sữa tới giờ cho em bú mà cũng quên để cho thằng nhỏ khóc ầm cả lên." 
Tôi chưa bao giờ nghe chị trả lời mẹ tôi khi bị la mắng như vậy. Chỉ im lặng và khóc. Khác với những kỳ đi hớt tóc trước, kỳ nầy chị Mè tự nhiên nhắc tôi đi hớt tóc từ ba ngày trước. Đến hôm chị dẫn tôi vừa ra đến cửa thì cha tôi bảo: "Nó lớn rồi tự đi hớt tóc một mình, khỏi cần đưa đi."

Chị Mè quay lui vào nhà, mặt chị xịu xuống và buồn. Khi tôi bước vào tiệm hớt tóc, anh Cường chay thay vì chào tôi như trước đây, anh bước ra khỏi tiệm nhìn trước nhìn sau con hẽm rồi đi trở vào hỏi tôi:
- Sao nay chị Mè không đưa em đi?"


Tôi trả lời: “Cha em nói em lớn rồi không cần chị Mè đưa đi".Tôi nghe anh Cường thở dài. Suốt buổi hớt tóc hôm đó, anh Cường không nói thêm với tôi một lời nào.. Khi từ tiệm hớt tóc về nhà, chị Mè gội đầu cho tôi, chị hỏi:
- Anh Cường có hỏi gì chị không? "Tôi lắc đầu. Chị lại hỏi lần nữa:
- Bộ anh ấy không hỏi gì chị sao?".
Tôi lại lắc đầu.Tôi lại nghe chị thở dài và chờ mãi không thấy chị dội nước lên đầu khiến tôi phải nhắc chị. Mãi đến tối hôm đó tự nhiên tôi nhớ lại lời anh Cường có hỏi tôi vừa luc tôi đến hớt tóc. Tôi xuống bếp tìm chị. Chị đang đọc quyển kinh thánh.
Tôi nói với chị:
- Bữa ni anh Cường có hỏi, sao chị Mè không dẫn em đến hớt tóc, em trả lời cha em nói em lớn rồi đi một mình được, không cần chị Mè đưa đi" . Tôi thấy mặt chị rạng rỡ lên, chị nâng quyển Thánh-kinh lên hôn. Lúc tôi ra khỏi bếp, tôi nghe chị nói vọng theo:
- Lần sau đừng quên như vậy nghe em, tội chị lắm!”.
Mấy hôm sau, ngày Chúa-nhật, sau khi chơi đá banh trở về, lúc đi ngang nhà thờ Con Gà, chen lẫn giữa những người dự Thánh lễ ra về, trên đường đi, tôi nhìn thấy anh Cường chở chị Mè sau xe đạp. Buổi trưa khi chị Mè gọi cửa để vô nhà, tôi mở cửa. Chi vừa vào trong cửa, tôi cười và nói lớn:
- Lủc nảy em thấy anh Cường chở chị sau xe đạp !" 
Chị nhào tới đưa tay bịt miệng tôi, nhưng cha mẹ tôi đã nghe và đã thấy. Mặt chi đỏ gay, cúi đầu đi một mạch vào trong. Vừa lúc đó mẹ tôi nói với cha tôi:- Hèn chi mấy tháng ni nó cứ thẩn thờ, quên trước, quên sau, nó thương thằng Cường chay rồi...mới có bấy nhiêu tuổi!

Cha tôi cắt ngang lời mẹ tôi, nói diễu:

- Hay ghê! chớ bà yêu tôi lúc bao nhiêu tuổi ? Con Mè năm ni nó mười bảy tuổi rồi, lúc đó bà còn nhỏ thua nó một tuổi..bộ quên rồi sao ?"

Tôi chỉ nghe mẹ tôi "hừ” một tiếng rồi bỏ lên lầu.

Chuyện anh Cường chay và chị Mè thương nhau những ai ở trong hẽm gần tiệm hớt tóc của anh Cường cũng biết. Bà chủ nhà cho anh Cường thuê mái hiên trước nhà để làm tiệm hớt tóc đã có lần kể cho mẹ tôi nghe lúc đó có tôi bên cạnh. Mấy ngày trước đó, ông thầy tu, cậu anh Cường ngoài Huế vào thăm anh Cường, có đến tiêm hớt tóc chơi, bà nghe người cậu nói chuyện với anh Cường: "Cậu và có thể cả mẹ cháu cũng không chấp nhận cuốc hôn nhân nầy. Cháu, con nhà thờ Phật bao nhiêu đời nay rồi mà cưới con Mè gốc đạo Thiên chúa đến khi cháu chết thì ai cúng cơm cho, bộ cháu muốn làm ma đói?”

Anh Cường phân trần:
- Đâu có sao, lấy chồng thì phải theo đạo chồng, cùng quả thì đạo ai nấy giữ, cậu nói giúp cháu để bà chấp thuận hai cháu cưới nhau".
Người cậu lắc đầu lia lịa:
- Cậu biết là không được đâu, nhưng cậu sẽ cố nói giúp cho cháu, được hay không thì cậu chưa biết."Rồi ông gằn giọng:

- Hết người thương sao lại thương con nhà theo đạo Chúa!"
Ông hỏi anh Cường tuổi của chị Mè, bấm đốt ngón tay, miệng lẩm nhẩm: "Tuổi hai đứa không có gì xung khắc, nhưng cái đạo của ông Chúa và ông Phật xung khắc...không biết tính sao đây ?"

Không bao lâu sau khi nghe lõm được chuyện anh Cường chay muốn cưới chị Mè, chị xin phép cha mẹ tôi nghỉ vài hôm để về Trà-kiệu chờ ngày gia-đình anh Cường từ Huế vào xin lẽ hỏi. Thời gian đó anh Cường cũng nghỉ hớt tóc.
Ngày trở lại làm việc, chị Mè buồn thiu, chị không nói chuyện với ai, ngay cả tôi chị cũng không nói một lời. Ngày Chúa-nhật chị cũng không đi lễ nhà thờ. Càng ngày chị càng thẩn thờ hơn. Mẹ tôi cũng la rầy chị nhiều hơn vì chị lơ là công việc hàng ngày, đến nổi cha tôi phải ngăn mẹ tôi nặng lời với chị:
"Mình hãy thông cảm cho con Mè, gia-đình nó không cho thằng Cường chay cưới nó vì thằng Cường chay không chấp nhận bỏ Phật theo Chúa, nó mất tinh thần nên sao lãng công việc nhà, lần hồi tinh thần nó sẽ ổn định, làm việc bình thường trở lại.


Định kỳ hớt tóc của tôi tháng đó bị gián đoạn, anh Cường chay đóng cửa tiệm không rõ lý do. Ngày anh mở cửa làm việc trở lại cũng là ngày bà chủ nhà cho anh Cường chay thuê mái hiên làm tiêm hớt tóc qua nhà nói chuyện với mẹ tôi và tối hôm đó mẹ tôi kể lại cho cha tôi trong bửa cơm: "Thằng Cường chay đã đổi ý, chịu bỏ Phật theo Chúa để được cưới con Mè. Mẹ thằng Cường chay không chịu, đòi cắn lưỡi tự tử và bà ta đã làm thật. Gia-đình thằng Cường chay phải chở bà vào nhà thương Huế cấp cứu, may mà cứu kịp."

Rồi không hiểu sao, chị Mè vui vẻ trở lại,công việc nhà chị làm không còn bị mẹ tôi quở trách nửa. Chị tiếp tục đi lễ nhà thờ mỗi Chúa nhật, anh Cường chay chở chị đi lễ và đón chị trở về bằng chiếc xe đạp đầm mới mua. Chị Mè đã tiết lộ cho tôi biết, buổi tối hết công việc,chị sẽ xin phép cha mẹ tôi tập đi xe đạp, chi nhờ tôi: "Tối nào chị tập đi xe đạp, em giúp chị đóng của và mở của cho chị được không ?"

Tôi đồng-ý, hỏi chị: "Xe đạp đâu mà chị tập ?"
Chị trả lời không đắn đo: "Xe đạp anh Cường mới mua".

Biết được chuyện chị Mè được anh Cường chay đưa đón đi lễ nhà thờ mỗi sáng chúa nhật bằng xe đạp, mẹ tôi nói với cha tôi: "Từ đây ra nhà thờ Con gà chỉ có hai trăm thước mà đưa với đón, bày đặt!

Cha tôi lại cười: "Nguời ta yêu nhau mà em !"
Tôi học chưa hết năm đệ lục, chị Mè xin nghỉ việc vì giao ước làm việc ba năm chấm dứt. Cha mẹ tôi đồng ý.

Lúc bấy giờ mấy anh chị em tôi đã lớn, đứa em nhỏ nhất ba tuối đã có chi hai tôi săn sóc những khi nghỉ học hay những lúc rảnh rổi. Cha mẹ tôi cũng không còn cần chị Mè. Mùa hè năm đó tôi lang thang cũng lũ bạn nơi họ đạo Tam-tòa, tình cờ tôi gặp chị Mè, chị cho tôi biết đang cùng chung với người bạn mở một tiệm may quần áo tại đây. Chị đưa tôi và lũ bạn về tiệm may của chị và pha nước chanh cho uống. Đang uống thì anh Cường chay đạp xe đến, vứt xe bên vệ đường đi nhanh vào tiệm may, mặt anh cau có có vẻ bực bội.
Anh nắm tay chị Mè kéo vào sau nhà. Thấy không khí lúc đó không vui, tôi và lũ bạn im lặng rời tiệm may. 
Về gần đến nhà, ngang qua hẻm có tiệm hớt tóc của anh Cường chay, nhìn thấy có vài người tụ tập trước tiệm hớt tóc, tò mò tôi dừng lại, tôi biết anh Cường chay không có trong tiệm, anh đang ở tiệm may của chị Mè.
Một người đàn bà tóc đã bạc đang ngồi bệt dưới đất trong tiệm hớt tóc, mặt mày bơ phờ, tóc tai rũ rượi, hai tay đập vào nền đất, miệng rên ư ử : "Con ơi là con ! Mè ơi là Mè ! con ở đâu mà mấy tháng ni không về với cha mẹ? Cường ơi là Cường ! mi giấu con gái tau ở mô ? hãy đem nó trả lại cho tau...không thì tau đập đầu chết ở đây cho mi hả dạ..."
Mấy người hiếu kỳ đứng xem nói với nhau:
"Cương chay với con Mè thương nhau, xin cưới nhau nhưng hai bên cha mẹ không thuận vì khác đạo nên hai đứa nó lén lút sống chung. Bữa ni mẹ con Mè từ quê ra tìm nó, đến đây nằm vạ đòi con gái."
Tôi rời đám đông, ra đến đầu hẽm thì vừa lúc anh Cường chay đạp xe chở chị Mè chạy vào hẽm.

Tối hôm đó chị Mè đưa mẹ qua xin phép cha mẹ tôi cho ngủ nhờ để sáng hôm sau trở lại quê. Anh Cường chay đứng ngoài cửa, tôi nghe anh thở dài, còn chị Mè hai mắt đỏ hoe.

Mấy ngày liên tiếp sau đó tiệm hớt tóc của anh Cường chay đóng cửa, bà chủ nhà lại qua nói chuyện với mẹ tôi:
"Hôm con Mè đưa mẹ về quê, khi qua đò, con Mè nhảy sông tự tử, nhờ nước sông cạn nên con Mè được vớt lên, chở vô bịnh xá quận Điện-bàn cứu chữa. Bác sĩ nói cái thai trong bụng con Mè không bị ảnh hưởng gì. Thằng Cường chay không làm việc mấy bửa ni, nó đi thăm con Mè ở bịnh xá."

Bà lại thở ra: "Trai gái thời nầy loạn rồi, chưa thành vợ thành chồng mà đã ăn nằm với nhau để có chửa!"
Từ đó, tôi không còn được gặp hay được nghe tin tức nào liên hệ đến anh Cường chay và chị Mè.


*****

Sau những năm tháng chiến tranh ác liệt Quốc Cọng, miền Nam Việt-nam thua cuộc. Chiến tranh chấm dứt, nhưng lòng người lại ly-tán. Đất nước như nồi canh chay bị vỡ, người dân xông xáo khắp nơi, tìm đường ra khỏi biên giới, làm người Do-Thái lang-thang, tạo lập cuộc sống mới nơi xứ người. Trong dòng người nầy có gia-đình tôi. Trong những năm tháng tạo lập đời sống mới, lần lượt cha mẹ tôi qua đời, linh-vị được thờ tại một ngôi chùa nhỏ phía Nam thành phố Paris nước Pháp. Chùa có tên Tây-Phương. Vị sư Trụ-trì chùa, Thượng-tọa Như-Hóa mới đây đã viên-tịch, một thầy khác, Thuợng Toạ Giác-Miên, được mời từ Népal qua thay thế nhưng tôi chưa có dịp diện-kiến. 

Rằm tháng bảy âm-lịch trong năm 2000, tôi điện thoại đến chùa xin ghi danh lễ cầu siêu cho cha mẹ nhân ngày xá tội vong nhân. Hôm đó, tôi vừa đến chùa thì lễ cũng đã bắt đầu.Tiêng đọc kinh, tiếng chuông mõ hòa quyện cùng khói nhang thơm làm tâm thần tôi thanh-thản, tôi cố lắng nghe âm thanh tên, tuổi cùng pháp-danh của cha mẹ tôi sẽ được đọc lên trong buổi lễ..tôi đang chờ...tên của cha mẹ cùng Pháp-danh của một phật-tử nào đó được đọc lên, kế tiếp ...và kế tiếp...

Tôi giật mình, không tin vào tai tôi..Théresa Hứa-thị Mè, sinh ngày 12 tháng ba năm 1943 tại làng Trà-kiệu tỉnh Quảng Nam, tạ thế ngày 10 tháng 2 năm 1999 tại thành phố Marseilles nước Pháp... thầy chủ trì chánh lễ vừa đọc đến đây thì tiếng chuông mõ bổng ngừng lại, hàng Phật-tử dự lễ sát chánh điện ngơ ngác, lao xao. Một tăng sinh còn trẻ nhưng vốn quen việc nghi lễ trong chùa vội vàng thay thế Thầy đọc tiếp danh sách cầu siêu trong tiếng xì xào mất trật tự...rồi có tiếng yêu cầu gọi xe cấp cứu.


Khi biết thầy Giác-Miên bị ngất xỉu, phản ứng theo thói quen của một bác-sĩ, tôi bước nhanh đến bàn thờ Phật. Thượng-tọa Giác-Miên đang quỳ, nhưng cả phần thân người bên trên gục xuống hàng chuông mõ phía trước. Tôi nâng mặt thầy lên, quàng tay sau lưng thầy, đỡ nhẹ thầy nằm xuống mặt thảm trước chánh-điện. Tôi thực hiện những tác động cấp cứu dành cho một người bị ngất xiủ. Vài phút sau thầy bắt đầu tỉnh lại. Một vài Phật-tử giúp tôi dìu thầy về phòng riêng.Tôi tiếp tục theo dõi huyết áp và nhịp tìm của Thầy. Tôi nghe hơi thở của thầy bình thường trở lại, nhưng hai mắt của thầy vẫn nhắm như ngủ. Tôi căn dặn vị thị-giả những điều cần thiết phải săn sóc khi thầy tỉnh hẳn. Vừa quay người định ra khỏi phòng, tôi nghe tiếng thầy Giác-Miên thều thào: "Bác sĩ, bác sĩ có phải là chú Kính ở Đà Nẳng không?"

Tôi quay người lại, thầy thều thào tiếp:
- Chú không nhớ thầy sao ? Nghe cái giọng đặc biệt Quảng-nam Đà-nẵng của chú, thầy nhận ra ngay...Thầy là Cường chay, ngày xưa hớt tóc cho chú đó .

Tôi cúi xuống nhìn kỹ mặt thầy: hai mắt đã mở, hai bên khóe mắt có vài giọt nước chảy dọc theo hai bên sóng mũi. Tôi nhận ra được thầy Giác-Miên là anh Cường chay. Tôi ngối xuống bên cạnh thầy, hai tay nắm hai tay của thầy. Xúc động làm tôi ứa nước mắt...mới đó mà đă hơn hai mươi lăm năm. Cái âm thanh Theresa Hứa thị-Mè vừa được đọc lên trong lễ cầu siêu lại hiện trong đầu tôi..và tôi chợt hiểu, có thể đó là lý do thầy Giác-Miên ngất xỉu!
Những tháng năm sau đó tôi viếng chùa Tây-Phương thường xuyên hơn, có lẽ vì anh Cường chay là Thuợng Toạ Giác-Miên trụ trì. Một hôm, tôi gặp thầy xin nhận một lễ quy-y cho toàn gia-đình của tôi. Nhân lúc trong phòng làm việc chỉ còn mình thầy, tôi đánh bạo hỏi:
- Chắc thầy còn nghĩ đến chị Mè phải không?

Thầy không trả lời, mặt trở nên suy-tư, xa vắng. Tôi hỏi tiếp:
- Hồi đó, sau khi chị Mè nhảy sông tự-tử, thầy có găp được chị ấy không?

Thầy bối rối và do dự khá lâu rồi mới bắt đầu nói chuyện của thầy với giọng buồn rầu:
- Mô Phật! Mấy mươi năm nay thầy đã chôn quá khứ của thầy trong lời kinh, tiếng chuông tiêng mõ mà hình như nghiệp vẫn chưa dứt được, còn theo mãi cho đến ngày nay......

... Trước khi Mè nhảy sông tự vẫn, thầy và Mè đã chuẩn bị sẵn sàng vào Lâm-đồng sinh-sống. Lúc bấy giờ Mè đã có thai. Chú biết, thầy và Mè thương nhau. Sự ngăn cản của hai bên gia-đình không cho hai đứa cưới nhau càng quyết liệt thì hai đứa càng bất chấp tai tiếng. Sau khi được cứu chữa bình-phục, Mè trở về quê. Hai đứa đã quyết định ngày giờ gặp nhau để bỏ xứ ra đi. Ngày hẹn đã đến, thầy chờ không gặp được Mè.

Ngày hôm đó đồng bào trong quê gồng gánh cùng gia-súc lũ lượt từ trong xóm làng xa xôi tràn ra quốc lộ. Người ta kể cho nhau nghe trận chiến đã xẩy ra đêm hôm trước ở làng Trà-kiệu. Giải-phóng quân Cong-sản Việt-nam đã tấn công làng, đốt phá cơ sở chính-quyền địa-phương bắt dẫn đi chỉ điểm những viên chức chính quyên. Đạn pháo binh từ trong đồn địa phương quân cũng như từ quận bắn vào làng. Gần sáng, máy bay từ Đã-nẵng bay vào yểm trợ. Bom đạn quân đội hai bên làm làng Trà-kiệu tang-hoang. ..Không biết dân làng ai chết ai sống, mạnh ai nấy chạy. Cái gì lấy được thì mang theo. Cả mấy ngày tiếp theo, thầy đi đến các làng xã quanh làng Trà-kiệu, vào các bịnh-viện lớn, bịnh-xá nhỏ tìm Mè, Mè vẫn biệt tăm. Nửa tháng sau thầy theo chân dân làng được cho phép trở về đến trước nhà Mè, ngôi nhà đã bị cháy rụi. Mấy tháng chờ đợi sau đó, tin-tức về sự sống của Mè vô vọng, thầy trở về Huế và thầy xin xuất gia với người cậu...
Sau tốt nghiệp Phật-học viện Nha-trang năm 1970 thầy được học bỗng đi học bên Ấn-độ..rồi ở tu luôn tại bên ấy. Các đây vài tháng thượng-tọa Như-Hoá viên-tịch, thầy được chuyển về đây thay thế.
Tôi hỏi thầy:
- Danh sách lập để được cầu siêu hôm rồi không phải do thầy lập sao?
"Không !.Do một phật-tử chuyên trách từ thời còn thầy Như-Hóa."

Tôi nói tiếp:
- Như vậy thì chị Mè không bị chết trong hôm làng Trà kiệu bị giặc tấn công và người xin lễ cầu siêu xưng là con gái của chị Mè.,.nhưng không rõ có phải là con chị Mè với thầy hay con sau nầy với người khác..."
Thầy không trả lời câu hỏi của tôi, thầy chỉ gật đầu..rồi lắc đầu...rồi thở dài.

Tôi hỏi tiếp:
- Thầy có muốn tim sự thật về chị Mè những tháng năm sau này nầy không?
Thầy trả lời dè dặt:
- Chú Kính giúp thầy việc nầy thí quý hoá lắm. Từ hôm đó đến nay, thầy suy nghĩ hoài mà không biết làm gì và làm như thế nào.
Tôi vừa thương thầy vừa ái-ngại cho thầy, đoán biết trong thầy con sóng tình cảm xa xưa trở về đang làm thầy giao-động.

Nhờ vào số điện-thoại lưu trong phiếu xin lễ cầu siêu, tôi liên lạc với con gái chị Mè. Không khó khăn lắm khi tôi tự giới thiệu với con gái chị Mè, ngày xưa, rằng thời chiến tranh chị Mè làm việc trong gia-đình tôi ba năm, từ khi chị Mè thôi việc, tôi không có tin tức của chị...Vừa qua, nhân dự lễ cầu-siêu tại chùa Tây phương, có nghe tên của chị Mè được đọc trong buổi lễ, nên nay liên lạc để hỏi thăm. Đầu giây, cô gái tự nhận là con gái duy nhất của chị Mè, đang cùng chồng và con cái sống ở một làng vùng ngoại ô Bắc Paris. Qua trao đổi nhận biết nhau, con gái chị Mè mời tôi đến thăm nhà nhân dịp cuối tuần.

Một tuần sau đó tôi đến thăm con gái chị Mè. Nhà nằm trong một trang trại nuôi gà công-nghiệp. Con gái chị Mè tự giới thiệu tên là Michelle, có chồng là người Pháp chủ trại gà và có ba con. Sau những bỡ ngỡ ban đầu hai chúng tôi trở nên thân thiện rất nhanh. Tôi đã kể cho Michelle kỷ niệm giữa tôi và chị Mè ngày xưa lúc chị giúp việc cho gia-đình tôi.Tôi cũng đã giới thiệu cuộc sống hiện tại của tôi...và cả buổi sáng ngày cuối tuần hôm đó tôi đã được nghe Michelle kể về mẹ của mình, chị Mè: 


Michelle sống với mẹ vùng Chợ Đệm Thủ-Đức, mẹ có một quán may nhỏ chuyên sửa quần áo lính cho các sinh-viên sĩ quan Trường bộ binh Thủ-Đức nên cuộc sống của hai mẹ con rất ổn-định. Những năm tháng đó, Michelle không bao giờ được mẹ kể cho biết gia-đình thân thuộc có ai và ở đâu.

Khi hỏi về cha của mình, chị được mẹ nói là thất lạc trong chiến tranh không biết chết sống thế nào. Tên cha được ghi trong giấy khai-sinh là Lê-chí-Cường, sinh-quán tại Huế. Năm 1975, khi miền Nam Việt-nam bị thay đổi chính quyền, mẹ chị vẫn sống bằng nghề may. Michelle được nhận làm tiếp-viên cho khách-sạn Caravelle nhờ thông thạo Pháp ngữ. Tại đây, Michelle quen biết với một du-khách Pháp và một năm sau hai người cưới nhau. Chồng của Michelle là đảng-viên đảng Xã-hội Pháp, làm xã trưởng của một xã nhỏ vùng ngoại ô thành-phố Marseilles.


Michelle và mẹ cùng qua Pháp một ngày. Mẹ được nhận phụ giúp việc săn sóc các nữ tu Thiên chúa giáo về hưu tại địa phương. Năm 1999, mẹ chị bị phát hiện ra bịnh ung-thư lá lách ở giai đoạn cuối. Trong chống chọi với căn bịnh ngặt nghèo, biết là mình không thoát khỏi sự chết, mẹ đã kể lại một phần đoạn đời của mẹ....

Sau cái đêm làng Trà-Kiệu bị giặc tấn công chiếm đóng, gia-đình mẹ tản-cư vào tạm trú nhà một người bà con tại thị-xã Tam-kỳ. Cuộc chiến trở nên ác-liệt, gia-đình mẹ không trở về làng cũ. Cháu được mẹ sinh ra vài tháng sau đó. Cuộc sống cơ cực, hai mẹ con bị gia-đình đối xử lạnh nhạt vì mẹ sinh con trước có phép cưới. Quá đau khổ, quẩn-trí, một đêm mẹ định để cháu lại cho bà ngoại, lén ra sông tìm cái chết. Trên đường đi khi ngang qua một căn nhà trong một xóm nhỏ, mẹ nghe tiếng khóc, tiếng của một đứa trẻ: “Mẹ ơi! mẹ đâu rồi ?. Mę đi đâu rồi? Con sợ quá..." Trong đêm khuya, tiếng khóc đòi mẹ của đứa trẻ như xé lòng mẹ, đánh thức lương tâm và trách nhiệm của mẹ mà trong một phút giây nông nổi mẹ đã định làm chuyện dại dột... Và mẹ đã quay trở về nhà.


Trong cùng cực của cuộc sống, một may mắn đến với mẹ...người bạn cùng may chung với mẹ ở Đà-nẵng trước đây, vừa có chồng là lính phục vụ trong quân-trường Sĩ-quan trừ bị Thủ-Đức, gặp lại mẹ, rủ mẹ cùng hợp tác may chung tại quán may ở Chợ Nhỏ mà bạn mẹ theo chồng dọn về đây. Cuộc sống bắt đầu ổn-định,mẹ đã nhiều lần về Đà-nẵng, về Huế tìm ba, nghe nói ba đã đi tu ở nơi xa và ba đã như một cánh chim lạc trong bốn phương trời vô-định.

Michelle ngừng một chốc,thở ra, kể tiếp:
“Mẹ cũng có kể cho cháu về mối tình ngang trái của mẹ.... mẹ không còn kỳ-vọng gặp ba trước khi nhắm mắt mẹ đã căn dặn cháu phải làm theo lời mẹ, sau khi mẹ chết... mẹ nói:


- Khi mẹ chết rồi, cháu phải thờ mẹ trong một ngôi chùa nào đó...ngày xưa,vì vấn đề tín-ngưỡng mà tình duyên của mẹ ngang trái. Ba của cháu đã xin từ bỏ đạo Phật của mình theo đạo Thiên-chúa để được cưới mẹ, nhưng gia-đình của ba không thuận, bà nội, tức mẹ của ba cháu đòi tự vẫn nếu ba cháu quyết định bỏ Phật. Nay vì tấm lòng của ba, bỏ đạo của mình để được cưới mẹ, tuy chuyện không thành. Tôn giáo thường dạy con người có linh-hồn sau khi chết sẽ về an nghỉ ở một nơi nào đó, thì như vậy, Phật sẽ che chở linh hồn mẹ và mẹ sẽ gặp được ba cháu không còn bị giới luật của tôn giáo ràng buộc, ngăn cấm. Cháu đã làm theo lời mẹ, đem di-ảnh của mẹ thờ tại chùa Tây-Phương mấy năm nay, từ khi cha mẹ chồng cháu nghỉ hưu, giao cơ-sở chăn nuôi cho chồng cháu quản lý vừa lúc chồng cháu hết nhiệm-kỳ xã trưởng."

Tôi đã kể lại cho thầy Giác-Miên câu chuyện gặp gỡ Michelle ngày hôm đó.Qua điện thoại giọng thầy đầy khích-động. Tôi cho thầy biết, Michelle chưa biết thầy là thân sinh của cháu vì lý do tôi chưa xin sự chấp thuận của thầy...thầy nói:"Phải cho Michelle biết....làm thế nào đây để tạo sự thuận-tiện thầy cũng chưa biết..thôi chờ vài hôm nữa mình bàn tính lại."

Sự bàn tính tạo thuận tiện cho cha con thượng-tọa Giác Miên và Michelle gặp nhau đang trong dự trù thì một buổi sáng tôi đang còn ngủ có tiếng reo điện thoại đánh thức tôi dậy. Một người nào đó từ chùa Tây-Phương báo cho biết tin thượng-tọa Giác-Miên đang công phu sáng đã bị đột quỵ, được xe cứu thương chở vô bịnh viên cấp cứu.Thay vì vào nơi làm việc, tôi lái xe chạy thẳng vào bịnh viện thăm thượng-tọa Giác Viên; nhân viên tại đây báo cho biết Thượng-tọa đã ra đi, bác-sĩ không cứu kịp.


Sau lễ an-táng thượng-tọa Giác Miên, tôi đến thăm Michelle một ngày cuối tuần.Tôi chuyển cho Michelle một bao thơ của thượng-toạ Giác Miên đã viết sẵn. Bao thơ được tìm thấy trên bàn làm việc của thầy, nhờ tôi trao lai. Michelle nhìn tôi vẻ bối rối khi nhận thơ.Tôi yên lặng ngồi nhìn Michelle e-dè mở thư ra đọc. Tôi thoáng thấy có những tấm hình đen trắng kèm theo thư cùng bản sao một thẻ căn cước... Mặt Michelle càng lúc càng trở nên căng thẳng đầy xúc động...những giọt nước mắt chảy ra từ hai khóe mát, lan dài trên má. Tôi đứng dậy đến gần cửa sổ nhìn ra ngoài, tránh nhìn các hình ảnh cảm động đang diễn ra trước mặt.

Một tiếng nấc, rồi những tiêng thổn thức tiếp nối.Tôi quay lại, mặt của Michelle cúi xuống, hai tay ôm đầu, hai vai run-rẩy.

Chờ Michelle bớt xúc động, tôi đến ngồi bên cạnh, giúp nhặt lên thư và hình ảnh bị rơi xuống đất.Trong một tấm hình, tôi nhìn thấy anh Cường chay và chị Mè chụp chung bên bờ con sông Hàn ở Đà-nẵng, hai người âu yếm choàng vai nhau... và bản sao thẻ căn-cước bằng tiếng Pháp có in hình anh Cường chay ghi: Lê-chí-Cường sinh năm 1940 tại Huế... Việt-nam....

Michelle nhận thư và hình ảnh từ tay tôi, ôm tất cả vào ngực..lại thổn thức: “Mẹ ơi ! Ba ơi !”.

Tôi từ giã ra về.
Michelle tiễn tôi ra cổng trang trại. Tôi nghe có tiếng gà gáy trong một góc nào đó từ bên trong xa.. Nắng buổi chiều vàng vọt trãi dài trên các ngọn cây. Tôi thoáng nhìn thấy anh Cường chay đang chở chị Mè trên xe đạp chạy từ nhà thờ Con Gà về xóm chùa Hải-Châu, nơi anh Cường chay có tiệm hớt tóc.

Nguyễn-đại-Thuật

Paris ngày 16/01/2019.
Lời người kể chuyện:
Tên và địa danh trong chuyện đã được thay đổi.

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Aug/2019 lúc 8:14am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22006
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Aug/2019 lúc 1:37pm

Nụ Cười Bao Dung

YOCASTALOVE%20Fuente:%20jollyrogers777


– Ba rất vui mừng và xúc động khi được gặp con!

Tôi nhìn người đàn ông trước mặt bằng ánh mắt hoài nghi, rồi liếc sang cậu Tính thật nhanh như thầm hỏi “có thật vậy không?”. Cậu Tính mím môi với nụ cười gượng gạo. Bàn tay cậu không ngừng xoay chiếc muỗng trong ly cà phê đá. Biết cậu sẽ tìm cớ để rút lui nên tôi vội vàng lên tiếng:

- Con có một cái hẹn quan trọng lúc mười một giờ trưa. Con xin phép đi trước.

Cậu Tính vừa định nhỗm dậy thì người đàn ông đã níu lấy cánh tay cậu van nài:

- Cậu ở lại một chút… anh có nhiều chuyện muốn hỏi.

Tôi với tay lấy chiếc áo khoác, lẹ làng:

- Dạ con xin chào…!!!

Ra đến bãi đậu xe tôi thở phào nhẹ nhõm. Vừa ngồi xuống sau tay lái tôi vừa lẩm nhẩm “ba! ba!!”, nhưng sao nghe giọng nói của mình… hình như lạ hoắc. Có thật ông ấy là ba của tôi? Tôi nhớ, từ ngày bắt đầu khôn lớn, không bao giờ tôi nghe mẹ nhắc đến “ba”. Còn tôi, chỉ một lần duy nhất trong đời -khi ấy tôi vừa lên mười tuổi. Sau câu hỏi, mẹ ơi! con có ba không, sao con chưa được gặp ba lần nào? thì mắt mẹ đã sa sầm, giọng nói như nghèn nghẹn, đứt quãng. Hãy nhớ! con có thể hỏi mẹ bất cứ điều gì, nhưng đừng bao giờ hỏi mẹ câu hỏi đó… nghe không? Rồi như chưa an tâm, mẹ kéo tay tôi nói rõ từng chữ. Nhớ không con? Giọng nói thật nhẹ nhàng, nhưng ánh mắt long lanh của mẹ làm tôi sợ hãi. Dạ con nhớ. Con nhớ.

Tối hôm đó mẹ lên giường nằm cạnh tôi, vuốt tóc và hôn nhẹ lên mắt tôi, ngọt ngào nói:

- Mẹ xin lỗi… Có những điều mẹ chưa thể nói với con bây giờ… nhưng sau này… lớn lên con sẽ hiểu. Con có giận mẹ không?

Tôi im lặng. Cũng không biết vì sợ hay vì giận. Nhưng từ đó, trong tâm trí tôi không bao giờ có hình ảnh của một người cha!!!

***

Cậu Tính đưa cho tôi cái hộp đựng bánh cookies được dán kỹ bằng vòng băng keo vải. Ngập ngừng một lúc cậu nói khẽ:

- Đây là kỷ vật duy nhất của mẹ mà cậu giữ được. Có lẽ mẹ con không bao giờ muốn con biết sự thật về cuộc tình oan nghiệt của mẹ. Cậu cũng vậy, cậu không muốn những vết đen trong cuộc đời mẹ con ảnh hưởng đến tương lai của con. Nhưng bây giờ thì sự thể đã khác. Con cần biết rõ những gì con phải biết để xử sự cho đúng đối với người mà con phải gọi bằng ba.

Phải gọi bằng ba! Hình như có chút gì cay đắng trong câu nói của cậu? Chắc hẳn cậu ghét và hận người đàn ông này! Tôi đặt chiếc hộp trên bàn, bâng khuâng nhìn ra cửa sổ. Trời đã bắt đầu vào thu với từng cơn gió nhẹ cuốn theo những chiếc lá vàng đang lắt lây trên cành cây khô gãy. Cái cảm giác nao nao buồn làm tôi ngại ngùng khi nghĩ đến việc mở chiếc hộp ra, nhìn vào đó như nhìn vào cái quá khứ đau buồn mà mẹ đã muốn đóng kín từ lúc tôi còn bé thơ. Tôi vốn là người không có tính tò mò và rất sợ đối diện với sự thật. Cái sự thật đầy nước mắt khốn khổ của mẹ tôi, người phụ nữ nhan sắc vẫn còn mặn mà nhưng đã lià trần khi tuổi đời vừa tròn con số bốn mươi.

Mẹ tôi quen với “ba” khi đang là học sinh lớp 12 trường Đoàn thị Điểm. Lúc ấy đang thời chiến tranh, “ba” là một quân nhân, ông bị thương trong cuộc hành quân tại Chương Thiện và được đưa về điều trị tại quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Mẹ có mặt trong nhóm học sinh ủy lạo chiến sĩ và cuộc viếng thăm định mệnh ấy đã bắt đầu cho một chuyện tình thời chinh chiến. Khi ánh mắt đầu tiên chạm vào nhau là mẹ đã bị mũi tên tình ái bắn trúng ngay tim. Cô nữ sinh mười tám tuổi lao vào tình yêu cuồng nhiệt bất kể sự ngăn cấm của gia đình.

Mỗi ngày, sau giờ tan học mẹ thường lấy cớ ở lại tập văn nghệ Tết cho trường để vào thăm “ba”. “Tình yêu sét đánh” đã phát triển bằng đôi hia bảy dặm khiến cho bạn bè phải ái ngại, nên họ thường nhắc nhở mẹ, coi chừng mấy ‘anh lính đa tình’, anh nào cũng vậy, mỗi nơi dừng chân đều có một mối tình và người thua thiệt vẫn là những cô thiếu nữ đầy mộng mơ, lãng mạng.

Ông ngoại tôi lúc bấy giờ là một vị đại tá có tiếng tăm. Dĩ nhiên ông không chấp nhận mẹ tôi dan díu tình cảm với một anh trung sĩ. Chưa kể ông và người bạn bác sĩ nào đó đã có ý định kết suôi gia. Khi “ba” xuất viện trở về đơn vị thì mẹ cũng bắt đầu xao lãng việc học. Tất cả thời gian còn lại khi từ trường trở về nhà mẹ dành để miệt mài viết thư tình và trang trải nỗi nhớ, niềm thương trên những trang nhật ký dày đặc. Năm đó mẹ thi rớt tú tài hai. Ông ngoại nổi giận, bắt bà ngoại lấy tất cả hình ảnh, thư từ mà mẹ đang cất giữ đem ra thiêu hủy. Tình yêu đầu đời đầy cuồng nhiệt đã khiến mẹ trở nên bướng bỉnh. Mẹ chống đối quyết liệt để giữ lại những kỷ niệm tình yêu mà đối với mẹ là quý báu nhất trên đời và ngày hôm sau mẹ đã trốn nhà, lặn lội trên quãng đường đầy nguy hiểm để tìm đến nơi “ba” đóng quân.

Kết quả của sự liều lĩnh bất chấp hậu quả đó là một sinh linh bắt đầu tượng hình trong bụng mẹ. Khi biết mình có thai mẹ đã tức tốc báo tin cho “ba”. Rồi mẹ chờ đợi… chờ đợi mãi vẫn không có một hồi âm nào từ người tình đầu tiên mà mẹ hết dạ yêu thương. Cuối cùng mẹ không dấu được ông bà ngoại cái bụng ngày càng lớn. Một quyết định cấp bách đã được thực hiện theo lệnh của ông ngoại -mẹ phải lên Đà Lạt ở với Dì Mơ để dấu nhẹm chuyện xấu xa này. Nơi xứ lạnh đìu hiu đó mẹ vẫn viết thư cho “ba”, nhưng người vẫn bóng chim tăm cá. Tội nghiệp mẹ, hai mươi tuổi đầu với dung nhan diễm lệ, lại là con nhà danh giá mà phải mang lấy số phận lao đao trong mối duyên đầu. Đến ngày sinh nở, mẹ không kịp nhìn mặt con, đứa bé đã được đưa đi mất dạng. Mẹ khóc lóc thảm thiết, van xin ông bà ngoại hãy trả con lại cho mẹ. Nhưng ông ngoại đã lạnh lùng phán quyết. Hãy quên những chuyện không tốt đẹp đã qua, trở về nhà tiếp tục đi học, xem như chưa từng có đứa bé nào hiện diện trong cuộc đời của mẹ. Mẹ gào thét khóc la, nhưng ông ngoại đã dằn khẩu súng lên bàn với mệnh lệnh sắt thép, cả nhà sẽ chết nếu con tiếp tục bôi tro, trát trấu vào mặt ba mẹ. Nhìn thấy bà ngoại đang run rẩy với khuôn mặt đầm đìa nước mắt, mẹ đành gật đầu chấp nhận làm theo lời ông ngoại như chấp chận khóa chặt cánh cửa quá khứ, chấp nhận cắt lìa tình mẫu tử với đứa con mà mẹ chưa được nhìn thấy nó một lần.

Một năm sau, vào tháng 8 năm 1975, một người đàn bà từ Lâm Đồng tìm đến nhà, trả lại cho bà ngoại đứa con gái mười ba tháng. Mẹ nhìn trân trối đứa con gái xinh đẹp như thiên thần trên tay bà ngoại. Không cần hỏi câu nào mẹ đã nhào đến ôm chầm lấy đứa con thơ. Nước mắt đoàn tụ ràn rụa trên khuôn mặt mẹ rơi xuống đôi mắt ngây thơ của bé gái đang ngơ ngác nhìn mọi người. Lúc ấy, ông ngoại bị đưa đi cải tạo tận miền Bắc xa xôi, gia đình lâm vào cảnh túng quẩn, mẹ phải cùng bà ngoại lăn ra ngoài xã hội để buôn bán kiếm sống. Trong cái thế giới chợ trời hỗn tạp mẹ gặp một người cùng nằm trong quân y viện với ba ngày trước. Qua người ấy mẹ được biết “ba” là hạ sĩ quan nên không bị đi cải tạo. Mẹ vui mừng cầm tờ giấy ghi địa chỉ của “ba” lòng khấp khởi hân hoan trước viễn ảnh đoàn tụ hạnh phúc. Nhưng khi mẹ đến nơi thì mới biết ba đã có người đàn bà khác… Đó là tất cả những gì tôi biết được qua cậu Tính.

- Rồi sau đó thì sao hả cậu!!!

Cậu chỉ chiếc hộp rồi xoa đầu tôi:

- Câu trả lời nằm trong chiếc hộp đó.

***

Khoảng thời gian sau đó tôi cố tình né tránh dù ông ấy tìm đủ mọi cách để gặp tôi. Dĩ nhiên tôi không bao giờ bắt điện thoại, dù ông gọi nhiều lượt mỗi ngày. Và cũng vì chuyện này mà tôi giận cậu Tính mấy tuần. Tôi gay gắt hỏi cậu, sao chưa hỏi con mà cậu đã cho số điện thoại, cậu biết con không muốn liên lạc với ông ấy mà! Cậu Tính trách tôi sau quá cứng lòng, chuyện xảy ra đã mấy mươi năm, nếu tha thứ được thì hãy tha thứ để hai bên đều được nhẹ lòng.

Tôi không biết nói sao để cậu Tính hiểu, vì chính tôi cũng không biết rõ tâm trạng của mình. Hận ông? Cũng không hẳn. Vì dù không có cha, nhưng mẹ, bà ngoại, các dì, các cậu yêu chìêu tôi như trứng mỏng, nên tôi không hề có cảm giác thiếu thốn và khao khát tình thương. Ghét ông? Hình như … không đúng. Vì những éo le, cay đắng của mối tình ngắn ngủi giữa mẹ và ông ấy thì chỉ có người trong cuộc mới hiểu được. Còn trước mắt tôi, mẹ không hề vật vã khổ đau mà bà sống rất bình thản với nụ cười hiền từ và bao dung luôn nở trên môi. Có lẽ chính cái điều mập mờ không rõ rệt trong lòng tôi đã tạo nên một khoảng cách. Cái khoảng cách vô hình đó làm tôi ngại ngần khi đứng trước mặt ông ấy. Tôi sợ phải nghe những lời giải thích mà tôi không hoàn toàn tin tưởng. Tôi sợ phải trả lời. Những câu trả lời đôi khi không thật với lòng mình vì lý do tế nhị hoặc những câu trả lời gây đau đớn cho ông vì sự ngổ ngáo của tôi. Nhưng lý do chính xác nhất khi tôi quyết định không mở chiếc hộp -kỷ vật của mẹ- là tôi không muốn đối diện với sự thật. Có thể tôi là một đứa con ích kỷ, không muốn chia sẻ với mẹ những buồn đau mất mát mà người đã gánh chịu. Nhưng quả thật, tôi là một đứa con gái yếu đuối, thiếu ý chí và sự can đảm để đối diện và ứng phó với những biến cố xảy ra cho mình. Tôi bằng lòng với những gì tôi đang có. Tôi không muốn khơi dậy cái quá khứ không toàn màu hồng của tôi bằng sự chấp nhận ông bước vào cuộc đời tôi.

Tuy là vậy nhưng lòng tôi không khỏi bứt rứt vì sự tha thiết của ông và sự lạnh lùng gần như vô cảm của tôi. Nhiều khi tôi ao ước mình giống như nhân vật trong vở tuồng cải lương, khi được ai đó cho biết đây là cha của con thì cô gái chạy bay về phía người cha giang rộng hai tay, miệng mếu máo kêu lên cha, rồi nói những câu đầy yêu thương nhung nhớ. Những cảnh ấy làm cho tôi buồn cười nhiều hơn là cảm động. Khi nghe tôi nói vậy cậu Tính trầm ngâm một lúc rồi nói - chẳng biết là thật hay đùa- chắc con cũng nên tập diễn như thế cho đời ba con bớt khổ.

***

Tôi còn đang loay hoay chưa biết phải xử sự với ông ấy thế nào cho đúng thì bỗng một ngày…

Vừa bước vào nhà hàng -nơi tôi thường xuyên ăn trưa- một người đàn bà tiến đến, xin phép ngồi cùng bàn với tôi. Tôi miễn cưỡng gât đầu và sau cái gật đầu là giật mình khi nghe bà gọi đúng tên tôi.

- Kim Giao khỏe không?

Nhìn ánh mắt ngỡ ngàng của tôi bà nhẹ nhàng nói:

- Cô xin phép được tự giới thiệu, cô là…. người nhà của ba con!

Bỗng dưng tôi cảm thấy khó chịu nên ngồi thẳng người lên:

- Xin lỗi, tôi không có ba!

Bà dịu dàng nhìn tôi với một nụ cười. Nụ cười hiền từ, bao dung trên môi bà sao giống mẹ tôi lạ lùng. Chính nụ cười ấy đã giữ chân tôi lại, dù tôi đã có ý định đứng lên khi nói xong câu nói ấy bằng giọng lạnh lùng.

- Những gì đã xảy ra cho mẹ con thật đáng buồn… Cô không có ý nói rằng ba con không có lỗi, nhưng thời buổi chiến tranh loạn lạc khiến người ta không thể làm được điều mình muốn… Ba con rất ân hận. Ông đã cố công tìm kiếm con mấy mươi năm.

- Con cái của ông bà đâu mà phải đi tìm một đứa con rơi như tôi.

Bà lặng thinh một lúc rồi ngước mắt nhìn tôi. Vẫn còn đó nụ cười trên môi bà nhưng cái nhìn thì như chứa đựng rất nhiều điều u uẩn.

- Chúng tôi không có con!

Tôi nghiêng đầu nhìn bà, không cố ý mà lời nói buông ra như hờn, như trách:

- Chắc là khi cô không sinh đẻ được ông ấy mới chợt nghĩ đến tôi mà ân hận. Nếu không thì tôi sẽ mãi mãi là đứa con không bao giờ biết cha mình là ai.

Nụ cười tắt ngang. Môi bà mím lại. Đôi mắt long lanh ánh nước. Tôi chợt ân hận, lúng túng đứng lên, đến quầy trả tiền tô phở vừa mang ra rồi đi thẳng ra cửa. Tôi biết chắc phía sau mình có một đôi mắt thất vọng nhìn theo.

Lòng tôi bất ổn suốt buổi chiều hôm đó. Không phải vì ông ấy. Không phải vì tôi. Mà vì người đàn bà. Tại sao bà ấy không hờn ghen, ganh tỵ với đứa con riêng của chồng mà lại cố gắng thuyết phục tôi và hết lời biện minh cho ông ấy.

Hai ngày sau bà lại tìm gặp tôi. Vẫn với nụ cười hiền từ, bao dung bà không nói gì chỉ đặt vào tay tôi một bức thư rồi lặng lẽ bước đi. Lá thư với những lời lẽ van nài thật thiết tha, cảm động. Bà xin tôi hãy mở lòng đến gặp ông ấy một lần, vì có thể ông ấy sẽ ra đi bất cứ lúc nào vì căn bệnh nan y đang thời kỳ cuối.

Đọc thư xong tôi cười ha hả:

- Cậu Tính ơi! sao chuyện đời con giống vở tuồng cải lương gì… gì đó. Chắc ngày đi nhận cha, con phải xuống một câu vọng cổ, còn cậu thì nhớ phựt đèn màu nha. Công nhận bà này đóng vai người vợ cao thượng hay thiệt.

Cậu Tính nhìn tôi nghiêm nghị:

- Cậu ngạc nhiên về con, mỗi lần xem phim tình cảm con đều rơi lệ, sao bây giờ lại có thể thản nhiên như vậy?

Tôi nhìn cậu Tính bằng cái nhìn khó hiểu.

- Ủa! chứ không phải vì hai người ấy mà mẹ con phải khổ sao? Cậu mới là người làm cho con ngạc nhiên đó!

Tôi tiu nghỉu đi vào phòng tự hỏi có thật là mình là kẻ vô tâm. Ngồi xuống giường tôi mở lá thư ra đọc lại. Những dòng chữ trong lá thư như rõ nét hơn, cũng lời thư tôi đã đọc qua nhưng bây giờ như tha thiết hơn với những lời tâm sự .

“ Cô gặp ba con vào những ngày cuối tháng 4 trên đường di tản vào Saigon. Gia đình cô gồm có ba má cô và hai đứa em nhưng theo dòng người xô đẩy chen lấn và những lần phải tìm chỗ ẩn nấp vì đạn pháo kích đã lạc mất nhau. Một mình cô, người con gái mười bảy tuổi trôi dạt trên quãng đường đầy gian nan với bao cảnh chết chóc, cướp bóc. Và cô đã không thoát khỏi thảm cảnh đó. Nhưng ngay lúc cô bị kẻ xấu lôi vào bụi rậm trên khoảng đường vắng vẻ thì ba con, người lính quốc gia đang tìm đường tháo chạy đã xuất hiện kịp lúc để giải cứu cho cô. Từ đó, cô bám lấy ba con như bám vào một vị thần độ mạng. Để rồi, người con gái côi cút là cô vô tình trở thành một duyên cớ khiến mẹ con bỏ đi khi vừa gặp mặt ba con…”

Nỗi thắc mắc lớn dần theo câu chuyện bỏ lững nơi đó buộc tôi phải tìm đọc những trang nhật ký nhòe nhẹt nước mắt của mẹ.

“Em trở về nhà bằng những bước chân không hồn. Bao nhiêu ước mơ. Bao nhiêu hy vọng. Bao nhiêu náo nức chờ đợi đã vỡ toang. Còn lại đây là nỗi đau xé lòng. Cũng không biết bằng cách nào em có thể trở về nhà sau khi nhìn thấy người đàn bà từ buồng trong bước ra bấu vai anh hỏi nhỏ, ai vậy anh? Anh bối rối nhìn em, rồi nhìn đứa con bé bỏng trên tay em. Em tự hỏi, sao lúc đó em không nhìn thẳng vào mắt người đàn bà đó và nói thật nhẹ nhàng, tôi là ai không quan trọng, quan trọng là đứa bé này, con gái đầu lòng của anh Thắng. Nhưng em đã không làm như thế mà hối hả quay lưng bước đi để dấu những giọt nước mắt bẽ bàng đang lăn dài trên má.

Em không biết sau lưng em anh sẽ nói gì với người đàn bà của anh? vợ của người bạn đã chết hay một người đàn bà tội nghiệp muốn tìm chỗ ẩn náu qua đêm…”

Suốt đêm đó tôi không chợp mắt được dù là một phút với những suy tư không dứt. Hai người đàn bà hai số phận. Nếu như tôi không có mặt trong cuộc đời của mẹ thì chắc hẳn mẹ tôi đã có được một tấm chồng xứng đáng để hưởng hạnh phúc đến cuối đời. Nếu người đàn bà ấy có khả năng sinh con thì có lẽ bà cũng chẳng cần phải cầu cạnh để xin tôi ban cho chồng bà một tiếng gọi “ba” cho ông an lòng trước khi nhắm mắt. Cuộc đời là những khổ ải triền miên như thế sao? Tôi nghe lòng mình chùng xuống với nỗi buồn mênh mông.

***

Cuối cùng tôi đã bằng lòng đi cùng cậu Tính vào bệnh viện để thăm người đàn ông ấy. Trên đường đi cậu Tính nói với tôi:

- Cậu không biết con đang nghĩ gì nhưng cậu muốn nói với con một điều, cho dù trong lòng con không có chút tình cảm nào thì cũng đừng nên tiếc một tiếng “ba” với ông ấy.

Tôi phì cười:

- Ừa! cứ y như mình đang đóng kịch vậy cậu Tính há!

Cậu Tính quay sang nhìn tôi không một nụ cười. Tôi bắt đầu nổi quạu:

- Trời ơi! ai dạy con phải sống thật với lòng mình mà bây giờ cậu muốn con phải dối trá.

- Không phải là dối trá mà là nhân đạo. Từng tuổi này… trải qua biết bao biến cố trong cuộc đời, cuối cùng cậu nhận ra một điều… những gì có thể tha thứ được thì mình nên tha thứ, những gì có thể buông bỏ được thì nên buông bỏ cho tâm hồn được thảnh thơi. Đó là đức bác ái đó, con biết không?

Tôi hậm hực quay đi:

- Cậu tu đắc đạo rồi chứ con thì chưa.

Ước gì ngay lúc đó xe ngừng lại chờ đèn đỏ để tôi mở cửa lao xuống đường, chạy mất hút vào một con hẻm nhỏ nào đó cho đỡ tức.

Tôi hít một hơi thật mạnh trước khi bước vào phòng 504. Người đàn bà đang ngủ gật trên ghế sofa chợt giật mình. Thấy tôi, mắt bà tròn lên đầy kinh ngạc rồi mừng rỡ bà chạy đến ôm chầm lấy tôi, hai bàn tay bối rối nắm tay tôi bằng tất cả sự xúc động và cảm kích. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt tiều tụy, bà kéo tôi đến bên giường nói khẽ:

- Anh ơi! Kim Giao đến thăm anh nè!

Người đàn ông he hé đôi mắt đã mất nét tinh anh. Bà gật đầu nhìn tôi bằng cái nhìn tha thiết, van lơn. Tôi bối rối nhìn lên trần nhà. Dù cũng muốn làm điều bà đang chờ đợi, nhưng trong lòng tôi không hề có chút cảm xúc khi đứng trước mặt ông ấy. Tôi cũng lạ lùng với chính mình. Tôi không giận, không ghét ông, nhưng sao một chút tình cảm cỏn con dành cho ông tôi vẫn không có được. Bà đưa tay xoa nhẹ vai tôi, nụ cười không còn tươi tắn như lần tôi đã gặp bà nhưng vẫn là nụ cười hiền từ và bao dung của mẹ tôi. Tự dưng tôi thấy lòng mình nhẹ hẫng. Tôi nhìn bà bằng đôi mắt trìu mến và tiếng kêu bật lên từ mong muốn mang niềm vui đến cho bà.

- Ba!!!

Bà bật khóc trong tiếng nói đứt nghẹn:

- Anh ơi! con nó gọi ba kìa… anh có nghe không?

Tôi quay đi để bà đừng nhận biết tôi gọi tiếng “ba” là vì bà, vì nụ cười giống mẹ tôi chứ không phải vì người đàn ông mà tôi phải gọi bằng ba

Ngân Bình

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22006
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Aug/2019 lúc 4:05pm

Kiếp Nghèo


Zdjęcie

   Sau một tháng về thăm lại làng cũ, phố xưa, thích nhất là được nhìn giòng sông tuổi thơ. Con sông với bao nhiêu kỷ niệm êm đềm của thời thơ ấu. Cái tuổi chỉ biết ăn, học và chơi đùa không biết mệt. Hôm nay Thơ từ giã bà chị dâu và đám cháu gần chục đứa để trở lên Sài Gòn. Ngày mốt vợ chồng Thơ và bà chị gái phải đáp máy bay trở về Montréal, nơi các con đang mong đợi. Một tháng trôi qua nhanh quá. Nhất là ở vào tuổi của Thơ, không ai mong thời gian đi nhanh như mây bay, gió thoảng!
    Nhớ hôm mới về. Vừa bước vào nhà, bà chị dâu nhìn Thơ trân trối rồi òa lên khóc khiến Thơ cũng mủi lòng rơi lệ. Bà chị dâu năm nay gần tám mươi, bị tai biến mạch máu não hai lần. Lần thứ nhì ai cũng tưởng bà sẽ đi sum họp với ông anh của Thơ trên cõi vĩnh hằng. Nhưng may quá, bà qua khỏi và đi lại được, dù rất chậm chạp. Chỉ có trí nhớ là bị ảnh hưởng nặng nề, lúc quên lúc nhớ khiến có lần hai nàng dâu thiếu điều thượng cẳng tay, hạ cẳng chân với nhau. Chỉ vì bà nói với cô này là cô kia cả ngày không cho bà ăn uống gì cả. Cô nàng mét với chồng và chiến tranh bùng nổ! Từ đó những gì bà phàn nàn đều được xét lại kỹ càng hơn.
    Thơ thương bà chị dâu vô cùng. Bà đã sinh cho gia đình chồng mười bốn đứa con, cả trai lẫn gái. Mà đứa nào cũng đẹp đẻ và khỏe mạnh sởn sơ. Cuộc đời bà cực khổ trăm chiều. Đầu tắt mặt tối nuôi nấng đàn con, không hề được hưởng bất cứ một thú vui hào nhoáng nào của cuộc đời. Đến khi anh của Thơ qua đời thì bà đã ngoài sáu mươi và ở với đứa con gái út. Con bé thật hiếu thảo. Săn sóc mẹ cẩn thận từ miếng ăn, giấc ngủ. Thế mà xã hội Á Đông, cho đến ngày nay, vẫn quý con trai hơn con gái! Hôm vợ chồng Thơ từ giã để lên Sài Gòn, bà chị dâu lại khóc. Bà cầm tay Thơ siết đi siết lại khiến trái tim của Thơ muốn chảy ra thành nước. Ôi bà chị dâu đáng thương! Không biết lần tới, bà có còn đó để cầm tay Thơ siết tới siết lui như lần này nữa không? Cuộc đời chẳng thường dành cho chúng ta những điều bất ngờ nhất hay sao? Mà không phải điều bất ngờ nào cũng thú vị!

   Chiếc taxi bảy chỗ mới chở nỗi tám cái vừa valise, vừa xách tay, nhét đầy ắp áo quần và quà cáp các thứ. Thì bà con biếu dài dài từ Bắc vào tới trong Nam mà lị! Ông xã cằn nhằn, nhưng Thơ cứ mặc kệ, nhét đầy đến nỗi tét luôn cái túi xách Adidas bằng vải nylon! Cái túi nàng đã mua, để chứa sách do bạn bè tặng, cách đây 3 năm nhân dịp đi chơi Los Angeles. Thơ tức cái hãng máy bay chết tiệt Air Canada chỉ cho mỗi hành khách có đúng một kiện miễn phí. Chỉ có hành khách mua vé từ tháng mười một trở lại mới được hai valises. Mà nàng thì đã mua từ tháng chín! Muốn thêm một valise í à? Thì phải sùy ra đúng một trăm đô la chứ sao! Cũng đành cắn răng chi ra hai trăm cho hai chuyến đi và về. Thơ còn cái tội nữa là lần đi du lịch nào, bất cứ ở đâu, cô cũng lén dấu một vài nhánh cây cảnh hay hoa hoét gì đó đem về nhà trồng. Mà ác cái là cành cây nào cũng đâm rể và mọc lên phơi phới. Lần này Thơ dấu đúng năm cành dâm bụt lá ngũ sắc. Vừa thấy bụi dâm bụt trước nhà cô em chồng và mắt Thơ sáng rực như đèn pha! Trước hôm xếp đồ vào va ly, Thơ ra chợ Sài Gòn mua vài cành hoa giả, sau đó trộn lẫn giả và thật để đánh lận con đen mấy ông nhà đoan ngoài phi trường. Chiêu này Thơ học từ một người bạn thích đi du lịch và mê trồng trọt (đồ chôm) như cô.
    Phi trường TSN vẫn tấp nập người đưa, kẻ đón như thường lệ. Nhiều gia đình đông người ngồi lê la cả dưới đất. Trẻ con thì rượt đuổi nhau ầm ĩ, cản trở hành khách với những chiếc xe đẩy đầy ắp hành lý. Một hoạt cảnh có một không hai.
    Trong khi chờ đợi đến phiên xếp hàng cân hành lý, chị em Thơ ngồi nơi hàng ghế sát tường. Hai người đang nhắc lại những chuyện vui buồn xảy ra trong suốt tháng vừa qua, bỗng có một cặp Á Châu tới ngồi bên cạnh. Người đàn ông khá trẻ, cao ráo, mặt xương xẩu, kéo đúng một va ly nhỏ và một chiếc ba lô khoác trên vai. Cô gái trạc ngoài ba mươi, tóc nhuộm hoe hoe vàng, mặt đầy mụn, dù làn da rất trắng, tay xách chiếc ví nhỏ. Vừa ngồi xuống là cô nàng quay sang gật đầu chào chị em Thơ, miệng cười toe toét. Nhưng người đàn ông mặt mày lạnh lùng. Thơ mỉm cười chào lại. Cô gái bắt chuyện, giọng miền Nam, có pha chút hương đồng gió nội:
  -Cô ơi, cô đi Mỹ hả?
  -Không, cô đi Canada. Còn vợ chồng cháu?
  Cô gái cười, liếc sang người đàn ông rồi trả lời:
  -Ông này không phải chồng cháu. Ổng người Đại Hàn, sang đây xem mắt vợ. Hôm nay ổng trở về bển.
   Thơ không dấu được sự tò mò:
  -Ổng sang xem mắt cháu hay sao?
   Cô gái vẫn cười, Thơ nhìn thấy lúm đồng tiền trên má xinh ra phết:
  -Ổng sang xem mắt con bạn cháu. Tại cháu thấy ổng hiền nên muốn làm mai cho con bạn cháu dưới quê. Con nhỏ chịu mà má nó còn ỏng ẹo nói để bả suy nghĩ rồi mới trả lời. Tại con bạn cháu đẹp lắm cô ơi.
    Bà chị Thơ bây giờ mới lên tiếng:
  - Vậy cháu cũng lấy chồng Hàn quốc hả? Mà quê cháu ở đâu lận?
  -Cháu ở Đồng Tháp. Cháu có chồng Việt Nam, nhưng cháu đi lao động bên Hàn Quốc. Tại cháu có một bà chị với một con em lấy chồng Hàn. Chị cháu bảo lãnh cháu sang đó đi làm. Chồng và con gái cháu ở dưới quê. Cháu đi làm bên đó ba tháng, về quê ba tháng... Cứ như vậy từ mấy năm nay đó cô.
  -Vậy là cháu cùng quê với cô. Mà sao không làm một lèo vài năm rồi về có phải bớt tiền vé máy bay đi lại hay không?
    Nghe nói người cùng quê, có lẽ cô gái cảm thấy gần gũi hơn nên sẵn sàng "tâm sự":
  -Cô ơi, nếu cháu đi một lèo chỉ sợ ông xã có bồ. Cô biết không, ở bên đó cháu đi làm mỗi tháng kiếm được hai ngàn đô. Ba tháng sáu ngàn đô. Nhờ ăn ở nhà chị nên cháu đâu có tốn kém đồng nào. Trừ một ngàn tiền vé máy bay, cháu cũng còn được năm ngàn. Bên mình, dưới quê, mỗi tháng giỏi lắm kiếm được một hai trăm đô là cùng.
    Thơ thật sự ngạc nhiên:
  -Cháu làm nghề gì bên đó mà kiếm được nhiều tiền vậy?
  -Cháu làm ngoài cảng cá. Mỗi ngày tàu đánh cá về bến, họ cần rất nhiều người khiêng và lựa cá. Làm cực nhưng họ trả lương cao lắm. Lại còn cho rất nhiều cá, mực tươi về ăn nữa. Rồi cô gái cười lỏn lẻn, chỉ lên mặt mình, hồi xưa da cháu tốt lắm, tại ăn nhiều đồ biển quá nên nổi mụn tùm lum! Chớ họ cho, không ăn cũng uổng. Có khi cho nhiều quá mình ăn không hết, bán bớt cũng có tiền đó cô. Ông này thấy con gái Việt Nam làm việc giỏi nên năn nỉ cháu làm mai dùm ổng một cô Việt nam. Bên đó ổng có tiệm cơm gần nhà chị cháu.
    Thơ đổi đề tài:
  -Chị cháu lấy chồng về bên đó lâu chưa?
    Nghe nhắc đến chị, mặt cô gái bỗng thoáng buồn. Nụ cười tắt trên môi.
  -Chị cháu lấy chồng về bên đó mười lăm năm rồi. Con gái lớn năm nay mười ba tuổi rồi cô. Mà tội nghiệp chị cháu lấy ông chồng mù!
    Thơ tưởng mình nghe lầm:
  - Chị cháu lấy ông mù?
  -Dạ. Chồng chị cháu bị mù cả hai mắt. May mà ba đứa con đều bình thường. Hai cô biết không, nhà cháu đông anh em lắm. Tới mười hai đứa lận. Nhà nghèo không đủ ăn nên chị cháu phải lên Sài Gòn làm mướn cho người ta. Một hôm có người xúi chị cháu đi tới chỗ mấy ông Đại Hàn coi mắt mấy cô gái để lấy làm vợ. Mà mỗi ông coi tới cả trăm cô lận nghen. Hổng biết con gái đâu mà nhiều dữ thần! Hai cô biết hông, tới phiên ông mù không cô nào chịu ra gặp hết. Tại vì nếu lấy ổng, đem về quê làm đám cưới xóm riềng cười chết. Ai cũng mắc cỡ nên đều từ chối. Năm đó chị cháu đã ba mươi bảy tuổi rồi, hơn nữa muốn có tiền giúp ba má nên mới chịu lấy ổng. Lúc đó ổng cũng ngoài năm mươi tuổi.
    Thơ cắt ngang:
  -Vậy ổng biếu ba má cháu bao nhiêu tiền khi cưới chị cháu?
    Giọng cô gái như reo vui:
  -Tới hai ngàn đô lận đó cô. Thời đó hai ngàn đô là nhiều lắm. Mấy người khác có khi chỉ được vài trăm đô!
    Tự nhiên Thơ cảm thấy xót xa. Giá một cô con gái Việt nam chỉ ngần đó thôi sao?
    Giọng cô gái vẫn phấn khởi:
  -Vậy mà chị cháu hên (?) vì ông đó giàu lắm. Không ngờ ổng có tới năm, sáu căn nhà cho mướn. Với lại ổng còn là một thầy chiêm tinh nổi tiếng. Nhiều người bên Đài Loan cũng qua coi ổng nữa đó cô. Khách Đại Hàn thì đông lắm. Mỗi ngày ổng kiếm bao nhiêu là tiền. Thành ra chị cháu chỉ ở nhà đẻ con và săn sóc nhà cửa. Nhờ chị cháu mà con em gái kế cháu lấy được chồng Hàn. Người này cũng khá lại rất cưng em gái cháu. Mấy đứa em dưới quê bây giờ đứa nào cũng được chị cháu giúp đỡ có nhà cửa khang trang. Chị ấy còn bảo lãnh ba má qua ở bên đó để chị phụng dưỡng. Ba cháu mới mất cách đây hai năm. Má cháu chịu lạnh hổng nỗi nên trở về Việt Nam. Nhà ba má cháu dưới quê cũng được chị xây lại đẹp lắm.
    Thơ tò mò:
  -Cháu đi làm cực khổ đem tiền về cho chồng, không sợ chồng rượu chè, đàn đúm phá hết hay sao?
    Cô gái cười tươi rói, nhưng ánh mắt mơ màng:
  -Dạ đâu có. Tiền cháu làm chị cháu giữ dùm. Cháu có mở 1 tiệm cà phê cho chồng cháu trông coi để có đồng ra đồng vào tự nuôi sống. Chừng nào đủ tiền, cháu sẽ về quê xây một căn nhà thiệt lớn.
    Thơ nghĩ thầm đây mới đúng y chang câu tục ngữ "Một người làm quan cả họ được nhờ". Đằng này thì một người lấy Hàn cả nhà được nhờ. Sự hy sinh của người chị thật đáng vinh danh. Lòng nhân ái của cô đã được đền bù bằng một cuộc sống hạnh phúc êm đềm, ba đứa con kháu khỉnh và người chồng khiếm thị nhưng tận tụy yêu cô. Còn hơn ở lại quê nhà, lấy phải một ông chồng suốt ngày bê tha nhậu nhẹt đánh vợ đợ con. Trong muôn ngàn trường hợp xui xẻo, bất hạnh của những cô gái lấy chồng Hàn quốc, cũng có những trường hợp ngoại lệ như câu chuyện Thơ vừa nghe. Nhất là sự hy sinh cao cả của người chị khiến Thơ cảm phục. Cô nghiệm ra rằng chính trong tầng lớp nghèo nàn, quê mùa, thất học lại thường xuất hiện những viên ngọc quý chói sáng rực rỡ. Có lẽ đầu óc chơn chất, thật thà của họ không hề có những suy nghĩ xa vời, những âm mưu thâm độc, những toan tính bất lương chăng? Như cô chị trên đây, để giúp đỡ gia đình nghèo đói, cô nhắm mắt lấy ông chồng khiếm thị, không màng đến lời khinh chê của chòm xóm, láng giềng. Rồi nhờ vào sự hy sinh này, các em cô đã vượt ra khỏi sự nghèo túng. Đáng trân quý lắm tấm lòng cao cả của những người phụ nữ Việt Nam.
    Cô gái bỗng đứng lên theo người đàn ông bên cạnh:
  -Cô ơi, cháu phải đưa ông này đi cân hành lý. Chào hai cô. Chúc hai cô đi mạnh giỏi. Đưa ổng đi rồi, cháu trở về Cao Lãnh liền.
    Thơ cũng chúc cô gái nhiều may mắn. Nhìn theo dáng đi tất tả của cô, Thơ không khỏi bâng khuâng và chợt nhớ nàng không biết tên cô gái!

Tiểu Thu

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22006
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Aug/2019 lúc 2:35pm

Nỗi Đau Vẫn Còn Đó


Sáng nay, ông thức dậy sớm hơn thường lệ. Nói là thức dậy sớm chứ thực ra, suốt đêm hôm qua ông có chợp mắt được chút nào đâu. Ông mãi suy nghĩ về việc thằng Thành, con ông phải đi về Việt Nam làm việc theo sự chỉ định của công ty. Ông không dám trách móc về việc làm của nó. Ông chỉ biết buồn vì thằng con của ông không còn chọn lựa nào khác. Ông biết vậy nhưng cũng đã thăm dò thằng con.

Con không thể xin chuyển qua làm bộ phận khác và ở lại đây với Ba được sao"


Hỏi chỉ để hỏi mà thôi. chứ thực ra ông đã biết câu trả lời như thế nào rồi. Trong thời buổi người khôn của khó lúc này, người ta còn tranh giành, đấu đá lẫn nhau để có công ăn việc làm. Trong khi thằng con ông được đề cử đi mà ông lại mong muốn nó từ chối. Thật là nghịch lý. Biết đi là tốt cho con, nhưng ông vẫn cảm thấy áy náy sao đó trong thâm tâm. Phải chi hắn được đổi qua một nước nào khác, không phải Việt Nam thì ông không cần bận tâm cho lắm.

Nghe ông hỏi như vậy. Nó cảm động lắm. Nó nói với ông rằng, con biết con đi Ba ở lại một mình đơn chiếc rất buồn. Nhưng nếu con không đi thì coi như mình tự ý bỏ việc. Trong khi đó, rất nhiều người cầu mong để có được cơ hôi này. Thôi thì để con nói chuyện với vợ chồng con Tâm thu xếp để Ba về trên đó sống với tụi nó một thời gian.

Ấm nước reo sôi trên bếp đã lâu, ông vẫn không nghe thấy. Ông mãi lo suy nghĩ về những tháng ngày sắp tới, khi thằng Thành đi xa. Cho đến khi Thành từ trên gác đi xuống, nó thấy ông cứ ngồi tư lự, mắt dõi ra sân vườn mông lung. Thường ngày, ông không có động thái như vậy. Những ngày tháng khi bà còn sống, sáng ra ông thường ngồi bên ấm trà nóng bà đã pha sẵn, đọc báo hoặc coi tin tức, chờ bà làm điểm tâm và chuẩn bị  cơm trưa cho cha con ông. Xong đâu vào đó, ông chỉ biết xách gói ra đi. Kể từ khi bà qua đời cách đây không lâu, ông phải tự pha lấy trà và thay bà chuẩn bị cơm nước cho cả hai cha con.

Nó lên tiếng hỏi: 

Nước sôi rồi. Sao Ba chưa pha trà" Ba có bị sao không" 

Nếu hôm nay Ba không được khỏe, thì goị điện thoại xin nghỉ bệnh đi Ba.
Ông chợt giật mình bừng tỉnh.

À không! Ba không sao cả. Để Ba đi lấy cơm cho con mang đi làm.

Không cần đâu Ba. Hôm nay mấy người trong chổ làm rủ nhau đi ra ăn ngoài. Lâu lâu con cũng cần phải đi ăn với họ một bữa cho vui với anh em. Để con gọi xin cho Ba nghỉ bệnh ngày hôm nay. Nếu có gì, thì Ba gọi vô chỗ làm cho con. Trưa con về đưa Ba đi bác sĩ.

Thôi! chắc không sao đâu. Ba nghỉ ở nhà bữa nay được rồi. Chắc tại tối qua ngủ không được nên sáng nay Ba hơi mệt thôi. Con đi làm đi kẻo trể. Ông nói vậy để cho thằng con yên tâm mà đi làm, chứ trong thâm tâm ông nghĩ lung lắm.


Thành đi rồi. Ông trở lại với căn nhà trống trải, vắng lặng. Nhìn lên bàn thờ, nơi có di ảnh của vợ ông. Ký ức đau thương ngày xưa lại đổ về trong tâm trí của một con người đã có tuổi. Càng nghĩ, ông càng cảm thương cho người vợ hiền vắn số.

*

Ngày trước, thời chiến chinh binh lửa. Trai gái làng cưới nhau xong là ông đi. Lâu lâu ông mới được phép đôi ba ngày. Thời gian làm sao đủ cho đôi vợ chồng son mặn nồng ân ái. Nói chi đến thời gian săn sóc cho nhau. Lúc có bầu thằng Thành. Bà một thân, một mình theo đoàn người chạy loạn băng qua đại lộ kinh hoàng vô tạm cư tại Đà Nẵng. Ông theo đơn vị, trấn thủ nơi miền địa đầu đất nước, làm sao mà lo lắng được cho bà. Ngày đứa con đầu lòng chào đời, ông cũng không ở bên cạnh để có lời ủi an. Rồi tiếp đến, những tháng bà mang bầu con Tâm và sinh nó ra. Ông cũng biền biệt.


Cho đến những ngày sau 1975, bà dắt díu hai đứa con thơ, tìm về nơi làng quê cũ thì được tin ông đã phải tập trung cải tạo. Vợ chồng con cái vẫn không thể sum vầy. Một lần nữa, bà thân cò một mình lăn lội kiếm sống vừa thăm chồng, vừa nuôi con.

Biền biệt gần mười năm ông mới được về nhà. Ông cũng chỉ gặp lại được người vợ thân yêu cùng đứa con gái. Con Tâm nhìn ông với ánh mắt xa lạ, ngỡ ngàng. Ông không được gặp lại đứa con trai trân quý. Thằng Thành đã được bà gửi "về ngoại" sống như những gì bà xa gần đã nói với ông trong những lần thăm nuôi trước.

Thằng Thành ra đi, để lại trong bà một sự thương xót vô biên. Bà vừa mừng, vừa lo cho nó. Mừng là vì nó đã thoát được cảnh sống lầm than nơi quê hương khốn khổ. Dẫu sao đi nữa, nó cũng sẽ có được một tương lai tốt đẹp. Bà hy vọng và mừng là vì thế. Lo, bà lo vì một thân, một mình nó lênh đênh trên biển cả, biết bao hiểm nguy có thể vây ập đến và nuốt chửng người con yêu quý cuả bà. Rồi, ngày tháng cô đơn lạc lõng trong các trại tị nạn, không một người thân bên cạnh, có ai lo lắng cho nó những khi trái gió trở trời. Bà ngày đêm khấn nguyện cho nó được bình yên. Bà như đứt từng khúc ruột mỗi khi nghĩ đến thằng con.


Cho đến một hôm, bà thật sự mừng rỡ khi nhận được thư của nó. Nét chữ nghuệch ngoạc cùng với nhiều lỗi chính tả. Nhưng bà rất mừng, mừng đến chảy cả nước mắt vì nó vẫn còn một chút gì đó của riêng nó, của quê hương nơi nó được sinh ra. Trong thư nó nói rằng nó nhớ và thương bà lắm nên mới nhờ người ta chỉ cho nó viết thư thăm bà. Nó kể lể đủ thứ chuyện nơi trại tị nạn nó đang sống. Nó nói rằng ở nơi đây, nó chỉ có ăn xong đi học. Vừa học tiếng Việt, vừa học tiếng Anh. Nó không phải cực khổ đi mót lúa, mót khoai như những ngày đang ở nhà. Nói tới đây nó nói nó thương bà và con Tâm rất nhiều. Nó cũng thêm rằng nó đã được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và sẽ được đi định cư tại Mỹ một ngày gần đây. Nó hứa là khi qua tới Mỹ, nó sẽ để dành tiền mua quà gửi về cho bà và con Tâm, em của nó.

Tháng ngày trôi qua. Nó được một gia đình người Mỹ tốt bụng bảo lãnh và nuôi nấng cho ăn học. Trong những thư về nhà, nó nói rằng nơi thành phố nó đang sống không tìm thấy một người Việt Nam nào cả. Suốt ngày ở trường và ở nhà nó đều phải nói tiếng Mỹ. Nó nhớ tiếng Việt lắm nên những khi có thời gian, nó sẽ viết thư bằng tiếng Việt cho gia đình và bạn bè nó còn trong trại tị nạn.

*

Cuối cùng thì gia đình ông cũng đến được đất Mỹ nhờ chương trình nhân đạo H.O. Gia đình đoàn tụ. Cha mẹ con cái, anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Ông mừng vì đã gặp lại được thằng con yêu quí. Bà thì khỏi phải nói. Cứ xuýt xoa khen hoài thằng Thành, bảo rằng nó mau lớn, càng lớn khuôn mặt nó càng giống ông như đúc. Đối với nó, thoáng chút ngỡ ngàng khi gặp laị mọi người ở phi trường. Ngỡ ngàng cũng phải. Kể từ ngày bà sinh nó cho đến hôm nay, phải nói chưa bao giờ ông được bồng ẵm nó. Tình cha con phân cách theo chiều dài cuộc chiến, càng chia lìa vì đất nước điêu linh. Đối với nó, gia đình là những gì được gói ghém trong tấm hình đen trắng bạc màu ông bà gửi cho nó trong thời gian xa nhà.

Gia đình, vợ chồng con cái sum họp, sống với người bảo trợ một thời gian. Thằng Thành vẫn đến trường học hành như ngày nào. Thêm vào đó nó có bổn phận hướng dẫn cho con Tâm để bắt kịp việc học ở trường. Nó cảm thấy hạnh phúc khi sống bên mái ấm gia đình và tỏ ra hiểu biết hơn khi giúp được cho ba mẹ và em nó trong thời gian đầu hội nhập. Còn đối với con Tâm, nhờ sự hướng dẫn của anh Thành nó, việc hội nhập coi như không mấy gì khó khăn. 

Riêng ông bà thì gặp không ít trở ngại trong cuộc sống. Những năm tháng tù đày và khốn khó ở quê nhà, cộng với tuổi tác ngày càng già nua, bệnh hoạn đã làm cho sức lực của cả hai không còn được sung mãn. Công việc làm ăn nơi gia đình ông bà đang sống toàn là những nặng nhọc. Mặc dầu đã có sự hỗ trợ của máy móc tối tân, nhưng cũng cần phải có sức khỏe mới hoàn tất được công việc. Ngược lại, sức khỏe của ông bà không cho phép. Cộng thêm vào đó, tiếng người không được rành rẽ cho mấy. Dù rằng đã cố gắng học hành, nhưng ông bà cũng không thể nào bắt kịp nhịp sống khi tuổi già ngày một chồng chất, càng tỉ lệ nghịch với sự bén nhạy của trí tuệ. Không lẽ cả gia đình cứ ngồi để đón chờ sự thương hại và bố thí tiếp tục của gia đình người bảo trợ" Càng nghĩ, ông càng đớn đau cho thân phận mình và con cái. Đau cho mình thì ít mà thương cho con cái thì nhiều. Từ ngày sinh tụi nó ra cho đến bây giờ, ông chưa làm được gì cho thằng Thành và con Tâm cả, có chăng chỉ một mình thân bà mà cũng chỉ được bữa đói, bữa no. Đứa cô đơn lưu lạc nơi xứ người khi còn nhỏ dại, bên mình không có một người thân. Đứa ở lại quê nhà với mẹ nhưng hoàn cảnh cũng chẳng khác chi. Giờ đây, toàn gia đình qua được nơi xứ tự do này ông tâm nguyện sẽ làm tất cả những gì để có thể bù đắp lại những gì mất mát mà bà đã phải gánh chịu. Bù lại những thiếu vắng cha con mà vì hoàn cảnh ông không thể cưu mang cho hai đứa con trước đây. Ông chỉ mong ước mai này con ông được học hành đến nơi đến chốn, cho dù có cực khổ đến đâu thì ông vẫn vui lòng.

Đang băn khoăn lo lắng cho cuộc sống gia đình. Ông bất ngờ nhận được điện thoại người bạn cùng hoàn cảnh ông ngày trước, hiện mới được định cư nơi miền tây nắng ấm. Qua câu chuyện điện thoại với người bạn, ông phần nào cảm thấy cuộc sống sinh nhai nơi miền viễn tây có phần dễ dàng hơn nơi ông và gia đình đang cư ngụ. Để cho chắc chắn, ông đã thân hành làm một chuyến chu du về miền đất hứa, nơi có những người bạn từng sát cánh với ông trong đơn vị ngày cũ, cũng như cùng chung số phận với ông trong những năm tháng tù đày. Trước là thăm bạn bè và người thân, sau là tìm đường sống cho toàn bộ gia đình. Quả nhiên, cuộc sống nơi đây có phần dễ sống hơn nơi tiểu bang đèo heo gió hút mà gia đình ông đang sống. Việc làm nơi đây tìm kiếm cũng tương đối dễ dàng. 

Thêm vào đó, ngành công nghệ thông tin đang trên đà phát triển nên các hãng xưởng lắp ráp linh kiện điện tử hầu hết tập trung nơi đây đang rất cần nhân công. Có những lúc quá cần người, nhiều người không cần giỏi tiếng Anh cũng được mướn. Họ chỉ cần những người làm việc siêng năng và cần cù. Việc huấn luyện còn lại thì đã có người đi trước chỉ bảo người đến sau. Cuối cùng thì công việc cũng xong nhờ vào sự chịu khó của những người công nhân gốc Á châu, mà phần lớn là người Việt.

Thế là gia đình ông, một lần nữa di cư về nơi mảnh đất sống này. Buổi sáng chia tay với gia đình người bảo trợ. Ông nghẹn ngào nói lời cám ơn gia đình đã cưu mang thằng Thành nhiều năm, cũng như gia đình ông trong thời gian lưu lại nơi đây. Lời cám ơn chân tình, cảm động của ông đã làm cho mọi người trong gia đình bảo trợ rơm rớm nước mắt.

Sau thời gian ngắn, ổn định nơi vùng đất mới. Ông xin đi làm trong một hãng sản xuất "chip" điện tử. Công việc cũng không lắm nặng nhọc và khó khăn, chỉ cần sự tỉ mỉ và cần cù siêng năng của người làm. Điều đó, đã không thiếu trong bản chất con người của ông. Ông làm việc tận tuỵ, không bỏ sót một giờ làm thêm nào.

Riêng bà cũng không chịu ngồi yên trong nhà ngày một nhàm chán. Không chữ nghĩa nhưng cũng đã có công việc cho bà phụ cắt chỉ ở một hãng may gia công. Thành và Tâm ngoài giờ học ở trường và làm bài ở nhà còn phụ giúp bà nhận hàng vắt sổ thêm ở nhà vào những ngày nghỉ và cuối tuần. Về sau này, ngành may gia công không còn được hưng thịnh như xưa. Bà cũng không quản ngaị khó khăn, xin đi làm việc cho những nhà hàng Việt Nam, khi cắt thịt, khi rửa rau...bất cứ làm việc gì bà cũng không từ nan. Đồng tiền kiếm được mỗi tháng từ công việc làm không nhiều, nhưng cũng đủ góp phần chi tiêu trong cuộc sống gia đình và ông bà cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn.

Tưởng rằng cuộc sống của gia đình êm đềm kể từ đây, khi một đời bà đã tận tụy lo cho chồng con. Bà mong chờ niềm hạnh phúc của người mẹ được nhìn thấy ngày con cái mình nên người. Bà đã đau với cái đau của chồng con trong những tháng năm loạn lạc. Nhưng bà đã không thể nhìn thấy niềm hạnh phúc đang đến gần với bà và gia đình. Bà không thể chờ đợi để nghe thằng Thành hãnh diện nói lời cám ơn ông bà trong bài diễn văn ra trường của nó bằng cả hai ngôn ngữ Anh-Việt. Bà cũng không kịp nhìn thấy những giọt nước mắt của con Tâm khóc cha ngày khoác áo cô dâu về nhà chồng. Bà ra đi để lại trong ông một sự hụt hẫng vô biên, một nỗi đau của người chồng, người cha chưa thể cưu mang cho gia đình một niềm hạnh phúc đủ đầy.

Căn nhà càng trống vắng hơn kể từ ngày con Tâm theo chồng đi công tác nơi miền xa. Niềm thương nhớ người vợ hiền và con gái càng dày xéo nỗi đau trong tâm hồn ông. Sự chăm sóc, quan tâm của thằng Thành cũng không thể làm ông nguôi ngoai trong những lúc cô đơn trống vắng. Nhưng nó là nguồn ủi an, là lẽ sống của ông. Tâm thân ông đang nương nhờ vào đó trong những tháng ngày còn lại trên cõi đời.

*
Buổi sáng, sau khi dọn dẹp những thứ cần thiết trước khi ra phi trường về sống với vợ chồng con Tâm. Cha con bùi ngùi chia tay nhau. Ông ngậm ngùi nói với con trai rằng: Ba hy vọng con hiểu được vì sao gia đình mình đến đây. Ba cũng hy vọng con hiểu rõ do đâu mà mẹ con bỏ cha con mình để ra đi sớm như vây.. Con là điểm tựa, là niềm tự hào của gia đình, của ba. Ông nói mà nghe đau nhói trong con tim.

Dường như một nỗi đau vẫn còn đâu đó trong tấm thân già của một người cha.

Trần Thiên Thịnh
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22006
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Aug/2019 lúc 9:02am
Quả báo



Related%20image

Tôi biết rất rõ về hắn. Nhưng hắn nhìn tôi như kẻ xa lạ. Sợ tôi là người biết quá khứ của hắn nên tảng lờ hay đầu óc hắn lú lẫn đến độ gặp ân nhân cũng không nhớ ra ?

Tôi dời nhà đến khu chân đồi này vào đầu mùa Hè, một khu dân cư đa phần là người Mỹ trắng. Họ thích lối sống khép kín, ít khi giao thiệp với láng giềng. Họa hoằn lắm mới dừng lại hỏi nhau vài ba câu xã giao, còn thường thì Hello, kèm theo nụ cười nửa miệng mỗi khi phải giáp mặt nhau.
Buổi sáng, lúc tôi đi làm thì bên kia đường hắn cũng xuất hiện. Lắm khi cái động tác tra chìa khóa vào ổ khóa cửa xe cũng diễn ra cùng lượt với nhau. Tôi phóng xe đi hướng Bắc thì hắn mở đèn xe rồ máy đi hướng Nam. Chiều tan sở, đường bị kẹt xe nên tôi về muộn hơn nửa tiếng đồng hồ. Nhìn sang bên nhà đối diện, tôi đã thấy chiếc xe của hắn đậu ở trước sân tự bao giờ. Ðiều này chứng tỏ lối sống của hắn có vẻ mực thước.

Một buổi sáng cuối tuần, tôi chạy bộ trong khu công viên quay về, tình cờ gặp hắn đi ngược chiều. Tôi vồn vã bắt tay hắn và tự giới thiệu tên họ của mình, hy vọng hắn sẽ nhận ra người quen, nào ngờ hắn lạnh lùng bắt tay tôi trả lễ rồi lí nhí trong mồm cái tên Mỹ lạ hoắc.

Tôi còn lạ gì hắn. Ðích thực là thằng Khái con của lão Khảng. Thuở còn trẻ lão là trai cày của gia đình tôi. Hồi đó lão nổi tiếng về kỹ thuật phát bờ. Mỗi một nhát phảng của lão đi qua là lớp cỏ dọc bờ ruộng sạch nhẵn thín, vừa mỏng lại vừa trơn láng.

Chín năm kháng chiến chống Pháp, lão bỏ nhà đi đâu biệt tăm. Sau ngày Hiệp định Genève 1954 ký kết, lão trở về quê cưới vợ, một cô gái lỡ thì lớn tuổi hơn lão nhưng được cái nết na. Ngày chính quyền Quốc gia đến tiếp thu vùng Liên khu 5, lão Khảng biến đi mất hút, bỏ lại người vợ đang mang thai. Tám tháng sau vợ lão sinh một bé trai bụ bẫm.

Những vị cao niên trong làng trong xã hiểu chuyện cho rằng tên đao phủ trùm mặt vải đen chém cha con ông Tú Thao, Ðại Hào Trì, ông Bang Tuận trong ngày Việt Minh khởi nghĩa 1945 chính là lão Khảng. Ngày đó lão xử dụng mã tấu điêu luyện như một đao phủ chuyên nghiệp. Ðường đao bén ngọt, chỉ một nhát là thủ cấp tử tội rời khỏi cổ nhưng vẫn còn dính một lớp da như lối chém treo ngành của nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả.

Mụ Khảng tần tảo nuôi con nhờ vào nghề làm gạo hàng xáo. Mụ mượn vốn bằng những gánh lúa của các gia đình khá giả trong làng, làm ra gạo bán kiếm lời rồi mang trả tiền vốn cho chủ. Mỗi lần mụ đến nhà nhận thóc về xay gạo cho mẹ tôi, đều dẫn theo thằng Khái mũi rãi nhớt nhát, chạy lững thững phía sau đôi thúng. Tôi còn nhớ bên má trái của nó có một bớp son hình tròn như con dấu của kẻ nào đó tinh nghịch đóng lên, khiến khuôn mặt của nó có vẻ lém lỉnh như mặt ông địa. Mẹ tôi bảo thằng nhỏ có cái bớp phá tướng, sau này đời nó sống ly hương.

Năm mười tám tuổi, thằng Khái nhận được giấy báo phải trình diện thi hành quân dịch. Mụ Khảng đến nhà mẹ tôi khóc lóc ỉ ôi và nhờ tôi xin cho hắn được gia nhập vào lực lượng Nghĩa quân để được gần nhà.

* * *

Tháng Tư 1975, Miền Nam mất vào tay Miền Bắc. Ðầu năm 1976, lão Khảng bỗng dưng xuất hiện như người đi làm ăn xa trở về. Lão đi cũng như về đều đột ngột và bí hiểm. Hàng xóm không hề thấy lão mặc áo quần đại cán như các cán bộ từ Bắc vào Nam. Thường thì lão mặc bộ bà ba màu nâu, đầu đội chiếc mũ nỉ cũ kỹ. Chẳng biết làm nghề ngỗng gì mà mỗi tuần lão ra đi vài ngày. Lão đeo đôi kính đen gọng nhựa giả đồi mồi bản lớn, tay xách chiếc cặp da đã sờn, chỉ riêng ổ khóa bằng đồng thì còn sáng loáng. Lão đón xe đò liên tỉnh và luôn luôn chọn ngồi vào hàng ghế sau cùng.

Thằng Khái vừa có thành tích bỏ hàng ngũ của “ngụy” về với “cách mạng” cuối năm 1974 , vừa có công hướng dẫn đơn vị bộ đội tiến vào thành phố mà không bị lực lượng quân “ngụy” chặn đánh trong ngày “giải phóng”. Ðời hắn bắt đầu lên hương. Hắn được phục vụ trong một đơn vị bộ đội chính quy có trách nhiệm trấn giữ những điểm trọng yếu tại các huyện miền núi. 
Hắn cưới một cô gái “nạ dòng” nơi vùng đóng quân. Cô nàng có khuôn mặt bầu bĩnh lại thêm thân hình bốc lửa. Hắn vui hưởng hạnh phúc chẳng được bao lâu thì cuối năm 1979 đơn vị hắn có lệnh lên đường thi hành “Nghĩa vụ quốc tế” tại nước láng giềng Compuchia. Hắn ra đi mang theo niềm thương nỗi nhớ. Mang theo những kỷ niệm hừng hực lửa tình của người vợ mới cưới trong những lần gối chăn. Hắn nhớ nhất là đêm đầu tiên, cái đêm động phòng ấy mà, hắn kể : “… Mình thì ngu ngơ, còn cô vợ lại tỏ ra sành sỏi. Ôi, cái đêm ấy, mình lần đầu tiên… đến chết ngộp trên thân thể da thịt nõn nà của người đàn bà. Còn đôi bàn tay của cô ấy nữa. Ðôi bàn tay ‘thần sầu quỷ khốc’mình đê mê đến lịm người”.
Ðời sống gian khổ trong quân đội đối với hắn là cả chuỗi ngày dài đầy ải. Thần chết luôn rình rập trong các cuộc hành quân chiếm đóng trên xứ người. Hai năm dài khốn khổ và đầy hiểm nguy trên đất Chùa Tháp, hắn “bứt”. Nhân cuộc phục kích của quân Khờ Me Ðỏ, đơn vị của hắn tan hàng bỏ chạy, hắn chuồn luôn về lại quê nhà.

Lòng rộn ràng khi hắn tưởng tượng phút giây đoàn tụ sau thời gian dài xa cách. Vợ hắn sẽ ôm riết hắn trong vòng tay chắc nịch. Hắn sẽ vùi mặt vào bộ ngực mịn màng đầy ắp của vợ để tận hưởng mùi mồ hôi ngai ngái tỏa ra mà suốt ba năm trời hắn không thể nào quên được trong những đêm đóng quân. Cái thân thể đầy đặn, trắng ngần, và nụ hôn nồng nàn cuốn hút của vợ là nguồn kích thích cho hắn thêm can đảm bỏ ngũ, vượt đường xa.

Sau bảy ngày nhọc nhằn, băng rừng, vượt suối và đầm lầy, hắn về đến nhà. Mẹ hắn ngồi bất động trên chiếc chõng tre trong góc nhà đầy bóng tối. Cặp mắt vô hồn thao láo hướng ra khoảng sân chói chang ánh nắng trưa hè. Hắn ôm mẹ vào lòng, kêu lên: 
– “Mẹ ơi, con là Khái về thăm mẹ đây”! 
Bà lão đưa tay sờ mặt hắn, tay kia vẫn bất động buông xuôi trên thành giường. Chợt một thằng bé con mới chập chững biết đi, lững thững đến bên chân giường nắm quần bà lão giựt giựt. Hắn vội gỡ tay thằng bé ra khiến nó khóc thét lên. Như qua cơn mê, Mẹ hắn sực tỉnh la lên! 
– “Ðừng đánh nó. Nó là em của mầy”. – “Mẹ ơi, mắt Mẹ làm sao thế ? Vợ của con đâu rồi ? Thằng nhỏ nầy là em của con? Cha con đâu Mẹ? 
Vừa hỏi hắn vừa lay đôi vai mẹ. Bỗng nước mắt bà lão chảy thành dòng ướt đẫm đôi gò má nhăn nheo. Ðoán biết điều gì đã xảy ra, lòng hắn nóng như lửa đốt. Hắn chạy lên chái tây ngôi nhà vào căn buồng mà vợ chồng hắn đã sống với nhau trong những ngày mới cưới. Căn buồng bây giờ được sơn phết sáng sủa hơn. Chiếc giường gỗ mít mà hắn đã cất công chở cây từ trên rừng về và đặt thợ mộc đóng trước ngày cưới vợ, nay đã thay bằng chiếc giường gỗ quý cẩm lai. Giường có lót nệm dày, khăn trải giường màu trắng tinh và cặp gối thêu màu lá chuối non. 
Một tấm hình của vợ hắn và bố hắn chụp chung được lồng kính đặt trên đầu tủ đối diện với chiếc giường .Quần áo của lão Khảng cùng với áo quần của vợ hắn treo chung trong một tủ đứng cùng loại danh mộc với chiếc giường. Một sự thật phũ phàng đập vào mắt khiến tim hắn như bung vỡ.
Hắn vội vã rời khỏi nhà.
Hai ngày sau hắn quay lại gặp cha hắn. Lão Khảng gầm ghè :
“Tao đã báo với chính quyền mầy bỏ ngũ trốn về đây, liệu hồn mà cút đi”.

Trước nỗi đau mất vợ lại thêm lòng nham hiểm của cha, hắn không dằn được cơn phẫn uất vội chụp cây chày giã gạo đánh lão Khẳng dập nát ống chân. Vợ hắn nhào vào cản ngăn liền bị hắn đè xuống lột hết áo quần. Hắn rút con dao găm bộ đội trong chiếc bao da đeo bên hông, chỉa thẳng mũi dao vào chiếc cổ trắng ngần của ả. Bỗng hắn đổi ý, trong chớp nhoáng hắn cắt đứt hai đầu núm vú của vợ. Ả rú lên đau đớn, ôm ngực quằn quại một hồi lâu rồi ngất lịm. 
Hắn bỏ nhà ra đi biền biệt từ đó.

* * *
Ðã khá lâu, từ ngày tôi dời nhà đến đây chưa lần nào thấy bóng đàn bà xuất hiện trong căn nhà của hắn đang ở. Bỗng một hôm, hắn chưng diện trong bộ vét-tông sang trọng cùng với một phụ nữ Việt trang sức khá lộng lẫy từ trong nhà hắn bước ra xe. Rồi từ đấy, người đàn bà thỉnh thoảng đến với hắn trong những ngày cuối tuần.

Ngày ngày chúng tôi vẫn đối mặt nhau, kẻ bên kia đường, người bên nầy đường. Những tháng mùa Ðông, tôi thấy dáng hắn lờ mờ trong buổi sáng sớm mù sương. Về mùa hè, trời sáng tỏ nên trông thấy rõ mặt nhau. Cứ như thế hắn trở thành cái bóng của tôi và tôi là cái bóng của hắn. Dù tôi biết chắc hắn là thằng Khái con của lão Khảng, nhưng trước thái độ dửng dưng tảng lờ rất tự nhiên của hắn, nhiều lúc đã khiến tôi phải hồ nghi trí nhớ của mình.

Một hôm, chiếc xe của tôi trở chứng, đề máy hoài mà vẫn không nổ. Tôi vội vàng chạy qua lộ nhờ xe hắn sạc bình hộ. Hắn lặng lẽ lái xe băng qua đường đưa đầu xe hắn sát vào đầu xe tôi rồi nhanh nhẹn nhảy xuống xe mở nắp ca-pô cắm dây truyền điện vào hai bình ác-quy rồi cho nổ máy. Vừa đậy xong ca-pô của hai xe, tôi chưa kịp đến cảm ơn thì hắn đã vọt xe chạy về hướng thường ngày. Cái bớp son trên má trái của hắn giờ đây chỉ còn mờ nhạt nhưng cũng đủ xác định dấu tích của thằng bé Khái ngày xưa.

Khi nhìn thấy rõ ràng cái bớp son trên mặt hắn, tôi đâm nghi ngờ hắn thuộc thành phần bất hảo và đang thực hiện công việc gì đó có tính cách mờ ám chăng ? Từ đó tôi cố ý theo dõi và điểm mặt kẻ lạ ra vào nhà hắn. Nhưng tuyệt nhiên không có một người nào, ngoại trừ người đàn bà thường xuyên đi về với hắn.
* * *
Ngày lại ngày qua. Công việc ở sở làm càng bận rộn. Vừa làm thêm giờ rồi làm luôn ngày thứ Bảy, tôi mệt đứ đừ không còn thì giờ chú ý đến hắn nữa.

Buổi sáng Chủ Nhật tôi đang tưới nước cho mấy cụm hoa phía trước nhà, bỗng tiếng kêu help, help, cứu tôi, cứu tôi ! Một người đàn bà tông cửa nhà hắn nhào ra ngoài sân. Cô nàng lết đi một đoạn rồi gục xuống sân cỏ. Tôi vội chạy qua nhà hắn. Máu ! Máu chảy một đường dài từ trong nhà ra đến xác người đàn bà đang nằm. Máu tuôn trào từ một vết thủng sau lưng nhuộm đỏ cả chiếc áo ngủ màu hồng cô ta đang mặc. 
Tôi vội vàng quay về nhà gọi số điện thoại 911. Mất khoảng mười phút, xe cấp cứu tới nơi nhưng nạn nhân đã tắt thở. Cảnh sát bao vây căn nhà, kêu gọi hung thủ đầu hàng.

Không lâu sau, cánh cửa từ từ hé mở. Hắn bình thản bước ra sân trong bộ âu phục chỉnh tề, một tay giơ lên, tay kia xách một chiếc cặp da. Cảnh sát ra lệnh hắn bỏ cặp xuống, đưa cả hai tay lên và áp mặt vào tường. Lập tức hắn bị còng tay và bị đẩy lên xe cảnh sát.

Tôi là nhân chứng nên được mời đến văn phòng cảnh sát làm ăng-kết. Hắn khai cung một cách rành mạch, thái độ điềm tĩnh, chứng tỏ tinh thần không bị rối loạn. Hắn thú nhận đã cố ý dùng dao đâm vào lưng của người bạn gái. Một lý do đơn giản là người bạn gái đã dối gạt và không chung thủy với hắn.
Mấy tháng sau, tôi nhận được thư của hắn gởi từ nhà tù.
Thư viết :

“Kính thưa chú.
Cháu đã nhận ra chú từ lúc gia đình chú dọn nhà đến ở cùng khu với cháu. Thay vì vui mừng gặp được người cùng quê, cháu lại rất lo sợ. Sợ, vì chú biết rành rọt về lý lịch và hành tung của cháu hồi còn ở quê nhà. Bởi thế mà cháu đã đóng vai người xa lạ. Cháu lo một ngày nào đó chú sẽ nhận ra cháu nên cháu dự định sẽ bán nhà dọn đi nơi khác. Bây giờ đã ngồi tù rồi thì còn gì nữa để mà lo.

Cháu viết thư nầy là để xin lỗi chú về thái độ thờ ơ của cháu đối với chú trong thời gian qua. Ðồng thời, xin chú cho cháu biết tin tức về gia đình của cháu trước khi chú qua Mỹ. Ðã mười mấy năm rồi cháu chưa hề liên lạc với gia đình. 
Như chú đã biết, tai nạn xảy ra với cháu cách đây gần hai mươi năm ở quê nhà vì con vợ dâm đãng. Giờ đây, nơi xứ người cảnh oái oăm ấy lại tái diễn. Cháu đặt cả tình yêu và niềm tin vào người bạn gái dự tính sẽ đi đến hôn nhân. Cuối cùng nó đã phản bội cháu. Nó lấy cháu để xài tiền nhưng lại yêu một người đàn ông khác. Nếu chú cảm thông cho hoàn cảnh một con người vừa mất tình yêu vừa mất cả tương lai thì chú sẽ rộng lòng tha thứ.

Mẹ cháu vì phải chịu đựng những ngày tháng khổ đau, sầu não do hành động bất chánh của cha cháu mà lâm cơn bạo bệnh khiến bà mù cả hai mắt, bại liệt một cánh tay. Ngày đó, cháu đã dành ra hai ngày để tìm hiểu sự thật trong dư luận quần chúng về gia đình cháu. 
Sau đó, cháu trở về nhà định hỏi chuyện ông già sao đối xử bạc bẽo với mẹ cháu. Nào ngờ ông đã để lộ bản chất hiểm độc và tàn nhẫn đối với cả con ruột của mình. Ông tố cáo cháu tội đào ngũ. Không kiềm chế được cơn giận bùng lên, cháu đã hành động như đối với kẻ thù.

Thay vì giết con đàn bà phản bội, cháu nghĩ đến mẹ nên chỉ trừng phạt nó. 
Sự việc xảy ra như thế rồi, cháu không thể chần chừ ở lại một phút giây nào. Cháu liền đón xe vào Sài Gòn và tiếp tục đến tỉnh Kiên Giang. Cháu thay họ đổi tên sống lây lất qua ngày tại bờ biển Rạch Gíá. Ban ngày cháu xin việc làm tại bến cá. Ban đêm cháu lang thang trên những khu bến vắng ở Bãi Rạch Sỏi, Cầu Ðúc… hy vọng xin được một chỗ trên thuyền vượt biển. Vàng mình không có chỉ có liều mạng. Một là bị đánh chết vất xuống biển hai là người ta thương tình cho mình đi.

Ròng rã hai tháng trời cháu phải trốn công an, du kích tuần tra trên bờ biển. Chúng nó mà bắt được cháu thì tội đào ngũ và tội đánh người gây thương tích là đủ tù rục xương rồi. 
Một đêm cháu nằm ngủ trong lườn một chiếc ghe đang nằm ụ sửa chữa. Bất chợt cháu nghe tiếng thì thào rồi tiếng xẻng đào cát. Cháu biết chắc là họ đang đào những thùng dầu chôn dưới cát được ngụy trang bằng cách úp lên trên một chiếc xuồng đang sơn sữa. Cháu ngồi bật dậy và quyết định lên tiếng :
– Các anh ơi, xin đừng hoảng sợ. Tôi là người nghèo khổ không có vàng để chung cho chủ ghe, nhưng tôi có sức mạnh, có ý chí và quyết tâm ra đi, hãy cho tôi giúp một tay. 
Hai người nhìn nhau, trong thế chẳng đặng đừng vì phải giữ bí mật chuyến đi nên họ đành phải chấp nhận. Một người lên tiếng : 
– Câm mồm, lại đây.
Ðêm ấy, cháu cùng với hai người kia chuyển những thùng dầu lên một chiếc xuồng nhỏ. Họ dùng chèo đẩy xuồng luồn lách trong khu vực tàu đánh cá đậu chen chúc nhau, rồi đưa dầu lên một chiếc thuyền lớn đã chứa đầy người. Thế là cháu được lên thuyền một cách hợp lệ. Ði được hai ngày, bị gió thổi chệch hướng, thuyền tấp vào một vùng đá san hô và mắc cạn tại đó.

Mọi người cầu nguyện và chờ đợi con nước thủy triều nâng thuyền lên. Một ngày trôi qua, thuyền vẫn không nhúc nhích. Với sức nặng của cả trăm mạng người làm sao con thuyền nổi lên được. Cháu đề nghị tất cả số người khỏe mạnh phải xuống nước vừa cho nhẹ thuyền vừa thêm sức nâng thuyền lên trong đợt nước thủy triều đang dâng. Vị chủ thuyền và số người có trách nhiệm tán đồng ý kiến của cháu. Một số khác phản đối, họ đồng loạt nhao nhao lên : 
– Thà chết trên thuyền còn hơn xuống nước bị cá mập xé xác
.

Trước cơn “thập tử nhứt sinh” này mà còn mang chứng gàn dở, cháu nổi đóa rút con dao găm cầm nơi tay đến từng người ra lệnh phải xuống nước. Ða phần rời khỏi thuyền nhưng có một thanh niên trạc tuổi cháu cưỡng lại. Trong một thoáng bất ngờ, hắn đấm vào mặt cháu, đẩy cháu bật ngửa trên váng thuyền rồi ngồi đè lên bụng cháu.

Kinh nghiệm trong những lần tiếp cận với tử thần dưới bàn tay sắt máu của lính Pôn-Pốt, cháu đã hành động theo quán tính vì bản năng sinh tồn, liền quay mũi dao găm cắm phập và ngực hắn. Xác hắn đổ sập trên người cháu, máu tuôn xối xả, ướt đẫm cả mặt mũi áo quần. Cháu đẩy cái xác mềm nhũn đầm đìa máu qua một bên rồi định nhảy xuống nước nhưng ông chủ thuyền ngăn lại sợ máu sẽ làm mùi cho cá mập đánh hơi tìm đến.

Thế là hầu hết đàn ông đều rời khỏi thuyền. Mọi người cùng hè nhau nâng thuyền lên và kết quả như một phép lạ, thuyền trôi ra khỏi vùng đá ngầm. Xác tên thanh niên liền bị vất xuống biển. Rất may là hắn không có một thân nhân nào đi theo nên cháu tránh được sự trả thù. Hành động của cháu không khỏi có một số người kinh tởm, nhưng nó đã cứu được cả trăm mạng sống.

Chú ơi, cháu kể chuyện này cho chú nghe là để chú xét giùm hành động của cháu có thuộc loại người tàn bạo, giết người không gớm tay ? Ðó là nỗi ám ảnh suốt quảng đời của cháu trên đất Mỹ này để may ra lòng cháu được phần nào thanh thản. Người thanh niên, nạn nhân của cháu ra đi để tìm cuộc sống mới và đám đông kia cũng thế. Nếu cháu không giết hắn để tự cứu mình và con thuyền kia liệu có đến được bến bờ tự do ? 
Trong đời cháu đã giết không ít bọn Khờ Me đỏ vì chúng cố tình sát hại đồng đội mình. Cháu đã gây thương tích mang tật suốt đời cho hai người mà cháu hết lòng thương yêu ở quê nhà đó là cha và vợ cháu. Và cháu đã ra tay dứt mạng sống người đàn bà mà cháu xem như nguồn an ủi duy nhất trên xứ người. Tất cả hành xử đó, nếu đấng quyền năng phán xét là tội lỗi, cháu vẫn không ân hận và lương tâm không hề bứt rứt. Bởi chính những kẻ đó đã làm tan nát trái tim cháu, khiến cho tâm hồn cháu đảo điên vì thất vọng. 
Nhưng cặp mắt người thanh niên trên thuyền vượt biên nhìn cháu không phải ánh mắt căm hờn của quân địch, không phải ánh mắt của người đàn bà dâm loạn, cũng không phải ánh mắt lừa lọc của người con gái phụ tình.
Ðó là ánh mắt vô tư đầy kinh ngạc khi mũi dao găm của cháu đâm xuyên qua lồng ngực hắn. Ðã trải qua mười mấy năm rồi mà ánh mắt đó như khắc sâu trong ký ức cháu. Ðêm nào cháu cũng mơ thấy nó. Ánh mắt đó đã nói lên một điều rất rõ ràng là hắn không chủ đích giết cháu mà chỉ cố ý lấy được con dao. Vì thế mà lương tâm đã lên án cháu là kẻ giết người vô tội.
Ðến được đất Mỹ, cháu vừa đi học vừa đi làm. Một thân đơn độc cố gắng tạo dựng cho mình một sự nghiệp. Phải nói rằng từ ngày bị vợ phụ bạc, cháu thực sự sợ đàn bà. Nhưng hình như vận mạng lại ràng buộc cháu với những người đàn bà chuyên mang đau khổ đến với mình và mang cả tai họa cho cháu nữa.

Hy vọng chú đọc và cảm thông cho cháu. Những ngày cuối tuần, nhìn các bạn tù có thân nhân đến thăm, cháu cảm thấy cô đơn vô hạn. Chợt nhớ đến chú nên cháu vội viết thư nầy và mong nhận được thơ hồi âm của chú”.
Cháu
Ðỗ văn Khái

Tôi đọc thư hắn vừa kinh khiếp vừa thương hại. Tôi tự hỏi hắn giết người dễ dàng như thế là do bản chất hung bạo hay do hồn oan quả báo vận vào người hắn. Tôi không viết thơ trả lời nhưng quyết định sẽ đến nhà tù thăm hắn.

Những ngày tháng cô đơn trong tù, hắn lại nghĩ đến gia đình. Nhưng mẹ hắn còn đâu nữa. Từ ngày hắn trốn nhà ra đi, bà lên cơn đột quỵ nằm liệt giường không ai chăm sóc, một tháng sau lìa đời. Tôi không nỡ lòng nào báo cho hắn biết sự thực quá đau lòng đó.

Thời gian thấm thoát trôi qua, mới đó mà đã đến ngày Tết Nguyên Ðán. Tôi sắm một ít thức ăn , đặc biệt là bánh chưng, chả lụa, nem chua vào nhà tù thăm hắn. Tôi hy vọng sẽ đem đến cho hắn một niềm an ủi trong những ngày Xuân trên xứ người. 
Tôi trình báo giấy tờ và điền tên họ của tù nhân mà tôi muốn tiếp xúc. Người quản lý nhà tù lục tìm trong danh sách tù nhân. Ông lấy viết đánh dấu vào cuốn sổ rồi nhìn tôi với ánh mắt ngạc nhiên hỏi :
– Thưa ông, ông liên hệ thế nào với tù nhân Kilty Do mang số 2003 ?
– Tôi chỉ là người láng giềng ở đất Mỹ và cùng quê với anh ta hồi còn ở Việt Nam, tôi trả lời.
Người quản lý nhà tù, đặt đôi kính lão xuống bàn, chậm rãi nói với tôi :
– Tù nhân mang số 2003 đã cắt gân máu tự sát cách đây 5 ngày. Rồi ông cầm cặp kiếng đứng lên khẩn khoản :
– Xin ông chờ tôi một khắc.
Người quản lý bước vào trong. Lát sau ông mang ra một phong bì đưa cho tôi, rồi nói :
– Tù nhân số 2003 yêu cầu ban Giám đốc nhà tù chuyển số tiền 1000 đô-la và bức thư nầy cho ông. Xin ông ký nhận.

Tôi cầm chiếc phong bì mà nghe hồn nặng trĩu. Trong thư chỉ có mấy dòng ngắn gọn. Hắn nhờ tôi gởi số tiền nầy về Việt Nam cho mẹ hắn. Muốn hay không tôi cũng phải để tên lão Khảng là người nhận tiền và có trách nhiệm xây mộ cho mẹ hắn.

Tôi gởi tiền qua cơ sở dịch vụ chuyển tiền. Một tuần lễ sau, văn phòng dịch vụ báo cho tôi biết là nguời nhận và địa chỉ không còn đó nữa. Tôi vội vã gọi điện thoại về gia đình tôi ở Việt Nam mới hay Lão Khảng đã bị chết thiêu trong căn nhà thình lình bùng cháy vào lúc nửa đêm, sau khi con dâu của lão dẫn con bỏ nhà ra đi không về. 
Tôi liền yêu cầu người nhà tôi liên lạc với ông cậu của hắn là em trai mụ Khảng nhận lấy số tiền nầy để xây hai ngôi mộ và lo thờ tự hương khói cho vong linh ba người quá cố. 

 

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Aug/2019 lúc 9:22am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22006
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Sep/2019 lúc 2:25am

Trời Mưa Bong Bóng   <<<<<


Image%20result%20for%20Trời%20Mưa%20Bong%20Bóng%20-%20Đọc%20Truyện%20Đêm%20Khuya%20Tác%20giả:%20Nguyễn%20Huy%20Cường


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 04/Sep/2019 lúc 2:28am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 07/Sep/2019 lúc 9:13am

Út Của Má


Bữa nay ra chỗ bến xe ôm thì không thấy ní quen đâu, nên ra đường ngoắc đại một anh, anh này, kêu bằng anh Út, tầm năm mươi, người nhỏ thó, đen thui và có nụ cười hiền không thể hiền hơn được nữa. Lên xe cũng năm ba câu chuyện, thấy anh nói chuyện cũng vui vẻ nên anh em nói suốt.

đang đi thì anh Út có điện thoại, lấy máy ra alo alo, Út nghe Út nghe, mà có vẻ bên kia nói gì nhỏ lắm ảnh không nghe rõ, mới nói thôi anh tấp vô lề mà nói, chớ chạy vầy sao nghe điện thoại, nguy hiểm quá cha. Tấp vô lề cái ảnh gọi lại. A lô má hả, má gọi Út gì đó má, con đang chở khách. Dạ, dạ, dạ… thôi má ăn cháo nghỉ khoẻ đi, bữa nào rảnh con chạy lên thăm má. Đi gần tới nơi ảnh lại có điện thoại tiếp, lại cũng người má đó, lại dạ dạ dạ con biết rồi má, con chạy kỹ lắm má đửng lo nha, thôi má uống thuốc đi nha, con chở khách để người ta chờ nè, dạ con biết rồi má.

thấy vậy mới nói, anh Út có hiếu ghê, nói chuyện với má ngọt xớt, chắc bác vui lắm, má anh cũng hiện đại hén, điện thoại cho con ngon lành. Ảnh khựng một lúc, rồi túc tắc kể.

có má con gì đâu chú Hai, tui với bà này là người dưng, chớ có má con gì đâu. Hồi trước Tết tui ông già tui tai biến, rồi mất, lúc vô bịnh viện làm giấy tờ tiền bạc cho ổng thì gặp bà má này. Bả ngồi xe lăn, từ xa bả nhìn mình trân trân rồi kêu Út ơi Út à, mình tên Út nên mới chạy lại liền, dạ Út đây. Bả cứ nắm tay hỏi phải Út hông con, sao con đi lâu quá không về thăm má, rồi giờ con làm gì ở đâu… lúc đó tui nghi nghi, thôi chắc bả lộn người rồi, định nói chắc bác gái coi lộn người rồi thì thấy anh con trai của bả đứng sau nháy nháy mắt, ra hiệu biểu tui im, tui cũng im chớ sao chú Hai. Rồi bả khóc quá trời quá đất. Anh con trai mới dẫn bả ra chỗ khác, còn chị con gái thì kêu tui ra nói, anh thông cảm, nhà em có thằng Út thất lạc hồi trước giải phóng, nên giờ má em gặp ai giống giống nó là má em nhận vậy đó, anh thông cảm bỏ qua.

tui nghe cũng thấy êm, mới nói có gì đâu chị, rồi ra lấy xe, thì anh con trai hồi nãy chạy theo, mới nói chuyện kỹ hơn, nhà đó có 4 đứa con, đứa Út chắc cỡ tui, còn anh đó anh lớn, anh Hai, tầm sáu chục. Lúc đó loạn lạc bon đạn, cả nhà dắt díu nhau bỏ quê lên Sài Gòn. Lên tới Sài Gòn thì thằng con Út nó đi lạc, cả nhà tìm kiếm khắp nơi. Sau ông anh Hai này tìm ra nó thì nó đã chết, người ta chôn nó rồi, nhưng coi hình của nha cảnh sát thì xác nhận đúng là nó, nhưng mà lúc đó không dám cho bà má hay, nên ổng quyết định bí mật luôn, coi như thằng Út thất lạc thôi. Tui mới nói ổng sao trùng hợp quá, tui cũng tên Út, nên bả kêu cái ngay boong tui mới ác. Ảnh tròn mắt, nói vậy trùng tên sao.

Rồi sau bữa đó mới lấy số điện thoại. Lúc gần Tết bà già bịnh suốt, suốt ngày kêu Út đâu rồi, rồi khóc miết, bỏ cơm bỏ cháo. Ông anh Hai kia mới điện tui, nói thôi tui nhờ anh đóng giả thằng Út, lên thăm bả, nói chuyện cho bả vui, rồi tháng tui gởi anh tiền café 5 triệu, được hôn. Tui nghe cũng thương, tui ừ, nhưng mà tui hông có lấy 5 triệu nha, giúp được thì giúp thôi, tiền bạc gì đó, rồi từ bữa Tết lên thăm bả, tới giờ tuần nào cũng ghé một hai lần, ăn bữa cơm, rồi bả lấy số điện thoại, ngày nào cũng gọi, nói y thinh một chuyện một, một hai Út của má, Út của má. Phiền hả, phiền gì đâu chú Hai. Mình không có tiền có bạc giúp ai, giúp cho một bà già bả vui vẻ cuối đời cũng coi như là giúp người, chớ có phiền phức gì đâu chú Hai.

Đàm Hà Phú


(Một câu chuyện mới, của Đàm Hà Phú, tác giả của "Sài Gòn, bao nhớ..." và "chuyện nhỏ Sài Gòn"...)
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 189 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.586 seconds.