Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Aug/2021 lúc 9:05am

Đám Cưới, Khi Thầy Tu Cưới Vợ


Nói tới đám cưới thì người ta sẽ nghĩ ngay đến hai bên gia đình, một bên là đàng trai và một bên là đàng gái, gia tộc đàng trai sẽ qua đàng gái rước dâu và gia tộc nhà gái phải đưa con gái về nhà chồng. Nhưng ở đây, cái đám cưới này không có chuyện rước dâu, không có chuyện "cô dâu từ giã mẹ cha, bước đi một bước lệ sa mấy hàng" như những cô dâu khác mà vẫn ở nguyên nhà cha mẹ ruột như từ khi mới lọt lòng mẹ chào đời. Ngược lại chàng rể tạm thời phải theo về nhà vợ ở rể bởi vì chưa tìm đâu được  một túp lều lý tưởng hay một mái thảo trang thơ mộng ưng ý để rước nàng "về dinh" như bao chàng rể trên đời.


Chuyện là như vầy. Chàng rể tên Nguyên, nguyên là một thầy tu xuất, một môn đệ Ki tô đã đánh mất niềm tin phụng vụ đang tập tễnh làm quen với tục lụy đời trần. Vốn liếng vào đời chỉ có mớ văn bằng chữ nghĩa còn tiền của thì một xu dính túi cũng không bởi vì thầy đã nguyện làm tôi tớ Chúa sống khó nghèo từ bao nhiêu năm qua. Sở dĩ thầy hòan tục là vì căn tu thầy đã hết hay nói đúng hơn ở trong chăn mới biết chăn có rận. Thiên hạ bên ngòai, có lẽ ai cũng tưởng rằng  tu viện, giáo đường là nơi truyền bá đức tin, là nền tảng căn bản của đạo đức, bác ái và công bằng nhưng có biết đâu thực tế bên trong thì lắm chuyện phũ phàng, chướng tai gai mắt chỉ vì những kẻ bề trên đã lạm quyền ỷ thế bất công trong cách hành xử đối đãi với sư huynh đệ dưới trướng. Thầy đã quá bất mãn chán chường nên quyết định dẹp quách chiếc áo nhà tu nhập cuộc với đời thường cưới vợ cho xong. Thầy có thể hy sinh dâng cả cuộc đời mình cho Chúa nhưng không cam lòng bị hiếp đáp triền miên tháng này qua năm nọ. Thà làm người thế gian sống cuộc đời bình thường như bao nhiêu người trần tục khác, miễn sao lương thiện ngay lành giữ trọn mười điều răn là đã đẹp ý Chúa chớ cần chi khóac áo tu hành sớm kinh chiều kệ nhưng trong bụng một bồ dao găm luôn nghĩ cách hãm hại người, miệng nói giáo lý giáo điều nhưng lòng dạ hẹp hòi thâm độc như rắn rít.

Cô dâu là Kim Châu, con gái lớn của ông bà tài phú nhà máy lúa gạo người Tiều minh hương. Cô không thuộc lọai người đẹp, chỉ được cái là mặt mày sáng láng trắng trẻo dễ thương nên đã làm xao xuyến trái tim côi của ông thầy dòng xưa nay vốn chỉ biết một lòng yêu mến trung thành thờ phượng Chúa. Cô gặp thầy rất ngẫu nhiên như định mệnh dun rủi khi vào học trường dòng nam bốn năm về trước. Lúc ấy thầy dạy  môn sinh ngữ Pháp lớp cô. Suốt niên học, mỗi giờ Pháp văn, người trên bục giảng, kẻ dưới bàn học, cả hai thường bắt gặp ánh mắt trìu mến len lén gởi trao nhau. Lời tuy chưa tỏ nhưng  lòng đã nghe cảm giác  thân quen từ kiếp nào để rồi kịp lúc tan trường thầy  đã thề ước chuyện trăm năm,  hẹn vài năm sau sẽ trở về xin cưới cô làm vợ. Chuyện tình lúc bắt đầu tưởng đã ngang trái bất thành bởi đạo đời ngăn cách nhưng kết cuộc định mệnh đã cho hai người một happy ending bằng một cái đám cưới "một chiều" không giống ai  thời bấy giờ.  

Lúc rời khỏi nhà dòng, thầy Nguyên như một vị quan liêm chính hồi hưu không của cải, không cửa không nhà, chỉ võn vẹn  một túi xách tay đựng vài bộ quần áo với mấy quyển sách học làm người đắc nhân tâm (có lẽ vì trong nhà dòng thầy chỉ biết nếm mùi thất nhân tâm) và 5000 đồng (thuở đó lương giáo sư cấp hai khỏang ba mươi lăm ngàn đồng một tháng) của bề trên ban cho  làm vốn vào đời. Trong lúc thất sở thân sơ đó, thầy phải tá túc  nhà bà chị cả vài tuần đầu trong thời gian chờ nộp đơn xin về quê vợ lập nghiệp, cái nghề dạy học cố hữu của thầy nhưng phen này đi dạy nhứt định là lãnh lương hẳn hoi chớ nếu "dạy chùa" thì lấy gì mà nuôi sống bản thân và đồng thời còn phải dành dụm để sắm sửa cưới vợ mua nhà.

Khi ấy là đang mùa nghỉ hè, nếu như còn trong dòng thì thường khi học trò bãi trường, các thầy tu phải đi cấm phòng, cầu nguyện, tịnh tâm ở một nơi nào đó tùy bề trên giám tỉnh chỉ định cũng kiểu như những cao thủ võ lâm tới thời kỳ nhập thất bế môn luyện công vậy. Nhưng bây giờ thì thầy đã hòan tòan tự tại thong dong như chim được xổ lồng, như cá được thả về sông mặc tình bay lượn theo ý muốn, không còn lo sợ bề trên áp bức, bề dưới sàm tấu thưa gởi gì nữa. Thầy xuống vườn trái cây mấy chục mẫu của bà chị ở Cái Mơn nghỉ ngơi một tuần, trèo lên cây hái trái chín  ăn cho thỏa thích, họăc cùng mấy đứa cháu đi câu tôm tát đìa bắt cá, hít thở không khí tự do bỏ những khi bị gò bó buộc mình tuân theo những quy luật khắt khe quá đáng của nhà dòng. Vườn nhà bà chị trồng đủ lọai trái ngon giống tốt, cam, dâu, xòai, mít, sầu riêng, măng cụt, bòn bon, chôm chôm nhãn. Mỗi mùa trái cây thu họach mấy chục triệu đồng đến nỗi không dám gởi ngân hàng mà phải dấu vào những hộp biscuits treo trên ngọn cây dừa.    

Kế đó thầy xuống Sóc Trăng thăm cô bồ và luôn tiện tìm nhà  trọ để mai mốt khi về đây dạy mới có nơi ăn chốn ở. Thầy tìm đến dì Sáu, bà bếp nấu ăn trong trường dòng khi xưa nhờ tìm một nơi trú ngụ. Dì Sáu giới thiệu thầy với dì Ba, chị của dì. Dì Ba có hai người con đã lớn, con gái thì đã theo chồng ra riêng, còn con trai đi lính đóng quân ở tận Bảo Lộc nên nhà cửa rộng rãi dư phòng. Có người xin ở trọ, kiếm thêm được chút lợi tức, dì Ba vui vẻ chấp thuận ngay vô điều kiện.        

Tưởng rằng mọi việc sẽ suông sẻ diễn tiến theo dự tính của thầy, nào ngờ đâu thầy dọn vào ở nhà dì Ba chưa nóng chỗ nằm thì một buổi chiều dì Ba nhận được tin con tử trận. Dì vật vã khóc lóc thảm thiết và dị đoan cho rằng chính thầy Nguyên đã đem cái xui xẻo  đến cho gia đình dì khiến con dì mất mạng. Thật là phi lý hoang đường! Con người sinh ra ai cũng có sẵn số mệnh đặt để, một khi đã tới số thì cho dù có trốn trong nhà cũng nhào lăn ra chết bất đắc kỳ tử huống chi mang thân làm lính vào sanh ra tử nơi chiến trường đạn lạc tên bay. Súng đạn đâu có mắt có tròng, trúng ai thì người đó nấy chịu. Cái chết của con dì đâu có mắc mớ tới thầy mà chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng dì Ba đã nghĩ vậy thì thầy cũng không còn lòng dạ nào ở lại nhà dì thêm nữa.

Cạnh nhà dì Ba là nhà một anh chàng thiếu úy văn phòng. Anh thiếu úy này tên Lộc còn độc thân, con một gia đình khá giả quê quán Cần Thơ nhưng vì nhiệm sở ở Sóc Trăng nên phải đóng đô ở Sóc Trăng. Biết tình cảnh của thầy Nguyên, Lộc hào hiệp rủ qua ở chung cho có bạn. Hai tuần sau khi  thầy Nguyên dọn vào, nhân được ngày phép cuối tuần, Lộc rủ thầy  thứ bảy tới đi tắm biển ở bãi Mỏ Ó (bãi biển có hình dạng mỏ ó) với nhóm bạn của anh ta. Thầy Nguyên đã nhận lời, hẹn sau khi đi Saigon bổ túc hồ sơ hõan dịch xong trong vòng ba ngày sẽ về đi chơi với Lộc. Nhưng không hiểu số mạng khiến xui thế nào mà thay vì nghỉ phép ngày thứ bảy như đã nói với thầy, Lộc lại nghỉ ngày thứ năm trong lúc thầy  còn đang lo giấy tờ ở Saigon. Do vậy, Lộc và mấy người bạn gồm ba anh sinh viên và một ông thầy chùa trẻ kéo nhau đi tắm biển trước ngày dự định.

Chiều tối thứ sáu, thầy Nguyên trở về từ Sàigòn, về tới nhà thầy muốn mở cửa vào tắm rửa nghỉ ngơi nhưng  không mở được. Lấy làm lạ, thầy chạy qua tìm  bà hàng xóm kế bên dọ hỏi:
            - Bác Hai à, làm ơn cho tôi  hỏi thăm. Anh Lộc có nhắn gì với bác không? Sao tôi mở cửa nhà không được, hình như có ai đã thay ổ khóa rồi thì phải?
Bác Hai rầu rầu nói :
            - Cậu mới ở Saigon về nên không hay thiếu úy Lộc đã chết rồi. Sáng hôm qua cậu ta ra cửa còn gặp tôi chào vui vẻ nói bữa nay được nghỉ phép đi tắm biển xả hơi một bữa. Vậy mà hồi sáng này, người nhà của cậu ta đã tới lấy hết đồ đạc đem về Cần Thơ và đổi ổ khóa nhà. Tôi chạy qua hỏi có chuyện gì thì họ cho tôi biết cậu Lộc đã bị Việt cộng phục kích bắn chết hôm qua ngòai bãi biển Mỏ Ó. Thiệt không ngờ, tội nghiệp hết sức! Còn trẻ quá mà.!
Thầy Nguyên không tin nổi những gì mình nghe,  hỏi lại như hỏi chính mình:
            - Có thật không bác? Anh Lộc có hẹn với tôi ngày mai mới đi biển mà sao lại bỏ đi trước như vậy chớ.
Bác Hai thở dài lắc đầu bảo :
            - Phần số con người biết sao mà nói cậu ơi! Nếu biết trước thì cậu ấy đã không chết. Chắc  nhờ mạng cậu lớn nên trời xui đất khiến Lộc thất hẹn với cậu đi trước để cậu khỏi chết chung đó mà, hay  đúng hơn là số của cậu Lộc chỉ  hưởng dương tới đây thôi. Người nhà đã đem xác cậu ấy về quê chờ chôn cất. Cậu có muốn đi thăm cậu ấy lần cuối thì ngày mai cũng còn kịp. Thôi, tối nay nếu cậu không vào nhà được thì qua ở tạm nhà tôi đi rồi sáng mai hãy tính.

Sáng sớm hôm sau, sau khi cám ơn lòng tốt của bác Hai cho ngủ nhờ qua đêm, thầy Nguyên vội vã đi Cần Thơ tìm đến gia đình Lộc chia buồn và hỏi thăm tự sự. Người nhà của Lộc kể lại rằng hôm sáng thứ năm Lộc cùng ba anh bạn sinh viên và một ông thầy chùa  đi chơi biển Mỏ Ó. Sau khi tắm xong nhảy lên xe jeep đề máy định về thì máy xe không nổ vì bình xăng đã bị ai đổ cát vào.  Liền khi ấy Việt cộng núp gần đâu đó trong những lùm cây rậm rạp bắn ra hàng lọat súng xối xả khiến ba người chết liền tại chỗ là Lộc, một anh sinh viên và một ông thầy chùa . Còn hai anh bạn kia may mắn nhanh chân phóng xuống biển lội trối chết mới thóat thân còn mạng trở về báo tin cho gia đình Lộc.

Thầy Nguyên bùi ngùi đến trước linh cữu của Lộc thắp lên ba nén nhang khấn nguyện cho vong linh người bạn vắn số sớm được siêu thóat yên nghỉ, người bạn tuy chỉ sơ giao nhưng rất phóng khoáng nhiệt tình đã giúp đỡ thầy trong cơn lỡ bước bơ vơ không nơi tá túc.  Hình ảnh trẻ trung với nụ cười ngạo đời của Lộc còn hiển hiện rành rành trước mắt như mới hôm qua mà giờ đây đã âm dương cách biệt khiến thầy không khỏi xúc động bi ai. Quả thật vô thường!
Thôi thế thì anh trước  tôi  sau
Lẽ tử sinh ai tránh được nào
Anh đi trước có tôi đưa tiễn
Tôi đi sau ai tiễn ai chào

Thế là thầy Nguyên lại trở về tình trạng cù bơ cù bấc không cửa không nhà. Thầy kể lại mọi việc  với gia đình cô Châu. Ba má cô Châu nghe vậy mới bàn tính với nhau hay là cho thầy về ở chung trong nhà mình cho rồi, chớ mà cứ để thầy đi lang bang hết chỗ này đến chỗ nọ, đi tới đâu người ta chết tới đó, đành rằng là do số mạng  nhưng rủi thay lại nhè lúc thầy đang ở trọ trong nhà họ, nếu đồn ra ngòai thì chắc sẽ mang tiếng là sát chủ chớ chẳng chơi.

Riêng cô Châu, cô cũng nơm nớp lo sợ người yêu của cô nếu cứ đi lòng vòng bên ngòai, nay tắp nhà này mai đậu nhà kia, với bản chất thật thà dễ tin,  không biết gì là cạm bẫy cuộc đời, biết đâu có ngày thầy bị người ta "vớt" hay gài  cho một cái bầu như anh chàng Điệp trong chuyện tình Lan và Điệp thì cô chỉ có nước đi tu như Lan mà thôi. Thế nên, thấy ba má  dễ dãi cô mạnh dạn nói tọac ra nỗi lo âu của mình, đôn đốc ba má cô đem thầy về "cất" ở nhà mình luôn cho chắc ăn. Nhưng mà thầy với cô chưa có lễ nghi gì chính thức ra mắt bà con chòm xóm, nếu để thầy khơi khơi vào nhà thì e rằng sẽ bị thiên hạ đàm tiếu dị nghị. Do đó, ba má cô  mới bảo thầy về quê mời người lớn trong gia đình  tới làm lễ hỏi ra mắt  bà con ở đây chiếu lệ trước rồi từ từ mới coi  ngày lành tháng tốt làm đám cưới cho danh chánh ngôn thuận sống chung nhà.   

Trong lúc thầy Nguyên về quê mời người nhà qua hỏi vợ thì ở đây ba má cô Châu lo đặt thèo lèo, bánh mứt và chuẩn bị sẵn những lễ vật mà đáng lẽ phía nhà trai cần phải "đi mâm" mang qua nhà gái cầu hôn. Nhưng vì biết chắc trăm phần trăm là thầy Nguyên không thể nào hiểu nổi ba cái tập tục rình rang phiền phức này nên hai ông bà phải sắp xếp dàn dựng mọi thứ giùm cho thầy. Đồng thời hai ông bà cũng đi mời bà con thân tộc và xóm giềng chung quanh đến dự lễ hỏi của con gái mình. Chỉ là một tiệc trà đơn sơ, bánh bao xíu mại, cà phê sữa nóng để trình làng chàng rể tương lai với họ hàng là thầy Nguyên có thể ung dung xách đồ đạc dọn vào ở chung một nhà mà không sợ thiên hạ dèm pha.

Và cũng sau đám hỏi thì ngày tựu trường cũng đã tới để thầy từ đây có thể bắt đầu tạo lập cuộc đời của riêng mình. Với mớ văn bằng và kinh nghiệm sư phạm bao năm, thầy tin rằng mình sẽ làm nên một tương lai tươi sáng, hạnh phúc hơn sau những tháng năm dài dấn thân  phụng vụ cho một lý tưởng thiêng liêng mà tới đây thầy nhận thấy đã đủ để chuyển hướng đời. Hai hôm đầu đi dạy, vì chưa đủ tiền mua xe nên thầy phải đi bộ hoặc nếu nhằm giờ dạy ở trường quận thì phải đón xe lam. Ông già vợ tương lai thấy vậy "coi không được" nên mới mua liền cho thầy một chiếc Honda 50 cc làm chân để thầy chạy tới chạy lui cho khỏi tủi thân với đồng nghiệp bạn bè. Nhờ vậy mà thầy mới có thể đi dạy hai ba trường kịp giờ trong cùng một ngày. Thời gian đó, cũng nhờ ăn ở trong nhà vợ sắp cưới, tiền lương mỗi tháng của thầy dư trọn vẹn không mẻ một xu nào cho nên mỗi tháng thầy mua  một cây vàng để lên. Tích trữ thứ gì khác thì cũng có thể hư hao phá giá chớ vàng y thì bốn mùa tứ quý đều thích dụng, bất cứ lúc nào cũng dễ mua  dễ bán. Tính như thầy vậy thiệt là chắc cú an tòan.

Rồi một ngày đẹp trời, gia đình cô Châu tổ chức lễ cưới cho hai người. Dù đám cưới này không có rước dâu nhưng ông cậu bà con đang trấn nhiệm chức vụ tỉnh trưởng Sóc Trăng thời bấy giờ cũng hào sảng cho mượn chiếc xe riêng của ông làm xe hoa đưa cô dâu chú rể đến nhà thờ. Sau nghi thức hôn phối ở nhà thờ, về nhà là tới cái màn nhóm họ đàng gái, đãi đằng bà con chị em phía cô dâu. Tiếng là nhóm họ đàng gái chớ thật ra là hai đàng nhập một bởi vì chú rể đã ở trọ trong nhà hằng mấy tháng. Nhà cô dâu hôm nay được che lều dựng rạp treo đèn kết hoa và đặt bàn ghế  ra tận giữa đường lộ để bà con khách khứa có đủ chỗ ngồi ăn uống chung vui. Bữa tiệc nhóm họ đêm đó có nhiều món lai rai như bì cuốn, bún chả giò, bánh mì cà ri, cháo gà xé phay do mấy chị em bạn dì giúp làm rất hợp khẩu mấy ông bợm nhậu, nhứt là những ông  đồng nghiệp của thầy Nguyên, uống sao mà như hũ chìm. Nhà ba má cô Châu ở cạnh bên Ty cảnh sát nên mấy ông cảnh sát trực đêm hôm đó cũng được chủ nhà chơi đẹp mời nhấm nháp vài ly hả hê phê đời. 

Và ngày kế tiếp hôn lễ mới chính thức cử hành trong gia tộc. Thầy Nguyên rời nhà đi tu từ khi còn rất nhỏ nên đã bị người nhà lãng quên theo thời gian, cả đời không ai đếm xỉa tới thầy đang làm gì, ở đâu hay sống ra sao. Anh chị em thầy cộng lại có hơn một tá nhưng chẳng ai bận tâm tới chuyện thầy ra dòng cưới vợ. Vì thế bên nhà gái phải chủ trì mọi việc từ A tới Z, từ đôi bông tai, chiếc nhẫn cưới cho đến sính lễ mâm quà, nhứt nhứt đều do đàng gái sắp đặt. Thiệt tình! cũng vì thông cảm cho hòan cảnh đon chiếc của thầy, có người nhà như không, không ai lo giúp chỉ dẫn cho nên bên nhà gái phải gánh hết trong việc hợp thức hóa cuộc chung sống cho con mình. Mình tốt với rể thì sau này nó sẽ tốt lại với con mình chớ có lỗ lã gì đâu. Chuyện vợ chồng là chuyện trăm năm, quan trọng là tình nghĩa một đời chớ sá gì vật chất chi ly trước mắt. 

Bà dì và má cô Châu cũng khéo tính, đã mượn nhà một bà hàng xóm thân tình làm nhà đàng trai để từ đó bưng mâm qua nhà đàng gái chiếu lệ. Lễ vật cả thảy là tám mâm  gồm có heo sữa quay, trầu cau, bốn chai rượu, bốn hộp trà, hai mâm trái cây, một mâm bánh bía, một mâm biscuits hiệu Lu của Pháp. Đàng gái nhận lễ vật và mời đàng trai (cũng do đàng gái đạo diễn) vào nhà, lên đèn cưới rồi  chào ra mắt bà con từ già tới trẻ cho dù đã biết rành nhau quá xá nhưng cũng phải diễn tuồng cho đủ lễ bởi vì: 
Thói đời hay chuộng bề ngòai
Làm cho đẹp mặt đẹp mày mới cam
Làm lễ xong, cả đám kéo nhau đến nhà hàng dự tiệc. Ba cô Châu là người làm lúa gạo nên đa số khách mời là bạn làm ăn. Bên thầy Nguyên thì chỉ cần một bàn là đủ cho các thầy giáo chung vui quắc cần câu với thầy. Ai uống rượu uống bia gì thì uống, còn thầy chỉ uống nước ngọt hay nước lã cầm cự chớ xưa nay chưa từng  uống giọt rượu hay biết đến điếu thuốc bao giờ. Người thì nói cô dâu có phước gặp được người chồng có học thức lại đàng hòang chân chỉ không biết rượu chè bài bạc hút sách chi chi. Người thì cho là chàng rể tốt số cưới được con nhà tử tế  hiền lành nề nếp. Và mọi người đều xúm nhau cụng ly chúc phúc cho đôi tân nương tân lang. Ôi thôi! Biết bao là lời tán tụng đẹp đẽ ngọt ngào đầu môi không ngớt. Tốt số hoặc có phước hay không thì phải về lâu về dài mới biết chớ bây giờ trước mắt mọi người thì hẳn nhiên là một họat cảnh hạnh phúc nhứt trong các màn kịch của cuộc đời. 

Hôn nhân là một cuộc hành trình lâu dài suốt kiếp mà đám cưới chỉ là  bước khởi đầu cho cuộc hành trình đó. Và rủi thay, "hôn nhân là mồ chôn ái tình", là phản diện của tình yêu. Sau ngày cưới, sau tuần trăng mật, chung sống bên nhau hằng ngày mới biết chân tướng của nhau. Đường dài thăm thẳm,  tương lai ai biết được, là một con đường được trải thảm hoa êm ả đẹp như trong truyện cổ tích hay đầy đá sỏi gập ghềnh, đất bằng dậy sóng?!  Có đi trọn đường tình được hay không còn tùy ở sự nhẫn nhịn hy sinh và biết chia sẻ cảm thông với nhau của mỗi cặp vợ chồng…   

 Người Phương Nam 

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Aug/2021 lúc 7:31am

Chiếc vòng đeo cổ

Thoi%20Gian%20Magazine

Henri René Albert Guy de Maup***ant (sinh ngày 5-8-1850 mất ngày 6-7-1893), nhà văn Pháp, được xem là bậc thầy của truyện ngắn, đại diện trường phái Tự nhiên, thường miêu tả cuộc sống con người giữa những định mệnh và áp chế xã hội với những tan vỡ, bi quan. Maup***ant, theo Gustave Flaubert, những truyện của ông có cá tính và hiệu quả riêng biệt, kết thúc dường như dễ dàng. Nhiều truyện được viết trong thời gian chiến tranh Pháp-Đức vào các năm 1870, mô tả sự phi lý của chiến tranh và những thường dân bị rơi vô tình trạng mất tự chủ.

Ông đã viết 300 truyện ngắn, 6 tiểu thuyết, 3 tập du lịch, 1 tập thơ. Truyện xuất bản đầu tiên của ông, “Bánh Bao” năm 1880, được coi là một tuyệt tác.

                                                                                                                                                  Guy de Maup***ant
                                                                                                                                                  Hồng Đăng lược dịch

Cô gái là một trong những người đẹp, duyên dáng, vì số phận phải sinh ra trong gia đình thư ký. Không của hồi môn, không kỳ vọng, không ai biết, không được hiểu, được yêu, không được bất cứ người đàn ông giàu có và tiếng tăm kết hôn nên cô bằng lòng lập gia đình với một thư ký của Bộ Hướng dẫn Công cộng.

Cô ăn mặc giản dị vì không thể mặc đẹp. Tính khéo léo tự nhiên, thanh lịch, mềm mỏng là nền tảng thứ bậc của họ và làm cho phụ nữ bình dân trở thành người đàn bà tuyệt vời.
Loisel đã chịu đựng nhiều, cô cảm thấy mình được sinh ra để tận hưởng những món ngon, xa xỉ. Nhưng cô đau khổ vì sự nghèo nàn của nhà mình, các bức tường trần trụi, ghế bàn tồi tàn, màn cửa xấu xí. Các thứ đó, đối với một phụ nữ khác đẳng cấp như cô, sẽ có cảm giác bị tra tấn và tức giận. Hình ảnh người nông dân bé nhỏ vùng Breton làm công việc nhà cho cô đã khơi dậy những giấc mơ của mình. Cô nghĩ tới các phòng khách yên lặng treo thảm Ðông phương, được chiếu sáng bởi các chân đèn cao bằng đồng, hai người hầu mặc quần sọt ngồi trên ghế bành ngủ gục gần bếp lò. Cô nghĩ đến các phòng tiệc lớn, tường treo lụa cổ, tủ đầy thức ăn ngon kỳ lạ, phòng tiếp tân thơm nước hoa dành cho bạn bè nói chuyện với nhau sau 5 giờ, cùng nhiều người đàn ông tiếng tăm, luôn được săn đón, những người mà các bà thèm muốn và mong đợi được chú ý.

Khi cô ngồi ăn tối, trước chiếc bàn tròn trải khăn dùng cho 3 ngày, đối diện là chồng cô, người mở nắp tô súp lớn, nói với giọng thích thú.

– Ah, ngon quá! Ðâu có món nào ngon hơn súp này.

Cô nghĩ tới những bữa ăn ngon, với dao nĩa bạc sáng bóng, với thảm thêu trên tường về các nhân vật cổ đại và loài chim lạ bay giữa rừng cổ tích. Cô cũng nghĩ tới các món ăn được dọn trên dĩa tuyệt đẹp và những lời thì thầm tán tỉnh, lắng nghe với nụ cười giống tượng nhân sư trong lúc đang ăn miếng cá hồi hoặc cánh chim cút
Cô không có áo choàng, không nữ trang, không có gì hết. Cô thích những món đó. Cô nghĩ rằng sẽ có được. Cô thích nhiều thứ để tự hài lòng, và được săn đón. Cô có người bạn cũ ở trường tu viện, người bạn giàu, là người mà cô không muốn gặp nữa vì cô thấy quá buồn cho mình khi về nhà.

Vào một tối, chồng cô về với vẻ chiến thắng, cầm một phong bì trên tay.

– Ðây!

Anh nói.

– Có cái này cho em.

Cô xé phong bì thật nhanh, lôi ra cái thiệp in những dòng chữ:

“Bộ Trưởng Hướng dẫn Công cộng và Bà Georges Ramponneau vinh hạnh kính mời ông và bà Loisel đến dự buổi dạ tiệc ở sảnh đường vào tối thứ Hai, 18-1”.
chiec%20vong%20deo%20co

                                 Hồ Đắc Vũ

Thay vì vui mừng như chồng cô hy vọng, cô ném thiệp mời lên bàn, lầm bầm:

– Em làm gì với chuyện này?

– Sao vậy cưng? Anh nghĩ rằng em sẽ vui. Em chưa bao giờ ra ngoài, và đây là dịp tốt. Khó khăn mới có được. Ai cũng muốn dự, và được tuyển chọn, họ không cho nhiều thiệp mời đối với thư ký. Cả thế giới quan chức sẽ có mặt ở đó.
Cô nhìn chồng với cặp mắt bực bội, nóng nảy nói:

– Vậy, em mặc gì đây?

Anh chồng lắp bắp:

– Sao? Cái áo choàng em mặc đi nhà hát, rất đẹp đối với anh.

Người chồng ngưng lại, bối rối thấy vợ mình khóc. Hai giọt nước mắt lớn lăn tròn từ khóe mắt tới
khóe miệng cô.

– Chuyện gì vậy?

Anh hỏi.

Bằng một cố gắng chế ngự nỗi buồn của mình, cô trả lời với giọng bình tĩnh trong khi lau gò má đầy nước mắt:

– Em không có áo choàng, vì vậy em không thể tới tiệc. Ðưa thiệp mời của anh cho bạn đồng nghiệp vì vợ của họ có đủ y phục hơn em.

Anh chồng thất vọng, tiếp tục:

– Lại đây, Loisel. Tốn bao nhiêu vậy em? Một áo choàng thích hợp và em có thể dùng trong các dịp khác, kiểu đơn giản.

Cô nghĩ ngợi vài giây, tự hỏi cỡ bao nhiêu tiền mình có thể nói, để không bị từ chối ngay bởi ông chồng thư ký kinh tế.
Cuối cùng thì cô lưỡng lự trả lời:

– Em không biết chính xác, nhưng em có thể lo chuyện này với 400 quan.

Mặt người chồng hơi tái, vì anh đã để dành số tiền cỡ đó, dùng mua súng cùng với các bạn đi bắn chim sơn ca vào ngày Chúa Nhật trong mùa Hè tới tại Nanterre. Nhưng anh nói:

– Rất tốt! Anh sẽ cho em 400 quan, cố mua được áo choàng đẹp.

Ngày dự tiệc gần kề và Loisel có vẻ buồn, khó chịu, lo lắng. Áo choàng của cô đã sẵn sàng. Vào một buổi tối, chồng cô hỏi:

– Chuyện gì vậy? Ba ngày rồi em rất kỳ cục.

Cô trả lời:

– Thật khó chịu khi em không có trang sức nào. Không có gì, sẽ thấy em rất nghèo nàn. Chắc em không nên đi quá.
– Em có thể đeo hoa thật.

Chồng cô nói:

– Rất là thời trang vào lúc này. Chỉ 10 quan em có thể được 2, 3 hoa hồng tuyệt đẹp.

Cô không bị thuyết phục.

– Không! Không có gì nhục nhã khi bị thấy nghèo trong những người đàn bà giàu.

– Sao em ngốc vậy?

Chồng cô la lên:

– Bà Forestier, hỏi bả cho mượn vài món nữ trang. Em thân tình nên mượn được.

Cô thốt lên tiếng khóc vui mừng:
– Ðúng vậy! Sao em không nghĩ ra.

Hôm sau, cô đến nhà Forestier và nói với bà điều phiền muộn của mình.

Bà Forestier bước tới chiếc tủ kiếng, lấy hộp nữ trang, mang lại, mở ra và nói với Loisel:

– Chọn đi cưng.

Ðầu tiên cô thấy vài vòng tay, vòng đeo cổ ngọc trai, tới một thánh giá vàng kiểu Venis nạm đá quý. Cô thử các thứ ấy trước kính, do dự và không thể quyết định, cô hỏi:

– Bà còn nữa không?

– Tại sao, coi thêm đi, không biết bạn thích gì?

Bất ngờ cô tìm thấy trong hộp, một vòng kim cương tuyệt đẹp khiến tim cô rộn ràng vì ham muốn. Tay cô run lên khi cầm lấy nó. Cô đeo vào chiếc cổ cao và ngây ngất nhìn mình trong kiếng.
Cô ngập ngừng hỏi:

– Bà sẽ cho tôi mượn vòng này, chỉ món này thôi, được không?

– Dĩ nhiên là được rồi.

Cô ôm chầm lấy bà ta, hôn thắm thiết, ra về với món nữ trang mình thích.

Ðêm dạ tiệc, Loisel đã thành công lớn. Cô đẹp hơn các người đàn bà khác có mặt, lịch thiệp, duyên dáng, và vui chơi tự nhiên. Bao nhiêu đàn ông nhìn cô, hỏi tên, tìm cách được giới thiệu. Tất cả tùy viên của Bộ mong được nhảy Valse với cô. Cô được ông Bộ trưởng chú ý. Cô hân hoan nhảy múa và say đắm trong niềm vui, trong sự chiến thắng với vẻ đẹp của mình. Trong hào quang thành công, trong đám mây hạnh phúc bao gồm tất cả ngưỡng mộ, những điều này đã thức tỉnh cảm giác chiến thắng ngọt ngào từ trái tim người phụ nữ.

Cô rời dạ tiệc vào 4 giờ sáng. Chồng cô đã ngủ từ nửa đêm trong phòng nhỏ với 3 người đàn ông khác, cũng có vợ đi dự dạ tiệc.
Anh chồng ném cho cô chiếc khăn quàng, loại khăn bình dân thường dùng, vẻ nghèo nàn của khăn tương phản với bộ đồ dạ tiệc. Cô cảm thấy điều này, và muốn trốn đi để không bị nhận ra bởi mấy bà khác, đang choàng những bộ áo lông đắt tiền.

Chồng cô giữ lại, nói:

– Ðợi một chút. Ra ngoài em sẽ bị cảm. Anh gọi xe.

Cô không nghe lời anh, chạy biến xuống cầu thang. Khi các bà tới đường phố, họ không có xe và bắt đầu tìm một chiếc. Họ đi về phía sông Seine, run rẩy lạnh. Cuối cùng thì họ tìm ở cầu tàu một chiếc xe thuê cũ.
Xe đưa họ về nhà trên đường Des Martyrs, đáng buồn thay, họ phải leo cầu thang lên các căn nhà hẹp.

Mọi thứ coi như xong với cô. Còn anh chồng thì cho biết phải có mặt ở Bộ lúc 10 giờ sáng hôm đó.

Cô bỏ khăn choàng trước tấm kính để nhìn thấy mình lần nữa trong niềm vui vừa qua. Nhưng bỗng nhiên, cô bật khóc.

Chiếc vòng kim cương không còn trên cổ cô.

– Chuyện gì vậy em?

Anh chồng đang thay đồ, hỏi.

Cô ta bối rối quay qua anh.

– Em… em đã bị mất cái vòng cổ của bà Forestier.
Cô òa khóc.

Anh chồng đứng dậy, ngơ ngác:

– Cái gì! Sao vậy? Không thể được.

Họ tìm trong những nếp áo, áo choàng, các túi, mọi chỗ, nhưng không tìm thấy.

– Em có chắc là còn đeo vòng khi rời dạ tiệc?

Anh hỏi.

– Có! Em thấy nó khi ở tiền sảnh nhà ông Bộ trưởng.

– Nhưng nếu em bị rơi ở ngoài đường, thì ai cũng nghe, chắc trên xe thuê.
– Vâng, dám lắm, anh có ghi số xe không?

– Không, em có để ý không?

– Không.

Họ nhìn nhau sửng sốt.

– Anh sẽ đi bộ trở lại, người chồng nói, dọc con đường, coi thử có tìm được không.

Anh đi ra. Cô ngồi đợi trên ghế với bộ đồ dạ tiệc, không còn sức để ngủ, choáng váng, mất lửa, không suy nghĩ được.

Anh chồng trở về lúc 7 giờ, không tìm được gì.

Anh ta tới đồn cảnh sát, phòng báo chí, treo một giải thưởng, tới công ty xe chở thuê, thật ra thì anh tới khắp nơi với niềm hy vọng.
Cô đợi cả ngày, trong tình trạng sợ hãi, điên cuồng trước tai họa này.

– Em phải viết thư cho bà Forestier, người chồng nói, rằng em đã làm hư cái khóa vòng đeo cổ của bà nên phải sửa lại. Cho chúng tôi có thời gian để hoàn trả.

Cô viết như anh nói.

Cho đến cuối tuần thì họ tiêu tan hy vọng. Loisel đã già đi 5 tuổi, Anh nói:

– Chúng ta phải làm thế nào để thay thế món nữ trang đó.

Hôm sau họ lấy hộp đựng vòng cổ tới người thợ kim hoàn có tên trong hộp. Ông kiểm lại sổ lưu.

– Thưa bà, không phải tôi là người bán vòng này, tôi chỉ làm cái hộp.

Rồi họ đến từ thợ kim hoàn này tới thợ kim hoàn khác, tìm cho được cái vòng cổ giống như vậy. Cả hai rất chán nản, buồn phiền.
Tại một cửa hàng ở Palais Royal, có chuỗi kim cương giống cái vòng cổ họ đã bị mất. Trị giá là 40,000 quan. Họ có thể mua với giá 36,000.

Họ xin người chủ khoan bán chiếc vòng trong 3 ngày. Và họ đã mặc cả rằng sẽ mua lại với giá 40,000 quan, nếu họ tìm lại được chiếc vòng cổ bị mất trước cuối tháng 2.

Loisel có 18,000 quan của ba anh để lại. Anh sẽ vay phần thiếu. Anh vay người này 1,000; người kia 500; 5 đồng ở đây; 3 đồng nơi khác. Anh hợp đồng với dân cho vay cắt cổ, và đủ loại kiểu cho vay. Anh đã hy sinh ký một thỏa thuận mà không cần biết mình có thể thực hiện được hay không, và lo lắng những rắc rối sẽ còn tới, do cái xui đã rơi vô mình.

Trước viễn cảnh thiếu thốn vật chất và nỗi khổ của luân lý mà anh chịu đựng, anh ta đi mua chiếc vòng cổ mới. Ðặt lên quầy của người chủ kim hoàn 36,000 quan.

Khi Loisel mang chiếc vòng cổ trả lại, Bà Forestier lạnh lùng nói.
- Lý ra bạn phải trả lại sớm hơn, vì tôi có thể cần.

Bà ta không mở hộp ra vì cô bạn có vẻ sợ. Nếu bà ta biết được sự tráo đổi, bà sẽ nghĩ gì, sẽ nói gì, Liệu bà không coi Loisel như một tay trộm?

Sau đó, Loisel biết đời sống khốn khổ của những người thiếu thốn như thế nào. Cô buồn phiền chuyện của mình, tuy vậy với cử chỉ anh hùng, món nợ ghê gớm đó phải được trả. Cô sẽ trả thôi.

Họ cho người giúp việc nghỉ, thay đổi chỗ ở, mướn căn gác xép sát mái nhà.

Cô bắt đầu biết sự nặng nhọc của việc nhà và cái đáng ghét của bếp núc. Cô rửa chén đĩa, dùng những ngón tay xinh xắn và móng tay hồng hào rửa nồi, chảo đầy mỡ. Cô giặt gối mền, áo, khăn lau chén, phơi khô trên dây, cô mang nước dơ xuống đường mỗi sáng, lấy nước lên, ngừng lại thở mỗi lần đặt xuống. Và ăn mặc như một người đàn bà bình dân, cô tới tiệm trái cây, tạp hóa, tiệm thịt với cái rổ trên tay, trả giá, tiết kiệm đồng tiền khốn khổ của mình từng xu một.

Mỗi tháng họ phải coi những ghi chú, làm ghi chú mới, gia hạn thời gian.
Người chồng của cô làm việc mỗi đêm, anh thường làm trễ để sao lại các bản viết tay với 5 xu 1 trang.

Cuộc sống như vậy đã trải qua 10 năm.

Vào cuối năm thứ 10, họ đã thanh toán hết tất cả nợ, kể cả số tiền lời quá nặng nề.

Bà Loisel bây giờ nhìn thấy già. Cô đã trở thành người đàn bà nhà nghèo, mạnh, cứng và thô. Với mái tóc hôi, áo đầm xốc xếch và tay đỏ hồng, cô nói lớn khi chùi sàn với tiếng rào rào của nước. Nhưng đôi lúc, khi chồng cô ở văn phòng, cô ngồi xuống gần cửa sổ, nghĩ tới buổi tối vui vẻ của đêm dạ tiệc ngày xưa khi cô còn rất xinh đẹp và được ngưỡng mộ.

Ðiều gì sẽ xảy ra nếu cô không bị mất cái vòng cổ ấy? Ai biết? Ðâu ai biết? Cuộc đời thay đổi thật lạ lùng.

“Sao mà vật nhỏ bé kia lại cần thiết để làm ra hoặc hủy hoại cuộc đời chúng ta?”
Vào một Chúa Nhật, cô ta dạo chơi ở Quảng trường Champs Elysee để xả hơi sau một tuần làm việc, bỗng nhiên cô nhận ra người đàn bà đang dắt đứa trẻ. Ðó là Bà Forestier, vẫn trẻ, vẫn đẹp, duyên dáng.

Loisel cảm thấy xúc động. Mình có nên nói chuyện với bà không? Vâng dĩ nhiên rồi. Bây giờ cô ta đã trả nợ hết, cô nên nói với bà chuyện này. Sao lại không?

Cô ta bước tới.

– Chào Jeanne Forestier!

Người kia ngạc nhiên, không hề nhận ra cô và lắp bắp:

– Thưa bà, chắc lầm người.

– Không. Tôi là Mathilde Loisel.
Bạn cô thốt lên tiếng khóc.

– Ô, Mathilde Loisel tội nghiệp! Sao cô thay đổi quá vậy?

– Vâng! Tôi sống rất nghèo khổ, kể từ lần cuối cùng gặp bà, sự nghèo khổ quá lớn và đó là do bà!

– Tại tôi! Làm sao vậy?

– Bà còn nhớ cái vòng đeo cổ bà cho tôi mượn trong đêm dạ vũ của Bộ trưởng?

– Vâng, nhớ.

– Vâng tôi đã đánh mất.

– Nghĩa là gì? Cô đã trả lại.

– Tôi đã đền lại một cái vòng kim cương giống vậy. Và chúng tôi đã trả nợ 10 năm cho cái vòng này. Bà có thể hiểu rằng điều ấy không dễ dàng với chúng tôi, vì chúng tôi không có gì cả. Cuối cùng sự việc đã chấm dứt, tôi rất vui mừng.
Bà Frostier ngừng lại.

– Cô nói rằng cô mua vòng kim cương thay thế cho vòng của tôi?

– Vâng, bà không thể nhận ra, rất giống nhau.

Và Loisel mỉm cười với niềm hân hoan, tự hào rất chân thật.

Bà Frostier xúc động, nắm tay cô:

– Ô! Loisel tội nghiệp! Vòng của tôi là kim cương giả, trị giá có 500 quan à!

                                                                                                                                           VHĐ (lược dịch)

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Aug/2021 lúc 8:24am

Cái Chai đựng dầu hôi


Âm%20u%20ngọn%20đèn%20tù%20mù%20-%20Chơn%20Linh
       _________________________

              Hai Hùng SG 



  Mùa dịch bịnh đang lan truyền ra nhiều nơi, vì vậy các chỗ vui chơi giải trí đông người đều ngưng hoạt động, có những người vì công ăn việc làm thì bắt buộc họ phải ra đường để mưu sinh, trên gương mặt ai cũng có cái khẩu trang để phòng bệnh. 
                       ***
  Ở nhà riết quanh đi quẩn lại cũng chán, chiều qua tui thả bộ trên con đường quen thuộc trong xóm, định đi tới đi lui cho giãn gân cốt, nào dè tui lại gặp thằng Lạc Lớn bạn tui một lần nữa, sở dĩ tui nói ( Nào dè) là tại tui tưởng nó đã về lại La Ngà, không ngờ nó còn nấn ná nhà của bác Tư Chuông ba của nó nơi xóm cũ, để rồi cuối tuần nó mới ra bến xe đò về lại trên đó.

  Tui tấp vô nhà nơi thằng Lạc Lớn đang ngồi nghe mấy bản nhạc Bolero thời xưa, giọng hát của ca Sỹ Duy Khánh đang cất lên trong bài Qua Cơn Mê nghe thiệt đã, vì âm giai của những bản nhạc điệu bolero nó ăn sâu vô tiềm thức của lứa tuổi đám tụi tui ngày xưa, có thể nói "Nó" cũng đã trở thành "Da thịt, máu huyết" trong mỗi con người tụi tui, nên khi nghe những bản nhạc này khiến  làm sống lại những kỷ niệm một thời đã qua.

 Thấy tui kéo cái ghế nhựa ngồi sề xuống kế bên nó, thằng Lạc nói:

 - Trời mưa bay lất phất mà mầy đi đâu vậy Phương, ngồi đi tao kêu thằng (Giựt) ( em của thằng Lạc) pha cho bình trà, tao mầy uống chơi.

  Bạn bè mấy chục măm, sống chung xóm , đi học chung, chơi chung từ nhỏ tới giờ, lâu lâu mới có dịp gặp nhau nên dễ gì tui bỏ qua, nghe nó nói pha bình trà tui đáp liền:

 - Vậy được đó, mưa lâm râm trời lành lạnh mà có bình trà nóng là ngon hết biết luôn, sao mầy nghĩ trúng ý tao quá vậy.

  Chưa để cho thằng Lạc kịp trả lời, tui "đế" thêm cho nó một câu:

 - Có trà nhưng có bánh kẹo gì nhâm nhi cho vui không Lạc.

 Nghe tui nói kiểu "Được Voi đòi Tiên", nó "Sực" lại tui liền:

 -Chèn ơi, thời buổi khó khăn mà có trà uống là ngon lắm rồi, vậy mà mầy còn đòi bánh kẹo nữa hả thằng quỷ, mấy thứ đó tao hông có, thôi mần bậy miếng (Mứt bí) đỡ đi Phương ơi!.

  Nghe nói nói có mứt bí tui lấy làm lạ, đâu phải Tết nhất gì mà nhà nó còn mứt bí, tui bèn hỏi:

 -Chèn ơi , mầy đừng có nói với tao là mứt bí còn lại hồi Tết tới giờ nghe Lạc.

 Nó trả lời không cần suy nghĩ:

 - Chớ còn gì nữa, mầy yên chí cứ ăn đi vì mứt này ở nhà tao tự "sên" lấy, không có trộn hóa chất của chợ Kim Biên vô đâu mà lo, tao để dành ăn uống trà quanh năm, mầy ăn thử miếng nha, "Tào tháo" không có rượt đâu mầy sợ.

 Nói xong thằng Lạc đứng lên bước vô nhà sau, khi nó trở lên tui thấy nó cầm trên tay cái keo đựng mứt bí.

 Nó chìa cái keo đã mở nắp, thằng Lạc mời Tui :

- Ăn đi Phương, ngon lắm đó, xong rồi hớp miếng trà nóng vô đã lắm nghe mậy.

 Tui vì nể bạn nên "Bấm bụng" cầm miếng mứt bí của "Hai mươi tám Tết" năm nay của nhà thằng lạc, đưa lên miệng cắn và nhai lấy có rồi nuốt trọng luôn, đúng như thằng Lạc nói ăn miếng mứt của nó làm thật thơm ngon không khác gì mới làm ra chứ không phải hàng "ế" từ hăm tám Tết.

 Sau vài ngụm trà thằng Lạc bắt đầu đưa tui quay về sống lại những năm tháng của thập niên sáu mươi...
                      ***
  Buổi trưa nọ khi tan trường, thằng Lạc đang cặp kè với tui trở về nhà, khi tới ngã ba chỗ có cái "Phông tên nước" hai đứa tấp vô đưa miệng vô cái vòi uống ừng ực, trời nắng chang chang được giải khát bởi dòng nước mát lạnh từ cái "Phông Tên nước" này, hai đứa tui vô cùng sảng khoái tinh thần, rồi bổng thằng Lạc nó hỏi tui:

 -Ê Phương , lâu quá mình không chọc ghẹo bà Năm ( Má của thằng Thành) , đâu hôm nay tao tính vầy nè mầy coi được (hông).

 Nó kê vô lổ tai tui nó bày mưu kế, nghe xong tui tưởng tượng ra cảnh bà Năm gặp phải cách phá phách của hai thằng quỷ nhỏ khiến tui cười khoái trá, nhưng phá bà Năm kiểu này thú thật cũng tội nghiệp cho bà, bỡi mắt bà đã mờ, đi đứng không còn nhanh nhẹn như xưa, trong lòng tui áy náy định nói với thằng Lạc đừng ghẹo bà nữa coi chừng mang tội với người già.

 Thằng Lạc nó đọc được ý nghĩ của tui, nó bèn trấn an:

 - Bà Năm má thằng Thành tụi mình thương bả không hết, cái này mình ghẹo bà Năm cho vui thôi Phương ơi, đâu có tổn hại gì cho bà Năm đâu mà sợ, cứ giỡn cho vui, bữa nào mình bù lại cho bà Năm với thằng Thành hai gói xôi bắp coi như chuộc lỗi. 

 Nghe nó nói cũng xuôi tai, tui gật đầu cái rụp, thế là ....

 Trưa đó cơm nước nghỉ ngơi và học hành xong, thằng Lạc lấp ló ngoài cửa, nó ra hiệu cho tui tới giờ hành động, tui theo nó qua tiệm tạp hóa của cô Ba Sao kế bên nhà để mua "Vật liệu" cho cuộc chơi phá phách bà Năm một bữa.

 Thấy hai ông "Thần nước mặn" bước vô tiệm, cô Ba hỏi liền:

-Hai đứa mua cái gì đây, nay có mấy xâu bánh Rế ngon lắm, cô Ba mới lên xóm "Công xi heo" trên chợ đem về nè, nó giòn rụm mà thơm ngon nữa nghe bây.

 Nghe cô Ba "Quảng cáo" món ngon khiến tui với thằng Lạc thèm chảy nước miếng, gia tài có năm cắc bạc, mua một số viên bi ( Ve chai) để phá bà Năm, giờ không lẽ mua hai xâu bánh Rế thì không đủ tiền mua mấy viên bi, sau một hồi suy tính, tui với thằng Lạc quyết định mua một xâu bánh Rế, còn lại nhiêu tiền mua đạn ve chai đem về.

 Bánh rế là loại bánh làm rất đơn giản, nhưng cái độ giòn , cái độ ngọt, cái béo béo của bột khiến con nít thời bấy giờ mê lắm, nhất là nó có màu đỏ tươi thật bắt mắt, làm bánh Rế hoàn toàn bằng tay, thợ ngắt cục bột nhỏ rồi xòe bàn tay rộng ra đè lên cục bột rồi lăn cho nó thành một cọng bằng đầu đũa, họ ngắt bột ra thành từng khúc dài chừng ba bốn phân, rồi cuốn tròn nối lại thành cái vòng tròn nhỏ, cứ vậy thả vô chão dầu đang sôi ùng ục, khi bánh chín nó tự nổi lên trên mặt chão dầu, họ lấy cái vợt có lổ nhỏ bằng đồng thau, được gắn trên cái cán gỗ dài để với bánh ra cho ráo dầu, khi bánh nguội thợ làm bánh lấy sợi "Dây lác" chẻ nhỏ phơi khô để xâu bánh lại, một xâu chừng hai mươi cái bánh, giá bán chừng một hai cắc bạc một xâu, mấy đứa con nít ngày xưa mua về chưa thèm ăn liền đâu nhất là mấy đứa con gái hay điệu đàng, lấy xâu bánh tròng vô cổ làm sợi dây chuyền đeo thật duyên dáng, lúc thèm thì kéo bánh lên nhai tiện lợi vô cùng, cũng vì vậy có đứa bị tía má đánh cho một trận tơi bời khói lửa, vì dầu mỡ trong bánh còn sót lại chảy dính đầy áo giặt rất cực.

 Cầm xâu bánh rế với bịch nylon đạn ve chai, (loại đạn này có ba cỡ, loại lớn, loại trung bình và loại nhỏ, trò chơi thằng Lạc bày đầu chỉ cần xài đạn loại trung bình là đủ) hai đứa tui đi lơn tơn tới nhà bà Năm để bắt đầu "Quậy".

 Nhà bà Năm nghèo lắm, đồ đạc trong nhà không có vật gì đáng giá mà phải sợ trộm đạo rình mò, vì vậy nhà bà không có cánh cửa để đóng mở như các căn nhà khác trong xóm, chú Ba Thợ Mộc một người hàng xóm tốt bụng định gắn cho bà một cánh cửa cũ của khách hàng thay ra, bà Năm một mực khước từ, bà nói với chú Ba:

 -Thôi dượng ơi! Nhà tui có cái giống gì quý giá đâu, ăn trộm nó vô cũng không có cái gì cho nó lấy đâu.

 Chú Ba thợ mộc ghẹo bà:

-Bà Năm nói sao chứ nhà bà không có cánh cửa, tụi ăn trộm nó vô rinh thằng Thành đi mất là mệt lắm nghe .

 Bà Năm nói:

- Chèn ơi, cái thằng Thành nó làm biếng như quỷ, nó ngủ nướng dữ lắm dượng Ba ơi, ăn trộm mà rinh nó tui còn cầu nữa.

 Nói xong câu đó bà Năm tủm tỉm cười, chú Ba thợ mộc và tui tui biết tỏng tòng tong, bà Năm thương thằng Thành dữ lắm, vì nó là con một của ông bà, khi ông Năm bỏ bà "Đi xa" thì Thành là cái "Phao" để bà dựa vô đó mà sống với phần đời còn lại của mình.

 Bước vô nhà bà Năm, hai đứa tui xuống sau bếp, nhìn xuống chân cái "Gạc măng gre" cũ mèm của bà, tui thấy cái chai dầu hôi bằng thủy tinh đang ở đó, đem chai dầu hôi lên nhà trên, tui thấy trong chai chỉ còn lại ít dầu vậy là trúng ý của thằng Lạc, đưa tay rút cái nút "Cạc bần" của chai dầu hôi ra, nó quơ cây đèn dầu "Huê kỳ" đang để trên bàn thờ ông Năm đem xuống đất, thằng Lạc kêu tui vịn cây đèn, nó tháo cái bóng và họng đèn ra, rồi trút hết dầu hôi trong bầu đèn vô chai dầu hôi, tiện tay nó bắt đầu thả mấy viên bi ve chai vô miệng chai dầu hôi, từng viên từng viên nó lọt thỏm và chìm xuống đáy chai dầu hôi, khi thả hết số viên bi vô chai thằng Lạc đậy nắp lại rồi đem chai dầu hôi về chỗ cũ, còn tui lắp cây đèn dầu và đem trả lại nơi nó tọa lạc lúc nãy, hành tung hai đứa thật êm ru đến nỗi chú Ba thợ mộc và thằng Mẫm bạn tui đang bào đang đục mấy cây gỗ mà chẳng hay biết điều gì.

Attachments area

 Tối đến bà Năm đi bán mới về, nhờ bóng đèn tròn cho ánh sáng vàng vọt của nhà chú Ba chiếu sang, bà Năm lò dò vô nhà tới bên cây đèn dầu để thắp lên, lúc này hai đứa tui đang rình phía trước, vì biết thế nào bà Năm cũng phải châm thêm dầu vô đèn, quả vậy khi thấy đèn cạn nhách không còn miếng dầu nào, bà Năm lại mò mẫm xuống bếp lấy chai dầu hôi lên, thấy bà Năm cằm chai dầu hôi trở lên phía nhà trên khiến tui muốn bật cười thành tiếng , nếu tui không tự bịt miệng mình lại thì sẽ tự tố cáo mình cho bà Năm biết thủ phạm nào đã thả mấy viên bi vô chai dầu hôi .

 Đem cái đèn và chai dầu hôi ra sân để ăn ké ánh sáng đèn bên nhà chú Ba chiếu sang, khi bà Năm chỏng cái chai dầu định châm vô đèn, bà chợt nghe âm thanh lách cách của các viên bi trong chai đụng nhau phát ra âm thanh này, mỗi lần muốn đỗ dầu vô thì các viên bi nó ùa tới miệng chai khiến bà Năm không dám châm dầu tiếp, bà sợ viên bi nó lọt vô bầu đèn nên bà dừng lại, vì vậy tòa cả buổi mà chỉ có ít dầu được chảy vô bầu đèn, tức mình bà Năm bắt đầu lên tiếng chửi:

- Mẹ tổ nó, cái quân nào phá dữ thần ôn vầy nè.

Chú Ba với thằng Mẫm ăn cơm phía sau nhà, khi nghe tiếng bà Năm la lớn, chú và Mẫm buông đũa chạy lẹ lên phía nhà trên rồi hỏi :

- Gì vậy bà  Năm, trộm vô ăn cắp vàng hả, thi nói rồi bà đưa tui giữ cho,  bà để lung tung tụi nó biết ráo rồi.

 Đang sùng trong bụng vụ chai dầu hôi, nghe chú Ba ghẹo bồi thêm nữa, bà Năm còn la dẫu lên nữa:

- Thôi dượng ba ơi, đừng ghẹo tui nữa, cái đám quỷ nào nó thả mấy viên đạn bắn Cu li vô chai dầu hôi , tui châm "quài" không được nè, tức mình gì đâu.

 Thằng Mẫm nó tới để phụ bà Năm châm dầu vô đèn, tưởng dễ ăn ai dè Mẫm nhà ta cũng gặp y kiểu như bà Năm gặp phải khi châm dầu, rồi nó buộc miệng nói:

- Bà Năm có nghi đứa nào phá không, tui là không có rồi đó, sáng giờ cưa cưa đục đục mệt ứ hơi, không tin hỏi anh Ba tui coi phải hông nè.

Bà Năm nói :

Không phải mầy thì cũng thằng Phương , thằng Lạc Lớn chứ ai trồng khoai đất này,

Rồi tự dưng chú Ba thấy hai thằng tui đang núp bên gốc cây Le kiu ma sau lưng nhà bà Bốn, chú kêu:

- Thôi hai ông nhỏ, vô đây xin lỗi bà Năm đi, vụ này mấy ông chứ ai, dặn rồi đừng ghẹo bà Năm nữa tội nghiệp.

Bà Năm thấy chú Ba nói vậy bà liền nói theo liền:

- Thôi dượng Ba ơi, xóm này có nhiêu đó hà, không mấy đứa tự làm thì có bữa dượng làm quân sư bày cho mấy đứa phá tụ chứ đâu.

 Chú Ba thợ mộc cười cầu tài rồi nói:

- Vụ này tui không ó nha bà Năm, mấy vụ khác thì ... Thì có chút đỉnh.
                      ***
 Lấy cái thau nhôm đỗ hết dầu hôi và mấy viên bi ra thau, thằng Lạc vớt hết bi ra ngoài rồi lấy cái quặn để châm dầu hôi vô đèn và vô chai trả lại cho bà Năm.

 Khi cây đèn dầu cháy sáng, bà Năm xuống bếp lục đục lo cơm nước để chút nữa chờ thằng Thành về ăn, lúc này hai đứa tui cảm thấy hối hận vô cùng, vì tưởng đâu giỡn chơi chút xíu chẵng hại gì, nhưng thực tế khiến nà Năm mất thì giờ quý báu để nghỉ ngơi khi xong một ngày kiếm sống ngoài đường.

 Đúng lời hứa, sáng hôm sau hai đứa tui hùn tiền lại mua hai gói xôi bắp của bà Tư bán xôi trong xóm, đem hai gói xôi để lên cái bàn thờ nơi thờ phượng ông Năm, tụi tui biết chắc rằng khi thức dậy trước khi rời khỏi nhà bà phải đốt nhang cho ông Năm, khi bà thấy hai gói xôi bắp này chắc bà cũng vui lòng, và bà đoán chắc rằng đây là quà tạ lỗi của hai thằng quỷ nhỏ chứ ai vô đây .
                        ***

 Nhắc lại chuyện này khi hai thằng tui đầu đã điểm sương, bà Năm đã đi thật xa, còn thằng Thành bạn tui giờ còn mất nơi nào chẳng ai biết được, thôi thì nhân câu chuyện hôm nay tui viết lên, nếu ai biết được Thành ở đâu thì nhắn nó quay về xóm cũ, nơi này những người bạn thân thương của ngày xưa vẫn còn đây và hy vọng có ngày "Trái đất tròn" tụi tui sẽ gặp lại nhau tại nơi này, nơi mà dĩ vãng vẫn còn nương náu trong mỗi con người của đám " Xây lố cố" ngày xưa.


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Aug/2021 lúc 8:32am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 30/Aug/2021 lúc 9:26am

CÂU CHUYỆN CÔ GÁI BÁN HOA      <<<<<


NGƯỜI%20ĂN%20XIN%20VÀ%20ĐÓA%20HOA%20HỒNG%20%281%20câu%20chuyện%20đáng%20để%20đọc%29


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 30/Aug/2021 lúc 9:58am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Sep/2021 lúc 9:18am

Bà Năm


Nhạc%20Dân%20Ca:%20Bà%20Năm%20-%20Cẩm%20Ly

 Ngày xưa, trong xóm tui không có gia đình nào nghèo như nhà Bà Năm, Hai ông bà tuổi khá cao, ông Năm thì mang trong người căn bệnh Lao phổi nên ho hen tối ngày, bà Năm có hơi khỏe hơn một chút, nên hàng ngày bà mang cái rổ tre ra chợ Gò Vấp, bà mua ít rau cải hoặc trái cây gì đó ở chợ đầu dưới, rồi bà lên chợ đầu trên chỗ gần Bưu điện hồi xưa để ngồi bán lại, tuy không có " lời lãi " bao nhiêu, nhưng cũng tạm đủ cho gia đình bà sống đắp đổi qua ngày, còn thằng Thành con bà nó tuy còn nhỏ tuổi nhưng, sức vóc cao ráo nên nó chạy xe ba gác đạp để kiếm tiền phụ giúp thêm cho gia đình.
                         ***
  Nói theo thuyết của nhà Phật, không biết bà Năm có "Nợ nần tiền kiếp" gì  với cái đám "xây lố cố" tụi tui hay không, mà tại sao trong xóm thiếu gì nhà tụi tui không chọc phá, mà chỉ quanh đi quẩn lại phá bà Năm tối ngày, tui nghĩ lại chắc cũng một phần bà Năm hay nói nhiều, phần nữa mỗi khi bà la rầy thằng Thành việc gì đó, tụi tui xúm lại xem rồi "Chế thêm dầu vào lửa" cho bà chửi tiếp, khiến cả đám khoái chí cười vui thích thú, cũng chưa chịu dừng lại chỗ đó, đôi lúc tụi tui phá bà những chuyện lặt vặt khác nữa, một vài lần đầu bà không để ý, nhưng sự việc cứ lập đi lập lại hoài khiến bà nghi ngờ, bà nghiệm đi nghiệm lại cuối cùng bà cũng biết đám "Quỷ nhỏ" phá làng phá xóm chứ còn "Ai trồng khoai đất này".
                          ***
 Bữa nọ khi bán xong rổ hàng hóa, bà Năm mua đem về một ít thức ăn, để lo cho thằng Thành buổi cơm trưa, vừa bước chân vô nhà bà nhìn lên bàn thờ ông Năm (Ông mất được vài tháng), bà thấy cây đèn dầu Hoa kỳ ai đốt lên và vặn tim đèn cháy cao nghiệu, khói đen từ ngọn lửa của tim đèn bay lên giống như : "Ống khói tàu" khiến bà phát hoảng la lên:

 - Chèn ơi, ai đốt đèn kiểu này cháy nhà có ngày chứ chẳng chơi đâu nha, phá gì phá dữ thần vậy.

 Nghe tiếng bà Năm la, cô Sáu Láng mở cánh cửa sổ phía lưng nhà của cô, nó đối diện với trước nhà bà Năm, cô Sáu hỏi:

 -Vụ gì đó chị Năm, nghe bà la tui hết hồn hết vía hà.

Bà Năm chỉ tay về hướng cây đèn dầu đang cháy cho cô Sáu thấy:

- Đó cô Sáu coi đi, hồi sớm khi ra khỏi nhà tui tắt hết đèn đuốc, vậy mà giờ tự nhiên đèn cháy dữ dội luôn.

Biết bà Năm cũng hay nhớ trước quên sau, cô Sáu nói:

-Chị Năm nhớ kỹ đi, coi chừng chị quên tắt đó chứ ai mà phá kỳ cục như vậy .

Bà Năm quả quyết:

- Tui chờ thằng Thành đi khỏi nhà rồi tui mới đi bán, tui nhớ tắt đèn hết ráo mà, kể cả cây đèn dầu "Hột vịt" thờ ổng tui cũng thổi tắt luôn, tui sợ ba con mèo, con chuột nó leo lên làm đỗ đèn thì cháy nhà như không hà.

Cô Sáu nghe vậy, bèn nêu thắc mắc :

- Vậy ai làm ta?

Bà Năm nói không cần suy nghĩ:

- Đám quỷ nhỏ xóm mình đó, chứ ai vô đây cô Sáu.

 Đang núp trong cái đường chẹt bên hông nhà bà Năm, khi nghe bà nghi ngờ như vậy, đám tụi tui ló đầu ra rồi làm bộ "Ngây thơ cụ", tui lên tiếng hỏi:

- Có chuyện gì vậy bà Năm.

Không nói không rằng, bà cầm chiếc guốc vong chọi về phía tụi tui, rồi bà nói:

- Mấy thằng bây phá chứ ai, bày đặt hỏi nữa hả, chơi gì chứ chơi vầy là nguy hiểm lắm đó, lỡ cháy nhà có phải khổ cả xóm không.

Nghe bà Năm rủa dữ quá, nhưng muốn cho bà hạ hỏa, tui làm bộ lái câu chuyện sang hướng khác, tui nói:

-Chèn ơi! Có khi nào bà mần cái gì đó khiến ông Năm giận hông , tui nghe nói người chết họ cũng linh thiêng lắm đó bà Năm, họ không vừa lòng chuyện gì họ hay làm những hiện tượng lạ, nhằm cho người nhà biết thái độ không vừa lòng đó .

Bà Năm đang chú ý thằng Cảnh, nhưng nghe tui "Đế" vô chuyện huyền bí này, bà xoay qua nói:

- Ý thằng Phương bây nói, vụ cây đèn hôm nay là do ông Năm tự làm cháy hả, thôi đừng bá láp nữa bây ơi, tao không tin ba cái chuyện đó đâu.

Như cố "Thanh minh" sự trong sạch vô can của đám mình, thằng Cảnh cháu cậu Tư tắc xi lên tiếng :

 - Bà Năm nghi oan cho tụi con quá, nãy giờ tụi con chơi đánh đáo phía sân nhà cô Ba Sao chứ có vô đây đâu, bà Năm hổng tin tụi con thề cho bà Năm coi.

 Để chắc ăn, thằng Cảnh thề cho bà Tin, Cảnh nhà ta nhanh chóng giơ tay lên khỏi đầu rồi thề:

-Tụi con có làm vậy cho Chó cắn đi, rồi đó bà Năm tin chưa?

Tuy đang bực bội, bà Năm cũng bật lên tiếng cười:

- Thôi tao sợ tụi bây quá rồi, lần nào cũng thề kiểu này hết trơn á, có ngày đó nha mấy đứa, tao thấy con "Bẹc grê"nhà cô Năm má con Phương kế bên kìa, nó biết bây thề cũng có ngày nó táp sứt (dái) hết, lúc đó đừng kêu trời nghe chưa.

 Chú Ba Thợ mộc, người hàng xóm kế bên nhà bà Năm đang cưa rọc mấy cây gỗ Dầu để làm đố cửa, nghe bà Năm rủa xả mấy đứa nhỏ như vậy, chú Ba nỗi máu tiếu lâm chú bèn ngưng tay rồi lên tiếng:

 - Chèn ơi, bà Năm nói vậy tụi nghiệp mấy đứa, chó nhà con Phương mà cắn như bà nói thì tụi nhỏ bị mất giống hết sao.

Bà Năm chưa hết giận, nghe chú Ba thợ mộc bênh vực tụi tui bà tức khí nói lớn:

-Cũng Dượng Ba nữa, dượng cứ bênh tụi nó hoài, nó phá riết sao tui chịu được.

 Thím Ba nghe bà Năm nói vậy, thím lấy tay vỗ nhẹ vô vai chú Ba rồi thím nói:

- Cái ông này, đừng có cà rỡn nữa, không khéo bà Năm nói ông "Bắt cầu" cho mấy đứa quậy bả cho coi.

Chú Ba làm bộ sửa sai, chú Ba nói :

- Tui biết rồi mình ơi, nói giỡn cho vui đó mà, thôi mấy đứa xin lỗi bà Năm đi.

 Nói xong chú nháy con mắt lia lịa, ngầm ra hiệu cho đám tụi tui tìm cách hạ hỏa bà Năm cho yên chuyện.

Thằng Lạc Lớn nhanh miệng, nó vội tới trước mặt bà Năm lễ phép khoanh tay và cúi đầu để xin lỗi:

- Dạ con xin đại diện mấy đứa tụi nó, xin lỗi bà Năm, từ rày trở đi tụi con  không dám phá phách bà Năm nữa.

 Công nhận  lời xin lỗi của thằng Lạc linh nghiệm vô cùng, bà Năm đang ở trạng thái giận dữ, khi thằng Lạc dứt lời, bà Năm cười tươi rói, bà vỗ vai thằng Lạc, bà nói:

- Cha chả , mấy đứa xin lỗi tao  lần thứ mấy rồi nhớ không?

Tui xía cái miệng vô :

- Thì áng chừng năm sáu lần gì đó bà Năm ơi!.

Bà Năm cười gằn giọng:

- Hổng dám năm sáu lần đâu, tụi bây quậy tao cũng chục lần rồi đó, gần đây nhứt là lấy quần áo của thằng Thành độn mền vô rồi thả trên giường, tao tưởng nó còn ngủ nướng quất cho mấy roi, dè đâu "Hình nhân thế mạng" , mấy bây phá phách " Trời gần đất lỡ " chứ chẳng chơi à nghe.

 Thằng Cảnh bước tới bên thờ ông Năm, nó  thò tay tắt cây đèn dầu rồi nói:

 Thôi tụi mình dìa đi, để bà Năm còn lo cơm nước cho thằng Thành nữa.
                        ***
 Chiều nọ khi cơm nước xong, cả đám tụi tui tụ tập trước hàng ba nhà chú Ba thợ mộc để tán dóc, sau một ngày làm việc vất vả chú ba ngồi lai rai xị rượu với dượng Sáu và chú Năm Hải trong xóm, còn mấy nhóc tỳ tụi tui thì ngồi coi thằng Mẫm và thằng Thành đấu cờ tướng, cờ thằng Mẫm mới dòm vô thấy đang thắng thế, nó đang "gáy" rân với thằng Thành, bổng thằng Cảnh xía vô chỉ nước đi cho thằng Thành, chỉ vài nước đi tiếp theo thì Mẫm bị Thành chiếu bí, tức tối vì bị thằng Cảnh phá đám, người ta hay nói câu "Bên ngoài thì sáng, bên trong thì quáng" ,vì đánh cờ Tướng thường thì kẻ ngồi bên ngoài lúc nào cũng nhìn bao quát hơn người đang chơi, nên họ giao kèo với nhau, cấm không cho người bên ngoài chỉ chỏ,  nên thằng Mẫm trả thù liền, nó đứng dậy rồi đến trước cửa nhà bà Năm nó réo lên:

- Bà Năm ơi, ra đây con nói bà nghe vụ này hay lắm nè.

Đang luu cui dọn dẹp dưới nhà, bà Năm đi lên nhà trên, rồi bà hỏi thằng Mẫm:

 -Vụ gì nữa đây ông con, mấy ông tính phá gì nữa đây.

Mẫn nhanh chóng nói:

-  Hổm rày bà khui lon hộp "Cốc tai" chưa.

 Nghe Mẫm nói vậy, bà Năm nói:

-Phải cái lon trái cây thập cẩm thím Ba cho tao hôm trước phải không? Chưa khui đâu, mà có gì hông sao tự nhiên hôm nay lại hỏi nó vậy.

- Bà Năm cứ đem ra khui liền đi, sẳn có mấy thằng nó ở đây nè. Bà mần liền đi bà Năm.

 Nể lời Mẫm vì chính tay nó cầm hộp "Cốc tai" này trao cho bà Năm cách đây mấy hôm, do thím Ba chị của Mẫm tặng cho bà Năm ăn lấy thảo, bà liền đi vô mang ra khui liền theo yêu cầu của thằng Mẫm.

 Khi khui cái lon đồ hộp này, nó cứ bị trật vuột hoài không trơn tru như những lần bà khui các lon đồ hộp khác, bà mắng vốn với thằng Mẫm:

Chèn đéc ơi, sao cái lon này khui khó thấy tía luôn, đâu bây khui giùm tao cái coi.

 Mẫm đón lấy cái lon đồ hộp và cái đồ khui, thay vì nó khui giùm cho bà Năm, đàng này nó đưa cho Thành con bà khui giúp,.

 Thằng Thành ngắm nghía lon đồ hộp , bổng gương mặt nó châu lại, rồi nó nói:

- Nghi cái lon này giả mạo quá, sao cái nắp trong kẹt nó cộm cộm không như mấy lon đồ hộp bình thường.

Nó lật cái đít hộp lên so sánh với cái nắp phía trên, rồi nó quyết định khui dưới đáy cái hộp Cốc tai kia, chừng cái nắp được mở bung ra, thay vì có nước đường và các loại trái cây thập cẩm bên trong, đàng này nó thấy mấy đồng bạc chì nằm dưới đáy lon chìm trong nước lả.

Thằng Thành la lên:

-Ủa sao vầy nè, chỉ có tiền mà không có Cốc tai.

Bà Năm biết ngay nguyên nhân như thằng Thành mới la lên, bà nói:

-Rồi à. Quỷ sứ nó phá nữa rồi chứ ai.

Bà Năm chụp vai áo thằng Mẫm liền một khi, rồi bà truy vấn nó:

-Thằng Mẫm chắc chắn biết vụ này, ai làm nói mau.

Thằng Mẫm khai liền:

-Bà Năm hỏi thằng Cảnh, Thằng Lạc, thằng Phương kìa.

Nghe Mẫm bung cái bí mật ra, tụi tui đành khai thật...

 Số là bữa nọ trưa Hè buồn quá, khi qua nhà bà Năm chơi với thằng Thành, tui với Thằng Lạc tình cờ thấy hộp Cốc tai sơn màu nhà binh bỏ trong tủ kiếng, tui khều thằng Lạc ra ngoài bàn tính với nó để "Chôm" cái lon đồ hộp kia ăn chơi.

 Khi Thành đi công chuyện khỏi nhà, hai thằng tui rủ thêm thằng Cảnh quơ liền lon đồ hộp này khui ra thưởng thức liền, sau khi ăn xong, "Lòng chợt từ bi bất ngờ" .Thằng Lạc nó kéo tui lại bàn tính để tìm cách đền bồi lại lon đồ hộp cho bà Năm, vốn là người giỏi giang, thằng Lạc biết sử dụng mỏ hàn điện, nó lấy giấy nhám chà sạch nắp lon và cái thành miệng lon đồ hộp , sau đó đỗ nước lạnh và thả tiền cắc vô coi như mua và trả tiền cho bà Năm.

 Thằng Lạc hàn khéo léo vô cùng , khi nắp lon kín lại nó dùng giấy nhám vuốt lại mối hàn cho đẹp, còn tui thì về nhà lấy miếng sơn màu nhà binh để sơn lại cái nắp hộp rồi trả về cho khổ chủ coi như không có chuyện gì xảy ra. 

Sở dĩ thằng Mẫm méc bà Năm vì nó ức chuyện thằng Cảnh chỉ nước cờ chiếu bí nói trên. Khi nghe xong câu chuyện này bà Năm chẳng những không giận mà bà còn vui nữa là đàng khác , vì đám quỷ này phá phách dữ tợn, nhưng cũng đền bù thỏa đáng thì bà Năm đổi giận làm vui là chuyện bình thường .
                     ***
 Rồi cũng một sáng nọ, bà vừa lôi ổ bánh mỳ và miếng chả lụa nhỏ trong "Gạc măng rê" ra, bà dự định làm một ổ bánh mỳ nhét chả lụa cho Thành ăn để có sức đạp xe.

 Khi đem bánh mỳ ra cái dĩa bàn, bà Năm mới phát hiện ra đám kiến bu đầy, bà chợt ngó bốn cái "Chén" kê chân gạc măng rê đã khô rang, bà nói :

- Sao kỳ cục vậy cà , sáng qua tui châm đầy nước hết mà mới có một bữa sao cạn sệt hết vậy cà.

 Cũng không thắc mắc gì, bà bỏ ổ bánh mỳ nọ rồi bà lội bộ xuống xóm dưới, nơi gần hảng ép dầu Đại nam (một phân xưởng ép dầu hột cao su để làm ra xà bông cục cu hảng Trương văn Bền ngày xưa )để mua ổ bánh mỳ khác.

 Sáng hôm sau bà lại lôi trong Gạc măng rê cái nồi cơm nguội đjnh hâm lại cho Thành ăn với cá lóc kho, khi nhìn nồi cơm nguội bà lại thấy kiến bu đầy,  cũng đưa mắt  dòm lại bốn cái chén kê Gạc Măng Rê cũng "Cạn nhách" bà không nói không rằng qua nhà thím Ba xin tạm tô cơm nguội cho thằng Thành.

 Các bạn biết sao không, phá riết không còn cái gì ghẹo bà Năm nữa, thằng Lạc nói mình rút hết nước mấy cái chén kê "Gạc măng rê" đi,  cho bà kiến nó vô ăn đồ ăn của bà Năm vậy cũng vui. 

Nghĩ và làm ngay, hai ngày liên tiếp thấy kiến cứ vô và chén nước kê chân thì cứ cạn, người ta nói "Ăn quen chồn đèn mắc bẫy",khi phá ngày thứ hai khiến bốn cái chén kê chân Gạc măng rê không còn chút nước, thấy bà Năm im re không có la lối như mọi lần, tụi tui nghĩ chắc bà chưa nghĩ đến đám quỷ nhỏ tụi tui phá phách.

 Hôm sau bà Năm không ra chợ bán nữa, bà xin thím Ba thợ mộc cho phép ra sau bếp nhà thím Ba để rình nhằm bắt tại trận thủ phạm quậy phá hai hôm trước, cứ tưởng bà Năm đi vắng như mọi lần, tụi tui lẻn vô nhà bà rồi bổn cũ soạn lại, thằng Lạc lấy cái ống chích bằng thủy tinh cũ cũ bác Tư ba nó bỏ ra, đem qua nhà bà Năm rút cạn sạch mấy chén nước kê chân Gạc Măng rê, công việc sắp hoàn thành, bổng từ đâu hai cái nắp nồi gang bay vèo vô trúng ngay tủ chén kêu rầm rầm, thời may không đứa nào bị trúng "Chưởng" , bằng không cũng thương tích trầm trọng chứ chẳng phải chuyện chơi, tui với thằng Lạc vừa dọt chạy ra cửa trước thoát thân, bà Năm xuất hiện cản đường cùng  cây đòn gánh trên tay và gương mặt hầm hầm thấy phát ớn.

 - Bắt tại trận rồi nha, hèn chi mấy ngày nay kiến bò vô riết, bây phá quá tao chịu hết nổi rồi, hôm nay phải khệnh cho mỗi đứa một cây đòn gánh mới được.

 Năn nỉ bà Năm thiếu điều muốn thụt lưỡi, bà mới chấp nhận không qua nhà méc với ba má tụi tui, nhưng phải bồi thường cho bà ổ bánh mỳ và nồi cơm nguội, chưa hết phải thêm tiền lời buổi chợ do bà mất sở hụi để rình rập bắt quả tang.

 Hai đứa tui về đập con heo đất gom tiền qua gửi lại cho bà Năm, nhưng điều bất ngờ khiến tui với thằng Lạc ngỡ ngàng vô cùng, bà Năm không nhận tiền đền bồi, bà khuyên :

- Nói vậy thôi tao không có lấy tiền mấy bây đâu, từ giờ trở đi quậy phá gì cũng nên nghĩ đến hậu quả,,bây thì vui rồi còn bà Năm không vui khi bị đám kiến bò vô đồ ăn.

 Nghe bà Năm nói vậy, hai đứa tui hổ thẹn lắm, tự hứa với lòng không phá phách nữa để bà Năm toàn tâm toàn ý kiếm tiền sinh sống.

  Mấy mươi năm qua rồi, Bà Năm thành người Thiên cổ nơi miên viễn, còn đám bạn ngày xưa cùng phá phách với tui giờ tứ tán, lâu lâu tui còn gặp lại thằng Mẫm, thằng Lạc Lớn, còn mấy đứa bạn khác thì bặc tin từ đó đến giờ ....Buồn ơi là buồn .


HAI HÙNG SG
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Sep/2021 lúc 3:10am

Phi Công & Máy Bay Bà Già


Lần đầu gặp mặt, Hân ngỡ ngàng khi “đối tượng” là một thanh niên mặt búng ra sữa. Thế nhưng, hắn luôn mồm xưng anh và gọi cô là em.

Hân quen Khương trên một trang web hò hẹn online. Tất cả khởi đầu từ một đoạn giới thiệu mang đầy tính khiêu khích: “Trần Lê Ngọc Hân, viết lách tự do, sinh năm 1974, tuổi Dần. Ai không sợ bị thịt thì cứ nhào vô”.

Ba ngày sau khi đăng hai câu giới thiệu ấy. Hân nhận được rất nhiều thư nhưng cô khá ấn tượng trước một lá thư khiêu khích không kém trong hộp mail: “Nguyễn Đăng Khương, thiết kế nội thất, tuổi Mèo. Mèo là chú của cọp nên không sợ bị thịt, sẵn sàng nhào vô”. Đọc e-mail, Hân khinh khỉnh: “Nhỏ hơn một tuổi à? Cũng không đến nỗi”. Thế nhưng, Khương chỉ mới 20 xuân xanh, thua Hân 13 tuổi, vẫn đang học đại học. Cũng là Mèo nhưng đi sau Hân hơn một con giáp. 

Buổi hẹn hò offline đầu tiên ở Hands, quán cà phê yêu thích của Hân nhìn khuôn mặt búng ra sữa của Khương, Hân suýt té ghế. “Em trêu tôi đấy à?”, Hân gằn giọng. Khương tỉnh queo: “Ban đầu định là vậy nhưng bây giờ thì không. Chị đẹp hơn em nghĩ”, Hân xô ghế đứng dậy, quay đi không thèm ngó lại.


Thế nhưng Khương không dễ bảo như Hân nghĩ. Một tháng sau buổi hẹn hò thất bại ấy, Khương xuất hiện trước mặt Hân, cũng tại Hands, với dáng vẻ hoàn toàn khác. Tóc húi cua, hàm râu quai nón gọn gàng, vóc dáng cao ráo, săn chắc nổi bật trong chiếc áo pull màu đỏ vang và quần bò bạc thếch. Trước ánh mắt sững sờ của Hân, Hương nhe răng: “Sao? Bây giờ tôi xưng anh với Hân được chưa?”.

Hân tự rủa sả mình sao lại tiết lộ quán cà phê Hands và cả thói quen ngồi đồng ở đây để Khương biết đường mò đến. Cô đốp chát ngay: “Trừ khi em tẩy được cả giấy khai sinh”. 

“Giấy tờ không quan trọng, một người làm việc tự do, chẳng bao giờ ký hợp đồng như em hẳn phải hiểu điều đấy chứ”, Khương đốp chát lại.

“Nhưng như vậy không có nghĩa em có thể lớn lên bằng tôi”, Hân phản bác.

Khương gân cổ cãi: “Cũng không có nghĩa là anh nhỏ hơn em, phải không? Thôi thì em cứ xem anh như là một con mèo, còn em là một con cọp, bỏ qua chuyện tuổi tác, được không?”. “Chị không rảnh để chơi với em, nhóc à!”. “Vậy có rảnh để yêu không?”. “Không, chỉ rảnh để cưới thôi”. 

Khương im lặng. Hân vẫn giữ gương mặt điềm tĩnh nhưng trong bụng hò reo chiến thắng . Đàn ông nào cũng vậy, nghe đám cưới là rụt vòi, huống chi Khương chỉ mới 20 tuổi, còn thích bay nhảy. Thật tình, Hân cũng thấy tiếc cậu, chàng đẹp trai này nhưng giá 20 nhân thêm cho hai thì còn có cơ may…

Đột ngột, Khương lên tiếng: “Em hứa đấy nhé, rảnh để cưới, ghi cho anh địa chỉ nhà em, mai anh sang nhà hỏi cưới”.

Hân sa sầm nét mặt: “Đùa đủ rồi đấy, cậu làm tôi bực rồi đấy!”.

Khương vẫn kiên nhẫn: “Người ta bảo con gái tuổi Dần thường muộn chồng. Nếu lấy chồng sớm thế nào cũng goá bụa. Em bây giờ lấy chồng được rồi, anh cũng không sợ bị em khắc chết”.

Hân bật cười, không thể nghĩ ra thêm lý do để xua đuổi con mèo si tình từ trên trời rơi xuống này. Vậy là yêu nhau!


Một ngày mưa, Hân nằm cuộn tròn tấm chăn mỏng, gối đầu lên ngực Khương, thì thầm: “Em muốn sinh con”, Khương ngái ngủ: “Bao giờ?”. Ngay bây giờ, em muốn làm tình không dùng bao cao su”. Khương giật mình, tỉnh cả ngủ, mắt mở to: “Em đùa à?”.

“Không, em nói thật. Em đã hơn 30 tuổi rồi, cũng đã đến lúc sinh con”. Khương im lặng. Hân lại tiếp: “Anh không cần lo. Em tôn thờ chủ nghĩa độc thân nên chỉ muốn sinh con chứ chẳng ràng buộc trách nhiệm gì ở anh cả. Nếu thích, anh có thể đến thăm con, không thì thôi, em chẳng mang con đến mè nheo hay làm phiền anh đâu”. 

Khương vẫn im lặng.

“Chắc lại sắp vùng ra khỏi chăn và bỏ chạy. Rồng hay mèo hay ngựa thì cũng nhát như nhau cả, ôi đàn ông”. Hân nghĩ một cách ca thán. Trải qua vài ba mối tình, Hân không còn ngạc nhiên hay đau lòng trước phản ứng hiện giờ của Khương. Những người tình trước của cô có say đắm đến mấy cũng bỏ chạy khi nghe đến chuyện sinh con. 

Khương bước ra khỏi chăn thật nhưng không khoác áo và rời khỏi phòng như những anh chàng khác.

Anh lặng lẽ rít thuốc hồi lâu rồi bảo: “Mình cưới nhé!”. Hân tưởng mình nghe lầm: “Sao?”. Khương quay lại nhìn cô, cười dịu dàng: “Đám cưới, anh nói là mình làm đám cưới”. Đến lượt Hân im lặng, cô chưa lường trước tình huống này.  

Nhìn vẻ mặt của Khương, Hân biết anh không đùa. Hân khinh khỉnh: “Anh không cần vì đứa con mà cưới cả con vợ già đâu. Em nói rồi, em tôn thờ chủ nghĩa độc thân”.

Khương bật cười, dụi đầu vào ngực Hân: “Anh không vì đứa con mà cưới em. Anh muốn dùng đám cưới để hợp thức hoá mong ước sinh con của em, không được sao? Bỏ quách cái chủ nghĩa độc thân của em đi, cũng đã đến lúc em cần một gia đình đúng nghĩa rồi đấy cưng” và anh hôn cô thật nồng nàn. 


Khương nói là làm nên ngay tuần sau, anh đưa cô về ra mắt mẹ và xin cưới. Bố Khương mất từ khi anh còn nhỏ, nhà chỉ có hai mẹ con. Mẹ Khương đón Hân bằng ánh mắt sắc sảo pha chút lạnh lùng. 

Khương chỉ mới hơn 21 tuổi, chưa đến lúc lập gia đình, bà tự hỏi ở cô gái này có điều gì khiến con trai mình say mê đến vậy. Hân rợn người khi mẹ Khương đưa mắt “chiếu tướng” cô từ đầu đến chân mình. Cô chưa từng biết sợ ai hay điều gì nhưng giờ đây, tim cô đang đập mạnh. Rõ ràng, mẹ Khương không như những trở ngại mà Hân từng đối đầu.

Sau mấy phút căng thẳng, bà tằng hắng hỏi: “Cháu là người ở đâu?”. “Dạ, cháu sinh ra ở Sài Gòn nhưng cả nhà cháu đã qua Mỹ định cư, chỉ còn mình cháu ở đây thôi ạ”.

“Sao cháu không đi theo họ?”.

“Dạ, tại vì cháu thích ở Việt Nam”, Hân đáp hơi khiên cưỡng, không lý nào lại nói với mẹ chồng tương lai rằng mình ở lại Việt Nam lúc ấy chẳng qua vì mối tình đầu với một anh chàng kiến trúc sư.

“Cháu bao tuổi rồi?”.

Hân lúng túng. Yêu Khương đã hơn năm nhưng cô vẫn ngại khi thú nhận với ai đó cô hơn anh 13 tuổi, dù sau khi Khương nỗ lực thay đổi ngoại hình, trông cô chẳng đến nỗi già hơn anh. 

Ngay lập tức, Khương đỡ lời cho người yêu: “Dạ, cô ấy tuổi Dần ạ”.

Gương mặt mẹ Khương bỗng biến sắc, bà gằn giọng: “Tuổi Dần thì không được, không cưới xin gì cả”. Khương thảng thốt: “Sao vậy mẹ?”.

Sao trăng gì? Con gái tuổi Dần lấy chồng sớm có số sát phu, con thừa biết mà”.

Trời ơi, đó chỉ là chuyện vớ vẩn. Sao mẹ tin được”.

“Không vớ vẩn, nếu muốn, hai đứa chờ mười năm sau, bước qua tuổi 30 rồi cưới”. Mẹ Khương nói với giọng đắc thắng, bà thừa biết chẳng đứa con gái nào chịu điều kiện vô lý này. 

Khương cũng đắc thắng đáp ngay mà quên mất điều mình đang cố giấu: “Cô ấy đã qua ba mươi rồi mẹ ơi”. Nhìn đôi mắt mở to của mẹ Khương lúc ấy, Hân rên thầm trong bụng: “Thôi rồi”.

Sau ngày hôm ấy, sóng gió phủ chụp lên mối tình của họ. Mẹ Khương kiên quyết phản đối, thậm chí lấy cái chết để doạ con. Khương cố gắng thuyết phục mẹ nhưng vô ích. Sợ Hân buồn, anh khuyên cô kiên nhẫn cho anh thêm thời gian.

Trước mặt Khương, Hân luôn tỏ ra điềm tĩnh nhưng đêm về, cô ôm gối khóc. Đã lâu lắm rồi từ sau mối tình đầu tan vỡ cũng bởi định kiến tuổi Dần, Hân mới khóc vì một người đàn ông.

 

Nửa năm sau, mẹ Khương tìm gặp Hân. Cô hẹn bà ở Hands vào ngày 28 Tết, ngày làm việc cuối cùng trước Tết Nguyên Đán của Hands. Năm nào cũng vậy, Hands luôn đóng cửa vào 28 Tết và khai trương lại vào mùng Bốn. Hân vẫn còn nhớ ngày đầu tiên mình lồng tay vào tay Khương cũng là 28 Tết.

Hands nằm cuối một con hẻm nhỏ yên tĩnh giữa trung tâm thành phố sầm uất. Người không biết khó có thể tìm ra Hands giữa những con đường ngoằn ngoèo và chi chít như bàn cờ. Hands nhỏ, có chưa đến năm cái bàn nhưng nhờ vậy mà tuyệt đối yên tĩnh. Hân vẫn thường một mình đến Hands với chiếc laptop, ngồi vào chiếc bàn kê sát ô cửa sổ trắng và gõ lóc cóc viết bài. Và giờ đây, cô cũng đang ngồi ở chiếc bàn ấy, đối diện với mẹ Khương.

Mẹ Khương mở đầu chuyện một cách nhẹ nhàng: “Cháu có thật sự muốn làm con dâu của bác không?”.

Hân im lặng, cân nhắc hồi lâu và khẽ đáp: “Cháu thật sự muốn làm vợ Khương và cháu mong bác đồng ý”.

Vẫn giữ vẻ tự nhiên, bà hỏi: “Cháu nghĩ Khương muốn cưới cháu vì điều gì?”. Hân im lặng, cô muốn trả lời vì tình yêu nhưng không hiểu sao không thể thốt nên lời. Mẹ Khương mỉm cười ý nhị: “Cháu không đủ can đảm để trả lời vì tình yêu, đúng không?”. Hân mím chặt môi: “Bác muốn nói gì?”.

Mẹ Khương vẫn điềm tĩnh: “Bác muốn cháu chủ động rời xa Khương trong một năm, không liên lạc và không giải thích bất kỳ điều gì cả. Nếu nó thật sự yêu cháu, nó sẽ vượt qua khoảng thời gian ấy và sẵn lòng chờ cháu quay về. Khi ấy, bác sẽ không phản đối chuyện đám cưới nữa. còn ngược lại, tình cảm hiện giờ nó dành cho cháu chỉ là đam mê nhất thời và hai đứa nên kết thúc. Bác cũng đang thắc mắc liệu cháu có thật sự tin là Khương yêu mình không hay chỉ đang say mê một phụ nữ từng trải và có chút nhan sắc. Sao? Cháu có tự tin để thử không?”. 

Bằng những nhận xét tinh tế của mình, bà thừa hiểu Hân là cô gái ngang tàng và có lòng tự tôn rất cao. Bà biết mình đã đánh trúng đòn và chắc chắn Hân sẽ đồng ý. Một cách chậm chạp, Hân khẳng định lại điều bà đang nghĩ: “Quyết định như vậy, bác nhé!”.

 

Một năm trôi qua, Hân đang ngồi trên taxi đến Hands. Cây kim giờ trên tay của cô đang nhích dần đến số 11. Đêm đã khuya nhưng Sài Gòn vẫn chưa muốn ngủ. Hôm nay là 28 Tết. “Lại là ngày 28, không biết nên yêu thương hay nguyền rủa nó đây?”, Hân vừa nghĩ vừa nhìn mông lung.

Không khí hội hè phủ khắp nơi nhưng lòng Hân trống rỗng. Cô vừa mong gặp lại Khương vừa sợ mình sẽ thất vọng. 

Một năm qua, giữ đúng lời hứa vời mẹ Khương, Hân bẻ sim điện thoại, thay đổi chỗ ở, đóng cửa Facebook, không đến Hands và bất cứ nơi nào khác mà Khương có thể tìm đến. Cô vác ba lô đi khắp nơi, từ Đà Lạt, Nha Trang đến Hà Nội, Sa Pa… Cô đi vừa để viết bài vừa để quên đi nỗi cô đơn đang giày vò mình.

 

Hân biết ở Sài Gòn, Khương đang điên cuồng tìm cô. Hân đau lòng khi nghĩ đến gương mặt hốc hác và đôi mắt trũng sâu của anh. Ngày nào, Khương cũng gửi e-mail cho Hân và giăng trên Facebook lời van xin tha thiết: “Hân, em đang ở đâu? Đừng tránh mặt anh nữa!”. Hân đọc hết, biết hết nhưng im lặng. Cô chỉ biết động viên chính mình và đánh dấu chéo vào quyển lịch cầm tay khi mỗi ngày trôi qua. 

Đã có lúc Hân tưởng mình bỏ cuộc khi những lá e-mail của Khương thưa dần rồi mất hẳn. Dòng chữ tha thiết trên Facebook đã được thay bằng những câu cập nhật cuộc sống thường ngày của anh.

Thỉnh thoảng, Khương lại khoe những tấm ảnh anh chụp khi đi du lịch đâu đó, vây quanh anh luôn có những cô gái xinh đẹp và trẻ trung. Hình ảnh đó làm Hân vừa ghen vừa có cảm tưởng mình như bị xóa sổ khỏi cuộc đời của Khương. 

Những lúc ấy, Hân ngồi lặng câm trước laptop và nhếch mép: “Đàn ông…” nhưng nước mắt lại rơi trên má cô nóng hổi. Hân quệt đi ngay, dù gì, đây cũng không phải lần đầu tiên cô không được lựa chọn. Là con gái tuổi Dần, Hân đã khá quen với điều này. Người tình đầu của Hân cũng đã không thể vượt qua định kiến của gia đình và bỏ rơi cô chỉ vì hai chữ “tuổi Dần”. Với những người tình sau, Hân chẳng bao giờ đặt quá nhiều hy vọng vào họ. Rồi cũng như nhau cả thôi! 


Thế nhưng lần này khác, Hân biết mình yêu Khương, yêu thật sự kể từ sau mối tình đầu nên cô không thể dễ dàng bỏ cuộc. Máy bay bà già thì đã sao? Tuổi Dần thì đã sao? Chẳng lẽ cô không được quyền yêu như bao người phụ nữ khác? Và Hân vẫn ôm ấp một hy vọng nhỏ nhoi, vẫn đánh dấu chéo vào quyển lịch cầm tay khi mỗi ngày trôi qua. Cô chờ ngày được gặp lại Khương. 

Chiếc taxi đỗ xịch trước con hẻm nhỏ cắt ngang những dòng suy nghĩ của Hân. Cô thanh toán cước phí rồi lặng lẽ gõ chân trên con đường lồi lõm quen thuộc. Bây giờ là 11 giờ rưỡi đêm 28 Tết và cô đang đến Hands. Nếu thật sự yêu và còn nhớ Hân, Khương chắc chắn đang đợi cô ở Hands, ít nhất là qua 12 giờ đêm nay.


Hands không khác một năm trước là mấy. Vẫn một mảng tường trắng in đầy những dấu tay bằng sơn đủ màu của các vị khách, vẫn những chiếc bàn gỗ mộc mạc được lau chùi sạch sẽ đến bóng loáng, vân những cây mai giả nhỏ xíu đặt trên bàn và những phong bao lì xì đỏ đính lục lạc đong đưa reo vui bên ô cửa sổ… 

Hân đưa mắt tìm kiếm chiếc bàn kê sát ô cửa sổ trắng. Tim cô như rơi tõm xuống. Chiếc bàn trống không. Hân đưa mắt nhìn quanh. Hands vẫn còn lác đác dăm vị khách nhưng tuyệt nhiên không có người cô muốn tìm.

Hân tưởng như mình không đứng vững. Một cơn khó thở dâng lên khiến tim Hân đau thắt. Cô ôm lấy lồng ngực, lê chân khó nhọc về phía chiếc bàn quen thuộc và gọi một ly cappuchino. Mọi vật trước mắt cô nhoè đi. Hân biết mình đang khóc. Cô quệt nước mắt và cố gượng cười với cô phục vụ, nhưng nụ cười của cô phản chiếu xuống vệt nước trên mặt bàn trông méo mó và thảm hại như nụ cười của anh hề vào ngày rạp xiếc vắng khách. 

Cô phục vụ ái ngại hỏi: “Chị không sao chứ?”. Hân lắc đầu, cố pha trò: “Không, chỉ là tôi có hẹn một người quan trọng nhưng lại bị cho leo cây”.

Cô phục vụ cợt vỗ tay lên trán: “à, thì ra là chị” rồi quày quả đi về phía quầy bar. Cô gái trở lại với một chiếc máy MP3 và bảo: “Sáng nay, có một anh chàng cũng nói câu tương tự như chị vậy. Anh ấy nhờ tôi trao lại thứ này cho cô gái nào ngồi ở chiếc bàn kê sát cửa sổ và cũng bị người ta cho leo cây”.

Hân đón chiếc máy từ tay cô phục vụ, tim cô đập mạnh liên hồi. Tay run run, cô gắn tai nghe và nhấn nút play. Giọng Khương vang lên trầm ấm như đang ở thật gần: “Em đang khóc vì anh đã không đến, có phải không? Anh đã chờ em suốt một năm qua ở Hands và lần nào, anh cũng thất vọng ra về. Anh liên lạc với em bằng mọi cách nhưng vô ích. Anh biết em vẫn quan sát anh từng ngày, anh van xin em rồi khiêu khích em trên Facebook để em xuất hiện nhưng tất cả đều công cốc”. 

“Anh tự hỏi mình đã làm gì sai để em phải xa lánh anh như vậy? Sáng nay, anh đến Hands từ rất sớm và chờ em đến tận trưa. Em vẫn mất hút. Anh thật sự không đủ kiên nhẫn nữa. Khi em nghe được những lời này, anh đã ngồi trên máy bay sang Pháp. Anh sẽ làm việc ở đó trong ba năm và có thể lâu hơn. Có lẽ chúng ta không còn gặp lại nhau. Chúc em mạnh khoẻ và hạnh phúc”.


Những lời cuối của Khương như nhoè đi. Hai tai Hân lùng bùng, cô ngồi phỗng như tượng rồi đột ngột đứng bật dậy. “Không thể như thế! Mình phải ra sân bay”, Hân hốt hoảng vùng chạy. Cô va mạnh vào chiếc bàn và đánh đổ ly cappuchino. Dòng cà phê nóng rẫy đổ trên tay cô nhức buốt nhưng Hân không quan tâm. Cô luýnh quýnh chạy đi nhưng vấp phải chiếc ghế và ngã sõng soài. “Mình và Khương không thể kết thúc như vậy, không thể”, Hân bật khóc ngon lành như một đứa trẻ. 

Chợt một đôi tay mạnh mẽ nâng cô dậy và ôm siết cô vào lòng. Mùi da thịt quen thuộc khiến Hân như bừng tỉnh. Trước khi Hân kịp nhận biết điều gì đang xảy ra, một nụ hôn nồng nàn gắn chặt lên môi cô và giọng Khương thầm thì: “Em là cọp mà sao mít ướt thế? Anh mới trêu một tí đã khóc, vậy mà nỡ bỏ anh đi suốt một năm trời?”.

Hân lắp bắp:”Anh… anh… không phải là anh…”. Khương mỉm cười dịu dàng: “Anh chẳng đi đâu cả, có đi cũng phải tha con cọp này cùng đi. Anh chờ em ở đây suốt một năm qua. Em ác lắm, thoả thuận với mẹ mà chẳng nói với anh câu nào”.

“Anh biết hết rồi sao?”.

Sáng nay, mẹ đã kể hết cho anh nghe và dặn anh phải đến đây đón em. Mẹ biết chúng ta yêu thương nhau thật lòng nên không phản đối nữa. Về nhà thôi em, mẹ đã làm thức ăn khuya, chờ con dâu tương lai về đó”.


st

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Sep/2021 lúc 7:27am

TIẾNG MẸ CƯỜI





Vu Lan về…

Vu Lan cũng như Giáng Sinh, không còn là ngày lễ riêng tôn giáo. Đó là những dấu son thời gian của nhân văn ghi đậm nét cảm xúc của con người. Nếu Giáng Sinh là ngày lễ của Ân Tình thì Vu Lan là ngày lễ Nhớ Mẹ.

Cũng như mọi năm, Vu Lan là ngày mới hồi sinh của một chuỗi dài dấu ấn tinh thần đã cũ. Các bậc tu hành Phật giáo xuống lại cuộc đời sau mùa An Cư Kiết Hạ. Nhưng năm nay Mùa An Cư Kiết Hạ truyền thống của Phật giáo trùng hợp ngẫu nhiên mà đồng thời vời mùa đại dịch Cô Vy phải cách ly. Có điều khác nhau giữa dòng đời trôi chảy triền miên và biến cố nhất thời là các nhà tu Phật giáo đã “ra Hạ” mà cả nhân loại thì vẫn còn xao xác chuyện cách ly!

Hơn trăm ngày cách ly vì đại dịch Covid-19, bạn đã suy gẫm điều gì hay nhất. Xin đừng nghi ngại. Khái niệm “hay” của con chim sơn ca là tiếng hót cao ngất trời xanh nhưng với con dế mèn là tiếng kêu tỉ tê âm thầm trong bóng tối. Ý nghĩ riêng về cái hay mà tôi đã quán tưởng trong những ngày cách ly là tiếng cười của Mẹ.

Trong thiên nhiên xa vời và nếp sống hiện thực thì tiếng cười là sản phẩm diệu kỳ và quý hiếm nhất của đất trời. Tiếng cười cũng như khí trời và hơi thở, lúc nào và nơi nào chẳng có mà lại liệt vào hàng quý hiếm?! Gần triệu người đã ra đi vì bị Coronavirus ngăn hơi thở và bảy tỷ người đang ưu tư nếu một mai mình… khó thở rồi đi vào hết thở! Nụ cười thì nghiêm trọng hơn vì khi con người hết nụ cười là chết lâm sàng ngay trong cuộc sống.

Mọi sinh vật có sống, biết ăn, biết ngủ mà không biết cười. Ngựa hí có thể là ngựa cười mà biết đâu là đang khóc. Gà gáy, chó sủa, mèo kêu, bò rống… là đang cười chăng? Không đâu. Chỉ có con người bình thường, khỏe mạnh và hiện sinh tự tại mới biết cười.

Thằng Vui Điên ở Huế mấy mươi năm chạy rông, miệng lúc nào cũng ngỡ như cười nhưng chẳng ai biết thật ra là nó đang la khóc hay kêu cứu. Cái mất đầu tiên và lớn nhất của đời người là nụ cười. Chỉ có khi thân an không bệnh tật, tâm lạc không buồn hay vui quá độ người ta mới thật có nụ cười trọn vẹn chân thật, nụ cười tỏa chiếu lòng vui. Nhân gian có muôn vàn cách cười, vô số cảnh cười nhưng chỉ có Tiếng Mẹ Cười là nụ cười Trung Đạo nhất. Tiếng Mẹ Cười không phát xuất từ bờ nầy hay mé nọ; không cần phải được hay thua mà tất cả hội tụ vào lòng thương con không bờ bến. Mẹ cười khi đau để vỗ về, khi buồn để an ủi, khi no để an lòng, khi đói để chịu đựng, khi thành công để chia sẻ, khi thất bại để không bỏ cuộc. Tiếng Mẹ Cười cho con, vì con tự nhiên mà thiêng liêng như hồn Đại Ngã. Cho nên, nghĩ về Mẹ đầu tiên là Tiếng Mẹ Cười.

Gần 50 năm, tôi chưa bao giờ tách dòng suy nghĩ của mình về Mẹ để nhận diện Tiếng Mẹ Cười. Lớn lên, trưởng thành và tương tác giữa quê hương, làng nước, xóm nghèo qua những cảnh chiến tranh, hòa bình và ly tán, tôi chưa hề nghĩ đến Tiếng Cười của Mẹ vì Mẹ là hiện thân của tiếng cười bồng ẵm đời tôi tự nhiên như hơi thở. Cho đến khi tôi xa Mẹ lúc người 80 và biền biệt 10 năm trở về thăm Mẹ ở tuổi 90 vào năm 1992, tôi mới chững lại khi nhảy chân sáo trở về làng với Mẹ. Mẹ đó. Tóc mẹ bạc đi nhiều với khuôn mặt an tịnh không biểu tỏ vui buồn và đôi mắt ươn ướt tuổi già không khác nhiều lắm như ngày tôi ra đi. Khác chăng là trí nhớ Mẹ như lẫn trong sương mù. Mẹ hỏi tôi và các cháu thản nhiên như người trong nhà không có 10 năm xa cách. Có một khung trời vắng bóng nơi Mẹ mà tôi chưa tìm ra: Nụ cười. “Phải rồi, tiếng cười của Mạ mô rồi”. Cái vắng lặng đau nhói hiện ra nhỏ và mơ hồ như sợi tóc lớn dần. Tôi hoảng sợ. Mẹ ngồi đó nhìn tôi đăm đăm. Nhưng cái nhìn nội chiếu của chặng đời quá khứ. Trên khuôn mặt Mẹ đã hoàn toàn vắng bặt nụ cười. Mạ ơi! Con đã về với Mạ nhưng con đã vĩnh viễn xa khuất Tiếng Mạ Cười… Nửa năm sau ngày về thăm Mẹ, lúc nửa đêm về sáng ở Cali, tôi choàng thức giấc nhận tin điện thoại từ anh Thiện báo tin Mẹ tôi đã qua đời.

Câu mở đầu trong tập sách Về Huế xuất bản sau ngày tôi về thăm Mẹ là: “ Mạ ơi! Nếu có kiếp lai sinh, con chỉ xin được làm con của Mạ.”

Quê nghèo, chiến tranh, phân ly đã tạo ra những khúc quanh tâm lý và tình cảm khiến đời sống xã hội Việt Nam nhuộm tím trong cảnh hợp tan và thương tiếc. Người Mẹ Việt Nam – nhất là những bà Mẹ Quê – trở thành biểu tượng của hy sinh và tình thương con không bờ bến. Và đối với những người con Việt Nam nhân hậu thì tình thương Mẹ cũng sẽ không bao giờ đổi thay theo hoàn cảnh hay phai nhạt với thời gian.

Trong nghệ thuật thi ca, âm nhạc, hội họa, sân khấu Việt Nam, cảm xúc về Mẹ cũng trùng trùng khơi nguồn trong diễn xuất và sáng tạo. Trong dòng cảm xúc riêng mình thì Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười của Trần Trung Đạo, là bài thơ tiếng Việt mà riêng tôi cảm nhận là hay nhất về Mẹ trong vườn thơ Hải ngoại:

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi

Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Ðốt lửa cho đời tan khói sương




Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau

Ðừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Ðau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Ðổi cả thiên thu tiếng mẹ cười. (Trần Trung Đạo).

Tiếng Mẹ Cười là biểu tượng của tình yêu, che chở, gieo neo, hy sinh vô bờ bến nghìn thu vĩnh cửu đối với con. Biểu tượng tình cảm cao vời và sâu thẳm của Mẹ dành cho con mà sau mười năm xa Mẹ khi trở về tôi không còn hạnh phúc có được. Tiếng Mẹ Cười ngỡ như tầm thường vì ở đâu, ngày nào và ai ai cũng có như ánh nắng, như hơi thở. Chỉ đến khi mặt trời đã lặn; thở ra mà không còn thở vào thì đã trễ tràng cho ai về muộn hay mất dấu đời đời giữa dòng sinh diệt.

Thương Mẹ, chăm sóc Mẹ, có hiếu với Mẹ để thấy được Tiếng Mẹ Cười là tìm được một bầu trời tươi mát yêu thương và từ đó, tìm được nguồn suối yêu thương mà nương tựa cho mình.

Mùa Vu Lan đang về. Năm nay có thể không có bông hồng đỏ, bông hồng trắng, bông hồng vàng (tu sĩ) gắn lên áo để nhớ Mẹ. Ai còn Mẹ, xa Mẹ, hay mồ côi Mẹ đều có thể nhắm mắt hình dung hình tượng giữa cuộc đời hay trong tâm tưởng đẹp hơn cả đóa hoa hồng: Tiếng Mẹ Cười.


Trần Kiêm Đoàn
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Sep/2021 lúc 3:29pm

Sài%20Gòn%20chưa%20bao%20giờ%20yên%20bình%20như%20thế!%20|%20Tài%20chính%20-%20Kinh%20doanh%20|%20Thanh%20Niên



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 07/Sep/2021 lúc 3:32pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Sep/2021 lúc 8:46am

Lá thư tình trong cặp

Bức%20thư%20tình%20không%20gửi!

Tuấn hồi hộp đợi chờ giờ ra chơi. Cuối cùng, tiếng chuông cũng reo lên inh ỏi, thầy giáo gấp sổ, rời khỏi bàn cùng lúc với các học sinh nam nữ lục tục nhanh chóng chạy ra ngoài cửa lớp. Không ai muốn lãng phí phút giây nào trong giờ ra chơi cả.

Trong chớp nhoáng, lớp học vắng hoe không còn ai ở lại. Tuấn luẩn quẩn bên ngoài nhưng mắt luôn dáo dác ngó những người xung quanh rồi thừa cơ không ai để ý Tuấn quay trở vào lớp của mình.

Ði giữa hai dãy bàn, một bên là nam sinh – một bên nữ sinh, tới bàn của Ngọc Thơ thì Tuấn giả vờ cúi xuống như đang nhặt cái gì đó. Anh chàng nhanh chóng rút từ túi áo, tờ giấy đã được gấp gọn gàng làm tư và nhét vội vào chiếc cặp trong hộc bàn, ngay chỗ của Ngọc Thơ.

Không ai trông thấy hành động của Tuấn, nhất là lũ con gái còn đang mải mê nhiều chuyện ngoài kia. Thế là Tuấn làm bộ thản nhiên bước ra khỏi lớp.

Anh chàng đút tay vào túi quần thong thả đi bộ dưới gốc cây hoa phượng trong sân trường. Gốc cây này từng chứng kiến Tuấn đi tha thẩn giờ ra chơi và nghĩ ra mấy câu thơ được nắn nót trong lá thư tỏ tình vừa lén lút bỏ vào chiếc cặp kia.

Thẩn thơ dưới gốc phượng già,

Anh yêu em lắm nhưng mà tình câm,

Hỏi em có yêu anh không?

Hãy trả lời gấp. Anh mong đây nè…

Ký tên: Tuấn, người si tình ngồi cùng dãy bàn với em và hàng ngày hóng về phía em.

Tuấn vốn nhút nhát, thấy nữ sinh nào đẹp đến gần là bối rối nói không nên lời, nên dù thầm yêu trộm nhớ Ngọc Thơ xinh đẹp suốt từ năm đệ tam đến năm đệ nhị mà Tuấn chưa bao giờ dám mở miệng mời Ngọc Thơ đi ăn chè chứ đừng nói tới chuyện đại sự là tỏ tình.

Hôm nay, Tuấn đã chọn cách tỏ tình là bỏ bài thơ tương tư vào ngăn cặp của nàng và ký tên, chắc nàng sẽ hiểu.

Bảo Huân

Không biết khi nhận và đọc lá thư này, Ngọc Thơ sẽ phản ứng ra sao nhỉ? Tuấn căng thẳng lắm nhưng xen lẫn niềm vui hy vọng. Tuấn đẹp trai, học giỏi, mấy đứa con gái trong lớp luôn nhìn Tuấn bằng ánh mắt ngưỡng mộ lẽ nào Ngọc Thơ lại hững hờ?

Suốt giờ học còn lại Tuấn ngồi dãy bàn bên này mà luôn hướng mắt về dãy bàn nữ bên kia xem thái độ Ngọc Thơ ra sao, nàng đã thấy lá thư chưa?

Tuấn thấy Ngọc Thơ vẫn chăm chỉ nghe thầy giảng bài hay thỉnh thoảng nói chuyện với Thu Diệu bên cạnh. Hai đứa này chơi thân nhau, chưa biết chừng mai mốt Ngọc Thơ sẽ kể cho Thu Diệu chuyện lá thư tình và cả lớp cùng biết thì mắc cỡ lắm nên Tuấn luôn để ý thái độ cả hai đứa nó.

Mọi chuyện vẫn bình yên như thường ngày. Vậy là lá thư chưa được phát hiện, càng may, lát nữa về nhà Ngọc Thơ sẽ thấy lá thư để con nhỏ nhiều chuyện Thu Diệu kia đừng xía vô.

Sáng hôm sau Tuấn đến trường với tâm trạng hồi hộp lo lắng, anh chàng thấy Ngọc Thơ nhìn chàng cười cười, nhưng lại thấy con nhỏ Thu Diệu nhìn chàng với ánh mắt… sầu thương. Ngọc Thơ cười cười vui vẻ thế kia là đắc ý với lá thư tình của Tuấn rồi, còn Thu Diệu mắc mớ gì mà mặt nó buồn thế?

Thật khó hiểu? Tuấn vốn giỏi toán, giỏi suy tính mà ca toán khó này Tuấn đành chịu thua.

Thỉnh thoảng, Tuấn lén nhìn sang dãy bàn Ngọc Thơ và Thu Diệu, lại bắt gặp đứa nhìn Tuấn mỉm cười và đứa rưng rưng buồn. Hai đứa hai tâm trạng ngược xuôi mới lạ.

Thôi, Tuấn đành chờ đợi một lá thư hồi âm.

Quả nhiên giờ ra chơi Ngọc Thơ chủ động đến bên Tuấn và rủ trưa nay tan học, hai đứa ghé hàng chè đá đậu nói chuyện.

Tuấn mừng rỡ trong lòng. Không ngờ Tuấn nhút nhát bao nhiêu Ngọc Thơ lại dạn dĩ bấy nhiêu, nó hẹn hò Tuấn ra quán chè chắc là để trả lời lá thư tình của Tuấn.

Tan học, Tuấn đúng hẹn ra hàng chè đá đậu trước sân trường, giấc này quán chè vắng tanh vì lớp sáng ra về, lớp chiều chưa tới.

Tuấn chọn một ghế ngồi chờ Ngọc Thơ, một lát sau Ngọc Thơ ra tới. May quá nó không dẫn con nhỏ Thu Diệu theo cản mũi kỳ đà, dù hai đứa này đi đâu luôn có đôi.

Tuấn thầm cám ơn “người yêu” đã tế nhị, thật dễ thương. Ngọc Thơ gọi hai ly chè và vào chuyện:

– Tuấn ơi, Thu Diệu không thể đến được.

Tuấn gạt phăng:

– Khỏi cần, cứ để Thu Diệu thảnh thơi, mình nói chuyện đủ rồi.

Ngọc Thơ quậy ly chè đậu xanh bánh lọt nước dừa cho đều và lựa lời nói:

– Thật tình nói ra Ngọc Thơ cũng ngại ngùng lắm, lá thư của Tuấn bỏ trong ngăn cặp…

Tuấn chen vào giọng run run cảm xúc:

– Ừ, lá thư tình của Tuấn đó, mấy câu thơ của Tuấn làm đó.

– Nhưng muộn rồi Tuấn ơi, nhỏ Thu Diệu đã thương một anh bên lớp đệ Nhất rồi.

– Thu Diệu?

– Chứ còn gì nữa! Tuấn đã nhét lá thư tỏ tình trong ngăn cặp của Thu Diệu, nó đưa cho Ngọc Thơ đọc rồi. Ðây nè!

Ngọc Thơ mở cặp, lôi ra tờ thư gấp làm tư của Tuấn, chìa ra trước mặt Tuấn:

– Phải lá thư này không? Nằm trong ngăn cặp Thu Diệu đó.

Trời ơi, bây giờ thì Tuấn đã hiểu nụ cười của hai đứa, Ngọc Thơ cười cười là trêu chọc Tuấn vì biết bí mật một chuyện tình. Còn Thu Diệu buồn buồn vì nó thương hại Tuấn, không thể đáp lại một tình yêu.

Thấy vẻ mặt thất thần của Tuấn, Ngọc Thơ ái ngại an ủi:

– Tuấn đừng buồn, đừng thất vọng mà ảnh hưởng đến chuyện học hành nha. Phải nói lời từ chối Tuấn, nhỏ Thu Diệu cũng khổ tâm lắm.

Tuấn nói nhỏ mà như gào lên:

– Không… không… Tuấn không yêu Thu Diệu.

Ngọc Thơ càng cuống quýt ngắt lời Tuấn và an ủi tiếp:

– Ngọc Thơ biết mối tình si bị từ chối người ta dễ bị cú “sốc” lắm. Tuấn hãy bình tâm đừng giận hờn, nói lẫy hay oán trách Thu Diệu nữa.

Tuấn hạ giọng rên rỉ:

– Tuấn đang nói thật chứ nói lẫy hồi nào. Tuấn không yêu Thu Diệu, Người Tuấn yêu là… là…

Máu nhát gan lại hiện về, Tuấn ấp úng mãi mới nói được:

-Là… Ngọc Thơ đó. Tuấn yêu Ngọc Thơ.

Vừa nghe xong Ngọc Thơ đứng phắt dậy, tự ái đùng đùng:

– Tuấn đừng có cho Ngọc Thơ… ăn đồ thừa, đồ ế nha! Bị Thu Diệu từ chối rồi quay ra nói yêu Ngọc Thơ để gỡ gạc đỡ quê hả? Thua me gỡ bài cào hả? Còn lâu!

Cô nàng xách cặp ngoe nguẩy bước đi. Tuấn vụng về gọi theo:

– Ngọc Thơ ơi còn ly chè ….

– Biết rồi, tôi chưa trả tiền chứ gì. Tuấn trả tiền hai ly chè giùm đi, mai mốt tôi trả lại. Bữa nay tôi mời.

– Ý Tuấn là còn ly chè đầy, Ngọc Thơ ngồi ăn chè với Tuấn và nghe Tuấn nói chuyện tiếp. Lá thư tình Tuấn đã bỏ lộn cặp Thu Diệu thay vì bỏ vào cặp Ngọc Thơ.

Lời phân bày của Tuấn lạc vào gió bay, Ngọc Thơ đã đi khỏi, không biết nó có nghe được gì không?

Tuấn nhớ lại hôm qua lúc lén bỏ lá thư tình vào cặp, vì hai cặp của Ngọc Thơ và Thu Diệu nằm cạnh nhau trong hộc bàn và vì Tuấn hành sự vội vàng nên đã bỏ lộn.

Tuấn thấy từ xa con nhỏ Thu Diệu hiện ra đón Ngọc Thơ, chắc nãy giờ nó núp đâu đó để chờ đợi Ngọc Thơ làm sứ giả đi gặp Tuấn. Hai đứa nó chở nhau về trên chiếc xe đạp, không biết Ngọc Thơ sẽ kể lại những gì.

                                                                                              o O o

Dòng đời trôi chảy, hơn 40 năm sau Tuấn và Ngọc Thơ tình cờ gặp lại nhau trong buổi họp mặt trường xưa tại Mỹ. Cả hai nhận ra nhau, mừng vui chuyện trò, hỏi thăm nhau về thầy cô bè bạn.

Thu Diệu thuở đó yêu anh chàng lớp đệ nhất nhưng nàng đã nên duyên với người khác và hiện định cư ở Úc.

Vợ chồng Ngọc Thơ mới sang Mỹ định cư vài năm nay do con cái bảo lãnh.

Tuấn thoáng trầm ngâm:

– Ai cũng có thời học trò để yêu thương và mộng mơ nhưng cuối cùng lấy người mình không mong mà gặp, không chờ mà đến.

Rồi Tuấn nhắc chuyện lá thư tình ngày xưa:

– Bây giờ tôi với Ngọc Thơ ai có phận nấy, con cháu cả rồi, mối tình si của tôi ngày xưa đã tan vào thời gian từ lâu, nhưng tôi vẫn muốn hỏi lại, Ngọc Thơ đã tin là tôi bỏ lộn lá thư
tình và người tôi yêu chính là Ngọc Thơ không?

Ngọc Thơ gật đầu:

– Sao ngày ấy chúng mình trẻ con thế nhỉ? Lúc ở quán chè tôi quyết không tin và chảnh chọe thiếu điều muốn… táng cho Tuấn một bạt tai. Nhưng vài năm sau khi lớn khôn thêm, suy nghĩ lại thì tôi tin và ân hận đã làm bạn buồn lòng.

– Chắc là mình không có duyên với nhau.

Ngọc Thơ mỉm cười:

– Nhưng chúng ta vẫn còn nợ bạn bè, gặp nhau đây là vui rồi. Ở phương trời xa xôi kia Thu Diệu chưa bao giờ biết rằng ngày ấy Tuấn đã bỏ lộn lá thư tình vào cặp nàng. Thế là cả Thu Diệu và Ngọc Thơ cùng giữ kỷ niệm đẹp về một lá thư tình của một người, của một thời học trò ngây thơ và lãng mạn.


Nguyễn Thị Thanh Dương



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/Sep/2021 lúc 8:48am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22140
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/Sep/2021 lúc 12:06pm

Đời như một vở cải lương!

.

Hồi xưa bà con mình gọi mấy đoàn cải lương là gánh hát. Vì mỗi lần đi lưu diễn, mai chỗ nầy mốt chỗ kia, ngoài xe bò chở phông màn và vợ con ông bầu gánh, đào kép tự gánh y trang của mình, rồi lục tục quảy theo sau.


Tuồng%20&#39;Lan%20và%20Điệp&#39;%20hát%20cùng%20khắp,%20nhưng%20tiền%20bản%20quyền%20chẳng%20được%20bao%20nhiêu

Gánh hát thời đó cũng có bảng hiệu đàng hoàng nhưng bà con mình lại thích gọi là gánh bà bầu Thơ tức đoàn Thanh Minh Thanh Nga, gánh bầu Ba Bản tức đoàn Thủ Ðô, gánh bầu Xuân tức đoàn Dạ Lý Hương, hay gánh bầu Long tức 5 đoàn Kim Chung 1, 2, 3, 4 và 5.

Sau nầy, mấy ông ký giả trên mục sân khấu kịch trường về cải lương mới dùng chữ đại ban nếu gánh hát lớn, trung ban nếu gánh hát vừa vừa. Còn những gánh nhỏ, mà ông bầu già, đóng vai lão, con gái làm đào chánh, con rể làm kép chánh thì gọi là gánh bầu Tèo, tức gánh hát nghèo, dọn từ nhà lồng chợ tới đình làng để trình diễn.

Gánh hát thì phải có tuồng tích do mấy ông thầy tuồng, sau nầy trân trọng gọi là soạn giả viết ra, phân vai, kiêm chỉ đạo diễn xuất (tức vai trò đạo diễn sau nầy).

Ngoài thầy tuồng là người có ăn học (mới biết chữ mà viết tuồng chớ) phải kể tới kép chánh và đào chánh (có người mù chữ).

Kép cũng có hai loại: Kép muồi, chuyên môn đóng vai hoàng tử  không hè (Út Trà Ôn, Thành Ðược).

Phản diện với kép muồi là kép độc, đóng vai ác thôi hết biết (Hoàng Giang, Văn Ngà, Trường Xuân)…


Đào%20kép%20cải%20lương%20một%20thời%20vang%20bóng

Ðào cũng có hai loại: Ðào thương (Út Bạch Lan, Thanh Nga, Phượng Liên), ra sân khấu là khóc bụp con mắt luôn, đôi khi khóc nhiều quá son phấn trôi đi, hết màn, phải chui vào hậu trường dặm mặt lại.

Phản diện với đào thương là đào lẳng (Hồng Nga, Thanh Nguyệt), vừa hát vừa nghiến răng trèo trẹo đóng những vai ghen tuông, đòi xởn tóc đào thương.

Trong vở hát nào cũng vậy, làm khán giả khóc lóc, chửi bới riết thì phải cho bà con cười chút chút cho thư giãn chớ.

Người phụ trách cái nhiệm vụ nặng nề đó là vai hề, ăn khách không kém kép chánh, đào chánh là: hề Minh, hề Văn Hường, hề Thanh Việt, hề Văn Chung… chẳng hạn.

Nhớ thời hoàng kim của sân khấu cải lương, bà con khán giả mộ điệu miền Nam mình đã nuôi sống biết bao nhiêu người nghệ sĩ.

Không những đủ sống thôi mà những danh ca: Vua vọng cổ như Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Ðược… trở nên giàu có, ở nhà lầu mặt tiền, đi xe hơi Huê Kỳ, vì tiền ký ‘công tra’ lên cả triệu đồng (số tiền rất lớn). Vì trúng số độc đắc kiến thiết quốc gia xây cửa xây nhà, lô độc đắc cũng chỉ 1 triệu đồng thôi.


Nghe%20Cải%20lương,%20Ca%20cổ%20Út%20Trà%20Ôn%20Mp3%20|%20Tiểu%20sử%20nghệ%20sĩ%20-%20Xem%20Video

Nhớ hồi nhỏ, đi học, thường lội bộ theo đường Phan Thanh Giản qua đường Nguyễn Thiện Thuật là phải đi ngang nhà ông Út Trà Ôn.

Ðôi khi thấy ổng đang ở trần, mặc cái quần tiều lỡ, mái tóc chải xước ra đằng sau, không có rẽ đường ngôi, nhưng có xức ‘bi-ăng-tin’ láng mượt… đang lấy vải chùi chiếc xe Huê Kỳ bóng lưỡng, bèn đứng lại nhìn.

Té ra mặt mày không tô son điểm phấn như lúc trình diễn trên sân khấu, ở đời thường, ổng xấu hoắc hè! He he!

Nhưng: “Than ôi! Thời vận bất tề”. Không phải ai đi hát cũng đều nổi danh, tiền vô như nước, nữ khán giả ái mộ cuồng nhiệt.

“U xàng u xáng u, xáng trên đầu ba bữa còn u” Bài bản phải vững vàng. Hát chạy chữ sao cũng đặng nhưng tới xề là phải nhịp song lang nghe cái cốc mới đặng nhe!  Muốn ca diễn cho có nghệ thuật, làm khán giả hài lòng, bỏ tiền ra mua vé, đâu có dễ.

o O o


Đạo%20Uyển%20道%20苑:%2013%20NHỮNG%20GÁNH%20HÁT%20XƯA%20%28ĐẠO%20UYỂN%20XUÂN%202018%29


Gánh bầu Tèo nghèo hơn nhiều! Ghe hát vừa mới cắm sào bên dòng kinh Ngã bảy mà cô gái năm xưa hổng thấy ra chào... là cả gánh xúm lại khiêng phông màn lên bờ, lấy vải bố bao quanh nhà lồng chợ để đêm nay bổn ban sẽ ra mắt bà con cô bác xã nhà.

Xong, ông bầu mướn một chiếc xe ngựa, treo hai cái bảng quảng cáo hai bên hông. Trên xe có cái trống chầu, một kép cơm (theo gánh hát làm kép chỉ để được ăn cơm), đánh thùng thùng từ đầu làng đến cuối xóm.

Ngựa bị ghìm cương, xe chạy chậm, con nít nó ùa theo reo hò tở mở, mừng gánh hát… mới ‘dzìa’.

Gánh bầu Tèo thường về làng vào tháng Mười Một âm lịch trước khi trời sắp đổ mưa;  lúa đổ đầy bồ xong, bà con rảnh rang đến coi đông, nhưng khá lắm gánh hát lưu lại chưa tới một tuần thì vắng hoe, khán giả chỉ loe ngoe chừng chục mống.

Nghỉ hát, tiền chưa chạy đâu được để dọn đi xứ khác thì ông bầu cho đào kép tự kiếm việc mà làm. Ai mướn gì làm nấy như: gặt lúa, vác lúa, đi mót, đi câu, bắt cua, lưới cá.

Nên: “Bầu Tèo hát dở đừng lo/ Sang năm hát khá được đi xe bò!/ Bầu Tèo hát dở đừng rầu/ Sang năm hát khá được ngồi xe trâu!”

Ðời nghệ sĩ, nhứt là đào thương cũng ngắn ngủi, tới bốn mươi là quá ‘đát’, trừ trường hợp cực kỳ xuất sắc, thanh sắc vẹn toàn, nhưng nói chung bụi thời gian không ai phủi được, đành phải chuyển qua đào mụ, vai nhì, vai ba…

Bèn lo xa, thôi kiếm một đại gia nào đó để nhờ vả tấm thân hầu đeo đuổi con đường nghệ thuật tới khi không còn hát nổi nữa!

“Thiếu chi rau em ăn rau é, thiếu chi chồng em làm bé người ta!”

Vậy mà có người ác tâm, ác khẩu, rằng: ‘Xướng ca vô loại! Không thông cảm cho duyên kiếp cầm ca dâng hiến cho đời gì ráo trọi, nỡ bĩu môi chê rằng: “Mới là tiểu thơ đêm trước mà mơi hổng có gạo nấu à nghe, đừng bày đặt nhí nhảnh!”

o O o


Huỳnh%20Ái%20Tông:%20Tìm%20hiểu%20về%20Cải%20Lương%202


Lại nhớ, gánh hát về nhà lồng chợ Cái Bè, năm 1958, thời ông Nguyễn Bá Cẩn đang ngồi quận, thuở thanh bình thạnh trị của nền Ðệ Nhứt Cộng Hòa mà.

Ôi bà con vui hết biết! Tui cũng đi coi hát là phụ nhưng hẹn với em yêu là chánh! Chờ em cho mãn kiếp chờ, gần kéo màn rồi em mới chịu ló mặt ra, kẻo anh nóng lòng trông đợi bóng ‘chim’?!

Tui nóng lòng thiệt nên làm hết chục mía ghim và hai lon đậu phộng nấu.

Khi khán giả đông bộn, tiếng gõ cồm cộp trên sàn sân khấu, bức màn nhung được kéo lên, hiện ra gác tía lầu son sáng choang dưới ánh đèn măng xông như thể ánh trăng rằm.

Mở đầu tuồng Phạm Công – Cúc Hoa là màn Nghi Xuân Tấn Lực, quần áo rách rưới tả tơi, vá chằng vá đụp, vẻ mặt thiểu não, tay cầm thau nhôm móp méo, dắt nhau chầm chậm quanh sân khấu, rồi xuống tới hàng ghế thượng hạng. Ðám khán giả nầy, chắc như bắp, là có tiền rủng rỉnh đây, ca điệu Xuân Tình: “Bà con cô bác dùm thương/ Bố thí cho con một chén cơm thừa/” “Tấn Lực ơi! Ráng nhịn đói chút xíu nữa nghe! Chừng nào bà con cho tiền, chị mua cơm đút em ăn!”

Bà con mếu máo, tháo kim Tây, găm túi áo khỉ, móc ra cho năm đồng nói: “Nè! Nghi Xuân! Chạy ra trước cửa rạp mua cho thằng Tấn Lực tô bánh canh giò heo ăn đỡ đi nhe! He he!”

Rồi giữa vở diễn, chờ chuyển màn, chuyển cảnh, cái ‘mi cà rô’ treo trên dây ròng rọc căng ngang, thả xuống trước miệng, ông bầu Bảy Cao của đoàn Hoa Sen, quần áo lớn chỉnh tề, thắt ‘cà ra oách’, kính thưa khán giả: tuồng ‘Tôn Tẫn giả điên’ sẽ hát đêm mai. Tiện thể, nghệ sĩ Bảy Cao xuống sáu câu vọng cổ, phựt đèn màu, bà con khán giả vỗ tay rào rào…

Lại nhớ năm 1960, tại rạp Ðồng Thinh, thị xã Rạch Giá, đoàn Hữu Tâm của bầu Ba Khuê về, hát tuồng: “Nắm cơm chan máu” của đôi soạn giả Bạch Diệp và Minh Nguyên.

Trần Ai (kép Bửu Tài) phải đi ăn trộm về nuôi Ðỗ Lệ (đào Thanh Hương) bị thiên hạ đánh lỗ đầu, chảy máu…

Em yêu cảm động khóc thút thít, hỉ mũi rột rột… Thiệt là thấy gớm nhe!

o O o

Tháng Tư đen lại về trên quê người viễn xứ, lại nhớ biến cố năm xưa: “Tróc mã đề thương, ứ ư ứ ư…” “Cấp báo! Cấp báo!” “Ðiều chi?” “Dạ, chí nguy! Giặc Hung Nô vượt khỏi biên thùy. Ta, dũng tướng thảy đều tử trận…” “Lui!” “Thôi rồi!”

Nhưng “Họa phước đáo đầu chung hữu báo. Cao phi viễn tẩu giả nan tàng.” 

(Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác. Bay cao, chạy cho thiệt xa cũng không trốn đâu cho khỏi.)

Triều đại nào, chế độ nào cho dù cực kỳ gian ác như giặc Hung Nô, như  bọn ‘đại ban’ CS Liên Xô: “Kìa! Ma trêu trước cửa” “Nọ, quỷ lộng sau hè” thì cũng như một vở cải lương, trước sau cũng phải hạ màn, vãn hát chớ! Phải không thưa bà con?

đoàn xuân thu.



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 13/Sep/2021 lúc 2:24pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 190 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.488 seconds.