Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 124 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Jun/2018 lúc 8:53am

Người Cha


FLEURS

   Kể từ khi vợ mất, ông William Henderson thường vào công-ty làm việc từ sáng sớm đến tối mịt. Cuối tuần, ông thường giúp-đỡ người nghèo khó.

 

   Ông có một người con trai đã trưởng thành tên là Kevin. Kevin bỏ học lại còn nghiện rượu và ma-túy. Có lần trong bữa ăn chung với những người bạn thân, ông Henderson buồn-bã xác nhận con ông đã cậy cửa lấy đồ-đạc đi bán rồi bị cảnh-sát bắt như báo đã đăng.

   Một người bạn nói:

   - Ông thật là người cha thiếu may-mắn.

   Ông Henderson lắc đầu:

- Kevin hiện nay làm một số điều không tốt nhưng tôi vẫn cảm-tạ Chúa đã cho tôi ân-sủng làm cha của con tôi.

 

   Vài năm sau ông chết. Kevin trở về đưa đám tang và thừa-hưởng phần gia-tài khá lớn. Gặp anh, tôi kể lại lời cha anh đã nói.

 

   Nhiều người nghĩ anh sẽ bán nhà theo con đường nghiện-ngập. Họ lầm. Kevin đi học lại và trở thành bác-sĩ. Những giờ rảnh, anh giúp-đỡ những người nghèo khó còn hơn cha anh thuở trước.

 

   Anh ngậm-ngùi tâm-sự:

   - Tôi có một người cha đại-lượng. Giữa lúc mọi người chán ghét và khinh-bỉ tôi thì cha vẫn hết lòng yêu-thương và hy-vọng nơi tôi. Tình yêu và niềm tin của ông đã cứu tôi thoát khỏi vũng lầy dơ bẩn trong cuộc đời.

Nguyễn Xuân Thiên Tường

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Jun/2018 lúc 8:19am

Thư Gửi Vân Khanh, Con Gái Của Ba


Đây là thư của người cha già gửi con gái nhân ngày Father’s Day, được viết với rất nhiều xúc động. Theo nội dung bài viết, tác giả là một vị cao niên đã 80 tuổi: cựu sĩ quan VNCH, cựu tù chính trị, cựu thuyền nhân, vượt biên tới Mỹ trước đây 18 năm. Bài viết được chuyển tới bằng e-mail, mong tác giả sẽ có thêm những bài viết mới và vui lòng bổ túc chi tiết tiểu sử và địa chỉ liên lạc.
Trần Dạ Từ.
 
Thư gởi Vân Khanh, Con gái của Ba.
 
 
 
Còn bốn tháng nữa con tròn 56 tuổi. Nhưng trong lòng Ba con vẫn còn trẻ như tuổi 15. Ba nhớ lại cũng ngày nầy 18 năm về trước, cha con mình đùm túm dắt nhau đi vượt biên rồi sang Mỹ. 

Ba nói là "đùm túm" vì hồi đó Ba từ trại tù cải tạo về thì con đã gần 40 tuổi. Khổ. Nghèo. Nhìn con gái Ba héo úa dung nhan mà Ba khóc ròng. Tại ba! Tại Ba hết thảy! Làm con gái của một "sĩ quan nguỵ" nên từ trường Đại Học ra con không có việc làm. Hàng ngày, ngồi ở góc chợ Bàu Hoa vùng Ngã Tư Bảy Hiền-Sài gòn để bán từng tô bún mắm. Cứ ba tháng một lần lặn lội ra Bắc thăm Ba. 
 
Năm 1975 Mẹ con mới 50 tuổi. Người vẫn nghĩ rằng Ba chỉ đi "học tập ít ngày". Thành ra, nghe Ba đi Bắc Mẹ con bị shock. Cộng thêm bệnh cao huyết áp sẵn có, Mẹ còn "nhất định nằm một chỗ". Thế là con gái của Ba vừa lo cho Mẹ, vừa lo cho Ba. Ba ở tù 8 năm thì Mẹ con mất. Phải đến 4 năm gian khổ đời con nữa Ba mới được trở về.
 
 
 
Buổi tối đoàn viên ấy, cha con mừng mừng tủi tủi. Nhìn ảnh Mẹ con vẫn như tươi cười Ba tan nát cả lòng. Nhưng biết nói làm sao" Vận mệnh cá nhân mình gắn liền với vận mệnh quốc gia dân tộc. 

Cả thời tuổi trẻ của Ba hầu như đi khắp 4 vùng chiến thuật. Mẹ con cứ bồi hồi theo dõi đường Ba đi. Không biết mình sẽ thành goá phụ lúc nào. Thời gian ở nhà của Ba rất ít. Con là con đầu lòng. Lại là con gái. Cảm ơn con gái của Ba. Một đứa con gái có lòng hiếu thảo. Trong một lần thăm nuôi tại trại tù, con kể Ba nghe: Từ nhà mình tới chợ Bàu Hoa chừng non 1 cây số. Sáng nào con cũng bày hàng bún mắm ra. Mùi mắm kho thơm lừng. Có cả tôm thẻ lột, thịt quay, cà tím. Có cả những rau nhúc, cây bông súng, rau đắng, húng cây, giá sống và bắp cải bào. Khách hàng đông lắm! Con còn cười vui nói với Ba: Khi nào Ba về con sẽ mở một tiệm bún mắm và rau VÂN KHANH cho Ba ngồi thu tiền. 
Ba nghe với lòng se sắt.
 
Con gái của Ba,
Trớ trêu thay, lúc Ba về con đã là con gái lỡ thì. Ba buồn lắm. Nhờ ơn Thượng Đế mình vượt biên một lần trót lọt. Ba đặt chân đến đất Mỹ vào cái tuổi người ta sắp nghỉ ngơi. Chính vì vậy mà con lại khổ vì Ba. Con không muốn Ba đi làm ca đêm giữa trời rét buốt. Con nói cái lạnh miền Bắc Việt Nam đã cứa nát thịt da Ba cả chục năm trời cũng đủ lắm rồi. Ba hãy để con lo. Nhưng Ba đâu đành lòng như thế. 
Buổi sáng con ra khỏi nhà là Ba cũng đi. Tiệm giặt ủi gần nhà mình quá mà. Ba nhận phần việc ủi và xếp quần áo. Đi tới đi lui xem máy giặt nào ngưng. Máy sấy nào đồ đã khô. Chỉ vậy thôi. Một ngày, tính ra Ba đi cũng gần 5 cây số. Tội ngiệp con gái của Ba. Lúc người ta báo tin Ba bị xỉu thì con khóc ròng. Ba về nhà ở không cho con nuôi tiếp. Thật người xưa nói đúng! "Trẻ cậy cha, già cậy con" mà.
 
 
Vân Khanh con, 
Cho đến một buổi chiều, con đưa về nhà một trung niên trẻ. Trung niên mà Ba cho là "trẻ". Vì Ba thấy diện mạo anh ta cũng dễ nhìn. Ba mừng vì con của Ba rồi cũng có một bến đợi để neo thuyền. Ba cầu mong cho con hạnh phúc. 
Chồng của con cũng là chiến hữu của Ba. Gia cảnh cũng không may mắn giống như Ba. Vợ anh đã chết trong lần đi thăm chồng. Cả chiếc xe lăn xuống vực. Từ đó anh dở dở ương ương. Qua Mỹ rồi anh vẫn sống như người mộng du. Cho tới ngày gặp con. Tình yêu thật là kỳ diệu! Chẳng những khiến cho con gái của Ba trẻ lại mà anh chàng "dở hơi" kia cũng chừng như mới cải lão hoàn đồng. Cứ 4 giờ khuya , anh thức dậy đi bỏ báo. Tới 9 giờ sáng về. Nghỉ ngơi rồi 5 giờ chiều đi vào hãng. 1 giờ đêm mới trở về nhà. Ba cảm ơn Thượng Đế lần nữa vì con có người chồng hiền lành và độ lượng. Chứ vào tuổi của Ba không bị đưa vào nhà dưỡng lão là hiếm lắm. Con nhớ gia đình Bác Th. không" Hai bác cưới vợ cho anh Cảnh từ lúc còn ở Việt Nam. Vậy mà qua Mỹ rồi Bác Thanh bị cô dâu xem như gánh nặng. Nhất định đòi anh Cảnh phải đưa Mẹ vào Nursing home cho đến chết.
 
Vân Khanh con, 
Cả một thời trẻ tuổi của con đã dành để sống cho cha mẹ. Bây giờ con hãy sống cho con đi. Ba rất cảm động mỗi lần khách đến thăm nhà con hay nói: vợ chồng con có phước lắm nên suýt soát tuổi 60 mà vẫn còn có cha để phụng dưỡng. Phải! Hồi đó ba khó nghĩ mỗi lần nghe người ta cho rằng sự sống con người tính theo công thức: 5 năm, 6 tháng, 7 ngày. Nghĩa là ở tuổi đời 5 bó tuổi thọ tính theo năm. Đến 6 bó thì tính theo tháng , mà 7 bó thì tính theo ngày. Ba đã 80, chắc phải tính theo giờ quá!
Cảm ơn vợ chồng con đã chăm sóc Ba mỗi ngày. Còn nói: Ba ơi! Với chúng con ngày nào cũng là Father's Day cả. Ba thật có lỗi với con. Hồi đó Ba vẫn buồn thầm trong lòng khi mẹ con sinh con là con gái. Ông Nội con sợ Ba chết trận thì không có con trai nối dõi tông đường. Còn nếu Ba già mà yếu đau thì con là gái không thể chăm cho Ba được. Ca dao có câu:
Trai mà chi" Gái mà chi" 
Con nào có nghĩa có nghì thì hơn “
 
 
Nói đến đây Ba chợt nhớ loáng thoáng câu chuyện "Tấm đắp mông ngựa" mà Ba đã đọc từ rất lâu:
Chuyện kể :
Một người cha đã đem cả gia tài còn lại của mình cưới cho con cô vợ giàu, trẻ đẹp. Một thời gian đầu sống vui. Rồi những đứa cháu nội lần lượt ra đời. Người cha mỗi ngày một già yếu. Người con trai rất yêu và nể vợ. Dần dần quên đi trong nhà còn có người cha. Mùa Đông lạnh lẽo mà sức già chịu không thấu những ngày giá tuyết phũ phàng.Trong khi những con ngựa nuôi trong chuồng thì được giữ ấm bằng những tấm đắp mông. Đến chừng không thể chịu đựng được nữa người cha bèn gọi con trai để nói rằng:
- Con ơi , hãy cho cha một tấm đắp mông ngựa đễ cha dễ ngủ vì mùa Đông nầy lạnh quá!
Con dâu nghe được bèn nói với chồng:
- Anh hãy lấy tấm đắp cũ ngoài sân kia mà cắt cho cha một nửa.
Người con trai làm theo lời vợ. Trong lúc cố dùng sức cắt đôi tấm đắp ra thì đứa con nhỏ đến gần, hỏi:
- Cha ơi, sao không cho ông Nội cả tấm đi" Cha cắt ra làm chi "
Người cha trả lời:
- Để dành con à.
Hôm sau, người con trai thấy đứa con mình cũng đem tấm đắp mông ngựa khác cắt ra làm đôi. Người con trai giận dữ hỏi:
- Con làm cái gì vậy" Tại sao con cắt nó ra" 
Đứa con nhỏ đáp:
- Nửa tấm nầy con cho ông Nội. Còn nửa nầy để dành khi nào cha già con sẽ cho cha.
Người cha giật mình hối hận. Từ đó, hết lòng chăm sóc cha mình cho đến cuối cuộc đời.
 
Vân Khanh, 
Ba ước ao những người cha khác cũng có con hiếu thảo như con gái của Ba. Ba rất tự hào về con. Trong lúc có biết bao gia đình, cha mẹ ngậm đắng nuốt cay vì những đứa con Việt Nam sống theo kiểu Mỹ. Rất tự do! Thậm chí đã khước từ hai chữ HIẾU KÍNH cha mẹ, làm cho các bậc sinh thành hàng ngày sống "nước mắt chan cơm" thì Ba đã được vợ chồng con hết lòng chăm chút từng miếng ăn, giấc ngủ. 
Người xưa nói: "Hiếu thuận huờn sinh hiếu thuận tử. Ngỗ nghịch huờn sinh ngỗ nghịch nhi". Ba ước nề nếp gia đình mình là như vậy. 
Ba của con,
 
Hoàng Yến
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Jun/2018 lúc 9:29am

Ba Thằng Cu Tí Ơi


Anh Bông lái xe vào trạm xăng và thắng lại ngay ngắn bên cạnh một cột xăng. Hai vợ chồng còn đang loay hoay tháo dây seat belt chưa kịp xuống xe thì một anh Mỹ trẻ từ trong cửa tiệm chạy bay ra, một tay cầm khăn một tay cầm bình nước clean. Như một cái máy đã được set up từ đời kiếp nào, anh mau chóng lấy khăn phủi bụi khắp xe trước khi bắt đầu xịt nước clean lên kính xe và lau chùi một cách tận tình.
Chồng nhìn vợ, vợ nhìn chồng ngạc nhiên đến lặng người, họ không dám bước xuống xe, sợ làm cản trở anh Mỹ đang hăng máu làm việc kia. Mãi sau chị Bông mới cất tiếng hỏi chồng:
- Sao khi không họ lại lau chùi xe giùm mình hả anh?
Anh ra vẻ hiểu biết, giải thích:
- Ở Mỹ người ta làm ăn, cạnh tranh và chiều khách như thế đấy, có đâu như ở Việt Nam phải có những khẩu hiệu treo trong tiệm, nào là “ Khách hàng là thượng đế” hay “Vui lòng khách đến vừa lòng khách đi” mà vẫn gian dối và chém túi tiền khách tối đa.
- Công nhận người Mỹ tử tế thật, lần sau mình cứ vô tiệm này đổ xăng nghe anh!
Anh mát lòng mát dạ mỗi khi hiếm hoi thấy chị vui như vậy. Ba tháng nay, từ ngày sang Mỹ định cư, chị lúc nào cũng buồn rầu lo âu, tiếc rẻ cuộc sống đang ổn định và thoải mái tại Việt Nam. Anh sốt sắng giục chị:
- Lát nữa em nhớ ghi dấu tiệm này để khỏi quên nghe.
Chị ngó dáo dác xung quanh qua cửa kính xe và xác nhận:
- Nhớ rồi, cửa tiệm sơn màu xanh, bên kia đường là chợ Mỹ “Sack’n Save”.
Anh Mỹ lau xong các cửa kính xe, lau đến thân xe. Thấy anh ta nhiệt tình quá, vợ chồng anh Bông vô cùng ái ngại, không biết làm sao để bày tỏ lòng biết ơn với anh ngay lúc này.Vợ chồng anh đành ngồi im chịu trận, anh Mỹ kết thúc công việc lau chùi lại còn bơm xăng vào bình xe cho anh nữa chứ, sự tử tế ngoài sức tưởng tượng của anh chị.
Khi anh Mỹ vào trong tiệm cất đồ nghề thì hai vợ chồng mới “thoát nạn”, chui ra khỏi xe. Anh chị vào trong tiệm, trước là nói lời cám ơn sau là trả tiền xăng, thì cả hai đều giật mình vì tiền xăng gấp đôi như thường lệ, tưởng chủ tiệm tính lộn, anh Bông vừa cố gắng mang hết vốn liếng tiếng Anh vừa khua chân múa tay “bổ xung” thêm, đôi bên mới tạm hiểu ý nhau. Thì ra họ tính cả tiền công lau chùi xe lúc nãy, anh thấy vô lý quá, còn chị thì nghi ngờ rót vào tai anh:
- Họ thấy mình ngu ngơ không biết tiếng Anh nên gài bẫy mình để chém tiền đó.
Chủ tiệm nói hoài thấy vợ chồng anh vẫn chưa tường tận, để cho xong việc, ông ta bèn dắt hai người ra ngoài và chỉ vào hai tấm bảng to treo trên mỗi lối vào đổ xăng, một bên là “Service” và một bên là “self service”. Anh đã đậu xe bên “ service” là đương nhiên anh muốn người ta phục vụ lau chùi xe và đổ xăng giùm anh rồi. Anh Bông đau xót móc tiền ra trả, trong khi chị sa sầm mặt, lẩm bẩm:
- Thằng Mỹ làm nghề lau xe, chắc từ sáng đến giờ không có khách, bỗng nhiên thấy xe mình lù lù đậu vào, nó mừng quýnh phóng ra lẹ như tên bay đạn chạy, và vội vàng lau chùi xe ngay, không cho mình kịp phản ứng. Chứ cái xe mình cũ rích, mua có 2,000 đồng, quý hoá gì mà phải thuê người lau chùi, nó biết thừa điều đó và đang cười thầm mình đó.
Anh an ủi:
- Thôi em, coi như thêm một bài học khi mình mới qua Mỹ.
Chị vẫn không chịu thôi:
- Anh đừng có ca ngợi nước Mỹ tử tế, tốt bụng nữa nhé, sự tử tế nào cũng có giá của nó đấy. Sống ở Mỹ khó khăn mọi bề, nay gặp chuyện này, mai gặp chuyện khác, mới tuần trước hai vợ chồng đi lạc, tuần này mất toi một món tiền.
Anh năn nỉ:
- Lỡ rồi mà, anh cũng tiếc tiền chứ bộ. Lần sau anh sẽ nhìn kỹ, vô đổ xăng bên “self service”.
Chị hậm hực nhìn thẳng vô cửa tiệm xăng và nói như đang đứng trước mặt ông chủ tiệm người Mỹ, dĩ nhiên bằng tiếng Việt Nam của chị:
- Này nhé, buôn bán gì mà “mập mờ” để ăn tiền của người ta như thế hả? Lần sau tôi sẽ đi tiệm khác. Biết chưa!
- Đâu có ai lừa bịp gì mình đâu em, họ ghi hai bảng hiệu rõ ràng, lỗi tại anh xớn xác không đọc chữ nên vô lộn thế thôi.
Anh không dám tranh cãi với chị thêm, chỉ lặng lẽ lái xe về nhà. Bây giờ thì chắc chắn anh không quên đường về nữa.
Tuần trước, hai vợ chồng đi học ESL tại một lớp dạy Anh Văn miễn phí cho những người mới định cư tại Mỹ. Khi về, cả giờ đồng hồ vẫn không tìm ra đường đến nhà mình, bụng đói, mắt mờ và tay run, anh vừa lái xe vừa nhìn hai bên đường cùng với sự “hợp tác”của chị, vậy mà bốn con mắt vẫn không nhớ nổi đường về. Cuối cùng anh phải dừng xe bên lề, vào một cửa tiệm hỏi thăm, thì người ta nhìn anh bằng ánh mắt thương cảm mà rằng: con đường anh đang tìm kiếm nằm lù lù trước mặt anh đó. Trời ơi, vậy mà anh lái xe đi qua đi lại cả chục lần vẫn không biết. Từ hôm ấy hai vợ chồng rút kinh nghiệm, lấy một cái gì đó làm dấu hiệu, thí dụ đến tiệm ăn “Jack in the Box” thì quẹo phải, chạy độ 10 căn nhà thấy hàng cây Oak to lù lù thì quẹo trái là tới con đường về nhà. Và từ đó bất cứ một nơi chốn nào anh chị cần đến, đều được ghi dấu như thế cả.
Hai vợ chồng về tới nhà thì Cu Tí đã về học rồi, trường học của nó đối diện với Apartment, chỉ việc băng qua đường, khỏi cần đưa đón. Nhìn gương mặt nó buồn thiu là anh biết lại “có chuyện” rồi:
- Chúng nó lại ăn hiếp con, phải không?
Cu Tí rơm rớm nước mắt:
- Tụi nó chọc quê con và kí vào đầu con.
- Sao con không nói cô giáo?
- Tụi nó doạ, nếu con mét cô giáo thì sẽ đánh con nữa.
Chị điên tiết lên, quay ra trút lên đầu anh:
- Thấy chưa? Sung sướng chưa? Đòi đi Mỹ cho bằng được, chỉ khổ vợ, khổ con. Tôi ra đường như người câm, người què. Cha mẹ bị thua thiệt ngoài đời, thằng con bị ăn hiếp trong trường học, nay đứa này chọc, mai đứa kia đánh.Tại ở Mỹ, không biết tiếng nên tôi đành lép vế, chứ ở Việt Nam coi, đứa nào mà đụng tới con tôi là chết bà nó với tôi. Tôi tới thẳng trường tóm cổ mấy thằng nhỏ con nhà mất dậy đó để dạy cho nó một bài học, rồi lôi về tận nhà mắng vốn cha mẹ, ông bà chúng rồi.
- Em làm gì mà dữ quá vậy? Để anh sẽ tính. Là học trò lại trẻ con, nên chúng chọc phá nhau là chuyện thường, hơn nữa vì cu Tí mới đến Mỹ, tiếng Anh nói chưa rành, nên chúng bạn càng có cớ chọc ghẹo, dần dần sẽ êm thôi mà
- Đợi tới lúc đó thì chúng nó đã đánh con anh bể mặt rồi! Chị cay đắng.
Vợ anh nói có lý lắm, vì đây không phải là lần đầu cu Tí bị lũ bạn “ hành hạ”, nhìn vẻ mặt ảm đạm của cu Tí mà anh thương quá, đau xót quá. Ngày xưa còn bé, anh cũng có tâm trạng như vậy khi anh mới vào trường, bị cảnh ma cũ ăn hiếp ma mới, mỗi lần đi học là mỗi lần khóc vì sợ hãi. Cha anh biết, ông đợi buổi tan trường, đón anh ở cổng và hùng hổ tóm cổ thằng thủ phạm hay hiếp đáp con ông, cho nó cái bạt tai nên thân, thế là từ đó nó không dám đến gần anh nữa chứ đừng nói tới chuyện ăn hiếp anh. Nghĩ lại, ngay giây phút này anh mới nhận ra cha anh đã thương anh biết bao! Anh nhớ rõ cả nét mặt cha tức giận phừng phừng khi tát tai con người ta để bảo vệ con mình, vậy mà cho đến khi lớn lên, chưa bao giờ anh bày tỏ với cha lòng cảm kích vì tình yêu ấy, mà còn gây ra nhiều chuyện làm cha buồn những khi trốn học, rồi bỏ học nửa chừng đòi ra đời đi làm dù cha mẹ anh đã hết lời năn nỉ và khóc lóc, cuối cùng cha anh cũng đành chiều theo ý con, và luôn nhắc nhở một câu rất nhàm chán đối với anh thuở đó: “Con đã không muốn học chữ thì phải học một nghề cho giỏi mà nuôi thân.” Mỗi lần nghe câu khuyên ấy, anh đã coi thường, không nghĩa lý gì, cho là ông già lẩm cẩm. Càng lớn tuổi anh càng thấm thía, phải chi cha anh còn sống tới ngày nay thì anh sẽ nói với cha một lời tạ lỗi, sẽ bày tỏ tình yêu mến cha. Đúng là khi có con mới hiểu lòng cha mẹ.
Tối lên giường chị không chịu ngủ ngay mà lải nhải trách anh về cái tội đã đưa vợ con đi Mỹ, chị đã dùng dằng không chịu đi, nhưng anh đã thuyết phục chị cho bằng được.
Gia đình đang ổn định, kinh tế vững vàng, nhà cửa có sẵn, anh làm thợ hàn lâu năm cho một cửa tiệm sản xuất đồ sắt, lương cao và được chủ ưu đãi. Còn chị, mỗi ngày bán một nồi cơm tấm to tổ bố, sáng sớm bán, đến mười giờ là hết nhẵn, tiền lời đếm mỏi tay. Chưa kể một nguồn lợi tức giá trị “tự nhiên mà có” khỏi phải lao động công sức, đó là tiền các anh chị chồng từ Mỹ gởi về hàng năm, cả nhà ở Mỹ, mình anh còn sót lại, nên thằng em út được anh chị tận tình giúp đỡ. Chị Bông không phải tay vừa, thỉnh thoảng chị lại sáng tác ra một “biến cố” để xin đột xuất thêm ngoài món tiền thông lệ, nào mới bị giựt hụi sạch vốn, nào anh Bông bị đau bụng nghi là đau bao tử, phải nằm bệnh viện chờ xét nghiệm, cần tiền đút lót cho bác sĩ mới được khám bệnh sớm, mới được đối xử tử tế, nào phải sửa sang căn bếp bị hư dột tùm lum… Chị dựng truyện hay hơn các nhà viết kịch và đạo diễn, chuyện nào cũng hợp lý và thành công nên gia đình chị có khối vốn liếng, chị đang nhởn nhơ vui hưởng cuộc đời như thế thì giấy tờ bảo lãnh từ hồi nào đến giờ đã có hiệu quả, phái đoàn Mỹ phỏng vấn và chấp nhận cho gia đình chị qua Mỹ định cư, đi Mỹ thì le lói đấy, nhưng cuộc sống hiện tại quá thoải mái làm chị tiếc rẻ. Anh thì quyết định chọn con đường đi Mỹ để cuộc sống có tương lai hơn, nhất là cho thằng cu Tí.
Suốt ba tháng đầu tiên vừa qua, đối diện với bao nỗi ngỡ ngàng, vất vả của những ngày mới định cư ở xứ lạ đã làm chị nản lòng.
Kể lể một hồi, chị ngừng lại để khóc và kể tiếp:
- Anh mang vợ con sang Mỹ, sung sướng đâu chưa thấy, mà chỉ thấy buồn lo. Tôi phải từ bỏ cả cửa hàng cơm tấm, kẻ ăn người làm, khách khứa nườm nượp để theo anh sang đây.
Anh chép miệng:
- Có một nồi cơm tấm bán trước hiên nhà với mấy bộ bàn ghế cũ xiêu vẹo chứ cửa hàng cửa họ gì. Nghe em nói, người ta tưởng như em bỏ lại cả một công ty đang làm ăn phát đạt vậy đó.
- Cho dù bán một nồi cơm tấm, tôi cũng là bà chủ, thuê hai cô phụ việc, bưng cơm và rửa bát đĩa, không oai hơn ở đây sao? Mấy tháng nay nằm chèo queo ở nhà như một mụ vô công rỗi nghề, tôi chán quá rồi!
- Đằng nào em cũng đợi học tiếng Anh cho kha khá một chút mà, trước mắt có anh đi làm cũng tạm ổn rồi.
Chị vẫn hờn dỗi:
- Biết thế này tôi ở lại Việt Nam còn hơn, còn vụ thằng cu Tí, anh tính sao?
- Để mai anh sẽ tính.Thôi khuya rồi, ngủ đi em.
Sáng hôm sau anh theo cu Tí đến trường, hai cha con đứng ngoài cửa đợi hai thằng nhóc con kia đến, đó là một thằng Mễ và một thằng Mỹ đen, cả hai chắc cùng lứa tuổi Cu Tí, mà trông chúng to con hẳn, làm anh càng xót xa thương thằng con bé bỏng của mình.Khi chúng đi qua mặt hai cha con, anh đã nghiêm nghị nhìn chằm chằm vào mặt từng đứa một và không thèm nói gì, nhưng trong cái nhìn ấy đã làm hai đứa có tật giật mình và chột dạ, chúng cụp mắt lại, nhìn nơi khác và đi vội khỏi tầm mắt anh.Thế thôi, anh yên trí về nhà, phần còn lại là cu Tí. Ở Mỹ luật lệ rành rành, nếu không, anh cũng muốn hành động như ngày xưa cha anh đã làm.
Ba giờ chiều, anh đến đón cu Tí về, nó hớn hở khoe:
- Ba ơi con đã làm theo lời ba dặn, kể cho chúng nghe ngày xưa ông nội đã bênh vực ba, túm tóc, tát tai kẻ ăn hiếp ba.Nếu tụi mày còn tiếp tục ăn hiếp tao thì có ngày ba tao cũng hành động như thế, mà ba tao còn có võ nữa đấy. Hôm nay hai thằng đó đã không chọc con, không đánh con, mà còn sorry con nữa.

****

6 tháng nữa trôi qua, khoảng thời gian ngắn ngủi ấy cũng đủ thay đổi thêm trong gia đình anh Bông.Trình độ tiếng Anh của cu Tí tiến triển rất nhanh, trẻ con đầu óc còn trong sáng nên dễ tiếp thu ngôn ngữ, nó chuyện trò, giao lưu được với thầy cô, bè bạn nên tự tin hơn, không ru rú ngồi im một góc bàn như hồi mới nhập học nữa. Hai thằng bạn, từng hiếp đáp cu Tí, chẳng những đã bỏ hẳn thói xấu đó mà còn chơi với cu Tí nữa, vì cu Tí giỏi môn toán làm chúng nể phục.
Còn chị Bông, tiếng Anh ESL của chị cũng khá hơn một chút, chị lanh lợi nên đã nói và hiểu được vài câu thông dụng, vui nhất là chị đã thi đậu bằng lái xe. Nhớ hồi mới qua Mỹ, hai vợ chồng nhìn dòng xe cộ trên đường mà ngao ngán, chị sầu bi nói:
- Biết bao giờ mình mới lái xe được như người ta hả anh? Chắc mình phải mua một cái xe gắn máy hai bánh như ở Việt Nam để chở nhau đi làm, đi chợ thôi.
Lúc ấy anh biết trách nhiệm của anh lắm, bên cạnh vợ dại, con thơ, anh là con chim đầu đàn, phải giang cánh ra bao bọc, che chở cho họ, dù những khó khăn trong cuộc sống mới cũng làm anh va vấp, lo âu. Nhưng anh luôn tự tin vào ngày mai, lại vùng dậy, lại kiên trì,cố gắng, ngay tháng đầu tiên đến Mỹ, anh đã đậu bằng lái xe và xin được việc làm. Đúng như cha anh đã dạy phải có một nghề để nuôi thân, tay nghề thợ hàn của anh thuộc bậc cao ở Việt Nam , xin vô hãng Mỹ họ nhận ngay sau khi thử tay nghề. Bàn tay khéo léo của anh đã hàn nhanh lại đẹp nên các mặt hàng khách order đều đúng hẹn và không bị trả lại, công việc của anh có vẻ vững vàng.
Rút kinh nghiệm từ cuộc đời mình, anh Bông quyết chí lo cho thằng cu Tí, nó phải ăn học đàng hoàng, tới nơi tới chốn, đất Mỹ là cơ hội cho mọi người .Anh sung sướng khi thấy cu Tí học trong ngôi trường tiểu học to lớn đẹp đẽ, gấp mấy chục lần ngôi trường của anh khi xưa, mỗi khi anh đi lại trong thành phố, thấy những ngôi trường Trung học và Đại học, anh lại nôn nao nghĩ đến một ngày nào đó, cu Tí sẽ cặp sách bước vào.
Chị Bông đã được gọi đi làm, chị làm ở khâu đóng gói sản phẩm, công việc đơn giản, dễ làm. Sau 8 tiếng là về nhà, khoẻ re hơn nghề bán cơm tấm của chị ở Việt Nam nhiều, hồi đó chị đã phải dậy sớm nấu cơm, làm đồ ăn. Bán sạch nồi cơm lại lo đi chợ mua đồ để hôm sau làm tiếp.
Chỉ mấy cái check lương đầu tiên mà chị đã thấy sự chi tiêu trong nhà thoải mái hẳn ra, chị thôi không cằn nhằn, đay nghiến anh lúc nào mà không hay.
Hôm nay cu Tí đi học về, nó hí hửng đưa ra một món quà và réo ầm lên:
- Ba ơi, ba có biết món quà gì không?
Anh ngơ ngác chưa kịp đoán ra thì cu Tí tiếp:
- Cho ngày Father’s Day đó ba. Cô giáo ở trường chỉ con làm món quà này tặng ba. Con cám ơn ba đã nuôi con, đã thương yêu con.
Anh cảm động đến ngẩn ngơ, thằng con mới 8 tuổi của anh đã biết nói lên những điều mà cả đời anh chưa bao giờ và không bao giờ có dịp nói với cha anh.
Anh ôm cu Tí vào lòng:
- Ba thương con quá, như ngày xưa ông Nội đã thương ba vậy.
- Ba thằng cu Tí ơi!
Mỗi khi chị gọi anh bằng cái tên dài lòng thòng “Ba thằng cu Tí ơi” như thế, là chị bày tỏ lòng âu yếm, yêu thương anh. Tiếng chị dịu dàng tiếp theo:
- Nhân ngày Father’s Day đầu tiên trên xứ Mỹ, chẳng những cu Tí, mà em cũng cám ơn anh nữa, cho em xin lỗi những lần đã cằn nhằn, hành hạ anh. Đúng như anh nói, cuộc đời sẽ công bằng với chúng ta, khi chúng ta luôn cố gắng, kiên trì để vươn lên.
- Anh hỏi thật nhé, bây giờ em còn tiếc nồi cơm tấm nữa không?
Chị cười khì:
- Cực thấy bà! Ở Mỹ đi làm kiếm tiền đô khoẻ hơn, lẹ hơn, và điều quan trọng nhất là gia đình mình, thằng cu Tí nhà mình sẽ có một tương lai tươi sáng.

Nguyễn Thị Thanh Dương

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Jun/2018 lúc 7:59am

Tôi Cũng Có Một Người Cha

          Trên cõi đời nhiều hệ lụy nầy, ai được sanh ra cũng có một người cha ruột! Phải, chỉ một người cha ruột độc nhứt thôi! Trong gia đình êm ấm thì con cái có niềm thương nỗi nhớ an vui mật ngọt hưởng hạnh phúc từ cha mẹ anh chị em, gia đình. Người vô phước cha qua đời từ thuở bé, hay ly dị với mẹ, thì đứa con như mất một phần quan trọng suốt trong cuộc đời sống của mình. Như mọi người sanh ra trên thế gian nầy, tôi cũng có một người cha! Dù cha đang bị giặc cầm tù trong trại cải tạo, nhưng tôi cảm thấy mình hạnh phúc, hãnh diện, tự hào hơn với những đứa nhỏ chòm xóm có tiền được đi học, dư ăn dư mặc hơn anh em chúng tôi. Bởi vì cha tôi là một quân nhân trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, bị giặc cưỡng chiếm bắt làm tù binh! Cha tôi là một tù nhân Chánh trị.

     Má tôi là một phụ nữ trẻ an phận, chịu khó, chịu cực và có sức chịu đựng bền bỉ hơn những người đàn bà khác. Bà yêu quý ba tôi vô cùng dù ở vào bất cứ hoàn cảnh và thời cuộc nào! Các con và chồng là tất cả những gì trân quý nhứt bà có trên cõi đời nầy của má tôi.

Má tôi luôn ân cần chỉ bảo khuyên răn các con mọi thứ. Bà cùng nhỏ to dặn dò anh em chúng tôi luyện ý chí vững bền như những người trai hiên ngang đáp đền ơn đất nước như cha tôi và đồng đội của người... Cho nên tôi nguyện và hứa với lòng luôn nhớ kim ngôn của bà trong suốt cuộc đời nầy!

“………………….

Lời mẹ dạy con khắc ghi tâm trí

Học tốt làm người dân nước Việt Nam

Phải hãnh diện cha con tù Chánh trị

Dù đói nghèo không thẹn với lương tâm

………………………………………”

     Ngoài trời tối thui, nhà nhà ở xóm thôn còn chìm trong giấc ngủ say, khi gà mới gáy bận nhứt. Tôi được má đánh thức và kéo ra sàng lãng múc nước lu rửa mặt, lau khô rồi bà tròng vào tôi chiếc áo ấm nhiều miếng vá cũ mèm nặc mùi mốc lâu ngày không rớ tới. Nhưng mặc áo vào chỉ một chút thôi, thì tôi không còn nghe mùi nữa mà cảm thấy ấm áp… Đỡ hơn không có áo ấm trước cơn gió sáng còn đẫm ướt sương lạnh, mà chúng tôi phải mò mẫm đường làng, rồi bắc qua đường đồng đi trong đêm tối.

     Khi được đánh thức và rửa mặt cho tỉnh táo, nhưng tôi hãy còn sật sừ trong cơn ngủ. Má để tôi ngồi trong thúng đặt nơi đầu gióng trước… Còn mọi thứ đồ ăn khô, áo quần cũ, thuốc men… độn, nhét nhưng vẫn chàm vàm ở đầu gióng sau. Kẽo ka, kẽo kẹt trên vai gầy, bà gánh đi thoăn thoắt trên đường làng quê, băng qua cánh đồng khô đầy gốc rạ vào lộ đá.

     Chúng tôi sẽ đón đi từng chặng xe, có lúc đi bộ, ngồi xuồng qua vùng nước ruộng mênh mông. Mẹ con tôi đi thăm ba đang bị tù cải tạo ở đâu trong Vườn Đào, kinh Mười Hai, hay Đồng Tháp Mười chi đó… Bởi tôi đã nghe thấy má nhọc nhằn chuẩn bị, chắt mót những thứ cần thiết cho chồng từ mấy tháng trước, và gởi cho mợ Út hai đứa em kế tôi, vì chúng còn nhỏ đi xa bồng bế không tiện, và gió mái, rũi chúng bị bịnh thì khổ lắm!

     Mẹ con tôi hết sức vất vả vì đường xa, khi đi xe, lúc lội bộ qua quãng đường nắng chói chang, đồng mông hiu quạnh không cửa không nhà. Lúc được những người tốt bụng cho quá giang xuồng.

     Tôi được má khóac nước rửa mặt mày lem luốc vì mồ hôi, vì miếng bánh tét đỡ lòng dính đầy trên môi, trên mép miệng. Má tôi mồ hôi nhễ nhại nhưng tươi tình, niềm vui hiện rõ trên đôi mắt long lanh có nét buồn cố hữu của bà. Niềm vui đầy hy vọng đó đã đánh đổ mọi gian nan, khổ cực, lo âu hàng ngày… Nó mạnh mẽ vô cùng, như dưới trời nắng hạ cây lá đang héo xào, được tưới nước ngấm vào phút chốc sởn sơ tươi tắn trở lại… Đó là phát xuất bởi tình thương yêu chồng, lòng má tôi đang ngập tràn hạnh phúc. Vì trong chốc lát nữa đây, bà sẽ gặp lại mặt chồng con sẽ gặp lại cha sau bao nhiếu tháng năm xa cách.

     Chúng tôi chen chúc trong những người chờ đợi gọi tên vào thăm nuôi chồng. Má tôi choáng váng muốn ngã quị khi họ cho biết ba tôi đã bị chuyển ra Bắc từ mười ngày trước! Thế là má tôi trong niềm đau thương tận cùng dắt con lê thê lết thết trở về nhà.

     Hai mẹ con tôi trở về trong mệt mỏi vì đường xa, vì thiếu ăn, thiếu nước uống, buồn ngủ... Ngoài những thứ đó má tôi còn thêm tan nát cõi lòng! Người khóc suốt trên quãng đường về, lo sợ ba sẽ vùi thây nơi đất Bắc, không còn hy vọng trở về nữa! “Vì ai gây dựng cho nên nỗi nầy!” Ôi oan khiên, cay nghiệt, nỗi oán hờn của mẹ con tôi cao chất ngất trời xanh!

2562%201%20ToiCungCo1NguoiChaDTDB

     Lúc ba còn tại nhiệm (đi lính) nhà chúng tôi ở Sài Gòn. Dù không giàu có như những gia đình khác, nhưng gia đình tôi sống trong thương yêu và hạnh phúc. Ba tôi là một quân nhân có nghề truyền tin, mẹ tôi là cô thợ may lỡ vận! Bởi “Ngộ biến phải tùng quyền” học chữ nửa chừng ở năm Đệ nhị. Bà phải lòng yêu ba, theo tiếng gọi của tình yêu ông bà ngoại bắt mẹ tôi chọn một trong hai thứ: Bỏ học về làm vợ người ta, hoặc được cha mẹ giúp lo cho đi học tiếp tục đến nơi đến chốn như ý muốn.

     Theo tiếng gọi của tình yêu, má tôi bỏ học chữ, lấy chồng và đi học may để phụ ba tìm kế sinh nhai. Vì nghề may học nhanh không mất nhiều thời gian, dễ kiếm tiền nuôi gia đình hơn học các trường học nghề khác mà bà có thể thi vào được như là trường y tá, sư phạm…

     Để rồi sau đám cưới hai người sống tự lập với nhau. Trong khi bên ngoại tôi ở Bình Minh thuộc Cần Thơ, bên nội ở Sóc Xoài thuộc tỉnh Rạch Giá. Thật ra gia đình hai bên nội ngoại đều không hài lòng cho cuộc hôn nhân nầy, vì cả hai còn quá trẻ.

     Ba tôi ra Sĩ quan Thủ Đức, mới 23 tuổi, và má tôi cô nữ sinh Đệ nhị cấp trường Áo Tím Gia Long ở khoảng 18. Bên gia đình ông bà ngoại là thương gia giàu có trong vùng. Họ đã đặt nhiều hy vọng trong tương lai đầy hứa hẹn về đứa con gái yêu quý độc nhứt trong bốn đứa con, mà ba người kia đều là trai đã có gia đình.

     Nhưng cuối cùng hai bên cũng phải khuất phuc đành làm sui gia với nhau. Bởi trước tình yêu trong sáng và quyết liệt đòi chết đòi sống của đứa con gái, đứa con trai bất trị của hai bên!

     Má tôi chống đối với mọi người trong gia đình, kể cả ông bà ngoại là người có quyền huy tối thượng với các con. Nhứt quyết ưng lấy người má tôi yêu làm chồng, như thế thì phải biết tình yêu của má đối với ba tôi như thế nào rồi!

     Ba má ngoài tôi đứa con lớn, còn có hai đứa con gái nữa. Đứa nhỏ nhứt sanh tháng 10 năm 1975. Em gái út của tôi chào đời sáu tháng sau khi giặc tràn vào, và ba đã bị tù cải tạo! Lúc đó cái gì trong nhà bán được thì má tôi đem bán để sống qua ngày… Bởi không ai may đồ vì tiền không có mua gạo nấu, thì tiền đâu mà may sắm áo quần mới.

     Gia đình chúng tôi lâm vào cảnh kiệt quệ, má đưa các con về Bình Minh gần bên dòng họ ngoại, mong nhờ có sự trợ giúp lúc đầu, rồi bà sẽ may vá kiếm tiền nuôi con, chờ chồng trở về từ tù ngục cải tạo trở về.

     Gia đình bên ngoại lúc xưa đã hờn gận má chúng tôi, rồi bây giờ bà đem con cái về ngoại tá túc. Nên mẹ con chúng tôi không sao tránh khỏi dòng họ ngoại tiếp đón lạnh lùng, tẻ nhạt!

     Nhưng “Hùm dữ cũng không ăn thịt con” ông bà ngoại cho cất cái chòi sau vườn để mẹ con tạm che nắng che mưa đôi khi cho gạo, cho khoai, trái... Tôi thường theo má đi xúc cá, giăng câu, má tôi vất vả chạy ăn hàng ngày cho ba đứa con chỉ ăn, rồi phá chớ chưa biết làm gì để bà đỡ tay, đỡ chân cho bà…

-  Thời buổi bây giờ không phải như hồi trước, cây trái trong vườn, đâu còn như xưa nữa… Ruộng mấy năm mất mùa vì không đủ phân bón, lại bị sưu cao thuế nặng. Còn phải dòm chừng và coi sắc mặt của lũ 30 tháng 4 rìn mò, báo cáo để lập công… Mẹ con họ kéo cả bầy về ăn sập nhà sập cửa, chớ không làm gì lợi cả, thiệt là cái đồ báo hại…

Đó là những lời nói cố tình nhưng làm như vô ý của mợ Hai để cho má tôi nghe… Rồi mợ Ba cũng hùa theo nói bóng nói gió:

-  Ngày xưa cổ cứng miệng lắm, đòi sống đòi chết nếu không lấy được dượng ấy làm chồng. Và bảo sau nầy có cạp đất mà ăn, cổ cũng không trở lại để nhờ vả cha mẹ anh em… Bây giờ thì vác mặt về ngồi không mà ăn, còn lũ con thì phá làng phá xóm như quỉ phá nhà chay không ai chịu nổi…

     Chỉ có mợ Út thì cảm thông bà chị chồng sa cơ thất thế, thương xót mấy đứa cháu nheo nhóc cha là “Ngụy quân” phải đói khổ nhọc nhằn theo thời cuộc! Mợ thường lén mấy bà kia đem cho chúng tôi bánh trái, khoai, đậu có khi khô, khi cá, tôm cậu giở chà, giăng câu bắt được…

     Những lời dèm pha, chê bai của mấy bà chị dâu khiến má tôi đau buồn lắm! Nhưng bà phải cắn răng chịu đựng lì ra đó không một tiếng oán than, cũng vì chồng đang tù tội và các con còn quá nhỏ đã đến nước đường cùng! Chớ má tôi cũng có tự ái lắm chớ, bà cố gắng buôn bán để kiếm sống cho gia đình, nhưng thời cuộc đẩy đưa, lại không có vốn liếng… ăn nhiều hơn làm ra nên cứ thiếu trước hụt sau!

     Nền trời xanh gay gắt nắng, cao vòi vọi. Cây mận say trái hiên nhà lay động theo cơn gió thổi qua. Bông cam, chanh, bười tỏa hương bát ngát, và nhà bên kia rạch vang tiếng ru cháu ngủ trưa của bà Sáu Huệ “Ấu ơ… ơ… Đời người có mấy gang tay/ Tội gì cặm cụi cả ngày lẫn đêm…”  Rồi lanh lảnh, bà tiếp: “Ầu ơ…ơ... ơ… Chớ… Ông Cả ngồi trên sập vàng/ Cả ăn, Cả mặc lại càng Cả lo/ Ầu ơ…ơ…ơ Ông bếp ngồi cạnh đống tro/ Ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm…” Như cảm khái tình đời, giọng buồn ngủ của bà kéo nhừa nhựa, khiến người có tâm sự nghe thêm buồn chí xứ: “Một năm được mấy tháng xuân/ Một đời phỏng được mấy lần vinh hoa…Ầu ơ, ơ, ơ...”

     Cho dù thuở đó còn bé nhỏ, nhưng tôi thở dài cảm thấy như có vật gì đó đè nặng trên ngực mình! Và tôi mơ ước được bà tiên hiền lành ban phép cho tôi ngủ một đêm, sáng thức dậy bỗng dưng mình cao lớn như người đàn ông khỏe mạnh. Để tôi làm được mọi việc như vác mướn ở bến xe, bến tàu, đạp xích lô chở khách… để phụ má tôi nuôi em và có tiền đi thăm ba!

     Tôi ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới không hiểu biết gì nhiều, nhưng thấy má ngày càng hắt hiu và buồn bã, tôi cũng nghe lòng xốn xang buồn đau như má…

     Từ đó tôi rủ hay mấy đứa em lớn chạy theo bọn trẻ con hàng xóm, đi mót khoai người ta đào, đi mót bắp sau khi chủ vườn hái xong… Tuy không mót được bao nhiêu, nhưng ít ra cũng sẽ có một hai đứa trong anh em tôi sẽ được no ngày đó!

     Có một hôm ông bà ngoại gọi tất cả các con, các dâu. Ông bà ngoại các con ngồi ở nhà trên kế bên bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ! Lũ em tôi chạy giỡn với con mấy cậu, còn tôi đứng sát vách nhà có cái kẹt thỉnh thoảng liếc mắt len lén nhìn vào, nhứt là hướng về má tôi…

     Gia đình ngoại hàng ngày có ông bà, anh chị em ở gần nên gặp nhau mỗi ngày không có gì lo sợ. Nhưng hôm nay bầu không khí có vẻ trang trọng, khiến cho mọi người trong đó đều yên lặng e ngại nhìn nhau, chớ không nói lấy nửa lời…

     Mấy mợ ngoan ngoãn ngồi gần chồng im hơi lặng tiếng. Chớ gặp má tôi họ dễ gì để yên mà không: nói đon, nói ghen, nói thêm, nói bớt, nói cay, nói đắng, nói hơi, nói hám, nói gièm, nói bông lông, nói gio giảnh, nói chảnh, nói chua, nó dóc, nói khẩy, nói đổng, nói khích… để khinh khi, để gây chuyện, để chê bai mẹ con tôi!

Ông ngoại dụi tàn thuốc, hớp ngụm nước trà trầm ngâm một hồi, rồi lên tiếng bảo với các con:

-  Bây giờ thời buổi nhiễu nhương, nay đổi tiền, mai xét hộ khẩu… Ai có đất vườn, tiền của thì bị dòm ngó và sẽ không biết trước chuyện gì có thể xảy ra… Nhà có ăn món gì ngon cũng phải giấu, không dám nói gì đụng chạm đến “họ” vì sợ tai vách mạch rừng, ra làng xã báo cáo thì khổ lắm! Nay ba má cũng đã già nay đau mai yếu, làm ăn không nổi như lúc trước nữa, nên quyết định chia những gì cha mẹ đang có cho bốn anh em bây. Vốn liếng ba má không bao nhiêu, nhưng đây là của cải do sự lam lũ chắt mót cả đời của tao và má bây mới có. Ba má chia cho một lần thôi, của đứa nào thì đứa nấy giữ gìn để nuôi con và làm sanh lợi mà sống hết cuộc đời nầy…

     Cậu Hai, cậu ba, cậu Út mỗi người được năm mẫu vừa vườn và ruộng. Còn má tôi không nghe ông bà nhắc đến chia đất vườn. Nhưng má tôi không nói gì, mặt mày thẫn thờ ngồi yên đó, như tượng đá ngoài công viên gần nhà cũ của chúng tôi trên Sài Gòn!

Ông ngoại lên tiếng tiếp:

-  “Nhứt trưởng nam, nhì con út” Thằng Hai, và thằng ba được ra riêng, có căn cơ nhà cửa mấy năm nay. Thằng Út vẫn ở chung với ba má, giờ ba má giao cho vợ chồng Út cái nhà hương hỏa trên miếng đất vườn một mẫu rưỡi đang ở đây. Vợ chồng thằng Út có bổn phận phải cúng giỗ, và phụng dưỡng cha mẹ cho đến trăm tuổi già. Còn gia đình con Tư (má tôi) nó là em và chị bây, bị sa cơ thất thế, chồng tù đày không biết chừng nào mới được thả, con cái lùm đùm… Nay mẹ con nó ở tạm ngoài cái chòi đó, khi nào muốn đi đâu thì đi “Nữ sanh ngoại tộc” cha mẹ không khuyến khích bắt con cháu về ở đây và cũng không hất hủi đuổi xô…

     Mấy bà chị dâu của má tôi thiệt là nhỏ mọn, hẹp hòi hết chỗ nói! Họ có vẻ sung sướng, hả hê, khoái chí ra mặt... khi ông ngoại không chia vườn đất cho đứa em chồng đáng thương, chưa làm gì phật ý họ. Nhưng hai cái bà xấu xa mợ Hai, mợ Ba“Mợ dâu nấu đầu trâu lũng trả” đó luôn xem má tôi như cái gai trong mắt! Còn Hai ông cậu anh của má tôi làm thinh, miệng như đang ngậm trái bồ hòn, trước mặt con vợ không dám thở mạnh, không dám ho lớn... thì đừng nghĩ khếu nại nói giúp cho em! Chắc là sợ nói ra hai ông sợ vợ nầy sẽ bị chia bớt phần, về nhà sẽ bị vợ đánh tơi bời hoa lá?

      Bà ngoại ngồi đối diện với ông, nãy giờ không nói lời nào. Bà lắng nghe từng lời nói của chồng. Miệng nhai trầu bỏm bẻm, thỉnh thoảng phẹt nước cổ trầu vào ống nhôm, bà lấy cục thuốc xỉa lau qua lau lại cho sạch nước trầu dính môi, và khóe miệng. 

Bà ngoại  nghiêm giọng, bảo:

          -  Con nào cũng con, trai cũng như gái do tao chín tháng mang nặng đẻ đau… Tao với ổng nuôi bốn anh em bây khôn lớn cưới vợ gả chồng. Mấy đứa con trai tiền bạc luôn được bù đắp… Ba thằng con trai đều giống nhau, hồi mới cưới vợ về ở chung trong nhà, mà cha mẹ cho vợ chồng làm để tiền riêng. Còn con Tư cho một lần khi gả thì không cho nữa. Vì tao với ba bây không hài lòng về việc nó bỏ học đi lấy chồng quá sớm! Nhưng từ lúc lấy nhau đến ngày nay, vợ chồng con Tư chưa hề xin xỏ hay mượn chát cha mẹ thứ gì, và chưa làm điều gì khiến cho tao với ba bây phật ý. Gia đình người ta thì “Lá lành đùm lá rách/ Anh ngã em nâng/ Em ngã anh nâng” Còn ba anh em bây, từ khi con Tư thất thế dắt con về đây, có đứa nào cho mẹ con nó cọng rau, hay lít gạo chưa? Nó có lỗi là lỗi với tao và ba bây kìa, chớ không có lỗi gì với bọn bây hết… Đừng tưởng tao không biết, mấy con vợ tụi bây còn ganh tỵ rồi gièm pha, nói xiên nói xỏ nó nữa! Tao không phải là bà mẹ chồng xem con dâu là người dưng đâu. Đã cầm trầu cầm cau đi cưới bây về để nối dòng nối giỏi cho họ nhà nầy thì con dâu, con gái với ba bây và tao vẫn như nhau, không nghiêng về phía bên con gái hay con dâu!

     Bà ngoại ngừng lại uống hớp nước xúc xúc miệng cho sạch cổ trầu rồi nhổ vào ống lon. Còn mấy mụ mợ dâu tôi xụ mặt tẻn tò ngó xuống, không dám hó hé lời nào. Bà nói tiếp:

          -  Tao với ba bây hờn giận nó, tụi bây cũng hùa nhau xúm lại nói hành nói tỏi… Nó có nói câu nào, hay làm gì mất lòng vợ chồng bọn bây không? Tụi bây đứa nào giờ cũng có nhà cửa của cải riêng tư, và đã làm cha mẹ, con gái có, con trai có, “ăn bậy được, nhưng nói bậy coi chừng mang khẩu nghiệp!” Thời buổi bây giờ bớt nói lại một chút đi, và cố mà ăn hiền ở lành, gieo phước đức, để sau nầy con cháu được nhờ. Không chia vườn đất cho con Tư như mấy anh em bây vì nó là thợ may, ở thị thành, không biết chi về ruộng rẫy, chèo ghe, bơi xuồng… Tao với ba bây đã quyết định rồi, sẽ cho mẹ con nó căn nhà bên Cầu Chữ Y trên Sài Gòn. Ngày xưa mua nhà trên thành thị vì ở thôn quê không an ổn, nên định dời gia đình về đó ở. Sống ở quê gần nửa cuộc đời, đâu phải nói dời ra thành thị ở thì dễ. Dần dà nhà đó đến giờ vẫn cho người ta mướn. Tháng trước người mướn kêu trả nhà lại, vì họ bảo đất nước hòa bình (sau 30 tháng tư) đem gia đình về quê trồng tỉa mà sanh sống.       

Nói đến đó bà ngoại tôi cưởi mỉa, dừng lại rồi dịu giọng:

          -  Hồi “mấy ổng” chưa vào, hết giao kèo cho mướn, mình đòi nhà lại cho thêm tiền, nhưng họ không chịu trả nhà. Họ còn năn nỉ tự động tăng thêm tiền mướn mỗi tháng… Giờ đây chủ nhà không tốn một đồng nào cho họ cũng dọn đi… Họ còn bảo: “Bây giờ hòa bình rồi, cho dù về quê có cạp đất ăn cũng vui” Tao nghĩ rồi, họ sẽ không có đất để cạp nữa...

          Ông ngoại tôi chép miệng thở dài, héo hắt:

-  Đổi đời, đời đổi! Rồi đây tấc đất tấc vàng như ông cha đã nói “Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang/ Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu” Để mà coi, cái gì cũng lên vùn vụt như thăng thiên, và nhà cửa ở thị thành giá cả cũng sẽ lên cao ngất trời xanh… Người phương Bắc mấy mươi năm dưới chế độ Cộng sản bị nhồi sọ, trở thành dại dột, lòng tham và tự mãn chiến thắng! Họ tràn vào sẽ phá tan hoang cái tươi đẹp, văn minh của miền Nam và ủy diệt cả niềm tin và hy vọng của tuổi trẻ, trên cái đất nước đã mấy ngàn năm do ông cha gầy dựng đắp bồi...

          Ôm vai bà ngoại, má tôi sụt sùi nghẹn ngào:

          -  Xin lỗi, con vô nghì bất hiếu không nghe lời cha mẹ, đã khiến cho ba má đau lòng. Vậy mà từ bấy lâu nay con cứ tưởng ba má không còn thương đứa con nầy nữa! Xin lỗi ba mà, con xin lỗi...

          Các cậu mợ tôi như thấm lời bà ngoại, nét mặt ai nấy trở nên bùi ngùi cảm động! Những gút mắc ganh hờn, tỵ hiềm giữa chị dâu em chồng giờ như tan biến dần trong lòng mọi người!

     Ngoài trời đẹp trong màu nắng lụa chang chang. Mấy con chim khách bay rèn rẹt rượt đuổi nhau véo von mé hiên nhà trên. Cây cối vườn tược sởn sơ sau cơn mưa đêm qua, giờ đây lá xanh biêng biếc, tươi rói phơi phới. Lá cành lay động va chạm vào nhau âm thanh rào rào, theo cơn gió thổi qua mát rượi bêb ngoài, và thấm mát cả lòng người. 

2562%202%20ToiCungCo1NguoiChaDTDB

     Tháng sau mẹ con tôi thu dọn căn chòi cụ bị mọi thứ, trở lại Sài Gòn nơi căn nhà mới của ngoại cho. Cũng nhờ các cậu mợ giúp đỡ chuyên, gạo, nếp, mỗi người một ít tiền mặt gom góp lại giúp má tôi số vồn kha khá để tạm thời buôn bán nhỏ để kiếm cơm qua ngày khi mẹ con tôi trở lại sài thành củi quế gạo châu sau ngày Việt cộng chiếm toàn lảnh thổ.

     Căn nhà ông bà ngoại cho ở vùng Rạch Ông, bên kia cầu Chữ Y. Tôi ở nhà giữ hai em, sáng sớm má đã qua các chợ chồm hổm mua hàng đầu chợ bán cuối chợ kiếm sống qua ngày. Xế chiều về có khi kiếm được lít gạo, mớ khoai, rau héo, miếng thịt cũ, mớ cá ương… là anh em tôi tíu tít vui mừng có bữa ăn chiều ngon hơn bữa giỗ đầy sơn hào hản vị của người có tiền!

     Trong từng ngày lại ngày qua, nhờ má chắc chiu mà gia đình tôi sống lây lấc trong hy vọng và mong đợi có ngày cha trở về. Một hôm được thư ba gởi ở nơi nào đó ngoài đất Bắc, má hỏi thăm người ta mới biết là vùng rừng sâu Bắc Việt! Từ nhà chúng tôi phải mất mấy ngày đường mới đến nơi ba bị cầm giam mà thăm viếng… Má tôi thật vất vả trăm chiều, thân cò lặn lội vừa nuôi con, vừa chắt mót tiền đi thăm chồng. Phải dành dụm gần sáu tháng sau, má mới có lộ phí và cụ bị thuốc men, thức ăn khô, và một vài thứ cần thiết đi thăm nuôi ba!

     Lúc má đi thăm nuôi ba, thì bà ngoại lên trông chừng chúng tôi đâu gần nửa tháng. Má trở về như một xác ve sầu khi trời đã sang thu. Vì đường sá xa xôi đói ăn thiếu thuốc men và khổ tâm cùng nỗi khổ của ba tôi! Bà nằm liệt giường cả tháng trời tưởng như không sao qua khỏi. Bà ngoại vừa sắt thuốc cho con vừa lau nước mắt… Nhờ Ơn Trên hộ độ và tình thương yêu chồng con mảnh liệt và đầy niềm hy vọng ba trở về nên bà mới sinh tồn.

      Vừa ngoắc ngoải là má tôi ra chợ buôn bán. Ngày ngày bà dầm sương dãi nắng bươn chải từ mặt chời chưa lên cho đến đỏ đèn mới trở về nhà. Nhưng gia đình mẹ con tôi vẫn thiếu trước hụt sau, ăn bữa đủ bữa thiếu! Anh em tôi đã quá tuổi đến trường, nhưng không có tiền và liên hệ cha là “ngụy quân” nên không trường nào cho vào học. Đêm, đêm má dạy kèm ở nhà, mong cho chúng tôi biết đọc biết viết là đủ rồi…

     Những tháng năm lặng lẽ trôi qua trong sự nghèo túng và buồn khổ của gia đình. Ba tôi vẫn còn ở tù cải tạo chưa được thả, má tôi vẫn hàng ngày như mọi ngày buôn bán ở chợ và lai rai đêm về may đồ, lên trôn quần áo cho những bạn hàng chợ quen biết.

     Tự cổ chí kim, xã hội nào cũng vậy, có người tốt kẻ xấu, nhưng dưới chế độ Cộng sản kẻ xấu nhiều quá! Nhiều vô số kể, cái tốt khó học cái xấu dễ nhiễm. Người miền Nam tốt “Lễ, nghĩ. hiếu, trí, tín,…” cũng tiêm nhiễm thói hư tật xấu rất nhanh của người ở miền Bắc chế độ Cộng sản từ bấy lâu nay. Có nhiều môi trường cám dỗ về vật chất thích hợp để cho người đàn bà cô đơn, thiếu thốn đói nghèo như hoàn cảnh má tôi sẽ dễ dàng bị sa ngã. Nhưng má tôi là một phụ nữ chắc dạ, đảm đang, kiên tâm cắn răng chịu đựng nhờ vào tình thương con, chung thủy với chồng… Đức tánh nầy của má, là khuôn vàng thước ngọc để cho anh em chúng tôi răm rắp noi theo với lòng kính phục và thương yêu vô cùng!

       Đôi năm sau, anh em tôi sáng sớm biết phụ má đẩy xe ra chợ, và dọn hàng ra sạp để bán. Có khi nhanh chân ra phụ má dọn hàng về sớm hơn mọi hôm, vì mây khói đèn bốn phương ùng ùng kéo tới che kính bầu trời, sấm chớp liên hồi. Cơn gió mạnh ào ạt thổi qua hốt lều chỏng ở chợ nghiêng ngã, bay tứ tung, lá khô giấy tạp bay bổng lên rồi long lóc tấp trên hàng rào bên đường, dưới gốc cây bã đậu, hoặc cột đèn... Thế là nhờ nhanh tay mẹ con tôi tránh được cơn mưa như trút nước, mưa như cầm chĩnh mà đổ.         

     Chúng tôi chạy về đến cửa nhà thì mưa rơi như trút nước! Mưa càng lúc càng nặng hột, gió thổi ào ào quằn quại nhánh cây liễu, cậy mận sau hè... Còn cây chùm ruột tét nhánh, trái rơi rụng nằm lềnh khênh đầy đất. Má tôi lật đật đến bàn thờ thắp ba nén nhang và lâm râm khấn nguyện gì đó không nghe. Nhưng tôi chắc chắn một điều, đó là lời cầu xin cho sự an bình của anh em chúng tôi và ba sớm được thả về từ tù cải tạo…

     Mưa đã đời rồi cũng tạnh, mây đen kéo đi, nhưng hoàng hôn đà tắt nắng. Mặt trời chiều đã lặn và phố sá sau cơn mưa mát mẻ đã lên đèn. Những bóng đèn mắc trên cột cao nghều nghệu vàng võ như đèn ma trơi. Nước mưa dưới đường vẫn tiếp tục chảy ào ào xuống vùng đất thấp, lỗ cống... Nước chảy không kịp tràn trên mặt đất, lỗ cống lớn cũng bị nghẹt bởi giấy lá, rác rến… Nước đọng linh láng như cái hồ, vậy mà cũng có mấy đứa trẻ con hàng xóm đến bơi lội bì bõm, đùa giỡn trong vũng nước đen ngòm ngòm thấy mà ghê!

     Sau khi ăn cơm dọn dẹp xong thì má đi tắm, còn anh em tôi chong đèn đọc bài, tập đồ, tập viết… Tôi chợt thấy hình rùn mình vì gió lạnh ảnh hưởng cơn mưa vùa qua, vừa sợ vì hình như có bóng ai thoáng qua ngoài song cửa sổ? Nhìn kỹ như hình nộm của thằng bù nhìn canh ruộng lúa, vì nó khô đét ốm còi cọc vào cao lêu nghêu! Rồi tôi giựt bắn người lên vì tiếng gõ vào cửa lệch lạc từng tiếng như không đủ sức… Thay vì chúng tôi cùng chạy đến mở cửa lại chạy ào vào trong, tôi e dè sợ sệt thì thào với mẹ:

          -  Má à, có ma đánh bộp bộp vào cửa nhà mình! Tụi con sợ quá chạy vào đây… Má có sợ không, hãy ra coi đi má…?

          Má tôi với lấy đèn cóc treo trên vách nhà đi ra. Anh em tôi len lén theo sau mà mắt láo liên, tưởng chừng có con quái vật nép đâu đó sẵn sàng chụp lấy chúng tôi! Đến cửa má tôi đứng yên xem coi có động tịnh gì không? Bà vừa mở chốt cửa vừa càm ràm tôi:

          -  Tụi bây thì lúc nào cũng vậy! Bậy bạ không hà thiệt anh lớn gì tệ quá đi, con là trai sao mà nhát gan nói ma chi làm cho hai em sợ…

          Cánh cửa bật mở, có một thây người ngả bổ vào người má tôi. Hai đứa em chạy vào buồng trốn, còn tôi cũng giựt nẫy mình thụt lùi về phía sau.

Tiếng thảng thốt của má tôi:

-  Trời ơi, anh đã về, anh về rồi… Lẹ, lẹ phụ má đỡ ba lên giường mau lên, mau lên các con… 

     Không ngần ngừ phản ứng, tôi nhào tới cùng má lôi đỡ ba lên cái đi-văng kế bàn ăn cơm gần đó… Ba tôi ư ử, tay chân cựa quậy đôi, miệng kham kháp như hụt hơi đòi nước…

     Má tôi rót tách trà ấm, đỡ đầu kề sát vào miệng, ba tôi hớp từ hớp nước và lần lần tỉnh táo lại. Ba yếu đuối thờ thẫn nhìn quanh nhà không nói lời nào.

Vuốt tóc anh em tôi, ông như nén nghẹn ngào thổn thức:

-  Các con bây giờ đã lớn đại hết rồi. Ba thật vô dụng để mẹ con đói khổ rách rưới! Từ rày ba sẽ cố gắng làm việc lo cho má và các con…

     Bất ngờ không định trước ba về, khiến má tôi vui mừng nghẹn ngào không nói nên lời. Bà lính quýnh chạy tới chạy lui, không biết làm gì? Rồi như cười cho chính mình, như sực nhớ bà vội lấy khăn nhúng nước đem đến cho ba lau mặt.

-  Anh về em không hay biết gì hết! Thiệt không thể nào tin được, mừng quá nên em quên đầu quên đuôi hết trọi. Em đã bắt lên bếp nấu om cháo, anh ướt mem chắc là vì trận mưa vừa mới tạnh? Để em đi nấu nước anh tắm cho khỏe rồi ăn nghe, dầm mưa lạnh lẽo phải ăn gì lỏng và nóng cho ấm bụng, kẻo bị bịnh thì khổ lắm…

          Ba nhìn má cảm động, mắt ông đỏ:

          -  Về đến nhà gặp em và các con thì anh cảm thấy khỏe rồi. Thôi lấy áo quần để anh đi tắm, khỏi cần phải nấu nước nóng làm chi…

          Sao nở rộ trên trời đêm quang đãng sau cơn mưa. Nước mưa còn đọng trên cành cây kẽ lá rơi lộp độp khi cơn gió thổi qua mát rượi! Vầng trăng trong mười bảy đã lên, tỏa ánh sáng xuống muôn loài, trùm phủ ngôi nhà tràn đầy hạnh phúc của chúng tôi!

          Ba về nhà tôi thêm người, gia đình vui vẻ hạnh phúc dù vẫn thiếu trước hụt sau. Má tôi vẫn ra bán chợ mỗi sáng, ba theo giúp nhưng bà không cho, nhẹ giọng thương cảm nói với chồng:

          -  Mười mấy năm anh vất vã khốn khổ qua nhiều rồi. Mới về, anh cứ ở nhà chơi và chỉ dạy con, chúng thiếu tình thương của cha bấy lâu nay. Tạm thời để em ra chợ buôn bán như cũ và xem tình thế ra sao rồi sẽ tính…

          Ba tôi quen siêng năng, tháo vát làm việc từ ở trong quân ngũ, rồi bị tù đày vật vả, cực nhọc vô cùng… Giờ đây không làm gì giúp đỡ vợ con, ông cảm thấy mình là người vô dụng… nên có vẻ không bằng lòng! Nhưng rồi ba cũng miễn cưỡng gật đầu ở nhà chăn mấy đứa con và làm tất cả những việc lặt vặt trong nhà như nấu ăn, giặt giũi, tắm rửa con cái…

     Nhưng mặc cảm trong lòng ba tôi lớn dần, dù má tôi là người phụ nữ hết sức tế nhị về ngoại giao bên ngoài và nuông chiều chăm sóc ba tôi rất mực… Miếng thịt béo, con cá ngon, rau cải tươi… lúc nào cũng để dành cho ba nhiều nhứt.

Trên mâm cơm, má tôi thường bảo:

-  Cha con cứ ăn no đi, đừng để dành… Tôi đã ăn ngoài chợ bây giờ hãy còn no nên không muốn ăn…

     Đó là cái cớ má tôi nhường chồng, nhường con no đủ qua bữa! Để nửa đêm bao nữ bào bọt hoành hành, bà lén bưng nồi ra sau nhà cạo cơm cháy mà nuốt cho đỡ đói!

Khi ba vắng nhà, má thường thỏ thẻ nói với anh em chúng tôi, bằng những lời phát xuất từ trong đáy lòng bà:

-  Ba các con là một anh hùng trong lòng má, một người đội trời đạp đất, như bao nhiêu người trai khác có lý tưởng ở miền Nam. Họ hy sinh tuổi thanh xuân, đem thân mình ra đánh đuổi giặc… giúp nước nhà, cho gia đình có cơm ăn áo mặc, cuộc sống thành thơi, trẻ con cắp sách đến trường… Tội nghiệp ba các con, ý nguyện chưa đạt thành thì sa cơ thất thế bị giặc bắt cầm tù đày ải dở sống dở chết. Khi trở về ổng mất tất cả, chỉ còn mẹ con chúng ta là niềm vui, niềm hy vọng duy nhứt của ổng thôi. Các con phải thương yêu ba, kính hiếu với ba, nghe và đừng bao giờ trái lời ba, đừng làm điều gì để ba buồn lòng nghe chưa…

     Anh em chúng tôi vâng dạ, lòng đầy niềm kính yêu cha lẫn mẹ. Là đứa con trai độc nhứt và là đứa con cả của gia đình, tôi nguyện với lòng sau nầy lớn lên sẽ làm việc gì đó để trả hiếu cho cha mẹ, và giúp đỡ hai em…

2562%203%20ToiCungCo1NguoiChaDTDB  

     Ba tôi được ra khỏi tù cải tạo thắm thoát đã sáu tháng. Thật là làm khó nếu không để ông ra ngoài bươn chải phụ má tôi kiếm sống cho gia đình. Ba tôi khổ tâm trước thời cuộc tranh giành, dối gian, lường gạt của chế độ… Đã  bế tắt con đường sống ở tương lai cho những người đồng cảnh ngộ như ông!

     Thế rồi ba tôi ra ngoài làm đủ thứ việc, làm đủ thứ nghề. Ông bán vé số, bán thuốc lá, bán đậu phộng rang trước các rạp hát, kéo xe đẩy trái cây cho các vựa, đạp xích lô… Nỗi đớn đau nhen nhúm trong lòng ông ngày càng thêm lớn khi ông nghĩ về quá khứ, và sự sống quá thiếu thốn khắt nghiệt ở hiện tại đôi lúc làm ông muốn nghẹt thở! Ông đành phải ngậm đắng nuốt cay nhẫn nhịn cầu nguyện hy vọng có một ngày…

     Sự chờ mong và hy vọng làm cho người ta phấn chấn. Và theo tháng ngày dài thời gian qua lại qua, ba tôi đã trở thành một phu xích lô chuyên nghiệp.  Ông lanh lợi chẳng thua kém ai trong việc bắt mối đưa rước khách, chở hàng… Sau mỗi ngày trả tiền mướn xe ông còn đem về được chút ít phụ má cải thiện việc ăn uống của gia đình khá hơn, không phải ăn độn khoai bắp mà đôi khi còn có thêm thịt cá… Chúng tôi dù thiếu thốn, nhưng vẫn còn hơn rất nhiều những gia đình khác có cùng cảnh ngộ.

     Má tôi biết xoay sở, an phận, chịu khó, chịu đựng, ba tôi siêng năng, còn sức khỏe và có công việc để làm. Ba tôi không phải ăn không ngồi rồi nhàn rỗi để nghĩ suy viễn vông trong thất chí, rồi sanh ra nhiều thứ bịnh mà bạn bè của ba có người đã mắc phải như trầm cảm, lãng trí, hoặc ảo tưởng…

     Cứ mỗi khi phố xá lên đèn, biết ba về trể nhưng má vẫn chờ, để hong cơm và thức ăn nóng lại cho ba. Như mọi hôm đi bán về, má tôi ngồi chờ ba, vì từ chiều mưa rỉ rả rồi mưa nặng hột nổi bong bóng dai dẳng cả mấy giờ mà vẫn chưa tạnh. Má ngại ba bịnh, vì trong lúc nhà vẫn thiếu trước hụt sau mà mang bịnh, dù nặng hay nhẹ ở thời buổi nầy cũng khổ lắm!

     Mưa tạnh lâu rồi ba vẫn chưa về má lo ngại ra đầu đường ngóng chờ ba. Ba trở về quá nửa đêm trong cơn say rượu…Tiền bạc đạp xích lô cả ngày không còn một “ten” dính túi. Má lo lắng lấy nước rửa mặt thay bộ đồ ướt cho ba… Ba lè nhè trong cổ họng trách hờn trời đất, thiên hạ rồi xoay qua chưởi bới đánh đập má tôi… Lúc đầu má tránh né, giựt cây, rồi chạy trốn chớ không dám cãi cọ, vì sợ chòm xóm hai bên nhà cười chê.

     Được mợi, từ đó đôi ngày ba lại mượn rượu về hành hạ má tôi dần dà riết thành thói quen! Đêm nào về đến nhà ông cũng đập đồ đạc, chưởi bới má, chúng tôi đang ngủ, bị lôi đầu dậy đánh đập… Cho nên sau đó, hễ thấy dáng ba về là anh em chúng tôi đứa tìm chỗ trốn… Vì ba thấy đứa nào thì gặp chổi lông gà, cành tre, nhánh cây… gì cũng dùng nó đánh túi bụi vào anh em tôi không cần có lý do! Và má tối mỗi tối vẫn chông đè chờ ba về…

     Nhẫn nhịn đến mức độ nào thôi… Một hôm trong lúc ba rượt đánh chúng tôi… Má vội bưng lấy thau nước dùng hết sức mình tạt vào mặt ba, mặt má tái xanh, run lập cập nói như hét:

-  Tôi chịu hết nổi rồi, chuyện gì mà mỗi ngày anh đều mượn rượu về hành hạ vợ con? Mẹ con tôi có nói hay làm gì phật ý anh không? Sao lúc nào anh cũng kiếm chuyện và gây khổ cho gia đình như vậy? Trời ơi, xin tôi được chết cho rồi, chớ gia đình như địa ngục như thế nầy hoài thì làm sao sống nổi đây hỡi trời…

     Có lẽ tìm không ra lý do để chưởi nữa, ông rượt đánh khiến đứa em út tôi sợ quá lăn đùng ra xỉu… Trời ơi, như vậy mà má tôi cũng cắn răng chịu đựng, và lúc nào ba vắng nhà, thì bà to nhỏ dặn dò khuyên bảo:

-  Các con đừng giận ba, ba thương các con lắm… Nhưng vì giờ đây ba thất chí đau buồn nên ổng quạo quọ, la hét như vậy rồi thôi… Không có gì đâu, dần dần rồi ổng sẽ hết các con phải thương mà đừng giận ba nghe.

     Má nói gì thì nói, nghe lời dạy chúng tôi làm thinh không trả lời. Nhưng anh em tôi sợ và ghét ba vô cùng, bọn tôi to nhỏ thì thầm với nhau “…Nếu ba mình đừng bao giờ trở về nhà thì có lẽ tốt hơn…”

     Trước sự cai trị tham ô, khắc nghiệt, và vô nhân của giặc. Nhưng dân cũng len lỏi mua vùa, bán giựt, chạy áp-phe để kiếm sống. Các cửa tiệm ngoài chợ cả tháng nay bổ nhiều mặt hàng về bán trong dịp Tết Nguyên Đán.

     Dù ba tôi luôn vô cớ hành hạ vợ con, nhưng má tôi vẫn một mực hết lòng hết dạ lo miếng ăn giấc ngủ cho chồng con. Bà nuôi được mấy con gà mà cậu út cho các cháu, từ khi chúng mới nở chừng mươi ngày, nay cũng đã lớn đại. Má đính để dành nấu cúng ông bà và gia đình ngon miệng trong những ngày Tết Nguyên Đán sắp tới, mà con gà trống biết gáy ó o và kè kè vòng vòng de mấy con gà mái. Còn con heo má tôi định qua Tết chờ lớn thêm một chút, bán được tiền đễ châm vốn, mở rộng việc mua nhiều mặt hàng bán trong năm tới, và nguyện cầu Phật Trời phù hộ khám khá hơn những năm qua…

     Nhưng sáng hôm đó má ra chợ bán như mọi khi, ba tôi dắt người lái heo đến cân heo rồi chở đi! Nhà không có con heo, mấy anh em tôi như thiếu đi một bạn nhỏ, ục ịt chạy rược mấy con gà trong sân, hoặc nghe tiếng má tôi là nó la eng ét đòi ăn…

     Chiều tan chợ về, má chưng hửng, đi nhanh ra sân sau tìm kiếm không thấy con heo… Thì ra bà không biết gì về vụ ba bán con heo? Má tôi chỉ còn nước chép miệng thở dài rồi lấy khăn lau nước mắt, và ôm ba anh em tôi cùng nhau thút thít khóc…

     Ngày bán heo, ba tôi đi luôn đến cả tuần lễ sau mới trở về. Lúc đó là chiều ba mươi Tết, ba xách về khoảng hai ký thịt heo, trà, bánh, trái, và rượu được gói giấy kiếng trong màu đỏ đẹp lắm… Má tôi không hỏi hang và nói gì về con heo như là: Cân nặng bao nhiêu ký, bán được bao nhiêu tiền, tiền đâu, và hổm rày anh ở đâu, không về? Má làm thịnh, lật đật lo xào, kho, chiên, nấu… với những thứ rau cải, đậu, cá… đã mua về nấu cúng ông bà ba ngày Tết và để cho gia đình ăn.

     Tiếng pháo chuột lẹt chẹt của những đứa cha mẹ có tiền ở đầu trên xóm dưới đang đốt chơi ngoài đường! Trời đêm ba mươi thật tối đen, tối như nhuộm mực, nếu ai đứng cách chừng một thước chắc chắn sẽ không thấy, thì đừng nói là nhận được người đối diện đứng xa hơn. Ngoài đường xe cộ cũng ít đi, vì ai nấy hôm nay buôn bán xa gần gì cũng thu xếp về sớm để cúng rước ông bà.

     Có lẽ mai là ngày Tết, hôm nay ba về không say rượu, không chưởi má, không đánh chúng tôi là tốt quá rồi chắc năm mới sẽ vui vẻ và may mắn… Mấy chị em tôi biết thân phận ăn xong phụ má dọn dẹp thì rúc vô chỗ ngủ của mình…

     Bàng hoàng sực tỉnh ngủ, các em ôm chầm lấy tôi vì sợ hãi, vì cùng nghe tiếng khóc lớn của má! Chúng tôi như nín thở, sợ lại bị ba lôi anh em tôi ra đánh chạy nọc như những lần trước…

Má nói gì với ba chúng tôi không nghe rõ, nhưng tiếng ba hét: 

-  Tiền bán con heo hả? Tôi đã đánh bài thua hết rồi… Tôi muốn có thêm tiền, nhưng xui xẻo chớ bộ tôi muốn thua sao? Vợ con thật chán, không bao nhiêu tiền mà cằn nhằn khóc lóc… Tôi thật mù mắt và hối hận ngày xưa sao ưng lấy bà? Tôi chưa chết, thôi bà cứ khóc cho đã, tôi đi đây và từ rày sẽ không về cái nhà như địa ngục trần gian nầy nữa…

     Tiếng kót két mở cửa của bảng lề khô dầu, cùng tiếng ầm đánh xầm đóng lại! Ba đi rồi, mẹ con tôi ôm nhau khóc! Bên ngoài đã đến giờ Giao thừa, dù không có tiếng pháo đì đùng chào đón Tết. Nhưng theo gió xuân, mùi hương đăng trà quả khói nhang, bánh, trái, bay tỏa trong đêm trừ tịch…

2562%204%20ToiCungCo1NguoiChaDTDB

     Ngày mùng ba Tết ba tôi về chừng nửa buổi rồi lại đi! Mỗi lần về ông lầm lì ít nói, má tôi hỏi đến đâu thì ông nói đến đó, ông bảo sống ở nhà một đồng ngũ ngày xưa, cùng chạy xích lô như ông. Ba tôi bảo muốn thay đổi không khí, sống xa gia đình thời gian rồi ông sẽ trở về… Má tôi cam chịu, không than oán, hay trách hờn ba! Đến nước nầy mà má tôi còn khuyên bảo các con: “…Vì cha bị tù đày khổ cực nên đôi khi tánh tình thay đổi, chớ ba thương gia đình lắm…”

     Ba tôi vẫn đi đi, về về như người quen đến thăm. Ông để gánh nặng con cái ngày càng lớn cho má lo và không hề hỏi gì đến chúng tôi! Rồi có một hôm ba về nói cho má biết, là muốn đem gia đình vượt biên rời chốn hắc ám quỉ quái đau khổ nầy!

     Thế là má tôi bán nhà đang ở được hai chục (20) cây vàng, thuở đó vào năm 1980. Ba tôi đem vàng chồng cho chủ tàu thay tiền lộ phí hết mười tám (18) cây cho hai người lớn và ba đứa nhỏ! Bao nhiêu âu lo lẫn vui mừng và hy vọng chan chứa trong tâm hồn má tôi vì tương lai của chồng con, bà cũng muốn rời khỏi chốn nầy!

Nhưng linh tính cho riêng tôi biết rằng, sắp có chuyện long trời, lở đất không may xảy ra cho gia đình chúng tôi!

     Nhưng má tôi lại nghĩ, bước chân xuống ghe vượt biên, nếu có chết thì cả gia đình cùng chết. Nếu vượt thoát thì ba tôi thoát được cảnh khổ ở nội tâm ông bị dằn dật suốt thời gian đi tù cải tạo về đến giờ. Ba má qua bên đó sẽ đi làm lo cho tương lai của ba anh em tôi. Mười tám cây vàng đổi lấy hạnh phúc gia đình và tương lai tươi sáng cho chồng và ba đứa con, quả thật là xứng đáng lắm! Với thân mình gầy đét, tiều tụy vì vất vả nhọc nhằn, thiếu ăn thiếu mặc của má tôi. Nhưng nét mặt của bà mấy hôm nay rạng rỡ, ánh mắt long lanh vì trong long bà đầy niềm vui và niềm hy vọng.

     Tâm hồn má tôi lúc đó phấn khởi vô cùng. Lòng bà như được ướp mật ngọt, như trời nắng hạ được cơn gió thổi qua, như người chết chìm với nắm được cái phao, như uống gáo nước mưa thấm dạ mát lòng trong cơn khát. Trong lòng má tôi lúc bấy giờ cả một bầu trời thênh thang, rộng mở như lót đầy hoa thơm cỏ lạ, đầy chân thiện mỹ, đẹp đẽ thật đáng được yêu, và đáng quý vô cùng…

     Ba tôi hẹn chiều ngày đó sẽ về đón mẹ con. Chúng tôi mỗi người hai bộ đồ cho vào túi nải hồi hộp đợi chờ! Bốn mẹ con sống trong âu lo và chờ đợi, sợ đến nỗi con chuột chạy qua, con mèo cắn lộn bên ngoài cũng điếng hồn điếng vía… Vì nếu ai đó vô tình biết được đi mật báo với kẻ thù (Việt cộng) hoặc bọn chúng phác giác gia đình sắp vượt biên thì sẽ tàn đời, thì mất tất cả và còn lâm vào vòng lao lý…

     Nhưng một ngày, rồi lại hai ngày, ba ngày, cả tuần lễ trôi qua chúng tôi vẫn không thấy bóng dáng ba đâu? Ba vẫn chưa trở lại đón mẹ con tôi, và cũng đã đến ngày phải giao nhà lại cho chủ mới!

     Me con tôi ôm gói ra khỏi nhà đi lan than, đói khát, nắng mưa… Trời ơi, có đọan trường nào hơn? Cả tháng mẹ con tôi sống ngoài mưa gió, lúc gầm cầu lúc ngủ trong những sạp bán hàng ngoài chợ… Và cơ duyên đưa đầy, chúng tôi trôi dạt ghé tịnh xá gần Sa Cảng Miền Tây xin ăn trong dịp những ngày lễ cúng… Nhờ vào từ tâm của ni sư, mẹ con tôi được bữa cơm ngon chưa từng có, cơm gạo đỏ độn khoai mì với những món đơn sơ rau lang luộc chấm tương chao, và đồ la-ghim xào, kho, nấu… của bạn hàng bán ế chợ đem tặng cho chùa…

     Trong lúc phụ dọn dẹp rửa chén bát, ni sư hỏi ra má tôi là người cùng thôn với thân sinh của bà. Thương hoàn cảnh mẹ con tôi, ni sư cho ở nhờ trong một cái am bỏ trống lâu ngày phía sau tịnh xá.

    Má tôi lại trở về nghề cũ sáng sớm đi mua đầu chợ, bán cuối chợ… Anh em tôi hàng ngày phụ giúp ni sư làm những chuyện lặt vặt mà sức chúng tôi có thể làm được, như xách nước giếng, ôm củi, quét lá, nhổ cỏ, tưới cây… Chúng tôi được ni sư cho ăn no đủ và dạy học chữ cùng vài đứa nhỏ trong xóm.

Ngày đó má tôi đi bán về, ni sư gọi má tôi bảo:

-  Mẹ con chị ở đây được bao lâu rồi, chị có định liệu gì không? Chẳng lẽ suốt đời ở trong am đó hoài sao, rồi tương lai của con cái chị nữa, chị có dự tính gì chưa?

Má tôi vội quỳ xuống nghẹn ngào:

-  Dạ mẹ con tá túc tịnh xá cũng gần một năm rồi. Xin sư đại sá từ bi cho chúng con ở thêm thời gian ngắn nữa, khi con có vốn trả tiền mướn nhà chúng con sẽ ra đi. Kính mong sư thương tình, nếu bây giờ sư không cho ở nữa thật sự con không biết phải đi đâu! Thưa sư, chúng con không đủ ăn, áo không lành thì còn nghĩ gì ở tương lai. Kính mong ni sư thương tình, cho chúng con ở trong thời gian ngắn nữa, rồi con sẽ dọn đi…

     Ni sư tuổi cũng gần bảy mươi, ít nói, nét mặt hiền hòa trầm lặng. Dáng sư cao, gầy, hắt hiu thùng thình trong chiếc áo màu và, qua ánh đèn leo lét tỏa ra trên bàn phật.

Sư thở dài, từ tốn:

-  Sư không có ý đó! Má con ở đây chừng nào đi cũng được. Nhưng có một người muốn gặp con, địa chỉ đây, con hãy đến gặp họ đi…

     Từ ngày ba mất tích với số vàng là sanh mạng của mẹ con chúng tôi. Mãi đến nay má tôi chỉ nghi ngờ ông cờ bạc thua hết rồi không dám về. Và bà cũng buồn đau vì chồng không biết nghĩ, nhưng ngày ngày vất vả bận rộn trong việc sinh nhai của ba mẹ con, nỗi đau buồn dần dân rồi cũng ít nhiều nhạt phai!

     Nhưng sau khi gặp một người mà ni sư bảo đi gặp! Má tôi trở về với nét mặt âu sầu, đớn đau đến tột cùng! Và bà bịnh liệt giường, không ăn uống cả tuần lễ… Ni sư khuyên bảo cách chi cũng vô hiệu, còn anh em chúng tôi lúc nào cũng ở sát bên mẹ, mặt đầm đìa nước mắt… Chúng tôi cầu xin Ơn Trên cho mẹ sống, xin mẹ đừng bỏ chúng tôi lại trên cõi đời nầy!

     Hôm đó ni sư bưng đến tô cháo, và nói chuyện với má tôi lâu lắm… Sư về, má tôi ăn hết cháo sư cho để lấy lại sức, và mấy hôm sau bà quay gánh đi bán chợ trở lại!

     Từ đó má tôi có nhiều thay đổi, bá ít nói ít cười, nghiêm nghị, và trên mặt lúc nào cũng hằng khắc khổ thương đau! Giờ đây bà làm việc gì cũng lanh và lẹ, nét mặt luôn trầm tư, đôi mắt buồn xa vắng!

     Tối nay, sau khi ăn xong, thì trăng rằm đã lên, ánh trăng len lỏi qua khung cửa nhỏ tỏa sáng cả cái am nhỏ của tịnh xá. Nơi đây có mái lá che nắng che mưa, cũng là nơi chúng tôi vừa để ngồi ăn và để nằm ngủ. Má gọi ba anh em ngồi đối diện với bà. Chúng tôi rón rén nhìn nhau và lo sợ, bởi mặt má hết sức lạnh lùng… mà tôi có cảm tưởng bà như một người bằng sắt, bằng thép, hay bằng gỗ!

Má nói với chúng tôi, rõ ràng từng lời một:

-  Má cho mấy đứa biết, ba các con đã chết rồi! Từ rày trên thế gian nầy chỉ còn có mẹ con mình đùm bọc, giúp đỡ với nhau thôi! Vì má không còn chồng, và các con không còn ba nữa…

Các em tôi thao láo nhìn má rồi khóc thúc thích. Còn tôi chưng hửng, e dè nhỏ giọng hỏi má:

-  Tại sao ba chết, ba chết chôn ở đâu, làm sao má biết…?

Má tôi lạnh lung, vắn tắt:

-  Con hỏi nhiều quá! Má chỉ biết là ba con đã chết, là chết chớ không biết chết ở đâu chôn nơi nào, và nguyên nhân chết ra sao? Vậy kể từ hôm nay, trên cõi đời nầy mẹ con ta không còn ba nữa!

2562%205%20ToiCungCo1NguoiChaDTDB

       Tuổi thơ ở Việt Nam Cộng sản là cơn ác mộng với ba anh em tôi! Thời gian đó đã qua mấy mươi năm rồi, nhưng riêng tôi như mới hôm nào đây thôi. Sau khi nhờ cậu mợ Út giúp đỡ để mẹ con tôi cùng bôn đào theo ghe của người anh vợ, và qua đến xứ tự do…

     Trải qua bao nhiêu dâu bể nơi xứ lạ quê người, má tôi cũng một thân một mình lo lường, vất vả trăm bề. Để gần ba mươi năm sau, giờ đây anh em chúng tôi đã thành nhân, có gia thất đề huề. Khung trời nước Úc là nơi nương tựa vững chắc, đầy tình người ấm áp cho những người tị nạn Cộng sản như chúng tôi.

     Tôi là con trai lớn của má, bà sống chung với vợ chồng vợ chồng tôi  và ngó chừng cháu nội. Má năm nay đã trọng tuổi, nên chúng tôi có người giúp việc nhà, lo cơm nước cho bà và săn sóc các cháu. Tôi và đứa em kế cùng ngành y, cô em út làm cho chánh phủ và có văn phòng luật sư riêng.

     Hôm nay đi làm về, tôi rất vui mừng thấy má ra ngồi trên xích đu ở mái hiên nhà trước. Thời tiết vùng nầy đã vào chánh mùa xuân, muôn hoa khoe sắc thắm, cây ăn trái như cam, chanh, hồng, quít… trước sau nhà đơm bông kết trái non. Gió xuân phơi phới mát rượi, má tôi tươi vui, da dẻ hồng hào, ánh mắt sáng ngời nhìn trời xa. Chứng tỏ tâm lòng bà không chút âu lo, phiền não, rất mãn nguyên và hạnh phúc ở tuổi già, mà sự thành công của anh em chúng tôi là niềm tự hào, là niềm hãnh diện của chính bà.

Chuông điện thoại reo vang, giọng eo éo của cô em gái út:

-  Anh Hai hả, má có khỏe không? Anh có thấy nghe gì tin tức trong Internet, truyền hình, các báo chí Việt ngữ ở Mỹ, ở địa phương không?

      Tôi mắc tức cười:

-  Má vẫn thường! Tin tức thiếu gì có rất nhiều thứ: Cháy nhà, ngập nước, xe đụng, chìm ghe, đánh ghen, Trung quốc xâm lấn lãnh thổ lãnh hải Việt Nam, Gia đình Việt Cộng lớn chèn ép cướp đất, cướp nhà người ta, dân nghèo sống về đêm bằng nghề bươi rác ở khắp nước Việt Nam. Những lao nô Việt Nam bị bóc lột ở các nước anh em Cộng sản của họ, và còn nhiều thứ lắm… không sao kể hết. Vậy em muốn nói đến tin gì đây? Chớ hỏi chung chung thì làm sao anh biết mà trả lời cho cô út?

          Cô em Út cười hí hí, rồi trỗi giọng tê-no liến láu:

-  Trong mục tìm người… Có nhắn tin của ông nào đó, em chỉ nhớ mang máng thôi, sao mà hình ông ta giống ba mình quá anh Hai, tên cũng giống nữa, đang ở bên Mỹ… Anh thử tìm xem, rồi cho em biết nghe…

          -  Con nhỏ nầy, bậy không hà, làm gì có chuyện đó? Tên trùng tên, người giống người! Nhớ lúc còn ở quê nhà má nói ba đã chết, tính đến nay cũng đã mấy mươi năm, bộ em quên rồi sao?

     Sáng hôm sau, ở bãi đậu xe đứa em gái út chờ sẵn tôi, mà trên tay với xấp báo dầy cộm. có đầy đủ lời nhắn tin tìm người thân và hình ảnh…

Tôi xem qua, xem lại mấy lần, tay chân như rụng rời, tâm trí như hụt hẫng và thật sự đã mất đi bình tĩnh! Trời ơi, người trong ảnh đích thị là cha tôi đây mà! Ông đã chết từ mấy chục năm nay giờ đột nhiên sống lại, và đang ở một nước cách chúng tôi hơn nửa quả địa cầu!

     Lấy lại bình tĩnh, tôi buồn bã căn dặn con em út:

-  Em đừng cho má biết, nhớ gọi con Ba (em thứ ba) cho biết mọi sự. Nhớ bảo nó theo dõi đài và tin tức trên Internet, và chiều mai thứ sáu sau khi tan sở, đến nhà anh dùng bữa ăn chiều. Nhớ chỉ có ba anh em mình và má thôi nghe. Còn chồng bây, chồng con Ba cùng mấy cháu ngoại của má, phải  tìm cách đừng để họ đến nhà anh chiều mai. Anh sẽ cho chị dâu và mấy cháu về bên ngơại chúng. Phải giữ kín với chồng bây, sau nầy sẽ cho biết cũng không muộn nghe…

     Chiều ngày thứ sáu hôm đó, sau khi bà bếp dọn cơm lên bàn xong thì cậu chủ phát lương và ra về sớm. Bà giúp việc ăn ở luôn nhà chủ từ thứ hai đến thứ sáu mỗi tháng được trả một ngàn Úc kim ($1.000). Số tiền nầy ở dưới chế độ Việt Nam cộng sản hiện tại, dù là một công chức chân chính, có thâm niên làm mười năm công vụ đi nữa, mỗi tháng cũng chưa lãnh được số tiền tương tợ như vậy! Bà người làm mọi việc lặt vặt trong nhà, nhưng không gì nặng nhọc cho lắm: Nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ áo quần… và nhứt là hủ hỉ với má ông chủ năm nay đã ngoài bảy mươi.

      Bà cụ chân yếu không đi xa được, nhưng bà còn tự làm các công việc cho mình, như ăn uống, vệ sinh cá nhân, tắm rửa. Chỉ giúp bà dọn cơm lên, bà ăn xong dẹp rửa. Đem áo quần sạch vào nhà tắm, tắm xong dọn dẹp lau chùi và đem quần áo dơ để vào đồ giặt thôi. Khi nào rỗi rãnh thì kể chuyện nay, hoặc chuyện xưa cho bà nghe, vì họ chung một quê hương, cùng phong tục tập quán và cùng ngôn ngữ và nhứt là người miền Nam với bà, nên rất hợp và dễ nói chuyện.

       Thấy mấy đứa con về ăn cơm chiều họp mặt gia đình mà không thấy cháu nội cháu ngoại và dâu, rể. Con dâu hôm nay đi làm về sớm, chở mấy đứa con ra ngoài bảo sẽ về nhà ngoại chơi và ăn cơm bên đó luôn. Hai đứa con gái đến một mình không chồng con cùng đến, bà hơi thắc mắc nhưng kệ bọn nó, chắc là chúng có điều chi muốn nói riêng với mình.

     Ba đứa con bà đều hiếu thảo, con dâu người Việt, và hai thằng rể một đức người Phi, một đứa dân bảng xứ. Chúng nó là những đứa biết điều, nên bà rất vui lòng và hạnh phúc trong cái hạnh phúc của các con cháu đã luôn mang đến niềm vui cho bà. Khi các con ra trường đi làm thì chúng lo cho bà đủ mọi thứ. Nhờ ơn Trời, chúng nó đều khá giả, bà sống với thằng con thứ hai, nên hai cô em gái trả tiền người làm hàng tháng, coi như phụ anh chị để cùng lo cho mẹ. Các con, dâu, rể luôn mua món ngon, vật lạ cho bà từ miếng ăn, giấc ngủ, cái quần, cái áo…

     Bà không tốn đồng nào kể từ khi thằng lớn đi làm. Tiền hưu trí bà giữ hết để gởi về cho anh và bà con đang khốn khó bên nhà, xây mồ mả lại cho cha mẹ. Bà gởi tiền về xây lại tịnh sá, sửa chữa những thứ cần thiết để trả ơn ni sư giúp mẹ con bà lúc sa cơ thất thế khốn khổ, không cửa không nhà… Sau đó bà tự nguyện với lòng, tháng nào bà cũng gởi về cho ni sư một trăm (100) đồng để nhang khói cho đến khi ni sư trăm tuổi già thì thôi.

     Đứa con út cắt trái hồng khô mời:

-  Má ăn thử miếng hồng khô đầu mùa, mềm, dẻo và ngọt lắm má…

          Bà quay về thực tế và thằng con cũng bưng dĩa bánh in nhưn sầu riêng đến, đứa con gái lớn rót trà vào tách cho bà và cho anh em chúng nó…

Linh tính cho biết, bà mẹ mỉm cười nhìn các con, ôn tồn bảo:

-  Hôm nay có chuyện gì bọn bây muốn nói với má, mà không cho dâu rể và các cháu má tham dự vậy? Thôi đừng có làm thinh nữa, cứ nói ra đi… Mẹ sanh bây ra bằng cườm tay, nuôi cho chúng bây nên vóc nên hình thì tâm tình chúng bây làm sao mẹ không biết, không hiểu?  Vậy anh em bây hãy nói đi đừng để má phải đoán mò nữa…

      Hai đứa em gái, nhìn anh mình nheo mắt ra hiệu thúc hối có ý bảo nói đi. Người con trai cúi mặt e dè hỏi mẹ:

-  Má à, giờ đây chúng con đứa nào cũng là người lớn, biết suy xét cả rồi… Xin má nói thiệt cho chúng con biết, ba chúng con còn sống hay thật sự đã chết như mấy mươi năm trước má nói với chúng con…

          Bà cụ giựt mình, tay chụp ngay thành ghế để giữ vững dù bà đang ngồi! Đã mấy mươi năm trôi qua bà thật sự đã quên hết rồi, nay bỗng dưng con nhắc lại, bao nhiêu dĩ vãng đau thương vụt quay về! Bà như muốn nghẹt thở trong khi các con ánh mắt cầu khẩn nhìn? Chúng mong muốn mẹ trả lời, nói ra sự thật về cha...

     Bà mẹ tay run run cầm tách nước trà hớp một ngụm, đặt tách xuống còn nghe khua lạch cạch chạm vào dĩa. Qua khung cửa sổ, đôi mắt già nhăn nheo, dáng điệu u buồn đăm chiêu hiu hắt nhìn trời cao.

Bà nhẹ thở dài:

          -  Tại sao các con hôm nay lại muốn biết? Việc đã qua mấy mươi năm rồi, má thật sự không muốn nhớ và cũng không muốn nhắc lại…

          Đứa em kế (thứ ba) chớp chớp mắt, nhẹ giọng:

          -  Má à, vì cả tuần nay, tin tức trên báo chí, trên Internet, trên truyền hình Việt ngữ ở địa phương... đều ghi trong mục nhắn tin tìm người than. Trong mục nhắc tin đó có ghi rõ tên họ má, và anh em con…

Đứa em gái út nhanh nhẩu lên tiếng:

-  Thật đó má, con không nhớ mặt ba, nhưng anh Hai và chị Ba chắc chắn người đó là ba của chúng con. Ông bịnh nặng lắm đang nằm nhà thương ở Mỹ, mong được một lần gặp lại mẹ con chúng ta trước khi ông lìa bỏ cõi đời nầy…

          Con Út vừa nói vừa lấy hình ảnh, và lời nhắn trên báo, đã in ra từ Internet đưa cho mẹ xem. Mẹ chúng tôi trầm ngâm, rồi từ từ dở từng trang giấy báo ra, và anh em tôi nhìn nhau ái ngại!

     Má dừng lại nơi lời nhắn tin: “…Ông Trần Văn Hữu Nam… đang bịnh nặng ở... Trước khi qua đời ông ước mong được gặp lại vợ là bà Bùi Ngọc Mai Anh, cùng ba con là: Trần Bùi Nam Hải, Trần Bùi Anh Hà, Trần Bùi Nam Anh…” Khi xem xong, bà tiện tay đẩy những báo chí có quảng cáo đó qua góc bàn. Như đã lấy lại bình tĩnh, trên mặt bà hết sức dửng dưng vô thưởng vô phạt và an nhiên. Đôi mắt già nua của bà đăm chiêu như cố nhớ lại những chuyện đã qua! An hem chúng tôi liếc nhìn nhau e dè yên lặng! Cái yên lặng nặng nề bao trùm cả căn phòng ăn rộng rãi.

Bỗng má tôi lên tiếng kể như truyện đời xưa, mà trên nét mặt không một chút hỉ, nộ, ái, ố.

Giọng má tôi hơi run:

          -  Người trong ảnh đúng là ba các con rồi! Thiệt thời gian qua mau như cơn gió lốc, mới đó mà mấy mươi năm! Các con còn nhớ năm xưa sáng nào má cũng đi bán chợ, có một hôm ở nhà ba kêu lái mua lại bán con heo rồi lấy tiền đi luôn gần mươi bữa, cho mãi đến chiều Ba Mươi Tết mới về. Ổng bán con heo lấy tiền mua quà lễ mang qua nhà gái để cưới vợ mới cho ông! Khi nhà gái lợi quả, ổng đem quà đó về cho mẹ con mình ăn Tết! Rồi mấy tháng sau đó, ổng bảo má bán căn nhà ngoại cho đang ở để làm lộ phí cho mẹ con mình cùng vượt biên. Nhưng ổng đóng tiền lộ phí để đi thiệt, nhưng là đi với vợ mới cưới và hai đứa con riêng của bả vượt biên!

          Anh em tôi lắng nghe muốn nín thở! Trời ơi, vậy mà bấy lâu nay má tôi ôm kín nỗi đau đớn khổ tâm đó một mình! Vòng tay thật chặt xiết ôm má, tôi muốn san sẻ những đau buồn tận cùng đã ấp ủ giấu kín đè nặng trong lòng má tôi từ bấy lâu nay!

Má nhếch mép cố tạo nụ cười để cho anh em tôi biết, và nghĩ rằng má không khổ chút nào! Hớp thêm ngụm nước nữa, đều giọng thở dài má bảo:

-  Các con còn nhớ ni sư cho địa chỉ để má đi gặp một người không? Đó là chị dâu bà vợ mới của ba con, ni sư là cô chồng của bả, và là cô ruột người vợ mới của ổng. Thời gian sau mẹ con mình đến xin tá túc trong am ở tịnh sá (lúc đó ni sư không biết) ni sư hỏi thăm má qua người cháu dâu của ni sư. Sau đó ni sư mới biết tự sự là người cưới cháu gái bả là ba của các con! Khi cháu dâu của ni sư kể cho má biết ba các con cùng em chồng bả đã vượt biên đến bờ bến tự do rồi! Lúc đó thật má muốn chết cho xong! Sắp bước vào quỉ môn quang thì các con ôm chầm lấy má kêu khóc… Má như sực tỉnh lại, và vì các con má cố đứng lên làm lại tất cả… Má nghĩ ngồi đó nguyền rủa, khóc lóc đau buồn cũng chẳng có lợi lộc gì, và cũng chẳng có ai giúp mình đâu! Các con là sự sinh tồn của má.

Má tôi u buồn, thở dài:

-  Thật sự má đứng lên được là nhờ tình thương của các con! Má suy nghĩ không biết sẽ nói với các con thế nào khi ổng có những hành động với mẹ con mình? Và nỗi đau đớn tột cùng của má, đã giết chết tình yêu vợ chồng bao nhiêu năm qua cùng cam cộng khổ với nhau! Thật như vậy, qua phút não lòng, má tỉnh lại như mình đã ngủ một giấc dài, và đổi thành một người khác… Kể từ đó trong lòng má không còn chút tình cảm nào với ổng nữa, và má cũng không muốn các con đau buồn, nên đành phải gạt các con là ổng đã chết! Má xin lỗi! Má xin lỗi các con…

Anh em tôi ôm má khóc sướt mướt, khóc như chưa bao giờ được khóc! Lòng kính yêu má tăng gấp bội phần hơn và ngập tràn tâm hồn chúng tôi. Má choàng tay ôm lấy chúng tôi, vỗ nhè nhẹ vào lưng anh em tôi với vẻ mặt điềm nhiên, ánh mắt thư thả, dịu dàng như đời bà chưa hề xảy ra những chuyện thê thảm gì trong tình chồng vợ nghĩa phu thê!

          -  “Tri nhân tri diện bất tri tâm” lòng người thật đáng sợ! Đã không còn tình cảm vợ chồng nữa thì còn có trách nhiệm và cũng phải nghĩ lại ba đứa con đang nheo nhóc đói khổ không cửa không nhà chớ!

          Anh em tôi lặng lẽ lắng nghe, má chép miệng thở dài:

-  Má nghĩ giữa hai người không họ hàng thân thích gặp nhau, có giây phút tốt đẹp chói chang làm sáng cả cuộc đời thì quá đủ rồi! Niềm vui chỉ là một lúc, còn tình cảm và đau khổ là con đường dài không chỗ ngừng lại… để oán hận lúc nào cũng theo cuộc sống của chúng ta! Nhưng mọi sự việc đó trong lòng má nhờ thời gian cũng phai nhạt, và nay đã chôn vào quên lãng rồi! Các con ơi, tha thứ được thì nên tha thứ, chúng ta sẽ thấy trời cao hơn, biển sẽ lớn hơn với tấm lòng rộng mở…

          Đôi mắt u buồn nhìn qua cửa sổ, trời cao vòi vọi. Má tôi với giọng đều đều như ru:

-  Trải qua cuộc bể dâu của đời người, má nghiệm thấy rằng: Dù ở hoàn cảnh nào cũng đừng bao giờ quên đi cái nguyên sơ của mình! Các con phải biết nhẫn, biết nhường nhịn và mở rộng lòng… đừng vì phút bốc đồng, hay cái lợi trước mắt mà quên đi hậu quả sẽ đến! Cây kim gói giấu kín trong bao lâu ngày cũng sẽ lòi ra, đồng tiền cũng biết phát sáng đó mà! Rồi đến một ngày kia quay đầu ngoảnh lại, thì chúng ta chỉ còn niềm vui, nỗi buồn và nhiều thứ đáng quý khác… Bây giờ các con đã có đời sống riêng tư tốt đẹp phải biết trân quý. Các con trưởng thành được tôi luyện và đứng vững trong một nước tự do trên cõi đời nhiều hệ lụy nầy. Bây giờ, các con không cần phải hỏi và chờ ý kiến của má, là có nên đi gặp lại ba lần cúi cùng trước khi ổng qua đời không? “Đèn nhà ai nấy sáng” dư luận bên ngoài của thế nhân chỉ ở hiện tại, giai đoạn, chớ không ai biết gì dĩ vãng đã xảy ra cho gia đình mình thuở xa xưa như thế nào? Và dư luận đó cũng không tồn tại lâu ở tương lai! Các con đừng nghĩ ngợi nhiều về miệng người đời, mà hãy chú tâm về hành động của mình “quả báo nhãn tiền” có sự trả vay! Vậy quyết định có đi thăm ba không thì tùy ý các con…

Mấy tháng sau, tin trên báo chia buồn ba tôi qua đời! Ông được đồng đội xưa và bạn bè an táng mồ yên bình mả đẹp trong nghĩa trang “Rose Hill” ở miền Nam nước Mỹ! Giờ đây đã bốn năm rồi, bốn năm sau ngày ba tôi qua đời! Bà mẹ vĩ đại, bà tiên hiền lành... của anh em chúng tôi cũng đã ra người thiên cổ!

Con người được sanh ra trên thế gian ai cũng có những hồi ức! Và ai cũng có một người cha ruột của mình! Anh em chúng tôi cũng không ngoại lệ! Nhưng trong niềm thương nỗi nhớ và sự giải thích, ý nghĩa của hai chữ “phụ thân” thì tình trạng của anh em chúng tôi có khác! Chúng ta không giống nhau, cho tất cả những người có cha trên cõi đời nầy!


Dư Thị Diễm Buồn

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 15/Jun/2018 lúc 8:20am

Đời Như Ý    <<<<<




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 15/Jun/2018 lúc 8:25am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 18/Jun/2018 lúc 9:03am
TÌNH HÈ WORLD CUP





Trong lúc anh Bông đang xem ti vi đợi tới giờ khai mạc giải World Cup 2018 thì chị Bông đứng trong bếp, anh Bông giục gĩa:

- Bà mò gì trong bếp thế, nhanh lên sắp tới giờ khai mạc rồi, có ông tổng thống Nga Putin nè…

Chị Bông dãy nẩy lên:

- Em xem bóng đá chứ không thích nhìn mặt Putin đâu nhá…

Mùa bóng World Cup 2018 này vợ chồng chị Bông lại là hai tâm hồn đồng điệu như những mùa World Cup trước vì cả hai cùng say mê yêu thích môn bóng đá .

Chị Bông vừa ra Costco mua một ổ pizza về để chị rảnh tay khỏi nấu cơm. Hai vợ chồng chị đã chuẩn bị sẵn mọi thứ, mọi sự việc ổn thoả để những ngày World Cup họ chỉ nằm nhà xem những trận đá bóng. Mọi cái hẹn bác sĩ đều sau ngày World Cup kết thúc, cái hẹn nào có sẵn từ trước rơi vào ngày World Cup thì vợ chồng chị đã cancel đổi lại ngày hẹn với lý do bận công việc …bất ngờ. Mọi cú phone sẽ không được gọi đi trong những giờ trận bóng đang diễn ra và có ai gọi phôn đến trong thời điểm này nếu không có gì quan trọng thì sẽ được chủ nhà…trả lời ba chớp ba nhoáng cho xong. Chị Bông còn hào hứng đề nghị:

- Anh ơi, hay là mỗi khi có trận bóng diễn ra nhà mình …đậu hết xe vào garage, buông rèm che kín cửa sổ để bạn bè có nổi hứng bất chợt đến nhà chơi sẽ tưởng mình đi vắng.

Anh Bông kêu lến:

- Ối trời, bà làm như vợ chồng mình vỡ nợ, trốn nợ hả? cứ như trò đùa trẻ con. Bạn bè mà đến thì phải tiếp chứ, bà làm thế là mất bạn luôn đó.

Chị Bông lại thỏ thẻ:

- Em cầu mong vợ chồng mình…đừng đau ốm gì vào lúc này, đi bác sĩ đợi chờ là mất cả trận bóng đá chứ không ít đâu. Chưa kể mà vào emergency room thì…

Anh Bông lại kêu lên:

- Ối trời, bà chỉ nói…gỡ. Vợ chồng mình đang tưng bừng đón chào World Cup làm gì có chuyện ốm đau, cấp cứu. Hèn gì bà đã kể tôi ngày xưa bà từng bị mẹ mắng ăn nói vô duyên, có ngày ế chồng, nếu tôi không rước bà thì …giờ này bà đã ra sao?

Chị Bông biết mình…lỡ lời nên không dám ý kiến tiếp. Chị Bông nói vọng ra phía phòng khách, nơi anh Bông đang nằm ghế sofa xem ti vi:

- Em đang làm món chè sương sa hột lưụ, ăn pizza xong có ly chè sương sa mát lạnh tha hồ ngon.

- Tôi thấy bà đã mua đủ thứ trái cây mát mẻ rồi, nào dưa hấu, nho, dứa, dưa tây. Mỗi lần bà đi chợ về y như một người đang đói khát mua đủ thứ đồ ăn thức uống.

Bị chồng phê bình chị Bông bực mình định cãi lại nhưng chợt nhớ hai vợ chồng đã giao ước mùa World Cup …cấm xung khắc, cấm cãi nhau nên thôi.

Sau màn khai mạc lộng lẫy là trận đấu giữa đội chủ nhà Nga và Ả Rập Saudi. Anh Bông dặn dò:

- Bà ngồi xem với tôi ..xin bà miễn phê bình nhan sắc cầu thủ nhá.

Chị Bông nén ấm ức:

- Cũng được… dù anh qúa …hẹp hòi.

- Không phải là tôi hẹp hòi nhưng bà làm tôi rối trí không tập trung xem từng cú đẩy đưa bóng, lừa bóng hay chuyền bóng tuyệt với của cầu thủ, bà hiểu chưa.

Anh Bông vẫn dặn dò tiếp:

- Rút kinh nghiệm những mùa bóng đá World Cup đã qua, tôi cũng xin bà đừng xem bóng dá mà mơ mộng đòi hỏi những cái đẹp toàn diện nhá. Bà chê thằng cầu thủ này bất lịch sự, đẹp trai thế mà phun nước bọt toẹt một cái xuống sân cỏ trước hàng tỷ con mắt đang theo dõi, hay khó chịu chê thằng cầu thủ kia …nhỏ mọn chơi xấu móc chân, khều tay xô ngã đối phương. Họ là con người chứ không phải những chàng thơ, văn nhân tao nhã trong thơ bà rõ chưa?

Chị Bông ngập ngừng:

- Cái này thì em…khó nhịn lắm. Em không muốn thấy các thần tượng…xụp đổ trước mắt em. Thà khuất mắt, họ là ai làm gì cũng mặc kệ.

Anh Bông nhấn mạnh:

- Nhưng tôi với bà đã quy luật, giao kèo mùa World Cup yên vui là người nọ phải chiều lòng người kia mà.

Chị Bông mỉm cười cầu hòa:

- Biết rồi chúng mình sẽ có một “Tình hè World Cup”.hai tâm hồn đồng điệu, tri kỷ nhau phút này. Em sẽ cố nhịn mọi thứ dù anh hay dù mấy thằng cầu thủ xấu tính có làm em bực mình.

- À quên, còn điều này nữa, trong lúc qủa bóng đang lăn trên sân cỏ bà chớ có hỏi tôi luật lệ này nọ nhé. Tôi đã giải thích bao mùa rồi mà mỗi mùa bà lại quên và hỏi lại như mới vừa biết xem môn đá bóng ngày hôm qua. Cứ thấy trọng tài phất cờ bà hỏi, trọng tài phạt bà hỏi và trọng tài…không phạt bà cũng hỏi vì sao không phạt thì tôi biết trả lời sao?

Chị Bông ngoan ngoãn gật đầu:

- Cũng được. Tóm lại, em cứ thấy bóng vào lười là đủ rồi, khỏi cần thắc mắc luật lệ làm gì.

- Thế mà bà vẫn …lầm lẫn đấy, bóng vào lười đội A bà lại …suýt xoa tưởng đội B bị thua.

Chị Bông phân bua:

- Tại cầu thủ chạy loạn xạ khắp sân, bóng đi ngang về dọc làm em hoa cả mắt mới…tưởng lầm thế thôi. Anh dặn dò thế đủ chưa.

- Chưa đủ, tôi chợt nhớ ra thêm điều nữa, khi xem trận đá bóng bà đừng có ba phải, mất lập trường nhé. Bà ủng hộ đội A nhưng lại…thổn thức vì đội B thua.

Sao mà anh Bông nói đúng lòng dạ chị Bông đến thế. Tuy ủng hộ đội này nhưng chị lại buồn lại thương khi đội kia thua, vẫn muốn đội thua…gỡ lại, cầu mong từng phút từng giây, chị hi vọng đến phút thứ 89 điều thần kỳ sẽ đến với họ, nếu không gỡ huề thì cũng có bàn thắng an ủi cho…. đỡ tủi thân.

Chị Bông hứa :

- Em sẽ cố gắng không để tình cảm lẩn thẩn làm mất phương hướng. Thí dụ như hôm nay em ủng hộ đội Ả Rập thì chỉ hướng về Ả rập mà thôi.

Chị Bông không chọn đội Nga, chị ủng hộ đội Á Rập, chị chẳng biết gì về đội bóng này nhưng chỉ vì…không thích ông tổng thống Putin. Trận bóng đang diễn ra, các cầu thủ đội Nga luôn ở thế mạnh áp đảo đội Ả Rập, khung thành đội Ả rập luôn bận rộn, anh thủ môn vất vả xông pha đủ mọi chiêu mà vẫn để bóng vào lưới nhà. Chị Bông thấy thương những cầu thủ Ả rập qúa, định khen họ tướng tá và gương mặt hiền lành nhưng không thốt nên lời, sợ anh Bông mắng phạm luật “Tình hè World Cup”. Sau hiệp đầu với tỷ số 2-0 Chị Bông đi lấy hai đĩa pizza, pizza để trong hộp vẫn còn ấm nóng, chị mời mọc:

- Nhà chỉ có hai vợ chồng mà ổ bánh pizza to qúa, anh ăn giùm vài miếng cho nhanh hết nhé, pizza để nguội cất tủ lạnh không ngon đâu.

- Tôi đang diet vì cao mỡ cao máu nhưng…nể ngày hôm nay “Tình hè World Cup” tôi sẽ cố ăn thêm miếng pizza nữa.

Ăn pizza xong thì trận đấu đang vào hiệp hai, chị Bông làm mỗi người một ly chè sương sa hột lựu ra ghế sôfa vừa xem vừa ăn. Nhìn ly chè sóng sánh màu trắng tươi đậm đà của sữa tươi với những miếng sương sa trắng lẫn hột lựu màu đỏ đỏ với đậu xanh nhuyễn màu vàng vàng, thoang thoảng mùi thơm nước hoa bưởi thật hấp dẫn. Chị Bông hãnh diện khoe:

- Em cũng phải…tự khen em làm món chè này ngon đấy, dù sợ lên cân em cũng sẽ ăn hai ly luôn.

Đội bóng Ả Rập qúa yếu, họ chỉ lo chống đỡ cũng đủ mệt thì giờ đâu mà tấn công đội Nga, anh thủ môn đội Nga bên này tha hồ rảnh rang đứng xem đồng nghiệp thủ môn bên kia “làm việc” không ngừng. Kết quả đội Ả rập thua đội Nga 5- 0. Lần này đội chị Bông ủng hộ đã thua, nên chị Bông chỉ buồn thương cho điều chị đã chọn, không ba phải tí nào. Nhưng chị cố vớt vát an ủi là anh thủ môn đội Á rập sẽ “nổi tiếng” được cả tỉ người biết mặt nhớ mặt vì những ống kính thu hình luôn quay về phía khung thành của anh với những pha chống đỡ và tuyệt vọng chụp bóng. Chị Bông hỏi chồng:

- Anh xem lại lịch trình thi đấu giùm em ngày mai thứ sáu 15 tháng 6 có mấy trận bóng để em… tính.

- Bà tính cái gì? Ngày mai có 3 trận, 7 giờ sáng, 10 giờ sáng và 1 giờ trưa. Bà đừng có nói là sẽ mua…pizza ăn trừ cơm để rảnh rang coi đủ ba trận bóng đá nhé.

- Anh đoán hay ghê, em…cũng tính thế, mà anh chán pizza thì thôi để em mua…bánh mì thịt.

Anh Bông từ chối ngay:

- Pizza hay bánh mì khác nhau là bao, cùng một loại bánh nướng, có bột.

Chị Bông kiên nhẫn:

- Hay là… mì gói hả anh? Nhà có sẵn nguyên thùng luôn…

Anh Bông không kiên nhẫn nổi:

- Trời ơi, pizza, bánh mì, mì gói thì cũng tương tự như nhau, mùa hè ăn những thứ khô khan ấy càng thêm nóng ruột. Thì ra bà vẫn…vô duyên cho đến bây giờ.

Chị Bông nũng nịu giận dỗi:

- Anh coi chừng phạm luật “Tình hè World Cup” đấy. Em hỏi anh nhé, ba trận đấu rơi vào đúng giờ ăn trưa, em mà nấu nướng thì làm sao coi? nhất là trận Bồ Đào Nha với Tây Ban Nha có cầu thủ CR7 Ronaldo của em.

Anh Bông xuống nước:

- Xin lỗi bà, tại tôi nghe đến mấy món đó là đã ngán tận cổ rồi.”Tình hè World Cup” của chúng mình vẫn đẹp nhé, chúng ta…cùng nhịn ăn, no đói có nhau, cùng xem bóng đá đủ ba trận, xong rồi nấu cơm chiều ăn luôn.

Thấy chồng dịu dàng chị Bông cũng cảm động dịu dàng:

- Ánh sáng cuối đường hầm nè anh ơi, em nghĩ ra rồi, sáng mai em sẽ dậy sớm nấu nồi cháo gà và làm gỏi bắp cải rau răm, món cháo gà ngon ngọt mà nhẹ lòng, món gỏi bắp cải mát ruột mát gan và tráng miệng bằng các loại trái cây đã mua như anh thấy rồi đó.

Anh Bông reo vui:

- Hoan hô bà trăm ngàn lần, cả triệu lần. Tôi sẽ phụ bà xé phay con gà…Hai vợ chồng cùng làm thì nhanh chóng lắm.

- Ngày mai chúng ta cùng thưởng thức món ăn ngon, cùng thưởng thức ba trận bóng.. Tình hè World Cup của vợ chồng mình sẽ đẹp tuyệt vời anh ơi…


Nguyễn Thị Thanh Dương


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 18/Jun/2018 lúc 9:04am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Jun/2018 lúc 6:52am

DÌ GHẺ - Phương Lan   <<<<<




Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Jun/2018 lúc 6:52am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Jun/2018 lúc 9:38am

Bé Mốc Ngày Xưa


Từ phi trường Tân Sơn Nhất, Khoa được gia đình chú Tuyên đón về nhà ở Bà Chiểu chơi mấy hôm. Hôm nay Khoa mới xách va ly trở về xóm cũ Gò Vấp. Mới rời xa Việt Nam 6 năm mà đường phố thay đổi lạ hoắc, cũng may vẫn còn những dấu vết hay chi tiết quang cảnh cụ thể khác để anh không đi lạc.

Cổng vào chùa Thiền Quang đây rồi, cũng là ngõ chính dẫn vào nhà anh, phải đi qua một khu mả bằng đá ong, những tảng đá ong nằm có, đứng có, cao hơn đầu người, người ta đồn rằng của người Pháp xây hồi xưa, nên lối xóm quen gọi là khu mả Tây. Trẻ con khu xóm vẫn chơi đùa ở đó, leo trèo lên những ngôi mộ. Nay khu mả Tây không còn, nên trông cái ngõ như rộng ra. Gặp anh, nhận ra anh, ai cũng cất tiếng hỏi han thân mật, bù cho những tháng năm sống ở Mỹ hàng xóm lạnh lùng như người tình đang trong cơn hờn dỗi.

   Căn nhà của anh được bao quanh bằng bức tường gạch thấp, phía trên cắm những hàng rào bằng sắt, và vẫn là hai cánh cổng sắt, nhưng không còn cây hoa giấy màu đỏ bên cạnh xòe cành lá và hoa đung đưa trong gío nữa.
Chưa kịp tra chìa khóa mở cổng thì một bà hớn hở từ đâu bước vội đến:
- Cậu Khoa mới về thăm nhà hả? Sống ở Mỹ vui lắm hả cậu?
Khoa chưa kịp nhận ra ai cũng mỉm cười đáp lại:
- Vâng, chào bác, sống ở đâu cũng có vui có buồn.
- Có nhớ ra tôi không nào? Tôi ở đằng sau nhà cậu đấy…
Khoa gật đầu:
- À, bác tên Năm, làm nghề thêu, nên thành tên Năm Thêu chứ gì? Bây giờ bác còn sống bằng nghề thêu, rua gì không?
- Theo nghề đó là chết đói luôn cậu ơi, thời buổi hiện đại, nghề thêu đan, may vá phải dẹp tiệm nhường cho sản xuất công nghiệp hàng loạt. Tôi chuyển “ngành” rồi, nấu cơm bán cho mấy em công nhân tạm trú ở xóm này, dân miền Trung, miền Bắc “di cư” vào, đói nghèo nên dễ tính, dễ chịu. Hàng cơm tôi cũng đủ sống qua ngày.
Bà Năm Thêu đon đã mời mọc một hơi:
- Cậu về đây bao lâu? khi nào đi chơi đâu ăn đó thì thôi, còn về nhà thì ăn cơm ủng hộ hàng tôi nghe? Tôi biết Việt Kiều thì chỉ ăn ở những nhà hàng nổi tiếng hay sang trọng, nhưng cậu thử ăn hàng tôi cho biết đá vàng, ăn bữa nào tính tiền bữa đó, đơn giản và sòng phẳng mà. Việt Kiều tôi sẽ nấu loại đồ ăn cao cấp tiêu chuẩn Việt Kiều, nhưng gía cả vẫn là tình làng nghĩa xóm.
Khoa cảm động, khiêm nhường và hào hiệp:
- Việt kiều mới là thèm những món ăn bình thường dân dã đó bác Năm Thêu. Nhiều người từ hải ngoại về Việt Nam chỉ để ăn cơm nhà rau dưa. Tôi đồng ý ăn cơm ủng hộ hàng bác, vì tôi sẽ ở Việt Nam khá lâu và thường xuyên ở nhà.

Bà Năm Thêu còn nhiều chuyện, hỏi tới luôn:
- Nghe nói cậu về bàn căn nhà này, phải hôn? Có gì tôi kiếm người “mai mối” cho mau lẹ…
- Uả, sao bác biết tôi về Việt Nam để bán nhà?
- Dễ ợt mà, mỗi lần ông chú của cậu đến quét dọn hay sửa sang nhà cửa tôi có nói chuyện và hỏi thăm về gia đình cậu hoài, nghe nói ở bển gia đình cậu ổn định, khá gỉa tôi cũng mừng giùm. Vừa rồi ông Tuyên nói là cậu sẽ về bán căn nhà này. Thế là ông Tuyên sẽ rảnh tay khỏi phải lò mò từ Bà Chiểu đạp xe xuống Gò Vấp để chăm sóc căn nhà vắng chủ nữa.
- Dạ, đúng thế. Đáng lẽ tôi bán nhà trước khi xuất cảnh, nhưng để lại cho gia đình thằng em vợ chờ đi xuất cảnh sau. Nó dùng dằng mãi mới chịu đi nên giấy tờ bảo lãnh trễ hơn tôi mấy năm.
- Nhờ vậy mà hưởng lời đó cậu. Đúng là số cậu trời cho hưởng mà, được gia đình vợ bảo lãnh đi Mỹ sung sướng mọi bề, ngay thời điểm này nhà cửa đang hút gía dữ dội lắm, căn nhà của cậu nằm trong khu đất rộng, có vườn cây, lại thuộc phạm vi thành phố nên khẳm tiền chứ không ít đâu.
Khoa đùa vui:
- Trời, bác Năm Thêu chuyển ngành nghề môi giới địa ốc, chắc sẽ thành công hơn nấu cơm tháng đấy.
Bà Năm Thêu nhắc lại:
- Thôi vậy nghen, chiều nay cậu ăn cơm nhà không? thì có cơm mang sang nhà cậu liền.
Khoa nể lòng bà hàng xóm:
- Vâng, chiều nay cho tôi mở hàng một bữa thử coi, nhớ là mấy món ăn nhà quê dân dã nhé. Tôi muốn ở nhà vài ngày, sống lại kỷ niệm rồi mới đi thăm bạn bè sau.

Bà hàng xóm nhanh nhẩu tốt bụng đi rồi, Khoa mới thực sự bước vào nhà mình, hầu hết những đồ đạc của vợ chồng Khoa để lại, gia đình người em vợ vẫn giữ y nguyên, có lẽ vì họ nghĩ cũng sẽ đi xuất cảnh nên chẳng cần thay đổi hay mua sắm thêm đồ mới làm gì.
Khoa ra vườn sau, khu vườn trồng nhiều cây mít và cây na, lá rụng quanh năm. Anh dẫm chân lên lớp lá khô tưởng như mùa lá cũ năm nào vẫn nằm ngoan hiền ở đây đợi anh về hội ngộ.

Những cây mít đang treo đầy qủa, anh còn nhớ cây này là mít dừa, cây kia là mít nghệ, múi mít loại nào cũng to bằng cả nắm tay. Còn những cây na cũng có giống na dai, giống na bở. Na để chín cây, mắt na nở ra, nhẹ tay bóp qủa na, ăn những múi na trắng thơm, ngon ngọt lạ lùng
Trong vườn có một cái giếng sâu và trong, cạnh đó là buồng tắm. Khoa sung sướng được sống lại qúa khứ, anh ra quay nước giếng đổ đầy thùng trong buồng tắm và mang những thứ xà bông, dầu gội đầu vào tắm gội, tưởng như mình vẫn đang sống ở Việt Nam của 6 năm về trước.

Tắm xong Khoa vào nhà ngủ một giấc thoải mái, chưa tỉnh giấc hẳn thì đã nghe có tiếng gõ cửa rụt rè, Khoa vội ngồi dậy, vuốt sơ mái tóc và ra mở cửa, anh ngạc nhiên khi thấy một khuôn mặt xinh đẹp, một cô gái lạ, rất trẻ, đang khép nép bên ngoài. Trong phút giây này, khỏanh khắc này, anh bỗng nhớ đến bao năm về trước, Huyền cũng đã e ấp gõ cửa nhà anh, cho anh cảm xúc xao xuyến bất ngờ.
- Dạ, em chào anh…
Khoa bối rối:
- Cô tìm ai? Cô có đi lầm nhà không?
- Dạ, em tìm anh Khoa…má em sai em đến giao cơm chiều cho anh.

Bây giờ Khoa mới để ý đến gỉo cơm trên tay cô gái. Thì ra lúc nãy anh vào nhà và quên không khóa cổng nên cô gái mới đến thẳng cửa nhà anh như thế này. Cô có đôi mắt to đen như nhung mang phảng phất nét buồn, làm người khác nhìn mà phải u uẩn theo. Dáng cô thon thon cao ráo, không lẽ cô là con gái bà Năm Thêu ? Người đàn bà suốt một thời tuổi trẻ chăm chỉ ngồi bên khung vải thêu, rua, đến nghọeo cả cổ và gù cả lưng ?
Thấy chủ nhà tần ngần chưa chịu tin, cô gái giới thiệu thêm về mình:
- Anh không nhớ em thì thôi, nhưng để em kể ra nhé, ngày xưa em hay sang nhà anh bồng em bé và đút cơm cho con anh đó, em là bé Mốc.
- Ôi, bé Mốc !!

Khoa reo lên, thêm một lần nữa ngạc nhiên, anh nhớ ngay ra con bé Mốc nhếch nhác ngày xưa, bây giờ lại biến hóa thành cô gái đẹp xinh, duyên dáng y như trong chuyện cổ tích. Giây phút gặp gỡ đầu tiên vẻ đẹp của cô làm anh chóang váng, bây giờ định thần nhìn kỹ lại, đúng là cô gái có những nét hao hao bé Mốc. Mà sao ngày xưa anh ghét nó thế? chỉ sợ nó lây cái vẻ xấu và bẩn của nó sang cho con anh thôi, nhưng Huyền vợ anh vốn thương người, muốn giúp nhà bà Năm Thêu chứ thuê mướn người bồng em đầy rẫy trong xóm, thiếu gì người khá hơn nó.

Cô gái thao thao kể tiếp:
- Nhà em nghèo, má em đã đưa em sang nhà anh chị, coi em, bồng em để anh chị cho chút tiền, được đồng nào hay đồng đó. Năm đó em 13 tuổi.
Khoa hỏi một câu ngẩn ngơ vì vẫn còn bối rối trước vẻ xinh đẹp của cô Mốc:
- Nhưng sao em lại là bé Mốc nhỉ?
- Má em nói hồi nhỏ em xấu xí, lại bẩn thỉu, mốc meo và ốm tong teo, bé xíu nên gọi em là bé Mốc chết tên luôn, còn tên thật của em không đẹp lắm, nhưng cũng…đỡ hơn. Em tên là Nguyễn thị Nâu.
Khoa thành thật:
- Dù bé Mốc ngày xưa hay cô Nâu ngày nay, cả hai tên đều lạ cả.
Cô Nâu mang giỏ cơm vào nhà, cô nhẹ nhàng và cẩn thận lôi ra chén bát, đũa thìa và cơm canh nóng hổi để lên bàn rồi nói:
- Mời anh dùng cơm kẻo nguội, má em nấu món dân quê theo ý anh, cần món gì anh cứ yêu cầu mỗi ngày nghe. Em về đây, lát nữa em sang thu dọn chén đũa.
- Sao cơm bình dân mà bát chén kiểu sang vậy cô Nâu?
Cô Nâu mỉm cười:
- Anh không nghĩ ra hả? vì anh là Việt Kiều thì cũng phải lịch sự với anh chứ, mấy chén đũa này má em mới sắm riêng để phục vụ anh đó.

Khoa cảm động ngẩn ngơ. Cô Nâu nói xong từ tốn cúi đầu chào và ra về, dù Khoa chỉ muốn cô ở lại nói chuyện, và dù có ăn cơm canh nguội lạnh anh cũng vui lòng.
Bà Năm Thêu cho anh ăn cơm với món đọt rau lang luộc chấm nước mắm tỏi ớt, và món tôm đất rim mặn. Qủa thật là ngon miệng..
Ăn xong Khoa rửa tất cả chén bát sạch sẽ và đợi chờ cô Nâu đến.
Cánh cổng ngoài vẫn chỉ khép để đợi cô vào tận cửa nhà, cô đến đúng hẹn, lần này cô lại thay cái áo khác. Thấy mọi thứ đã sạch sẽ sẵn sàng, cô Nâu không hài lòng:
- Kìa anh, sao anh lại rửa ?, lần sau anh cứ để em làm cho, đó là việc của em mà.
- Tôi rảnh cũng chẳng biết làm gì.
- Việt Kiều như anh hiền qúa chừng, người ta về Việt Nam là tưng bừng hoa lá ngoài đường, ngoài qúan đó anh.
Ngay từ đầu cô Nâu đã xưng hô “anh, em” nên Khoa cũng thoải mái, tự nhiên, dù ngày xưa con bé ranh này anh coi như đồ con nít.
- Nay mai anh cũng sẽ đi thăm bạn bè, họ hàng chỉ có gia đình ông chú chứ chẳng còn ai.

Lần này cô Nâu ngồi nói chuyện lâu hơn. Trong căn nhà vắng êm đềm cô gái như một bức tranh thiếu nữ rực rỡ bội phần làm tâm hồn đa cảm yếu đuối của Khoa bị choáng ngợp trước hào quang của cô Nâu.
Cô kể nhà cô từ xưa đến giờ vẫn nghèo, cô bỏ học khi xong bậc tiểu học, làm đủ thứ nghề lao động, và bây giờ thì ở nhà phụ với mẹ nấu cơm, bán cơm trong xóm lao động này. Đôi mắt cô có lúc lóng lánh như muốn khóc, Khoa phải chạnh lòng:
- Không ngờ hoàn cảnh em đáng thương thế.
Khi cô Nâu đứng lên chào tạm biệt ra về, Khoa tiễn cô ra cửa, khỏang cách hai người rất gần, mùi hương thơm nào đó từ người cô làm anh thoáng ngây ngất. Đôi mắt cô nhìn anh giùng giằng và sâu thẳm:
- Em về nhé. Mai anh có ăn cơm không?
Khoa trả lời không cần suy nghĩ:
- Coi như ngày nào anh cũng ăn cơm hai buổi, cho dù đi đâu anh cũng về ăn cơm…nhà.
Cô Nâu ngoan ngoãn:
- Dạ, em sẽ ngày hai buổi mang cơm phục vụ anh.
Cô Nâu về rồi, nhưng hình ảnh bé Mốc ngày xưa lại lần lượt hiện ra.

Dạo đó anh và Huyền ở trong căn nhà này, hai đứa con, đứa lên 4 và đứa lên 2. Vợ anh làm kế tóan tài chánh cho một công ty nước ngoài, còn anh là kỹ sư. Chiều đi làm về, mang hai đứa con từ nhà trẻ về, cả hai vợ chồng đều bận rộn nhiều chuyện khác. Thế là mới có chuyện con bé Mốc thỉnh thoảng sang nhà giữ em giùm để vợ anh nấu cơm, còn anh thì nghiên cứu đọc tài liệu bổ sung cho công việc đang làm tại hãng.

Bé Mốc qủa đúng là con bé nhà nghèo, quần áo lôi thôi cũ kỹ, đầu tóc rối ren, mặt thì nhem nhuốc, thế mà hai con anh lại thích bé Mốc, nó bồng bế hay đút cơm, đút cháo hai đứa đều ăn nhiều, có lẽ vì bé Mốc cũng trẻ con, biết cách chiều trẻ con?
Bé Mốc hay dẫn hai con anh ra chơi ở sân trước, chán lại ra vườn sau. Có lần anh thấy bé Mốc hái mấy dái mít non ở sau vườn chấm muối ớt ăn ngon lành. Tội nghiệp, con bé đói khát ăn rờ ăn rẫm, từ đó trở đi anh không còn ác cảm với nó nữa, cũng đồng tình với vợ anh để cho bé Mốc trông nom hai con khi vợ chồng anh bận bịu.

Những hôm không trông hai con anh, bé Mốc chạy ra khu mả Tây chơi đùa với lũ trẻ cùng xóm, mấy lần Khoa trông thấy nó leo trèo, nghịch ngợm hay lê la đất cát bẩn thỉu từ đầu đến chân.
Một buổi chiều anh ra vườn sau kéo nước giếng và tắm táp xong như thường lệ, vợ anh cũng đã xong công việc, chiều ấy Huyền thật xinh và tươi mát với bộ đồ mỏng mới may, làm Khoa bỗng dưng “thèm muốn”, anh kéo vợ vào phòng. Chợt trông thấy con bé Mốc bế em ở một góc nhà đang chăm chú nhìn theo vợ chồng anh, hình như nó hiểu chuyện và biết anh đang muốn gì?. Làm Khoa “quê”, liền bực mình gắt với nó:
- Bế em ra vườn chơi đi, chốc nữa hãy vào nhà.
Bé Mốc vội vã tay bế tay dắt hai đứa con anh ra vườn sau.
Nghĩ đến đây Khoa cười thầm, không biết cô Nâu có còn nhớ chuyện xưa ? Bây giờ anh sẽ “quê” hơn ngày đó nữa.

Từ ngày sang Mỹ, vợ anh trông coi một tiệm nail cho em gái mình, vì cô em có hai tiệm nail nên không thể ba đầu sáu tay qủan lý hết được. Cửa tiệm lâu năm, quen khách, đắt hàng nên cô em trả lương chị rất rộng rãi.

Còn Khoa học nghề trung cấp kỹ thuật hai năm và ra đi làm. Nhưng mới bị lay off , đang ngồi nhà ăn tiền thất nghiệp.
Gia đình thằng em vợ đến Mỹ mấy tháng nay, đúng là thời điểm thuận tiện cho Khoa về Việt Nam lo chuyện bán nhà cửa. Khoa về một mình vì Huyền bận 6 ngày một tuần với tiệm nail, không dứt ra được.

Căn nhà nhờ ông Tuyên đứng tên và chăm sóc giùm, hàng tháng vợ chồng Khoa vẫn tế nhị gởi biếu ông chú tiền coi như trả công lao chú hậu hỉ.

***

Cô Nâu đã trở thành hình bóng thân quen không thể thiếu, mỗi ngày mấy lượt đến giao cơm và lấy đồ về, lần nào cô cũng kín đáo tránh cho hàng xóm biết cô đã ở lâu với người đàn ông trong căn nhà vắng.

Hôm nào Khoa đi vắng về trễ thì anh hẹn mang cơm trễ, nên hầu như họ vẫn gặp nhau dù Khoa bận rộn đến đâu.
Đã có vài người khách đến xem nhà và đang thương lượng gía cả, Khoa không ngờ bà Năm Thêu nói đúng qúa, người mua sẵn sàng trả gía cao, nhưng anh còn chần chừ xem ai trả cao nhất mới quyết định. Mọi giấy tờ hợp lệ có sẵn, và ông Tuyên cũng sẵn sàng để ký tên.

Hôm nay Khoa về nhà hơi muộn, cô Nâu cũng vừa mang cơm đến. Dù đã ăn ở nhà bạn khá no, Khoa vẫn ăn cơm của cô Nâu cho cô vui lòng, và chính anh cũng muốn thế, để giữ chân cô. Nhiều ngày nay đã thân quen, cô ở lại đợi anh ăn cơm xong và dọn dẹp chén bát rửa ráy tại chỗ luôn. Họ đôi bóng như đôi vợ chồng son .

Khoa ngắm cô Nâu đang đứng rửa bát, cô mặc bộ đồ bộ lụa mát màu xanh nước biển nhạt, hở vai và đôi cánh tay trần giống như Huyền ngày nào đã làm anh bừng dậy một niềm khao khát. Hôm nay anh gặp lại niềm khao khát ấy.
Bất chợt cô Nâu quay đầu lại, nhìn nét mặt bần thần của anh, cô ngây thơ nũng nịu:
- Anh nhìn trộm em và chê em gì hả? hả?
Trong đôi mắt đen thăm thẳm của người con gái đầy vẻ bí hiểm và thông minh, có lẽ cô Nâu lại đọc được ý nghĩ trong đầu óc anh như khi cô chỉ là con bé Mốc 13 tuổi năm xưa.
Anh bối rối chưa biết nói sao thì cô gái nũng nịu tiếp:
- Bắt thền anh đó, anh nhìn em hoài làm em rửa chén không có sạch nè !!
Anh như bị mê hoặc đến bên cô Nâu và vòng tay ôm lấy đôi vai tròn của cô:
- Anh đền em đây…

Toàn thân cô gái tựa vào người anh, làm người anh nóng bừng lên, anh xiết chặt thân thể mềm mại của cô Nâu trong vòng tay của mình, thì thầm:
- Anh yêu em qúa Nâu ơi…
- Em cũng yêu anh…
Cô bạo dạn thêm:
- Em yêu anh từ hồi em còn là bé Mốc lận, anh không biết đâu, mỗi lần anh tắm em đều lẩn quẩn ở ngoài vườn, chỉ để ngửi mùi xà bông rất thơm tho của anh…
Cô áp mặt, dụi dụi vào ngực áo anh rồi hỏi:
- Sao bây giờ anh xài mùi xà bông khác ? em không thấy giống mùi cũ nữa…
Khoa càng mê man:
- Em yêu anh đến thế ư? Em nhớ cả mùi xà bông tắm của anh ư? Ừ, ngày xưa anh dùng xà bông Coast, qùa từ bên Mỹ gởi về, anh thích mùi ấy lắm, nhưng bây giờ anh qua Mỹ thì không còn xà bông hiệu này nữa, nên anh dùng loại khác.
- Có lần anh tắm xong, anh rủ chị Huyền vào phòng, em buồn lắm, em ganh với chị Huyền vì đã có anh.
- Trời ơi, em còn nhớ vụ ấy hả? Anh xin lỗi Nâu, hôm nay anh sẽ đền cho Nâu ….
Người Khoa như lên cơn sốt, quay cuồng, tối tăm mặt mũi, anh không biết gì đến trời đất bên ngoài. Chỉ có cô Nâu xinh đẹp và quyến rũ tuyệt vời trong căn nhà vắng đồng lõa, đồng tình.
Chiếm được thân thể cô Nâu với tình yêu đáp trả nhiệt tình của cô, Khoa bỗng là một chàng trai mới lớn đang yêu và si tình, ngày nào anh cũng mong chờ cô Nâu. Cách đây 6 năm làm sao Khoa có thể nghĩ sau này mình sẽ yêu con bé Mốc đến thế này?

Cánh cổng sắt ngôi nhà mở đón cô vào, và khép chặt để không bị ai làm phiền, ngoại trừ những lần có hẹn cho người môi giới dẫn khách đến coi nhà.
Anh yêu Nâu thật rồi hay chỉ là một cơn choáng ? anh chẳng tha thiết gì đến chuyện trở về Mỹ với vợ con. Khoa còn đang như một cánh buồm lênh đênh trên biển.
“ Anh chỉ là một cánh buồm tuyệt vọng,
Giữa biển khơi không biết rẽ lối nào?
Ở nơi đâu cũng là em, là sóng,
Vỗ vào đời anh hạnh phúc, thương đau”
Tình yêu đã làm anh lãng mạn, anh làm 4 câu thơ ấy, đọc cho cô Nâu nghe, không biết cô Nâu có hiểu thơ không mà cô đã khóc trong lòng anh.
Khoa buồn bã và thành thật khuyên cô:
- Dù muốn dù không anh cũng phải về Mỹ. Anh yêu em, nhưng không thể bỏ vợ con được. Em hãy quên anh đi Nâu nhé ?.
Cô Nâu trả lời trong nước mắt:
- Em chỉ lấy người đàn ông nào giống hệt như anh thôi, hoặc là em sẽ đợi chờ anh về Việt Nam thăm em, làm người vợ không bao giờ cưới của anh, giống như một tuồng cải lương cũ má con em hay coi….
- Tội em qúa ! mấy kiếp nữa anh cũng không đủ trả nợ tình cho em.
Khoa đã đồng ý bán nhà, vì không còn thời gian chần chờ thêm nữa. Khách hẹn sẽ đến coi lần cuối trước khi chồng tiền và tiến hành thủ tục giấy tờ.
Những ngày hiếm hoi còn lại anh càng say sưa yêu cuồng yêu vội cô Nâu hơn nữa.
Nhưng chiều nay người giao cơm không phải là cô Nâu mà là mẹ cô, bà Năm Thêu, làm Khoa thất vọng và ngạc nhiên.

Bà Năm Thêu theo Khoa vào trong nhà, tự động ngồi xuống ghế và lên tiếng trước:
- Tôi biểu con Nâu ở nhà để tôi sang nói chuyện với cậu.
Linh tính báo cho Khoa biết một điều gì đó không hay đang xảy ra cho Nâu và cho anh. Bà Năm Thêu nhìn thẳng vào mặt Khoa và tiếp như quan tòa lên án:
- Tôi đã biết chuyện tằng tịu giữa cậu và con Nâu nhà tôi. Bây giờ cậu tính sao?
Biết không thể chối cãi được, Khoa đành buông xuôi:
- Tôi trót yêu Nâu, yêu rất nhiều bác biết không?
- Nhưng cậu cũng phải tính sao chứ, không lẽ cậu hưởng con nhỏ cho đã đời rồi khơi khơi về Mỹ với vợ con cậu như không có chuyện gì xảy ra ?
Khoa khổ sở:
- Tôi cũng không biết mình phải làm gì nữa, thật tình tôi đau buồn khi chia tay Nâu.
Bà Năm Thêu đanh thép:
- Cậu phải cưới nó, giữ danh dự đời con gái cho nó.
Khoa hoảng hốt:
- Bác Năm Thêu biết tôi còn vợ, còn con mà…
Giơ cao đánh khẽ, bà Năm Thêu xuống giọng tử tế:
- Thôi, không ai nỡ làm gia đình cậu xào xáo ly tan, nhưng cậu phải đền bù đời con gái con tôi cho xứng đáng, cậu giúp nó một số tiền làm vốn, làm lại cuộc đời. Tôi sẽ bỏ qua chuyện này.

Khoa cũng đã nghĩ tới điều này, vì tình yêu anh dành cho cô Nâu chứ không phải vì bị cưỡng bức, đòi hỏi như bây giờ, nên Khoa đồng ý ngay:
- Điều này tôi có thể làm được, tôi cũng muốn giúp Nâu có cuộc sống khá hơn.
Bà Năm Thêu đòi hỏi huỵch toẹt:
- Cụ thể tôi đề nghị cậu cho nó 10 ngàn đô la Mỹ.
- Mười ngàn đô la Mỹ?
Thấy phản ứng của Khoa sửng sốt ngạc nhiên và không hài lòng bà Năm Thêu giáng một đòn đe dọa:
- Nếu cậu muốn trong ấm ngoài êm, chuyện tình của cậu và con Nâu hàng xóm láng giềng chưa ai hay biết đâu. Tôi thề sẽ giữ kín, cậu mới bán nhà được gía qúa mà, tiếc chi món tiền này.
Mười ngàn đô la là số tiền không nhỏ, ngoài dự tính của Khoa, nhưng tội anh to lớn qúa, làm hại đời con gái trinh trắng của cô Nâu, và anh cần bảo vệ hạnh phúc gia đình, với gía ấy vẫn còn rẻ.
Khoa ngẫm nghĩ và đồng ý. Cũng may anh chưa gọi phôn báo cho vợ về gía cả căn nhà mà anh vừa quyết định bán, nên anh có thể thêm đầu này bớt đầu kia cho hợp lý và Huyền sẽ tin, miễn là bán xong căn nhà cho rảnh tay.

***

Khoa về Mỹ, lại lao vào cuộc sống hàng ngày.
Một năm trôi qua, tình yêu nóng bỏng dành cho cô Nâu qủa là một cơn chóang, đã vơi dần theo ngày tháng vì xa mặt cách lòng. Khi lạc vào biển yêu trong hoàn cảnh trái ngang ai cũng chỉ là cánh buồm tuyệt vọng, ngẩn ngơ.
Bây giờ tỉnh người ra anh mới thấy mình hư qúa, vô tình đã phản bội vợ và hại đời con gái của cô Nâu .
.Anh thấy lòng tạm thanh thản, với 10 ngàn đô la, có thể đã giúp cô Nâu hay gia đình cô thay đổi cuộc sống khá hơn với một ngành nghề nào đó. Anh chỉ cầu mong cô Nâu sẽ gặp được người đàn ông giống anh, cho cô yêu và lấy làm chồng thì anh mới thật sự yên tâm.
Một hôm Huyền hỏi chồng:
- Anh có nhớ nhà bà Năm Thêu ở phía sau nhà mình ngày xưa không?
Khoa giật bắn người, tim anh đập thình thịch chỉ sợ nghe vợ nói ra những điều tội lỗi thầm kín của anh, nhưng Huyền vẫn vô tư kể tiếp:
- Bà Năm Thêu má bé Mốc, con bé ngày xưa bế con mình đó, nhớ ra chưa?
Khoa dè dặt:
- Biết rồi, sao?
- Chị bạn cùng xóm mới về Việt Nam qua kể lại là năm rồi nhà bà Năm Thêu trúng mối gì không biết, bỗng khá gỉa lắm, có tiền sắm ti vi, xe gắn máy và đồ đạc trong nhà. Nhưng sắm bao nhiêu bà lần hồi bán bấy nhiêu vì bài bạc và số đề…
Khoa buột miệng:
- Tội nghiệp qúa !
Vợ anh chép miệng theo:
- Chưa tội nghiệp bằng con Mốc, tên nó là Nâu, bây giờ người ta đồn nó bị bệnh Aids rồi, nên hàng cơm bà Năm Thêu bị ế ẩm, không ai dám ăn, cảnh nhà càng khốn khổ.
- Trời ơi ! cô Nâu bị..bị…??
Vợ anh lập lại:
- Bị bệnh Aids, tội con bé qúa hở anh? Bé Mốc hồi mới lớn, mới trổ mã đã đi bán bia ôm, làm gái rồi, nhưng kiếm tiền sao cho xuể với người mẹ ham mê bài bạc quanh năm suốt tháng. Trước sau gì cũng đi đến bước đường cùng này thôi.

Trong lời nói và cử chỉ của vợ, Khoa tin là Huyền không hề hay biết gì chuyện tình cảm của anh và cô Nâu. Bà Năm Thêu dù là người tệ hại thế nào, ít ra cũng biết giữ lời hứa, không xì ra chuyện anh đã ngủ với con gái bà, mà nói ra thì mẹ con bà cũng mang tiếng xấu chứ hay ho gì. Có lẽ đó mới là cái “tình làng nghĩa xóm” của bà, mà anh mong muốn nhất.

Bây giờ Khoa đã hiểu vì sao bà Năm Thêu đon đã hỏi thăm anh, mời anh ăn cơm hàng nhà bà và gài độ cho cô Nâu, đứa con gái đã từng bán thân nuôi miệng, nuôi cả gia đình, đến với anh, như một đứa con gái trong trắng con nhà nghèo hiền lành, để anh lọt vào cạm bẫy tình yêu của mẹ con cô.

Bây giờ anh cũng hiểu con bé Mốc thuở lên 13, không hề là đứa trẻ ngây thơ, nó đã tinh ranh, biết rình rập khi anh tắm và khi vợ chồng anh vào phòng ngủ.
Thảo nào khi hai người gần gũi, cô Nâu đã tỏ ra rất nhiệt tình, biết cách làm cho anh thêm say đắm.

Suốt mấy tuần lễ cô Nâu mang cơm cho anh, cô đã đóng vai kịch con nhà nghèo, ngây thơ, thật xuất sắc, qua mặt thằng đàn ông thật thà và nhiều tình cảm như anh dễ dàng. Những giọt nước mắt, những lời thổn thức yêu đương của cô dành cho anh, có lẽ cô cũng từng dành cho nhiều người đàn ông khác để làm họ hồn siêu phách tán. Đó là nghề của cô.
Khoa thấp thỏm lo âu lén vợ đi thử máu, xem có dương tính HIV không, có bị lây nhiễm từ cô Nâu không? mặc dù một năm qua anh không thấy có dấu hiệu gì khác lạ cho sức khỏe.
Kết qủa thử máu làm anh sung sướng như vừa được cứu sống từ cõi chết, anh bình thường không hề bị HIV.

Có thể cô Nâu bị bệnh HIV nhưng may mắn cho anh đã không bị lây nhiễm? hoặc có thể sau khi chia tay anh cô Nâu mới bị bệnh HIV, khi cô giao tiếp với những người đàn ông khác??
Thôi, dù vì lý do gì anh cũng hãy cảm tạ thượng đế đã che chở cho anh an toàn sau một cơn sốt tình mê dại.
Anh đã trả gía cho cơn sốt tình ấy 10 ngàn đô la, qúa đắt so với “gía cả” bình thường của cô Nâu “đi” với những người đàn ông khác, và suýt nữa bằng cả sinh mạng của anh và vợ anh, cũng như tương lai của hai con sẽ ảnh hưởng không biết tai hại đến chừng nào.


Nguyễn Thị Thanh Dương

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Jun/2018 lúc 12:10pm

Con Thi Trường Học, Mẹ Thi Trường Đời


Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con thi trường học, mẹ thi trường đời.

(Ca dao)

Quỳnh ngồi dưới hàng ghế khán giả, nhìn lên sân khấu của trường Đại Học Duke Univesity, nơi mà chút nữa đây, Thắng, con trai của Quỳnh, sẽ nhận mảnh bằng Tiến sĩ. Quỳnh bỗng đưa tay lên lau vội dòng nước mắt. Năm nay Thắng 25 tuổi, và cũng 26 năm qua Quỳnh trải nhiều nỗi niềm cay đắng. Giang đã không còn nữa. Nếu không vì con, có lẽ Quỳnh đã không sống nổi.

Ngày ấy Quỳnh học trường Nữ Trung Học Trưng Vương Sài Gòn, Giang học trường Chu Văn An. Sau khi thi đậu Tú Tài II, Giang được gia đình lo đi du học nhưng lúc ấy chiến cuộc lên cao, Giang bảo Quỳnh:
- Quỳnh ạ, anh không đi du học đâu, anh vào quân trường Thủ Đức. Làm sao anh an tâm đi du học cho được, anh ruột của anh tử trận, bây giờ anh phải cầm súng để bảo vệ đất nước mình.
Mặc cho gia đình và Quỳnh can ngăn, Giang cũng bước vào quân trường Thủ Đức. Ngày ra trường, Giang tình nguyện đi vào binh chủng Biệt Động Quân và từ đó Quỳnh sống với nỗi niềm nhung nhớ, lo âu. Sau những lần chờ đợi Giang đi phép mới về thăm Quỳnh được, Quỳnh nói với Giang:
- Mình làm đám cưới đi anh, anh đi đâu, em cũng sẽ đi theo anh. Em cứ ở Sài Gòn trông ngóng tin anh, em chịu hết nổi rồi.
- Anh chỉ lo em làm góa phụ thì khổ cho em, Quỳnh ạ.
- Nhưng xa anh, em không chịu được.
Thế là Quỳnh theo Giang sống ở những khu gia binh, ở những vùng xa lạ, đèo heo hút gió. Mồng hai tết năm 75, Quỳnh sanh đứa con trai đầu lòng, Giang mừng lắm, chàng đặt tên con là Khôi:
- Anh mong sau này thằng bé sẽ khôi ngô tuấn tú như bố nó vậy.
Vừa nói Giang vừa cười, rồi Giang quay qua Quỳnh:
- Tội nghiệp em quá Quỳnh ơi. Em mệt lắm phải không?
Theo vận nước nổi trôi, Giang cũng đi học tập như bao chiến hữu khác. Rồi cũng lại những tháng ngày Quỳnh sống cô đơn, đi thăm nuôi Giang. Sao số phận của Giang và Quỳnh cứ mãi sống xa nhau?

Năm 1983, sau khi về nhà được hai tháng, Giang quyết định đi vượt biên cùng với Quỳnh và cu Khôi. Không may thuyền của Quỳnh gặp hải tặc, Giang chống cự lại chúng để bảo vệ mẹ con Quỳnh. Không vũ khí, lại nhịn đói nhịn khát suốt mấy ngày liền, sức Giang yếu đi nhiều, nên cuối cùng Giang bị tụi hải tặc dùng búa đập vào đầu Giang và ném Giang xuống biển. Trước đó, Giang đã căn dặn Quỳnh, dù thế nào đi nữa, em phải cố gắng nuôi cu Khôi nghe em. Lúc vào trại tỵ nạn, không có Giang bên cạnh, nhiều lần Quỳnh tuyệt vọng muốn chết đi, nhưng nhìn cu Khôi và bên tai còn vang lại lời dặn dò của Giang, Quỳnh gắng gượng sống.

 


Hai tháng sau đó, khi biết được có thai, Quỳnh bị khủng hoảng, không biết như thế nào bây giờ. Cái thai này là của tên hải tặc hôm đó, Quỳnh có nên giữ đứa bé này không? Nếu phá thai, ở trại tỵ nạn với điều kiện y tế thiếu kém không biết Quỳnh có còn được sống để nuôi dạy bé Khôi nên người?
Quỳnh hỏi bé Khôi:
- Khôi nè, con muốn có em bé không?
Giọng Khôi ngây thơ:
- Con muốn có thằng anh. Mẹ đẻ cho con thằng anh đi mẹ.
- Mẹ đâu đẻ ra thằng anh cho con được nữa. Bây giờ con làm anh, con có chịu không? Con sẽ có em bé, con thích không?
- Em trai hay em gái vậy mẹ?
- Con thương em trai hay em gái?
- Nó có thương con không mẹ?
- Anh em thì phải thương nhau chứ. Con thương nó thì nó sẽ thương con.
- Vậy mẹ đẻ cho con em trai đi mẹ.
Quỳnh xoa đầu Khôi, cười buồn, Giang ơi, anh muốn em như thế nào đây? Em giữ đứa bé hay bỏ nó?
Khi phái đoàn Mỹ hỏi Quỳnh muốn định cư nơi nào ở nước Mỹ, Quỳnh đã trả lời là nơi nào có trường Đại học tốt để cho con Quỳnh sau này được học. Vậy là mẹ con Quỳnh được đưa đến thành phố Durham, North Carolina, nơi có trường Đại học Duke nổi tiếng. Duke là trường đại học tư thục không những nổi tiếng về Y khoa mà còn nổi tiếng về môn bóng rổ (basket ball). Có lẽ ông Mỹ phỏng vấn Quỳnh là fan của trường Duke cho nên ông ta đưa Quỳnh về thành phố này.
Quỳnh gọi điện thoại liên lạc với anh chị của Giang đang sống ở Cali, cho biết Quỳnh vừa đến Mỹ. Nhưng khi Quỳnh tỏ thật là Quỳnh đang mang thai đứa bé của cái đêm kinh hoàng đó thì mọi người đã quay lại nguyền rủa Quỳnh không tiếc lời. Họ từ bỏ Quỳnh và cả thằng bé Khôi luôn. Anh chị ruột của Quỳnh cũng không thông cảm:
- Tôi không hiểu sao cô còn giữ lại cái chứng tích đó làm gì? Lớn lên, nó cũng sát nhân như bố nó cô tính sao? Cô liệu có thương nó nổi không?
Đáp lại sự cư xử của anh chị, Quỳnh chỉ biết ôm mặt khóc. Quỳnh biết nếu Giang còn sống, Giang cũng không đồng ý cho Quỳnh phá thai. Dù sao, đứa bé cũng vô tội. Nó cũng là một con người. Nó được quyền sống. Quỳnh tin là "Nhân chi sơ tính bản thiện", nếu đứa bé được sống trong tình thương chắc là nó sẽ hiền lành, ngoan ngoãn. Và lại Quỳnh cũng sợ khi phá thai có sơ sót gì thì bé Khôi sẽ trở thành đứa bé mồ côi, Quỳnh không đành lòng. Sau năm 1975, việc phá thai, nạo thai đối với một số người là việc bình thường, riêng với Quỳnh, Quỳnh thấy tàn nhẫn quá. Nhà thờ bảo trợ cũng báo cho Quỳnh biết, trường hợp của Quỳnh, nếu Quỳnh muốn phá thai, chính phủ sẽ tài trợ.
Bao nhiêu rối rắm, Quỳnh không biết tính ra sao. Một thân một mình, nuôi hai đứa trẻ, không biết Quỳnh có lo liệu nổi không? Tiếng Anh thì Quỳnh lại không rành. Một lần, sau khi đi nhà thờ với gia đình người bảo trợ, bé Khôi sà vào lòng Quỳnh và khóc:
- Mẹ, mấy đứa kia tụi nó không cho con chơi chung, phải chi con có em bé chơi chung với con?
Từ câu nói của bé Khôi, Quỳnh quyết định giữ lại đứa bé này. Bởi vì Quỳnh biết, Giang mất rồi, trọn cuộc đời Quỳnh sau này, Quỳnh sẽ không thương ai được nữa. Đứa bé này sẽ là em của bé Khôi. Dù sao, chúng cũng cùng một mẹ. cùng mang dòng máu của Quỳnh, Quỳnh tin là chúng sẽ thương yêu nhau.
Tuy được nhà thờ giúp đỡ, nhưng Quỳnh cũng lao vào xin việc làm. Quỳnh vừa đi làm vừa học ESL. Vốn liếng tiếng Anh của Quỳnh ở những ngày học trường trung học vừa đủ cho Quỳnh nói chuyện kèm thêm phụ đề tay chân thì tụi Mỹ mới hiểu. Bé Khôi được học elementary school và sau đó được ở after school, có xe school bus đưa rước. Quỳnh xin được chân thợ nướng bánh ở tiệm Wellspring grocery store. Cũng may bà manager thấy Quỳnh tội nghiệp, nên nhận Quỳnh và còn nhờ cô bạn Mỹ đưa rước Quỳnh đi làm. Quỳnh đi làm từ 5 giờ sáng đến 2 giờ rưỡi chiều thì Quỳnh đi xe bus đi học ESL. Một hôm cô bạn Mỹ lúc đến đón Quỳnh khoe cô ta mới mua được chiếc xe. Tuy used car nhưng cũng còn tốt lắm. Quỳnh muốn khen lấy lòng cô ta mua được xe rẻ, Quỳnh vẫn còn cách giao thiệp của dân Việt Nam, khi bạn bè mua được món gì mới là cứ khen lấy khen để, bác mua rẻ quá, Quỳnh bèn bảo cô ta:
- Wow! You bought a cheap car!
Cô bạn Mỹ sửng sốt, cô ta quay lại hét Quỳnh:
- Did you say I bought a cheap car?
Quỳnh gật đầu công nhận:
- Yes, you bought a cheap car!
Cô ta ngừng xe ngay tức thì:
- Get out of my car!
Quỳnh hỏi:
- Why?
Cô ta không trả lời, nét mặt đanh lại. Quỳnh ngạc nhiên quá đỗi, không hiểu vì sao cô ta lại bỏ mình giữa đường lúc trời hãy còn tối như thế này. Quỳnh đành lê bước đến chỗ làm.
Sau đó, khi vào nhà bếp, nơi Quỳnh nướng bánh, Quỳnh đã thấy là lạ. Thường ngày, mấy người thợ chào hỏi Quỳnh vui vẻ, "Good morning" ỏm củ tỏi, hôm nay chẳng ai thèm ngó tới Quỳnh. Bà xếp kêu Quỳnh lên văn phòng nói chuyện. Mặc dù đang ở đất Mỹ, nhưng mỗi khi nghe xếp gọi lên văn phòng là Quỳnh cứ run. Thời gian ở tại Việt Nam cứ hội họp phê bình kiểm điểm, phê và tự phê làm Quỳnh khủng hoảng. Cho nên khi qua Mỹ, nghe xếp kêu là Quỳnh đâm sợ.
Bà xếp bảo Quỳnh:
- Lisa (tên cô bạn Mỹ) bảo tôi là cô nói cô ta mua "cheap car" phải không?
- Dạ, đúng rồi!
- Trời đất, cô ta khóc rồi kìa. Cô có biết "cheap car" là chê hay không?
- Tôi tưởng "cheap car" là "inexpensive" có nghĩa là "good deal".
Khi bà xếp giải thích, mọi người cười ồ và từ đó, mấy người bạn làm chung, gọi Quỳnh là Quỳnh cheap car.
Vì muốn để dành tiền khi nghỉ sanh, Quỳnh đi làm 2 jobs full time. Job thứ hai Quỳnh làm ở nhà hàng Ấn độ. Cũng may Quỳnh làm ở những nơi ăn uống, nên Quỳnh không phải nấu ăn cho bé Khôi. Mỗi ngày Quỳnh đem thức ăn từ tiệm về. Tội nghiệp thằng bé, thức ăn Ấn độ nhiều gia vị nhưng bé Khôi cũng ráng nuốt.


* * *


Lúc bé Thắng được sinh ra, Quỳnh cứ tưởng là thằng bé sẽ đen thui và tóc quăn quíu như hình ảnh tên hải tặc lúc đó. Nhưng không phải, da bé chỉ hơi ngâm đen, giống như làn da rám nắng của mấy tụi Mỹ trắng hay đi tanning. Gương mặt bé có nhiều nét giống Quỳnh.
Mỗi khi đi làm về, Quỳnh lui cui dưới bếp nấu thức ăn cho hai đứa con, Khôi ôm bé Thắng vào lòng ở bộ ghế sa lông coi Ti Vi. Sau này mỗi khi Quỳnh la Thắng cái chuyện coi Ti Vi là Thắng đổ thừa tại hồi nhỏ anh Khôi ẳm con coi Ti Vi hoài chi, cho nên con quen tật coi Ti Vi rồi. Lần lễ Easter, Quỳnh cũng luộc trứng gà và cho Khôi cùng vài đứa bạn của Khôi chơi trò tìm trứng. Sau đó, bọn nhỏ lột trứng gà ra ăn, đã làm Quỳnh hoảng hồn, cứ gạn hỏi, hỏi mãi Khôi có đút cho bé Thắng ăn không. Quỳnh sợ bé Thắng nuốt phải trứng gà sẽ ngộp thở.
Có những buổi tối, nhìn hai đứa con nằm ngủ, Quỳnh chợt nghe cô đơn. Quỳnh nhớ Giang ngập lòng. Quỳnh thèm một vòng tay nâng đỡ, thèm nghe những lời chăm sóc, thèm nghe lời nói ngọt ngào "Anh yêu em" của Giang ngày xưa. Giang đã ra đi vĩnh viễn, họ hàng từ bỏ Quỳnh, Quỳnh muốn khóc với một ai đó, nhưng đâu có ai cho Quỳnh mượn một bờ vai.
Ba mẹ con Quỳnh thuê apartment một phòng trong một vùng Mỹ đen cho rẻ. Mấy tụi Mỹ đen hay gõ cửa nhà Quỳnh để bán những món hàng chúng ăn cắp được. Từ quần áo, giày dép, đồ chơi, xe đạp đến thịt cá, món nào cũng có. Mặc dù Duke là trường Đại học nổi tiếng nhưng thành phố Durham lại là crime city. Thành phố này có rất nhiều tội ác xảy ra. Hình như khoảng năm 2003, có rất nhiều vụ giết người xảy ra trong thành phố này, chỉ trong vòng 6 tháng đã thay đổi liên tiếp 5 vị cảnh sát trưởng. Quỳnh lo sợ ở mãi nơi đây, hai đứa con của Quỳnh sẽ bị ảnh hưởng, Quỳnh quyết định đi học lại. Quỳnh ghi tên vào trường North Carolina State University. Khi nhận được giấy báo nhập học kèm thêm được ở nhà housing của trường, lại được grant và loan, Quỳnh đã rơi nước mắt. Quỳnh ôm hai đứa con lại và khóc nức nở. Bé Thắng chỉ vừa tròn một tuổi không hiểu gì, Khôi nắm tay Quỳnh:
- Ai làm mẹ khóc vậy, nói bé Khôi, bé Khôi đánh họ cho?
- Tại mẹ vui quá nên mẹ khóc.
- Buồn mới khóc chứ mẹ!
Quỳnh muốn gọi điện thoại báo tin cho anh chị của Giang cũng như anh chị Quỳnh nhưng lại sợ nghe những lời đay nghiến nên Quỳnh đành thôi.
Khi Thắng được 5 tuổi, một hôm Thắng hỏi Quỳnh:
- Có phải mẹ xin con từ viện mồ côi về mẹ nuôi không mẹ? Mẹ nói thật đi mẹ. Con cho phép mẹ nuôi con nhưng mẹ phải nói thật cho con biết.
- Sao con nói vậy chứ?
- Tại con thấy ở nhà con không giống ai hết. Con không giống mẹ mà cũng không giống anh Khôi. Có phải mẹ tới viện mồ côi, mẹ thấy con đứng khóc tội nghiệp quá nên mẹ xin con về nuôi không?
Quỳnh ôm Thắng vào lòng mà nghe thương con vô vàn. Quả thật, càng lớn, Thắng lại càng có những nét dị biệt, nước da Thắng đen hơn hồi nhỏ. Mắt Thắng to và chân mày rậm. Gương mặt Thắng xương xương, còn gương mặt Khôi và Quỳnh thì tròn. Da Khôi trắng chứ không đen như da Thắng. Hai đứa bé không giống nhau chút nào. Không ai tin chúng là anh em ruột cả. Mỗi khi Quỳnh đi đâu với Thắng, thiên hạ cứ tưởng Quỳnh là bà vú nuôi trẻ, không ai tin Quỳnh là mẹ của bé Thắng cả. Quỳnh lấy giấy khai sinh ra cho Khôi và Thắng cùng xem:
- Hai con là anh em ruột, đều do mẹ sinh ra, cho nên hai con phải luôn thương yêu nhau. Lỡ mẹ chết đi, Khôi phải có trách nhiệm nuôi em Thắng và cho em Thắng đi học nghe không?
Khôi trả lời:
- Con nuôi em được rồi, nhưng nếu mẹ chết, mẹ phải để tiền lại con mới có đủ tiền nuôi em.
Nghe Khôi trả lời, Quỳnh bỗng cảm thấy một nỗi lo sợ mơ hồ, chẳng may Quỳnh chết đi, hai con còn nhỏ quá, ai sẽ thương yêu và lo cho chúng?
Quỳnh vừa đi học full time, vừa đi làm full time, nên một hôm Quỳnh phát hiện là Quỳnh bị ho lao. Mặc dù ho lao không phải là bệnh bất trị như ngày xưa nhưng nó cũng hành Quỳnh đau đớn và mệt mỏi. Bác sĩ nói nếu không nghỉ ngơi và chữa trị đúng cách, Quỳnh cũng có thể bị chết như thường. Cũng trong lúc này tiểu bang có kỳ thi tuyển chọn học sinh xuất sắc, Khôi được trường đề cử đi dự thi. Từ ngày qua Mỹ, lúc nào Khôi cũng là học sinh xuất sắc toàn trường tiểu học cho đến trung học. Mỗi khi nghe trường học của Khôi gọi điện thoại cho Quỳnh, toàn là báo tin nhận giấy khen, nhận phần thưởng, hay là được đi ăn dinner với hiệu trưởng, mayor, governor. Thắng thì trái lại, trường của Thắng gọi đến là để chỉ báo tin Thắng đánh lộn bị phạt hay là phải đi học thêm ngày thứ bảy tại vì trong lớp Thắng hay nói chuyện. Có lần Thắng kể cho Quỳnh:
- Cái thằng Tom dám gọi con là Chinese boy. Nó lại lấy hai ngón tay kéo dài hai con mắt của nó làm như con là mắt hí vậy. Con đục nó liền, con nói nó, tao là Vietnamese boy nghe mậy, không phải là Chinese boy đâu. Nó đâu dám đánh lại con. Nó sợ con rồi. Con đánh đau lắm đó.
Quỳnh lo sợ tính của Thắng bạo động giống bố của nó chăng. Hai đứa con cùng do Quỳnh nuôi dạy mà tính tình chúng chẳng giống nhau chút nào. Trái với bé Thắng, mỗi lần đi học, bị bạn chọc là bé Khôi chỉ về nhà khóc với mẹ. Từ lúc học lớp 6, bé Khôi đã rất giỏi về computer. Thời điểm này, computer rất mắc, Quỳnh mua trả góp đến trên sáu ngàn đồng cho Khôi chiếc computer đầu tiên. Cũng từ đó, Khôi táy máy, quậy phá chiếc computer. Một hôm, Khôi về đưa cho Quỳnh 3 đô:
- Con làm ra tiền rồi mẹ.
- Con làm gì mà kiếm được tiền?
- Ông thầy dạy Toán của con bị hư computer, con sửa cho ổng, ổng cho con 3 đô.
- Sao ổng biết con biết sửa computer?
- Hôm trước, con sửa computer cho cô giáo dạy tiếng Anh, cô giáo mua cho con cây kem, rồi cô giáo con nói ổng biết. Hôm nay con đang học giờ tiếng Anh, ổng gọi con qua lớp ổng sửa cho ổng. Me biết không, con sửa có 10 phút hà, con được 3 đô.
- Lỡ nó bị hư nữa thì sao con?
- Con bảo đảm không bị hư nữa đâu. Nhưng nếu hư, con sửa lại hổng ăn tiền.
Kỳ thi xong, Khôi được hạng nhất toàn tiểu bang North Carolina. Hôm tuyên bố kết quả, ông governor của tiểu bang tham dự, có báo chí và phóng viên đài truyền hình Ti Vi phỏng vấn. Khôi được trường MIT, Stanford, Havard, Duke mời học, nhưng những trường này quá xa Raleigh, nơi Quỳnh đang ở. Lúc này Khôi chỉ mới có 16 tuổi, Quỳnh không đành lòng để con đi xa. Quỳnh nói với Khôi:
- Con học ở North Carolina State University đi con. Tuy là trường chính phủ, không nổi tiếng lắm, nhưng cũng là trường tốt, con lại ở gần mẹ.
Quỳnh mong bé Khôi vào trường Đại học sớm để lỡ khi Quỳnh bị bệnh lao chết đi thì Khôi cũng có tương lai. Khôi được vào trường đại học năm 16 tuổi, không phải qua chương trình trung học. Khôi còn được lãnh học bỗng và tiền grant. Quỳnh được nhẹ gánh lo về Khôi, Quỳnh bớt đi làm việc nên bệnh lao cũng giảm bớt.
Hàng ngày khi về đến nhà, cả ba mẹ con Quỳnh đều lo làm homework nên bà bạn Mỹ hàng xóm gọi gia đình Quỳnh là homework family. Khi nghỉ hè, thay vì đưa Thắng đi summer camp tốn tiền, Quỳnh hay dắt Thắng theo Quỳnh vào lớp học. Quỳnh cho Thắng ngồi ở cuối lớp lấy sách ra đọc hay vẽ tranh. Có lẽ do đó mà Thắng ham học hơn ham chơi. Ngày Quỳnh tốt nghiệp Đại học, hai đứa con cùng dự lễ tốt nghiệp của Quỳnh. Cầm mảnh bằng trong tay, Quỳnh đã khóc, cám ơn nước Mỹ, nước Mỹ đã tạo điều kiện cho Quỳnh, một người mẹ đơn thân nuôi hai đứa con nhỏ, được tốt nghiệp đại học. Quỳnh nghĩ đến bố mẹ Quỳnh ngày xưa không biết sao nuôi nổi cả chục đứa con. Quỳnh nhớ đến Giang. Giang ơi, nếu anh ở bên cạnh em chắc là em không vất vả như bây giờ.
Khôi bảo với Quỳnh:
- Bây giờ mẹ tốt nghiệp Đại học, mẹ có good job rồi, mẹ đừng nên cho bé Thắng vào Đại học sớm như con. Mẹ biết không, vào Đại học sớm, bạn con toàn lớn tuổi hơn con, con không có bạn, con không có thời niên thiếu, mẹ à. Nhiều khi con ước gì con quay lại thời Trung học.

Nghe Khôi nói, Quỳnh thấy tội nghiệp cho con vô cùng. Một thân một mình ở nước Mỹ, không người thân, không bạn bè, Quỳnh vừa đi vừa dò dẫm từng bước, lúc nào cũng sợ bị vấp ngã. Nhưng cuộc đời tránh sao những thiếu sót cơ chứ. Quỳnh thường căn dặn hai con:
- Chúng ta là người Việt Nam, không phải Mỹ, chúng ta lại chẳng có thừa hưởng tài sản nào cả. Do đó chúng ta phải làm việc gấp hai gấp ba một người Mỹ bình thường thì ta chỉ mới được đánh giá là người bình thường. Còn nếu muốn là người xuất sắc, các con phải cố gắng gấp mười lần người ta.
Khi Quỳnh nhận việc làm ở tiểu bang Georgia thì bé Khôi được làm giáo sư giảng dạy ở trường Đại Học North Carolina cho nên chỉ có Quỳnh và bé Thắng đi Georgia thôi. Đến khi vào Đại học, Thắng lại về học ở trường Duke North Carolia. Quỳnh sống một mình, nhớ hai con và nhớ Giang quay quắt. Bây giờ Quỳnh đã già đi nhiều, tóc đã bạc thành màu muối tiêu, mắt đã mờ, lưng đã còng xuống.
Quỳnh nhìn lên sân khấu, Thắng đang bắt tay ông thầy chủ nhiệm khoa đang trao cho Thắng tấm bằng Tiến sĩ. Những ngọn đèn lóe sáng từ những chiếc máy chụp hình làm rạng ngời thêm gương mặt của Thắng. Quỳnh mỉm cười, quyết định của Quỳnh ngày xưa giữ lại đứa con này quả thật là một quyết định hoàn toàn đúng.
Khôi nói với Quỳnh:
- Mẹ về hưu đi mẹ. Con và Thắng sẽ lo cho mẹ đi du lịch vòng quanh thế giới.
Khôi nói thêm vào:
- Đúng rồi đó mẹ, con không muốn thấy mẹ đi làm cực khổ nữa đâu.
Quỳnh vòng tay qua ôm hai đứa con mà nghe hạnh phúc ngập tràn. Cả hai đứa đều hét lên:
- Sao hồi xưa con thấy mẹ cao, bây giờ mẹ lùn quá mẹ ơi!.

Thanh Huyền



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Jun/2018 lúc 8:06am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 27/Jun/2018 lúc 1:41pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 124 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.377 seconds.