Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 125 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/May/2019 lúc 1:17pm

Nỗi Đau Vẫn Còn Đó 


Sáng nay, ông thức dậy sớm hơn thường lệ. Nói là thức dậy sớm chứ thực ra, suốt đêm hôm qua ông có chợp mắt được chút nào đâu. Ông mãi suy nghĩ về việc thằng Thành, con ông phải đi về Việt Nam làm việc theo sự chỉ định của công ty. Ông không dám trách móc về việc làm của nó. Ông chỉ biết buồn vì thằng con của ông không còn chọn lựa nào khác. Ông biết vậy nhưng cũng đã thăm dò thằng con.

Con không thể xin chuyển qua làm bộ phận khác và ở lại đây với Ba được sao"


Hỏi chỉ để hỏi mà thôi. chứ thực ra ông đã biết câu trả lời như thế nào rồi. Trong thời buổi người khôn của khó lúc này, người ta còn tranh giành, đấu đá lẫn nhau để có công ăn việc làm. Trong khi thằng con ông được đề cử đi mà ông lại mong muốn nó từ chối. Thật là nghịch lý. Biết đi là tốt cho con, nhưng ông vẫn cảm thấy áy náy sao đó trong thâm tâm. Phải chi hắn được đổi qua một nước nào khác, không phải Việt Nam thì ông không cần bận tâm cho lắm.

Nghe ông hỏi như vậy. Nó cảm động lắm. Nó nói với ông rằng, con biết con đi Ba ở lại một mình đơn chiếc rất buồn. Nhưng nếu con không đi thì coi như mình tự ý bỏ việc. Trong khi đó, rất nhiều người cầu mong để có được cơ hôi này. Thôi thì để con nói chuyện với vợ chồng con Tâm thu xếp để Ba về trên đó sống với tụi nó một thời gian.

Ấm nước reo sôi trên bếp đã lâu, ông vẫn không nghe thấy. Ông mãi lo suy nghĩ về những tháng ngày sắp tới, khi thằng Thành đi xa. Cho đến khi Thành từ trên gác đi xuống, nó thấy ông cứ ngồi tư lự, mắt dõi ra sân vườn mông lung. Thường ngày, ông không có động thái như vậy. Những ngày tháng khi bà còn sống, sáng ra ông thường ngồi bên ấm trà nóng bà đã pha sẵn, đọc báo hoặc coi tin tức, chờ bà làm điểm tâm và chuẩn bị  cơm trưa cho cha con ông. Xong đâu vào đó, ông chỉ biết xách gói ra đi. Kể từ khi bà qua đời cách đây không lâu, ông phải tự pha lấy trà và thay bà chuẩn bị cơm nước cho cả hai cha con.

Nó lên tiếng hỏi: 

Nước sôi rồi. Sao Ba chưa pha trà" Ba có bị sao không" 

Nếu hôm nay Ba không được khỏe, thì goị điện thoại xin nghỉ bệnh đi Ba.
Ông chợt giật mình bừng tỉnh.

À không! Ba không sao cả. Để Ba đi lấy cơm cho con mang đi làm.

Không cần đâu Ba. Hôm nay mấy người trong chổ làm rủ nhau đi ra ăn ngoài. Lâu lâu con cũng cần phải đi ăn với họ một bữa cho vui với anh em. Để con gọi xin cho Ba nghỉ bệnh ngày hôm nay. Nếu có gì, thì Ba gọi vô chỗ làm cho con. Trưa con về đưa Ba đi bác sĩ.

Thôi! chắc không sao đâu. Ba nghỉ ở nhà bữa nay được rồi. Chắc tại tối qua ngủ không được nên sáng nay Ba hơi mệt thôi. Con đi làm đi kẻo trể. Ông nói vậy để cho thằng con yên tâm mà đi làm, chứ trong thâm tâm ông nghĩ lung lắm.


Thành đi rồi. Ông trở lại với căn nhà trống trải, vắng lặng. Nhìn lên bàn thờ, nơi có di ảnh của vợ ông. Ký ức đau thương ngày xưa lại đổ về trong tâm trí của một con người đã có tuổi. Càng nghĩ, ông càng cảm thương cho người vợ hiền vắn số.

*

Ngày trước, thời chiến chinh binh lửa. Trai gái làng cưới nhau xong là ông đi. Lâu lâu ông mới được phép đôi ba ngày. Thời gian làm sao đủ cho đôi vợ chồng son mặn nồng ân ái. Nói chi đến thời gian săn sóc cho nhau. Lúc có bầu thằng Thành. Bà một thân, một mình theo đoàn người chạy loạn băng qua đại lộ kinh hoàng vô tạm cư tại Đà Nẵng. Ông theo đơn vị, trấn thủ nơi miền địa đầu đất nước, làm sao mà lo lắng được cho bà. Ngày đứa con đầu lòng chào đời, ông cũng không ở bên cạnh để có lời ủi an. Rồi tiếp đến, những tháng bà mang bầu con Tâm và sinh nó ra. Ông cũng biền biệt.


Cho đến những ngày sau 1975, bà dắt díu hai đứa con thơ, tìm về nơi làng quê cũ thì được tin ông đã phải tập trung cải tạo. Vợ chồng con cái vẫn không thể sum vầy. Một lần nữa, bà thân cò một mình lăn lội kiếm sống vừa thăm chồng, vừa nuôi con.

Biền biệt gần mười năm ông mới được về nhà. Ông cũng chỉ gặp lại được người vợ thân yêu cùng đứa con gái. Con Tâm nhìn ông với ánh mắt xa lạ, ngỡ ngàng. Ông không được gặp lại đứa con trai trân quý. Thằng Thành đã được bà gửi "về ngoại" sống như những gì bà xa gần đã nói với ông trong những lần thăm nuôi trước.

Thằng Thành ra đi, để lại trong bà một sự thương xót vô biên. Bà vừa mừng, vừa lo cho nó. Mừng là vì nó đã thoát được cảnh sống lầm than nơi quê hương khốn khổ. Dẫu sao đi nữa, nó cũng sẽ có được một tương lai tốt đẹp. Bà hy vọng và mừng là vì thế. Lo, bà lo vì một thân, một mình nó lênh đênh trên biển cả, biết bao hiểm nguy có thể vây ập đến và nuốt chửng người con yêu quý cuả bà. Rồi, ngày tháng cô đơn lạc lõng trong các trại tị nạn, không một người thân bên cạnh, có ai lo lắng cho nó những khi trái gió trở trời. Bà ngày đêm khấn nguyện cho nó được bình yên. Bà như đứt từng khúc ruột mỗi khi nghĩ đến thằng con.


Cho đến một hôm, bà thật sự mừng rỡ khi nhận được thư của nó. Nét chữ nghuệch ngoạc cùng với nhiều lỗi chính tả. Nhưng bà rất mừng, mừng đến chảy cả nước mắt vì nó vẫn còn một chút gì đó của riêng nó, của quê hương nơi nó được sinh ra. Trong thư nó nói rằng nó nhớ và thương bà lắm nên mới nhờ người ta chỉ cho nó viết thư thăm bà. Nó kể lể đủ thứ chuyện nơi trại tị nạn nó đang sống. Nó nói rằng ở nơi đây, nó chỉ có ăn xong đi học. Vừa học tiếng Việt, vừa học tiếng Anh. Nó không phải cực khổ đi mót lúa, mót khoai như những ngày đang ở nhà. Nói tới đây nó nói nó thương bà và con Tâm rất nhiều. Nó cũng thêm rằng nó đã được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và sẽ được đi định cư tại Mỹ một ngày gần đây. Nó hứa là khi qua tới Mỹ, nó sẽ để dành tiền mua quà gửi về cho bà và con Tâm, em của nó.

Tháng ngày trôi qua. Nó được một gia đình người Mỹ tốt bụng bảo lãnh và nuôi nấng cho ăn học. Trong những thư về nhà, nó nói rằng nơi thành phố nó đang sống không tìm thấy một người Việt Nam nào cả. Suốt ngày ở trường và ở nhà nó đều phải nói tiếng Mỹ. Nó nhớ tiếng Việt lắm nên những khi có thời gian, nó sẽ viết thư bằng tiếng Việt cho gia đình và bạn bè nó còn trong trại tị nạn.

*

Cuối cùng thì gia đình ông cũng đến được đất Mỹ nhờ chương trình nhân đạo H.O. Gia đình đoàn tụ. Cha mẹ con cái, anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Ông mừng vì đã gặp lại được thằng con yêu quí. Bà thì khỏi phải nói. Cứ xuýt xoa khen hoài thằng Thành, bảo rằng nó mau lớn, càng lớn khuôn mặt nó càng giống ông như đúc. Đối với nó, thoáng chút ngỡ ngàng khi gặp laị mọi người ở phi trường. Ngỡ ngàng cũng phải. Kể từ ngày bà sinh nó cho đến hôm nay, phải nói chưa bao giờ ông được bồng ẵm nó. Tình cha con phân cách theo chiều dài cuộc chiến, càng chia lìa vì đất nước điêu linh. Đối với nó, gia đình là những gì được gói ghém trong tấm hình đen trắng bạc màu ông bà gửi cho nó trong thời gian xa nhà.

Gia đình, vợ chồng con cái sum họp, sống với người bảo trợ một thời gian. Thằng Thành vẫn đến trường học hành như ngày nào. Thêm vào đó nó có bổn phận hướng dẫn cho con Tâm để bắt kịp việc học ở trường. Nó cảm thấy hạnh phúc khi sống bên mái ấm gia đình và tỏ ra hiểu biết hơn khi giúp được cho ba mẹ và em nó trong thời gian đầu hội nhập. Còn đối với con Tâm, nhờ sự hướng dẫn của anh Thành nó, việc hội nhập coi như không mấy gì khó khăn. 

Riêng ông bà thì gặp không ít trở ngại trong cuộc sống. Những năm tháng tù đày và khốn khó ở quê nhà, cộng với tuổi tác ngày càng già nua, bệnh hoạn đã làm cho sức lực của cả hai không còn được sung mãn. Công việc làm ăn nơi gia đình ông bà đang sống toàn là những nặng nhọc. Mặc dầu đã có sự hỗ trợ của máy móc tối tân, nhưng cũng cần phải có sức khỏe mới hoàn tất được công việc. Ngược lại, sức khỏe của ông bà không cho phép. Cộng thêm vào đó, tiếng người không được rành rẽ cho mấy. Dù rằng đã cố gắng học hành, nhưng ông bà cũng không thể nào bắt kịp nhịp sống khi tuổi già ngày một chồng chất, càng tỉ lệ nghịch với sự bén nhạy của trí tuệ. Không lẽ cả gia đình cứ ngồi để đón chờ sự thương hại và bố thí tiếp tục của gia đình người bảo trợ" Càng nghĩ, ông càng đớn đau cho thân phận mình và con cái. Đau cho mình thì ít mà thương cho con cái thì nhiều. Từ ngày sinh tụi nó ra cho đến bây giờ, ông chưa làm được gì cho thằng Thành và con Tâm cả, có chăng chỉ một mình thân bà mà cũng chỉ được bữa đói, bữa no. Đứa cô đơn lưu lạc nơi xứ người khi còn nhỏ dại, bên mình không có một người thân. Đứa ở lại quê nhà với mẹ nhưng hoàn cảnh cũng chẳng khác chi. Giờ đây, toàn gia đình qua được nơi xứ tự do này ông tâm nguyện sẽ làm tất cả những gì để có thể bù đắp lại những gì mất mát mà bà đã phải gánh chịu. Bù lại những thiếu vắng cha con mà vì hoàn cảnh ông không thể cưu mang cho hai đứa con trước đây. Ông chỉ mong ước mai này con ông được học hành đến nơi đến chốn, cho dù có cực khổ đến đâu thì ông vẫn vui lòng.

Đang băn khoăn lo lắng cho cuộc sống gia đình. Ông bất ngờ nhận được điện thoại người bạn cùng hoàn cảnh ông ngày trước, hiện mới được định cư nơi miền tây nắng ấm. Qua câu chuyện điện thoại với người bạn, ông phần nào cảm thấy cuộc sống sinh nhai nơi miền viễn tây có phần dễ dàng hơn nơi ông và gia đình đang cư ngụ. Để cho chắc chắn, ông đã thân hành làm một chuyến chu du về miền đất hứa, nơi có những người bạn từng sát cánh với ông trong đơn vị ngày cũ, cũng như cùng chung số phận với ông trong những năm tháng tù đày. Trước là thăm bạn bè và người thân, sau là tìm đường sống cho toàn bộ gia đình. Quả nhiên, cuộc sống nơi đây có phần dễ sống hơn nơi tiểu bang đèo heo gió hút mà gia đình ông đang sống. Việc làm nơi đây tìm kiếm cũng tương đối dễ dàng. 

Thêm vào đó, ngành công nghệ thông tin đang trên đà phát triển nên các hãng xưởng lắp ráp linh kiện điện tử hầu hết tập trung nơi đây đang rất cần nhân công. Có những lúc quá cần người, nhiều người không cần giỏi tiếng Anh cũng được mướn. Họ chỉ cần những người làm việc siêng năng và cần cù. Việc huấn luyện còn lại thì đã có người đi trước chỉ bảo người đến sau. Cuối cùng thì công việc cũng xong nhờ vào sự chịu khó của những người công nhân gốc Á châu, mà phần lớn là người Việt.

Thế là gia đình ông, một lần nữa di cư về nơi mảnh đất sống này. Buổi sáng chia tay với gia đình người bảo trợ. Ông nghẹn ngào nói lời cám ơn gia đình đã cưu mang thằng Thành nhiều năm, cũng như gia đình ông trong thời gian lưu lại nơi đây. Lời cám ơn chân tình, cảm động của ông đã làm cho mọi người trong gia đình bảo trợ rơm rớm nước mắt.

Sau thời gian ngắn, ổn định nơi vùng đất mới. Ông xin đi làm trong một hãng sản xuất "chip" điện tử. Công việc cũng không lắm nặng nhọc và khó khăn, chỉ cần sự tỉ mỉ và cần cù siêng năng của người làm. Điều đó, đã không thiếu trong bản chất con người của ông. Ông làm việc tận tuỵ, không bỏ sót một giờ làm thêm nào.

Riêng bà cũng không chịu ngồi yên trong nhà ngày một nhàm chán. Không chữ nghĩa nhưng cũng đã có công việc cho bà phụ cắt chỉ ở một hãng may gia công. Thành và Tâm ngoài giờ học ở trường và làm bài ở nhà còn phụ giúp bà nhận hàng vắt sổ thêm ở nhà vào những ngày nghỉ và cuối tuần. Về sau này, ngành may gia công không còn được hưng thịnh như xưa. Bà cũng không quản ngaị khó khăn, xin đi làm việc cho những nhà hàng Việt Nam, khi cắt thịt, khi rửa rau...bất cứ làm việc gì bà cũng không từ nan. Đồng tiền kiếm được mỗi tháng từ công việc làm không nhiều, nhưng cũng đủ góp phần chi tiêu trong cuộc sống gia đình và ông bà cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn.

Tưởng rằng cuộc sống của gia đình êm đềm kể từ đây, khi một đời bà đã tận tụy lo cho chồng con. Bà mong chờ niềm hạnh phúc của người mẹ được nhìn thấy ngày con cái mình nên người. Bà đã đau với cái đau của chồng con trong những tháng năm loạn lạc. Nhưng bà đã không thể nhìn thấy niềm hạnh phúc đang đến gần với bà và gia đình. Bà không thể chờ đợi để nghe thằng Thành hãnh diện nói lời cám ơn ông bà trong bài diễn văn ra trường của nó bằng cả hai ngôn ngữ Anh-Việt. Bà cũng không kịp nhìn thấy những giọt nước mắt của con Tâm khóc cha ngày khoác áo cô dâu về nhà chồng. Bà ra đi để lại trong ông một sự hụt hẫng vô biên, một nỗi đau của người chồng, người cha chưa thể cưu mang cho gia đình một niềm hạnh phúc đủ đầy.

Căn nhà càng trống vắng hơn kể từ ngày con Tâm theo chồng đi công tác nơi miền xa. Niềm thương nhớ người vợ hiền và con gái càng dày xéo nỗi đau trong tâm hồn ông. Sự chăm sóc, quan tâm của thằng Thành cũng không thể làm ông nguôi ngoai trong những lúc cô đơn trống vắng. Nhưng nó là nguồn ủi an, là lẽ sống của ông. Tâm thân ông đang nương nhờ vào đó trong những tháng ngày còn lại trên cõi đời.

*
Buổi sáng, sau khi dọn dẹp những thứ cần thiết trước khi ra phi trường về sống với vợ chồng con Tâm. Cha con bùi ngùi chia tay nhau. Ông ngậm ngùi nói với con trai rằng: Ba hy vọng con hiểu được vì sao gia đình mình đến đây. Ba cũng hy vọng con hiểu rõ do đâu mà mẹ con bỏ cha con mình để ra đi sớm như vây.. Con là điểm tựa, là niềm tự hào của gia đình, của ba. Ông nói mà nghe đau nhói trong con tim.

Dường như một nỗi đau vẫn còn đâu đó trong tấm thân già của một người cha.

Trần Thiên Thịnh
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/May/2019 lúc 7:53am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/May/2019 lúc 3:15am

Người Vợ Mù

     Trong một chương trình radio mang tên “Nẻo về của trái tim”, một cô gái mù đã gửi cho những người làm chương trình câu chuyện của mình.
     Mong muốn của cô là được chia sẻ niềm hạnh phúc mà mình đang có và gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới một người.
     Tôi là một kiến trúc sư vui vẻ, hoạt bát. Cách đây một năm, tôi là người vợ hạnh phúc nhất.
     Khi thức dậy cùng người mình yêu vào mỗi sáng, chúng tôi thường cùng nhau thưởng thức một tách trà trong không gian yên tĩnh đầu ngày.
     Chúng tôi xây dựng cho mình một thói quen: sẽ luôn cố gắng chia sẻ với nhau những suy tư và cảm nhận chân thật nhất của mỗi người để gìn giữ hạnh phúc.
     Cuộc sống của chúng tôi êm đềm trôi qua cho tới một ngày. Trên đường từ bến xe buýt vào tới công ty, tôi thấy mọi thứ như nhòa đi trước mắt, chỉ còn lại những tiếng còi xe inh ỏi. Rồi tôi lập tức được đưa vào bệnh viện. Ngày hôm đó, tôi vẫn còn nhớ rất rõ ràng cảm giác khi nghe câu kết luận của bác sĩ: “Đây là một căn bệnh thoái hóa nên chúng tôi cũng không thể giúp được gì”.
     Bác sĩ còn giải thích rất nhiều điều nữa, nhưng trong đầu tôi chỉ còn đọng lại duy nhất câu nói: “Cô sẽ sớm bị mù”.

3299%201%20NguoiVoMu%20CT%20ST

     Tôi không biết các bạn sẽ cảm thấy ra sao khi đối diện với sự thật này. Còn tôi, tôi đã đầu hàng một cách hèn nhát. Tôi khóc, tôi cáu bẳn thậm chí nhiều lần gắt gỏng, đặc biệt khi chỉ có tôi và anh, trong căn nhà hạnh phúc của chúng tôi.
     Tôi đã rất sợ, sợ bị rơi vào bóng tối, sợ phải làm một người mù và sợ nhất rằng tình yêu của anh dành cho tôi cũng sẽ không còn.
     Tôi không còn dùng trà vào mỗi buổi sáng với chồng nữa. Bởi tôi muốn tất cả phải chịu trách nhiệm về căn bệnh của mình, đặc biệt là chồng tôi.
     Trước sự thay đổi chóng mặt của vợ, chồng tôi không nói gì, anh chỉ lẳng lặng quan sát và chịu đựng những cơn nóng giận vô cớ. Hơn thế anh giúp tôi làm mọi công việc nhà bất chấp sự phản đổi đầy ngang bướng của tôi.

3299%202%20NguoiVoMuCT%20ST

     Thời gian đó, ông chủ vẫn sắp xếp cho tôi một công việc nhỏ trong văn phòng. Nhờ đó, tôi có thể được ra ngoài vào mỗi sáng. Được đi làm đã trở thành niềm hạnh phúc nhất của tôi khi ấy. Công việc cho tôi cảm giác tôi không phải là người thừa, tôi được chứng minh sự mạnh mẽ của mình và thỏa mãn cái tôi đang bị tổn thương ghê gớm.
     Tôi quyết định vẫn đi xe buýt tới công ty như tôi luôn làm trước đây. Tôi biết mình đã rất quen với con đường và tôi cũng đã dần thành thục việc sử dụng cây gậy cho người mù.
     Chồng tôi đề nghị, hãy để anh đưa tôi đi làm mỗi sáng và trở về đón tôi mỗi buổi chiều.
     Nhưng tôi từ chối, tôi không muốn anh phải vất vả như vậy, bởi nơi chúng tôi làm việc cách nhau rất xa.
     Chồng tôi không phản đối, anh chỉ nói: “Hãy cẩn thận khi qua đường nhé, ngã ba đó khiến anh lo lắng hơn cả”.
Tôi giữ im lặng trước lời dặn dò của anh.
     Mọi chuyện sau đó diễn ra suôn sẻ ngoài mong đợi của tôi. Có lẽ sư lo lắng của tôi và chồng đều là thái quá. Khi dừng đèn đỏ ở ngã ba đầu tiên, tôi nhớ lại lời của chồng và bắt đầu cảm thấy sợ. Ngay lúc ấy có một giọng nói nhỏ nhẹ vang lên:
“Cô ơi, cô có thể dẫn cháu qua đường không?”
     Tôi quá đỗi ngạc nhiên với câu hỏi của cậu bé, hình như cậu bé không biết tôi bị mù.
“Cháu à, cô xin lỗi, nhưng cô sẽ không bảo đảm an toàn được cho cháu vì cô không nhìn thấy…” Tôi chưa kịp nói hết câu thì cậu bé chen vào.
“Cháu biết cô bị mù, cháu xin lỗi ý cháu là cô không nhìn thấy, nhưng không sao.. Cô là người cao lớn, những người lái xe sẽ nhìn thấy cô, họ sẽ tránh chúng ta. Còn cháu sẽ dắt cô qua đường, cháu sẽ làm đôi mắt cho cô ở ngã ba này nhé.”
     Trước lời nói ngây thơ của cậu bé, tôi thấy mũi mình cay cay. Chuyển gậy dò đường sang tay phải, tôi chìa bàn tay còn lại để nắm lấy bàn tay nhỏ bé đó. Cậu bé nắm tay tôi thật chặt. Cái siết tay của cậu khiến tôi có thêm rất nhiều tự tin.
     Hóa ra tôi vẫn còn có ích, vẫn có thể giúp đỡ một ai đó chứ không hoàn toàn là “đồ vô dụng” như tôi luôn nghĩ về mình sau khi không còn nhìn thấy. Bên trong tôi bất giác thấy lại được niềm vui.
     Cậu bé quả là một người dẫn đường tài tình, chúng tôi đã qua đường an toàn và dường như không làm một người lái xe nào nổi giận. Khi chia tay ở ngã ba, cậu bé nói: “Cháu hy vọng mai cô sẽ lại ở đây nữa, vì sáng nào cháu cũng phải đi qua ngã ba này để đến trường. Cảm ơn cô nhiều nhé. Giờ cháu đi học đây.”
     Cậu bé chào tôi và chạy đi nhanh như một cơn gió. Trước khi đi, cậu bé quay lại, nói thật to:  “Hẹn cô ngày mai nhé, cháu sẽ chờ cô đấy”.
Cậu bé khiến nụ cười trở về trên môi tôi, đôi má tôi cũng ửng hồng.
     Một cảm giác ấm áp khiến những căng thẳng bao ngày qua tan mất. Có lẽ ai đó nhìn thấy tôi lúc ấy sẽ phải thắc mắc: Cô gái mù ấy sao lại cười rạng rỡ thế?
      Không để tôi thất vọng, ngày hôm sau và ngày hôm sau nữa, cậu bé vẫn xuất hiện và chúng tôi đã trở thành đôi bạn “chinh phục ngã ba” từ đó.
      Đôi lúc chúng tôi còn nán lại nói chuyện với nhau. Tôi đã biết cậu bé thiên thần ấy (chí ít là với tôi) tên là Jimmy. Jimmy nhỏ người, mặt nhiều tàn nhang, tóc màu hung và có một cái mũi hơi kì lạ. Đó là dáng vẻ mà cậu bé tả về mình cho tôi nghe.
     Nhờ Jimmy bé nhỏ, tôi dần lấy lại niềm vui trong cuộc sống của mình. Tôi cũng đã có thể đối đãi dịu dàng trở lại với chồng, không còn nặng nề với anh nữa. Nhưng cảm giác muốn mở lòng để chia sẻ với chồng vẫn chưa trở về.
Niềm vui của tôi chỉ kéo dài được một tháng.
     Sáng hôm đó, khi ở ngã ba tôi không thấy Jimmy, cậu bé đến muộn chăng? Tôi chợt hiểu ra rằng hình như những đứa trẻ đã kết thúc năm học và Jimmy sẽ không đến trường ngày hôm nay.
     Tôi chưa biết làm thế nào để qua đường khi không có người hoa tiêu nhỏ bé, tiếng lanh lảnh quen thuộc vang lên: “Cô James chờ cháu.”
“Cháu đấy à, cô mừng quá, cô cứ nghĩ là cháu sẽ không đến”.
“Cháu không thể để cô một mình qua đường được. Đó là lời hứa danh dự. Nhưng cháu sắp theo bố mẹ về quê với ông bà rồi. Cô biết mà, trường học đã nghỉ hè và hôm nay là ngày cuối cùng cháu ở đây”.
Tôi cảm thấy lo lắng và hơi buồn, nhưng cố trấn tĩnh. Tôi hỏi Jimmy về “lời hứa danh dự” của cậu bé, điều khiến tôi cảm thấy rất tò mò.
“Cháu đã hứa với một người. Nhưng chú ấy không cho cháu nói điều này với cô.”
     Chúng tôi cùng nhau băng qua đường trong im lặng. Nhưng khi tới nơi, cậu bé níu tay tôi lại, hỏi rằng tôi có thể đi với cậu bé một chút không?       Tôi đồng ý và chúng tôi thả bộ cùng nhau trong một công viên gần đó. Hóa ra cậu bé muốn kể cho tôi nghe về lời hứa danh dự của mình.
     Ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau, đã có một người đàn ông nhờ cậu bé dắt một phụ nữ xinh đẹp nhưng bị mù qua đường.
     Người đàn ông ấy giải thích với cậu bé rằng, đó là vợ chú. Cô ấy vừa bị mất đi đôi mắt và chú không thể yên tâm để cô ấy một mình đi qua con phố đông đúc này. Nhưng chú cũng không thể tự tay dắt cô sang đường, vì cô đang đóng cửa tâm hồn mình với chú.
Nước mắt tôi bắt đầu rơi. Cậu bé tiếp tục kể.
Cậu bé đã đồng ý giúp người đàn ông lạ mặt đó.
“Không chỉ một lần, cháu không biết tại sao nhưng khi nghe chú ấy kể về cô, cháu nhớ đến cách bố cháu nói về mẹ, đầy yêu thương. Vì thế, cháu đã hỏi chú ấy có cần cháu giúp những ngày tiếp theo không. Đôi mắt của chú ấy lúc đấy rạng rỡ như mắt cháu lúc được đi chơi hay ăn kem vậy”.
“Đó là lý do vì sao sáng nào cháu cũng ở đây chờ cô?”
“Vâng, nhưng không chỉ chờ cô, cháu chờ cả chú ấy nữa. Chú ấy ngày nào cũng đi qua đường với chúng ta mà.
     Chú chỉ lặng lẽ đi cạnh cô, cách cô một đoạn để cô không cảm thấy sự có mặt của chú ấy.
     Chỉ khi cô cháu mình sang đường an toàn chú ấy mới đi làm”. “Thật vậy sao?”.
     Tôi không còn biết nói gì hơn. “Cháu không định nói chuyện này cho cô nghe. Nhưng ngày mai cháu đi rồi. Cháu sợ cô sẽ thấy hoang mang vì không có cháu.
     Thêm nữa cháu sợ cô vẫn giận chú”. “Vậy hôm nay chú ấy có đi cùng chúng ta không, Jimmy?”
     Chồng tôi đã đứng đó từ bao giờ. Anh đã lắng nghe câu chuyện của cô cháu tôi. Tôi không biết khuôn mặt anh lúc ấy như thế nào.. Chỉ biết có một bàn tay to lớn, ấm áp và rất quen thuộc nắm lấy bàn tay tôi, nhẹ nhàng dắt tôi đi hết quãng đường từ công viên tới văn phòng.

3299%203%20NguoiVoMuCT%20ST

     Sau ngày hôm ấy, tôi đồng ý để chồng chở đi làm, và buổi chiều tôi đi xe buýt về, anh đã nhờ được một người bạn trong công ty đưa tôi ra bến xe. Tôi còn được biết, công việc mà ông chủ sắp xếp cho tôi chính là nhờ anh đã tới gặp và thuyết phục ông.
Đó là câu chuyện tình yêu mà tôi muốn chia sẻ với các bạn.
     Những ngày tháng vừa qua đã khiến tôi nhận ra rằng: Trong cuộc sống nhiều đau khổ này, tình yêu thực sự hiện hữu, và nó mang một sức mạnh chữa lành thật to lớn. Khi nghĩ về sự nhẫn nại của anh suốt thời gian cùng tôi và Jimmy sang đường, khi cảm nhận được rằng trái tim chan chứa thiện niệm của anh luôn nghĩ cho cảm giác của tôi, nghĩ đến việc làm thế nào để tôi an toàn và hạnh phúc nhất, tôi mới hiểu ra thế nào là thực sự yêu một ai đó..
Chia sẻ câu chuyện này cũng là cách tôi muốn anh biết:
     Từ tận đáy lòng, tôi biết ơn tình thương và những điều anh đã dành cho tôi.
     Và hơn thế, anh và Jimmy bé nhỏ đã cho tôi hiểu và học được rằng yêu thương một người là dành cho người đó sự bao dung, nhẫn nại và những điều thiện lành nhất mỗi ngày.


st.



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/May/2019 lúc 3:15am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/May/2019 lúc 9:11am

Những Mảnh Đời Lưu Lạc

Image%20result%20for%20Những%20Mảnh%20Đời%20Lưu%20Lạc

Tôi vẫn sống, nhưng làm như cuộc đời không thể trôi thêm nữa. Tôi đã trôi xa lắm từ quê hương bên kia Thái Bình Dương tới đây. Tôi đã vùng vẫy bằng mọi cách để trôi xa thật xa quê hương, để tìm vợ con tôi mà ai cũng bảo rằng chắc chắn tất cả đã chết trong một cơn bão biển.

Tôi vẫn sống, nhưng tôi chỉ nhìn thấy dĩ vãng, thấy vợ tôi, người vợ lấy tôi năm mười tám tuổi, có với tôi ba trẻ thơ và đã cùng các con lìa xa tôi năm hai mươi tám tuổi. Nàng với tôi quen và yêu nhau trong hai năm, là vợ chồng hơn mười năm. Thế nhưng trong tuổi yêu đương thư từ cho nhau nhiều hơn những lần hò hẹn, vì tôi là khóa sinh của một quân trường. Qua bao nhiêu những thủ tục sưu tra của nhà binh chúng tôi đã thành hôn, nhưng… cưới nhau xong lại xa.

Năm năm đầu, chúng tôi có tất cả với nhau hơn mười hai tuần lễ cho những lần nghỉ phép và một lần… trốn về vì nhớ vợ con. Thời chiến tranh, mỗi lần chia tay là một lần lo xa vĩnh biệt. Nàng hai lần mang thai, tôi chưa bao giờ được ẵm con lúc chúng mới chào đời. Các con tôi chưa đứa nào được ba mua cho đồ chơi, áo mới, vì lương của tôi chỉ đủ nuôi tôi. Vợ tôi tá túc nhà cha mẹ, vừa đi làm vừa vất vả nuôi con, đôi khi còn dành dụm để cho chồng có thêm tiền cà phê, thuốc lá. Quà của tôi, chỉ là những cánh thư lưu chuyển qua nhiều khu bưu chính.

Hơn năm năm sau ngày Cộng sản thôn tính hết Việt Nam, tôi bị đi tù và nàng đang chờ ngày sanh con, đứa thứ ba.
Trong năm năm tù tội, chúng tôi có với nhau sáu tiếng đồng hồ cho hai lần gặp gỡ ngoài trời, một lần mưa và một lần hơi hơi nắng. Cũng may tôi… ở tù gần nên mỗi lần được thăm, nàng chỉ vất vả có… bốn giờ ngồi xe và ba giờ đi bộ mang tiếp tế cho chồng.

Sau năm năm tôi đước thả về, với nhiều thứ bệnh làm quà cho tình yêu của vợ, với nhiều khó khăn dồn dập mỗi ngày của địa phương để nàng và gia đình phải lo chống đỡ. Một đêm vui, đầm ấm nhất trong đời tôi là sau ngày tôi ở tù về, nàng bảo tôi làm… ngựa cho các con chơi, hai đứa con trai vui sướng lắm. Chỉ tội đứa con gái cưng bé nhỏ của tôi chưa biết ba bao giờ, không có cái hình nào chụp chung với tôi như các anh của nó, cháu tránh mặt tôi hoài không dám lại gần. Vợ tôi đặt nó lên lòng tôi làm nó khóc và bỏ ra ngoài buồng với ông bà ngoại. Hôm đó lời chân tình tôi nói nhỏ với vợ tôi là: Em có muốn ngồi lên lòng anh không"

Thế rồi trời thương, qua những mối làm ăn vất vả, lương thiện nhưng lén lút trong thời buổi nhiễu nhương, chúng tôi có đủ tiền lo cho vợ chồng và ba con theo một chuyến vượt biên, vượt chỗ chết để tìm ra lẽ sống. Lúc đó vợ chồng tôi không biết thế giới bên ngoài có gì ngoài tự do để ước mơ. Tôi chỉ mơ các con tôi được thảnh thơi đi học mỗi ngày, không phải bưng những chén cơm trộn bo bo, không phải lo những công tác thủy lợi ngu xuẩn hay những nghĩa vụ quốc tế hoang đường.

Vào một đêm giông bão thật khó ra khơi nhưng để vượt qua sự bủa vây, con thuyền vượt biên đã thoát đi, đã đem theo vợ con tôi, còn tôi thì kẹt lại. Ôi sự hên xui không thể nào mà lường trước được, kể ra chỉ thêm buồn. Từ đó tôi trốn chui trốn nhủi, sống bám và làm khổ bao người thân. Tôi tìm hiểu tin đồn về những con tầu vượt biên bị đánh chìm, tôi đi dò kiếm khắp những nông trường, những trại giam phụ nữ, nhưng không có tin tức vợ con.

Hai năm sau các người thân lại giúp tôi đi. Tôi đã đến Mỹ, nhưng chỉ còn trơ trụi một thân. Tôi chỉ thấy lại vợ con trong ác mộng với giông bão tưởng tượng, tôi thấy sấm nổ, chớp lóe, soi rõ nét kinh hoàng của vợ và các con tôi, ướt sũng, ôm lấy nhau trong chiếc thuyền gỗ nhỏ ngập nước, ngả nghiêng, chao đảo theo từng cơn sóng lớn. Lẫn trong tiếng gào khóc của chung quanh, có tiếng nàng kêu tôi, có tiếng các con cầu cứu bố. Đêm đêm, tôi nghe mãi những tiếng kêu đó.

Trên đất Mỹ, tôi đã học lấy một nghề, được trợ giúp của xã hội nơi đây để có một mảnh bằng đi kiếm việc, sống cho tôi thôi. Rồi một hôm, tôi lìa xa những người thân đã giúp tôi lúc bơ vơ. Họ đều tốt, nhưng gia đình ấm cúng của họ chỉ làm tôi thổn thức.

Mùa đông năm ấy sau hơn hai năm trên đất Mỹ, tôi đến một thành phố lạ với số tiền dành dụm không nhiều, với số vốn ngoại ngữ phải cần đến tay để phụ cho cái miệng đã từ lâu cũng không còn khả năng để lưu loát ngôn ngữ chính của mình.

Tôi đã không làm sao kiếm ra việc làm, tôi chưa có điều kiện để xin tiền thất nghiệp, tôi ngại ngùng đi tìm khai trợ cấp, tôi xấu hổ phải quay về với cuộc sống mà tôi không muốn phải so sánh.
Tôi đã vác ba lô đi khỏi nhà trọ trước khi người ta đuổi tôi ra vì tôi không còn tiền trả. Tôi muốn đêm Giáng Sinh năm đó lang thang trên khắp các đường phố phủ tuyết, uống cho thật say với một chai Whisky bọc dấu trong túi giấy như những chàng homeless ghiền rượu, tôi muốn uống cho đến khi gục xuống nơi nào đó, rồi… vợ con tôi sẽ dìu tôi đến một nơi… xa.

Thế rồi tôi đã gục xuống, đã nằm thiếp đi dưới một mái hiên, cho đến khi mấy người cảnh sát lay tôi dậy, kéo tôi vào trong mái che của một tiệm bán lẻ, và phủ lên tôi mấy tấm mền. Sau này tôi được biết mấy đêm đó trời lạnh lắm, những căn nhà của thành phố dành cho dân homeless trú thân không đủ chỗ, vài homeless đã chết vì cóng lạnh. Bởi khẩn cấp nên cảnh sát và những người làm việc thiện phải đem mền đi phủ đắp cho những người homeless đang ngủ trên hè phố… Có lẽ vì tôi đắp mền nên linh hồn của vợ tôi đã không tìm ra tôi để rủ tôi đi theo!

Sáng sớm hôm đó, người chủ tiệm đá tôi dậy trước khi mở cửa, tôi vội vàng xin lỗi, lôi đống mền ra ngồi ở mái hiên ngoài. Đấu óc tôi trống rỗng, tuyệt vọng quá vì cái chết không đến, biết làm gì cho những giờ kế tiếp đây, ruột gan tôi cồn cào đói, mùi rượu tanh hôi bốc lên từ bao tử thật khó chịu, nước mắt tôi trào ra và thầm kêu… Điệp ơi, tên vợ tôi.

Sau đêm Giáng Sinh đường phố vắng lắm, các cửa tiệm trên phố không ai mở cửa, bão tuyết lại đang rơi nên xe qua lại hầu như chưa có. Phải rồi, tôi sẽ bất ngờ lao ra một chiếc xe vô phước nào đó chạy ngang chỗ tôi ngồi. Nếu tôi chết và những sự linh thiêng là có, tôi sẽ phò hộ cho người không may đã cán chết tôi. Trước khi tính chuyện chết, tôi phải vứt hết giấy tờ của tôi vào thùng rác trước mặt. Tôi không muốn ai biết cái chết thê thảm này là một người Việt Nam chán đời, một người Việt homeless. Dù tôi có chết chăng nữa tôi cũng không muốn những người thân ở quê nhà, ở bên này biết kẻ chết là tôi để họ phải thương xót, để họ phải tủi nhục.

Tôi đã bỏ chiếc bóp vào thùng rác, sẵn sàng. Thế nhưng chết cũng khó. Tên chủ tiệm mà ban nãy đã đá tôi chạy ra, hắn hất tung nắp thùng rác, hắn nhặt chiếc bóp lên, hắn đến bên tôi và nắm cổ áo lôi tôi dậy, tay kia hắn mở chiếc bóp. Vẻ mặt bớt hung hăng khi thấy hình trên bằng lái xe trong chiếc bóp là của tôi, hắn hỏi:
- Vietnamese"
- …Yes!
- Homeless"
- No!!
Hắn chau mày tỏ ra không hiểu, hắn hỏi tại sao tôi lại dục bỏ hết giấy tờ của tôi vào thùng rác. Tôi không giải thích. Hắn hỏi tiếp tại sao lại ngủ ngoài đường tôi cũng lặng im. Lưỡng lự một chút, hắn nhặt mấy tấm mền lên vào bảo tôi:
- Come in!
Tôi không còn chủ động, xách ba lô lê chân vào tiệm theo hắn.
- Seat down!
Tôi ngồi xuống, hắn rót cho tôi một ly cà phê nóng không đường, tôi uống. Hắn đem đến cho tôi mấy chiếc bánh donut, và châm thêm cà phê. Cái đói đang làm chủ nơi tôi nên … nó bắt tôi ăn thật nhanh, dù biết cách ăn của mình ti tiện. Ăn xong tôi lí nhí lời cám ơn dù chính hắn là người đã khiến tôi chưa thể chết.

Hắn vừa làm công việc của hắn vừa nói không có chi, hắn bảo tôi trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, hắn đã qua tham chiến một lần. Hắn đoán là với tuổi của tôi, có thể tôi cũng đã ở trong quân đội miền Nam. Tôi trả lời phải, rồi tôi kể cho hắn nghe một cách đơn giản, thiếu hứng thú về tôi, về vợ con tôi, về nghề nghiệp mà tôi có thể làm. Tôi không nói tại sao tôi đến thành phố này và tại sao tôi lại nằm lăn lóc nơi cửa tiệm của hắn đêm qua. Hắn cũng không muốn hỏi tôi những điều đó. Hắn vẫn còn giữ bằng lái xe của tôi, và sau khi trả lại hắn bảo:
- Anh cần phải đổi lấy bằng lái xe của tiểu bang này. Tôi có thể giúp nếu anh muốn việc làm, tôi cũng cần một người giúp việc. Anh có muốn làm cho tôi không"
Tôi nói cách ngờ ngẩn:
- Tôi không có chỗ ở để có thể đi làm.
Hắn cười:
- À há, vậy anh là homeless rồi. Không trở ngại, làm cho tôi ban ngày, sau chín giờ tiệm đóng cửa anh có thể ngủ ở ngoài hiên, OK"

Tôi cười gượng. Tôi không quen ai ở thành phố này. Mấy tuần trước vì có tiền nên tôi ở Motel, trả tiền trước nên rất dễ, còn bây giờ với mức lương thấp nhất, muốn mướn một căn buồng nơi chung cư cũ kỹ cũng cần phải có người bảo trợ và trả tiền ứng trước cho nhiều thứ linh tinh. Làm như biết tôi nghĩ gì, hắn cười:
- Đùa đó thôi. Anh đã là một người trong quân đội, anh đã gặp nhiều khó khăn, tôi nghĩ là anh sẽ làm việc chăm chỉ. Việc này không có lương cao như công việc anh đã học, nhưng việc tạm mà. Ngoài cửa hàng bán thực phẩm nhỏ này tôi còn có một cư xá ở cách đây không xa, tôi cho anh ở trước, trả tiền thuê cho tôi khi anh có lương. Một phòng, ba trăm đô la một tháng. Tôi sẽ dẫn anh tới coi. Tôi sẽ trả lương anh với giá căn bản sau mỗi tuần làm việc, và anh làm cho tôi tám tiếng mỗi ngày. Khi nào tôi cần anh phụ thêm thì mình sẽ nói sau. Tôi sẽ giúp anh để xin trợ cấp y tế. Nếu anh bằng lòng thì tôi có đơn xin việc đây, điền vô và ký tên.
Hắn đưa tôi một mẫu đơn in sẵn và giải thích thêm:
- Đừng có lo, công việc bán hàng, nhận hàng thì dễ thôi, tôi sẽ chỉ cho anh, máy tính tiền thì học mau lắm. Ăn thêm cái gì đi, rồi phụ tôi lau chùi mấy tủ chứa đồ đông lạnh, tôi trả công cho anh, mình chỉ cần làm chừng hai tiếng thôi, ngày mai tiệm mới mở cửa.
Vậy là hắn đã cho tôi sự an ủi và tin cậy, hắn lôi cuốn tôi trở lại cuộc sống thật bất ngờ.

Hắn nói, hắn lấy làm lạ khi thấy một người Á Đông là homeless, hắn ghét mấy tên homeless thường khi ngủ trước tiệm và xả bẩy nếu hắn không cho chúng đồ ăn. Hắn đã ngạc nhiên, tôi bị đá mà không chửi, còn nói lời xin lỗi. Sở dĩ hắn thấy và chạy ra vì ngỡ là tôi đã giựt bóp của ai, lấy hết tiền rồi quăng vô thùng rác.

Sau đó tôi đã phụ với hắn lau chùi cửa tiệm, dù người đã mệt lả.
Hắn, Brandy Smith là quý nhân mà có thể vợ con tôi đã linh thiêng đưa tôi đến với hắn, gửi gấm tôi cho hắn.
Khi chúng tôi lau chùi cửa tiệm xong thì ngoài đường tuyết đã phủ dầy. Trên TV thông báo có nhiều nơi tuyết phủ cao hơn một feet và nhiều tai nạn xẩy ra. Hắn gọi phone về nhà nói chưa thể về vì bão tuyết, rồi quay qua tôi:
- Phải chờ người ta ủi sạch tuyết trên đường thì tôi mới có thể đưa anh về cư xá. Anh không phải là người Việt Nam đầu tiên tôi biết đâu. Ở cư xá của tôi có nhiều gia đình Việt Nam, không biết là tôi đã giúp họ hay họ giúp tôi vì cư xá của tôi đã cũ lắm, nhiều người Mỹ đã dọn ra từ lâu, chỉ còn người Việt Nam và Cam Bốt hoặc Lào mướn vì giá thấp.

Hắn giải thích là cho gia đình Á Đông mướn ít có sự sự phiền nhiễu và tiền nhà luôn trả đúng hạn kỳ. Họ ở đông hơn số người mà mỗi căn có thể cho phép, song hắn cũng thông cảm vì biết họ đang sống nhờ trợ cấp xã hội để đi học, tìm việc làm, hoặc cho qua tuổi già.

Hắn nói, cứ mỗi khi có một căn người thuê là Mỹ hay Mễ đi ra thì vài ngày sau lại có một gia đình Việt Nam tới mướn do những người đã ở trước giới thiệu đến. Đôi khi nếu hắn nhận một cái check trả tiền nhà đứng tên một người khác thì y như là gia đình cũ đã ra hồi nào mà hắn không hay. Họ không muốn bị tính tiền cho những sự hư hại, mà quên rằng sẽ bị phiền phức vì còn đứng tên thuê nhà nếu có sự gì bất thường về sau. Hắn không thích việc này vì không đúng với giao kèo, nhưng rất khó kiểm soát. Hắn chưa phân biệt và nhớ được người Á Đông ai là Việt, ai là Miên, Lào trong cư xá. Tuy nhiên chưa có vấn đề gì trở ngại nên hắn cũng lơ là. Hắn nói dân Việt Nam thích ở đây cũng có thể vì hắn dễ dãi hoặc đời hắn có cái gì đó liên hệ nhiều với Việt Nam.

Hắn mời bia nhưng tôi không uống, tôi vẫn còn cảm giác choáng váng bởi rượu và miệng lưỡi lạt lẽo. Hắn nói có thể hắn biết tâm trạng của tôi. Trong những mùa Giáng Sinh, có nhiều người vui thì cũng lắm kẻ buồn.

Hắn chật lưỡi, sau hai mươi năm chính phủ Mỹ vẫn tìm cách nói chuyện với kẻ thù để tìm xác các chiến binh của họ, nhưng vợ hắn thì đã bỏ hắn, trước khi hắn trở về từ Việt Nam. Tuy là khác nhưng hắn cũng đau khổ như tôi. Nếu thời thanh niên hắn không từng đạp xe với vài tín hữu đi gõ cửa mỗi nhà để truyền đạo và khuyên người ta hãy sống yêu đời thì hắn cũng đã muốn tìm cái chết. Bây giờ hắn sống với một bà girl friend đã trên 17 năm, chưa có gì trục trặc, thật là một điều khó hiểu. Coi nhau là bạn bè nên tôn trọng nhau hoặc ít kềm chế nhau chăng"

Hắn kể tiếp, tôi sẽ không phải là người đau khổ duy nhất sống trong cái ”cư xá buồn hiu” của hắn. Hắn cười và bảo tôi, cái tên đó không sai đâu, hắn sẽ dẫn tôi tới với mấy gia đình Việt Nam cho tôi làm quen. Những người già làm như mùa nào họ cũng lạnh, nếu không có con cháu ở nhà thì hắn không thể nào nói với họ điều gì, dù họ cười và gật đầu chào hắn rất vui vẻ, đôi khi họ còn bưng đến cho girl friend của hắn những món ăn lạ miệng. Vì hắn cũng ở một căn trong cư xá, và thường xuyên sửa chữa những hư hỏng khi có yêu cầu nên hắn biết hoàn cảnh của một số người, và mỗi lần gặp lại biết thêm một chút buồn.

Hắn kể một cách chậm rãi trong kinh nghiệm của một người Mỹ đã từng tiếp xúc nhiều với người ngoại quốc, nên tôi suy diễn thêm và hiểu ý hắntương đối dễ. Hắn nói là tôi sẽ gặp… Ba Ba Gia. Sau này tôi mới biết là bà Ba già.

Bà Ba Già đã ở đây trên bốn năm, trừ mùa đông lạnh, sáng nào bà cũng dậy sớm và bình thản quét sạch từ đầu này bãi đậu xe cho đến đầu kia bãi đậu xe của cư xá, để làm chi vậy ai mà biết, hắn cũng đâu có mướn bà ta làm việc đó. Bà còn có tật hay xúc rửa những bình sữa mà mấy đứa cháu của bà đã uống hết và xếp đầy ở hiên sau, lâu lâu hắn lại phải yêu cầu con trai bà đem đi bỏ, mặc cho bà nhìn hắn vừa cười vừa càm ràm gì đó. Nhưng hắn thấy bà không phải là người mất trí, bà hay trò truyện với chung quanh và thường luôn tay đan những chiếc áo len không biết để cho ai.

Vào mùa hè con trai và con dâu bà đi làm thêm ở những nông trại xa, chở về nhà nhiều thứ trái cây và rau, hắn thấy bà bưng đi chia đều cho mỗi nhà quen, nhà ai đi vắng bà cũng phần trước của. Ông chồng bà thì ít nói truyện với ai, ông thường đọc những sách báo Việt Nam mà con ông mượn về từ thư viện, hoặc đứng bên lan can uống trà, nhìn về những rặng núi xa xa, hết đi ra lại đi vào. Nghe đâu họ đã bị Cộng sản tịch thu nhiều tài sản tại Việt Nam, khi vượt biên thì lại chết mất hai người con gái.

Bên nhà bà Ba già, có hai vợ chồng cũng không trẻ hơn ông bà Ba già bao nhiêu, ông ta trước kia là bác sĩ, còn bà ta là một trữ dược viên. Bây giờ họ hy vọng nơi người con trai đang học lớp 12, và cũng hy vọng nơi người con gái lớn sống như kẻ mất hồn sẽ bình thường trở lại. Lúc vượt biên, đứa con hai tuổi của cô bị chết khát và chồng cô bị hải tặc đập bể đầu rồi quăng xuống biển vì đã lao vào cản những dâm tặc uy hiếp vợ. Họ đều có trợ cấp nhưng dường như không đủ, vì họ còn ba người con nữa đang kẹt bên một trại cấm ở Hồng Kông chờ cứu xét. Ông ta là bác sĩ già, nói tiếng Mỹ với âm điệu Pháp nên luôn phụ họa bằng tay, đến đây khi chương trình trợ giúp cho những bác sĩ tỵ nạn học lại nghề đã không còn tài trợ. Tuy thế ông ta phấn đấu làm thêm rất nhiều việc vặt, từ cắt cỏ thuê, cho đến hái trái cây, hái bắp tại các nông trại xa theo từng mùa. Nghe nói đã có lần, con gái ông ta bị hôn mê bất thường, xe cứu thương chưa tới kịp, sẵn có đồ nghề cũ ông chích cho cô con tỉnh lại, thế là ông bị truy tố ra tòa. Kể từ đó tóc trên đầu ông bạc trắng.

Cách nhà vợ chồng ông bác sĩ ba căn, là hai bà quả phụ, họ ở đây cũng đã trên sáu năm, các con họ đều đã lên đại học. Hai bà này nói tiếng Anh khá, họ có công việc tạm ổn định, nhưng chưa đủ để các con có chỗ ở rộng rãi hơn.

Bà thứ nhất, hắn kể, có chồng là trung tá, ông ta chỉ huy một trung đoàn bộ binh ở miền Trung, còn bà ta là giáo sư dạy Anh văn ở một trung học cách rất xa nơi chồng bà đồn trú. Cuộc triệt thoái vào cuối tháng ba 1975, người ta nói chồng bà đã tự vận vì phẫn uất sau khi dẫn quân về một bờ biển không còn ai tiếp ứng, còn bà ta đã sanh đứa con thứ năm trên đoạn đường di tản về phía nam. Mỗi lần nhắc lại cảnh một sản phụ với năm con thơ giữa những cuộc giao tranh, bà thường cố gắng cười để ngăn nước mắt. Chồng bà mất đi khi quốc kỳ không có quan tài để phủ, công trạng không còn thượng cấp để vinh danh, đơn trợ cấp không còn nơi để nạp. Thế mà bằng mọi cách, cùng với sự giúp đỡ của những người thân, trong hơn một năm bà đã trao cho đại dương lần lượt từng đứa con yêu để chúng kiếm tự do. May thay tất cả bốn trẻ thơ đều vượt thoát và chúng đã được đùm bọc nhờ bốn gia đình người Mỹ, ở ba tiểu bang cách xa nhau. Rồi mười hai năm sau, bà và con trai út đã qua đây sau nhờ những chương trình nhân đạo. Bây giờ gia đình bà đã đoàn tụ, một năm nữa sẽ có hai người con tốt nghiệp kỹ sư. Nhưng có một điều, sau hai mươi năm bà vẫn không tin chồng bà đã tuẫn tiết, ông còn bị cầm tù, bị mất tích với lý do nào đó, bà nói tín đồ Thiên Chúa giáo không bao giờ tự vận.

Bà thứ hai, sở dĩ ở sát bên vì sau khi quen nhau họ đã yêu cầu hắn thu xếp như vậy khi có thể, họ muốn thường xuyên giúp đỡ lẫn nhau. Hắn nói, tôi có thể nhận ra bà này ngay vì bà để tóc dài, rất dài với tuổi đã trên năm mươi của bà. Chồng bà ta xưa kia rất yêu mái tóc dài, bà thứ nhất tiết lộ với hắn vậy. Chồng bà này là đại úy không quân khi bị Cộng sản bắt đi cải tạo. Cộng sản nói sĩ quan cấp tá trở xuống chỉ cần học tập có một tháng thôi, nhưng mấy năm sau cũng không ai được thả về. Bà ta là một trong số những người đem xác chồng về sớm nhất. Ông ta tìm cách nhảy từ tầu xuống sông trốn khi bị đem ra miền Bắc, bị bắn chết, xác được vớt trả về cho vợ con. Bây giờ kể lại, bà ta nói không biết tại sao hồi đó họ lại kêu cho bà đem xác chồng về, chứ sau này chẳng ai biết ai chết, ai còn và bị cầm giữ nơi nào.

Cũng như bà thứ nhất, vì cùng quẫn quá, vì bị uy hiếp quá, bà không biết tại sao lúc đó người ta cứ mù quáng, liều lĩnh khi biết có người thân vượt biển là năn nỉ, cầu xin cho gửi con theo dù chúng mới năm, bảy tuổi.

Trong một bữa tiệc sinh nhật, bà ôm đứa con gái lớn vừa mới lên đại học và kể lại với mọi người trong nước mắt của cả sáu mẹ con. Bà nói cô gái lớn nhất lúc đó hơn bảy tuổi, bà gửi đi ba lần mới thoát, hai lần đầu ghe đều bị chìm, được vớt vô, được đi lãnh về, thế mà không sợ, nó vẫn đòi đi. Bà đã gửi thêm ba chuyến cho ba đứa kế tiếp đi theo chị, nhưng những con thuyền vượt biên đã đưa chúng đến những quốc gia khác nhau. Đứa qua Thái Lan, đứa tới Mã Lai, đứa được dàn khoan dầu của Pháp vớt. Và rồi có hai đứa đến với hai gia đình Mỹ, một đứa đến Canada, một đứa nữa tới Pháp. Tất nhiên là chúng đến với những tấm lòng vàng không huyết thống và không cùng chủng tộc. Chúng đã được bốc đi rất mau vì là trẻ nít và người đi cũng lại là những thanh niên, thiếu nữ độc thân không liên hệ.

Hắn có hỏi tiền ở đâu mà bà có thể lo cho các con đi như vậy, thì bà kể là thứ nhất phải có người quen thân đi vượt biên, thứ hai là phải có tiền và liều. Nhưng bà không hẳn ở trường hợp thứ hai, bà chỉ có ơn huệ, có hoàn cảnh thê thảm để được tội nghiệp, có gan lì và bất chấp Cộng sản kềm chế. Thế nhưng các con bà đi khi còn quá nhỏ, ngay cả những người đi cùng cũng không ai có tin tức gì về, có thể là hồi đó Cộng sản kiểm soát thư từ gắt lắm. Chính vì thế, khi bốn đứa con đã đi thì bà cũng nôn nóng đi tìm, bà không biết nói sao với cha mẹ đôi bên lên án sự liều lĩnh “đem con bỏ biển.” Nhưng cũng chính họ lo tiền để bà và đứa con sanh sau khi chồng bà chết ít tháng ra đi.

Kể đến đây hắn cười, nói là người Việt Nam cũng khôi hài vì con của bà ta kể với hắn là chuyến của bà ta đi không đến Mỹ mà lại đến một tỉnh của Việt Nam có cái tên là.. Mỹ Tho, tầu bà ta đi bị bắt và kéo về đó. Thế là, đứa con thì được cha mẹ bà lãnh về nuôi, còn bà ta cùng những phụ nữ khác bị đưa về một nông trường ở cuối địa đầu của miền Nam để làm ruộng rẫy.

Bà đã đầu tắt mặt tối, cô đơn lao động trong một biển người xa lạ, mà phần đông là gái giang hồ và trộm cướp. Bây giờ nếu phải kể lại cho ai nghe bà thường rùng mình về những tháng mưa dầm dề, những cơn sốt rét hành hạ, thiếu ăn, thiếu thuốc. Những con đỉa bơi loăng quăng theo những bắp chân lún dưới nước bùn, bà vừa cắm mạ vừa lo chạy đỉa. Ôi những con đỉa có băm chúng ra trăm mảnh, chúng lại thành ra chín mươi chín con đỉa khác. Nếu không có mối hờn vì chồng, mối biệt tích của đàn con, mối xót xa về cha mẹ, thì bà đã tìm cái chết theo chồng cho bớt tủi thân.

Ở tù gần hai năm, không có tòa nào xử, chỉ có... tiền của cha mẹ bà đã giúp cho bà được tha. Lần đó khi trở về, những thân nhân trong nhà đã lo cho bà một chuyến đi và thành công. Bà đến Mã Lai với đứa con thơ sau hai năm mới được ngủ chung với mẹ. Cũng nhờ đứa con bốn tuổi đó bị bịnh chết đi sống lại nhiều lần mà hồi ấy mẹ con bà đã không bị Mã Lai đẩy xuống tầu, kéo trả ra biển như bao nhiêu người khác. Rồi đến khi nhập trại tỵ nạn bà mới tìm biết được các con đã được bảo lãnh nhưng mỗi đứa một nơi. Bà ấy kể với girl friend của hắn, là bà đã cạo nhẵn tóc, ăn chay để tạ ơn những đấng thiêng liêng đã cứu độ mẹ con bà. Hơn năm trời ở trại bà đã phải hoàn tất những thủ tục khó khăn để xin lại những đứa con đã có người nuôi, cho nên khi tới Mỹ chỉ ít tuần bà đã được gặp những ân nhân và nhận lại ba đứa con nói tiếng Mỹ giỏi hơn tiếng Việt.

Hắn uống cạn lon bia rồi nhún vai kể tiếp, hắn không biết bên Pháp họ làm ăn kiểu gì mà bà ta đợi cho đến khi đứa con được dàn khoan dầu cứu, đã học xong lớp 12 mà chưa được trả về cho mẹ nó.
Kỳ hè năm 1989, nó qua đây chơi, thương mẹ quá, nó không chịu trở về, nó bỏ học. Bà ta dấu nó ở trong nhà hơn bốn năm mới lo được cho nó có thường trú ở bên này. Hắn thêm, hai thằng con của hắn đã trên ba chục tuổi đầu mà chẳng đứa nào học được một năm trên đại học, trong khi con bà ta, cái thằng kẹt bên Pháp đó bây giờ không những nói tiếng Anh giỏi hơn cả hai đứa em, và cũng đã xong hai năm đại học.

Ngoài đường lúc đó, nếu những chiếc xe ủi chưa dồn xong tuyết lên lề đường, và người ta chưa dùng xe trải lên mặt đường một lớp cát trộn muối cho bớt trơn trượt thì có lẽ hắn còn kể tiếp nhiều truyện nữa. Hắn nhìn đồng hồ và từ tốn khuyên nhủ tôi:
- Anh thấy đó, không phải chỉ có anh là kém may mắn đâu. Trong cái cư xá nhỏ của tôi mà đã biết bao cái khổ khác nhau. Đời còn nhiều thay đổi, tôi tin là anh không quên được vợ con, nhưng anh sẽ vui để sống, và nhận sự tri ân từ những người đau khổ khác. OK, anh theo tôi về.
...
Thấm thoát tôi đã làm cho Brandy hơn 6 năm. Nửa năm đầu tôi phụ hắn bán hàng ngoài tiệm. Làm việc này chỉ đủ trang trải những nhu cầu cần thiết, nhưng tôi không còn so đo về vật chất. Tôi mang ơn và mến hắn nên không nghĩ đi tìm việc khác, trừ khi hắn không cần tôi nữa.
Đây là một tiệm thực phẩm nhỏ, món gì cũng có một ít, từ bia, nước ngọt, thuốc lá, cà phê, đường sữa, kẹo, bánh, thuốc men và một vài tạp chí. Hắn khen tôi làm việc có trách nhiệm, tôn trọng khách hàng. Về phần tôi luôn giữ thái độ kính trọng dù hắn là người vui tánh. Thấy tôi ở cư xá đã giúp hắn sửa chữa nhiều việc vặt và nhiều người ở chung quanh mến, nhất là những đồng hương Việt Nam, nên một hôm hắn nói với tôi:
- Cái cư xá của ba tôi để lại sau khi ông ấy mất, nó đã cũ lắm, hệ thống nước trong nhiều nhà tắm, nhà bếp cần tu sửa và thay thế. Hệ thống gas sưởi cũng vậy, hư hỏng luôn luôn, tôi cần một người làm thường xuyên để phục vụ người thuê nhà. Anh là một technician, tôi nghĩ là anh có thể làm những công việc mà cư xá của tôi cần đến. Việc nào anh không làm được thì tôi sẽ mướn thợ chuyên môn. Căn buồng anh đang ở sẽ là nơi người thuê liên lạc để yêu cầu sửa chữa, anh lo việc cho thuê và nhận tiền trả hàng tháng cho tôi. Tiền điện thoại, tiền thuê nhà tôi sẽ không tính kể từ tháng tới, và tôi tăng lương cho anh 12% mỗi năm. Có điều gì yêu cầu cứ nói cho tôi biết. Tôi sẽ làm giấy giao ước với anh ngày mai.

Đây không hẳn là tánh kỹ lưỡng của hắn, mà làm như với người Mỹ, luật pháp hầu như đã trở thành một tập quán, việc gì cũng rõ ràng và có giấy tờ hẳn hoi chứ không nói xuông, dù thân hay sơ.
Brandy coi tôi như một đồng đội kể từ khi hắn biết tôi cũng đã từng có mặt nơi những địa danh ở Việt Nam mà hắn đã đồn trú. Khi rảnh rỗi hắn thường kể với tôi về chiến tranh Việt Nam, về thời gian dài nhất, gian nan nhất trong đời hắn là hai năm ở đó. Hắn vừa bất mãn, vừa tự mãn đã thoát ra từ cõi hiểm nguy này. Hắn thích thú nhắc lại những địa danh ở VN mà tôi và hắn đã đi qua dù không cùng thời điểm. Có lẽ những chuyện này bạn bè hắn chẳng ai hứng thú nghe nếu họ không cùng trải qua như hắn với tôi. Tuy nhiên hắn nhìn cuộc chiến VN với nhiều mơ hồ và ngộ nhận. Hắn không dứt khoát tin những điều tôi dẫn chứng để phủ nhận những điều mà giới truyền thông Mỹ đã một thời ngộ nhận, để rồi vẫn tiếp tục đầu độc dư luận Mỹ là họ không lầm lẫn.

Hắn kể, có lần sau một trận giao tranh, hắn đã nhìn thấy những thiếu niên, những phụ nữ bị thương vong mà cho đến bây giờ hắn vẫn còn ân hận, dù bọn hắn phản kích nhưng không thể rõ địch trong những xóm làng. Hắn cho rằng hậu quả của cuộc chiến VN là cuộc chiến mà hai phe không tương xứng về ... vũ khí. Vũ khí của Mỹ là súng đạn, Mỹ cải tiến để súng đạn có hiệu quả và muốn sử dụng bao nhiêu cũng có. Vũ khí của Cộng sản đôi khi còn cố ý làm thô sơ để chứng tỏ là nhân dân nổi dậy.

Ngoài súng đạn ra là con người, người Việt Nam, dù phải chết bao nhiêu cũng không tiếc, có chết nhiều mới làm mủi lòng những người phản chiến trên đất Mỹ, mới sôi sục căm hờn nơi hậu phương Cộng sản. Người lính Mỹ đến VN chỉ mong bình an trở về sau khi làm xong một nghĩa vụ mà họ không ý thức, họ không thấy được VN là tiền đồn của khối tự do đang bị Cộng sản xâm lấn dưới hình thức tranh đấu nhân quyền và độc lập. Họ cầm vũ khí mạnh trong một tinh thần yếu. Còn về phần chúng tôi, quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đồng minh với Mỹ có ý thức và căm hờn Cộng sản thì lại không được trợ giúp tương xứng để đối địch. Lúc Mỹ muốn đem quân vào thì nêu đủ lý do để chê là chúng tôi yếu, cần bảo vệ. Khi muốn hòa đàm thì tìm đủ thủ đoạn để vùi dập cho chúng tôi kiệt quệ, phải nhượng bộ. Khi muốn phủi trách nhiệm thì nêu đủ lý do để ca ngợi là chúng tôi mạnh, là thiên thần của chiến trường, dù chúng tôi không có khả năng để làm ra một viên đạn, đúc một khẩu súng.

Trong khi trò truyện về Việt Nam, có lúc hắn đồng ý, có lúc mặt hắn đỏ gay vì tôi dốt tiếng Mỹ mà còn nói hăng say, tay chân múa loạn. Và để câu truyện không trở nên gay cấn, lần nào tôi cũng đi đến kết luận là đất nước tôi mất về tay Cộng sản, thật ra không hẳn là vì Mỹ thay đổi chiến lược mà chính tôi, bạn bè tôi đã chiến đấu không tận sức để bảo vệ đất nước của mình. Hắn cũng hiểu tánh tôi nên thường vỗ vai cười giả lả:
- Hê! Sống độc thân lâu rồi, phải kiếm một bà làm bạn chứ"
- Thôi, không còn ai đẹp, không còn ai trẻ như vợ tôi!

Tôi đã ở cư xá này như một chứng nhân của những mảnh đời tỵ nạn. Tham dự những tiệc vui đưa tiễn những gia đình đã tạo được điều kiện sống vững vàng hơn ra đi. Rồi tiếp tục chờ đón những người mới tới, ngỡ ngàng chấp nhận nơi này làm chỗ tạm dung.
Đời còn nhiều thay đổi, biết đâu sẽ có một ngày nào đó chính phủ bắt hắn phá bỏ cái cư xá cũ kỹ, thiếu an toàn này xuống, rồi một công ty nào đó sẽ dựng lên một tòa nhà cao ngất như những khu nhà chọc trời nơi trung tâm thành phố kia.

Ngày đó đương nhiên tôi sẽ phải trôi đi nơi khác, nhưng trong đời sống tôi chỉ nhìn thấy dĩ vãng, thấy vợ tôi, người vợ lấy tôi năm mười tám tuổi, có với tôi ba trẻ thơ và đã phải cùng các con cách biệt tôi năm gần ba mươi tuổi.

Quang Danh

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/May/2019 lúc 9:53am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 31/May/2019 lúc 9:10am
Trang Y Hạ

Related%20image
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Jun/2019 lúc 2:41pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Jun/2019 lúc 10:06am

Thư Gửi Vân Khanh, Con Gái Của Ba


Đây là thư của người cha già gửi con gái nhân ngày Father’s Day, được viết với rất nhiều xúc động. Theo nội dung bài viết, tác giả là một vị cao niên đã 80 tuổi: cựu sĩ quan VNCH, cựu tù chính trị, cựu thuyền nhân, vượt biên tới Mỹ trước đây 18 năm. Bài viết được chuyển tới bằng e-mail, mong tác giả sẽ có thêm những bài viết mới và vui lòng bổ túc chi tiết tiểu sử và địa chỉ liên lạc.
Trần Dạ Từ.
 
Thư gởi Vân Khanh, Con gái của Ba.
 
 
 
Còn bốn tháng nữa con tròn 56 tuổi. Nhưng trong lòng Ba con vẫn còn trẻ như tuổi 15. Ba nhớ lại cũng ngày nầy 18 năm về trước, cha con mình đùm túm dắt nhau đi vượt biên rồi sang Mỹ. 

Ba nói là "đùm túm" vì hồi đó Ba từ trại tù cải tạo về thì con đã gần 40 tuổi. Khổ. Nghèo. Nhìn con gái Ba héo úa dung nhan mà Ba khóc ròng. Tại ba! Tại Ba hết thảy! Làm con gái của một "sĩ quan nguỵ" nên từ trường Đại Học ra con không có việc làm. Hàng ngày, ngồi ở góc chợ Bàu Hoa vùng Ngã Tư Bảy Hiền-Sài gòn để bán từng tô bún mắm. Cứ ba tháng một lần lặn lội ra Bắc thăm Ba. 
 
Năm 1975 Mẹ con mới 50 tuổi. Người vẫn nghĩ rằng Ba chỉ đi "học tập ít ngày". Thành ra, nghe Ba đi Bắc Mẹ con bị shock. Cộng thêm bệnh cao huyết áp sẵn có, Mẹ còn "nhất định nằm một chỗ". Thế là con gái của Ba vừa lo cho Mẹ, vừa lo cho Ba. Ba ở tù 8 năm thì Mẹ con mất. Phải đến 4 năm gian khổ đời con nữa Ba mới được trở về.
 
 
 
Buổi tối đoàn viên ấy, cha con mừng mừng tủi tủi. Nhìn ảnh Mẹ con vẫn như tươi cười Ba tan nát cả lòng. Nhưng biết nói làm sao" Vận mệnh cá nhân mình gắn liền với vận mệnh quốc gia dân tộc. 

Cả thời tuổi trẻ của Ba hầu như đi khắp 4 vùng chiến thuật. Mẹ con cứ bồi hồi theo dõi đường Ba đi. Không biết mình sẽ thành goá phụ lúc nào. Thời gian ở nhà của Ba rất ít. Con là con đầu lòng. Lại là con gái. Cảm ơn con gái của Ba. Một đứa con gái có lòng hiếu thảo. Trong một lần thăm nuôi tại trại tù, con kể Ba nghe: Từ nhà mình tới chợ Bàu Hoa chừng non 1 cây số. Sáng nào con cũng bày hàng bún mắm ra. Mùi mắm kho thơm lừng. Có cả tôm thẻ lột, thịt quay, cà tím. Có cả những rau nhúc, cây bông súng, rau đắng, húng cây, giá sống và bắp cải bào. Khách hàng đông lắm! Con còn cười vui nói với Ba: Khi nào Ba về con sẽ mở một tiệm bún mắm và rau VÂN KHANH cho Ba ngồi thu tiền. 
Ba nghe với lòng se sắt.
 
Con gái của Ba,
Trớ trêu thay, lúc Ba về con đã là con gái lỡ thì. Ba buồn lắm. Nhờ ơn Thượng Đế mình vượt biên một lần trót lọt. Ba đặt chân đến đất Mỹ vào cái tuổi người ta sắp nghỉ ngơi. Chính vì vậy mà con lại khổ vì Ba. Con không muốn Ba đi làm ca đêm giữa trời rét buốt. Con nói cái lạnh miền Bắc Việt Nam đã cứa nát thịt da Ba cả chục năm trời cũng đủ lắm rồi. Ba hãy để con lo. Nhưng Ba đâu đành lòng như thế. 
Buổi sáng con ra khỏi nhà là Ba cũng đi. Tiệm giặt ủi gần nhà mình quá mà. Ba nhận phần việc ủi và xếp quần áo. Đi tới đi lui xem máy giặt nào ngưng. Máy sấy nào đồ đã khô. Chỉ vậy thôi. Một ngày, tính ra Ba đi cũng gần 5 cây số. Tội ngiệp con gái của Ba. Lúc người ta báo tin Ba bị xỉu thì con khóc ròng. Ba về nhà ở không cho con nuôi tiếp. Thật người xưa nói đúng! "Trẻ cậy cha, già cậy con" mà.
 
 
Vân Khanh con, 
Cho đến một buổi chiều, con đưa về nhà một trung niên trẻ. Trung niên mà Ba cho là "trẻ". Vì Ba thấy diện mạo anh ta cũng dễ nhìn. Ba mừng vì con của Ba rồi cũng có một bến đợi để neo thuyền. Ba cầu mong cho con hạnh phúc. 
Chồng của con cũng là chiến hữu của Ba. Gia cảnh cũng không may mắn giống như Ba. Vợ anh đã chết trong lần đi thăm chồng. Cả chiếc xe lăn xuống vực. Từ đó anh dở dở ương ương. Qua Mỹ rồi anh vẫn sống như người mộng du. Cho tới ngày gặp con. Tình yêu thật là kỳ diệu! Chẳng những khiến cho con gái của Ba trẻ lại mà anh chàng "dở hơi" kia cũng chừng như mới cải lão hoàn đồng. Cứ 4 giờ khuya , anh thức dậy đi bỏ báo. Tới 9 giờ sáng về. Nghỉ ngơi rồi 5 giờ chiều đi vào hãng. 1 giờ đêm mới trở về nhà. Ba cảm ơn Thượng Đế lần nữa vì con có người chồng hiền lành và độ lượng. Chứ vào tuổi của Ba không bị đưa vào nhà dưỡng lão là hiếm lắm. Con nhớ gia đình Bác Th. không" Hai bác cưới vợ cho anh Cảnh từ lúc còn ở Việt Nam. Vậy mà qua Mỹ rồi Bác Thanh bị cô dâu xem như gánh nặng. Nhất định đòi anh Cảnh phải đưa Mẹ vào Nursing home cho đến chết.
 
Vân Khanh con, 
Cả một thời trẻ tuổi của con đã dành để sống cho cha mẹ. Bây giờ con hãy sống cho con đi. Ba rất cảm động mỗi lần khách đến thăm nhà con hay nói: vợ chồng con có phước lắm nên suýt soát tuổi 60 mà vẫn còn có cha để phụng dưỡng. Phải! Hồi đó ba khó nghĩ mỗi lần nghe người ta cho rằng sự sống con người tính theo công thức: 5 năm, 6 tháng, 7 ngày. Nghĩa là ở tuổi đời 5 bó tuổi thọ tính theo năm. Đến 6 bó thì tính theo tháng , mà 7 bó thì tính theo ngày. Ba đã 80, chắc phải tính theo giờ quá!
Cảm ơn vợ chồng con đã chăm sóc Ba mỗi ngày. Còn nói: Ba ơi! Với chúng con ngày nào cũng là Father's Day cả. Ba thật có lỗi với con. Hồi đó Ba vẫn buồn thầm trong lòng khi mẹ con sinh con là con gái. Ông Nội con sợ Ba chết trận thì không có con trai nối dõi tông đường. Còn nếu Ba già mà yếu đau thì con là gái không thể chăm cho Ba được. Ca dao có câu:
Trai mà chi" Gái mà chi" 
Con nào có nghĩa có nghì thì hơn “
 
 
Nói đến đây Ba chợt nhớ loáng thoáng câu chuyện "Tấm đắp mông ngựa" mà Ba đã đọc từ rất lâu:
Chuyện kể :
Một người cha đã đem cả gia tài còn lại của mình cưới cho con cô vợ giàu, trẻ đẹp. Một thời gian đầu sống vui. Rồi những đứa cháu nội lần lượt ra đời. Người cha mỗi ngày một già yếu. Người con trai rất yêu và nể vợ. Dần dần quên đi trong nhà còn có người cha. Mùa Đông lạnh lẽo mà sức già chịu không thấu những ngày giá tuyết phũ phàng.Trong khi những con ngựa nuôi trong chuồng thì được giữ ấm bằng những tấm đắp mông. Đến chừng không thể chịu đựng được nữa người cha bèn gọi con trai để nói rằng:
- Con ơi , hãy cho cha một tấm đắp mông ngựa đễ cha dễ ngủ vì mùa Đông nầy lạnh quá!
Con dâu nghe được bèn nói với chồng:
- Anh hãy lấy tấm đắp cũ ngoài sân kia mà cắt cho cha một nửa.
Người con trai làm theo lời vợ. Trong lúc cố dùng sức cắt đôi tấm đắp ra thì đứa con nhỏ đến gần, hỏi:
- Cha ơi, sao không cho ông Nội cả tấm đi" Cha cắt ra làm chi "
Người cha trả lời:
- Để dành con à.
Hôm sau, người con trai thấy đứa con mình cũng đem tấm đắp mông ngựa khác cắt ra làm đôi. Người con trai giận dữ hỏi:
- Con làm cái gì vậy" Tại sao con cắt nó ra" 
Đứa con nhỏ đáp:
- Nửa tấm nầy con cho ông Nội. Còn nửa nầy để dành khi nào cha già con sẽ cho cha.
Người cha giật mình hối hận. Từ đó, hết lòng chăm sóc cha mình cho đến cuối cuộc đời.
 
Vân Khanh, 
Ba ước ao những người cha khác cũng có con hiếu thảo như con gái của Ba. Ba rất tự hào về con. Trong lúc có biết bao gia đình, cha mẹ ngậm đắng nuốt cay vì những đứa con Việt Nam sống theo kiểu Mỹ. Rất tự do! Thậm chí đã khước từ hai chữ HIẾU KÍNH cha mẹ, làm cho các bậc sinh thành hàng ngày sống "nước mắt chan cơm" thì Ba đã được vợ chồng con hết lòng chăm chút từng miếng ăn, giấc ngủ. 
Người xưa nói: "Hiếu thuận huờn sinh hiếu thuận tử. Ngỗ nghịch huờn sinh ngỗ nghịch nhi". Ba ước nề nếp gia đình mình là như vậy. 
Ba của con,
 
Hoàng Yến
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Jun/2019 lúc 11:12am

CON NHỒNG



Đến tuổi sáu mươi thì anh mới qua Pháp định cư. Hồ sơ hoàn tất từ hồi tuổi năm mươi, không hiểu sao cứ kéo dài mãi. Toà lãnh sự kêu lên năm lần bảy lượt hết hỏi này nói nọ lại bổ túc hồ sơ. Anh thấy nản, chẳng muốn đi nữa, bỏ ngang. Sau khi vợ anh mất, anh lại càng không nghĩ đến chuyện đấy nữa. Nhưng cô em gái bảo lãnh cho anh, thương ông anh ruột côi cút một mình, cứ thúc anh mãi. Anh cứ lần khân vì anh không muốn làm gánh nặng cho cô em.

Hơn nữa, anh thích sống ở Việt Nam hơn. Ở đây có bạn bè, hàng xóm, bà con. Đi đến đâu cũng có người để nói chuyện. Mà anh lại là người thích chuyện trò. Ra quán cà phê đầu ngõ mỗi ngày, anh gặp bao người, đa số là quen cả, đủ thứ chuyện để nói với nhau. Hôm nào lười nói thì ngồi nghe, nghe người khác nói cũng là một cái thú. Đi sửa cái xe, bắt chuyện với anh thợ trẻ, nghe anh kể tâm trạng nhớ quê, nhớ vợ, thương cho hoàn cảnh của anh. Gặp anh thợ già lại nghe chuyện đời, chuyện lòng người, hiểu thêm nhiều cảnh ngộ. Vợ chồng anh sống giản dị, gắn bó với mọi người nên gặp ai trong phố cũng chào hỏi, nói cười rôm rả. Cho nên khi nhận được giấy tờ định cư, rồi mua vé máy bay, anh buồn lắm, tâm trạng chẳng muốn đi. Nhưng anh cứ lấn cấn chuyện ở đây thì vui nhưng lắm chuyện để nghĩ. Anh là người siêng năng nghe đài, xem báo, đọc mạng, biết nhiều chuyện quá buồn của đất nước, nhìn thấy bế tắc không có lối ra của nền kinh tế đang có dấu hiệu sụp đổ. Hàng ngày chứng kiến những tên tham ô, nhũng nhiễu, cướp của dân nghèo, anh xót xa thấy mình bất lực. Anh rùng mình sợ hãi với cách sống tàn nhẫn nhan nhản trong xã hội, con người tàn sát lẫn nhau để tồn tại, lừa gạt nhau để sống, đầu độc nhau để thủ lợi. Những điều đó làm anh trăn trở và anh nghĩ rời đất nước để không còn phải làm một kẻ chứng nhân và cũng là nạn nhân của sự tàn mạt đó. Anh biết qua đấy sẽ buồn nhiều hơn vui, vì anh đã có thời gian đi học ở đấy, nhưng ít ra anh khỏi phải là người chứng kiến một sự đứt gãy và sụp đổ những giá trị văn hoá mà anh đã một thời tôn thờ và ngưỡng vọng. Anh không muốn nhìn thấy những nền nếp lâu đời của một dân tộc đang rã nát. Và vì thế anh đi.
Khi máy bay tăng tốc để rời phi đạo, anh khóc khi nhìn qua cửa sổ và phía dưới kia là những con đường, những nóc nhà, những địa điểm quen thuộc. Và bỗng dưng anh tự nghĩ mình quyết định thế này có đúng không?
Nước Pháp đón anh với những cơn gió lạnh mùa đông tái tê. Anh thấy mình cô dộc hơn bao giờ với mớ hành trang lỉnh kỉnh. Những ánh đèn màu lung linh trên phố, tiếng người xôn xao nhưng không có giọng nói của quê hương khiến anh bơ vơ.
Ở chung với gia đình cô em được mấy tháng, anh thấy không được thoải mái lắm, lại thêm chẳng muốn làm phiền. Anh đi thuê một căn phòng nhỏ ở khu Saint Denis, một vùng ngoại ô và giá bình dân, nhưng khá lộn xộn. Cả ngày chẳng biết làm gì, anh lang thang ra công viên, vào quán cà phê bên đường, sáng ăn cái bánh croissant, uống ly cà phê sữa, trưa ăn khúc bánh mì mong có găp một người Việt để cùng nói chuyện năm ba câu. Cũng có khi gặp, nhưng ai cũng vội, chỉ mình anh không vội nên chỉ nói hai ba câu xã giao hờ hững. Anh thèm được nói chuyện, được nghe tiếng Việt như những ngày ở quê nhà, nhưng khó quá. Có nhiều đêm trong căn phòng nhỏ, không ngủ được, anh nhồi cho mình một cối thuốc đầy, thắp một ánh nến, rót một ly rượu rồi ngồi nói một mình như kẻ điên. Sau những lần độc thoại như thế, anh lại cảm thấy mình cô đơn hơn, chán nản hơn. Đối diện phòng anh là phòng của một tay Mỹ già. Ông ta vốn là một thuỷ thủ tàu buôn, đến lúc tuổi già thì rời vùng đất đầy gió biển Marseille về Paris chứ nhất định không về Mỹ. Lão bảo cứ xuống phi trường, đặt chân lên đất Mỹ là lão buồn ói. Ở lâu, hai lão già thành bạn, lâu lâu cũng ngồi với nhau nhấm nháp ly rượu, nhai một chút xúc xích, nói với nhau bằng hai thứ ngôn ngữ lơ lớ nhưng cũng hiểu nhau. Lão già Mỹ nói tiếng Mỹ pha chút tiếng Pháp, lão già Việt nói tiếng Pháp pha chút Mỹ, lâu lâu lại chêm tiếng Việt khiến tay người Mỹ ngẩn ngơ. Mỗi lần như thế, anh lại xin lỗi và bảo tại nhớ tiếng Việt quá.
Anh tìm đến cộng đồng người Việt, tham gia nhiều sinh hoạt với họ, được dịp nghe và nói tiếng Việt. Những cuộc gặp gỡ như thế thường chỉ tổ chức vào cuối tuần hoặc dịp lễ lạc. Thời gian đầu anh thấy thú vị và sung sướng lắm. Nhưng rồi lần hồi, anh nhận ra mấy tổ chức này lung tung quá, nhiều khuynh hướng chính trị quá lại cứ cãi nhau như mổ bò, tranh dành danh hão, gặp nhau là dịp để khoe đủ thứ trên đời, nói xấu thiên hạ. Anh nản nên rút lui dần, chỉ còn mỗi tuần đi nhà thờ ở cuối phố, gặp mấy bà già Việt qua đây từ thuở nào, chào nhau, nói vài chuyện. Các bà qua lâu quá rồi nên cũng chẳng có nhớ chuyện gì để nói ngoại trừ nhắc lại mấy chuyện xa lắc lơ của thập kỷ bốn mươi của thế kỷ trước ở vùng quê chiêm trũng Bắc bộ.
Và rồi anh phát hiện có bà cụ nuôi một con nhồng biết nói tiếng Việt. Cũng tình cờ thôi, hôm đó lễ xong trên đường về thì anh cùng đường với bà cụ. Bà cụ khoe anh là vừa được cậu cháu vừa đi Việt Nam về biếu cho con nhồng nói được. Cụ bảo gian truân, ma mãnh lắm mới đem được con chim qua đây. Thế là anh ghé nhà bà xem thử, con nhồng nói được thật, nhưng chỉ nói được "Trời ơi" và nhiều tiếng ậm ừ trong họng. Nhưng thế cũng là tốt rồi. Anh chợt nghĩ, giá mà anh có con chim thế này nuôi trong phòng, anh sẽ dạy nó nói thêm nhiều tiếng nữa, suốt ngày chim và người nói qua lại với nhau, cũng là điều quá thú vị. Từ đó, anh siêng đến thăm bà, để nghe bà ngọng nghịu nói vài tiếng Việt và chủ yếu là nghe con nhồng hét lên "Trời ơi". Bà cụ già, lười biếng nên chuồng chim lúc nào cũng đầy phân chua loét, lần nào ghé anh cũng dọn sạch lồng cho chim nẻn lần hồi chim cũng quen anh, mỗi lần thấy bóng anh là nó ngước mỏ lên mà la "Trời ơi". Bỗng một hôm bà cụ bảo anh: Anh ạ! Tôi thấy anh quý chim, tôi cũng thích nó nhưng không khoẻ để chăm sóc nó cho tốt. Hay là tôi xin tặng anh, anh đem về chăm sóc nó tốt hơn tôi. Nghe thế anh mừng húm, anh bảo gởi cho cụ ít tiền, cứ xem như anh mua lại con chim của bà cụ.
Từ đó, anh có con nhồng làm bạn. Anh đặt cái lồng giữa phòng, chùi rửa mỗi ngày, thức ăn, tắm rửa đầy đủ nên chim càng ngày càng phổng phao, bộ lông đen nhánh như nhung, cái mỏ với đôi tai lủng lẳng vàng choé như múi mít chín. Và cũng nhờ khoẻ nên chim siêng nói, nhưng chưa học thêm từ nào mới, vẫn cứ vểnh mỏ mà la "Trời ơi". Anh cũng trời ơi với nó, nói qua nói lại suốt ngày. Anh muốn dạy nó nói "Mẹ ơi", " Ba ơi", "Việt Nam ơi". Nhưng nó vẫn ầm ào trong miệng, phát âm chẳng rõ ràng. Anh bớt đi lang thang. Sáng pha cà phê, cắt cho chim miếng chuối, cho miếng croissant, chim kêu "Trời ơi". Anh hớn hở cười, nói lại "Trời ơi". Suốt ngày không biết chán. Chim và người cứ đối thoại với nhau như thế và anh thấm hơn cái nghĩa của chữ trời ơi của người Việt. Anh định viết một bài nghiên cứu về "Trời ơi" trong phong tục và ngôn ngữ của dân Việt, anh nghĩ chắc cũng lắm cái hay. Anh sẽ phân tích cái chữ trời ơi trong mọi hoàn cảnh mà người Việt thường dùng khi sung sướng cũng như lúc đau khổ, lúc ngạc nhiên cũng như lúc bế tắc của số phận. Anh khám phá ra triết lý của chữ trời ơi nó phong phú quá, nó sâu xa quá.
Mấy người bạn cũ của anh nay đang định cư ở Mỹ rủ anh qua Mỹ chơi nhân dịp họp mặt truyền thống trường học xưa thời trung học. Chuyến đi dự định một tháng. Anh chỉ một mình, đi đâu cũng được, ở đáu cũng thế nên chuyện đi đối với anh, anh chẳng có gì phải băn khoăn. Chỉ cần mua vé, xách vali lên là đi thôi. Nhưng anh ngại không ai chăm sóc con nhồng, cũng chẳng biết gởi ở đâu trong những ngày anh vắng mặt. Thời may, khi biết nỗi âu lo của anh, anh bạn Mỹ già mở lời sẽ chăm sóc chim chu đáo như lời anh dặn dò và khẳng định sẽ chẳng có chuyện gì có thể xảy đến cho chim.
Tin tưởng lời hứa của bạn già, anh đi Mỹ một tháng mà lòng cũng lo âu, vài hôm điện về Pháp hỏi thăm, biết chim vẫn khoẻ là an tâm rồi.
Lão bạn già người Mỹ đón anh ở phi trường lúc anh về lại Pháp. Câu hỏi đầu tiên của anh là chim sao rồi, khoẻ chứ. Lão Mỹ nhìn anh tủm tỉm cười: Khoẻ và hay hơn trước nhiều. Trong mắt lão ánh lên một tia nhìn tinh quái đầy vẻ bí mật. Anh hỏi lão chỉ cười: Về biết liền. Mở cửa phòng, thả cái vali, anh kêu: "Trời ơi" như lời chào. Con chim ngóng mỏ chào lại:"Oh my God". Cái gì thế này? Anh lập lại:"Trời ơi". Chim cũng trả lời:"Oh my God". Anh lập lại nhiều lần, chim vẫn trả lời :"Oh my God". Anh quay nhìn lão Mỹ, lão cười ha hả với giọng đắc thắng: "Mày thấy tao giỏi không? Chỉ một tháng, tao đã dạy nó nói được tiếng Mỹ, chưa đâu, nó còn biết chào Hello nữa kia, rồi mày sẽ nghe". Anh điên tiết nhìn hắn với cặp mắt toé lửa: "Tao chỉ muốn nó nói tiếng Việt, mày hiểu chưa, tao không muốn nó nói tiếng Mỹ". Lão Mỹ cười khùng khục: "Tiếng nào cũng thế thôi, mày phải cám ơn tao vì đã dạy được nó nói". Anh quắc mắt la lẻn: "Cám ơn cái ....... mày, mày làm hư con chim của tao rồi. Cút mẹ mày đi". Lão Mỹ nhìn anh ngạc nhiên, đôi mắt xanh mở to như mắt khỉ, ra dấu chẳng hiểu gì. Mà làm sao nó hiểu, làm sao giải thích cho nó biết anh chỉ cần chim nói tiếng của dân tộc anh, của quê hương xa tít của anh, để anh cảm thấy gần gũi với quê nhà. Anh chỉ cần nghe tiếng trời ơi, chỉ cần thế thôi. Lão thuỷ thủ già không hiểu điều đó, lão không có ý niệm quê hương, lão buồn ói khi nói về đất nước của lão, không có chút đồng cảm trong chuyện này thì làm sao để gỉải thích.
Anh đứng giữa phòng la to:"Trời ơi". Nhồng trả lời:" Oh my God". Cuộc đối thoại nhàm chán suốt như thế cho đến khi anh khản cả cổ. Chim đã quên tiếng Việt. Suốt cả tuần, trừ lúc ngủ, lúc ăn, anh cứ đứng với lồng chim mà kêu:"Trời ơi". Và chim mãi trả lời : "Oh! My God". Không biết tay Mỹ già dạy sao hay thế. Lần hồi, anh khám phá ra lão già cho chim ăn Hamburger. Anh chỉ cho nó ăn bánh Croissant. Lão cho Hamburger có thịt, chim khoái nghe lời lão. Anh lại biết thêm lão cho chim uống rượu Whisky, trong khi anh chỉ cho chim uống nước lã. Hèn gì, anh châm nước cho nó, nó chấm mỏ vào rồi vung vẩy, lấy mỏ kẹp nghiêng hủ nước cho đổ lênh láng. Hoá ra nó đòi Whisky. Lão này mất dạy thật. Con chim đã hư rồi. Bây giờ nó chào Hello khi muốn ăn, nó kêu Whisky khi muốn uống, lúc anh hét trời ơi, nó trả lời Oh! My God! Việc đó làm anh phát điên. Anh bỏ mấy tuần để dạy lại tiếng trời ơi cho nó, nhưng nó làm như đã quên rồi. Nó chỉ Oh! My God. Nhiều lần, tức quá anh đập mạnh trên nóc lồng rầm ràm, nó bay loạn xạ, dáng điệu ngạc nhiên, sợ hãi nhưng vẫn kêu : Oh! My God! Tức không chứ. Giờ thì nó chỉ ăn Hamburger, uống rượu và nói tiếng Mỹ.
Chịu hết nỗi, anh túm lấy chân nó, mở cửa sổ, tung nó ra ngoài trời. Anh nói: "Bay đi, tao không cần mày nữa". Nó chao một vòng. Paris đang mùa thu, lá vàng trên cây, lá đỏ dưới đất. Con chim màu đen lượn mấy vòng trong sắc thu rồi trở lại đậu trên bậu cửa sổ. Anh bảo: Trời ơi. Nó: Oh! My God. Nhiều lần như thế, bực mình anh xua nó bay đi, đóng cửa sổ lại, ngồi vào ghế nhồi cối thuốc. Nó quay lại, lại đậu trên bậu cửa, mỏ gõ cành cạch vào cửa kính. Nó kêu Hello, Hello!
Anh hét: Trời ơi! 
Nó trả lời: Oh! My God!
Anh ném mạnh tẩu thuốc đang hút vào cửa, chim hoảng hồn bay đi, vừa bay vừa kêu: Oh! My God!
Không biết nó kiếm ăn ở đâu, đêm có lẽ nó ngủ trên cành cây phía bên kia đường. Nhưng suốt cả tháng, sáng nào nó cũng đậu nơi cửa sổ phòng anh, dùng cái mỏ vàng gõ cành cạch vào cửa kiếng mà Hello với Oh! My God!
Thế rồi một hôm nó mất hút, mấy ngày không thấy bóng dáng nó. Anh mở cửa sổ, ngước lên cây gọi liên tục: Trời ơi! Trời ơi! Trời ơi! Trời ơi!. Chẳng có tiếng vọng nào. Anh vẫn gọi, lớn hơn: Trời ơi! Trời ơi! Trời ơi! Trời ơi! Những người đi đường nhìn lên, cứ nghĩ có một lão già cháu Á đang bị điên, có lẽ vì lão nhớ quê hương.
Con chim Trời ơi của anh đã vỗ cánh bay mất, suốt cả buổi anh cứ gọi mãi trời ơi, hi vọng nó sẽ bay về. Nhưng nó đã mất biệt. Giọng anh lạc đi với hai hàng nước mắt. Nó đã nói tiếng Mỹ rồi. Nó đã quên tiếng Việt rồi. Thôi! Anh cũng đành quên nó đi.

DO DUY NGOC
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 04/Jun/2019 lúc 6:18am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 22115
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Jun/2019 lúc 3:06pm

Con Sẽ Về Thăm Bố

Image%20result%20for%20hoa%20%20chanh

Tháng Mười năm ngoái con về thăm bố,
Trời Cali. rực rỡ nắng ấm vàng,
Vườn sau nhà, cây chanh hoa vẫn nở,
Cây chanh năm xưa bố đã vun trồn


Image%20result%20for%20cali%20high%20way

Và một thuở còn xa hơn thế nữa,
Bố đã vun trồng, nuôi dạy chúng con,
Nhưng bây giờ mỗi phương trời một đứa,
Chẳng như hoa chanh nở một góc vườn.


Image%20result%20for%20cali%20high%20way

Vì cuộc sống nơi xứ người tất bật,
Như dòng xe trên đường phố ngược xuôi,
Đứa Cali., Canada, Texas ,
Đứa Seattle mưa gió ngậm ngùi.


Image%20result%20for%20gọi%20phone,

Lũ chúng con không thể về thăm bố,
Thỉnh thoảng cuối tuần con chỉ gọi phone,
Con đã hiểu bố tuổi già ở Mỹ,
Vật chất dư thừa nhưng vẫn cô đơn.


Image%20result%20for%20đánh%20ván%20cờ


Con cầu mong bố luôn luôn mạnh khoẻ,
Ra “Hội người già” đánh ván cờ vui,
Hay bố cặm cụi nơi khu vườn nhỏ,
Ngắm nụ hoa, cánh lá mới đâm chồi.


Image%20result%20for%20cây%20chanh%20hoa%20vẫn%20nở

Con muốn được là cây chanh của bố,
Ở một góc vườn, nhìn bố vào ra,
Con muốn trời Cali. đừng chuyển gió,
Làm bố se mình, khi buổi chiều qua.


Image%20result%20for%20bữa%20cơm%20chiều%20quây%20quần%20đông%20đủ

Con muốn được sống lại thời trẻ nhỏ,
Lũ chúng con,cùng cha mẹ một nhà,
Có bữa cơm chiều quây quần đông đủ,
Yên ấm nào bằng cha mẹ chở che?


Image%20result%20for%20giấc%20mộng

Nhưng mà thôi, đó chỉ là giấc mộng,
Mỗi khi con mệt mỏi giữa cuộc đời,
Khi thức dậy vẫn vươn vai để sống,
Cuộc hành trình không ngừng nghỉ bố ơi!


Image%20result%20for%20%20con%20lại%20về%20thăm%20bố

Hẹn sang năm con lại về thăm bố,
Trời Cali vẫn rực rỡ nắng vàng,
Con sẽ hưởng những gì mình đang có,
Bánh xe đời không quay ngược thời gian.

Nguyễn Thị Thanh Dương



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Jun/2019 lúc 3:12pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 125 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.486 seconds.