Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 124 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Aug/2019 lúc 9:03am

Chiếc Đòn Gánh Của Mẹ 


Những người phụ nữ quê tôi không ai không biết đến chiếc đòn gánh vì ai cũng đã từng hơn một lần gánh nó trên vai. Quê tôi miền Trung nghèo lắm. Từ những bé gái mới lớn lam lũ giúp mẹ thổi cơm gánh nước, đôi vai nhỏ như oằn xuống với một cánh tay bấu vào thân đòn nặng trĩu còn tay kia dùng lấy thăng bằng gánh hai thùng nước sóng sánh - đến những bà mẹ già lập cập gánh những bó rau, bụi cải hay con gà con vịt thong dong ra chợ bán. Rồi những đứa em, người chị, hầu như cứ rãnh việc, buông tay ra là động đến chiếc đòn gánh. Gánh lúa, gánh phân, gánh mạ non, gánh nước … Toàn bộ công việc nặng nhọc đặt trên vai người phụ nữ. Đàn ông quê tôi lại ít thấy gánh gồng gì. Dĩ nhiên là họ làm những việc khác có khi còn nhọc nhằn hơn nhưng ít khi động đến chiếc đòn gánh …

Tôi nhớ như in lúc tôi còn là thằng bé sáu, bảy tuổi, chiều chiều ra đứng trên đầu cầu sông Kênh đón mẹ đi chợ về. Rướn người trên thành cầu sắt thật cao, tôi đưa mắt hướng về phía chợ. Hễ cứ thấy từ xa ai đó đang quang gánh bước đi là lòng tôi lại thấp thỏm mừng vì nghĩ đó là mẹ mình. Cái dáng tất bật, lam lũ của những người đàn bà quê tôi hầu như ai cũng giống nhau. Cho nên, tôi thường nhìn lầm. Tôi đợi từ xa và dõi mắt nhìn chằm chằm vào dáng đi vất vả cũng với hai cánh tay, một nắm trên thân đòn và một lấy thăng bằng, buông lỏng theo từng bước chân như chạy. Không lẫn vào đâu được, đúng là bước chân của mẹ tôi. Bước chân mẹ lạ lắm, có gì đó như lo toan, vội vã, nhẫn nhục, nhọc nhằn trong mỗi nhịp đi hối hả. Nhưng khi bóng người đàn bà kẽo kịt gánh gồng đến gần, thì lại không phải. Niềm vui biến mất, gương mặt buồn xo, tôi lại ngồi xuống thành cầu đợi mẹ tôi.

Cuối cùng thì mẹ cũng xuất hịên! Từ xa, nhận ra mẹ, tôi đã ba chân bốn cẳng chạy ùa tới mừng rỡ. Tôi chẳng quan tâm gì đến mồ hôi mồ kê trên gương mặt mẹ chảy ròng ròng vì mệt, vì nắng rát mà điều quan trọng nhất là nhìn vào hai cái mẹt đong đưa hai bên đòn gánh dưới cái quang bằng dây thép uốn tròn. Quà của tôi nằm ở đó! Khi thì là chiếc bánh mì, vài viên kẹo dẻo, một lóng mía ghim, có khi là mấy thứ đồ chơi rẻ tiền bằng nhựa … Thích nhất là được mẹ mua cho bánh bò ông ba tàu ngoài cổng chợ. Tôi mê bánh bò ông thì ít mà thích con gái ông thì nhiều! Chẳng là con ông học cùng lớp với tôi. Nó học giỏi nhì lớp, còn tôi hạng nhất. Bọn trẻ con thường cắp đôi tôi với con Lẻm, tên nó. Không biết nó nghĩ gì không chứ riêng tôi thì thích! Mà cũng lạ, không ai như tôi, mới học đến lớp hai, lớp ba mà đã biết mắc cỡ khi gặp nó … Nhưng đó là chuyện hồi con nít …

… Không cần đợi mẹ đồng ý, tôi đã lục mẹt lấy quà của mình vì biết mẹ chỉ mua cho tôi. Nhà có mấy chị em, ba mất sớm mà tôi là con trai duy nhất nên mẹ thương tôi hơn cả. Trăm lần như một, chiều nào mẹ đi chợ về, sau khi bán hết mớ rau cải, bầu bí trồng ở vườn nhà, thế nào mẹ cũng dành tiền ki cóp mua cho tôi ít quà. Tôi cầm gói bánh bò tung tăng chạy trước, mẹ gánh cặp mẹt đi sau. Không nhìn vào mắt mẹ nhưng biết chắc mẹ đang cười nhìn tôi hạnh phúc. Đôi gánh nhẹ hẫng trên vai mẹ và thỉnh thoảng mẹ còn nói vói theo nhắc yêu tôi: Ranh con, chạy vừa vừa chứ, té ngã bây giờ! 

Tôi thật không biết chiếc đòn gánh do ai nghĩ ra và xuất hiện đầu tiên vào lúc nào nhưng quả thật, đó là một dụng cụ tuyệt vời để di chuyển vật nặng từ nơi nầy đến nơi khác bằng sức người ở quê tôi. Nó được làm bằng cây tre già ngâm nước càng lâu càng tốt, để tre dẻo, chắc và khỏi mục. Tôi đã thơ thẩn hàng giờ nhìn người ta đục đẽo chiếc đòn gánh. Thật cũng lắm công phu! Sau khi chỉ lấy đoạn gốc tre già ngâm nước chừng vài tháng, người ta làm hai chiếc máng ở hai thân đòn. Hai cái máng nầy phải giống nhau như một, giữa khắc một cái rãnh sâu dùng để móc quang vào cho khỏi lệch. Cái máng nầy cũng lắm chuyện. Gặp tay thợ đẽo giỏi, nó là hình tròn, hình ô van có khi còn được tạc vào dấu thập hoặc chữ vạn mà tôi không biết để làm gì. Có lẽ lấy hên mua may bán đắt khi gánh trên vai chiếc đòn gánh ấy chăng, hay chỉ là khắc lên cho đẹp … 

Chưa hết, còn phải gọt đẽo thân đòn cho thật thẳng, đoạn ở giữa mỏng hơn hai bên đầu làm đòn đong đưa cho nhẹ sức hơn khi gánh nặng … Khoảng hơn tiếng đồng hồ đẽo gọt thì chiếc đòn gánh ra đời. Nó có thể dùng hết đời nầy đến đời khác trong một gia đình quê tôi vì hiếm khi bị gãy. Đến khi nước bóng ở thân đòn nổi lên màu đen mun thì không biết chiếc đòn đã thấm biết bao nhiêu mồ hôi từ trên đôi vai những người đàn bà tần tảo …

Nhưng chiếc đòn gánh của mẹ tôi không chỉ có thế. Nó còn là một trời kỳ diệu. Nó mang đến tuổi thơ tôi những niềm vui háo hức tràn trề, cả những giấc mơ đẹp đẽ nhất trên đời. Còn gì sung sướng hơn khi được đặt ngồi vào một đầu quang, đầu bên kia là trái bầu trái bí mẹ gánh suốt dọc đường ra chợ. Tôi cứ ngồi im như thế trên suốt con đường làng, hấp háy đôi mắt hãnh diện nhìn quanh xem có đứa bạn học nào để mà vểnh mặt lên, tự hào được ngồi gánh mẹ. Tôi cũng không buồn khi thấy chỉ mấy con trâu, con bò dọc đường làng chào tôi kêu nghé ọ và những đứa trẻ chăn trâu nhìn theo cười chế giễu. Tôi biết chúng nó ganh tỵ vì không được ngồi gánh như tôi …Và vì tôi nặng hơn mấy trái bầu bí ở gánh bên kia nên mẹ phải đưa vai chệch về phía tôi để giữ thăng bằng. Mệt lắm nhưng mẹ vui. Tôi biết được điều ấy trên đôi mắt long lanh, hài lòng bừng lên trên mặt mẹ …

Đến gần chợ là tôi dứt khoát bảo mẹ cho xuống, có năn nỉ mấy cũng không chịu ngồi thêm. Tôi sợ con Lẻm, con ông ba tàu bán bánh bò đầu cổng chợ nhìn thấy. Vì sao sợ nó cười, tôi không biết nhưng rõ là tôi thích được nhìn nó xuất hiện với hai chiếc nơ xinh xắn, chạy lò cò trước cổng, mắt tròn xoe nhìn tôi và gật đầu chào. Tôi làm như ngó lơ, chạy lúp xúp theo mẹ, mắt liếc thật nhanh vào con Lẻm còn tay thì cứ cầm dây quang phía sau chiếc đòn gánh mà nhắc để khỏi mắc cỡ: Đi nhanh lên mẹ, con đói bụng lắm rồi …

Tuổi thơ tôi và chiếc đòn gánh mẹ như không hề rời nhau. Cũng có những hôm không bán được hàng, mẹ quảy gánh về mà không có quà cho tôi. Tôi cứ cầm lấy đòn gánh mẹ mà khóc tấm tức, dỗ mấy cũng không nín. Tôi nghĩ mẹ không thương tôi hoặc là quà của tôi mẹ đã cho ai mất rồi. Tôi chẳng nhìn lên mắt mẹ để thấy mẹ buồn như thế nào vì không tiền mua quà cho đứa con cưng. Có hôm mẹ tủi thân cứ nhìn tôi, ôm tôi mà khóc …

Nhưng cũng có lúc, chiếc đòn gánh với tôi là cả một cơn ác mộng! Tôi nhớ có lần đi hái trộm xoài non của bác Hai Trầu cạnh nhà. Bác Hai qua mét mẹ và chuyện đã xảy ra … Tôi mới bước chân về đến cửa, mẹ tìm hoài không thấy roi nên sẵn cây đòn gánh , mẹ phát vào mông tôi mấy cái. Dĩ nhiên là mẹ phát nhẹ thôi vì chiếc đòn gánh thì to bảng mà mông tôi thì nhỏ. Nhưng mà đau thấu trời xanh. Ghê thật là cái vị đòn làm bằng cây tre già ngâm nước! Nó thấm vào thấu bên trong, đau và nhức buốt hơn mọi loại roi nào khác. Tôi chỉ còn cách quỳ xuống đất nức nở mà xin lỗi mẹ vì đau và sợ ăn đòn tiếp . ..

Tối đó, mẹ vừa khóc vừa bôi dầu nhị thiên đường vào mông tôi đã nổi lên mấy vết hằn đỏ. Mẹ dằn vặt mình vì đã giận đánh con. Tôi làm bộ quay mặt vào tường không nhìn mẹ. Tôi giận, mẹ hỏi gì cũng không nói và thiếp đi lúc nào không hay. Khi thức dậy vẫn còn thấy mẹ ngồi chằm chằm nhìn tôi, nghẹn ngào: Mẹ đánh con bậy quá … Nhưng ai bảo con hư …Lúc ấy, với đôi mắt nhạt nhoè, tôi chỉ muốn ôm mẹ mà khóc.Vì hờn, tủi thân hay còn giận mẹ, tôi không biết. Nhưng tôi biết chắc một điều là mẹ yêu thương tôi vô bờ bến!

Chiếc đòn gánh của mẹ, với tôi còn là những kỷ niệm không thể nào quên! Khi tôi đã lớn, nhà nghèo, mẹ hàng ngày trĩu nặng nó trên vai - khi thì gánh phân, gánh gạo đi bán - khi thì gánh nươc , gánh hàng tảo tần nuôi tôi ăn học. Những năm tháng còn là sinh viên, mỗi dịp nghỉ hè về quê, tôi lại ra cầu sông Kênh đón mẹ đi chợ về. Nhưng mẹ giờ đã yếu lắm! Mẹ không còn gánh nặng được nhưng phải cố, vì tôi. Hình hài mẹ nhỏ quắt lại, đôi vai như muốn run lên theo bước chân, môi mắm chặt mỗi lần mẹ cố sức. Duy đôi mắt mẹ thì không hề thay đổi! Đôi mắt vẫn ánh lên niềm hạnh phúc và tự hào nhìn đứa con trai phổng phao, chững chạc sắp trưởng thành. Tôi đứng lặng trên cầu, rơm rớm nhìn vào thân thể và đôi vai gầy guộc của mẹ oằn xuống dưới mỗi bước đi …Tôi muốn lao vào ôm mẹ mình nhưng đã không làm như vậy. Cho mãi đến tận bây giờ, tôi vẫn ân hận trách mình vì điều ấy …
Ngày ấy, mẹ vẫn thường nói vui: Chính nhờ chiếc đòn gánh của mẹ nuôi con ăn học đấy! Mẹ mong khi mẹ không còn đụng đến nó nữa thì con đã trưởng thành …Còn giờ thì vì con - mẹ đâu, nó đó …

 … Bây giờ tôi đã thành đạt. Sự nghiệp, công danh đến muộn nhưng cuối cùng cũng đến. Mẹ mừng hơn ai hết. Con Lẻm ông ba tàu bán bánh bò ngoài cổng chợ giờ là vợ sắp cưới của tôi. Ngày tôi lấy vợ, từ dưới quê mẹ lên thăm. Xuống bến xe đón mẹ, tôi thật ngỡ ngàng khi mẹ cứ hi hoáy tìm một vật gì để dưới gầm xe. Tìm mãi, sau cùng mẹ mới lôi được ra cây đòn gánh! Thì ra thói quen, mẹ mua cau trầu mừng đám cưới tôi và cứ nghĩ sẽ đến nhà tôi với đòn gánh trên vai và cặp quang sắt rỉ! Tôi buồn cười và hơi bực bội về sự lẩm cẩm của mẹ. Ai đời lên đến thành phố rồi mà còn đem theo nào quang nào gánh, dáng đi cứ tất bật, lo âu như ngày nào. Ngoài việc mướn xe chở cau trầu, tôi còn phải kêu thêm một chiếc xích lô chở riêng cặp quang và chiếc đòn gánh theo về vì không biết để đâu. Bảy mươi tuổi, có khi mẹ lẩn thẩn rồi cũng nên.Tôi nhủ thầm như vậy …

Mừng đám cưới tôi có mấy ngày, mẹ đòi về nằng nặc. Nhà không ai trông nom, vườn tược, gà heo không ai chăm sóc, mẹ bảo thế! Hầu như đêm nào ở nhà tôi mẹ cũng thức trắng, trằn trọc không ngủ. Mẹ lo những việc không đâu, nào ai biết được. Thỉnh thoảng mẹ lại ngồi dậy, húng hắng ho. Tôi làm sao dỗ giấc ngủ, lo lắng đòi mẹ uống thuốc nhưng mẹ bảo không sao. Me lo chuyện rau mọc nhiều không ai cắt bán, lo gà vịt không ai cho ăn, lo nước trong lu không ai gồng gánh … Đúng mẹ lẩm cẩm thật rồi!

Tôi và con Lẻm mời mẹ ở lại luôn trên thành phố với vợ chồng tôi nhưng mẹ nhất định không chịu. Mẹ ở không quen chốn đông đúc, ồn ào hơn nữa còn phải chăm mộ bà nội, ba con dưới quê, ở lâu làm sao được, mẹ nói cái lý của mẹ. Cái lý của các bà mẹ thì lúc nào cũng thuyết phục được bất kỳ ai trên đời chứ chẳng phải riêng tôi …
Ngày mẹ ra bến xe về quê ngoài quà mừng của vợ chồng tôi gửi bà con lối xóm vẫn là chiếc đòn gánh đã lên nước theo cùng. Nhìn dáng mẹ tất bật, hối hả, lòng tôi trào dâng niềm thương vô bờ bến nhưng biết làm sao giữ mẹ. Đến lúc nầy, mẹ mới móm mém cười, chắc là muốn chúng tôi đừng buồn khi chia tay:
- Đó, con thấy không? Nhờ đem theo đòn gánh mà khi về, mẹ mới mang hết mấy thứ quà con gửi cho lối xóm ... Không có nó, mình mẹ bê sao nổi!
Tôi nhận ra mẹ mình có lý. Một đời mẹ tảo tần đắm đuối vì con với chiếc đòn gánh cùng theo mẹ đi suốt bao năm trời gian khổ mãi cho đến khi con đã trưởng thành vẫn còn mãi lo âu …
 
oOo

Rồi mẹ tôi qua đời! Tuổi già và những căn bệnh triền miên không cho mẹ ở lại cùng tôi mãi. Cuộc chia ly đớn đau cuối cùng rồi cũng đến! Trong nỗi đau mất mẹ, tôi chỉ còn biết lặng người, xót tím tâm can.
Lúc nhập quan, khi người ta đưa hình hài nhỏ bé, khô quắt của mẹ vào quan tài, ngoài những bộ đồ cũ nát mẹ vẫn thường mặc khi còn sống cùng những vật dụng thường dùng, tôi chợt nhớ đến chiếc đòn gánh đã đi theo suốt đời cùng mẹ. Nó vẫn nằm đó, trong góc nhà kia, vẫn ánh lên thứ nước màu đen tuyền với cái thân đòn hình như cong lên vì vất vả. Chợt nghĩ về những ngày ấu thơ gian khổ, chợt nghĩ về tình yêu bao la, thắm thiết của mẹ, tôi trào dâng nước mắt …
Tôi nhớ đến lời mẹ tôi khi còn sống - mẹ đâu thì nó đó - chiếc đòn gánh ấy! Và cố thuyết phục mọi người xin đưa cây đòn theo cùng mẹ sang thế giới bên kia … Ai cũng cản tôi nhưng cuối cùng thì họ xiêu lòng. Vậy là trong quan tài mẹ tôi lại có thêm chiếc đòn gánh đã từng một thời bôn ba cùng mẹ.
Khi mọi người ra về sau lễ tang, còn một mình ngồi bên mộ mẹ, tôi đã khóc như chưa bao giờ được khóc như thế. Rồi cũng sẽ qua hết mọi khổ đau, hạnh phúc, mọi cao sang, quyền quý kể cả những vụn vặt thấp hèn trên đời nầy nhưng tôi biết, hình ảnh mẹ tôi và chiếc đòn gánh nhọc nhằn ngày xưa sẽ theo mãi tôi đến suốt quãng đời còn lại … 

Nguyễn Minh Phúc


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 05/Aug/2019 lúc 9:07am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 08/Aug/2019 lúc 1:29pm

Khói Lam Chiều


    Mận cho thêm củi vào lò, ngọn lửa cháy bùng, nồi cá sôi bốc mùi thơm nghe đói bụng, ngoại của Mận thích món cá trê kho tộ và nó cũng vậy, người ta thường gọi là kho quéo, có thể để ăn được vài ngày dùng với cơm nóng rất ngon, Mận nhắc nồi cá xuống và cho ấm nước lên nấu sôi để pha trà cho ngoại, vừa chụm lửa vừa học bài, "Chao ôi, sao hôm nay mình ráng học mà không có một chữ nào trong tâm trí cả, hay tại mình mừng quá nên học không được, chắc vậy rồi!". Ngọn gió lớn thổi mạnh vào tấm vách lá, Mận lấy miếng thiếc lượm ở trường học chắn lại không để gió thổi vào, cái chái bếp muốn sập vì cây cột bị mối đục dưới chân, ngoại chặt cây bằng lăng chống đỡ, vài ngày nữa  có nhà mới rồi. Tiếng ho của ngoại làm cho Mận lo âu, vái Trời Phật cho ngoại sống lâu trăm tuổi, có lẽ ngoại cũng mừng rỡ chẳng kém chi nó, ông khỏi phải ngồi dậy mỗi khi mưa to gió lớn, sẽ bớt lạnh lẽo khi ngọn gió đông về lùa qua khe hở của vách lá, ngoại thầm cảm ơn mhững tấm lòng nhân ái đã giúp cho ông được một nơi ấm áp. Mận mong sau này lớn lên được làm cô giáo dạy học cho trẻ em nghèo, hình ảnh cô giáo dịu dàng đứng trên bục giảng là hình ảnh đã in sâu vào trong tâm trí của Mận, nó ước ao được như vậy.

 Trời đã ngả màu hoàng hôn, ông Hai Bạc bước ra ngoài, nhìn về hướng núi, đàn chim tung cánh bay về tổ, mây tím giăng ngang lưng trời, phía sau chái bếp, khói lam  bay nhè nhẹ và tỏa dần trong không gian, ông nhớ tuổi thơ ở Đà Nẵng, những lúc ông thả diều bay cùng chiều với khói lam của ruộng ai đốt đồng, bất chợt ông thở dài buồn bã khi nhớ tới kỷ niệm xưa, con Mận cũng bước ra nơi hàng rào bông  bụp, nó đưa tay nâng cánh hoa màu đỏ thắm rồi chúm môi cười, niềm vui tràn ngập trong lòng, nó tự ví mình như bông bụp, giản dị và bình lặng, giản dị như dòng suối hiền hòa chảy về sông mẹ La Ngà, bình lặng như quê hương quanh năm rợp bóng mát với những hàng điều xanh thẳm, ôi quê hương mến yêu nơi ta sinh ra và lớn lên.

Gia đình bác Tư Mạnh khá giả vì có mấy người con đi nước ngoài, tuần trước các anh chị ấy về  dẫn thêm mấy người bạn, khi đi chơi ngang qua nhà Mận, thấy căn nhà lá tồi tàn sắp sập, họ tò mò dừng lại, trong nhà có hai đứa con trai, thằng Minh 6 tuổi và thằng Mẫn 4 tuổi đang ăn sơ mít. Thắm, con bác Tư đến gần nói:

- Sơ mít ăn đâu có ngon, bỏ đi.

Thằng Minh lắc đầu:

- Con đói bụng.

- Sao con không ăn cơm?

Thằng Minh thản nhiên:     

- Hổng có cơm.

Một người trong nhóm hỏi:

- Mít con hái ngoài vườn hả? Trái nhiều hôn, ăn hết rồi sao không hái trái khác mà ăn.

- Nhà con đâu có mít, con lượm vỏ mít ở nhà ông Tư Mạnh.

Thắm thấy lòng mình quặn đau, hồi sáng ba Thắm hái mấy trái mít Tố Nữ cho gia đình ăn, rồi bỏ vỏ mít ngoài sân, mấy đứa nhỏ lượm về ăn mót, Thắm hỏi:

- Ba má con đâu?

Thằng Minh vừa nhai sơ mít vừa trả lời:

- Má con chèo xuồng đi bán chôm chôm bị chìm xuồng chết.

- Còn ba con?

- Hổng biết.

- Con ở với ai?

- Ông ngoại và chị Mận.

Thắm và các bạn kéo nhau về, mỗi người một ý nghĩ, con đường đất đỏ ngoằn ngoèo, các cây mì cao lêu nghêu sắp đến ngày thu hoạch, ông Tư Mạnh giàu nhất ấp này, ông có chục mẫu mì, một mẫu chôm chôm và hai mẫu sầu riêng, các con ông đa số ở nước ngoài làm ăn khá giả, Thắm là chủ một tiệm nail sang trọng ở thành phố Atlanta, cô về nhà bàn với ông bà Tư phải giúp đỡ gia đình ông Hai Bạc, ông ngoại của Mận, cô gom được một số tiền của cô, của gia đình và mấy người bạn, tuần sau sẽ cất lại nhà cho ông Hai. Ông Tư Mạnh cho một bộ cây gáo vàng và một mớ cây khuynh diệp, để làm cột kèo, cô Thắm cảm thấy vui trong lòng vì mình thể hiện được tình làng nghĩa xóm. Trời về chiều, cô cùng các bạn ra vườn mít, những trái mít Tố nữ thơm phức treo trên thân cây mẹ, cô hái mấy trái chín rồi cùng các bạn đến nhà Mận. Ông Hai Bạc, có một đứa con gái duy nhất là cô Mai, bà Hai bị bệnh mất đi lúc Mai được ba tuổi, ông buồn bã bỏ xứ ra đi, trước khi lên tàu, ông nhìn lại lần cuối nơi chôn nhau cắt rún, từ biệt ngọn Ngũ Hành sơn, năm cụm núi quê hương, ông làm thân gà trống nuôi con. Theo lời hướng dẫn của một người đồng hương, ông lên Xuân Lộc sinh sống ở cái ấp nghèo khổ này, lúc trước nơi đây là một bãi đào vàng, dân tứ xứ lên đây rất đông, họ giành giựt cấu xé lẫn nhau để tranh giành từng mét đất, thời gian trôi qua mấy ai giàu vì đào được vàng, rồi lần hồi của thiên cũng trả địa, vàng ở đâu nữa mà tìm, họ rút lui lần hồi chỉ còn một số ít người ở lại nhận nơi đây là quê hương thứ hai.

Ông Hai Bạc bồng bế đứa con gái  lên đây, che tạm cái chòi bên con suối, ông làm thuê cho ông Tư Mạnh, bất cứ việc gì ông cũng làm được, tới mùa điều ông xách giỏ đi lượm trái cho chủ vườn, làm tới chiều tối mới được nghỉ, lúc đó bé Mai được 5 tuổi, ông đi làm phải dẫn theo, tới mẫu điều nào ông cột võng cho nó nằm chơi, đến lúc con ngủ, lâu lâu ông chạy lại đưa võng vì sợ muỗi chích, mấy người làm chung ai cũng thương cảnh gà trống nuôi con, có người khuyên ông nên tìm một người đàn bà phụ ông săn sóc cho đứa nhỏ, ông lắc đầu nói khi nào con lớn sẽ tính đến chuyện đó.

Hai Bạc tướng dong dỏng cao, hơi gầy, nước da sạm đen vì nắng  gió, gian khổ, tính tình hiền lành ít nói, nên ai cũng thương mến, làm việc gì Hai Bạc cũng siêng năng chăm chỉ, không câu nệ trong công việc, không tham lam không rượu chè bài bạc, cho nên rất được lòng chủ đất, có rất nhiều người đàn bà muốn đến với Hai Bạc, nhưng vì nặng nợ con thơ nên ông không nghĩ đến tình cảm riêng tư. Thuở nhỏ Mai và cô Thắm học chung trường làng, Mai có gương mặt thanh tú, cười rất có duyên, được nhiều người cảm mến, đến năm 18 tuổi, Mai có chồng sanh được một đứa con gái là Mận, lúc Mận lên bốn tuổi thì người cha đi theo tiếng gọi của một phụ nữ khác, Mai một mình nuôi con, vài năm sau, Mai gặp một người đàn ông khác cho ra đời bé Minh, rồi người cha đó cũng quất ngựa truy phong, một mối tình cuối cùng tưởng êm ấm lâu dài, ai ngờ cha của bé Mẫn cũng cuốn tượng ra đi trong một đêm tối trời, một sự ra đi không buồn hẹn ngày trở lại, thế là một mình Mai ôm ba đứa con của ba người chồng họ Sở.

Tới mùa chôm chôm chín, Mai bơi xuồng vượt suối đi bán, chẳng may đến dòng nước xoáy, bị nhận chìm xuồng và Mai mất đi bỏ lại ba đứa con thơ, lại một lần nữa ông Hai Bạc cưu mang mấy đứa cháu ngoại, hết cực vì con nay cực vì cháu, tuổi 50 mái tóc đã bạc màu sương gió vì cuộc sống quá khắc khổ, ông mãi lo cho con cháu mà quên đi cái chuyện bước thêm bước nữa, ông thở dài thườn thượt, nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn, vợ mất, con mất, cuộc đời còn gì để nói. Sáng sớm con Mận thức dậy xuống bếp soạn bao để chuẩn bị đi mót củ mì, hồi tối nó học bài tới khuya nên sáng dậy không nổi, ngáp tới ngáp lui, nó chồm lấy hai cái túi đệm, sứt quai hết một cái, vội đi kiếm dây cột đỡ, lát nữa cho hai đứa em cùng đi mót mì. Mận ra sau nhà ôm bao mì đã phơi được hai nắng, đổ ra sân phơi thêm vài giờ nữa là đi bán được rồi, chiều nay ra ngã ba cân cho lái buôn là mua được vài ký gạo, Mận nhớ hồi năm ngoái, có bữa gạo không đủ nấu cơm phải nấu cháo, hai đứa nhỏ ăn không được no nên khóc đòi ăn thêm, Mận sợ ông ngoại thức giấc, trời mưa lâm râm nó lấy  nón đội đi hái trộm chôm chôm về cho em ăn đỡ dạ, ăn xong con Mận gom hột và vỏ bỏ vô bao ny lông, cột thêm cục đá rồi quăng xuống suối phi tang vì sợ ông ngoại biết sẽ la rầy.

  Ông Hai Bạc coi ngày tốt để cất nhà rồi, chỉ còn ba hôm nữa là lên đòn dông, con Mận trông cho mau có nhà mới ở để tối học bài không sợ mưa to gió lớn làm tắt ngọn đèn dầu. Thằng Minh thức dậy dụi mắt:

- Đi mót mì chưa chị ?

- Chuẩn bị đi, gọi thằng Mẫn dậy, trưa rồi.

Đứa lớn cặp nách cái bao, hai đứa nhỏ mang túi đệm bước xuống ruộng mì, đi đến mấy chỗ mà người ta đã nhổ xong, hai đứa cúi xuống lượm lia lịa những củ mì nhỏ bằng ngón chân cái, rồi nhanh nhẹn bỏ vào túi đệm, chúng miệt mài góp gió thành bão, con Mận thấy có mấy củ mì to nằm dưới đất nó chạy lại định lấy......

- Ê, của ông đấy, đừng phỗng tay trên nha con.

- Ủa, ông cũng đi mót mì nữa hả?

Ông già nhăn nhó:

- Mầy đừng nói đi mót mì nghe xấu hổ, mà nói là đi nhặt mì.

- Ông nói gì con không hiểu.

- Tao nói tiếng Việt Nam chớ có nói tiếng Tây, tiếng Tàu gì đâu mà mầy không hiểu, cái con này vớ vẩn.

Mận cười bỏ đi chỗ khác, mặt trời đã lên cao, nó thấy hai đứa em mặt mày đỏ ké, mồ hôi ướt đẫm lưng áo, cố kéo lê chiếc túi đệm vào bờ, Mận gọi hai đứa chuẩn bị đi về, nó vác bao mì về trước rồi trở lại xách hai túi đệm. Thằng Minh thằng Mẫn lẽo đẽo theo sau, hai người đàn bà đi chợ về ngang thấy ba đứa nhỏ đi lơn tơn, vẻ mệt mỏi nên dừng xe lại, người ngồi sau lấy trong giỏ ra ba miếng chuối chiên, chia cho mỗi đứa một cái, thằng Mẫn cầm lấy nhai ngấu nghiến cười đưa hàm răng sún, con Mận cúi đầu cảm ơn rối rít, người đàn bà ngồi trước nói:

- Đưa hai túi xách cô chở về cho, mấy đứa đi nhanh lên, trời nắng quá.

Hai người đàn bà vừa chạy vừa nói chuyện.

- Đàn ông như con gà trống, đạp cồ xong rồi bỏ.

- Ông Thiên Lôi ở đâu mà sao không đi kiếm 3 thằng ăn chạy đó.

Ngôi nhà lợp tôn, vách cây được cất lên thay thế cái chòi tranh mục nát, ông Hai Bạc không biết nói gì hơn, cứ luôn miệng cám ơn hết người này tới người nọ, chốc chốc ông đưa tay lên gạt nước mắt, sự cảm động khiến ông không nói nên lời, cô Thắm mua hai cái bàn nhỏ để cho con Mận và thằng Minh ngồi học, cô cho vô đường dây điện thay thế ánh đèn dầu leo lét, và cô nhận đứa con của người bạn cùng xóm cùng trường năm xưa làm con nuôi.

Tám năm sau, Mận là học sinh giỏi của trường tỉnh, nó muốn thi vào Đại học Sư phạm theo đúng nguyện vọng của mình, nhưng cô Thắm bảo nó ráng thi vào trường Đại học Y dược, và con Mận đã làm cho người mẹ nuôi hài lòng với thành tích học vấn của nó, Mận ở nhà, được sự tài trợ của cô Thắm nên cuộc sống cũng không đến nỗi nào nghèo khổ, nó ráng dạy học lại cho hai thằng em, và khuyên lơn đủ điều, sự cố gắng chuyên cần sẽ dễ dàng mang đến thành công, khi ra đời, kiến thức sẽ giúp cho mình rất nhiều trong cuộc sống. Ông Hai Bạc ngồi uống nước trà thấy mấy đứa cháu ngoại đứa nào cũng học giỏi, chúng biết vươn lên từ cuộc sống nghèo khổ, ông rất vui mừng, bây giờ ông mới rỗi rảnh ngồi ôn lại cái quá khứ hẩm hiu của mình, cái nghèo khổ từ quê hương miền Trung nắng cháy tới vùng đất miền đông Nam bộ. Từ cảnh đói nghèo đến đủ ăn, biết bao nhiêu nỗi thăng trầm, có lần thằng Minh hỏi sao ông ngoại không đi tìm bà ngoại cho đỡ buồn, ông mỉm cười nói khi nào các cháu thành gia thất hết thì ông ngoại mới kiếm bà ngoại, thằng Minh cười toe toét nói lúc đó răng rụng hết còn kiếm gì nữa, ông cũng cười nói răng rụng kiếm theo răng rụng, hai ông cháu cùng cười ha hả làm con chó đang ngủ dưới chân giường chạy ra sân sủa vang lên.

Hai vợ chồng Mận mua nhà ở cạnh cô Thắm để được gần gũi chăm sóc cô, và mở phòng mạch cũng gần đó, chồng Mận là bác sĩ chuyên khoa tim mạch được sự giới thiệu của cô Thắm nên hai người thành hôn với nhau, và Mận sang Mỹ do sự bảo lãnh của chồng, bên Việt Nam Mận cũng tốt nghiệp ngành Nha khoa. Mận muốn bảo lãnh ông ngoại qua Mỹ để hưởng cuộc sống nhàn lạc và tiện việc chăm sóc, nhưng ông không chịu đi, ông không muốn xa rời quê hương thứ hai này, cũng nhờ nơi đây nên con cháu mới thành đạt, ông lúc nào cũng muốn nhìn khói lam chiều bay tỏa nhẹ trên không gian, mặc dù trong nhà có cái bếp gas, nhưng không sử dụng, chỉ thích nấu nước bằng bếp củi, không được nhìn khói lam ở quê nhà thì cũng được nhìn khói lam nơi đây, qua Mỹ làm gì có khói lam để mà nhìn, có người nói ông còn quyến luyến cái nghèo khổ. Nghèo khổ đã quen rồi không quyến luyến sao được, có gì sung sướng cho bằng khi đứng nhìn cảnh hoàng hôn, nhìn khói lam chiều nơi chái bếp bay lên không trung mà thả hồn mình về nơi xa xưa, có mấy ai hiểu được tâm trạng của người già luôn sống trong quá khứ. Vợ chồng thằng Minh ở Sài Gòn cũng gọi ông lên ở với nó, ông không đi, nó bây giờ là Hiệu Trưởng một trường trung học ở Quận Ba ít có thời gian để về thăm viếng, thằng Mẫn cưới vợ rồi ra riêng mua nhà ở Đồng Nai để quản lý một công ty xuất nhập khẩu hột điều, cuối tuần là vợ chồng con cái về đây thăm ông và nó cũng thường hay trách cái thằng anh Hiệu Trưởng ăn mót sơ mít lơ là viếng thăm ông ngoại.

 Cả ba đứa cháu đứa nào cũng muốn kéo ông về với nó, nhân lúc con Mận về nước, ba đứa đến thăm và năn nỉ ông về ở với một trong ba đứa, ông không nói, xuống bếp lấy một mớ củi chụm nấu nồi chè rồi ngoắc ba đứa ra sân, chỉ làn khói lam đang tỏa nhẹ trên chái bếp, ông nói:

- Khi nào nhà các cháu có làn khói đó thì ông sẽ về ở.

Ba đứa cháu ngoại sững sờ nước mắt rưng rưng, mà con Mận là khóc nhiều nhất vì nó nghĩ rằng không thể nào quên đi cái cảnh nghèo khổ năm xưa, ông ngoại muốn giữ mãi hình ảnh nơi đây, chính ngôi nhà này đã làm nên sự thành công vẻ vang của ba đứa, Mận nhìn hai thằng em lỳ lợm cũng đang sụt sùi.

Trên chái bếp làn khói vẫn còn đó.

Lợi Trân

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Aug/2019 lúc 2:19pm

Ngọn Đèn Trước Gió



Image%20result%20for%20Ngọn%20Đèn%20Trước%20Gió

       Bà Hai lấy khăn thấm những giọt nước mắt chảy dài trên khuôn mặt già nua, khắc khổ khi người con dâu trưởng buông tiếng:
- Sáng nào Má cũng ra phòng khách ngồi như vậy hoài, hèn chi cái nhà này làm ăn không lên n
i.
Nói rồi, con dâu ngoe nguẩy bỏ đi, Bà nghe nghèn nghẹn. Trong ngôi nhà này, chỗ nào bà cũng là người thừa thãi, bà cầm lấy cây gậy đứng lên vẻ mệt nhọc, rồi bước lần ra cửa sau, đây chính là không gian của bà. Đưa mắt nhìn mấy trái mướp lủng lẳng trên giàn, bà chạnh nhớ quê hương xứ sở, giàn mướp nho nhỏ nơi xứ lạ quê người đã gợi lên biết bao nỗi nhớ nhung sâu thẳm. Bà nhớ mấy con ong bầu vo ve trên những nhụy bông vàng rực, nhớ những đọt mướp xanh mướt cho bà một dĩa rau luộc ngọt ngào trong những bữa cơm đạm bạc, nhớ ông Hai đứng trên bờ kinh chài những con cá chạch, cá bóng dừa bà mang về kho tiêu ngọt ngọt, mặn mặn trong khi thằng Hiếu, thằng Thảo leo trèo tuột lên tuột xuống cây chùm ruột ngọt, cười đùa vang cả một góc vườn.

       Mùa hè bà mới ra đây ngồi, suy ngẩm về quá khứ, từng thời gian rồi từng thời gian lần lượt đi qua trong tâm trí, mảnh vườn của ông bà ngoại thằng Hiếu để lại cho bà, vợ chồng nó cũng bán đi để mua vàng vượt biên, bà đau lòng lắm nhưng không giải quyết được gì, bà không muốn rời xa nơi chôn nhau cắt rún, rời xa kỷ niệm, lúc bà còn là một cô thôn nữ nổi tiếng cấy lúa giỏi ở Xã Tân Hòa, Gò Công . Bà chuyên cấy lúa cho đám ruộng của ông bà Tuần Phủ, còn ông Hai nhổ mạ bên ruộng của ông Thôn Hào, hai thửa ruộng gíáp ranh nhau, có bửa ông Hai thấy bà ra ruộng sớm, ông bèn cất tiếng hò:

- Hò....ơ.....Gò Công đất mặn phèn chua .
Tình thương ngào ngạt chẳng thua nơi nào
Thương em anh đâu dám vượt rào.
Đợi ngày lành tháng tốt........
Hò......ơ.....đợi ngày lành tháng tốt đến chào song thân.


       Bà nghe xong, không hò đáp lại mà chỉ cười chúm chím, đôi lúc bà cảm thấy rạo rực trong lòng, mỗi khi bắt gặp ánh mắt ông nhìn sang, bàn tay lúng túng cấy xuống những rẽ mạ không ngay hàng thẳng lối, hai má đỏ bừng không phải vì nắng mà vì thẹn thùng, mắc cở. Cái tình cảm chơn chất mộc mạc của gái quê trai làng coi vậy mà đậm đà thương yêu, đậm đà tình nghĩa. Một cơn ho bất chợt cắt đứt dòng nhớ xa xưa về quê hương, bà ôm ngực ho rũ rượi, ho sặc sụa, rồi mệt mõi đứng dậy bước vô nhà, cơn ho vẫn tiếp nối, bà dựa vào cầu thang để thở, có tiếng cô con dâu cằn nhằn cùng chồng:
- Má ho như vậy mà cứ đến gần con Linda hoài, bực mình quá, anh đưa má vô viện dưỡng l
ão đi, trong đó có người lo. Bà nghe tiếng con bà thở dài, bà hiểu thằng con trai không muốn vợ buồn nên nó chỉ biết im lặng, thà nó nghe lời vợ mà cửa nhà êm ấm, chớ nếu nghe lời bà thì gia đình sẽ mất hạnh phúc, như vậy cũng được, bà muốn con bà yên thân, dù sao bà cũng già rồi, sống nay chết mai có gì phải bận tâm.


       Bà Hai thương con dâu như con ruột, nhưng cô con dâu đó không thương bà mà chỉ biết lo cho gia đình cha mẹ ruột, không ngó ngàng gì đến bà con thân thuộc bên chồng, có l mình không có phần nhờ dâu, bà tự an ủi như vậy. Nhìn lên bàn thờ, ông Hai ngồi chiểm chệ trên bộ ghế giữa, mặc áo dài khăn đống, hình chụp lúc đám cưới thằng Hiếu, lo đám cưới cho con xong, một tháng sau ông ngã bệnh, rồi theo ông bà về bên kia thế giới luôn, bà buồn rầu ốm o gầy mòn, ít cười ít nói, vài tháng sau vợ chồng thằng Hiếu đòi bán đất bán vườn để vượt biên. Bà không muốn đi vì còn mồ mả ông bà tổ tiên phải bám víu, vợ chồng nhất định đòi bán cho bằng được, sau cùng bà cũng phải chìu theo, bởi bà thương con và cũng sợ ở lại một mình, bệnh đau không người thang thuốc, bà cũng muốn biết tin của thằng Thảo, nó đang tắm sông rồi chiếc tàu nào đó cặp bến cây mù-u xin nước rồi vớt nó đi mất, bà không thể nói lên được nỗi lòng của một người mẹ mất con, bà mất ăn mất ngủ ra vào như người không hồn kể từ lúc đó. Vợ chồng thằng Hiếu hối thúc, viện đủ lý do, bà lo âu, đi thì không đành mà ở cũng không được, rồi bà chấp nhận sự ra đi một cách miễn cưỡng.

       Tàu cặp bến mù-u để đón những người vượt biên, bà bước xuống tàu vào một đêm ba mươi tối trời, ai cũng vội vã cuống quýt, duy chỉ có bà là điềm tỉnh, nhìn những hàng cây mù-u quen thuộc, đang xa dần dưới ánh sáng lờ mờ của những vì sao - vĩnh biệt mảnh đất quê nhà - bà chép miệng thở dài. Gần nửa tháng trời lênh đênh trên biển, cuối cùng tàu cặp bến đảo Bidong, Malaysia. Có l ông Hai dẫn dắt cho thằng Thảo gặp lại bà trên đảo để mẹ con trùng phùng. Bà không cầm nổi nước mắt khi gặp lại thằng con trai sau bao năm trời cách biệt. Thằng Thảo bây giờ là một thanh niên cao lớn, lực lưỡng, có cái giọng cười giống hệt tía nó, nhớ ngày nào nó ra sông lội bì bõm, bơi theo mấy vạt lục bình để hái mấy chùm bông màu tim tím, chạy một mạch về nhà rồi băng qua mấy liếp hành sang nhà con Mận mà cho mấy cái bông, cái thằng mới bây lớn mà đã biết lấy lòng phụ nữ.

       Sang Mỹ, thằng Thảo là một đứa lanh lợi, tháo vác, nó mua nhà rồi có vợ có con, cuộc sống ổn định và có phần khá giả, chấm dứt cảnh vác chài mang đục đi hết bờ kinh này đến con rạch nọ để chài cá, không còn quanh quẩn mấy cây mù-u hái trái về chọi lộn với thằng Chơn thằng Chất con chú sáu Mẹo. Con bà mau lớn nên người, bà rất vừa lòng, duy chỉ có cô con dâu, sanh đẻ ở Mỹ, nói tiếng Việt không rỏ ràng, coi thường mẹ chồng, bà muốn sang thăm cháu nội, nhưng cô con dâu không thích bà đến nhà, có l thấy bà già nua, quê mùa, bệnh hoạn, nay ốm mai đau, lại thêm cái bệnh ho mãn tính, có lần bà chống gậy sang chơi, mấy đứa cháu ở trên lầu mà con dâu không cho xuống, bà hỏi thì được trả lời:
- Chúng nó ngủ hết rồi!

       Cô con dâu nói giọng lơ lớ tiếng mẹ đẻ không rành, bà lấy làm khó chịu. Tuy bà không gần gũi hai đứa cháu nội nhưng bà thương chúng nó vô cùng. bà muốn kể cho bọn trẻ biết về nguồn gốc của chúng nó, về đất Gò Công nước mặn, nơi tổ tiên ba đời sinh sống từ Xã Tân Hòa đến biển Tân Thành, bà muốn nói nhà ông bà nội của các cháu nằm ven con sông nhỏ, sau hè có cây chùm ruột ngọt mà mấy đứa nhỏ hàng xóm đứa nào cũng thích leo trèo hái trái, trong đó có thằng Thảo, cha của các cháu đã từng bị con ong vò vẽ chích tuột xuống không kịp, ôm đầu la làng, nhà ông bà nội các cháu có cây điệp vàng trước cửa, bông điệp đơn sơ, bình dị mà cha của các cháu hay hái chưng trên bàn thờ vào những ngày giỗ tổ tiên, nhà ông bà nội các cháu có hai hàng cau dài từ nhà ra cổng, mà cha của các cháu hay lấy ná bắn những con chim tu hú rớt xuống đất rồi vỗ tay cười khoái chí, nhà ông....... Bà nói tới đó nghe ran ngực, cơn ho kéo đến cắt đứt dòng suy tưởng êm đềm, tiếng Hiếu vang lên xen lẫn tiếng cằn nhằn của con dâu:
- Má ơi! Vô phòng nghỉ đi, Má ho hoài con Linda ngủ không được, vợ con cứ nói hoài, vô phòng đi Má.


       Bà lò mò chống gậy quay lại giàn mướp, không gian yên tĩnh và bình yên, mấy con ong bầu vẫn còn đó, vẫn vo ve những nhụy bông vàng rực, bà cảm thấy thoải mái khi ngồi nơi đây, chính nơi đây đã làm sống lại quá khứ, bà rất hạnh phúc khi nghĩ về cái quá khứ đó, bà sợ rồi đây vợ chồng thằng Hiếu sẽ đưa bà vào viện dưỡng lão, bà không muốn rời xa con cháu, không muốn rời góc vườn nơi đây, gần hai mươi năm rồi, góc vườn này đã gắn bó với bà, mặc dù nơi đây không bằng mảnh đất quê hương, nhưng nơi đây là một chứng tích của năm tháng dài vật lộn với cuộc sống. Bà đã làm đủ mọi nghề, có lúc làm cả hai công việc trong ngày, bà muốn lao đầu vào việc làm để quên đi tất cà, quên cái tình người ngày càng phôi pha, quên cái sự chen lấn đè bẹp nhau giữa con người với con người, quên cái sự thiếu đoàn kết của một dân tộc. Nơi đây thiếu tình láng giềng, cho nên bà nhớ cái tình chòm xóm ở quê nhà, buổi trưa hè nằm trên bộ ván gỏ, gió ngoài đồng thổi vào mát rượi, mang theo mùi thơm dịu dàng của ngọn lúa đòng đòng đang ngậm sữa, bà cảm thấy buồn ngủ, rồi ngủ một giấc tới chiều, cô Tư Đậu Rồng gánh một giạ lúa tới trả cho bà mà cô mượn hồi năm ngoái để làm giống, cô ngồi xuống cạnh bà:
- Chiều rồi còn ngủ nữa, không sợ mặt trời đè sao? Chi Hai, dậy đi. Bà nằm bất động, cô Tư hoảng hồn lấy chai dầu gió Nhị Thiên Đường trong túi áo với đồng bạc cắc ra cạo gió cho bà, lúc đó bà mới tỉnh dậy, nếu không có cô Tư Đậu Rồng có l
bà đã ra người thiên cổ, cái tình chòm xóm coi vậy mà quý vô cùng. Tới mùa lúa chín, nhà bà lúc nào cũng vui nhộn, những đêm trăng sáng thằng Hiếu, thằng Thảo cùng đám trai gái làng tụ tập trước sân lúa đờn ca, thằng Hiếu với những ngón đờn mùi mẫn qua tám câu Phụng hoàng, bà mm cười khi nghe thằng Thảo ca vọng cổ:
- Ghe chiếu Cà mau cắm sào đứng đợi sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra... chào... Cái thằng ca nghe cũng hay, giọng sang sảng - bà nhủ thầm - rồi tiếng của cô Tư Đậu Rồng vang lên với một lớp Nam Ai trong một vở tuồng “Ngọn Đèn Trước Gió” nghe buồn đứt ruột, giọng cô trầm bổng, ảo não. .. .


- Má như ngọn đèn trước gió không biết rồi..... đây, tắt lịm tự lúc nào.
Tuổi già trông đơn côi, thui thủi một mình.
Con thì mỗi lúc mỗi xa, không màng mà cũng chẳng thiết tha.
Câu m
u tử thâm tình, nỗi lòng nầy ai hay.
M
i mắt trông con những lúc chiều về.
Trăng tàn má thức trắng canh thâu.
Tiếng dế giữa đêm trường, nghe đời mình quạnh hiu.
Bao nhiêu năm trời má khổ cực.
Nuôi các con khôn lớn nên người.
Những cánh chim đủ sức tung trời.
Bỏ cái tổ buồn thê lương ...

       Bà nghe rõ giọng cô nghẹn ngào khi ca hai câu cuối, ánh trăng trung tuần sáng vằng vặc soi rõ khuôn mặt cô Tư Đậu Rồng đang say sưa vô hai câu vọng cổ, cô mê hát quá nên chồng cô theo vợ bé, bỏ lại 3 thằng con trai cô nuôi, sau này con cô lớn lên có gia đình và theo quê vợ, thằng lớn ở Đồng Tháp Mười, thằng kế ở Đồng Nai, thằng Út ở tận Cà Mau, ba đứa ba nơi, ít có đứa nào về thăm, cô sống quạnh quẽ trong cái chòi ở mé ruộng. Có những đêm mưa dầm, ảnh ương, ếch nhái kêu nghe ảm đạm, vách lá không đủ ngăn gió, nên ngọn đèn dầu trên bàn tắt lịm, nhìn cái chỏng tre kê sát vách bỏ không, cô nhớ mấy thằng con trai, đứa đòi nằm trong, đứa đòi nằm ngoài, những lúc trời mưa dầm như vầy thế nào tụi nó cũng đem về vài xâu ếch nhái, nay tụi nó theo quê vợ hết rồi, cái chòi này vốn đã trống trải nay càng trống trải hơn, cô nằm gát tay lên trán trong bóng tối, khẻ ca nho nhỏ đủ cho mấy con rắn mối nghe với sự phụ họa của con tắc kè ẩn trong vách lá:

- Những cánh chim đủ sức tung trời
  Bỏ cái tổ buồn thê lương …

       Cuộc đời cô buồn quá nên giọng ca nghe u-uẩn một nỗi niềm. Mấy người bạn hàng ở chợ Gò Công khen cô có giọng ca hay và cũng thắc mắc không hiểu vì sao cô có cái tên cô Tư Đậu Rồng. Cô có hai công ruộng, một công cô cấy lúa trung vụ, còn một công cô lên liếp trồng đậu rồng, cô chuyên trồng đậu, hể có chỗ nào trống là cô bỏ hột đậu rồng, tới tháng 10 dây đậu rồng có trái, cô hái đầy hai thúng rồi gánh ra chợ Gò Công bán, cô nhờ trồng đậu rồng nên có tiền mua hến về cho một bầy vịt tàu ăn và mua cám cho con heo nái sắp đẻ, từ đó cô có biệt danh: Cô Tư Đậu Rồng.
Thời gian trôi qua, cái chòi của cô Tư không còn nữa, trên cái nền chòi cũ là nắm mồ của cô, trong một đêm mưa to gió lớn, cô ngủ một giấc say nồng và không bao giờ thức dậy, mấy con tắc kè quanh quẩn bên mồ đêm nào cũng kêu lên mấy tiếng tắc kè, tắc kè để phụ họa điệu Nam Ai mà cô hay hát hằng đêm. Mỗi mùa mưa đến là mấy gốc đậu rồng lên chồi, lớn mạnh, tới tháng mười đậu rồng có trái, không ai hái, trái già khô rụng hột xuống đất lại lên dây đậu rồng mới, ôm lấy nắm mồ cô Tư chằng chịt. Gió chướng thổi mạnh mấy trái đậu rồng khô va vào nhau tạo thành một thứ âm thanh lạ nghe buồn bã giữa trưa hè. Rồi ngày qua tháng lại người ta quên dần đi hình ảnh cô Tư gánh hai thúng đậu rồng ra chợ bán, cũng như những đứa con trai theo quê vợ không còn nhớ nắm mồ người mẹ già nằm cô đơn ở chốn quê nghèo.

       Bà Hai thì không thể nào quên được cô Tư, nguời bạn láng giềng tốt bụng, bà muốn trở về quê cũ thăm lại mồ m ông bà, nhưng không thể nào đi được, lực bất tòng tâm, bây giờ bà quá già, trở thành người phế thải và con cháu không cần sự hiện diện của bà trong ngôi nhà này nữa, Hiếu và Thảo không còn như ngày xưa, các con bà có một thế giới riêng, thế giới ấy hiển nhiên không có sự hiện hữu của bà. Mỗi độ mùa hạ về giàn mướp lại có mặt và chỉ có giàn mướp là nguời bạn thân thiết nhất. Bà chợt nghe tiếng mở cửa, Hiếu từ ngoài bước vào và đi ra cửa sau đến bên bà:
- Má ơi, con có liên lạc với viện dưỡng lão rồi đó, má muốn chừng nào vô viện ở thì nói cho con biết để con nhờ thằng Dũng bạn con chở má đi.
Bà yên lặng không trả lời, Hiếu dường như hiểu ý bà:
- Má à, thằng Dũng có cô bạn gái làm trong đó, có gì cô ta sẽ giúp đở Má mà, đừng lo nha má.
Bà vẫn yên lặng, giây lát, rồi cầm cây gậy đứng dậy bước vô nhà, trước khi m
cửa phòng, bà quay lại nhìn Hiếu:
- Con nói với bạn con, sáng mai đến chở má đi.
Nói xong, bà vào phòng và đóng cửa lại.
Sáng hôm sau, cô con dâu trưởng đến phòng bà gọi:
- Má ơi, anh Dũng đợi Má ở ngoài kìa, Má chuẩn bị xong chưa?
Bà mở cửa phòng, tay cầm một túi quần áo và vài thứ linh tinh khác, bà m
m cười:
- Má đã sửa soạn các thứ rồi con ạ, các con cứ yên tâm, má chu đáo lắm mà.
Cô con dâu út lên tiếng:
- Má vào trong ấy nghỉ ngơi, ở đó nhiều người già lắm, Má tha hồ mà tán gẫu.
Cô con dâu trưởng tiếp lời:
- Chúng con lúc nào cũng nghĩ đến Má, cầu mong Má khoẻ mạnh, có gì Má cứ gọi chúng con, Má cứ ngh
ĩ rằng lúc nào chúng con cũng ở bên Má.
Bà gật đầu cười, mặc dù bà biết rằng những lời lẽ đó không xuất phát từ cái tâm. Có tiếng Dũng gọi vào:
- Bác Hai xong chưa bác Hai?
Hiếu và Thảo chạy đến bên bà, Hiếu đở lấy cái túi xách:
- Để con xách cho.
Thảo cầm lấy cây gậy:
- Để con dẫn Má đi khỏi cầm gậy.
Bà đưa tay cản lại:
- Thôi được các con ạ, để Má tự mang túi xách và cầm gậy được rồi, khi rời khỏi nhà này, Má phải tự lực thôi, cũng như ngày xưa má rời khỏi nhà ông bà ngoại Má cũng phải tự lực để các con được lớn khôn đến bây giờ.
Hiếu và Thảo cúi đầu yên lặng, bà nói tiếp:
- Má mong rằng, sau này mấy đứa cháu nội sẽ chăm sóc cho các con, ở cạnh các con lúc tuổi già sức yếu vì cha mẹ già như ngọn đèn trước gió không biết tắt lịm tự lúc nào, phải biết quý trọng những phút giây kề cận cha mẹ già, vì người già không cần gì cả, chỉ cần duy nhất có một điều - sự quan tâm của con cháu.
Bà ngừng nói và thở, rồi nắm tay Hiếu, Thảo:
- Má tin rằng mấy đứa cháu nội sẽ không tệ đâu.
Nói xong bà bước nhanh ra ngoài, Hiếu và Thảo như chợt nghĩ ra điều gì, chạy nhanh ra cửa:
- Má ơi, Má...

       Tiếng kêu thảng thốt của Hiếu và Thảo trong nghẹn ngào, nước mắt lưng tròng, trong lúc đó hai người con dâu ngoe nguẩy bỏ vào trong...


Lợi Trân

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 13/Aug/2019 lúc 10:45am

Nhớ Mẹ


3396%201%20NhoMeDTDB

Mẹ yêu ơi, nhà mình nay vắng vẻ
Dáng trầm ngâm ba ít nói, biếng cười
Giàn khổ qua, giàn thiên lý kém tươi
Đàn gà vịt không ồn như thuở trước

Related%20image

Mặt trời lên, mái tranh còn sương ướt
Trưa không còn vẳng tiếng hát ru em
Bóng chiều buông, gió lạnh thổi qua rèm
Hình ảnh mẹ làm sao con quên được?


Image%20result%20for%20Lau%20nước%20mắt

Ngày cuối tuần, chẳng ai chờ ai rước
Nồi chè khoai, ổi mận chín không còn
Ôi, không ai thèm săn sóc đến con
Lau nước mắt, sớt chia niềm hoan hỉ


Related%20image

Đêm chong đèn, ai khâu từng mối chỉ
Áo mới may cho con mặc ngày Xuân?
Lửa riu riu ai sên chảo mứt gừng?
Ai luộc bánh trong bếp hồng lửa đỏ?


Image%20result%20for%20hoa%20Tết

Trước nhà mình hoa Tết đua nhau nở
Thuở ngày xưa, mẹ cài áo hoa mai
Hay ép vào trang sách đóa hoa lài
Làm quà tặng Xuân, thuở còn đi học


Image%20result%20for%20mẹ%20gánh%20gồng

Làm vợ ba, mẹ gánh gồng cực nhọc
Bởi ba là lính trận ở miền xa
Chăm sóc con, phụng dưỡng cha mẹ già
Lòng mẹ đẹp, ấm hồng như nắng sớm


Image%20result%20for%20Chốn%20suối%20vàng

Ba trở về, các con vừa khôn lớn
Chốn suối vàng, sao mẹ vội ra đi?
Gia đình mình, ôi còn có vui chi
Sân thềm lạnh, bếp buồng đều quạnh vắng!


Image%20result%20for%20bông%20trắng%20cài%20áo

Lễ Vu Lan áo con cài bông trắng
Áo bạn bè cài rực rỡ hoa hồng
Màu trắng đây, màu tang tóc cõi lòng
Kể từ mẹ vào thiên thu vạn cổ!

Dư Thị Diễm Buồn



Chỉnh sửa lại bởi Nhom12yeuthuong - 13/Aug/2019 lúc 11:05am
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 14/Aug/2019 lúc 3:26am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Nhom12yeuthuong
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 13/Sep/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 7120
Quote Nhom12yeuthuong Replybullet Gởi ngày: 15/Aug/2019 lúc 7:51am
Chồng cũ của Mẹ




Hai người đàn ông trong cuộc đời mẹ tôi đã đi về với đất. Món quà họ để lại cho tôi là câu chuyện đời về cách sống, cách yêu thương, cách cho, và cả cách quên...

Mẹ và bố tôi đến với nhau khi cả hai cùng có một “tập” riêng, chỉ khác là vợ cũ của ông mất sớm, còn chồng cũ của bà thì còn. Có lần mẹ tâm sự, thực ra giữa mẹ và người chồng trước vẫn thương nhau lắm nhưng phía đằng chồng quá quắt đến mức khiến họ không thể sống cùng nhau, mẹ bê hai đứa con nhỏ về với bà ngoại và mấy năm sau mẹ gặp bố tôi để nên vợ nên chồng.

Chia tay rồi nhưng các cụ văn minh lắm, ông với bố mẹ tôi đã trở thành những người bạn thân hữu. Chồng cũ của mẹ sống rất tự do, có một nghề cầm tay rất chắc - làm thủ công mỹ nghệ. Nên cuộc đời của ông là những chuyến đi, được làm nghề mình thích và sống với cuộc sống tự do xê dịch của chính mình.

Ông là một người thợ rất tài hoa, vui tính, nên ông đến vùng nào người ta cũng đều quý và đặt hàng. Ông đi hết vùng này sang vùng khác, khắp cả dải đất miền Trung nắng lắm, mưa nhiều.

Khi ông còn sống, tôi thấy cứ khoảng ít tháng, ông lại về nhà tôi chơi. Ông uống rượu với bố, và hai người đàn ông thường ngồi ăn cơm mâm trên, nói những chuyện thân mật. Mẹ và các con ngồi ăn mâm dưới. Bố và ông được biết như hai người tri kỷ. Hai người đàn ông có thể đối ẩm, đánh cờ và nói những chuyện đời rất hợp.

Sau này tôi hỏi bố, trong câu chuyện của hai người, có bao giờ nói về mẹ không, bố trả lời “không”. Bố bảo, cả hai người đàn ông đều hiểu một phụ nữ lấy hai người đàn ông, thì có gì để hai người đàn ông đó phải nói nữa? Vì nói gì bây giờ, ông thì hai, nhưng bà chỉ có một, có nói cũng có thành được hai bà đâu!

Bố tôi làm mộc, cũng là một thợ mộc nổi tiếng của vùng, khách đến đặt hàng nhiều. Khi khách thấy có một ông đan hàng thủ công mỹ nghệ trong nhà, họ cùng đặt hang cho ông, hai ông cùng nhau, ông đan ông đục. Có thời điểm hàng nhiều, ông ở nhà tôi rất lâu. Hai ông, người đục người đan, thỉnh thoảng cùng nhau hát. Cũng nghe nhiều lần bố tôi tính làm mai cho ông vài cô trong vùng, nhưng ông không chịu. Ông nói, đời ông thích đi, lấy vợ làm gì cho vợ con khổ.

Ông đi khắp nơi. Mỗi vùng ông tá túc ít tuần, rồi lại hành trình khăn gói. Ông chọn nhà tôi là điểm trở về. Mỗi lần về, ông mang rất nhiều đặc sản nơi ông đến để thết đãi cả nhà. Mẹ tôi nhớ một chi tiết, trước khi sinh anh trai tôi, ông đoán được ngày sinh, nên dù đang ở xa, ông cũng tức tốc về. Ông mang theo một bao gạo to và một túi cá, vì ông biết thời đó nhà tôi thiếu thốn lắm.

Ông nói với bố: “Anh ướp muối chỗ cá này và để gạo trên cao kẻo mốc. Thằng này con ông nhưng là con tôi. Chăm sóc con tôi cho tốt”. Hai ông cười khà khà, chẳng gợn tí ghen tuông. Lần đó, ông đi rất vội, nhưng không lâu sau ông lại quay về. Khi tôi lớn, có lần tôi hỏi mẹ tại sao mẹ và ông lại tan vỡ. Mẹ đã khóc và nói, đó là nỗi ân hận của mẹ. Ngày đó, khi ông bị phát bệnh trầm cảm, nhà đằng nội chiếm hết đất đai nhà cửa và đuổi mẹ đi, nên mẹ đành lòng dứt áo. Khi ông khỏi bệnh đi tìm mẹ, thì mẹ đã có bố tôi rồi, tôi thực sự cũng không biết lúc đó họ thế nào khi gặp lại. Có những điều thuộc về người lớn, nằm trong quá khứ, con cái không nên lục lại.

Chỉ biết rằng, mẹ có nói với bố về những gì xảy ra. Chính bố là người muốn chồng cũ của mẹ về nhà chơi như một người thân. Họ đã vượt qua những trở ngại cuộc đời và tình đời, để hồn nhiên sống như những người bạn. Mà đã bạn thì phải tốt với nhau, và phải hiểu được những chân tình của nhau. Thế là từ đó, nhà tôi có thêm một thành viên.

Đến giờ, tôi cũng chưa thể lý giải được tại sao họ, những người mà học thức không cao, mà có thể xử sự được như thế. Có thể vượt qua được nhiều thứ, để sống trong trẻo đến như thế. Cả đời ông rong ruổi. Ông nói, cứ đi đi, chết thì có người đóng quan tài cho rồi (hàm ý là bố tôi đóng), còn người đội khăn tang thì không cần thiết lắm, vì sống để thương là đủ, chứ sống không thương thì chết có khóc cũng đâu có nghĩa gì.

Rồi một ngày ông mất, ngay khi ông về lại quê ông. Mẹ là người phụ nữ đội khăn xô, trong cái đám tang vắng vẻ, lành lạnh ấy. Tiễn ông đi rồi, có một người đàn ông ngồi lặng lẽ một thời gian, rất lâu. Tôi hiểu sự im lặng ấy, sự im lặng của một người mất đi vĩnh viễn một người bạn tốt, một người tri kỷ. Và rồi thời gian trôi đi, bố tôi cũng như ông, đi đến cái đích của hành trình định mệnh mà đời người ai cũng phải đi đến đó.

Hôm nay, ngồi viết những dòng này, cũng để nhớ đến hai thành viên quan trọng trong gia đình tôi và cũng là hai người đàn ông trong cuộc đời mẹ tôi đã đi về với đất. Như một lời cảm ơn người đó đã tặng về một câu chuyện đời về cách sống, cách yêu thương, cách cho…, và cả cách quên. Có những điều đẹp hơn cả tình yêu tồn tại cùng tình yêu, mãi mãi...


Hoàng Nguyên Vũ
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 17/Aug/2019 lúc 1:09pm

Đi Hoang


Related%20image


Ngày sung sướng nhất của mẹ là ngày được cha bảo lãnh cho sang Mỹ. Tội nghiệp mẹ, lấy cha tôi từ năm mười tám tuổi, mẹ ở với cha được có hai năm thì xảy ra biến cố lịch sử kinh hoàng. Tháng Tư 1975, mẹ có mang tôi được sáu tháng, cha tôi trước đó mấy tuần, đi công vụ ra Phú Quốc rồi bị kẹt luôn ở đó. Khi Dương Văn Minh đầu hàng, không có tàu về, ông đành theo chân đoàn người nhốn nháo lên máy bay, bay thẳng ra đảo Guam.

Cha mẹ tôi thất lạc nhau từ đấy. Tôi ra đời không được thấy mặt cha, mẹ vất vả nuôi tôi một mình, gia đình bên ngoại đã di tản hết, mẹ nhất định ở lại chờ cha, nào ngờ ông đi biệt tích. Đáng thương cho mẹ, người thiếu phụ mới hơn hai mươi tuổi, từ nhỏ sống trong nhung lụa, nay bị vứt ra ngoài đời với đứa con còn trứng nước. Mẹ can đảm ngược xuôi bán buôn, nuôi tôi lớn lên. Làn da trắng nõn khi xưa của mẹ bây giờ trở nên rám nắng, tóc mẹ khô vì gió sương, nhưng mẹ còn đẹp lắm. Tám tuổi, tôi đã bắt đầu hiểu biết, tôi có thể nhận ra những ánh mắt si dại của những người đàn ông khi tới lui tiếp xúc với mẹ, có khi vì công việc, có khi chỉ là cái cớ để gặp mặt. Trong số những người tới lui, có cả mấy ông cán bộ cao cấp, một ông bác sĩ, một ông giáo sư… Nhưng mẹ không chú ý đến ai cả, mẹ khéo léo tránh né, đôi khi phải sợ hãi lẩn trốn. Hẳn là tình mẹ yêu cha sâu đậm vô cùng, nên mẹ mới vượt qua được mọi cám dỗ, một lòng chung thủy với người chồng mất tích. Mười năm chờ đợi mỏi mòn, ngày nhận được tin cha tôi còn sống và đang ở Mỹ, mẹ mừng chảy nước mắt, thế rồi giấy bảo lãnh, giấy xuất cảnh và sau cùng là ngày đoàn tụ.

Chuyến máy bay chở hai mẹ con tôi đã hạ cánh xuống phi trường Los Angeles lúc 12 giờ trưa. Bỡ ngỡ theo chân đoàn người vào bên trong, làm thủ tục nhập cảnh xong xuôi, hai mẹ con tôi chờ cha tới đón, với vẻ nôn nao không thể tả. Chuyến bay dài không làm mẹ mệt mỏi, hy vọng làm mắt mẹ long lanh, sung sướng làm má, môi mẹ đỏ hồng. Tóc uốn kiểu mới, mẹ mặc một cái áo đẹp nhất màu xanh da trời là màu cha vẫn thích. Cả năm, cả tháng trước, mẹ nói liên miên về người chồng tuyệt vời, về người cha có tránh nhiệm, về những lời hứa hẹn năm xưa, và những dự tính tương lai…

– Rồi đây con sẽ có cha, không sợ ai bắt nạt nữa. Cha con sẽ thương yêu con, lo cho con, con sẽ được ăn học tối nơi tới chốn, và sẽ có một tương lai tốt đẹp.
– Còn mẹ sẽ không phải vất vả lo kiếm sống nữa, mẹ không còn phải lo lắng sợ hãi đủ thứ như trước đây. Hai mẹ con mình sẽ rất hạnh phúc, rất sung sướng… Tôi háo hức thêm vào.
– Dĩ nhiên rồi! Mẹ cười vui vẻ.
– Có phải ba nói nhà ba có vườn hả mẹ?
– Phải nói là nhà mình chứ sao lại nhà ba? gia đình mình sắp đoàn tụ dưới một mái nhà rồi. Ừ, ba nói nhà không rộng lắm nhưng có một cái vườn có trồng hoa và còn nhiều đất trống.
– Nếu vậy mình sẽ trồng một cây ổi xá lỵ, và một cây nhãn nghe mẹ?
Mẹ âu yếm củng nhẹ một cái vào đầu tôi:
– Mày chỉ nghĩ đến ăn… Còn mẹ, mẹ thích trồng vài cây bông sứ…
– Thì trồng cả ổi, cả nhãn lẫn bông sứ.
– Ừ để mẹ xem, nếu còn đất mẹ sẽ làm một giàn mướp. Cha con rất thích ăn bông mướp xào với thịt bò.
– Con lớn rồi, đi học về con sẽ phụ với mẹ làm bếp.
– Không cần, con cứ lo học cho giỏi là được rồi.
– Nhưng mẹ sẽ bận lắm đó!
– Có gì mà bận? bây giờ mẹ không phải buôn bán nữa, ngày ngày chỉ có việc lo cơm nước cho hai cha con.
– Nhưng mẹ sẽ đẻ em bé nữa chứ, có em mà không bận à?
– Con quỷ này! mới tí tuổi đã xen vào chuyện người lớn.

Mẹ đỏ mặt mắng yêu, bà làm mặt nghiêm, nhưng mắt bà sáng lên một niềm vui kỳ dị. Cứ thế, kẻ thêm người nếm, mẹ phác hoạ, con tô màu, hai mẹ con tha hồ vẽ mộng, và bây giờ cái mộng ấy sắp tới gần lắm rồi. Mẹ sốt ruột nhìn đồng hồ, sau cùng cha tôi cũng xuất hiện, trễ hơn ba tiếng. Từ xa đi tới một người đàn ông tuổi trạc tứ tuần, người cao dong dỏng, mặc bộ đồ vest màu xám, tay cầm chùm chìa khóa.
– Cha con đó! Mẹ vội vã nói.
Tim tôi đập loạn, còn mẹ đứng bật ngay dậy, run rẩy nghẹn ngào, trông bà lảo đảo như người sắp té. Tôi tưởng cha tôi sẽ chạy nhanh tới, và mẹ sẽ ngả vào đôi tay dang rộng của ông. Nhưng tôi lầm, cha tôi không có vẻ gì vội vã cả, ông lừ đừ tiến tới, môi nở một nụ cười bình thản:
– Hai mẹ con đợi lâu chắc sốt ruột lắm hả? Ông nhìn mẹ giải thích, anh còn phải giải quyết cho xong vài công việc của sở, trước khi nghỉ phép một tuần để lo cho mẹ con em.

Bây giờ ông mới quay sang tôi ngắm nghía:
– Nga đây hả? Trời ơi! con gái tôi xinh quá, lại đây với cha đi con!
Mặc dù giọng cha có vẻ nhiệt tình, nhưng ánh mắt của ông lạ lùng lắm, vừa có vẻ lo lắng băn khoăn, vừa có vẻ xa lạ khiến tôi không dám chạy a lại, nhào vào lòng ông, ôm thật chặt, và ông sẽ nhấc bổng tôi lên hôn hít như tôi vẫn tưởng tượng. Tự nhiên tôi thấy hụt hẫng chới với, bao nhiêu hy vọng, háo hức lúc ban đầu bỗng dưng xẹp cả xuống, tôi lặng lẽ bước tới, cúi đầu lí nhí nói:
– Thưa ba…
Và tôi oà khóc. Bàn tay cha đặt trên vai tôi rơi xuống, ông nhìn tôi ngạc nhiên.
– Chắc nó cảm động. Mẹ nói, mắt bà cũng đỏ hoe.
– Thôi đi về, đừng khóc ở đây kỳ quá.. .
Cha nhăn mặt, hình như những giọt nước mắt của hai mẹ con tôi làm ông xấu hổ, ông kéo mẹ đi nhanh ra cửa. Tôi lủi thủi theo sau hai người và mấy cái va li to tướng, đi về vùng đất mới, bắt đầu một cuộc đời mới.

Mấy ngày đầu, cha tôi thật vất vả, chạy ngược chạy xuôi lo đủ thứ chuyện, Nhưng rồi tuần lễ bận rộn cũng qua nhanh chóng, chiều Chủ Nhật, ông nói với mẹ:
– Thứ Hai phải đi làm lại rồi, từ nay chỉ có cuối tuần anh mới về nhà.
Mẹ chưng hửng:
– Sao lại thế? ngày thường mình không về nhà thì về đâu?
Cha đáp trơn tru, không lúng túng, dường như đã sửa soạn từ trước:
– Anh ăn ở luôn trong sở.
Mẹ hỏi có vẻ lo lắng:
– Sở mình làm có xa đây không?
– Xa lắm, cả mấy trăm cây số lận.
– Thế sao mình không thuê nhà ở gần để đi làm cho tiện?
– Ồ không được đâu. Cha quay mặt đi chỗ khác, tránh không nhìn mẹ, chậm rãi nói tiếp, nơi đó đắt đỏ lắm, lương thơ ký kế toán ba cọc ba đồng của anh không đủ đâu. Mẹ con em ở tạm đây vậy, mai mốt khá lên sẽ hay.

Cái ngày khá lên đó không bao giờ có, nên mẹ tôi vẫn sống kiếp đợi chờ như một người vợ không chính thức, một người tình lén lút. Cha tôi lâu lâu mới về nhà một lần, ân sủng ông ban cho không phải là tình yêu thương đậm đà, mà chỉ là những món tiền nho nhỏ, đủ cho hai mẹ con tiêu một cách tiện tặn.
Tôi đi học, lòng không vui vì bây giờ có cha mà cũng chẳng khác xưa là mấy. Mẹ trồng rau, trồng mướp chỉ mình mẹ ăn nên cũng nản, vườn tược bỏ hoang, xác xơ tiêu điều và mẹ thì ủ rũ như chiếc lá héo. Những ngày cuối tuần mẹ vui gượng gạo, còn cha cố tình nói cười lớn tiếng, nhưng sao tiếng cười của ông nghe như có vẻ giả tạo. Tôi xà vào lòng cha, nói huyên thuyên đủ thứ chuyện. Cha giả bộ lắng nghe mà hồn như để tận đâu, cha có vẻ băn khoăn lo nghĩ, và hình như không được khoẻ. Tôi thôi không làm phiền ông nữa và lại rúc vào một xó ngồi xem TV. Không khí gia đình lạnh lẽo buồn tẻ, nếu không muốn nói là ngột ngạt khó thở.

Ở đời chẳng có bí mật nào có thể giữ kín được mãi, điều mà mẹ tôi nghi ngờ đã xảy tới. Vào một ngày Thứ Bảy, cha tôi về nhà sớm hơn thường lệ, nhưng với vẻ mặt không vui, ông vào phòng riêng nói chuyện với mẹ. Một lúc thật lâu, cả hai mới trở ra, mặt mẹ xám ngoét nhưng mắt mẹ ráo hoảnh, cha thì bơ phờ sượng sùng, lẽo đẽo theo sau, vừa đi vừa phân trần:
– Mọi việc dĩ lỡ cả rồi, tôi đã có ba mặt con với người ta, mong mình thông cảm, chỉ vì hoàn cảnh… Nhưng tôi vẫn sẽ lo cho mẹ con mình.
– Không cần! Mẹ lạnh lùng nói, con tôi đẻ ra tôi nuôi, bao nhiêu năm nay có nhờ ông đâu? Bây giờ cũng vậy thôi, ông cứ yên tâm về với vợ con ông đi, tôi sẽ ra khỏi cuộc đời của ông. Cả con Nga cũng vậy, số nó không có cha, trước sau cũng không có cha…

Mẹ chỉ thẳng tay ra cửa, quát cha tôi phải cút ngay lập tức. Cha vừa đi khuất mẹ mới quỵ xuống, mẹ ốm hơn một tháng mới khỏi. Cơn ghen của mẹ mới ghê khiếp làm sao, yêu càng đậm thù càng sâu, mẹ hối hận đã trao duyên lầm cho một kẻ bội bạc, mẹ tiếc tấm lòng chung thủy đã dành cho một người không xứng đáng, mẹ thề sẽ quyết trả thù.

Mẹ dọn nhà khác, chỉ hai tuần sau khi khỏi bệnh, mẹ đã đi làm. Mẹ làm đủ thứ việc: dọn phòng trong khách sạn, bồi bàn bưng đồ ăn, bán hàng, cắt chỉ trong một tiệm may v..v.. nghĩa là bất cứ một việc gì có thể kiếm ra tiền, mẹ đều không từ nan, vì thế nên cuộc sống của hai mẹ con vẫn đầy đủ. Vật chất không thiếu thốn, nhưng tình cảm của mẹ dành cho tôi có khác xưa nhiều lắm. Chắc vì tôi là giọt máu của người chồng bạc tình, nên mẹ thường nhìn tôi với cặp mắt nghiêm khắc, oán hận khiến tối không dám lại gần. Hình như đã có một hố sâu ngăn cách giữa hai mẹ con.

Vất vả như vậy nhưng mẹ vẫn đẹp, một cái đẹp quyến rũ của một người đàn bà mới ngoài ba mươi tuổi, lại thiếu gì ong bướm dập dìu… Bây giờ mẹ không giữ gìn nữa, gìn vàng giữ ngọc cho ai? Mẹ chỉ muốn trả thù, cha có đau mẹ mới hả dạ. Mẹ buông thả, mẹ chỉ sống cho mẹ. Như một con chim mới xổ lồng tha hồ bay nhảy, mẹ đi chơi với nhiều người đàn ông. Có một người đi lại với mẹ nhiều nhất, một hôm dọn về ở luôn trong nhà, ăn ở, chung đụng như hai vợ chồng. Hai người không làm đám cuới, nhưng có ký hôn thú hẳn hòi.

– Đây là ba ghẻ của con, kêu bằng dượng Huân. Mẹ giản dị nói, dượng Huân góa vợ còn mẹ cũng chết chồng - mẹ coi cha như đã chết ít ra là trong lòng của mẹ - lấy nhau là hợp lý rồi, con không phản đối chứ?
Có gì mà phản đối? mà phản đối có kết quả không? Mẹ có hỏi ý kiến của tôi đâu? mẹ chỉ tuyên bố một sự đã rồi, dù muốn hay không muốn tôi cũng phải chấp nhận. Mới mười một tuổi đầu, tôi đã nếm đủ mùi cay đắng, đã dạn dày với đau khổ, chai đá rồi, nên không cảm thấy đau hơn, tôi thản nhiên đón nhận một cuộc đổi đời lần nữa.
Cha có vợ khác, mẹ đi lấy chồng, tôi là một đứa trẻ bị bỏ rơi. Trước kia xa cha nhưng còn có mẹ, bây giờ có mẹ mà cũng như không, mẹ nuôi tôi như nuôi một cục nợ. Còn dượng Huân, thực ra không phải là một người cha ghẻ hà khắc, ác độc nhưng ông đối xử với tôi lạnh nhạt như người dưng nước lã. Cũng là sự thường thôi, đòi hỏi một người không cùng máu mủ, huyết thống phải yêu thương mình quả là một điều vô lý. Tôi sống thui thủi trong một thế giới không có tình thương, nhất là từ khi mẹ sanh em trai, mẹ dồn hết tình thương cho em bé, cho cha của em bé, tôi trở thành một cái bóng mờ, một người dưng sống bên lề cuộc đời của mẹ.

Dượng Huân có một đứa con trai riêng tên Tiến, mười tám tuổi, đã học xong Trung Học. Được cha đóng tiền cho học Đại Học, nhưng Tiến thích ăn chơi hơn là thích học. Hắn thuê Apartment ở riêng để tự do giao du bạn bè khỏi bị kiểm soát, thỉnh thoảng mới về nhà, tiếng là để thăm cha, nhưng thực sự là để xin tiền. Cho bao nhiêu cũng không đủ, nên mỗi lần gặp mặt, hai cha con thường hay hục hặc. Một lần Tiến đòi một số tiền lớn, bị cha mắng, hắn lớn tiếng cãi lại. Hai cha con cãi nhau ầm ầm như nhà có giặc, mẹ chán nản bỏ vào phòng riêng khóa cửa lại. Một lúc sau, tiếng cãi cọ nhỏ dần rồi im bặt, Tiến trở ra với vẻ mặt hầm hầm, hắn giơ nắm đấm lên de dọa:
– Rồi sẽ biết tay!
Thấy tôi đứng lơ láo, hắn cau mày hừ một tiếng rồi cười khẩy:
– Đừng nhìn anh bằng cặp mắt đó em gái! Lớn lên rồi em cũng sẽ bắt chước anh thôi, để coi…
Nói xong, Tiến bỏ ra xe rồ máy thật lớn, phóng vút đi. Thật tình tôi không ghét hắn, lần nào đến hắn cũng cho tôi quà, khi thì một gói kẹo, khi thì một cuốn sách hình hoặc một con búp bê. Hắn thường nhìn tôi với cặp mắt êm dịu, và những món quà của hắn cũng thay đổi theo thời gian, mới đầu toàn là đồ chơi, sau đến sách truyện, và mấy lúc gần đây là quần áo, kẹp tóc v.v… tôi đã mười bốn tuổi, đâu còn con nít nữa.

Sau lần đó, Tiến đi đâu biệt tăm, hai năm sau mới trở về. Lần này hắn xuất hiện oai phong như một ông hoàng, hắn mặc đồ vest sang trọng, lái chiếc xe Jaguar mới tinh. Hắn không hỏi tiền cha hắn nữa, trái lại hắn còn tặng cho ông và mẹ tôi một cái TV màu khổ lớn, một cái lap top computer kiểu mới, toàn những đồ đắt tiền, và cho tôi một sợi dây đeo cổ bằng vàng có mặt hình trái tim. Thoạt nhìn thấy tôi, hắn reo lên thích thú:
– Trời ơi Nga! em lớn nhanh quá, trên cả sức tưởng tượng của anh.
Thế rồi trong khi tôi đeo thử sợi dây, hắn nghiêng đầu ngắm nghía rồi trầm trồ khen ngợi:
– Em đẹp lắm!
Tôi mắc cỡ cúi mặt nhưng trong lòng cảm thấy hãnh diện, sung sướng. Mới mười sáu tuổi, tôi đã có những đường nét của một thiếu nữ, thân hình cao dong dỏng giống cha tôi, bộ ngực nẩy nở, mái tóc dài óng ả, khuôn mặt trái soan giống hệt mẹ tôi, với sống mũi dọc dừa và đôi môi mọng xinh đẹp. Tôi biết tôi đẹp và tôi thường hãnh diện đón nhận những tia nhìn chiêm ngưỡng của bọn con trai trong trường.

Tiến vẫn nhìn tôi đăm đăm, tôi cúi mặt tránh ánh mắt của hắn và rụt rè hỏi:
– Dạo này anh làm gì mà giàu thế?
– Làm áp phe, trúng mối nên phát tài… Em cần tiền không?
Tôi lắc đầu:
– Em có tiêu xài gì đâu?
Tiến nắm lấy tay tôi:
– Tội nghiệp em quá, sống cứ như một nữ tu, em không mơ ước gì à?
– Em chỉ muốn học thật giỏi.
– Học giỏi để làm gì? có phải để khi ra trường đi làm kiếm được nhiều tiền? Xem anh nè, anh có học đâu mà vẫn thiếu gì tiền…
– Nhưng nghề áp phe của anh chắc là bấp bênh lắm?
– Đúng vậy, bấp bênh và nguy hiểm nữa. Nhưng cần gì, tới đâu hay tới đó, lo xa chi cho mệt. Hãy sống với hiện tại, hưởng thụ những gì mình đang có, nghĩ đến tương lai làm quái gì.
Tôi ngập ngừng:
– Em khác, em chỉ muốn có một nghề vững chắc.
Tiến cười xòa:
– Ừ thôi, mỗi người một quan niệm sống, em cứ sống theo ý em đi.
Ngưng một lúc, hắn lại tiếp tục:
– Khi nào cần anh giúp đỡ, em cứ tìm đến anh, lúc nào anh cũng sẵn sàng.
Tiến biên cho tôi địa chỉ và số điện thoại của hắn, dặn tôi giữ kỹ, tôi gật đầu và bỏ vào cặp sách. Tiến nhìn tôi bằng cặp mắt đắm đuối một lúc rồi mới bỏ đi. Dạo này cha hắn cũng nhìn tôi bằng cặp mắt như thế, thái độ của ông thay đổi khác hẳn, không còn lạnh lùng như trước. Ông thường chở tôi đi học, và thỉnh thoảng bênh vực tôi mỗi khi tôi bị mẹ la rầy.

Sinh nhật thứ mười sáu của tôi, Tiến tặng tôi một cái áo dạ hội thật đẹp, mua của Nordstroms. Hai tuần sau, tôi mặc áo đó để đi dự một đám cưới. Trong lúc đợi mẹ tôi trang điểm, tôi đứng trước gương ngắm nghía áo mới, dượng Huân lại gần vuốt tóc tôi và khen tôi đẹp. Hôm sinh nhật tôi, dượng cũng cho tôi một chai nước hoa đắt tiền và một bộ đồ trang điểm.
– Lớn rồi, con cũng cần phải chưng diện một tí để khỏi thua kém các bạn bè.
Ông nói như một người cha quan tâm đến con gái, và tôi ngây thơ đón nhận. Từ đó thỉnh thoảng ông vẫn cho tôi tiền và dặn dừng cho mẹ biết, ông nói:
– Mẹ con lúc nào cũng hà tiện, bà ấy quên rằng con đã lớn rồi, cần phải làm dáng, ăn diện chải chuốt cho đẹp, để mai mốt còn đi lấy chồng nữa chứ.
Mấy lúc gần đây, ông cứ ngó tôi cười tủm tỉm và liếc mắt đưa tình, đôi khi bị mẹ bắt chợt thì ông lại vội vàng làm mặt nghiêm. Có lần mẹ đi vắng, tôi đang hút bụi nơi phòng khách, thì ông chạy tới bảo:
– Để dượng làm giùm cho, con đi học bài đi.
Nói xong ông cầm lấy máy hút bụi, và cầm luôn tay tôi. Tôi giật ra và bỏ chạy, ông không đuổi theo mà chỉ cười:
– Cái con nhỏ này lớn xộn rồi mà vẫn nhát như con nít!

Một buổi sáng, tôi sửa soạn đi học, dượng chờ tôi ở cửa, dúi nhanh vào ngực áo tôi tờ giấy một trăm đô:
– Cho con ăn quà.
Dượng để tay lên ngực tôi hơi lâu, cho tới khi có tiếng chân của mẹ tôi lịch kịch từ trên cầu thang bước xuống, dượng mới buông ra. Tôi sợ lắm nhưng chưa biết phải nói với mẹ tôi như thế nào thì đã xảy ra một biến cố ghê gớm. Vào một buổi sáng Thứ Bảy, như thường lệ, em tôi phải đi tập đá banh với đội học sinh của trường, nơi tập là một sân vận động nhỏ cách nhà chừng vài dặm. Dượng vẫn thường lái xe cho em đi, ở đó chờ cho tới khi tập xong lại đưa em về, nhưng hôm đó dượng kêu mệt, không đưa em đi được và bảo mẹ tôi đi thế. Tôi ở nhà học bài, chương trình lớp 10 khá nặng, nhất là phần Toán Lý Hóa. Học một lúc thấy nhức đầu nên tôi vào phòng riêng nằm nghỉ. Đang thiu thiu ngủ, chợt nghe một tiếng cạch nơi cửa, tôi giật mình mở choàng mắt, và thấy cánh cửa đang từ từ mở ra, rồi dượng Huân ló đầu vào ngó dáo dác, mắt dượng đỏ ngầu như người say rượu. Hoảng sợ, tôi ngồi bật dậy, nhưng chưa kịp la lên, thì nhanh như cắt, dượng đã lao tới, bịt chặt lấy miệng tôi, gằn giọng nói:
– Nhà đi vắng hết rồi, đừng kêu vô ích!
Tôi ú ớ, lắc qua lắc lại cố gỡ ra nhưng không được, dượng một tay vẫn bịt miệng tôi, tay kia ôm choàng qua ngực tôi siết chặt, ông vùi đầu vào ngực tôi vừa thở hổn hển vừa thì thào đứt quãng:
– Cho dượng thương một tí… Đừng sợ, không sao đâu, chóng ngoan!

Hơi thở của ông nóng ran một bên má, vừa sợ hãi lẫn ghê tởm, tôi vùng vẫy thật mạnh, cố xô ông ra. Ông như một con thú đang hăng máu, tôi chống cự mãnh liệt bằng tất cả sức lực của tuổi trẻ, tôi vừa đấm đá vừa cắn cấu… Sau cùng ông đành phải lơi tay, tôi vừa vật lộn vừa la hét ầm ỹ. Chợt có tiếng chân chạy rầm rập trên cầu thang, ông hoảng sợ vội buông tôi ra. Tiến xuất hiện như một hung thần, không nói không rằng, Tiến túm lấy cha đấm một cú như trời giáng vào quai hàm, ông ngã chúi xuống. Tiến dựng ông dậy rồi cứ thế đấm đá túi bụi, hai cha con quần thảo như hai con gấu. Tôi quơ vội cái gối che vai áo rách toạc, chạy vội vào phòng tắm, khóa chặt cửa lại. Một lúc sau có tiếng gõ cửa rồi tiếng Tiến gọi gấp rút:
– Nga, Nga! mở cửa mau, em không sao chứ?
Tôi run lẩy bẩy, ở trong nói vọng ra:
– Em không sao cả, cám ơn anh đã cứu em kịp lúc… Ổng đâu rồi?
– Đi rồi, đi nhà thương rồi.
Tôi hốt hoảng mở cửa, ló đầu ra quan sát:
– Trời ơi! anh đánh ổng tới bị thương? có nặng lắm không?
– Vài cú đấm ăn thua gì, vẫn còn lái xe được mà. Thứ quân cầm thú đó phải được cho một bài học.
Sau vụ đó, mẹ thu xếp cho tôi về ở với cha. Tiến đưa tôi ra phi trường, hắn đưa cho tôi một mảnh giấy có ghi số phone của hắn, rồi nắm tay tôi dặn dò:
– Có chuyện gì cứ phone cho anh, anh sẽ giúp em giải quyết. Hãy tin anh, anh không có ý đồ xấu với em và không bao giờ bỏ mặc em đâu.

Tôi về ở với cha, mẹ kế không hoan nghênh, cũng không phản đối, nuôi thêm một miệng ăn đâu có tốn kém bao nhiêu, hơn nữa tôi đã lớn, có thể giúp được khối việc. Cha bận rộn nên ít khi ngó ngàng, mẹ kế đương nhiên coi tôi như một đứa ở giúp việc khỏi phải trả lương, sai vặt tối ngày. Đi học về nhà, chưa kịp thay áo đã nghe tiếng réo:
– Nga! ủi cho tao cái áo!
– Nga! trễ rồi sao chưa dọn cơm?
– Nga! rửa chén xong nhớ lau bếp đi nghe chưa? để đồ ăn rơi vãi, kiến sẽ bu đen ngòm cho coi.
Các em cũng bắt chước mẹ, đua nhau sai bảo:
– Chị Nga! hút bụi phòng em đi!
– Chị Nga! quần áo thay hôm qua đã giặt chưa?
– Chị Nga! nhớ thay khăn trải giường cho em!
Tôi làm luôn tay không dám kêu ca, chỉ những khi họ về phòng rồi, tôi mới được yên thân ngồi học bài, tôi chỉ lấy sách vở làm vui.

Thời gian qua mau, hết hạ tới thu, đông, rồi mùa xuân cũng qua, và mùa hè lại tới. Cha tôi được nghỉ phép hai tuần, bèn tổ chức cho gia đình đi Hawai nghỉ mát. Ôi chao! bãi biển Hạ Uy Di, ai nghe mà không mê? Tôi và các em đều háo hức, nhưng mẹ kế lừ mắt, nói:
– Mày không được đi, phải ở nhà coi nhà.
Bà đưa các em tôi đi mua sắm những đồ dùng đi biển và quần áo tắm, không đả động gì tới tôi cả. Lựa lúc bà không có nhà, tôi mới rụt rè hỏi cha:
– Ba ơi! con cũng muốn đi Hawaii, cho con đi nghe ba?
– Ừ, đi cả gia đình mà.
– Nhưng mẹ bảo con phải ở lại coi nhà.
– Để ba sẽ xin với mẹ con.
Chả biết ông nói năng thế nào mà bữa cơm chiều hôm đó mẹ kế không ăn, giận dỗi bỏ vào phòng, cha đi theo năn nỉ. Bốn đứa chúng tôi ngồi ở bàn ăn, lắng nghe tiếng hai người cãi nhau ở trong phòng, tiếng cha tôi nhỏ nhẹ:
– Mình làm vậy không công bằng, mấy đứa kia chỉ ở không ăn chơi, còn con Nga suốt ngày đầu tắt mặt tối…
Tức thì nghe bà rít lên:
– Mấy đứa kia còn nhỏ, còn nó lớn rồi. Con gái lớn phải học ăn học làm, chia sẻ bớt công việc với cha mẹ chứ, nhong nhỏng ăn chơi hoài đâu có được?
– Thôi được rồi, nhưng lần này đi nghỉ mát cả nhà, phải cho nó đi chứ?
– Nó đi rồi ai ở nhà coi nhà?
– Cứ khóa cửa lại cũng được…
– Thôi được, ông đã muốn vậy thì để tôi với mấy đứa nhỏ ở nhà, cho cha con ông đi với nhau.

Có tiếng nức nở và tiếng cha tôi thở dài. Xuân Mai nhìn tôi trách:
– Khổ quá, mẹ khóc rồi chị thấy chưa? Tại chị hết đó!
– Chị có làm gì đâu?
– Còn không à? chị ỏn thót với cha nên cha mới la mẹ. Chị chỉ muốn cha ghét hết bọn tôi chị mới hả dạ.
Kim Chi cũng thêm vào:
– Chị là đầu dây mối nhợ của những bất hòa trong gia đình này, trước kia khi chưa có chị, cha có bao giờ lớn tiếng với mẹ đâu.
Tuấn thì im lặng không nói gì, nhưng nó nhìn tôi bằng cặp mắt oán trách. Tôi ứa nước mắt khóc tủi cho thân phận.
Sáng hôm sau, tôi thoái thác nói với mọi người là tôi không muốn đi nữa vì trong người không được khỏe, hơn nữa tôi còn phải để thì giờ học thêm, sửa soạn cho kỳ thi tốt nghiệp Trung Học niên khoá tới. Ai cũng biết đó chỉ là một câu nói giả vờ, mẹ kế bĩu môi, các em lườm nguýt, còn cha tôi thì nhìn tôi bằng cặp mắt ái ngại.

Mùa hè trôi qua nhanh chóng, thấm thoát lại đến ngày khai trường, năm nay tôi học lớp 12, năm chót của ban Trung Học, bài vở nhiều nên học hành cũng phải tốn nhiều thì giờ. Một lần tan học, tôi về nhà hơi trễ, vừa bước vào cửa đã nghe tiếng quát:
– Mày đi đâu giờ này mới về hả? Thứ đồ con gái hư!

– Con đến nhà Oanh để học bài. Tôi đáp.
Oanh là bạn cùng lớp với tôi và cũng ở gần nhà, nhưng mẹ kế tôi không ưa mẹ Oanh, bảo rằng bà này hay làm phách, nghe tôi nói đến nhà Oanh bà càng ghét:
– Học ở nhà không được sao? Tao cấm mày không được sang nhà hàng xóm ngồi lê đôi mách, lại kể lể chuyện mẹ ghẻ con chồng, nói xấu tao chứ gì?
Cha tôi vừa đi làm về, nghe thấy thế thì buột miệng can thiệp, ông bảo mẹ kế:
– Nó đến nhà bạn thì đã sao? Con bé ấy cũng ngoan ngoãn lại học giỏi, chúng nó chỉ bảo bài vở cho nhau.
Thế là châm ngòi cho một cuộc cãi lộn, mẹ kế hét lớn:
– Tôi biết ông bênh con riêng để nó lên mặt không coi tôi ra gì. Trời ơi! sao số tôi khổ thế này? chỉ tại ngày xưa tôi dại dột nghe lời đường mật của ông, lấy một người đã có vợ có con, bây giờ mới thấy hậu quả. Ông có coi tôi là vợ của ông đâu? ông chỉ thương con riêng của ông. Tôi biết ông vẫn dấm dúi tiền riêng cho nó, bảo sao mấy đứa kia không ganh tị? Ông làm như thể chúng nó không phải là con ông vậy.
Thế rồi bà bù lu bù loa khóc kể, cha tôi bịt tai bỏ vào phòng riêng khóa cửa lại. Mẹ kế khóc lóc một hồi rồi lái xe đi biệt từ trưa tới tối. Không khí gia đình từ khi có tôi trở nên xào xáo. Tôi không muốn là nguyên nhân của các cuộc cãi vã, nên cố thu hình nhỏ nhoi lại.

Cha tôi cũng muốn nhà cửa êm đẹp nên nhắm mắt làm ngơ, để mặc bà muốn làm gì thì làm. Cha mải lo kiếm tiền, dần dà mọi việc trong nhà đều do mẹ kế quyết định, ông chiều theo ý bà vì không muốn cãi cọ lôi thôi, ông chỉ muốn yên thân. Cha bận nhiều việc lớn, đâu có thì giờ lo việc nhỏ là lưu tâm đến đứa con xấu số. Chắc cha cho rằng nuôi tôi cơm ngày ba bữa, quần áo lành lặn là đủ bổn phận, nên lương tâm ông ngủ yên.
Tôi âm thầm chịu đựng mọi sự ngược đãi, bất công mà không dám hé môi, bởi vì mỗi khi có chuyện chống đối, thì mẹ kế lại làm mình làm mẩy, đập phá đồ đạc, la hét om xòm hoặc bỏ nhà ra đi. Nhà cửa không khác gì địa ngục, cha bực mình trút hết tức giận lên đầu tôi, coi tôi như một kẻ chuyên gây rối, một đứa con sinh ra chỉ để gây phiền cho cha mẹ, một thứ người thừa, bỏ thì thương vương thì tội. Các em cũng đối xử lạnh nhạt, thành ra sống giữa những người thân mà tôi cô đơn như người sống trong sa mạc.
Cùng tuổi mười bảy, các bạn tôi sống hồn nhiên vô tư, và thường hay mộng mơ, còn tôi thực tế hơn chúng nó nhiều, tôi đã có những suy nghĩ của một người già trước tuổi, tôi thường băn khoăn tự hỏi tương lai sau này rồi sẽ ra sao và tôi lo sợ. Tôi biết muốn thoát khỏi cuộc đời đen tối, muốn vươn lên, chỉ có cách là nhờ vào học vấn, vì vậy tôi để hết tâm trí vào việc học và tôi học rất giỏi, tôi đậu thủ khoa kỳ thi tốt nghiệp Trung Học năm đó.

Hôm mãn khóa, nhà trường tổ chức một buổi lễ lớn. Xúng xính trong bộ lễ phục tốt nghiệp, tôi được hân hạnh đại diện toàn thể học sinh của trường lên đọc diễn văn phát biểu cảm tưởng, giã từ thầy cô, giã từ mái trường thân yêu. Sân trường im phăng phắc, cả ngàn cặp mắt ngước lên theo dõi, họ lắng nghe và cùng bị lôi cuốn bởi những lời lẽ thiết tha, chân thành và cảm động. Khi tôi dứt lời, cả hội trường bùng lên những tiếng vỗ tay như pháo nổ, mọi người đứng cả lên, vẫy tay, tung mũ, nón…
Chương trình tiếp diễn với mục phát bằng tốt nghiệp, trước khi trao mề đay thủ khoa và choàng vòng hoa danh dự, ban Giám Hiệu mời phụ huynh học sinh lên diễn đàn để chụp hình kỷ niệm và cùng chia sẻ niềm hân hoan với con em. Tôi xẻn lẻn nói:
– Má em ở xa, còn ba em bận. ..
Và tôi tủi thân ôm mặt khóc, như thế đấy, ngày vui đáng ghi nhớ của tôi, niềm hãnh diện của tôi, mà cả cha mẹ và các em của tôi đều không tới dự. Có ai thèm quan tâm đến một người thừa, một cái bóng mờ? tệ hơn nữa, một chướng ngại vật trên đường đi của họ. Chỉ có Tiến xuất hiện vào phút chót, hắn lái xe tới nơi vừa kịp. Bước lên bục cao diễn đàn, Tiến choàng mề đai và vòng hoa danh dự vào cổ tôi, vừa ghé tai tôi thì thầm dỗ dành:
– Nín đi, đừng khóc! van em đừng khóc nữa.

Chiều hôm đó, tôi đi chơi với Tiến mãi đến nửa khuya mới về. Căn nhà lạnh lẽo tối om, vắng vẻ không một tiếng động, mọi người đã đi ngủ cả, cũng tốt thôi vì khỏi phải đương đầu với cơn thịnh nộ của cha và mẹ kế, cơn thịnh nộ chắc chắn sẽ bùng nổ dữ dằn, ghê gớm khó mà tưởng tượng. Mấy hôm trước, vô tình tôi đã nghe lóm được cuộc đối thoại giữa cha và mẹ kế về số phận của tôi:
– Bây giờ ông tính sao? học xong rồi phải giao việc làm cho nó chứ? Tôi tính cho nó ra phụ tiệm ăn, mướn người ngoài vừa tốn kém vừa sợ gian lận. Ông thấy vậy có được không? chẳng lẽ cứ để nó ăn không ngồi rồi suốt ngày. Hay ông định cho nó học cao lên nữa? học để làm bà vương bà tướng gì? Tôi nói cho ông biết tôi chịu hết nổi rồi, nuôi con ông cho tới mười tám tuổi là xong bổn phận. Nó phải tự lập, không có quyền sống bám nữa, đối với pháp luật, chúng ta cũng đã hết trách nhiệm.
Cha tôi xuôi xị:
– Được rồi tùy ý bà, nó là con, đâu có quyền phản đối. Bà muốn gì thì cứ bảo nó, tôi bận lắm, đâu có thì giờ lo cái chuyện nhỏ nhặt đó, nội việc điều hành cái tiệm sửa xe hơi cũng đủ làm tôi mệt ứ hơi. Làm manager trách nhiệm nhiều lắm, đầu óc lúc nào cũng căng thẳng, tôi không muốn phải nhức đầu thêm vì ba cái chuyện lặt vặt ở trong nhà. Bà làm sao đó thì làm, miễn sao êm đẹp thì thôi.
– Nếu vậy thì ông đã đồng ý rồi phải không? Nhưng ông là cha nó, ông nói nó mới nghe, tôi là má ghẻ, nói ra nó trả treo mang tiếng.
– Làm gì có chuyện đó, nó vẫn yêu mến bà như má ruột của nó vậy.
Mẹ kế bật lên một tràng cười mỉa mai:
– Chả dám đâu! Nó mà thương ai? nếu nó thương má ruột nó thì nó đã chẳng về đây. Má ruột nó còn vậy, huống chi má hờ là tôi, bắt nó nghỉ học để đi phụ bếp, đố khỏi nó oán. Thiệt tôi dại hết sức mới đi ưng một người đã có vợ con như ông…
– Nữa, bà cứ lập lại cái câu đó hoài.
– Chứ không à? lấy một người độc thân, tôi đâu có khổ thế này? đã là vợ thừa lại còn mang tiếng mẹ ghẻ con chồng. Mà đứa con gái của ông coi bộ không vừa đâu à nghe? mới nứt mắt đã nập nợn. Nghe đâu nó có bồ từ năm mười sáu tuổi, cái thằng bụi đời chết tiệt nào đó. Ông không dạy dỗ nó, coi chừng có ngày sẽ phải làm ông ngoại của những đứa cháu không cha cho coi!

Ôi! câu nói mới ác độc, mới tàn nhẫn làm sao. Nhưng có lẽ cũng đúng, bây giờ tôi chưa hư, nhưng mai mốt rồi cũng sẽ hư, hoàn cảnh của tôi trở nên hư hỏng là chuyện dĩ nhiên, không hư mới là chuyện lạ. Số kiếp đã an bài, mọi cố gắng vươn lên đều vô ích, trông mong gì ở người cha chỉ muốn yên thân, nên trốn trách nhiệm? Đã đến lúc phải đi thôi, cái nhà này có gì mà lưu luyến?
… Tôi lau nước mắt, lẳng lặng về phòng xếp quần áo và vài thứ đồ dùng lặt vặt vào một cái túi nhỏ, rồi gọi cho Tiến:
– Tiến ơi, đến với em đi! đêm nay em sẽ ra đi với anh.
– Em nghĩ kỹ chưa? Tiến thở dài, anh yêu Nga, nhưng sống với anh cuộc đời của em sẽ bấp bênh lắm đó. Em đã biết hết sự thực về anh chưa? biết anh làm nghề gì chưa? Anh là dân bụi đời, anh sống bằng nghề buôn bán ma túy…
– Em biết, nhưng em không cần. Anh không từng nói với em hãy sống cho hiện tại, đừng nghĩ đến tương lai. Chúng mình không có tương lai, nhưng ít ra cũng có hiện tại, ở đây em không có gì hết, không có tương lai, không có nhân phẩm, không có tình thương, không có cả quyền làm người, không có gì hết… Người ta cũng chỉ coi em như một đứa con hoang thôi.
Giọng tôi nghẹn lại, sũng nước mắt. Tiến vội vã nói:
– Anh sẽ tới ngay!

Nói xong hắn cúp máy, tôi cũng đặt điện thoại xuống, thừ người nghĩ ngợi, tôi không yêu Tiến nhưng tôi cần một điểm tựa, và tôi cần phải thoát ra khỏi cái nhà này. Tôi cần một nơi để mà đi tới, mặc cho số phận đẩy đưa, tôi buông tay rồi, đi bụi đời với Tiến dù có thế nào cũng còn hơn là phải sống dưới cái mái nhà kỳ quái này.

Nước mắt ngập mi chảy loang trên má, tôi vừa thu xếp đồ đạc vừa khóc ròng. Đêm đã khuya lắm, ánh trăng lạnh lẽo chiếu chênh chếch qua khung cửa sổ, hắt bóng những song cửa lên tường, thành những vệt dài, một con chim vạc bay ngang cất tiếng kêu ảo não, thế giới về đêm sao bí mật và đầy vẻ hãi hùng. Có tiếng xe ngừng ngay trước cửa nhà, xe của Tiến. Lặng lẽ, tôi mở cửa bước ra, không ngoái lại, không lưu luyến, không hối tiếc, tôi bước sâu vào bóng đêm, bắt đầu những bước chân đi hoang.

Phương Lan
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Aug/2019 lúc 11:48am

GIỌT NƯỚC MẮT MUỘN MÀNG


GIỌT NƯỚC MẮT MUỘN MÀNG
Truyện ngắn

Vợ hắn bảo:
- Anh ạ, mai thứ bảy rồi đấy. Mẹ về, mình mua cái gì cho mẹ ăn chứ nhỉ.
Hắn tỏ ra khó chịu:
- Ôi giời, vẽ chuyện. Chợ đầy thứ ra, mua gì mà chẳng được, sao cứ phải ngậu lên.
- Thế thì nói làm gì. Em tính mai đi sớm, lên chợ Thành Công mua mấy cân rươi, chắc mẹ thích lắm.
"Ừ nhỉ, con mẹ này nhiều khi cũng thông minh đáo để" - hắn nghĩ vui vui thế. Từ ngày hắn đi học đại học, ra trường rồi công tác cho đến bây giờ, hắn chẳng biết đến mùi vị những món ăn chế biến từ rươi. Chợ gần nhà hắn thì không có, muốn mua phải đi mất hơn chục cây số. Mùa rươi lại ngắn ngủi, chỉ trong vòng vài ngày. Mặt khác, hắn đã quen với lối suy nghĩ của thời kinh tế thị trường, chẳng ăn thứ này thì thứ khác, thiếu gì món ngon.
Mẹ hắn lên chơi với em hắn trên Bắc Giang từ đầu tháng, đến nay đã được ba tuần. Hôm kia, em hắn gọi điện bảo thứ bảy tuần này sẽ đưa mẹ xuống vì bà đã muốn về. Em hắn công tác xa nhà, cuối tuần mới về. Trong bụng hắn mừng vì không "mang tiếng" là lên đón mẹ nhưng hắn không tỏ thái độ gì.
*
Hắn có một tính rất khỉ là hay làm vẻ lạnh lùng đối với mọi người trong nhà. Hắn thích quan tâm đến mọi người theo kiểu của hắn, không muốn tỏ ra ủy mị, vồ vập, sốt sắng. Mẹ ốm, hắn bắt vợ đi chợ mua tim cật về nấu cháo cho bà, hoặc tìm những thứ gì mà hắn biết là mẹ thích. Sau mẹ hắn khoe với mọi người là hắn cũng biết quan tâm đến bà. Hắn mắng vợ: "Anh bảo em nấu cho mẹ ăn thì em cứ nấu, lôi anh vào làm gì". Có lần mẹ hắn ra chợ chơi, thấy lâu không về, hắn sốt ruột đi tìm. Người già, một mình ra phố, biết đâu được. Gặp mẹ đang trên đường về, hắn định tránh đi nhưng bà đã trông thấy hắn. Bà hồ hởi: "Thế con ra tìm mẹ à" Hắn thản nhiên: "Đâu có, con đi mua mấy thứ. Mẹ đi được thì về được, việc gì phải tìm" làm niềm vui của mẹ hắn tắt ngóm.
Đã thế, hắn lại ngang và hay trêu ngươi. Mẹ trách hắn đi đâu, về nhà chẳng hỏi han mẹ lấy một câu, hắn cáu: "Thì ngày xưa, con đi học về không chào ai thì mẹ chẳng nói gì. Giờ con lớn thế này, lại có cả bốn đứa để sai bảo mà mẹ ne nẹt như với đứa trẻ là sao. Lại còn bắt hỏi thăm sức khỏe nữa. Con trông thấy mẹ là biết khỏe hay yếu chứ. Rõ là nhiêu khê".
Bốn đứa mà hắn nói tới là vợ và con hắn, nhưng hắn thích gộp ráo cả vào một đám gọi là chúng nó. Vợ hắn mắng con, nó cãi lại, hắn quát: "Hai đứa im ngay, không cãi nhau nữa".
Hắn đi làm về, đứa lớn nhanh nhẹn: "Con chào bố". Hai đứa em thấy thế cũng đồng thanh: "Con chào bố". Hắn liếc vợ rồi quay sang lũ trẻ con: "Thế còn đứa nào chưa chào bố?" Vợ hắn nguýt: "Này, quên cái suất ấy đi nhá".
Có lần mẹ hắn tức bảo: "Tao chỉ cần trước đây tao nuôi chúng mày như thế nào thì bây giờ chúng mày nuôi tao thế vậy". Thế là hắn liền xổ ra một tràng:
- Được nhá, mẹ muốn thế không? Vậy ngày xưa trời nóng, con phải quạt bằng mo cau. Bây giờ hôm nào nóng, mẹ đừng dùng quạt điện nữa nhá, Con tắt luôn cả điều hòa đi rồi mua hẳn quạt nan cho mẹ quạt. Còn ăn thì con ăn thế nào mẹ ăn như thế, con không ăn giấu mẹ cái gì là được. Con đi nhậu ở đâu thì mang phần về cho mẹ, như ngày xưa di ăn cỗ, mẹ vẫn mang phần về cho con ấy. Mẹ nuôi con mười tám năm. Vậy con nuôi mẹ đủ mười tám năm mà mẹ vẫn còn sống thì con kệ mẹ nhé. Ngày xưa, con hư thì mẹ đánh, bây giờ mẹ trái ý con thì làm sao đây ...
Mẹ hắn đã chọc đúng vào cái mớ lý sự rất chầy cối của hắn. Hình như vẫn đang thích thú với cái trò lập luận quái đản này, hắn tiếp:
- Còn hôm nào vợ chồng chúng con đi chơi thì mẹ cũng rủ cụ Tảo đi cho công bằng, con không cấm.
Cụ Tảo là bố anh Huân hàng xóm. Cụ bà mất, cụ ông lên ở với con trai, na ná như hoàn cảnh mẹ hắn. Hắn thấy thế hay bông lơn gán cụ Tảo cho mẹ hắn. Có lần anh Huân sang nhà hắn gọi nhờ điện thoại. Khi anh về rồi, hắn bảo mẹ:
- Bác ấy giả vờ để sang xem mắt mẹ đấy. Mẹ không thấy bác ấy vừa gọi điện vừa nhìn mẹ à. Hôm qua con mới nói chuyện với bác ấy, thế mà nay đã sang ngay. Chứ nhà bác ấy còn lắp điện thoại trước cả nhà con cơ, việc gì phải nhờ.
Mẹ hắn bảo: "Tao không nói chuyện với thằng luyên thuyên như mày" rồi bà bỏ đi nằm.
Mẹ hắn hay kể với con dâu chuyện ngày xưa bà nuôi anh em hắn ăn học vất vả như thế nào. Hắn nghe thấy, ngứa mồm nói luôn:
- Thì bây giờ mẹ muốn đi học, con có cấm mẹ đâu.
Rồi hắn quay sang vợ:
- Mai mẹ mày mua vở cho bà đi học. Còn mấy đứa thay phiên nhau dẫn bà đến trường nghe chưa.
Đại khái cứ như thế, mẹ hắn tức không thèm nói chuyện với hắn nữa. Nói làm gì với thằng ngang như cua. Có điều gì ấm ức, bà lại thì thọt kể lể với con dâu. Trong bằng ấy đứa con, bà có vẻ hợp vợ hắn hơn cả. Được cái vợ hắn cũng chịu khó hầu chuyện mẹ chồng. Thỉnh thoảng, hắn lại hỏi vợ: "Mẹ có nói gì anh không?".
*
Vợ hắn nhắc đến chuyện mua rươi cho mẹ ăn là do nhớ lại buổi tối cũng bằng giờ năm ngoái. Hôm ấy cả nhà ăn cơm xong, mẹ hắn ngồi kể chuyện ngày xưa. Chuyện của bà hôm ấy lại gợi đúng vào kỷ niệm ấu thơ của hắn mà hắn thích. Hắn hào hứng cùng mẹ ôn lại những mùa rươi ở quê nhà.
"Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm" là câu tục ngữ nói về mùa rươi. Nói thế nhưng không cứ gì đôi mươi hay múng năm mà là vào thời điểm ấy, rươi lên rộ nhất.
Mỗi năm vào độ cuối thu, khi có gió đông về, rồi sau vài cơn mưa lác đác, cơ man nào rươi dưới ruộng chui lên. Những con rươi xanh, đỏ, vàng bơi loang loáng loằng ngoằng dưới nước. Ở những chỗ có dòng chảy lớn người ta đóng sắm để hứng rươi. Chị em hắn thì chỉ vớt rươi bằng vợt, được chăng hay chớ nhưng cũng không đến nỗi nào. Hắn thích nhất là ngồi vớt rươi ở cái rãnh cắt qua ngõ nhà hắn mà người ta xẻ ra để lấy nước vào ruộng. Rãnh chỉ rộng bằng nửa bước chân trẻ con, nên nước chảy rất xiết. Thường ngày, hắn hay tha thẩn ở đây, ngắt là mây chơi thả thuyền. Ở nhà không phải đi đâu mà vẫn kiếm được cái ăn, thú gì bằng. Hắn vớt rươi như một trò chơi, góp chung vào với cả nhà. Mỗi hôm như thế, thường là đủ bữa. Mà không đủ bữa thì đã có chợ. Chợ bán nhiều và cũng rẻ vì hồi ấy không có chuyện mang hàng từ vùng này qua vùng khác, rươi lại không để được lâu. Mẹ hắn mua hàng cân. Hắn hay được ăn các món chả rươi, rươi xào cải, rươi nướng. Mẹ hắn chế biến thức ăn đủ cho một bữa, còn bao nhiêu thì làm mắm ăn dần.
Rươi là đặc sản của tạo hóa ban cho con người, ai chỉ ăn một lần là nhớ mãi. Sau này, người ta dùng thuốc trừ sâu nhiều, rươi cũng ít dần, mùa rươi không náo nức nhộn nhịp như trước.
Tuy mẹ không yêu cầu nhưng hắn biết nếu hắn làm một bữa rươi cho mẹ bớt phần nào nỗi nhớ quê hương, hẳn bà vui lòng và cảm động lắm. Tuổi già, ăn được là bao. Cái quí là con cái nó quan tâm đến mình. Nhưng tính hắn lại ngang. Hắn không muốn làm điều gì để người khác cho rằng hắn vì mình. Hắn muốn làm những việc mà hắn phải tự nghĩ ra, không phụ thuộc vào ý muốn của ai đó. Rồi công việc hàng ngày bận rộn, hắn cũng quên luôn. Giá phải bỏ một buổi đi xin học cho con, tất nhiên là hắn nhớ, cũng giống như mẹ hắn chẳng bao giờ quên đi họp phụ huynh cho hắn.
Mẹ hắn nuôi hắn qua bao nhiêu mùa rươi. Thế nhưng ở với với hắn bằng ấy năm, hôm nay hắn mới nghĩ đến chuyện làm cho mẹ món ăn nhà quê mà người dân vùng biển đi đâu cũng nhớ ấy. Vậy mà vợ chồng hắn cũng phải bàn bạc, lên kế hoạch cứ như là chuẩn bị cho một sự kiện gì hệ trọng lắm.
*
Mẹ hắn đi mấy tuần, hắn cũng thấy nhớ. Mỗi lần về nhà, hắn có cảm giác cửa nhà khang khác, thiêu thiếu cái gì. Mấy lần hắn định gọi điện nhắn mẹ về nhưng lại thôi. Hắn không muốn cho mẹ biết mình nghĩ gì về bà.
Lần này nghe vợ bàn thế, hắn cảm thấy vui lòng. Mặc dù với mẹ, hắn cố tỏ ra không mấy quan tâm nhưng hắn vẫn để ý cách cư xử của vợ đối với mẹ. Vợ hắn vẫn biết, trái ý chồng là chết ngay với hắn. Nhưng hắn có mắng vợ, không bao giờ để cho mẹ hắn thấy. Hấn không thích cho mẹ biết là hắn bênh bà.
Hắn cứ thế và tự biết trong con người mình có rất nhiều mâu thuẫn. Nhưng cuối cùng thì hắn vẫn mặc, cứ để ai hiểu hắn như thế nào thì hiểu.
Vợ hắn bảo:
- Em mua thì cứ mua nhưng em không biết làm đâu đấy.
Hắn giễu:
- Cái dân đồng mầu nhà em có được ăn bao giờ đâu mà biết làm.
Sợ vợ tự ái, hắn lại ân cần:
- Em cứ mua về, món gì anh làm được thì anh làm, món gì không biết thì hỏi mẹ. Mua lấy vài cân vào. Thừa thì nhờ mẹ muối, ăn dần.
Lòng hắn vui vui khi nghĩ đến ngày mai em hắn đưa mẹ hắn về. Ba tuần đi chơi xa, hẳn là mẹ con bà cháu có nhiều chuyện để nói lắm. Hắn sẽ mua một can bia hơi Hà Nội là đồ uống mà anh em nhà hắn thích, gọi thêm mấy đứa em nữa đến cùng vui.
*
Nhưng thật đáng đời cho hắn. Cái dự định xuất phát từ lòng tử tế hiếm hoi ấy của hắn đối với mẹ, hắn chẳng bao giờ thực hiện được.
Khoảng ba giờ chiều, chuông điên thoại nhà hắn đổ. Đầu dây bên kia tiếng em dâu hắn hốt hoảng:
- Anh lên ngay. Mẹ bị ...
Hắn sốt ruột:
- Bị sao? Thím nói nhanh lên xem nào.
Em dâu hắn lắp bắp:
- Mẹ bị ... ốm ... nặng ..
Bỗng có tiếng đàn ông xen vào:
- Cô đưa đây. Lúc này mà còn định giấu là sao.
Rôi người đó giật lấy ống nói:
- Bà mất, vừa xong.
Hắn gào lên:
- Mất rồi mới báo. Sao không báo từ lúc bà ốm.
- Bà bị đột quỵ, ai mà biết trước ...
Hắn rụng rời buông máy ngồi phịch xuống nền nhà. Sao tử thần lại bắt mẹ hắn đi đúng vào sát ngày mà mẹ hắn sẽ trở về với hắn. Vậy là mẹ hắn chết vì chính cái bệnh mà bà đã báo trước cho hắn. Hôm đó cách đây chừng hai tháng, tự nhiên mẹ hắn vét hết tiền trong túi đưa cho hắn:
- Mẹ bị bệnh huyết áp cao, người ta bảo bệnh này, người già có thể chết bất cứ lúc nào. Mẹ còn dành dụm được chút tiền, các con giữ lấy, nếu mẹ có mệnh hệ gì thì thêm vào đỡ phần nào cho các con việc tang ...
Hắn át đi:
- Mẹ chỉ vớ vẩn. Tự nhiên nói đến chuyện chết với chóc. Còn lâu mẹ mới chết.
Rồi hấn bịa ra để trấn an mẹ:
- Con đi xem rồi, thầy bảo mẹ thọ đến ngoài chín mươi cơ.
Khi ấy, hắn có hiểu gì về bênh huyết áp đâu. Hắn nghĩ mẹ hắn huyết áp cao cũng như hắn huyết áp thấp. Chắc bà có nhiều điều không bằng lòng với hắn nên làm ra thế để dọa hắn mà thôi. Mẹ hắn tuy hơn tám mươi nhưng vẫn khỏe. Bà vẫn khâu vá được, tự xỏ được kim, nói năng minh mẫn, đi lại còn nhanh nhẹn. Ngoài việc nuôi mẹ ngày mấy bữa ăn, chẳng một đứa con nào phải hầu hạ mẹ. Hắn thấy thế nên chưa bao giờ nghĩ tới chuyến đi vĩnh viễn của bà.
*
Vợ chồng hắn tức tốc thuê xe lên Bắc Giang đưa mẹ về. Em hắn cũng chỉ về trước hắn mấy chục phút. Y hoàn toàn không biết tin mẹ mất vì không ai liên lạc được. Y về là để ngày mai đưa mẹ xuống nhà hắn. Chỉ đến khi về nhà, em hắn mới biết mẹ không còn nữa.
Ba ngày lo đám tang cho mẹ, hắn không nhỏ giọt nước mắt nào. Hắn không có thời gian để khóc. Hắn biết vai trò và phận sự của hắn trong việc tang lễ cho mẹ.
Đến ngày thứ tư, khách đã về hết, hắn vào phòng chốt cửa nằm vật ra.
Vậy là hắn mồ côi mẹ thật rồi. Hắn nghĩ thế mặc dù vẫn biết chữ mồ côi người ta chỉ dùng cho những đứa trẻ mất cha hay mẹ khi chưa đến tuổi trưởng thành. Hắn chưa quen không có mẹ. Lúc bé, hắn dựa dẫm vào mẹ đã đành, lớn lên có vợ con rồi, hắn vẫn cần mẹ để thỏa mãn cái tính ngỗ ngược, ngang ngạnh của hắn. Hắn biết, hắn chỉ có thể làm được những điều ấy với mẹ chứ không thể là ai khác. Người mẹ, có thể có chuyện này chuyện khác với con dâu hay với cả con gái, nhưng hiếm người mẹ nào lại ghét bỏ con trai, dù chúng hư hỗn đến mấy.
Bằng ấy năm có mẹ, nhưng bây giờ hắn mới biết hắn cần mẹ đến chừng nào. Hắn chỉ biết đến điều đó khi không còn mẹ. Giá mà mà mẹ hắn sống thêm được ít nữa, hắn sẽ ..., hắn sẽ ... Nhưng hắn chỉ "sẽ" thôi chứ không bao giờ hắn làm được. Có một cái "sẽ" chắc chắn hơn cả là hắn sẽ vẫn như thế. Vì làm sao hắn biết được mẹ hắn chết vào lúc nào. Và chỉ khi mẹ chết, hắn mới nghĩ đến chữ "giá mà"
Bao nhiêu những lạnh lùng, những kìm nén, giấu giếm tình cảm của hắn đối với mẹ lúc này hóa hết thành nước mắt. Hắn để mặc nó chảy thành dòng xuống gối. Hắn nấc lên và rên ư ử như trẻ con bị đòn đau, giờ mới ngấm. Hắn nhớ lại có lần mẹ hắn nói với hắn: "Chỉ đến lúc nào tôi chết, các anh mới biết thương tôi".
Hắn cắn môi, cay đắng. Hắn chợt nghĩ hình như ông trời bắt mẹ mẹ hắn đi và chọn đúng vào ngày ấy là để trừng phạt hắn, để mở mắt ra cho hắn mặc dù có muộn, để hắn tử tế hơn với những người còn sống.
Mãi trưa, hắn mới dậy. Hắn rửa mặt cẩn thận rồi ra khỏi phòng. Xuống dưới nhà, hắn trông thấy mấy đứa trẻ con, liền quát:
- Chúng mày không ăn cơm đi còn chờ bố làm gì. Bố mệt nghỉ một tí rồi ăn sau thì đã sao.
Chợt nhớ ra là mình đang đứng trước mặt vợ con, hắn liếc nhanh vào cái gương tủ. May mà mắt hắn không còn hoe đỏ, trông không giống như người vừa khóc.


Nguyễn Tường Thụy
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Aug/2019 lúc 11:50am
Người chạy xe ôm bến Ninh Kiều



Image%20result%20for%20Người%20chạy%20xe%20ôm%20bến%20Ninh%20Kiều


Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn trễ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với bà xã và mấy đứa cháu ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm. Bà xã thì trưa nay đã theo mấy đứa cháu gái đi “làm đẹp”: làm tóc gội đầu, móng tay và cả m***age. Nghe nói những loại dịch vụ này gần đây rất phổ biến và giá cả rất “mềm”, các bà tha hồ mà chăm sóc mặt mày, tóc da. Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cả chương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước. Bến nước Ninh Kiều còn có một đội ngũ đò máy cho khách du lịch thăm viếng chợ nổi Cái Răng, những khu sinh thái nhà vườn và các cù lao, cồn vùng lân cận… Trong tiếng động của nhịp sống chung quanh tôi thấy thật gần gũi, quen thuộc nhưng cũng có chút gì đó ngập ngừng, bỡ ngỡ. Trên đường ồn ào xe máy, dưới sông rộn ràng ghe đò tạo khu công viên bến Ninh Kiều mang hình ảnh đặc trưng của một thành phố đô thị miền Tây.

Loáng thoáng đã gần bốn mươi năm, tôi trở lại nơi này. Trưa ngày mùng bốn Tết năm 1978 là lần đầu tiên tôi ghé Tây đô. Mùi hương khói tỏa, màu vàng của những chậu cúc và mai vàng vẫn còn cùng khắp những con đường. Bến đò Ninh Kiều thưa thớt, trống vắng vào mấy ngày mùng. Không khí Tết tuy trầm mặc nhưng vẫn phảng phất đâu đó cuộc sống đời thường đang trỗi dậy chung quanh. Tìm đến bến đò đi về thị xã Vị Thanh, mà tôi chưa hề biết. Địa chỉ đến của tôi chỉ là một lời dặn dò. Đúng hơn là một lời hứa tưởng chừng như vu vơ, vậy mà tôi vẫn giữ. “Làm sao để gặp lại Nguyệt?”. “Anh cứ đến bến đò Vị Thanh, Chương Thiện hỏi bất cứ ai: nhà của cô N.H. Nguyệt. Là sẽ gặp lại em thôi”. “Anh hứa sẽ đến!”. Chỉ có vậy, vỏn vẹn có vậy cho chuyến đi năm đó của tôi.

Người con gái có đôi mắt to tròn biết nói, tên N.H. Nguyệt, tôi làm quen trên chuyến xe qua phà Mỹ Thuận. Rồi vài năm sau mới chợt nhớ và tôi đã trên chuyến đò vượt “Mười Bốn Ngàn” kinh xáng Xà-No để tới. Một đời người có bao nuối tiếc, để một lần tôi đánh vỡ chiếc bình thủy tinh thời gian không hàn gắn lại được. Để rồi đêm nằm quạnh quẽ trong nhà nghỉ bên dòng kinh xáng, tôi cuộn tròn lòng mình sâu thẵm trong đáy mắt ai một lần gặp mặt. Căn nhà có tên người con gái tôi quen đã trở thành cửa hàng thương nghiệp. Người chung quanh cho biết cả gia đình của N.H. Nguyệt đã ra đi hơn nửa năm qua. Gió đêm thổi từ dòng kinh xáng thì thầm lời cảm ơn em, cám ơn đầm sen hồ thủy tạ nằm giữa thị xã Vị Thanh cho tôi một đời thương tưởng không nguôi.

- “Ông anh đi xe ôm hông?… Tui lấy giá thiệt hữu nghị…”

Tiếng mời hỏi quanh đây, kéo tôi trở về thực tại. Tôi quay lại, người đàn ông khắc khổ đội chiếc nón vải, cười nhe cả hàng răng cái mất cái còn. Tôi chưa kịp lắc đầu từ chối, người đàn ông nói vội:

- “Cả ngày ế ẩm… ông anh đi một cuốc giúp tui nghen”.

Thật là khó đoán tuổi của người chạy xe ôm. Không trẻ hơn và cũng không quá già hơn tuổi tôi, dù trên khuôn mặt anh in hằn nhiều vết nắng gió bụi đường. Mấy món đồ lưu niệm để chập tối hoặc mai mua cũng còn kịp. Nhưng nhớ lời “căn dặn” nhiều lần của bà xã, “đi đâu phải bằng taxi, nhất định không được đi xe ôm. Rất nguy hiểm”. Nếu biết tôi liều mạng, không “nghe lời” chắc chắn là bà ấy sẽ giam lỏng tôi suốt chuyến đi còn lại. Nhìn ánh mắt, khuôn mặt người đàn ông chạy xe ôm, lòng tôi lại thương cảm. Thôi đành dối vợ lần này, nhưng bây giờ thì tôi chưa biết phải đi đâu? Tôi ngập ngừng, nói thật:

- “Muốn đi giúp anh… Nhưng thiệt tình tui hổng biết đi đâu?”

- “À… nhìn là biết ông anh là khách du lịch. Để tui chở ông anh đi vòng quanh Cần Thơ cho biết. Tui lấy rẻ 110 thôi”.

Mắc hay rẻ tôi nào biết, chỉ gật đầu cười. Thoáng ánh vui mừng trong mắt, anh đưa tôi chiếc mũ bảo hiểm. Cũng như anh, chiếc xe không mới cũng không cũ. Người và xe cứ như hai đôi bạn dạn dày mưa nắng của thời gian.

- “Tui chở ông anh đi đại lộ Hòa Bình, qua tòa nhà ủy ban nhân dân tỉnh, công viên Lưu Hữu Phước. Lòng vòng đường Lý Tự Trọng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Đình Chiểu… rồi mình qua khu dân cư Hưng Phú, nam đô thị mới của thành phố Cần Thơ… cho biết”.

- “Dạ… Anh cứ chạy tới chỗ nào đẹp, nổi tiếng của Cần Thơ là được… Anh chạy xe ôm lâu chưa dzậy? Vợ con, gia đình anh ở đâu?”. Tôi bắt chuyện, khi chiếc xe ôm rời khỏi bến Ninh Kiều.

- “Chạy xe ôm cũng tầm 10 năm rồi ông anh. Nhà cửa tui ở bên kia Xóm Chài. Hai vợ chồng tui có ba đứa, hai gái một trai. Tụi nó lớn hết rồi…”

Rồi anh chuyển qua giới thiệu cảnh quang hai bên đường. Thành phố Cần Thơ như khoát lên người chiếc áo mới, vừa lộng lẫy lại vừa vừa lem nhem đến lạ lùng. Những con đường chen chúc con người, xe cộ ngột ngạt mà hầu hết là thế hệ trẻ, dưới tuổi bốn mươi. Chạy lòng vòng một lúc, khi qua khỏi công viên Lưu Hữu Phước, hướng về ty bưu điện thì trời đang nắng bỗng lất phất mưa. Anh hỏi tôi có cần áo mưa không, sẽ dừng lại. Tôi nói không cần, nhưng cảm thấy chừng như anh run nhè nhẹ và sôi bụng. Anh đang đói hoặc ăn quá ít bữa trưa? Nói anh ghé vào quán ăn nào đó dọc đường, tôi làm như mình cũng đói và tìm chút gì lót dạ. Anh liền cho xe vào con đường nhỏ (hình như là Ngô Văn Sở) có nhiều hàng quán dọc bên đường. Tôi mời anh vào ăn chung cho vui, có bạn.

Một dĩa cơm thịt nướng bì trứng và chén canh cải ngọt cho anh, tô bún nước lèo cho tôi. Lúc này thì không còn e ngại nữa, anh ăn thật ngon lành. Tôi nhìn anh rõ hơn, ốm cao và ngoài hàm răng chiếc còn chiếc mất, khuôn mặt anh rắn rỏi đường nét. Tóc nhiều cứng dợn cao, đôi mắt sâu dù có mờ sương gió vẫn còn đó nét sáng rạng chập chùng. Tôi nghĩ, lúc còn trẻ chắc chắn anh rất sáng sủa, đẹp trai.

- “Rồi vợ con anh làm gì? Mấy cháu có gia đình con cái gì chưa anh?”

- “Vợ tui trước làm phụ nấu cho nhà hàng, lương cũng khá lắm. Có lần qua phà vấp té, bể xương hông chậu, nay bả đi đường khó khăn nên nghỉ làm”!

Bên ngoài trời đổ cơn mưa lớn… Anh xuất thân con nhà nghèo ở Xóm Chài, năm lớp 10 phải nghỉ học đi làm phụ giúp gia đình. Gặp chị, vừa đẹp vừa là con gái nhà buôn bán khá giả ở Phụng Hiệp. Hai người yêu nhau thắm thiết. Ba má chị ngăn cấm vì thấy anh nghèo, không tương lai. Nhưng chị quyết tâm một lòng yêu thương anh, về làm dâu Xóm Chài mặc cho gia đình quay lưng từ bỏ… Giọng anh kể ngập ngừng, khó nhọc.

- “Tui làm mọi nghề, đụng đâu làm đó. Đến nay vẫn chưa lo cho bả được một lần ăn ngon mặc đẹp. Nói thiệt với ông anh, nhiều khi tui hổng dám về nhà nhìn mặt vợ con”.

Tôi thấy đôi mắt anh đượm buồn, sũng nước. Ly trà đá trong tay anh cũng run nhẹ. “Thấy tui làm quần quật, bả đòi đi làm nhưng cả nhà đều cản. Sợ có chuyện lần nữa, tiền đâu lo thuốc thang… Tháng trước bả nhận đan giỏ bện lục-bình tại nhà. Hổng bao nhiêu tiền nhưng cũng đở tù túng tay chân…”, mắt anh Nhân (tên anh) dù buồn nhưng tràn ngập yêu thương mỗi lần nhắc đến vợ. Không hiểu sao, tôi muốn được nắm tay và ôm anh với lòng ngưỡng mộ. Có lẽ đã lâu lắm rồi tôi mới nhìn thấy được ánh mắt, được tấm chân tình của tình yêu. Tình yêu thật đẹp và quý giá có thật, đang hiệu hữu trước mặt tôi, của người chạy xe ôm ở bến Ninh Kiều.

- “Thằng con trai lớn làm thợ hồ chánh công trường, lương hướng rất khá. Mấy năm trước bị đá đè, gãy một chân mặt. May mà người ta thương, vẫn còn cho nó làm bảo vệ. Lương ít ỏi nhưng vẫn hơn thất nghiệp nằm nhà”.

Sợ anh chạnh lòng nhiều hơn, tôi hỏi lãng sang chuyện khác: “mỗi ngày chạy xe ôm anh kiếm được bao nhiêu?”.

- “Thời taxi đầy đường, trừ xăng dầu tiền bến kiếm được sáu, bảy chục là mừng. Nhằm bữa ế ẩm, chạy xe không còn lỗ cả tiền xăng…”, anh cho biết. Lúc trước anh còn ráng chạy thêm ban đêm, nhưng mấy tháng trở lại đây hổng dám nữa vì nạn cướp bóc hoành hành. Nhiều bạn chạy xe ôm ban đêm, mất tiền mất xe và đôi khi mất cả luôn mạng. Rồi anh tâm sự tiếp về hoàn cảnh gia đình mình:

- “Đứa con gái kế làm công nhân ở Bình Dương, đủ ăn đủ mặc. Lâu lâu cũng gửi dzề vợ chồng tụi chút đỉnh. Còn con út tui thì lấy chồng xa… Được cái, mấy đứa nó thương vợ chồng tui lắm…”

Bên ngoài trời cũng bớt mưa, tôi hỏi anh thức ăn ở đây có ngon không? Anh cười, “cơm chỗ này là nhứt rồi”! Tôi gọi thêm 3 phần cơm để anh mang về. Anh ngại ngùng từ chối, rồi cũng nhận với lời lúng túng cám ơn.

- “Chắc ông anh là Việt kiều phải hông?”

- “Hông… tui là dân buôn bán trà ở Đà Lạt”, tôi đành phải nói dối anh cho qua chuyện. Điện thoại di động của tôi rung liên hồi trong túi. Chắc bà xã đang gọi, gần năm giờ rồi. Tôi nói anh Nhân chở tôi trở lại bến Ninh Kiều. Trên đường về anh trầm ngâm và ít nói hơn. Sau cơn mưa không khí những đường phố Cần Thơ trở nên dễ chịu và thơm mùi đất mới. Có lẽ cũng như tôi, anh đang cố sắp xếp lại câu chuyện anh và tôi gặp gỡ, để về kể lại cho vợ con nghe. Rồi chừng như tôi cũng ngồi im lặng phía sau không biết nói gì thêm. Chiếc xe ôm chạy rong ruổi trên những mặt đường, còn tôi và anh đang bên nhau chạy mênh mông trên những mặt đời nghiệt ngã.

Tôi nhắc anh để tôi xuống hơi xa khách sạn, phòng khi bà xã bất ngờ bắt gặp. “Ông anh cho bao nhiêu cũng được… Hổng cần trả cũng hổng sao…”, anh nói lí nhí khi tôi đưa lại chiếc mũ bảo hiểm. Tôi nhìn anh cười nhẹ, rồi móc túi quần gom hết món tiền bà xã đưa tôi dằn túi nhét trọn vào tay anh, “anh Nhân nhớ lấy tiền mua cho chị nhà vài bộ đồ mới cho đẹp nghen”! Anh nhìn tôi ngẩn người. Không để anh khó xữ, tôi định quay đi, thì nghe anh nói nhanh:

- “Dạ, cảm ơn ông anh thiệt nhiều. Nhưng chắc hổng dám lấy tiền mua quần áo đẹp cho bả được đâu..!”. Giọng anh nghèn nghẹn, xót xa: “Đứa con gái út, tui nói nó lấy chồng xa… Thiệt ra nó đi lấy chồng Đài Loan, rồi chết vì tai nạn giao thông bên đó. Vợ chồng tui phải chắt mót dành dụm, để trả nợ số tiền mang hài cốt nó về nhà mấy tháng trước…”

Tôi khựng người, chợt nghe trái tim mình như đang bị ai bóp nghẹn. Không dám quay lại nhìn anh, tôi cố bước chân đi thẳng và thấy lòa nhòa công viên màu nắng tắt. Số phận đời người sao cứ như cơn gió thoảng vô tình…

Rồi anh sẽ qua chiếc phà về bên kia Xóm Chài, với cuộc đời mỏi mòn còn lại. Rồi tôi sẽ trở về bên kia xứ lạ, một đời đầy vơi kiếp sống tha hương. Anh có thể quên tôi, một người khách trên chuyến xe ôm giữa muôn vàn dòng người tất bật. Nhưng chắc chắn tôi sẽ không thể quên anh, chuyến xe chở cả một trái tim sâu thẳm, một cuộc đời có thật của người đàn ông chạy xe ôm ở bến Ninh Kiều. Buổi chiều như một nốt nhạc trầm buồn, chảy vàng vọt trên dòng sông quê hương tôi muôn thuở…


Durham, North Carolina.
Nguyễn Vĩnh Long
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Aug/2019 lúc 10:55am

Mẹ và tôi


Mẹ tôi không muốn di cư sang Mỹ ở tuổi sáu mươi. “Già rồi, sang bên ấy chỉ ăn bám vợ chồng chúng mày!”. Bà nói khăng khăng như thế nhưng con gái xuống nước năn nỉ ỉ ôi, bà lại xiêu lòng. Ờ, nó nói cũng phải, mình qua bên ấy giữ cháu ngoại cũng vui, lại đỡ nhớ, khỏi phải chờ mong. Mình ở đây nó phải gửi tiền về cấp dưỡng, tốn kém lắm chớ chẳng không!” Dì tôi cười, nói như lẩy: “Nợ đòi rồi đấy, cứ sang mà trả cho xong!”
Nghe mẹ kể lại lời dì, tôi cảm thấy hơi áy náy. Quả thật tôi cần mẹ không chỉ thuần túy vì tình cảm. Tôi cầu cứu bà sang để chăn bầy cháu bốn đứa. Dạo này buôn bán ế ẩm, tôi không kham nỗi tiền giữ trẻ, cũng không thể tiếp tế đều đặn cho mẹ nên rước bà qua là nhứt cử lưỡng tiện…

Căn nhà ba phòng của vợ chồng tôi, bề ngoài trông cũng khang trang với cây cảnh chung quanh và cửa garage tự động nhưng thật ra chỉ rộng 1100 sf. Trừ phòng ngủ chánh tương đối rộng rãi, hai phòng còn lại vuông vức, nhỏ xíu xiu. Đất ở San Francisco là đất vàng. Căn nhà cũ kỷ năm mươi tuổi này trị giá chừng sáu chục ngàn nhưng lô đất 4000 sf của nó giá hơn bốn trăm, dù là nằm ở vùng ngoại ô xa tít. Thành ra cứ rán giữ, rán nắm dù mệt muốn hụt hơi. Cửa tiệm fast food bán cho nhân viên các hãng xưởng gần đây cũng theo đà lay-off mà đi xuống. Đến đầu tháng là chúng tôi điên đầu với đủ thứ tiền phải thanh toán. Tư trang sắm từ những năm phồn thịnh buôn may bán đắt lặng lẽ nuối đuôi nhau đi hết, vào nằm im nơi các tiệm cầm đồ. Chúng tôi không hề nghĩ đến giải pháp bán nhà vì đó là gia tài duy nhất, cũng là mối kinh doanh không sợ lỗ vốn; vả lại bây giờ đi mướn một apartment tồi tàn đủ chỗ chứa sáu người, giá thuê hàng tháng còn mắc hơn số tiền trả góp nhà. Trong tình thế kiệt quệ này, nếu có mẹ tôi lo cho tụi nhỏ, đưa đón đi học, quán xuyến việc nhà, tôi sẽ rảnh rang hơn để đi làm thêm lặt vặt buổi sáng, trưa về phụ tiệm ăn với chồng tôi. Buổi tối chúng tôi sẽ đi clean các tiệm ăn, chợ búa. Chịu khó một thời gian hi vọng kinh tế sẽ phục hồi trở lại. Mọi người đã hăm hở đón chào thiên niên kỷ mới, ai ngờ nó bắt đầu bằng sự xuống dốc!
Mẹ sang Mỹ vào mùa Thu. Trời khá lạnh đối với mẹ vì chưa quen nhưng màu xanh của biển trời đã thu hút mẹ. Lũ cháu xúm xít lấy bà vì ngày thường không ai gần gũi chúng cả. Chúng xổ tiếng Anh líu lo, thậm chí cô bé út mới bốn tuổi cũng không rành tiếng Việt. Bà cười dễ dãi: “Sẽ có cuộc trao đổi nhé! Bà dạy các cháu nói tiếng Việt, các cháu dạy cho bà nói tiếng Anh.” Thấy mẹ vui, tôi an lòng. Thế là bên cạnh cái giường hai tầng của hai cô bé gái là tấm nệm của bà ngoại. Ban đêm, ba bà cháu nói chuyện rì rầm; có khi hai cậu trai cũng gõ cửa xin vào để được hưởng không khí đầm ầm bên bà ngoại rất hiền và rất vui.
Mẹ như bà tiên có chiếc đũa thần đã biến căn nhà bừa bãi đầy phiền muộn của chúng tôi thành một tổ ấm ngăn nấp, sạch sẽ và đầy tiếng cười. Trước kia, chúng tôi chỉ dùng những thức ăn ế ẩm từ cửa hàng, lắm khi nuốt chẳng trôi. Mẹ bảo cứ bỏ thịt bỏ rau vào tủ lạnh cho bà. Thế là mỗi chiều về gia đình tôi được quây quần chung quanh bàn ăn có cơm canh nóng hổi, hương vị ngọt ngào. Chỉ sau và tháng, các con tôi khỏe mạnh ra, lễ phép ra và biết phụ giúp công việc lặt vặt trong nhà. Hai cậu con trai lớn, bà phân công lo vườn tược cây kiểng: “Thằng Hùng mười hai tuổi, lớn rồi, lo chăm sóc các cây lớn, tỉa lá, bón phận, Hậu cũng mười tuổi rồi, thay vì ôm máy chơi game, có thể phụ anh quét sân, tưới nước.” Bà hiền lành nhưng nói gì các cháu cũng nghe. Chúng không còn là những đứa bé “vô tích sự” như thuở trước. Thật ra chúng không đến nỗi tệ nhưng vợ chồng tôi quần quật với công ăn việc làm, không có thì giờ dạy dỗ, chỉ vẽ. Bảo làm chuyện gì, chúng thực hiện qua loa lấy có, rầy mãi phát mệt thành ra không thèm sai biểu nữa, tự mình làm chóng xong mà vừa ý hơn. Con Hoa hãnh diện khoe với mẹ: “Bà dạy con nấu cơm. Con biết lặt rau, rửa chén, lại biết tráng trứng nữa cơ!” Tôi hôn con, thầm cám ơn mẹ đã cho gia đình tôi cơ hội để sống có hạnh phúc thay vì cứ mãi rầy rà, cãi vả, gây ó nhau trong một căn nhà bề bộn, dơ bẩn.
Mẹ vốn là một Phật tử thuần thành. Thỉnh thoảng bà giảng dạy cho tôi về đạo lý: “Hạnh phúc không phải là món quà từ đâu đến, không phải tự nhiên mà có, cũng chẳng thể do phúc đức mà được. Mình phải biết cách sống, biết cách hợp tác xây dựng thì mới có hạnh phúc.” Thuở ấy, đầu óc tôi quá dầy đặc với những con số để có thể hiểu lời mẹ khuyên, vả lại cũng không có thì giờ… Thôi thì để mẹ lo giùm. Mỗi chiều về nhìn các con ngoan, được ăn bữa cơm tối ngon, đối với tôi đã là đủ rồi. Tôi bận rộn với nợ nần đến nỗi không mấy khi chú ý đến tâm tình của mẹ. Bây giờ kiểm điểm lại mới nhớ rằng tôi ít hỏi thăm về sự buồn vui của bà. Thay đổi môi trường sống, bà bỏ lại sau lưng biết bao nhiêu thứ: chị em, họ hàng, lối xóm, sư ông, bằng hữu… Đôi khi, mắt mẹ thoáng buồn. Tôi chỉ hỏi qua loa: “Mẹ có mệt không?” Chao ôi, rõ tệ, miệng hỏi mà lòng vái thầm: “Mẹ đừng ngã bệnh, khổ con!” Là con một nên cách suy nghĩ của tôi thường ích kỷ như thế. Cái gì cũng qui về mình, cho mình thôi!
Thắm thoát, mẹ ở với chúng tôi đã được một năm rồi. Gia đình thì ổn thỏa nhưng tình trạng tài chánh càng ngày càng bết bát mặc dù vợ chồng tôi bỏ sức lao động gấp đôi. Giao kèo mướn cửa tiệm sắp hết hạn mà chẳng tìm được người sang lại. Không ký thêm thì mất tiệm, mất luôn năm mươi ngàn bỏ ra sang tiệm trước kia, nhưng tiếp tục thì ngày càng thua lỗ, chẳng kham được nữa. Chuyện gì đến, phải đến. Tháng sau đó, vợ chồng tôi lủi thủi dọn đồ về trả lại cửa hàng cho người ta sau mười năm làm chủ. Bây giờ hóa ra là kẻ làm công, lại làm những nghề linh tinh quét dọn. Tủi thân mà tức số phận mình. Mẹ an ủi: “Thôi, như thế đỡ lo con ạ. Tinh thần căng thẳng quá có khi phát dại, hóa cuồng! Trong cái dở có cái hay là thế!” Chúng tôi lợi dụng thời gian tương đối rảnh rang này để sửa chữa căn nhà hư dột. Anh Thắng chịu khó và khéo tay nên cái gì cũng tự làm được, đỡ tốn tiền mướn thợ. Một hôm anh leo lên mái nhà để lợp lại mấy miếng ngói bể. Sơ ý thế nào chẳng rõ, anh trợt chân té xuống bất tỉnh. Chỉ có mình mẹ ở nhà! Bà bình tĩnh gọi 911, vắn tắt vài câu tiếng Anh: “He falls down from the roof. He stops breathing!” Và rành rọt đọc địa chỉ, số phone nhà cho họ. Ai ngờ bà âm thầm học chữ Anh mau đến thế! Bà đã cứu mạng chồng tôi! Thắng bị gãy chân và dập ống quyển. Phải nằm tại chỗ từ năm đến sáu tháng. Tình cảnh này đưa mẹ tôi vào môi trường mới. Bà tự nguyện thế chỗ cho chồng tôi để quét dọn, lau chùi các cửa tiệm hầu phụ giúp tôi về tài chánh. Mẹ hăng hái trong công việc. Tôi đoán rằng ở nhà mãi mẹ cũng buồn, nay được ra ngoài bà cảm thấy vui hơn. Bà có những người bạn mới: cô thâu ngân vui tính, bà lão phụ trách hàng rau cải, chú “Thoòng” chuyên khuân vác. Mẹ hòa mình với họ, với cuộc sống của những người lao động tay chân. Đâu ai biết rằng trước 1975, mẹ là giáo sự dạy Pháp văn tại một trường công lập lớn ở Sài Gòn. Các con tôi biết hoàn cảnh bi đát của gia đình nên mỗi đứa một tay, cùng nhau lo chuyện nhà. Mẹ tôi hài lòng thấy các cháu tự ý thức được trách nhiệm, biết thương mẹ thương cha.
Ngày anh Thắng trở lại công việc, tôi xin mẹ ở nhà nghỉ ngơi. Mẹ nói: “Con ơi, ra ngoài cũng vui, lại kiếm được đồng tiền. Từ ngày đi Mỹ đến nay đã gần hai năm, mẹ chưa gửi tiền về giúp các em, các cháu bên ấy. Tụi nó nghèo lắm mà chẳng có cách kiếm ra tiền cho kịp đà leo thang của vật giá. Bên này kiếm tiền dễ hơn. Có tiền, mẹ lại có phương tiện cúng dường, bố thí…” Tôi im lặng nghẹn ngào, chợt nhớ rằng mẹ chưa hề hỏi tôi một đồng xu nào và tôi quên bẵng rằng mẹ cũng có nhu cầu tiêu xài. Trên thế gian này, không có nhân viên nào làm việc cật lực mà không đòi hỏi thù lao như thế! Vô tình, tôi đã “đòi nợ” mẹ tôi một cách tận tình. Dì tôi cũng có lý khi bà mỉa mai tôi.
Trong lúc tôi đăm chiêu, mẹ nhẹ nhàng tiếp: “Mẹ đã xin được chân rửa chén trong nhà hàng. Rửa bằng máy chả cực nhọc gì!” “Trời đất ơi, rửa chén, cần sức lực của người đàn ông Mễ mới kham nỗi. Nồi niêu soon chảo to như cột đình, nặng như búa tạ, làm sao mẹ nhấc cho nổi!” Tôi xuống giọng tiếp: “Mẹ nhìn lại mẹ xem. Tay mẹ gầy yếu, lưng mẹ đã cong, bước đi không còn nhanh nhẹn. Dù họ cần người, mướn tạm, vài hôm cũng cho nghỉ việc thôi!” Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ mẹ. Bà già thật rồi, cái già đến nhanh quá. So với hồi mới qua, bà như tăng thêm năm, bảy tuổi. Mẹ tôi cúi đầu xuống thấp. Hình như bà cố giấu giọt lệ vừa ứa ra. Tôi nhẹ nâng cầm mẹ lên và nhìn sâu vào đôi cửa sổ tâm hồn ấy. Trời ơi, mắt mẹ đã kéo mây! Đôi mắt bồ câu đen láy ngày nào từng làm điên đảo các chàng trai cùng trang lứa, cột chân ba tôi vào tổ ấm gia đình, giờ đã một phần ngả màu đục lờ như nước gạo vo. Tóc mẹ trắng bơ phờ, đuôi mắt nhăn như rẻ quạt, vầng trán sạm đen vết đồi mồi… Tôi mủi lòng xót xa. Hai mẹ con ôm nhau, nước mắt người này thấm ướt vai áo người kia. Tôi nhỏ nhẹ: “Con không dám trái ý mẹ, nhưng mẹ rán chờ. Con hứa sẽ tìm công việc nhẹ nhàng hợp với mẹ hơn, mẹ nhé! Vong hồn ba mà biết mẹ cực khổ thế này chắc khó siêu.” Trời cũng thương tình. Đâu chừng một tháng sau thì bà lão làm rau cải xin nghỉ việc về hưu. Mẹ tôi trở thành “bà cụ hàng rau”. Danh xưng và chức vụ gắn liền với mẹ tôi từ đấy. Vậy mà bà vui. Mỗi tháng bà lãnh được hơn ngàn bạc. Phân nửa số tiền, bà gửi về Việt Nam: phần cúng dường, phần bố thí, phần giúp đỡ các em, các cháu. Số còn lại, bà dành dụm mấy kỳ lương, đưa tôi hơn ngàn bạc. “Mẹ thấy người ta dựng phòng trong garage cũng tiện lắm. Nếu chồng con không phiền, con lấy tiền này nhờ nó mua vật liệu, che tạm cho mẹ một căn phòng nhỏ. Con Hoa, con út bắt đầu lớn, tụi nó cần sự riêng tư. Mẹ cũng vậy, có phòng riêng mẹ sẽ dựng kệ thờ Phật, mỗi ngày mẹ có thể lễ bái, tụng kinh, niệm Phật…” Chồng tôi nghe kể lại, vui vẻ đáp: “Chuyện nhỏ! Mẹ muốn gì anh cũng xin vâng, nói chi việc ấy!” Từ đấy, mẹ lộ vẻ hoan hỉ lắm. Sáng tối hai thời, ít khi nào bà bỏ lỡ công phu. Bà như một người đạt được mục tiêu cho đời mình, không có gì để ưu tư, khắc khoải.
Mùa Đông năm ấy, thời tiết hơi khác thường. Ban ngày ấm áp xen kẽ với những đêm buốt giá mà nhiệt độ đôi khi hạ thấp đến không ngờ. Vợ chồng tôi mời mẹ tạm trở về phòng cũ vài ba tháng, ngoài garage lạnh quá dễ sinh bịnh. Mẹ nói: “Ở chỗ này quen rồi, dời đi khó ngủ.” “Mẹ nhớ vặn sưởi cho đủ ấm nhé!” “Ờ, tao biết mà!” Ngờ đâu mẹ đã không qua khỏi mùa Đông! Buổi sáng chẳng thấy mẹ dậy sửa soạn để đi làm, tôi bảo “đứa nào ra đánh thức bà dậy, nhanh lên kẻo trễ!” Con Hoa quấn mền đẩy cửa bước ra garage miệng kêu léo nhéo. “Ngoại ơi, ngoại à…” Không có tiếng trả lời… Nó bật đèn, tiến đến cạnh giường: ngoại quấn hai cái mền kín mít, nằm im ỉm. Nó lắc chân ngoại, bà chẳng đáp. Nó lôi cái mền xuống: mặt bà xám xịt, lạnh ngắt, đôi mắt khép hờ… “Mẹ ơi, mẹ! sao kỳ vầy nè!” Cả nhà đổ xô ra. Chồng tôi đạo Chúa, vội làm dấu thánh giá… Tôi xỉu ngay tại chỗ khi loáng thoáng nghe thằng Hùng la lên: “Sao bà không mở sưởi?” Cuộc điều tra của cảnh sát quấy rầy chúng tôi một thời gian, cuối cùng họ kết luận: “Bà cụ không thường mở sưởi; cái máy mua hai tháng về trước còn mới tinh chưa hề được sử dụng!”
Tôi như người mất hồn trong đám tang của mẹ. Sự hối hận như lưỡi dao có răng, nó cưa xé lòng tôi. Trái tim tôi cơ hồ rỏ máu thành những giọt lệ hồng. Bạn bè khuyên tôi nên đến chùa xin cúng thất, thiết lễ cầu siêu cho bà. Tôi chẳng thể nói năng chi cùng vị sư ở chùa, chỉ biết dập đầu lạy cầu cứu với đôi mắt sưng húp. Chồng tôi bình tĩnh hơn, anh buồn bã kể đầu đuôi tự sự. Câu chuyện khiến thầy thương tâm, thầy thường an ủi, khuyên giải sau những thời lễ cúng. Khi thấy tôi bắt đầu trở lại bình thường, thầy dành cho gia đình chúng tôi một thời pháp thoại. Thầy giảng về lý vô thường, khổ, không. Các con tôi tỏ ra thích thú với sự thật giản dị và sâu sắc này, chúng đòi được học giáo lý đạo Phật thay vì đi nhà thờ với ba. Riêng tôi, tôi nhớ mãi câu kết luận của thầy trong buổi nói chuyện ấy: “Con người ta sở dĩ đau khổ triền miên là tại mình muốn nắm giữ! Cái gì cũng khư khư ôm chặt. Làm sao giữ mãi được vì bản chất của chúng là vô thường, là không. Hãy buông bỏ hết đi, chừng nào bỏ được, chừng ấy mới có chân hạnh phúc!” Phải rồi, nếu chúng tôi không bám chặt vào căn nhà thì mẹ tôi đã không phải vất vả đến thế, không đến nỗi chết cóng ngoài garage. Và gia đình tôi không lụy đến mức này. Tôi thỏ thẻ bàn với chồng: “Anh à, căn nhà này mình không giữ nỗi thì bán nó đi. Em tính rồi, sau khi thanh toán hết nợ nần mình cũng còn vài trăm ngàn. Dọn sang Texas, nhà cửa rẻ hơn, mình có thể tậu căn khác hoặc là giữ làm vốn, tính chuyện làm ăn…”Ờ nhỉ, hồi đó sao mình ngu quá, cứ ôm lấy nó mà cắm cổ đi cày trả nợ. Liệu giữ không được thì sớm buông đi… Nhờ ông thầy giảng dạy, mình mới sáng mắt ra!”
Sau khi dọn sang Texas, trước khi bắt tay vào công ăn việc làm, tôi đến quì dưới chân sư ông kể lể hết sự tình, xin sám hối thì lòng tôi mới có thể yên. Sư ông trầm ngâm và yên lặng nghe tôi vừa khóc rấm rức vừa kể về mẹ tôi, đệ tử mà người rất quí mến. Sư ông không hề cắt ngang bằng những câu hỏi. Người không phê phán gì, chỉ để yên cho tôi khóc, khóc oà vỡ như cái đập nước bị ngăn chận, nay có người tháo ra… Mãi một lúc lâu lắm sau đó, sư ông mới dạy: “Người mẹ nào cũng có trái tim Bồ Tát. Mẹ con hành Bồ Tát đạo ngay trong gia đình trước khi mở rộng ra trong cuộc sống với mọi người. Con hãy hảnh diện có bà mẹ như thế! Con sẽ không cảm thấy hối hận ray rứt nữa nếu con biết đi theo hướng đi của mẹ con, biết xả bỏ cái tôi vị kỷ để lo cho người chung quanh.” Tôi sụp xuống đảnh lễ người đã chỉ cho tôi tháo mở cái gút dây kết mối ân hận trong tôi. Tôi trở về Texas với sự bình yên và tâm nguyện cao cả… Nhưng khi mùa Vu Lan về, cầm hoa trắng trên tay, tôi không thể ngăn được những giọt lệ hồng phát xuất từ trái tim tôi… Than ôi! Khi tôi biết nghĩ tới mẹ, biết giá trị của trái tim bồ tát, biết thương mẹ thì bà đã không còn nữa trên đời…
Diệu Nga
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 124 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.494 seconds.