Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 125 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Mar/2022 lúc 10:21am

Oái Oăm cuộc đời





Ông nội tôi lấy vợ rất sớm, vợ ông tôi lớn hơn ông đến năm sáu tuổi. Tuổi pháp lý thời đó là nữ thập tam, nam thập lục nên việc ông tôi lập gia đình lúc mười bảy tuổi với một cô gái hăm hai hăm ba là đúng pháp luật và cũng chẳng phải là tảo hôn. Dĩ nhiên, cuộc hôn nhân này chẳng phải vì tình yêu lại càng chẳng phải do tự do đến với nhau.
Nó là thành quả của lời hứa hẹn của hai ông cố tôi vào một lúc chếnh choáng say, lúc bà nội tôi đã lên năm lên sáu còn ông nội tôi còn nằm trong cái bụng vừa nhô lên của bà cố nội nội tôi.

Phải nói rõ là bà cố nội nội tức là mẹ của ông nội tôi còn bà cố nội ngoại là mẹ của bà nội tôi.
Đến lượt cha tôi cũng phải vâng lời Nội lập gia đình sớm, nhưng may mắn không phải lấy vợ lớn tuổi hơn vì mẹ tôi kém cha tôi một tuổi, cha tôi mười tám, mẹ tôi mười bảy. Vì vậy khi tôi ra đời, chẳng những cha mẹ tôi còn trẻ mà Nội tôi chỉ mới ba mươi lăm tuổi, mười bảy cộng mười tám là ba mươi lăm vì cả Nội cả cha tôi đều có con trong năm lập gia đình. Tuổi ba mươi lăm ngày nay có người cắp sách đi học thế mà Nội tôi đã thành ông nội. Đại gia đình tôi sống tại ngoại ô một quận miền Trung, trong mấy dãy nhà ngói âm dương thừa kế từ đời ông cố ông tổ nên vách nhà đã rêu phong, mái ngói rêu bám xanh lè, nhiều cây đa cây đề nhỏ mọc ra từ các chỗ nứt vách, rễ đâm tua tủa như đầu tóc rối biếng chải của một người đàn bà có tóc rễ tre.

Tôi lên ba thì cha tôi mất vì bệnh thương hàn, mẹ tôi thành góa phụ lúc vừa hai mươi tuổi. Ở tuổi ngày nay các cô còn cắp sách đi học, còn cúp cua giờ học đi ăn cóc ăn ổi ăn kem ăn chè và “cua” trai đẹp thì mẹ tôi đã thành góa phụ thay chồng nuôi con là tôi.

Bệnh thương hàn lúc đó chưa có thuốc chữa, thầy lang chỉ biết ra lệnh kiêng ăn do kinh nghiệm bệnh này ăn vào thì chết mà chẳng hiểu tại sao phải chết.
Người bệnh uống nước hồ nước cháo chờ may mắn thì thoát chết. Thoát chết cũng vẫn chưa được ăn, phải ăn cháo loãng rồi đặc dần dần cả tháng, sau đó chuyển qua cơm nhão một thời gian trước khi được ăn cơm “thật.” Vội vàng ăn thức ăn đặc ngay dù chỉ một muỗng cũng có thể đứt ruột mà chết vì vi trùng bệnh này ăn mòn ruột non. Đây là giai đoạn nhiều người chết nhất vì thèm ăn quá nhịn không nổi. Cũng may, là cháu đích tôn duy nhất, tôi được ông bà nội tôi cưng chiều, nhất là lúc này tôi là người duy nhất nối dõi tông đường. Ông bà nội tôi chỉ có cha tôi là con trai và hai người con gái đã lấy chồng khi vừa lên mười sáu mười bảy tuổi. Gia đình nội tôi may mắn thuộc loại dư ăn dư để nên mẹ tôi không phải quá vất vả trong việc nuôi tôi.

Mẹ tôi còn trẻ lắm nhưng chẳng hiểu vì thương cha tôi hay vì lý do nào khác mà nhất định từ chối không bước đi bước nữa cho dẫu có nhiều người ngắm nghía kể cả những người ông bà nội tôi mở lời. Thời đó, con gái về nhà chồng là đã suốt đời thuộc về nhà chồng, chồng chết nếu tái giá người chủ hôn chính là cha mẹ chồng không phải là cha mẹ ruột như lần đầu xuất giá.

Để mưu sinh, một năm sau khi cha tôi mất, nhờ vốn của ông bà nội, mẹ tôi sang lại một tiệm vải ở chợ quận cách nhà chúng tôi chừng mươi lăm phút đi bộ. Nhờ duyên dáng và thành thực, sạp vải của mẹ tôi khấm khá, hàng bán chạy không ứ đọng. Thêm vào đó, vì còn trẻ, mẹ tôi biết cách chọn hàng đáp ứng được đòi hỏi ăn mặc theo thời trang của thanh thiếu niên nam nữ. Cần mua sắm vải vóc quần áo, các cô các cậu bảo nhau:

“Mua gì tụi bay lại hàng cô Hằng. Cô ấy có nhiều kiểu mới và bán hàng lúc nào cũng đúng giá, không sợ bị hớ.”
Bị hớ tức bị mua lầm giá, bị người bán phỉnh bán giá cao hơn giá thực. Chẳng có gì đáng giận bằng đang khoe một chiếc áo mới đẹp bị ngay cô bạn thân chận ngang hỏi:
“Mày mua bao nhiêu đó? Ôi, thôi chết rồi, bị hớ rồi. Giá áo như thế này cô Hằng chỉ bán chưa tới phân nửa hay hai phần giá mày mua.”
Chủ nhân chiếc áo tức nghẹn họng vì tiền trao cháo múc, giá cả đã thỏa thuận sau khi người mua đã mặc cả gay gắt, trả lại đã không được mà chưa chừng còn bị mắng cho ê mặt:

“Đồ con gái thúi, mua hàng thì phải tìm hiểu giá cả, rồi phải biết trả giá. Giá tui nói ra, cô có quyền mặc cả và có quyền mua hay không mua. Thuận mua vừa bán, tôi có đè cô ra lấy tiền đâu mà giờ đem trả nói là sai giá?”

Đâu phải chỉ người bán hàng xỉa xói mà người các sạp chung quanh cũng mượn dịp chửi bới; khách qua đường có ai muốn bênh vực cũng chẳng dám vì nói sao lại lại miệng lưỡi hàng tôm hàng cá.

Để rảnh tay buôn bán, mẹ tôi mướn một con bé mồ côi trong xóm đến ở luôn trong nhà để trông nom tôi. Mẹ tôi phân bua:

“Để nó chơi với cháu, có gì có người chạy báo ông bà nội.”

Con bé tên Liên. Gọi là con bé nhưng nó lớn hơn tôi đâu chừng hai ba tuổi, vì chính nó cũng chẳng biết tuổi thực của nó là bao nhiêu. Chưa được một tuổi, nó mồ côi cả cha lẫn mẹ chết vì dẫm phải mìn thời đó Việt Cộng thường chôn trên đường để chống quân đội Quốc Gia phục kích ban đêm hay mở đường ban sáng. Một bà già xóm giềng đem nó về nuôi. Mẹ nuôi nó còn nghèo hơn người nghèo trong xóm nên nó chẳng bữa nào được cơm không độn khoai độn bắp. Con nhà nghèo nên dẫu mới bảy tám tuổi Liên đã làm được mọi công chuyện trong nhà, nấu cơm, gánh nước, chẻ củi, nhúm bếp, rửa chén.

Liên lanh lẹ gọn gàng, chăm sóc tôi cẩn thận nên mẹ tôi và ông bà nội tôi yên tâm giao phó tôi cho Liên. Liên gọi tôi bằng “cậu Hai,” nghĩa là coi tôi là chủ và tự nhận là người giúp việc. Hàng ngày Liên cho tôi ăn uống, tắm rửa cho tôi, dỗ tôi ngủ, dẫn tôi đi chơi. Thương Liên ngoan ngoãn hiền lành, ông bà nội và mẹ tôi dần dà coi Liên như con cháu, ăn uống đồng bàn, cho Liên quần áo ăn mặc sạch sẽ gọn gàng, người mới quen biết không ai nghĩ Liên chỉ là người ăn người ở trong nhà.

Lên năm tuổi, tôi bắt đầu vào trường, học lớp Năm, giờ là lớp Một. Ngoại trừ ngày đầu tiên Mẹ tôi dẫn tôi đến trường, suốt năm học ngày mưa như ngày nắng chỉ Liên đưa đón tôi. Tưởng Liên là chị tôi, đám bạn học thắc mắc:

“Ủa, sao mày gọi chị Liên mày bằng tên mà không gọi bằng chị?”

Tôi ầm ừ cho qua chuyện, không biết phải giải thích cách nào, chẳng lẽ nói toạc ra Liên là người giúp việc của nhà tôi. Tôi đi học, Liên rảnh rỗi nên mẹ tôi đưa Liên ra chợ phụ trông coi sạp hàng. Vì Liên chưa biết đọc biết viết, mẹ tôi mua sách vần về dạy cho Liên đọc, mua tập và bút về cho Liên tập viết. Nghe tôi học bài, Liên học theo và còn thuộc bài hơn tôi. Trước khi đi ngủ, Liên dò bài cho tôi mà không cần mở tập để theo dõi. Thế nhưng, tôi đọc sai một từ là Liên chận ngay, bắt tôi đọc lại cho đúng.

Liên cũng học tính cộng trừ nhân chia và tính đố với tôi, và thường giải bài mau hơn tôi và đôi khi còn giảng lại cho tôi. Được vậy một phần có lẽ do Liên nhiều tuổi hơn nên hiểu được những điều tôi chưa hiểu được ở tuổi tôi. Một đứa bé mười tuổi hiểu cách nào được bài toán giả sử kiểu Một vòi nước chảy vào bao nhiêu, bị một lỗ thủng chảy ra bao nhiêu, hỏi bao lâu đầy thùng chứa hay Một chiếc xe chạy từ A sang B tốc độc bấy nhiêu, một chiếc khác chạy từ B sang A tốc độ bấy nhiêu, hỏi lúc nào hai xe gặp nhau. Đứa bé chưa đủ quan niệm về thời gian và độ dài làm sao có thể hiểu được câu hỏi lắc léo như vậy?
Tôi học lớp nào, Liên học theo đến lớp đó. Sau năm lớp Nhất, bây giờ là lớp Năm, tôi thi lấy bằng Tiểu học. Kỳ thi gồm hai lần, một lần thi viết và một lần thi vấn đáp, đậu thi viết mới được vào vấn đáp, và dĩ nhiên qua được thi vấn đáp mới được gọi là đậu bằng Tiểu học.
Người không đậu kỳ thi thứ nhất có thể tự chuẩn bị để vài tháng sau thi kì thứ hai. Liên năn nỉ xin mẹ tôi cho ghi tên thí sinh tự do để đi thi với tôi. Kết quả, hai chị em đều đậu, và Liên đậu Bình Thứ tức nhiều điểm hơn tôi chỉ đậu Thứ.
Bằng Tiểu học lúc đó còn quan trọng với đời học sinh và với gia đình. Lớp tôi năm đó sĩ số học sinh trai gái trên dưới sáu mươi, kỳ đầu chỉ đậu được bốn người kể cả Liên thí sinh tự do.
Ông bà nội và mẹ tôi hãnh diện ra mặt với bà con xóm giềng. Tôi lên mười, Liên mười ba mười bốn, đã có dáng dấp một thiếu nữ xinh đẹp trong khi tôi vẫn còn là một chú bé lờ khờ. Mỗi lần đưa đón tôi, Liên đã biết ửng hồng đôi má khi một vài thanh niên hoặc học trò lớp lớn trêu ghẹo. Đúng là con gái phát triển trước con trai. Tôi vẫn gọi Liên bằng tên trống không nhưng Liên không gọi tôi bằng cậu Hai nữa mà cũng gọi tôi bằng tên.
Tôi ra tỉnh học lớp Đệ Thất bậc Trung học Đệ Nhất Cấp, giờ gọi là lớp Sáu Cấp Hai, vì quận lúc bấy giờ không có trường Trung học. Ra tỉnh, tôi bắt đầu lột xác thằng bé nhà quê quận nhỏ để dần dần tự biến thành một chú bé tỉnh lỵ. Trước hết tôi phải học cách nói, cách ăn mặc, cách đi đứng cho đúng kiểu thành thị. Lúc mới xa nhà, tôi nhớ nhà nên mỗi tháng về thăm vào cuối tuần.
Mỗi lần về, Liên ra mặt mừng rỡ gặp lại tôi, quấn quít bên tôi. Một vài năm sau, lớn thêm một chút, tôi nhận ra thành thị có nhiều niềm vui giải trí hơn quận lỵ. Thành thị có rạp ciné, có sân đá bóng, và nhất là có các bóng hồng níu chân tôi nên hai ba tháng tôi mới về nhà một lần không tính các kì nghỉ. Thời gian đã thổi tôi lớn nhanh thành một thiếu niên đẹp trai, từ tốn trong lời ăn tiếng nói, chững chạc trong đi đứng tiếp xúc. Có lần tôi nghe mẹ tôi nói nhỏ với bà nội tôi:

“Má coi, thằng cháu nội Má mọc râu lún phún rồi đó.”

Quả thực, tôi đang dậy thì, miệng đã lún phún râu và tiếng nói đã bắt đầu ồ ề. Liên còn tiến nhanh hơn tôi, đã trở thành một thiếu nữ ngực nở, eo thon, duyên dáng đậm đà. Mỗi lần tôi về, Liên nhìn tôi với đôi mắt long lanh mà cho dẫu ngu đần đến mấy tôi không thể không hiểu được ý nghĩa của đôi mắt đó.

Tôi không tránh khỏi để lòng mình xao xuyến, nhiều đêm nằm trằn trọc nghĩ đến Liên, lòng tự nhủ sẽ có lúc thổ lộ tâm tư với Liên và thuyết phục mẹ tôi hỏi cưới Liên cho tôi.

Tôi thấy trước nhiều ngăn trở tôi không tránh khỏi khi tiến tới bước này. Ông bà nội và mẹ tôi làm sao có thể chấp nhận cho con trai thừa tự duy nhất nhận một cô gái mồ côi ở đợ lại còn lớn hơn ba bốn tuổi làm vợ? Mặt mũi nào ông bà và mẹ tôi giới thiệu với họ hàng một cô con dâu như vậy?

Năm Đệ Tứ tức lớp Chín, năm tôi phải học nhiều để chuẩn bị thi Trung học Đệ Nhất Cấp, một kỳ thi ngày nay đã bỏ cũng như đã bỏ thi bằng Tiểu học. Tôi đã mười lăm tuổi, một thiếu niên khỏe mạnh điển trai trong lúc Liên đã mười bảy mười tám vào tuổi bẻ gãy sừng trâu. Chừng nửa tháng trước Tết, tôi nhận được điện tín khẩn của mẹ tôi bảo tôi xin phép về gấp vì bà nội tôi lâm bệnh nặng sợ khó qua khỏi.
Sau khi nộp đơn xin phép nghỉ học về thăm bà nội, trong đơn nói rõ nếu phải cư tang bà nội tôi thì xin phép nghỉ luôn đến sau Tết, tôi vội vàng lấy chuyến xe đò cuối cùng về nhà khi đã gần nửa đêm. Không khí ảm đạm chết chóc bao trùm căn nhà cổ kính vốn đã thiếu ánh sáng của gia đình tôi. Bà nội tôi nằm trên chiếc giường quen thuộc trong căn phòng quen thuộc nhưng giờ đây bà không còn là bà nội trẻ trung tươi mát quen thuộc mà tôi đã gặp mấy tháng trước. Trước mắt tôi giờ đây là một người đàn bà thân thể gầy còm, bộ mặt hốc hác với đôi mắt hõm sâu và một mái tóc không chải lòa xòa. Ông nội bảo tôi:

“Con về kịp lúc, bà đang nuối con.”

Nuối tức người sắp qua đời trông mong gặp một người nào đó nên vẫn chưa thở hơi cuối cùng được. Tôi bước vội lại gần giường bà. Mở đôi mắt không còn sức sống nhìn tôi, bà lẩm bẩm điều gì tôi không nghe được. Ông tôi bảo:

“Con kề tai nghe Nội nói, Nội muốn bảo con gì đó.”

Tôi kế tai sát đôi môi Nội đang thều thào:

“Con học cho thành tài rồi mau cưới vợ để có con nối dõi tông đường.”

Tôi vâng dạ liên miệng rồi đứng lên. Bà tôi nhìn tôi, một tia sáng hiếm hoi còn sót lại trong đôi mắt vốn tinh anh chiếu vào đôi mắt tôi. Bà tôi mỉm cười rồi thở hắt ra, êm ái về với tổ tiên ông bà.

Tang lễ được trang trọng tổ chức, Liên xin phép ông tôi cho được bịt khăn tang như hàng cháu. Chôn cất bà và rước thầy cúng thất xong thì vừa kịp thời giờ chuẩn bị ăn Tết. Tết năm đó là cái Tết ảm đạm nhất trong gia đình tôi vì ai có thể vui được với khăn tang còn thơm mùi vải trên đầu. Bà mất, mẹ tôi phải quán xuyến hết những gì bà tôi làm trước đây như điều hành ruộng vườn, chi thu tiền bạc, quán xuyến người làm người ở trong nhà.

Mẹ giao cho Liên gần như hoàn toàn quán xuyến sạp vải và quần áo may sẵn, mỗi ngày chỉ tạt qua vài lần để kiểm soát, cuối ngày kiểm soát sổ sách. Liên lanh lẹ, ngay thẳng, và trung thành, coi mẹ tôi như mẹ ruột, mọi công việc được giao đều tận tụy chu toàn nên càng ngày càng được mẹ tôi tin tưởng. Mỗi lần về, mẹ tôi nói nhỏ khen Liên với tôi:

“Liên giỏi lắm con, và chẳng gian manh. Mẹ đã thử mấy lần hoặc hớ hênh tiền bạc, hoặc giả vờ tính sổ sách sai. Tiền bạc mẹ để đâu Liên đều để yên đó không hề đụng đến, sổ sách sai khi tìm thấy Liên vội vàng báo cho mẹ biết để chỉnh lại.”

Tôi cười:

“Vậy là may cho nhà mình, không có Liên ai đỡ tay phụ mẹ?”

Mẹ tôi cười:

“Thì mày về phụ mẹ chứ còn ai nữa.”

Tôi ấp úng:

“Hay mẹ ….”

Mẹ nhìn tôi chờ đợi nhưng tôi bỏ lửng câu nói vì kịp nghĩ ra không nên làm mẹ khó xử trong lúc mẹ đa đoan công việc này. Bỏ Liên ra, chẳng những mẹ tôi không còn người tin cậy phụ giúp mẹ mà bản thân tôi cũng khó tiếp tục theo đuổi việc học. Mẹ cười bảo tôi:

“Cái thằng, nói gì mà bỏ nửa chừng sao mẹ hiểu được.”

Tôi mỉm cười bỏ lãng ra ngoài. Cuối năm học đó, tôi đậu thi viết và vấn đáp kỳ thi Trung học Đệ Nhất Cấp và vẫn là số ít trong số các người đậu lần thi thứ nhất. Để tiếp tục lên Đệ Nhị Cấp gồm ba lớp Đệ Tam, Đệ Nhị, và Đệ Nhất tức lớp Mười, Mười Một, và Mười Hai cấp Ba bây giờ, tôi phải ra Huế học vì miền Trung lúc đó chỉ Huế mới có trường công và tư mở các lớp Đệ Tam Đệ Nhị cho riêng nam riêng nữ hoặc chung cho cả hai giới.

Trường Quốc Học, Thiên Hựu, Pellerin riêng nam. Trường Đồng Khánh, Jeanne d’Arc riêng nữ. Trường Bán Công, Bình Minh chung cho nam nữ. Riêng lớp Đệ Nhất tức lớp Mười Hai, chỉ trường Quốc Học mới có lớp chung cho nam nữ. Tôi thi được vào học Đệ Tam trường Quốc Học, trường công nên không phải trả tiền học hàng tháng.
Huế lại càng có nhiều quyền rũ tôi hơn tỉnh lỵ tôi trọ học mấy năm Đệ Nhất Cấp, tiệm ăn với thức ăn ngon hơn, rạp ciné với phim hay hơn, nhà sách với sách nhập cảng phong phú hơn.
Tôi say sưa với Bún Bò Cung An định, với cà phê Phấn, với bánh Bèo Ngự Bình, với bánh Khoái Huỳnh Thúc Kháng, với chè đút Thương Bạc, với cơm Hến Cồn Hến, với Nhãn Kim Long, với Thanh Trà Hòn Chén.


Tôi mê mẩn với các ngôi sao điện ảnh như Gregory Peck, Ava Gardner, Alain Delon, Doris Day, Marlon Brando, Anthony Quinn's, Clark Gable, Johnny Holiday, Sylvie Vartan, James Dean, Richard Jordan, Anthony Perkins.
Tôi miệt mài với các văn thi sĩ và triết gia mê hoặc tuổi trẻ như Jean-Paul Sartre, Françoise Sagan, Simone de Beauvoir, André Gide, André Malraux. Thêm vào đó, tôi còn lính quýnh các cô nữ sinh Huế, Học trò trong Quảng ra thi, Thấy cô gái Huế chân đi không rời. Ra thi mới thấy lần đầu mà đã quíu chân huống chi tôi ăn đó ở đó, ngày nào đi học và quay về đều phải chạy xe đạp ngang qua trường Đồng Khánh, ngôi trường chứa hàng trăm hàng ngàn bóng dáng người đẹp phất phơ trong áo dài trắng. Thời đó nữ sinh không còn mặc áo tím nữa mà mặc áo trắng dài quần trắng hay đen.
Và hơn nữa, tôi có nhiều điều để học hỏi hơn ở chốn thần kinh văn vật này, nơi mà chén ăn cơm chỉ lớn hơn chung trà đôi chút, đĩa thịt luộc được các lát thịt xắt mỏng như giấy xếp thành bông hoa, nơi các loại chè ngọt dịu nhưng thanh cảnh.
Lên Đệ Nhị, tôi mười bảy, đã trưởng thành, đã biết ăn diện, áo hộp, quần thẳng nếp. Đây là thời một số vải quần Tây nilon mới nhập vào, thoạt đầu là một loại vải mình bóng loáng, ủi một lần là li quần chết luôn cho đến khi rách, kế đến là một loại khác đẹp hơn, không bóng mà có vẻ xốp, cũng chết li như loại trước. Sau đó nữa là các loại vải bề ngoài trông bình thường hơn hai loại ban đầu.


Giày da không có loại đóng sẵn mà phải đặt thợ giày đóng bằng tay, giá rất đắt, một đôi lên đến năm trăm đồng so với giá tô phở lớn năm đồng một tô. Gia tài cha tôi để lại cho tôi và tiền lời từ sập vải đủ cho mẹ tôi cung ứng cho tôi chi phí rộng rãi hơn so với các bạn đồng trang lứa. Nhiều hấp dẫn như thế, viện cớ đường xa, tôi chỉ về nhà một năm hai lần vào dịp Tết và kỳ nghỉ hè.

Liên càng lớn càng xinh đẹp, má lúm đồng tiền, đôi mắt bồ câu đen nhánh, thân hình thon thả đầy nhựa sống. Quyến rũ nhất là nụ cười liêu trai mê hoặc và tiếng nói thánh thót như ngọc rơi.

Hiếm có chàng trai nào không dừng chân trước sạp khi bị thu hút bởi nụ cười và tiếng nói của Liên, nghĩa là không thoát khỏi phải mua một món hàng nào đó trước khi tỉnh cơn mê. Mỗi lần tôi về, Liên quyến luyến tôi, chăm sóc tôi kỹ lưỡng không đợi tôi phải mở lời.
Chiều về, Liên đích thân nấu các món ăn Liên biết tôi thích ví như canh thịt gà hay ếch nấu lá giang, trứng chiên có nấm hương nấm rơm, thịt heo bọc lá dứa hấp thay vì cho vào nước luộc, cá chiên giòn nhai nghe rùm rụm.
Rảnh rỗi chút, Liên nấu Mì Quảng, Bún Bò với cách nấu riêng của Liên mà tôi cảm thấy ngon hơn cả mẹ tôi nấu cho dẫu chính mẹ tôi là người đã chỉ cho Liên cách thức nấu lúc ban đầu. Và một thay đổi lớn hơn cả là Liên không gọi tôi bằng tên nữa mà gọi tôi bằng anh Hai, một tiếng gọi nghe vừa êm ái vừa pha chút nhõng nhẽo nghịch ngợm và xưng em với trong khi tôi vẫn gọi Liên bằng tên.
“Anh Hai đi hoài chẳng chịu về, em cứ trông anh về mãi.”..

Chú ý đến cách xưng hô thay đổi, mẹ tôi nhíu mày nhìn tôi nhưng không nói gì. Chút thời gian sau cách xưng hô đó thành quen, chẳng ai chú ý đến nữa, cộng thêm mẹ tôi bận rộn với việc nhà việc buôn bán nên chẳng hơi sức đâu chú ý đến chuyện vụn vặt.

Liên càng ngày càng đẹp, một vẻ đẹp quyến rũ nhưng dịu dàng. Nhiều lần tôi hỏi Liên tại sao chưa có người yêu hoặc tại sao chưa chịu nhận lời những người ngấm nghé, Liên nhìn tôi bằng đôi mắt đầy ắp trìu mến, mỉm một nụ cười say đắm lòng người rồi quay ngoắt đi không trả lời. Đúng hơn, duy nhất một lần Liên nói nhẹ như hơi thở:

“Anh Hai biết tại sao rồi, sao còn hỏi em.”

Vì quá ôm đồm công việc, đi sớm về muộn ngày nắng như ngày mưa, mẹ tôi ngã bệnh.

Liên viết thư cho tôi biết mẹ tôi bệnh và đang rước thầy thuốc Bắc. Thời đó quận lỵ chẳng có bác sĩ hay trạm xá, nơi nào có y tá cho thuốc là may mắn. Bệnh chỉ trông vào thầy thuốc Nam thuốc Bắc, mà các vị thầy này thật khó biết giỏi dỡ thế nào vì thường câu nói đầu môi của họ là phước chủ may thầy. Thư từ thời đó đi rất chậm, mươi ngày nửa tháng mới đến nơi nhận nên tôi nhận thư Liên buổi sáng thì buổi chiều nhận được điện tín khẩn bảo tôi về gấp vì mẹ tôi bệnh nặng. Lặp lại y như bà nội tôi bệnh nặng và mất trước đó, ngày tôi nhận điện cũng chừng hai tuần trước Tết. Tôi lại viết đơn xin phép, nói rõ nếu phải cư tang mẹ tôi thì xin nghỉ đến sau Tết. Tôi về săn sóc mẹ được chừng vài ngày thì thầy thuốc lắc đầu bảo tôi:
“Cậu Hai ơi, nếu thang này nữa mà bà không khá thì thú thật tôi chẳng biết làm sao, tôi hết cách rồi.”

Tôi nhìn ông thầy, lạc giọng:

“Thật vậy sao Thầy? Thầy còn cách nào khác hay biết Thầy nào có cách khác không?”

Ông thầy lắc đầu, mệt mỏi nhận tiền rồi xách tráp ra khỏi cửa. Dù cả nhà cố giấu không để mẹ tôi biết, mẹ tôi vẫn linh cảm được tình hình tuyệt vọng, nhất là vì không thấy ông thầy trở lại. Tối hôm đó, bên ngọn đèn dầu, mẹ tôi thì thào bảo tôi:

“Con nói Liên ra ngoài, mẹ có chuyện nói riêng con.”

Không đợi tôi bảo, Liên đi ra ngoài khép chặt cửa lại. Từ ngoài lọt vào, tôi nghe tiếng chân Liên chạy thình thịch và tiếng khóc nức nở.

Mẹ thì thào:
“Ngày giờ của Mẹ đã đếm xong rồi. Con còn lại một mình, cố gắng mà học hành cho có tương lai rồi tìm nơi xứng đáng mà cưới vợ để có con nối dõi tông đường.”

Sau câu nói y như lời trối của bà tôi lúc trước, mẹ cho tôi biết tiền bạc cất giấu ở đâu, nợ nần ai đòi được ai không ghi trong sổ sách nào, hàng họ còn bao nhiêu lời lỗ bao nhiêu..

“Tiền bạc Mẹ để lại đủ cho con sống thong thả nhưng Mẹ muốn con học thành tài để tự lập. Gia tài Mẹ để lại chỉ một biến cố bất thường là mất hết nhưng tài năng học hành của con thì không ai lấy của con được.”

Mẹ tôi ngừng lại, thở mệt nhọc rồi hạ giọng vốn đã thấp nghe như hơi gió:

“Mẹ biết Liên có cảm tình với con và con cũng không ghét nó, nhưng Mẹ khuyên con đừng để tình cảm dính líu vì có nhiều điều không tiện cho mẹ nói rõ ra.”

Tôi gặng hỏi:

“Điều gì không tiện vậy Mẹ?”

Mẹ tôi cố gượng mỉm một nụ cười bí ẩn:

“Mẹ nói ra không được, rồi con sẽ biết thôi.”

Tôi muốn hỏi thêm cho rõ nhưng mẹ khoát tay bảo tôi đứng lên:

“Con gọi Liên vào Mẹ bảo.”

Tôi ra ngồi trên ghế trường kỷ nhìn đăm đăm lên bài vị bà Nội tôi, thì thầm khấn vái xin Nội cứu Mẹ.

Không biết Mẹ tôi nói gì với Liên nhưng lát sau Liên mở cửa chạy nhanh về phía tôi, nước mắt đầm đìa, ôm chầm lấy tôi, òa lên khóc:

“Anh Hai ơi, Mẹ không còn nữa rồi.”

Tôi dịu dàng an ủi:

“Liên nói gì vậy, Mẹ sẽ khỏe lại thôi.”

Liên nắm chặt tay tôi, lắc đầu:

“Em biết, Mẹ không khỏe lại đâu. Mẹ nói anh mời Nội cho Mẹ.”

Tôi gõ cửa mời nội qua phòng Mẹ. Bắc chiếc ghế cho nội ngồi cạnh mẹ, tôi đứng hầu phía chân giường. Mẹ tôi thì thào với nội tôi:

“Con xin lỗi Cha, con không báo hiếu Cha thay chồng con được nữa rồi.”

Cố ngăn nước mắt, Nội tôi nói:

“Con nói gì vậy, thầy này chạy có thầy khác. Mai Cha đích thân đi mời cụ Phó Bảng giỏi nhất vùng này, con sẽ khỏe lại thôi.”

Mẹ tôi cố mỉm một nụ cười không còn là nụ cười:

“Con cám ơn Cha, nhưng con nghĩ mệnh con đã hết, Cha đừng nhọc công vô ích. Con đi rồi, xin Cha thương lấy cháu nó mà dạy dỗ nó. Nó trẻ người non dạ, nhiều khi lỗi lầm với Cha mà chính nó cũng không biết.”

Mẹ nói thế nhưng tôi không hiểu được tôi đã lỗi lầm gì với nội tôi. Từ khi biết thế nào là ăn ở phải đạo, tôi chưa một lần phạm lỗi dù nhỏ dù lớn với nội. Hôm sau, nội đích thân đi mời cụ Phó Bảng. Cụ đến bắt mạch, xem nét mặt mẹ tôi rồi kéo tay nội tôi ra ngoài. Khi hai ông vào, cụ Phó Bảng đưa tôi hai toa thuốc:

“Cậu Hai hốt hai toa này cho bà uống thử, nếu có hiệu quả tôi sẽ chữa tiếp.”

Tôi nhìn cụ Phó Bảng nước mắt lưng tròng vì hiểu hàm ý lời nói của Cụ. Hai ngày sau, mẹ tôi yếu dần rồi đi về với tổ tiên. Như bà nội tôi, mẹ tôi bỏ tôi chỉ mươi ngày trước Tết. Năm đó gia đình tôi lại thêm một cái Tết ảm đạm. còn ảm đạm hơn cho tôi vì tôi đã mất mẹ tôi, người tôi yêu thương nhất đời.

***

Sau Tết, tôi trở lại Huế học tiếp thi Tú Tài Một. Ngày đó, lên Đệ Nhị Cấp, học sinh phải chọn chuyên ngành hoặc ban A chuyên Vật lý, Hoa học, và Vạn vật giờ gọi là Sinh vật; hoặc ban B chuyên Toán; hoặc ban C chuyên văn và sinh ngữ, triết học.

Tôi theo ban C vì khá Văn và sinh ngữ hơn các môn khác. Học xong Đệ Nhị, học sinh phải thi Tú Tài Một cũng gồm hai đợt thi viết, đậu thi viết vào thi vấn đáp, và cũng có kì thi thứ hai mấy tháng sau cho học sinh rớt kì một. Đậu Tú Tài Một mới được học tiếp lớp Đệ Nhất chuẩn bị thi Tú Tài Hai. Đậu Tú Tài Hai mới được lên Đại học.

Tôi viết một lá thư dài tỏ rõ tình cảm tôi với Liên, nói tôi yêu Liên, sẽ hỏi xin Nội cho tôi cưới Liên nếu Liên nhận lời tôi.
Sau hơn một tháng thấp thỏm, tôi vội mở thư Liên ngay khi vừa nhận được, mong đọc được lời đồng ý của Liên. Thư Liên viết rất dài, nói rõ tình yêu Liên dành cho tôi nhưng không nói nhận hay không nhận lời cầu hôn của tôi. Tôi viết một thư khác yêu cầu Liên nói rõ nhưng Liên cũng chỉ trả lời ỡm ờ, nói còn nhiều điều khó xử Liên chưa giải quyết được để nói rõ nhận lời tôi hay không cho dẫu Liên vẫn một lòng yêu tôi.
Năm học kết thúc, tôi về nghỉ hè. Nhà tôi buồn hẳn vì vắng bà nội giờ còn thêm vắng mẹ tôi.
Ông nội tôi năm mươi còn tráng kiện, suốt ngày hoặc thơ thẩn trong vườn chăm sóc mấy luống rau, hoặc ra sân chăm lo mấy chậu kiểng.

Liên giờ đây làm hết công việc của bà và mẹ tôi để lại, kiêm luôn cả việc buôn bán sạp hàng nên bận rộn suốt ngày.

Sổ sách tính toán do ông nội tôi lo.
Tôi một mình chẳng biết làm gì cho hết ngày, sách đọc mãi cũng chán, rong chơi trong xóm chỉ thấy lạ vài ngày đầu rồi chẳng có nơi nào phong cảnh nào có thể giúp tôi khuây khỏa.
Tôi hơi ngạc nhiên khi cuối ngày Liên từ chợ về lo lắng nấu nướng và chăm sóc săn đón tôi thì ông tôi không giấu nét mặt khó chịu, có khi vùng vằng dứt ngang mọi chuyện đi vào phòng. Có phải ông cũng biết tình cảm Liên dành cho tôi và biết tôi không hờ hững với Liên nhưng không tiện bảo tôi nên làm vậy để ngăn chặn tôi như lời trối bóng gió của mẹ tôi chăng? Tôi cố phớt lờ thái độ của ông tôi, vẫn không thay đổi cách cư xử với Liên, vẫn cười đùa thân mật vì tự thấy không có lỗi gì cả.

Hết hè, tôi trở về Huế tiếp tục học lớp Đệ Nhất chuẩn bị thi Tú Tài Hai năm sau. Lúc này, Liên là người gửi tiền cho tôi ăn học, không phải tiền riêng của Liên mà tiền rút ra từ phần gia tài tôi thừa hưởng từ cha mẹ tôi và tiền chia lời cho tôi từ sạp vải.

Năm sau tôi thi đậu Tú Tài Hai.

Về nhà, ông tôi và Liên mừng rỡ tổ chức tiệc mừng mời bà con họ hàng như để vừa để thông báo việc tôi thi đậu vừa hãnh diện khoe thành quả học hành của tôi.
Nội tôi hãnh diện là phải vì cả quận lỵ nơi chúng tôi sinh sống, tôi là người thứ hai thứ ba gì đó đậu Tú Tài Hai kể từ khi có chính sách giáo dục bằng chữ Quốc Ngữ. Sau một hai ngày vui mừng vì thành quả học tập của tôi, ông tôi lần này không che giấu sự khó chịu của ông mỗi khi tôi thân mật với Liên, nhất là khi Liên thân mật với tôi. Đang trò chuyện vui vẻ, ông tôi đột nhiên nói trống không:

“Dẹp đi, bay dẹp hết đi.”

Tôi ngơ ngác không hiểu điều gì xảy ra. Liên bặm môi vùng vằng bỏ đi chỗ khác. Một thay đổi nữa là Liên cho dẫu vẫn gọi tôi bằng anh Hai nhưng không xưng em với tôi nữa mà xưng tên như trước đây đã một thời xưng như vậy.

Thấy không khí gia đình nặng nề, sau một tháng, tôi xin phép Nội trở ra Huế viện cớ ôn bài thi vào trường Đại Học Sư phạm. Đậu vào Đại Học Sư phạm Anh Văn, tôi ghi danh học thêm lớp Cử nhân Anh văn vì hai chương trình gần gũi nhau nhiều phần, hi vọng sau bốn năm tôi có được hai bằng đại học cùng lúc. Như trước đây mẹ tôi đã làm, mỗi hai tháng Liên gửi mandat tiền cho tôi nhưng số tiền thêm một phần ba nhiều hơn số trước đây mẹ tôi gửi.

Trong thư, Liên nói vì tôi đã lên Đại Học nên chắc phải cần nhiều tiền hơn để mua sách vở. Tôi không từ chối vì biết đó là tiền tôi được hưởng, cho dẫu nếu Liên gửi ít đi thì tôi cũng chẳng có gì để than phiền khiếu nại. Học sư phạm, tôi được trợ cấp học bổng nên tiền bạc nói chung tôi dư dả.
Nỗi đau nhất của tôi lúc này là mất mẹ. Thêm và đó, tôi thắc mắc không tìm được câu trả lời về thái độ bực bội của nội tôi khi tôi và Liên gần gũi nhau, và lý do tại sao Liên thay đổi cách xưng hô. Vì không thấy vui khi về nhà, tôi viện cớ bài vở nhiều vì học hai chương trình nên viết thư về xin lỗi Nội. Liên vẫn gửi mandat theo định kỳ cho tôi, kèm theo thư hỏi tôi sao không về thăm nhà. Tôi trả lời Liên mọi câu hỏi ngoại trừ câu hỏi tại sao tôi không về.
***

Kỳ hè năm thứ hai Đại Học, tôi về nghỉ tại nhà sau hai năm biền biệt. Thời gian này, ông nội tôi không giấu giếm sự khó chịu của ông mỗi khi Liên và tôi gần gũi thân mật nhau. Ông không cần nói trống không “Dẹp đi” như kỳ nghỉ trước mà nói thẳng:

“Hai đứa bay làm gì mà cứ quấn lấy nhau, xốn con mắt tao quá.”

Rõ ràng không phải nội khó chịu vì ngăn cản không muốn tôi và Liên gần gũi nhau do không chấp nhận cuộc hôn nhân của chúng tôi mà phải vì một lý do nào khác tôi không hiểu thấu được. Trăn trở lời trối trăng của mẹ tôi, Mẹ khuyên con đừng để tình cảm dính líu vì có nhiều điều không tiện cho mẹ nói rõ ra, tôi vẫn không hiểu cho hết mẹ tôi muốn nói gì với tôi. Điều gì liên quan giữa nội và tôi mà Mẹ không tiện nói cho tôi biết?

Nếu không chấp nhận cuộc hôn nhân của tôi và Liên, sao nội không nói rõ như thế mà phải tỏ thái độ như hằn học, như ganh tương với quan hệ giữa hai chúng tôi? Thêm vào đó, tôi có cảm giác Liên biết một điều gì về thái độ của nội biểu hiện qua việc thay đổi cách xưng hô của Liên nhưng lại không nói rõ cho tôi biết. Suy nghĩ cách nào tôi vẫn không tìm được câu trả lời, vì vậy tôi quyết định xin phép nội quay lại Huế sau một tháng ở nhà, viện cớ chuẩn bị bài vở để khỏi thua bạn trong năm học tới. Nội tôi không giữ tôi ở lại dù chỉ là một lời nói đưa. Ngày chia tay, Liên khóc sướt mướt:

“Anh Hai sao vậy? Đã hai năm không về thăm Liên, giờ mới về một tháng lại bỏ đi nữa. Sao vậy anh?”

Không thấy tôi nói gì, Liên thút thít bảo tôi:

“Anh Hai đã muốn thế thì cứ đi. Liên sẽ gửi mandat cho anh như mọi lần. Anh có cần thêm tiền không?”

Tôi lắc đầu nói như vậy đã quá đủ cho tôi rồi. Liên tiễn tôi ra đầu ngõ, khóc sướt mướt, dặn đi dặn lại tôi Tết về hè về. Tôi ậm ừ, dịu dàng chào Liên rồi bước vội ra đường không ngoái đầu nhìn lại dù biết Liên còn đứng đóng ngóng theo bước chân tôi.

Ngày tốt nghiệp sư phạm và đại học, tôi đánh điện về báo tin cho ông tôi và cho Liên. Liên đánh điện bảo tôi về nhưng tôi kiếm cớ đợi nhận Sự Vụ Lệnh bổ nhiệm nên viết thư về cáo lỗi.

Trong thư gửi Liên, tôi bảo Liên từ nay đừng gửi tiền cho tôi nữa vì tôi đã có lương.
Tôi không cho ông tôi cũng như Liên biết địa chỉ nơi tôi được bổ nhiệm đến dạy học nên có muốn hai người cũng chẳng biết cách nào liên lạc với tôi.
* * *
Hai năm sau ngày chính thức thành thầy giáo, tôi xin phép nghỉ Tết sau khi đã hoàn tất việc thi Lục Cá Nguyệt, ngày nay gọi là thi học kỳ, cho các lớp tôi dạy để về dự giỗ bà nội và mẹ tôi. Vì giỗ bà tôi và mẹ tôi chỉ cách nhau ba ngày nên ông nội tôi ngay năm đầu sau khi mẹ tôi mất đã quyết định chọn ngày giữa hai ngày chính để giỗ chung. Đã bốn năm xa quê nên cảnh vật đã có nhiều thay đổi. Quận lỵ đã phát triển rộng thêm, nhiều dãy nhà ngói nhà lầu khang trang nằm xen kẽ với các mái nhà tôn khiêm nhường. Hàng quán mở ra san sát hai bên lề đường.

Căn nhà ngói cũ thừa kế nơi ông tôi đang ở cũng đã được thay thế bằng một ngôi nhà lầu nhỏ gọn hơn nhưng khang trang tân thời hơn. Sân trước tráng xi măng kéo dài thành một lối đi ra tận ngõ đóng lại bằng hai cánh cửa sắt. Vườn trước vườn sau đều có tường thành vây bọc. Trên sân trước, nhiều cây cảnh mới tôi không thấy trước đây nằm ngang hàng thẳng lối cạnh các cây cảnh quen thuộc. Mai trong chậu và trong vườn đã bắt đầu nở hoa, loáng thoáng mấy cánh hoa vàng chen lẫn giữa các chùm nụ xanh biếc. Gia đình tôi vốn thích mai vàng. Bản thân tôi cũng mê mẩn với các cây mai nở rộ hoa vàng mỗi dịp Tết.

Không đợi mời, tôi mở chốt cánh cổng sắt bước theo lối đi vào nhà. Chẳng thấy bóng dáng một ai. Chợt một đứa bé chừng bốn năm tuổi đột ngột từ trong chạy ùa ra, tay ôm một chiếc xe đồ chơi làm bằng gỗ. Tôi mỉm cười, lòng thắc mắc chẳng biết chú bé con cái nhà ai mà có thể chơi với đồ chơi vốn là của tôi ngày tôi bằng tuổi chú bé. Thấy tôi, chú bé dừng lại nhìn dò hỏi. Tôi lên tiếng:

“Cháu con ai? Mẹ cháu tên gì?”

Đứa bé nói chưa sõi:

“Dạ cháu tên Tâm, con mẹ Liên.”

Tôi như ngạt thở, ngồi xuống ngang tầm đứa bé:

“Cháu nói mẹ gì?”

“Dạ, mẹ Liên.”

“Còn cha cháu?”

Đứa bé như muốn bỏ chạy. Tôi nắm tay nó nhắc lại câu hỏi:

“Cha cháu tên gì?”

Nó nói tên ông nội tôi. Tôi đứng bật dậy như vừa chạm phải một tảng băng lớn. Cùng lúc đó, tôi nghe giọng nói thánh thót quen thuộc từ nhà sau vọng lên:

“Tâm, con đâu rồi, lại đây với Mẹ.”

Liên chạy vội lên tìm con và khựng lại khi nhìn thấy tôi:

“Ô, anh Hai. Anh về bao giờ sao không báo?”

Liên nói trống không, không xưng tên hay xưng em như quen nói trước đây. Không trả lời, tôi hỏi ngược lại:

“Con Liên đây sao? Cha nó là ai?”

Liên cúi gầm mặt, ngập ngừng rồi không nhìn thẳng vào tôi nói như hơi thở:

“Là ông nội.”...!!!

Tôi cố nhìn mặt Liên mong tìm thấy dấu vết đùa nghịch dối trá trong đó. Nhưng không, Liên cúi gầm mặt thú nhận. Tôi quay phắt người nắm chiếc túi xách mang theo và bước vội ra cửa. Liên chạy vội theo khóc lớn:

“Anh Hai, đừng đi.”

Tôi không trả lời, bước mau hơn. Đột nhiên, tôi nghe đằng sau lưng tôi tiếng Liên thở hổn hển:

“Anh Hai, đừng giận em.”

Liên dúi vào tay tôi một bức thư bỏ phong bì dán sẵn sàng chứng tỏ thư đã được viết từ lâu. Liên nói nhanh một hơi như sợ tôi bỏ đi trước khi nghe hết những gì Liên muốn nói:

“Xin anh hiểu cho em. Em yêu anh và biết anh cũng yêu em. Đọc thư, anh sẽ biết tại sao em không nhận lời anh cầu hôn và tại sao em không giải thích lý do ông nội có thái độ khó chịu với anh mỗi lần anh về nhà.”

Tôi im lặng bỏ bức thư vào túi áo, khẽ chào Liên mà không quay mặt lại rồi bước mau như chạy:

“Vĩnh biệt em.”

Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi gọi Liên bằng em.

Thư Liên xin lỗi vì đã phụ tôi, kể lại việc ông tôi đã tìm cách lân la với Liên từ lúc Liên còn nhỏ, thời tôi còn học Tiểu học.

Sau khi bà nội và nhất là sau khi mẹ tôi mất, ông tôi chẳng còn e dè gì nữa.
Vì thế, mỗi lần tôi về ông tôi đều tỏ vẻ khó chịu ra mặt khi thấy Liên và tôi gần gũi thân mật với nhau. Không lâu sau lần tôi về thăm nhà trước lần này, Liên có thai và ông tôi tổ chức lễ cưới, chẳng báo cho tôi biết cũng không cho phép Liên nói gì với tôi.

Xin anh hiểu cho em. Em một thân một mình, đã thất thân với ông khi em mới lên mười hai mười ba tuổi. Vì vậy, mặt mũi nào em nhận lời yêu anh. Lòng em quặn thắt vì biết anh đau đớn khi không được em nhận lời.

Mẹ đã biết chuyện ông nội bậy bạ với em từ ngày em còn ít tuổi nhưng đã không nói gì, chỉ khéo léo dặn anh đừng dính líu đến em.

Cũng vậy, Mẹ đã bắt em thề không được đến với anh. Anh bảo em phải làm gì khác bây giờ? Thú thật mọi chuyện với anh để xin anh tha thứ? Bỏ nội để đi nơi khác? Đi đâu khi em tứ cố vô thân? Đến với anh? Ngàn lần không được, em không thể đem tấm thân không còn trinh trắng đến làm hại cuộc đời anh, nhất là nếu anh biết được người lấy đi sự trong trắng của em lại chính là ông nội.

Đời oái oăm quá! Đời đánh tôi đau quá! Đánh đau đến độ tôi không biết cựa quậy thế nào để tránh. Con của người tôi yêu giờ là chú ruột tôi? Người tôi yêu giờ là bà nội kế của tôi?

Mai vàng trong vườn hai bên ngõ ra đường cái đang loáng thoáng khoe sắc nhưng tôi không còn cảm thấy Xuân đang về, Tết đang đến. Tại sao Tết lại trở thành ngày tôi phải chịu tang, một Tết chịu tang bà nội tôi, một Tết chịu tang mẹ tôi, và Tết này chịu tang cho tình yêu của tôi?

Trần Hữu Thuần
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 21/Mar/2022 lúc 8:59am

Vợ Người Vợ Ta

10%20Countries%20with%20the%20Most%20Beautiful%20Women%20in%20the%20World%202021


Hắn và vợ cùng tuổi, chung lớp chung trường, nói như nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn thì là: Đôi bạn ngày xưa học chung một lớp, nhưng vợ và hắn không phải ở cuối phố, cũng chẳng có cây bưởi sau nhà tỏa hương ngan ngát, vợ hắn cũng không e ấp, ép cánh hoa bưởi trắng ngần trong chiếc khăn tay rồi ngập ngừng dúi vào tay hắn như những cô bé trong bài thơ .

Nhà vợ hắn ở đầu thôn, nhà hắn cuối thôn. Cuối năm lớp 12, trong một lần đi học về, thấy cô nàng lếch thếch cuốc bộ, hắn lại gần, định ra tay hảo hán nhưng vợ hắn đã nhanh nhảu, ra lệnh :

-Ê .. ông cho tôi đi nhờ về nhà!

Thế là từ đó, hai người thân nhau hơn, rồi hẹn hò, yêu nhau như những cặp đôi khác. Nhưng khổ nỗi, ngay cả nụ hôn đầu tiên thánh thiện của tình yêu, cô ta cũng không để cho hắn chủ động mà cô ta lại kéo hắn hôn trước ngay gốc cây ổi đầu ngõ. Cuối cùng, hắn và cô nàng cũng nên vợ nên chồng. Vợ chồng hắn hợp nhau ở chỗ không có đầu óc dùi mài kinh sử nên sau khi học xong PTTH về với đồng ruộng, cày sâu cuốc bẫm, giữ hồn quê, giữ mùa hoa cải vàng nở rộ bên sông, giữ cánh đồng lúa mơn mởn, ngậm sữa thơm đến tận chân trời cho người thành phố về thăm quê, chụp ảnh, seo- phì đăng phây- bút…

Hàng xóm nhà hắn cũng cùng tuổi, trong khi hắn hai đứa con gái một đứa 15, đứa 13 thì con trai lão hàng xóm mới 6 tuổi, chả là vì ngoài 30 bên ấy mới lấy vợ. Lấy vợ muộn lão ấy lại may mắn hơn. Đẻ ngay được đứa con trai kháu khỉnh, bụ bẫm, nhìn sướng cả mắt . Cô vợ trẻ măng, mượt mà nữa chứ ! Còn vợ hắn cái gì cũng tiếc của chả dám ăn ngon mặc đẹp, nói ra thì “nhảy” vào banh quai hàm hắn :

-Ông khỏe mạnh được mãi à? Lúc đau ốm, con cái học hành…lấy xương sườn ông mà bán hả?Thấy vợ giãy như”đỉa phải vôi” hắn im lặng cho nhẹ tội… Nhìn vợ hàng xóm hắn thèm nhỏ dãi, đã xinh đẹp ,nói năng nhỏ nhẹ lại còn dịu dàng, đến bữa ăn nghe vợ hàng xóm thánh thót :

-Anh ơi, dừng tay vào ăn cơm!

Còn vợ hắn thì gắt như mắm tôm:

-Ông có ăn không thì bảo!

Thế là hắn phải vội vàng vào ngồi với ba con bướm, lặng lẽ ăn cho xong bữa, chả muốn ý kiến ý cò: món này ngon, món kia dở .

Hôm nào vợ gã hàng xóm mua tí mỡ màng và chút cay cay về, gọi hắn qua chén tạc chén thù, ngồi quá giờ cơm tối một tí là vợ hắn la oai oái :

-Ông có về không hay ngủ ở ngoài? Còn vợ hàng xóm tâm lí, khuyến khích chồng :

-Nam vô tửu như kì vô phong !Nên lão hàng xóm cứ nhâm nhi vô tư, còn hắn phải về chứ không mụ vợ cửa đóng then cài có mà đêm nay ngủ khách sạn ngàn sao .

Nhà hắn và nhà hàng xóm cách nhau cái rào râm bụt nở hoa đỏ rực, lá xanh rờn. Anh hàng xóm chăm bón, tỉa tót kĩ càng lắm. Rào hoa ấy, hàng xóm trồng tặng vợ vì cô vợ trẻ thích hoa dâm bụt. Còn vợ hắn thì chả biết thích hoa gì, mà hắn cũng chả dám tặng hoa cho vợ. Bây giờ mà hắn tặng hoa cho cô ta không khéo lại bị nghi ngờ làm cái gì có lỗi. Chả dại gì mà rước họa vào thân. Hắn còn nhớ có lần ấy, vợ hắn đi chợ về muộn, ngóng mãi ra đầu ngõ. Trời tối, nhà ai cũng lên đèn, hắn lo cho vợ nhưng vừa thấy hắn, một tràng đại liên đã bắn ra:

-Ông làm cái gì mà phải canh chừng tôi thế ? Hắn định nói :Anh thấy mình chưa về, lo quá! Nhưng hắn biết thế nào cô ta cũng phang cho hắn:

-Á, lo cho con nào , rồi lấy con này làm bình phong hả ?

Nghĩ lại chuyện cũ hắn tự nhủ: Thôi, thôi! Chả hoa hòe, chả bay bướm, văn vẻ gì cho lành! Cứ mỗi lần nghe nhà bên kể về người vợ trẻ, xinh đẹp, dịu dàng, giỏi giang của lão, lòng hắn như có ai châm kim vào, hắn tê tái thấy mình kiếp trước vụng tu!

Chiều 30 Tết, hắn đang quần đùi lò xo, áo sống tả tơi với nồi bánh chưng, bởi trước khi đi chợ tết , vợ hắn đã dặn dò :

- Ông cấn thận nồi bánh đấy, bánh cháy cả năm hạn đấy! Cô ta mê tín thò lò như thế thì làm sao hắn dám lơ là. Bánh mà cháy, chuyện gì không may xảy ra trong năm … có mà không yên với vợ. Nghĩ thế nên hắn chăm bẵm vào nồi bánh. Chợt nghe bên hàng xóm ồn ào, đồ đạc loảng xoảng… hắn vội vàng nghển cổ qua rào dâm bụt (Hàng xóm mà! tối lửa tắt đèn phải có nhau chứ !) Một đám người xăm trổ đầy mình, dơ cái sổ đỏ ra :

-Cha con mày cút, con vợ mày cắm sổ vay tiền theo trai, quá hạn trả lãi,tụi tao lấy nhà, lấy đất!Có đi hay không để tụi tao còn xin tí huyết của thằng con!

Nhìn bọn người này dữ tợn, xăm trổ đấy mình, thằng con khóc thét lên.Gã hàng xóm run bần bật :

-Các anh thư thư để bố con em ra giêng!Bọn đầu gấu vất mấy bộ quần áo của hai cha con vào cái túi ném ra ngõ:

-Không giêng hai gì cả, con vợ mày lừa tụi tao, bây giờ tụi tao phải lấy nhà, lấy đất …hay mày giấu nó ở đâu ?

Gã líu cả lưỡi:

-Giấu gì? Các anh mà tìm thấy nó , báo…báo… cho em với , em giết nó!

Hắn thò đầu qua , ra hiệu bảo bố con hàng xóm qua nhà hắn.Hai bố con hàng xóm thất thểu lê gót qua nhà hắn:

-Tao hận..hận..con đàn bà đốn mạt !

Hắn tỏ vẻ thông cảm hỏi :

-Sao lại ra nông nỗi này? Thôi,ông cứ ở đây , rồi ta tính !

Thì ra cô hàng xóm xinh tươi ấy,cặp kè, ôm ấp trai trẻ từ lâu rồi mà chồng không biết.Những lần cô ta mua mồi nhắm về chuốc cho chồng say bí tử, nằm bẹt không biết trời trăng mây gió gì là để dẫn trai về nhà… Cô ta cuỗm sạch tiền bạc, cầm cả sổ đỏ theo tình trẻ cả tuần nay,bố con gã hàng xóm có liên lạc được đâu !Hai bố con mì tôm, bún, bánh… cả tuần chả có hạt cơm nào vào bụng !

Vừa lúc đó vợ hắn đi chợ về, không cần kể lể vợ hắn đã hiểu chuyện an ủi:

-Thôi, chuyện gì cũng có pháp luật!Bố con bác cứ ở đây ăn Tết với nhà em cho có bạn có bầu, ra giêng ta nhờ đến cơ qua chức năng giải quyết!

Thì ra chuyện vợ xóm ngoại tình vợ hắn biết từ lâu, chỉ có hắn là vẫn ngưỡng mộ, mơ màng người đàn bà lẳng lơ ấy, còn đem so sánh người vợ Tào khang của mình với vợ hàng xóm nữa chứ!

Chưa bao giờ hắn thấy vợ đáng yêu thế:Trời ơi, gót chân bùn, nứt nẻ nhìn thấy thương vô cùng. Giọng nói cục mịch,gắt gỏng hắn lại thấy ấm áp , gần gũi.Làn da rám nắng,đen sạm hắn lại thấy khỏe mạnh,đáng yêu…Hắn nhìn vợ tủm tỉm cười, vợ hắn quát :

-Ông điên à, bạn như thế mà còn cười được.. đi dọn ngay cho bố con bác ấy cái giường ở gian lồi!Rồi cô ấy gọi con gái :

-Na, múc cho bác và em bát cháo gà, mẹ hầm trong nồi cơm điện ấy!

Chưa bao giờ hắn thấy yêu ba con bướm nhà đến thế !Hắn nghĩ trong ruột :Sau này hai con bướm trẻ bay đi theo lũ bướm đực , hắn sẽ yêu thương và chăm sóc con bướm già này đến đầu bạc răng long 


Si Trang - Theo Chuyện làng quê



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Mar/2022 lúc 9:33am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 23/Mar/2022 lúc 3:09pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Mar/2022 lúc 12:10pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Mar/2022 lúc 1:09pm

LỜI XIN LỖI.....MUỘN MÀNG


4401%201%20LoiXinLoiMuonMangSTam4401%201a%20LoiXinLoiSTam

       Sắp xếp đồ đạc trong phòng sau khi mẹ qua đời, anh phát hiện ra cuốn nhật ký, mẹ viết:

-"Hồi nhỏ, mỗi lần cho con ăn, ba và mẹ chạy theo con khắp nhà để bón từng muỗng cơm, có muỗng con ăn có muỗng con nghịch nhả ra khắp nhà, cho con ăn xong tuy mệt mẹ phải dọn dẹp.

-Bây giờ, mẹ già rồi, tay chân lóng ngóng làm đổ vài hạt cơm mà con đã nhăn mặt khó chịu.

-Hồi nhỏ, mỗi lần mặc đồ cho con, mẹ phải tìm đủ mọi cách để mặc được bộ đồ vì quá nghịch.

-Bây giờ, tay run, mắt mờ, mặc đồ cho mẹ khó, con lại nói nặng lời.

-Hồi nhỏ, mỗi khi con ngủ, mẹ vẫn hàng đêm kể chuyện cho con nghe để có giấc ngủ ngon.

-Bây giờ, tai mẹ nghe không rõ, mẹ hỏi lại, con lại hét lên: tai bị điếc à.

-Hồi nhỏ, con hiếu kỳ, gặp cái gì cũng hỏi, mẹ giải thích cặn kẻ, có những điều không biết mẹ phải đi hỏi người khác để về trả lời cho con.

-Bây giờ, mẹ hỏi con, con lại nói: thôi mệt đừng hỏi nữa, lẩm cẩm rồi.

-Một đêm mưa to, gió lớn, nước lụt đang dâng lên, con bị sốt, mẹ choàng vội tấm áo mưa cho con, bế con chạy hàng cây số đến trạm xá.

-Bây giờ, trái gió trở trời, mẹ ho, con lại cằn nhằn: ho chi ho lắm vậy không cho ai ngủ cả"...

...

Anh lặng người khóc và đứng trước di ảnh: Mẹ ơi ! con xin lỗi mẹ.

Sưu tầm

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 01/Apr/2022 lúc 7:49am

Cơm canh nóng sốt

Nguyễn%20Huệ%20Hải%20Ngoại:%20Cơm%20Canh%20Nóng%20Sốt

Buổi chiều hai “vợ chồng son” ngồi vào bàn ăn. Bà Lệ mở nồi cơm điện, xúc ra hai bát cơm thì ông Kính lên tiếng hỏi ngay:

– Vẫn cơm buổi sáng hả?

– Cơm còn nhiều đủ cho buổi chiều anh ạ.

Nét mặt ông không vui:

– Em biết là anh chỉ thích ăn cơm nóng mới nấu thôi mà.

– Vâng, em biết, nhưng cơm còn nhiều, nấu thêm cơm mới ngày mai chúng ta lại có cơm cũ.

Ông lại nhìn vài con tôm bày trong chiếc đĩa nhỏ xinh xinh bên cạnh bát canh rau cải xanh nấu thịt bò cũng nho nhỏ xinh xinh và… phát giác:

– Tôm rim của ngày hôm qua, còn bát canh của buổi sáng nay. Anh nhắc lại anh chỉ muốn cơm canh nóng sốt, bữa nào ra bữa ấy.

Giọng bà dỗ dành:

– Ngoan đi, nghe lời em. Hôm nay em hơi mệt, anh chịu khó ăn đồ còn dư đỡ mất công em nấu, đỡ tốn tiền và đỡ chật tủ lạnh.

Bà đã nhẫn nhịn, đã dịu ngọt mà ông Kính vẫn sưng sỉa, bưng bát cơm ăn như kẻ bị lưu đày, bị đối xử tàn tệ.

Ông ăn lưng bát cơm thì buông đũa và suồng sã thô lỗ đứng dậy xong bữa.

Bà Lệ cảm thấy bị tổn thương và ngán ngẩm. Nỗi buồn bã và ân hận dâng lên tận cổ. Bà nghẹn lời không muốn nói gì nữa.

Mới ở với nhau hơn một năm mà ông Kính đã thay đổi và lộ hẳn con người thật của ông. “Chàng” của năm ngoái, thuở mới quen không còn nữa.

Hai ông bà gặp nhau trong một buổi sinh hoạt cộng đồng ở Nam Cali. Họ ngồi cạnh nhau. Ông Kính bắt chuyện làm quen trước, qua vài câu thăm hỏi khéo léo, cả hai cùng biết chút đời tư của nhau, cùng độ tuổi và cùng góa bụa đơn lẻ như nhau.

Bà Lệ về hưu tiền ít ỏi nên xin hưởng welfare, bà ở căn apartment dành cho người cao niên lợi tức thấp. Ðứa con trai duy nhất của bà đã lập gia đình, vợ nó người Mỹ. Một, hai năm vợ chồng nó mới từ tiểu bang khác về Cali thăm bà.

Bà Lệ quen với cảnh sống một mình kể từ khi chồng bà qua đời và con ở xa. Căn phòng bà ở tầng hai, có lan can cửa sau ngập bóng mát cây cao, bà kê chiếc ghế dựa dài ở đây, những lúc rảnh nằm thảnh thơi đón gió và đọc sách báo. Thỉnh thoảng bà gấp sách báo, ngừng đọc cho đỡ mỏi mắt và phóng tầm nhìn xa mây trời lênh đênh hay nhìn xuống dưới đất người ta qua lại trong khu apartment mà vui.

 

Benefits%20of%20Being%20in%20Nature%20-%20The%20Shores%20of%20Lake%20Phalen

Từ khi ông Kính làm quen, niềm vui của bà nhiều hơn. Ðã mấy lần bà ngồi ở lan can hiên sau nhìn thấy ông Kính đang đậu xe và đi bộ vào nhà bà, ông ngước lên, bà nhìn xuống, bốn mắt ở xa nhau mà cùng giao cảm, cùng rộn ràng. Họ như mới ở tuổi đôi mươi hẹn hò.

Mỗi lần ông đến thăm luôn mang theo một món quà, khi thì bó hoa đẹp nên thơ lãng mạn, khi thì thực tế một hộp heo quay và hai ổ bánh mì còn nóng để hai người cùng ăn.

Bà đáp lễ, có lúc mời ông dùng chung bữa cơm trưa, cơm chiều, ông đều vui vẻ ăn và khen ngon, dù đó là nồi cơm bà nấu hai ngày ăn chưa hết, là nồi cá kho ba ngày vẫn còn, hay nồi thịt kho trứng ít nhất cũng vài ngày cứ kho đi kho lại. Bà cảm động vì đã gặp người cùng sở thích, cảm thông.

Bà tính đơn giản và tiết kiệm vì đồng tiền ít ỏi. Một mình nấu một chén gạo chỉ dính nồi thì bà nấu hẳn vài chén gạo để ăn vài lần, các món kho, món mặn cũng thế.

Bà có nhiều thời giờ thảnh thơi xem phim truyện trên you tube và đọc sách bạn bè gởi tặng hay báo miễn phí tha về một đống từ chợ búa.

Khi ông Kính ngỏ lời muốn kết hôn với bà, muốn cùng bà “dìu nhau” đi nốt quãng đường đời còn lại, bà đắn đo nhiều lắm. Ðánh đổi cuộc sống độc thân tự do và nhàn hạ lấy cuộc sống chung hai người trên danh nghĩa vợ chồng rất nhiều khác biệt. Ít nhiều bà sẽ lệ thuộc vào ông.

Về với ông nhà cao cửa rộng, tiền bạc không thiếu. Nhưng trái tim đa cảm của bà đã chọn ông, chọn cuộc sống cuối đời với người mà bà tin là tri kỷ tri âm chứ không vì những thứ vật chất ấy.

Nhà bà cách nhà ông chỉ 30 phút lái xe mà hai khung trời khác biệt. Ông ở trong khu sang trọng, căn nhà to đẹp, cuộc sống trung lưu. Các con ông đứa nào cũng thành danh trong ăn học, trong kinh doanh.

Khi bà dọn về với ông, ba đứa con ông giỏi xã giao lịch sự với bà, nhưng bà vẫn đọc thấy trong mắt chúng nhìn bà với vẻ ái ngại và nghi ngờ. Chắc chúng tưởng bà ăn welfare này lấy ông vì tài sản và danh giá của gia đình ông. Chúng đâu biết ông đã phải năn nỉ, cầu mong bà nhận lời và bà đã đắn đo suy nghĩ mãi mới đi đến quyết định sống chung.

Những ngày đầu sống chung đã là những tuần trăng mật. Họ như đôi vợ chồng son luôn cho nhau những ánh mắt thắm tình và nụ cười trìu mến bao dung. Họ xưng hô “anh, em” ngọt ngào và trân trọng.

Nhưng ông Kính không đơn giản như bà nghĩ. Chắc ông quen sống trong giàu sang, quen được chiều chuộng và quen ra lệnh sai bảo người khác nên ông khó tính khó nết đến khác người. Nhà chỉ hai người nhưng ông muốn cơm phải nấu hai bữa sáng chiều; món trưa khác, món chiều khác. Bữa ăn luôn là cơm canh nóng sốt.

Ban đầu bà hào hứng chiều ý ông, nghĩ ra những món ăn ngon để thay đổi và không trùng lặp. Bà lên danh sách những món cho mỗi tuần. Chưa bao giờ bà phải trổ tài gia chánh chăm chỉ đến thế, chồng con bà trước kia chưa được bà tận tình chăm sóc như vậy.

Dần dần bà cảm thấy mệt mỏi với công việc bếp núc ngày hai bữa này, vì cả khi bà cảm thấy nhức đầu sổ mũi, muốn được nghỉ ngơi vẫn phải lăn vào bếp. Khi xưa ở một mình, nếu không thể vào bếp bà chỉ ăn một tô mì gói cũng xong bữa.

Hôm nào bà ước lượng sai, còn dư cơm dư canh là bị ông cằn nhằn hao tiền tốn bạc vì ông không thích ăn lại món cũ dù cùng một ngày. Ông đưa ra thí dụ cho bà học hỏi:

– Tách trà ngon chỉ nhỏ bằng hạt mít, nhấp từng chút một mới thú vị, cũng trà ấy mà cho vào ly cối tổ bố và uống ào ào thì chẳng ra gì. Cơm canh em cứ nấu ngày hai buổi, mỗi thứ một ít vừa đủ thôi, trông thanh cảnh và ngon.

Bà chán kiểu ăn uống “quý phái” của ông quá rồi. Bàn ăn mỗi thứ một chút, bày trong bát đĩa sạch đẹp sẵn sàng để mời ông ngồi vào bàn như một khách quý. Lúc còn ở apartment bà từng vừa ăn ổ bánh mì vừa nằm ghế dựa và nhìn mây nhìn gió ngoài hiên sau nhà cũng là hạnh phúc.

Có lần bà làm bếp, đang đứng chặt miếng sườn heo non trên kitchen island thì ông hơ hải từ trong phòng chạy ra và… chỉ thị:

– Em làm gì ầm ầm thế? Mang xuống nền nhà, tha hồ mà băm mà chặt cho đỡ hư cái quầy này.

– Ngồi đau lưng lắm, mà em chặt vài nhát sườn non thôi mà.

Tuy nói thế nhưng bà vẫn phải mang thớt xuống đất để chặt miếng sườn cho xong còn hơn là đứng lý luận với ông vì biết là sẽ không có sự thông cảm.

Hay khi bà vào rửa mặt trong restroom thì ông đã vài lần theo bén gót chỉ để nhắc nhở:

– Em đừng làm nước văng tung tóe lên trên kẻo sinh ra nấm mốc, khó sửa chữa lắm.

-Em biết rồi, dù ở apartment em vẫn cẩn thận giữ gìn thế mà. Anh cứ làm như em mới đến Mỹ ngày hôm qua.

Ông Kính rất quý căn nhà của ông, sợ bẩn tường, trầy sơn hư hỏng đủ thứ. Có lần ông nói hớ, bà Lệ hiểu rằng căn nhà này ông đã sang tên cho con gái út và nó muốn ông phải giữ gìn nhà cho tốt để sau này bán sẽ được giá.

Thì ra cha con nhà ông tính toán quá. Biết đâu ông cũng đã chia tiền của, sang tên tài sản cho các con rồi mới được quyền bước thêm bước nữa. Cũng may bà chưa làm hôn thú giấy tờ gì với ông cả, chỉ dọn đến sống chung trước nên đỡ mang tiếng.

Bà Lệ bỗng nhận ra mình như kẻ ở nhờ, hầu hạ cơm nước cho “chủ”, chăm sóc dọn dẹp căn nhà cho “chủ” và mất quyền tự do của chính mình.

Hiếm hoi lắm gia đình thằng con trai mới về thăm bà. Bà không muốn tiếp đón chúng trong căn nhà không phải của bà. Mẹ con bà cháu đã hẹn nhau ở nhà hàng, xong con cháu về khách sạn, bà về nhà… chồng.

Hôm ấy bà tủi thân, nghĩ đến con cháu mà rơi nước mắt. Ðáng lẽ con cháu sẽ ùa vào căn phòng apatment như mọi lần, bà sẽ nấu bữa ăn ngon đãi con trai và con dâu, bà mua bánh kẹo mà hai đứa cháu nội yêu thích, chúng sẽ tha hồ cười nói, đùa nghịch và làm xáo trộn căn phòng hẹp. Gia đình bà sẽ trò chuyện hỏi han nhau nhiều hơn, vui vẻ hơn, ấm cúng biết bao nhiêu.

Ông Kính đã không hiểu được nỗi lòng bà, không an ủi mà còn cau có:

– Gặp con cháu thế đủ rồi, gặp nhiều thêm phiền phức chứ ích lợi gì.

Bà Lệ âm thầm xin thuê lại một căn phòng trong khu chung cư cũ, căn phòng trước kia có bóng cây cao râm mát nơi lan can sau nhà đã có người khác ở. Nhưng căn phòng nào cũng là căn phòng độc thân, căn phòng vui vẻ cho bà trở về.

Khi nhà cửa đã thuê xong xuôi bà Lệ mới lên tiếng chia tay ông Kính. Ông tức giận và ngạc nhiên. Ông đơn giản tưởng bà thoát khỏi cảnh nhà nghèo, rời xa khu chung cư rẻ tiền về với ông ở nhà đẹp, đi xe sang sẽ là may mắn và hãnh diện cho bà.

Thấy bà cương quyết đòi chia tay, ông đành xuống nước năn nỉ. Dù ông thương yêu bà bao nhiêu không làm bà Lệ xúc động nữa. Bản chất vẫn là ông Kính dở hơi khó tính, là người chồng gia trưởng, không thích hợp với bà.

Xách valy ra khỏi cửa nhà ông, bà Lệ đổi cách xưng hô và cay đắng nói:

– Mỗi ngày ông chịu khó hai lần ra khu chợ Việt Nam, vào hàng cơm chỉ nhé. Sáng chỉ một vài món, chiều chỉ một vài món là luôn có cơm canh nóng sốt, thức ăn đổi mới cho ông vừa lòng.

Nguyễn Thị Thanh Dương

                                                                                                                                 (Từ một câu chuyện Đỗ Dung kể)



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 01/Apr/2022 lúc 7:50am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Apr/2022 lúc 3:43pm

MỘT GÓC ÐỜI TỊ NẠN

 

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

 

 

Vợ chồng tôi và bốn đứa con qua Mỹ theo Chương trình Tái Ðịnh Cư Cựu Tù Cải Tạo đợt HO8. Vì là diện “đầu trọc”, không có bạn bè thân nhân bảo lãnh, nên được phân bổ đến tiểu bang còn thưa dân của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ: Arizona. Hội thiện nguyện đón gia đình tôi tại phi trường Phoenix và đưa đến ở trong căn apartment hai phòng, cách thủ phủ của tiểu bang ba mươi phút lái xe.

 

            Nhờ theo mấy khóa luyện Anh ngữ trước khi ra đi, nên con tôi đứa nào cũng bập bẹ được tiếng Mỹ. Chỉ qua vài ngày “nhập gia” là chúng nó kết bạn với một nhóm Mỹ con cùng dãy chung cư. Mấy hôm sau, cả đám tự động mang đến nhà tặng chiếc TV màu 9 inches còn xài tốt. Con tôi mừng như được trúng số.            

                                           

         Ngày còn ở Việt Nam, cha mẹ không sắm nổi truyền hình dù là loại rẻ tiền đen trắng, nên hàng đêm chúng phải qua nhà láng giềng xem ké. Phiền một nỗi là ông cán bộ cằn nhằn mang bụi đất vào làm dơ cái nền nhà tráng cement mà ông lau chùi hàng ngày lên nước láng bóng. Hai đứa con nhỏ của ông đưa từ Hà Nội về cứ để lưng trần nằm lăn trên nền mà ngủ. Sau nầy, để tránh cái đám trẻ con hàng xóm làm dơ nhà, mỗi lần mở truyền hình là ông đóng chặt cửa lại.

           

 Mục sư Hồ là người Việt duy nhất đến thăm chúng tôi nhiều lần. Một hôm, ông ngỏ ý chở cả nhà đi xem thủ phủ  của Tiểu bang và đến vườn hái nho.  

Nghe đuợc hái nho là lũ con tôi mắt sáng lên. Chúng vội vã vọt lên xe chẳng cần đợi mời lần thứ hai.  

 

Sáu mạng người ngồi trong thùng phía sau xe truck có mui. Trên đường đi, gió nóng quạt vào mặt như đến gần ngọn núi lửa khiến tôi nhớ đến truyện Tây Du Ký, đọan thầy trò Tam Tạng sắp phải băng qua ngọn hỏa diệm sơn, Tề Thiên Ðại Thánh phải mượn quạt ba tiêu của Thiết Phiến công chúa quạt cho tắt lửa để Ðường Tăng tiếp tục trên con đường thỉnh kinh.

 

Mục sư Hồ không có quạt ba tiêu nhưng xe ông có máy lạnh. Tiếc rằng máy lạnh của xe pickup chỉ dành trong phòng lái nên sáu đệ tử của ngài bị nhốt trong  thùng sau xe mệt ngất ngư vì cơn nóng thiêu người.  

Nắng tháng Tám nám trái bưởi ở Việt Nam, có nghĩa gì so với cái nóng không có độ ẩm của vùng sa mạc nầy. Mồ hôi bị bốc hơi ngay từ trong lỗ chân lông nên làn da khô khốc.

 

Xe chạy về hướng Tucson, mất hơn một giờ thì rẽ vào đường tắt, cánh đồng nho hiện ra xanh ngút mắt.

 

            Mục sư liên hệ với chủ nhà vườn, mỗi người nhận một con dao nhỏ và chiếc giỏ đựng nho. Lần đầu tiên trong đời, chúng tôi mới nhìn thấy tận mắt những chùm nho chín mọng đong đưa trên cành. Tha hồ ăn và tha hồ hái. Người nào cũng cố hái cho thật nhiều mang về nhà bỏ tủ lạnh để dành ăn cho đã đời, ngàn năm một thuở mà!

 

Tôi nghĩ thầm: “Người Mỹ rộng rãi thật, nho còn đẹp thế nầy mà đã cho vào hái mót.”

 

            Thằng Út nhà tôi thích quá, vui như sáo. Bụng đói và khát mà được ở giữa vườn nho thì khỏi chê vào đâu. Nó ham hố ăn ngấu nghiến không ngừng nghỉ, những trái nho chín mọng, ngọt lịm cứ liên tiếp ngốn vào mồm. Ðược một lúc, bỗng cu cậu ôm bụng, mặt tái xanh, ngã quỵ xuống gốc nho, mắt trợn trừng. Ông Mục sư hoảng hốt vội vàng vác nó lên vai định đưa vào phòng người coi vườn  cấp cứu, chợt nó mữa thốc mữa tháo trên ngực áo ông, rồi từ trong quần shorts của nó chảy dầm dề phân lỏng, tuôn cả trên lưng áo của vị mục sư khả kính.    

              

Sau khi ộc ra hết cả số nho đã lên men trong dạ dày, cu cậu khỏe lại ngay. Tội nghiệp cho vị Mục sư  phải đứng tắm ngoài trời bằng vòi nước tưới cây và “bác tài xế Mục Sưphải mặc bộ đồ ướt lái xe về nhà.

 

            Tập trung số nho của gia đình hái được là 30 pounds, tiền phải trả là 60 đô, chúng tôi nhìn nhau ngỡ ngàng.  Mục sư Hồ không nói rõ ràng là đi mua nho tự hái ngoài vườn, khiến chúng tôi cứ tưởng đi hái mót nho như ở quê nhà mót bắp, mót dưa.

                                    

Hẳn nhiên là không có tiền để mua, nhưng bù lại, người nào cũng được đầy một bụng nho, chỉ trừ thằng Cu Út đã trả lại hết cho chủ vườn.

 

Với tấm lòng hào hiệp, Mục sư chi ra 10 đô-la mua nho biếu chúng tôi mang về. Vị chủ chiên đã “tốn than còn tan lưỡi cày!” Ngài đành bỏ luôn cuộc thăm viếng thủ phủ Phoenix.

 

Hai tuần lễ sau, hội thiện nguyện giới thiệu vợ chồng tôi vào làm hãng may áo quần ở một thành phố khác, cách nhà nửa giờ chạy xe trên xa lộ. Nếu đi bằng xe bus phải qua nhiều trạm mất cả tiếng rưỡi đồng hồ.

 

Chán nản và thất vọng, tôi không còn tinh thần để lập nghiệp trên vùng đất khô cằn đầy những cây xương rồng và khí hậu khắc nghiệt nầy.

 

Dò la tin tức, tôi biết được một số bạn bè đi trước đã đến đây rồi bỏ đi. Một hôm, tình cờ tôi nhặt được một lá thư viết dở dang trong ngăn kéo bàn nơi phòng khách. Tôi nhận ra người gởi là Phan Anh Tuấn HO7, bạn cùng quê sang đây trước tôi hai tháng. Trong thư anh báo cho thân nhân sẽ bỏ tiểu bang nầy sang Florida. Theo ngày tháng trong thư, Tuấn rời khỏi căn apartment đúng một tuần lễ trước khi tôi tới.  Như vậy, gia đình tôi là kẻ kế thừa căn nhà anh thuê nửa chừng.    

 

Tôi như người ở giữa đại dương mênh mông, chẳng biết hướng nào tìm. Một hôm, bất ngờ tôi bắt gặp trong cuốn sổ tay có ghi số phôn của Huỳnh thị Phương Thanh là bạn học với em gái tôi hồi còn ở quê nhà. Hiện giờ gia đình Thanh đang định cư tại miền Bắc tiểu bang California. Nhờ điện thoại của người láng giềng, tôi liên lạc ngay và may mắn gặp được cả hai vợ chồng. Họ hứa sẵn sàng giúp đỡ, nếu gia đình tôi di chuyển đến thành phố San Jose. Như người sắp chết đuối chụp được phao, chúng tôi mừng vô hạn.

 

Ông Mục sư Hồ rất cảm thông sự khó khăn của gia đình tôi Và chính ông đã giúp tôi hoàn thành ý nguyện đi tìm một vùng đất khác.

 

Phương tiện di chuyển là loại xe bus xuyên bang. Ðúng hai mươi ngày kể từ khi đặt chân trên miền đất cực nam nước Mỹ, chúng tôi lại gánh gồng hành lý lên xe bus Greyhound thẳng đến quận hạt Santa Clara nằm về hướng tây bắc Hoa Kỳ.

   

*  *  *

 

        Vượt gần hai ngàn kí lô mết, qua một ngày một đêm, chuyến xe bus sau cùng đến thành phố San Jose vào trưa Ch nhật. Vợ chồng Thanh đã có mặt lúc xe vừa cập bến, chúng tôi mừng rơi nước mắt.

 

 Căn nhà Thanh biệt lập, có rào gỗ chung quanh gồm năm phòng rộng rãi. Chủ nhà dành cho gia đình tôi một phòng trên lầu ở tạm, đợi đến ngày đầu tháng sẽ dọn vào một căn apartment hai phòng do người cậu của Thanh đứng tên mướn hộ.

 Chỉ còn một ngày nữa là chúng tôi dọn đến căn nhà thuê, bỗng người cậu báo tin chủ apartment hủy bỏ hợp đồng mướn nhà với lý do gia đình sáu người không thể ở hai phòng.

 

       Tôi vô cùng lúng túng. Thời gian ở đậu nhà Thanh không thể lâu hơn được nữa, mà tìm mướn nhà khác thì phải chờ đầu tháng sau.

 

Lục tìm cầu may trong báo Việt ngữ mục nhà cho  thuê, may mắn tôi phát hiện một căn apartment hai phòng còn trống, Thanh vội vàng điện thoại hẹn người quản lý cho tôi đến xem nhà.

 

       Từ thành phố Milpitas đến San Jose, tôi và thằng con trai lớn thay nhau chở trên chiếc xe đạp đòn dông không có ba-ga gắn phía sau.  Người địa phương nhìn cha con tôi ôm nhau trên chiếc xe đạp với cặp mắt kinh dị. Ðối với họ, có lẽ đây là hiện tượng lạ lùng đầu tiên mà họ mục kích. Chúng tôi vô tình đùa cợt với luật lệ đi đường ở Mỹ và gây khó chịu cho những người kỳ thị giới đồng tính.

 

Chúng tôi di chuyển như thế nhiều lần trên những con đường tấp nập xe hơi mà chưa lần nào gặp cảnh sát và cũng may mắn là không chạy lạc ra ngoài freeway. Sau nầy có ông bạn HO, còn chân ướt chân ráo như tôi, đi xe đạp bên rìa xa lộ bị gió cuốn hút ra giữa đường, dòng xe cán  nát thân thể ông còn chiếc xe đạp bị văng trở lại vào lề đường.

 

Khu apartment nằm gần đường Senter, phía sau là con suối cạn. Người thuê trước  vừa dọn đi cách một  ngày. Chúng tôi quyết định mướn căn apartment hai phòng nầy với gía 650 đô-la mỗi tháng.Tiền deposit cũng 650 đồng được ông chủ nhà là một bác sĩ Việt Nam cảm thông cho khất lại tháng sau mới nộp.

 

Không chờ đợi chủ nhà quét dọn, sơn sửa mà vợ chồng cùng con cái  tự chà rửa phòng tắm, vách tường và bếp núc, chỉ yêu cầu chủ nhà kêu thợ giặt thảm mà thôi.    

                   

Ðêm đầu tiên vợ chồng tôi ở lại căn nhà mới thuê.

 

Hai căn đối diện dảy nhà tôi đều là người Việt. Bà Chín Nam Bộ mang biếu chúng tôi một tấm đắp cũ. Ông Bang Bắc Kỳ 54 cho bốn gói mỳ ăn liền, hai cái chén và hai đôi đũa. 

                   

Ðược sự giúp đỡ của hai người láng giềng trong cơn túng quẫn,  lòng chúng tôi vô cùng cảm kích và củng cố thêm lập trường người Việt mới tị nạn nên chọn tiểu bang có đông đồng hương là cần thiết.

          

Ðêm đó, vợ chồng tôi ôm nhau ngủ trên sàn nhà với tấm đắp vừa làm chiếu vừa làm mền, cuộn tròn như cặp sâu trong trái kén mà xót xa nhớ về quê hương.

 

Trước khi qua Mỹ, chúng tôi không ngờ lại có những ngày tháng gian truân đến thế.

*  *  *

 

Người mới đến định cư cảm thấy đỡ cô đơn nhờ vào những nơi tập trung thường xuyên của đồng hương, như địa điểm cà phê bình dân ở trong khu chợ Senter, có tên rất thời thượng: Quán Cà-phê HO. Nơi đây được coi là đất tụ hội để tìm gặp bạn bè cũ, để học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, để được giới thiệu các loại dịch vụ cần thiết như  bán xe, mua xe, học li xe... và để biết tin tức ở quê nhà.

 

Một hôm, tôi đạp xe lần mò tìm đến cà phê HO. Một quán giải khát bình dân đúng nghĩa, bàn ghế đơn sơ, khách hàng mộc mạc, đậm đà tình quê hương. Kêu ly cà phê đen ngồi nhâm nhi trong một góc, tôi nghe rầm rì những mẩu đối thoại với nhau:

 

       - “Nầy, đằng ấy còn nhớ thằng H. không? Nó tù cùng trại với bọn mình đó. Vợ nó vượt biên qua Mỹ hồi năm 82. Vừa rồi nó qua đợt HO 5, nghe nói ngày H. tới phi trường, cô vợ đến chúc mừng và trao cho nó một phong bì đựng 500 đô-la rồi quay lưng thản nhiên bước lên chiếc xe lộng lẫy có người đàn ông Mỹ ngồi chờ sau tay lái. Lòng H tê tái. Một khắc sau, người đại diện hội thiện nguyện bảo trợ mời H. lên xe. Nhìn cảnh vật qua màn lệ mà H. tưởng bầu trời  Mỹ quốc phủ lớp sương mờ.

                                                                                                             

- “Sao chuyện xảy ra giống tiểu thuyết quá vậy. Ông qua đây lâu rồi mà có nghe tin tức gì  về thằng R.  cùng phố với bọn mình không?”

 

        - “Trên đất nước mênh mông nầy mà cậu tưởng như ở ngã ba Long Khánh của cậu đấy. Nó đi HO mấy?”

 

         - “HO 6, ở quê mình đồn reo về chuyện vợ nó mới qua Hoa Kỳ chưa đầy năm mà đã bỏ chồng, bỏ con theo thằng triệu phú da đen.

 

        - “Ôi, cứ tưởng bở, bộ Mỹ nó khoái mấy bà vợ đói cơm lâu ngày từ trên rẫy bắp, đồi sắn ở quê nhà hay sao? Ðó chẳng qua là đòn tuyên truyền của VC bôi xấu anh em HO mình đấy. Cậu nhớ hồi bọn mình còn trong tù, mấy anh “áo vàng” tuyên bố: “Số đàn bà con gái chạy qua Mỹ đều  bị “bè lũ đế quốc” dồn vào một nơi làm điếm cho lính GI. Mấy anh chồng đau quá, kéo nhau biểu tình đòi trả về Việt Nam, nhưng Ðảng và nhà nước ta đâu có chịu nhận...”

           

       Như thế đấy. Lần đầu tôi đến thăm tiệm cà phê HO, quả thật tiếng đồn không sai. Nơi đây được mệnh danh là “Hãng thông tấn Senter”.

                         

Nhờ người bạn mới quen tại quán cà phê HO giới thiệu cho tôi ông thầy “dạy lái xe tư gia”.Với giá giúp đỡ người đồng hương, ông thầy lấy công 250 đô tập cho từng người, đến khi đậu được bằng lái.

 

Sau khi đưa cha con tôi đến DMV thi lấy bằng viết, ông cho thực tập ngồi sau tay lái, mỗi ngày vài tiếng đồng hồ trong vòng một tuần lễ. Thằng con lớn của tôi thi lần đầu là đậu ngay. Riêng tôi đã từng lái xe dodge, xe jeep gần chục năm trong quân đội thế mà qua lần thứ năm mới p***. Ông thầy dạy lái với khuôn mặt thảm não bắt tay tôi.

 

Ông bảo:

 

“Không phải chúc mừng anh đậu mà chúc mừng anh khỏi phải ghi tên vào trường dạy lái chuyên nghiệp chính thức.”   

                      

Luật thi lái xe ở Cali, cứ ba lần thi lái không đậu phải thi lại bằng viết và tiếp tục thi ba lần nữa. Thấy tay lái qúa yếu,vị chủ khảo có thể bắt buộc thí sinh phải ghi tên học tại trường lái xe chuyên nghiệp. Hú hồn, nếu không, tôi phải mất bộn tiền và tốn thêm thời gian để tiếp tục học lái xe tại trường.

 

Trước khi từ giã, tôi bắt tay ông thầy dạy lái, vừa ngỏ lời cảm ơn vừa chúc mừng ông thầy thoát được “của nợ” đã hành ông mất bảy lần lui tới Nha L Vận.

 

Nhờ kinh nghiệm chua chát về tôi mà sau nầy ông thầy tăng tiền dạy lái gấp đôi cho ông HO nào tự xưng mình lái xe lâu nhất và hay nhất ở Việt Nam.

 

*  *  *

 

Vợ tôi được bà láng giềng giới thiệu học nghề nấu ăn trên xe lunch, một phương tiện bán thức ăn lưu động tại các hãng xưởng. Sáng sớm bà chở giúp nhà tôi đến hãng IFCO, chiều về chịu khó lên xe bus. Dù học nghề, nhưng được chủ trả 40 đô mỗi ngày. Cuối ngày phải rửa xe, lau chùi các tủ kính, bếp nấu, tính ra còn khổ hơn người thợ chính. Lương trả cho cook chính mỗi ngày 80 đô, khi xe về đến bến là cook thảnh thơi lái xe về nhà.   

                                    

Vợ tôi làm suốt mười hai tiếng đồng hồ trên xe lunch, đã nhọc mệt mà chiều về còn phải đứng ngoài trời lạnh đón xe bus qua hai ba trạm. Vì vậy, tôi nghĩ đến chuyện mua xe, một mặt đưa đón vợ, một mặt cho con tôi có phương tiện đi làm và đi học.    

                                     

Một hôm, bất ngờ tôi nhận được thơ của Trần Chung, một thuộc cấp cũ gởi thơ thăm và có nhã ý lấy vé máy bay mời chúng tôi qua tham quan vùng Houston, nơi anh có ngôi chợ bán seafood. Anh còn đề nghị tôi nên chuyển gia đình qua vùng đó ở, anh sẵn sàng giúp đỡ “ông thầy”.

                                       

Ðược tin đó, vợ chồng cô Thanh góp ý kiến là thay vì ông bạn cho tiền mua vé máy bay khứ hồi từ Cali sang Texas, chỉ xin họ cho mượn 2000 đô-la để mua chiếc xe, hầu có phương tiện cho cả nhà đi lại, rồi trả góp từng tháng một.

 

Bà chủ chợ Trần Chung là bạn cùng quê với vợ tôi, ông chồng là nhân viên của tôi khi chưa mất nước, cả hai đều thân tình cả. Họ qua đây từ năm 79, có mấy cơ sở làm ăn vững vàng  ở Houston. Nghe lời góp ý của Thanh, chúng tôi “hồ hởi” gọi điện thoại ngay.

 

Cú phôn xuyên bang đối với gia đình đang ăn trợ cấp cũng xót xa lắm. Bà chủ chợ nhận điện thoại, nghe tiếng vợ tôi, bà vui mừng rối rít. Bà hỏi thăm đủ người, nào là bà nội ông ngoại, các bà dì ông dượng của bà ấy rồi đến láng giềng, cả cái nhà thờ của ông chồng để lại cho đứa cháu kêu bác ruột  có sửa sang đẹp đẽ không, ngày chạp mả hàng năm đều gởi tiền về mà nó tổ chức có rình rang không?.. Chờ cho bà bạn cũ nghỉ lấy hơi, vợ tôi mới dám mở lời mượn tiền mua xe. Bà bạn bảo:

 

- “Ồ tiếc chưa, phải chi gia đình bồ qua đây trúng mùa xuân, lúc ấy chợ mình đông khách hàng lắm, gặp mùa nầy chợ nào cũng ế ẩm cả. Ðể mình hội ý với ông xã rồi trả lời bồ sau. Phôn cúp, mất trọn một giờ gọi long-distance, nhưng niềm hy vọng chỉ còn năm mươi phần trăm ở người chồng.

 

Nhà tôi thao thức chờ đợi tiếng phôn “độ trì” từ thành phố Houston, nhưng vẫn im re. Tôi nghĩ có thể người bạn bận rộn công việc ở chợ nên đã quên khuấy lời khẩn khoản của vợ mình. Vì vậy, tôi đánh liều gọi điện qua để được trả lời dứt khoát. Lần nầy tôi không nghe giọng líu lo của vợ chồng bạn tôi mà chỉ nghe tiếng nói chắc nịch của tổng đài báo cho biết số điện thoại đó không xài nữa.

 

Vợ chồng Thanh sống trong xã hội Mỹ đã mười mấy năm mà đưa ý kiến mượn tiền là đùa cợt trên sự đau khổ của người chưa am tường đời sống thực tế ở đây. Không biết nên trách người hay tội nghiệp cho bản thân mình. Vợ tôi nước mắt đầm đìa, khóc vì tủi phận.

 

Bà kể lể:

           

- “Ngày trước nó đi buôn quân tiếp vụ bị quân cảnh hốt, chạy tới trường mình đang dạy đòi mượn tiền, phải bỏ lớp về nhà vét sạch đưa cho nó, giờ trong cơn túng quẫn nơi quê người nó lại làm ngơ”.

 

Tôi sùng máu nạt vợ:

 

- “Bà có điên không mà kể lể ngược đời. Hồi đó bà cho nó mượn nhiều lắm là năm chục ngàn, còn ở đây hai ngàn đô-la tính ra trên hai mươi triệu đồng Việt Nam đó, sợ bà mới qua không trả nổi nên người ta làm lơ là đúng thôi.

 

Bà chủ xe lunch muốn giữ vợ tôi làm với bà lâu dài nên cho chúng tôi mượn 1050 đô mua chiếc xe Supra hai cửa, đời 81 bị tông móp bên hông tay lái.

 

Con tôi chê xe bị tai nạn trốc sơn loang lổ. Tôi giải thích:

 

- “Giai đọan đầu khó khăn, mình cần xe đi, đâu cần xe đẹp. Người ta nói hiệu xe nầy bền lắm, đi cả chục năm nữa vẫn còn tốt chán, vả lại, nó vừa với túi tiền của gia đình mình”.

 

Nghe tôi sắm xe, nhiều người khuyên mới có bằng lái phải mua bảo hiểm hai chiều. Nghe rồi chỉ ậm ừ chứ tôi biết cóc gì về chiều với hướng.

 

Sau khi làm xong thủ tục ở nha lộ vận, tôi vội đến văn phòng bảo hiểm của ông chủ người Việt, nguyên là bạn học với vợ tôi. Vị chuyên viên đầy kinh nghiệm nầy khuyên tôi chỉ nên mua insurance một chiều rưỡi thôi, lý do xe cũ và tiết kiệm tiền. Anh giải thích:

 

“Bảo hiểm chiều rưỡi là khi xe anh tông xe người ta thì hãng bảo hiểm của tôi sẽ bồi thường cho xe phía bên kia và nếu xui xẻo xe người khác đụng xe anh mà xe họ không mua insurance, thì bảo hiểm của tôi sẽ đền cho anh”.

  

Tôi đồng ý.

   

Tính tới tính lui trên máy điện toán, anh bạn kéo ra tờ giấy dài như lá sớ. Phần tổng cộng một năm bảo hiểm phải đóng 1250 đô.

 

Chân tay rã rời, tôi thì thào bên tai vị chuyên viên bảo hiểm :

 

“Tiền mua chiếc xe có 1050 đô, sao bảo hiểm tới 1250 đô”?

 

Anh ôn tồn giải thích:

 

- “ Hiệu Supra là loại xe thể thao, cha con anh mới có bằng lái và cậu con trai hai mươi hai tuổi, đó là ba yếu tố khiến tiền mua bảo hiểm phải cao. Tuy nhiên, không phải đóng một lần mà có thể đóng từng tháng một  cộng thêm tiền lời.”     

     

Tôi ôm đầu ra về thông báo với bà xã. Ngày hôm sau nhà tôi mượn về 150 đô-la đóng tháng bảo hiểm đầu tiên.

 

Buổi sáng, tôi đưa vợ đi làm từ lúc bốn giờ, rồi vội vã quanh về cho hai con lớn đi làm hãng điện tử. Cái job điện tử nghe kêu thật. Ông bà ngoại đọc thơ thấy cháu mình mới qua Mỹ mà sao học hành giỏi quá, chưa được bao lâu mà đã đạt được cái nghề điện tử!      

                                       

Một giờ 3 đô, ngày làm tám tiếng vị chi là 24 đô. Một tháng hai muơi ngày tính ra làm được 480 đô chưa trừ thuế. Ông bà ngoại bên nhà nhẩm tính lương mỗi đứa cháu hàng tháng gần năm triệu bạc Việt nam. Con gái, chàng rể rồi đây sẽ giàu to ở xứ người, ông bà mừng rơn đi khoe cùng bà con láng giềng.

 

Giàu đâu chưa thấy, nhưng tiền trợ cấp vừa đúng sáu tháng là bị cắt bớt, chỉ còn cái check 650 đô với 108 đồng food stamps cho mỗi tháng dành cho cha mẹ và đứa con út dưới mười tám tuổi.

 

*  *  *

 

Từ ngày về đây, gia đình tôi ở tầng lầu, tầng dưới vắng vẻ không người ở, nhưng đêm đến lại thường nghe tiếng khua động. Những tiếng cộp cộp, bình bịch như có người đục vách, tiếng lào xào như tiếng nước chảy.

                       

Vợ tôi thầm thì: “Ma ông à”.

                                                                                           

Tôi áp nạp:

 

 “Ngủ đi, mai còn đi làm, thợ sửa nhà đấy. Ở Mỹ nguời ta làm việc đâu kể ngày đêm.”  

          

Lâu ngày rồi cũng quen tai, vả lại, những tiếng động đó cũng không xảy ra thường xuyên.

                             

Có những  buổi sáng đi làm sớm, chúng tôi hay bắt gặp cặp nam nữ thiếu niên người Á đông ngồi ôm nhau trên ban-công tầng gác đối diện.

 

Bà xã tôi thắc mắc:

 

“Con nhà ai mà trốn cha trốn mẹ yêu đương sớm thế?”

 

Như thường lệ, sáng đúng bốn giờ là tôi phải chở vợ đi làm. Xe vừa ra khỏi đường hẻm, chợt một cảnh sát mặc sắc phục chận lại. Ông ra lệnh vợ chồng tôi ra khỏi xe, đồng thời đưa hai tay lên đầu. Họ đẩy chúng tôi úp mặt trên nắp ca-pô xe, rồi bắt đầu lục soát trên người, trong xe. Xong, họ chụp hình cả người lẫn xe.   

 

Sau cùng họ hỏi chúng tôi đi đâu. Câu trả lời rất rõ ràng của tôi là đi làm. 

 

 Ông ta khoát tay bảo lên xe, không cho bật đèn sáng. Ra khỏi khu vực, chúng tôi mới thấy xe cảnh sát đậu rải rác trên những con lộ gần khu chung cư của chúng tôi ở.

 

Khi tôi quay về, mọi người trong khu chung cư hầu như đều thức dậy, kẻ đứng lấp ló trong cửa, người ra hẳn ngoài sân, mắt hướng về căn apartment của tôi. Cảnh sát mặc thường phục đang lục soát tầng dưới nhà, một số khác, vũ khí cầm tay xục xạo dọc theo con suối cạn.

 

           Ông Bang láng giềng đang đứng hút thuốc trước mái hiên ngoắc tôi lại nói nhỏ vào tai:

 

“Một ổ cướp có súng, khiếp thật. Chúng nó đục vách nhét hàng điện tử lấy trộm được, khoét sàn bên trong tủ đựng áo quần bỏ cả vũ khí vào trong đó. Tôi đếm được mười thằng, toàn dân da màu bị còng tay, nghe đâu một thằng chạy thoát. Cặp trai gái thường ôm nhau ngồi trên ban-công lúc về sáng cũng có mặt trong số đó.  Hàng điện tử chúng cướp ở đâu mà nhiều đến khiếp, chất đầy một xe van, vậy mà chưa hết, cảnh sát còn tiếp tục tháo vách lục tìm.” Tôi thật sự bàng hoàng. Từ chỗ ngạc nhiên đến lo sợ. Mấy tháng trời sống trên hang kiến lửa mà chẳng hay biết gì cả. Xế trưa, một cảnh sát Mỹ gốcViệt đến nhà tôi.   

 

Ông ấy hỏi:

 

- “Cái nhóm băng đảng ở tầng dưới hoạt động đã gần một năm rồi mà gia đình ông không hay biết gì sao?”   

 

Tôi trung thực trả lời:

 

-“Chúng tôi là những người tỵ nạn mới sang, thuê căn nhà nầy chưa đầy bảy tháng.”

 

            Ông cảnh sát nhìn tôi một chặp lâu như để dò xét rồi tiếp tục tra vấn:

 

-“Bảy tháng sống ở đây, ông không phát hiện được một hiện tượng nào khác lạ?”

                   

Tôi thẳng thắn:

 

-“Chúng tôi bận rộn suốt ngày, hết chỗ làm part time rồi đến trường học, thì giờ đâu mà để ý đến những sinh hoạt của người khác.”     

                          

Khi ông cảnh sát đi rồi tôi mới giật mình. Tay nầy nghi mình bao che hoặc tiếp tay cho bọn cướp. Trái lại bọn cướp nhìn tôi như là mật báo viên. Hang ổ bị phá vỡ, tự nó đã chĩa mũi dùi vào kẻ ở tầng trên. Ðúng là một cổ hai tròng!  

 

Chiều tối cùng ngày, lực lượng FBI lại đột nhập vào căn gác đối diện nhà tôi, bắt thêm được ba tên người Mễ Tây Cơ và tịch thu ba khẩu súng ngắn.

 

 Ðêm đó, tôi bàn với vợ và hai đứa con lớn là phải dọn nhà đi gấp, chần chờ là chúng đến nhà “phơ” hết cả đám. Ðồng đảng chắc chắn sẽ nghi gia đình mình mật báo cho lực lượng an ninh hành tung của chúng. Nghe tôi phân tích, mọi người đều sợ xanh máu mặt.

 

Chỉ trong vòng hai ngày là chúng tôi lặng lẽ dọn nhà không báo trước. Ra đi âm thầm trong đêm, bỏ lại tất cả những vật dụng nặng nề, bỏ cả tiền deposit, nghĩa là bỏ của chạy lấy người.

 

* * *

 

Mấy tháng sau, nhân cuối tuần, tôi ghé vào quán cà-phê HO để kiếm tờ báo Việt ngữ, bất ngờ gặp người bạn láng giềng hồi ở apartment của ông bác sĩ. Ông Bang bắt tay tôi mừng rỡ, nói:

 

- Ông may mắn thật.

 

- Chuyện gì thế? tôi ngạc nhiên hỏi.

 

Bang thì thầm:

 

“Ông dọn nhà đi là có cặp vợ chồng già và đứa cháu nhỏ đến mướn ngay. Người vợ bị bệnh thần kinh tê liệt. Ông biết không, đúng một tuần lễ, vào nửa đêm, bọn chúng xông vào căn gác ông ở cũ gặp người mướn mới, hỏi ông chồng:

 

- Các người mướn nhà nầy bao lâu?

 

- Chúng tôi đến đây chưa đầy tuần lễ, ông cụ trả lời.

 

- Mấy người có biết gia đình người mướn trước dời đi đâu không?

 

- Già cả lại bệnh hoạn, tụi tôi làm sao biết được.

 

           Chúng kéo bà lão tê liệt rớt xuống sàn nhà, giật tấm đắp xem mặt thằng nhỏ đang ngủ, mở cửa tủ áo quần lục soát, xong chúng nhìn mặt từng người trong nhà một lần chót rồi vội vã ra xe đang nổ máy chờ.

 

Sáng hôm sau ông già kể lại cho hàng xóm nghe sự việc đêm qua mà chẳng biết chuyện gì đã xảy ra trước kia trong nhà ông đang ở.

 

Ông Bang nhìn tôi với ánh mắt như ngưỡng mộ một vị anh hùng, tiếp:

 

- “Bà con cả khu apartment đều phục ông là người can đảm. Nói không phải chỗ xin ông bỏ qua cho, chỉ có người cộng tác viên gan lì như ông mới dám đưa gia đình đến sống trà trộn với bọn cướp. Mà phải có người như ông may ra xã hội nầy mới diệt hết được những băng đảng tôị phạm. Từ ngày tiểu trừ được bọn cướp, chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm và luôn luôn nhớ ơn ông.”

 

Nghe đến đó, tôi sợ tháo mồ hôi. Chính những người bạn láng giềng còn nghi tôi là người của FBI, huống hồ bọn cướp làm sao nghĩ khác đi được! Và tôi tự nhủ sẽ không bao giờ trở lại cái khu “Thông Tấn Xã Senter” nầy nữa. Ðến đấy biết đâu, chẳng có ngày mang họa vào thân!

 

 

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Apr/2022 lúc 3:51pm

MỘT GÓC ÐỜI TỊ NẠN

 

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

 

 

Vợ chồng tôi và bốn đứa con qua Mỹ theo Chương trình Tái Ðịnh Cư Cựu Tù Cải Tạo đợt HO8. Vì là diện “đầu trọc”, không có bạn bè thân nhân bảo lãnh, nên được phân bổ đến tiểu bang còn thưa dân của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ: Arizona. Hội thiện nguyện đón gia đình tôi tại phi trường Phoenix và đưa đến ở trong căn apartment hai phòng, cách thủ phủ của tiểu bang ba mươi phút lái xe.

 

            Nhờ theo mấy khóa luyện Anh ngữ trước khi ra đi, nên con tôi đứa nào cũng bập bẹ được tiếng Mỹ. Chỉ qua vài ngày “nhập gia” là chúng nó kết bạn với một nhóm Mỹ con cùng dãy chung cư. Mấy hôm sau, cả đám tự động mang đến nhà tặng chiếc TV màu 9 inches còn xài tốt. Con tôi mừng như được trúng số.            

                                           

         Ngày còn ở Việt Nam, cha mẹ không sắm nổi truyền hình dù là loại rẻ tiền đen trắng, nên hàng đêm chúng phải qua nhà láng giềng xem ké. Phiền một nỗi là ông cán bộ cằn nhằn mang bụi đất vào làm dơ cái nền nhà tráng cement mà ông lau chùi hàng ngày lên nước láng bóng. Hai đứa con nhỏ của ông đưa từ Hà Nội về cứ để lưng trần nằm lăn trên nền mà ngủ. Sau nầy, để tránh cái đám trẻ con hàng xóm làm dơ nhà, mỗi lần mở truyền hình là ông đóng chặt cửa lại.

           

 Mục sư Hồ là người Việt duy nhất đến thăm chúng tôi nhiều lần. Một hôm, ông ngỏ ý chở cả nhà đi xem thủ phủ  của Tiểu bang và đến vườn hái nho.  

Nghe đuợc hái nho là lũ con tôi mắt sáng lên. Chúng vội vã vọt lên xe chẳng cần đợi mời lần thứ hai.  

 

Sáu mạng người ngồi trong thùng phía sau xe truck có mui. Trên đường đi, gió nóng quạt vào mặt như đến gần ngọn núi lửa khiến tôi nhớ đến truyện Tây Du Ký, đọan thầy trò Tam Tạng sắp phải băng qua ngọn hỏa diệm sơn, Tề Thiên Ðại Thánh phải mượn quạt ba tiêu của Thiết Phiến công chúa quạt cho tắt lửa để Ðường Tăng tiếp tục trên con đường thỉnh kinh.

 

Mục sư Hồ không có quạt ba tiêu nhưng xe ông có máy lạnh. Tiếc rằng máy lạnh của xe pickup chỉ dành trong phòng lái nên sáu đệ tử của ngài bị nhốt trong  thùng sau xe mệt ngất ngư vì cơn nóng thiêu người.  

Nắng tháng Tám nám trái bưởi ở Việt Nam, có nghĩa gì so với cái nóng không có độ ẩm của vùng sa mạc nầy. Mồ hôi bị bốc hơi ngay từ trong lỗ chân lông nên làn da khô khốc.

 

Xe chạy về hướng Tucson, mất hơn một giờ thì rẽ vào đường tắt, cánh đồng nho hiện ra xanh ngút mắt.

 

            Mục sư liên hệ với chủ nhà vườn, mỗi người nhận một con dao nhỏ và chiếc giỏ đựng nho. Lần đầu tiên trong đời, chúng tôi mới nhìn thấy tận mắt những chùm nho chín mọng đong đưa trên cành. Tha hồ ăn và tha hồ hái. Người nào cũng cố hái cho thật nhiều mang về nhà bỏ tủ lạnh để dành ăn cho đã đời, ngàn năm một thuở mà!

 

Tôi nghĩ thầm: “Người Mỹ rộng rãi thật, nho còn đẹp thế nầy mà đã cho vào hái mót.”

 

            Thằng Út nhà tôi thích quá, vui như sáo. Bụng đói và khát mà được ở giữa vườn nho thì khỏi chê vào đâu. Nó ham hố ăn ngấu nghiến không ngừng nghỉ, những trái nho chín mọng, ngọt lịm cứ liên tiếp ngốn vào mồm. Ðược một lúc, bỗng cu cậu ôm bụng, mặt tái xanh, ngã quỵ xuống gốc nho, mắt trợn trừng. Ông Mục sư hoảng hốt vội vàng vác nó lên vai định đưa vào phòng người coi vườn  cấp cứu, chợt nó mữa thốc mữa tháo trên ngực áo ông, rồi từ trong quần shorts của nó chảy dầm dề phân lỏng, tuôn cả trên lưng áo của vị mục sư khả kính.    

              

Sau khi ộc ra hết cả số nho đã lên men trong dạ dày, cu cậu khỏe lại ngay. Tội nghiệp cho vị Mục sư  phải đứng tắm ngoài trời bằng vòi nước tưới cây và “bác tài xế Mục Sưphải mặc bộ đồ ướt lái xe về nhà.

 

            Tập trung số nho của gia đình hái được là 30 pounds, tiền phải trả là 60 đô, chúng tôi nhìn nhau ngỡ ngàng.  Mục sư Hồ không nói rõ ràng là đi mua nho tự hái ngoài vườn, khiến chúng tôi cứ tưởng đi hái mót nho như ở quê nhà mót bắp, mót dưa.

                                    

Hẳn nhiên là không có tiền để mua, nhưng bù lại, người nào cũng được đầy một bụng nho, chỉ trừ thằng Cu Út đã trả lại hết cho chủ vườn.

 

Với tấm lòng hào hiệp, Mục sư chi ra 10 đô-la mua nho biếu chúng tôi mang về. Vị chủ chiên đã “tốn than còn tan lưỡi cày!” Ngài đành bỏ luôn cuộc thăm viếng thủ phủ Phoenix.

 

Hai tuần lễ sau, hội thiện nguyện giới thiệu vợ chồng tôi vào làm hãng may áo quần ở một thành phố khác, cách nhà nửa giờ chạy xe trên xa lộ. Nếu đi bằng xe bus phải qua nhiều trạm mất cả tiếng rưỡi đồng hồ.

 

Chán nản và thất vọng, tôi không còn tinh thần để lập nghiệp trên vùng đất khô cằn đầy những cây xương rồng và khí hậu khắc nghiệt nầy.

 

Dò la tin tức, tôi biết được một số bạn bè đi trước đã đến đây rồi bỏ đi. Một hôm, tình cờ tôi nhặt được một lá thư viết dở dang trong ngăn kéo bàn nơi phòng khách. Tôi nhận ra người gởi là Phan Anh Tuấn HO7, bạn cùng quê sang đây trước tôi hai tháng. Trong thư anh báo cho thân nhân sẽ bỏ tiểu bang nầy sang Florida. Theo ngày tháng trong thư, Tuấn rời khỏi căn apartment đúng một tuần lễ trước khi tôi tới.  Như vậy, gia đình tôi là kẻ kế thừa căn nhà anh thuê nửa chừng.    

 

Tôi như người ở giữa đại dương mênh mông, chẳng biết hướng nào tìm. Một hôm, bất ngờ tôi bắt gặp trong cuốn sổ tay có ghi số phôn của Huỳnh thị Phương Thanh là bạn học với em gái tôi hồi còn ở quê nhà. Hiện giờ gia đình Thanh đang định cư tại miền Bắc tiểu bang California. Nhờ điện thoại của người láng giềng, tôi liên lạc ngay và may mắn gặp được cả hai vợ chồng. Họ hứa sẵn sàng giúp đỡ, nếu gia đình tôi di chuyển đến thành phố San Jose. Như người sắp chết đuối chụp được phao, chúng tôi mừng vô hạn.

 

Ông Mục sư Hồ rất cảm thông sự khó khăn của gia đình tôi Và chính ông đã giúp tôi hoàn thành ý nguyện đi tìm một vùng đất khác.

 

Phương tiện di chuyển là loại xe bus xuyên bang. Ðúng hai mươi ngày kể từ khi đặt chân trên miền đất cực nam nước Mỹ, chúng tôi lại gánh gồng hành lý lên xe bus Greyhound thẳng đến quận hạt Santa Clara nằm về hướng tây bắc Hoa Kỳ.

   

*  *  *

 

        Vượt gần hai ngàn kí lô mết, qua một ngày một đêm, chuyến xe bus sau cùng đến thành phố San Jose vào trưa Ch nhật. Vợ chồng Thanh đã có mặt lúc xe vừa cập bến, chúng tôi mừng rơi nước mắt.

 

 Căn nhà Thanh biệt lập, có rào gỗ chung quanh gồm năm phòng rộng rãi. Chủ nhà dành cho gia đình tôi một phòng trên lầu ở tạm, đợi đến ngày đầu tháng sẽ dọn vào một căn apartment hai phòng do người cậu của Thanh đứng tên mướn hộ.

 Chỉ còn một ngày nữa là chúng tôi dọn đến căn nhà thuê, bỗng người cậu báo tin chủ apartment hủy bỏ hợp đồng mướn nhà với lý do gia đình sáu người không thể ở hai phòng.

 

       Tôi vô cùng lúng túng. Thời gian ở đậu nhà Thanh không thể lâu hơn được nữa, mà tìm mướn nhà khác thì phải chờ đầu tháng sau.

 

Lục tìm cầu may trong báo Việt ngữ mục nhà cho  thuê, may mắn tôi phát hiện một căn apartment hai phòng còn trống, Thanh vội vàng điện thoại hẹn người quản lý cho tôi đến xem nhà.

 

       Từ thành phố Milpitas đến San Jose, tôi và thằng con trai lớn thay nhau chở trên chiếc xe đạp đòn dông không có ba-ga gắn phía sau.  Người địa phương nhìn cha con tôi ôm nhau trên chiếc xe đạp với cặp mắt kinh dị. Ðối với họ, có lẽ đây là hiện tượng lạ lùng đầu tiên mà họ mục kích. Chúng tôi vô tình đùa cợt với luật lệ đi đường ở Mỹ và gây khó chịu cho những người kỳ thị giới đồng tính.

 

Chúng tôi di chuyển như thế nhiều lần trên những con đường tấp nập xe hơi mà chưa lần nào gặp cảnh sát và cũng may mắn là không chạy lạc ra ngoài freeway. Sau nầy có ông bạn HO, còn chân ướt chân ráo như tôi, đi xe đạp bên rìa xa lộ bị gió cuốn hút ra giữa đường, dòng xe cán  nát thân thể ông còn chiếc xe đạp bị văng trở lại vào lề đường.

 

Khu apartment nằm gần đường Senter, phía sau là con suối cạn. Người thuê trước  vừa dọn đi cách một  ngày. Chúng tôi quyết định mướn căn apartment hai phòng nầy với gía 650 đô-la mỗi tháng.Tiền deposit cũng 650 đồng được ông chủ nhà là một bác sĩ Việt Nam cảm thông cho khất lại tháng sau mới nộp.

 

Không chờ đợi chủ nhà quét dọn, sơn sửa mà vợ chồng cùng con cái  tự chà rửa phòng tắm, vách tường và bếp núc, chỉ yêu cầu chủ nhà kêu thợ giặt thảm mà thôi.    

                   

Ðêm đầu tiên vợ chồng tôi ở lại căn nhà mới thuê.

 

Hai căn đối diện dảy nhà tôi đều là người Việt. Bà Chín Nam Bộ mang biếu chúng tôi một tấm đắp cũ. Ông Bang Bắc Kỳ 54 cho bốn gói mỳ ăn liền, hai cái chén và hai đôi đũa. 

                   

Ðược sự giúp đỡ của hai người láng giềng trong cơn túng quẫn,  lòng chúng tôi vô cùng cảm kích và củng cố thêm lập trường người Việt mới tị nạn nên chọn tiểu bang có đông đồng hương là cần thiết.

          

Ðêm đó, vợ chồng tôi ôm nhau ngủ trên sàn nhà với tấm đắp vừa làm chiếu vừa làm mền, cuộn tròn như cặp sâu trong trái kén mà xót xa nhớ về quê hương.

 

Trước khi qua Mỹ, chúng tôi không ngờ lại có những ngày tháng gian truân đến thế.

*  *  *

 

Người mới đến định cư cảm thấy đỡ cô đơn nhờ vào những nơi tập trung thường xuyên của đồng hương, như địa điểm cà phê bình dân ở trong khu chợ Senter, có tên rất thời thượng: Quán Cà-phê HO. Nơi đây được coi là đất tụ hội để tìm gặp bạn bè cũ, để học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, để được giới thiệu các loại dịch vụ cần thiết như  bán xe, mua xe, học li xe... và để biết tin tức ở quê nhà.

 

Một hôm, tôi đạp xe lần mò tìm đến cà phê HO. Một quán giải khát bình dân đúng nghĩa, bàn ghế đơn sơ, khách hàng mộc mạc, đậm đà tình quê hương. Kêu ly cà phê đen ngồi nhâm nhi trong một góc, tôi nghe rầm rì những mẩu đối thoại với nhau:

 

       - “Nầy, đằng ấy còn nhớ thằng H. không? Nó tù cùng trại với bọn mình đó. Vợ nó vượt biên qua Mỹ hồi năm 82. Vừa rồi nó qua đợt HO 5, nghe nói ngày H. tới phi trường, cô vợ đến chúc mừng và trao cho nó một phong bì đựng 500 đô-la rồi quay lưng thản nhiên bước lên chiếc xe lộng lẫy có người đàn ông Mỹ ngồi chờ sau tay lái. Lòng H tê tái. Một khắc sau, người đại diện hội thiện nguyện bảo trợ mời H. lên xe. Nhìn cảnh vật qua màn lệ mà H. tưởng bầu trời  Mỹ quốc phủ lớp sương mờ.

                                                                                                             

- “Sao chuyện xảy ra giống tiểu thuyết quá vậy. Ông qua đây lâu rồi mà có nghe tin tức gì  về thằng R.  cùng phố với bọn mình không?”

 

        - “Trên đất nước mênh mông nầy mà cậu tưởng như ở ngã ba Long Khánh của cậu đấy. Nó đi HO mấy?”

 

         - “HO 6, ở quê mình đồn reo về chuyện vợ nó mới qua Hoa Kỳ chưa đầy năm mà đã bỏ chồng, bỏ con theo thằng triệu phú da đen.

 

        - “Ôi, cứ tưởng bở, bộ Mỹ nó khoái mấy bà vợ đói cơm lâu ngày từ trên rẫy bắp, đồi sắn ở quê nhà hay sao? Ðó chẳng qua là đòn tuyên truyền của VC bôi xấu anh em HO mình đấy. Cậu nhớ hồi bọn mình còn trong tù, mấy anh “áo vàng” tuyên bố: “Số đàn bà con gái chạy qua Mỹ đều  bị “bè lũ đế quốc” dồn vào một nơi làm điếm cho lính GI. Mấy anh chồng đau quá, kéo nhau biểu tình đòi trả về Việt Nam, nhưng Ðảng và nhà nước ta đâu có chịu nhận...”

           

       Như thế đấy. Lần đầu tôi đến thăm tiệm cà phê HO, quả thật tiếng đồn không sai. Nơi đây được mệnh danh là “Hãng thông tấn Senter”.

                         

Nhờ người bạn mới quen tại quán cà phê HO giới thiệu cho tôi ông thầy “dạy lái xe tư gia”.Với giá giúp đỡ người đồng hương, ông thầy lấy công 250 đô tập cho từng người, đến khi đậu được bằng lái.

 

Sau khi đưa cha con tôi đến DMV thi lấy bằng viết, ông cho thực tập ngồi sau tay lái, mỗi ngày vài tiếng đồng hồ trong vòng một tuần lễ. Thằng con lớn của tôi thi lần đầu là đậu ngay. Riêng tôi đã từng lái xe dodge, xe jeep gần chục năm trong quân đội thế mà qua lần thứ năm mới p***. Ông thầy dạy lái với khuôn mặt thảm não bắt tay tôi.

 

Ông bảo:

 

“Không phải chúc mừng anh đậu mà chúc mừng anh khỏi phải ghi tên vào trường dạy lái chuyên nghiệp chính thức.”   

                      

Luật thi lái xe ở Cali, cứ ba lần thi lái không đậu phải thi lại bằng viết và tiếp tục thi ba lần nữa. Thấy tay lái qúa yếu,vị chủ khảo có thể bắt buộc thí sinh phải ghi tên học tại trường lái xe chuyên nghiệp. Hú hồn, nếu không, tôi phải mất bộn tiền và tốn thêm thời gian để tiếp tục học lái xe tại trường.

 

Trước khi từ giã, tôi bắt tay ông thầy dạy lái, vừa ngỏ lời cảm ơn vừa chúc mừng ông thầy thoát được “của nợ” đã hành ông mất bảy lần lui tới Nha L Vận.

 

Nhờ kinh nghiệm chua chát về tôi mà sau nầy ông thầy tăng tiền dạy lái gấp đôi cho ông HO nào tự xưng mình lái xe lâu nhất và hay nhất ở Việt Nam.

 

*  *  *

 

Vợ tôi được bà láng giềng giới thiệu học nghề nấu ăn trên xe lunch, một phương tiện bán thức ăn lưu động tại các hãng xưởng. Sáng sớm bà chở giúp nhà tôi đến hãng IFCO, chiều về chịu khó lên xe bus. Dù học nghề, nhưng được chủ trả 40 đô mỗi ngày. Cuối ngày phải rửa xe, lau chùi các tủ kính, bếp nấu, tính ra còn khổ hơn người thợ chính. Lương trả cho cook chính mỗi ngày 80 đô, khi xe về đến bến là cook thảnh thơi lái xe về nhà.   

                                    

Vợ tôi làm suốt mười hai tiếng đồng hồ trên xe lunch, đã nhọc mệt mà chiều về còn phải đứng ngoài trời lạnh đón xe bus qua hai ba trạm. Vì vậy, tôi nghĩ đến chuyện mua xe, một mặt đưa đón vợ, một mặt cho con tôi có phương tiện đi làm và đi học.    

                                     

Một hôm, bất ngờ tôi nhận được thơ của Trần Chung, một thuộc cấp cũ gởi thơ thăm và có nhã ý lấy vé máy bay mời chúng tôi qua tham quan vùng Houston, nơi anh có ngôi chợ bán seafood. Anh còn đề nghị tôi nên chuyển gia đình qua vùng đó ở, anh sẵn sàng giúp đỡ “ông thầy”.

                                       

Ðược tin đó, vợ chồng cô Thanh góp ý kiến là thay vì ông bạn cho tiền mua vé máy bay khứ hồi từ Cali sang Texas, chỉ xin họ cho mượn 2000 đô-la để mua chiếc xe, hầu có phương tiện cho cả nhà đi lại, rồi trả góp từng tháng một.

 

Bà chủ chợ Trần Chung là bạn cùng quê với vợ tôi, ông chồng là nhân viên của tôi khi chưa mất nước, cả hai đều thân tình cả. Họ qua đây từ năm 79, có mấy cơ sở làm ăn vững vàng  ở Houston. Nghe lời góp ý của Thanh, chúng tôi “hồ hởi” gọi điện thoại ngay.

 

Cú phôn xuyên bang đối với gia đình đang ăn trợ cấp cũng xót xa lắm. Bà chủ chợ nhận điện thoại, nghe tiếng vợ tôi, bà vui mừng rối rít. Bà hỏi thăm đủ người, nào là bà nội ông ngoại, các bà dì ông dượng của bà ấy rồi đến láng giềng, cả cái nhà thờ của ông chồng để lại cho đứa cháu kêu bác ruột  có sửa sang đẹp đẽ không, ngày chạp mả hàng năm đều gởi tiền về mà nó tổ chức có rình rang không?.. Chờ cho bà bạn cũ nghỉ lấy hơi, vợ tôi mới dám mở lời mượn tiền mua xe. Bà bạn bảo:

 

- “Ồ tiếc chưa, phải chi gia đình bồ qua đây trúng mùa xuân, lúc ấy chợ mình đông khách hàng lắm, gặp mùa nầy chợ nào cũng ế ẩm cả. Ðể mình hội ý với ông xã rồi trả lời bồ sau. Phôn cúp, mất trọn một giờ gọi long-distance, nhưng niềm hy vọng chỉ còn năm mươi phần trăm ở người chồng.

 

Nhà tôi thao thức chờ đợi tiếng phôn “độ trì” từ thành phố Houston, nhưng vẫn im re. Tôi nghĩ có thể người bạn bận rộn công việc ở chợ nên đã quên khuấy lời khẩn khoản của vợ mình. Vì vậy, tôi đánh liều gọi điện qua để được trả lời dứt khoát. Lần nầy tôi không nghe giọng líu lo của vợ chồng bạn tôi mà chỉ nghe tiếng nói chắc nịch của tổng đài báo cho biết số điện thoại đó không xài nữa.

 

Vợ chồng Thanh sống trong xã hội Mỹ đã mười mấy năm mà đưa ý kiến mượn tiền là đùa cợt trên sự đau khổ của người chưa am tường đời sống thực tế ở đây. Không biết nên trách người hay tội nghiệp cho bản thân mình. Vợ tôi nước mắt đầm đìa, khóc vì tủi phận.

 

Bà kể lể:

           

- “Ngày trước nó đi buôn quân tiếp vụ bị quân cảnh hốt, chạy tới trường mình đang dạy đòi mượn tiền, phải bỏ lớp về nhà vét sạch đưa cho nó, giờ trong cơn túng quẫn nơi quê người nó lại làm ngơ”.

 

Tôi sùng máu nạt vợ:

 

- “Bà có điên không mà kể lể ngược đời. Hồi đó bà cho nó mượn nhiều lắm là năm chục ngàn, còn ở đây hai ngàn đô-la tính ra trên hai mươi triệu đồng Việt Nam đó, sợ bà mới qua không trả nổi nên người ta làm lơ là đúng thôi.

 

Bà chủ xe lunch muốn giữ vợ tôi làm với bà lâu dài nên cho chúng tôi mượn 1050 đô mua chiếc xe Supra hai cửa, đời 81 bị tông móp bên hông tay lái.

 

Con tôi chê xe bị tai nạn trốc sơn loang lổ. Tôi giải thích:

 

- “Giai đọan đầu khó khăn, mình cần xe đi, đâu cần xe đẹp. Người ta nói hiệu xe nầy bền lắm, đi cả chục năm nữa vẫn còn tốt chán, vả lại, nó vừa với túi tiền của gia đình mình”.

 

Nghe tôi sắm xe, nhiều người khuyên mới có bằng lái phải mua bảo hiểm hai chiều. Nghe rồi chỉ ậm ừ chứ tôi biết cóc gì về chiều với hướng.

 

Sau khi làm xong thủ tục ở nha lộ vận, tôi vội đến văn phòng bảo hiểm của ông chủ người Việt, nguyên là bạn học với vợ tôi. Vị chuyên viên đầy kinh nghiệm nầy khuyên tôi chỉ nên mua insurance một chiều rưỡi thôi, lý do xe cũ và tiết kiệm tiền. Anh giải thích:

 

“Bảo hiểm chiều rưỡi là khi xe anh tông xe người ta thì hãng bảo hiểm của tôi sẽ bồi thường cho xe phía bên kia và nếu xui xẻo xe người khác đụng xe anh mà xe họ không mua insurance, thì bảo hiểm của tôi sẽ đền cho anh”.

  

Tôi đồng ý.

   

Tính tới tính lui trên máy điện toán, anh bạn kéo ra tờ giấy dài như lá sớ. Phần tổng cộng một năm bảo hiểm phải đóng 1250 đô.

 

Chân tay rã rời, tôi thì thào bên tai vị chuyên viên bảo hiểm :

 

“Tiền mua chiếc xe có 1050 đô, sao bảo hiểm tới 1250 đô”?

 

Anh ôn tồn giải thích:

 

- “ Hiệu Supra là loại xe thể thao, cha con anh mới có bằng lái và cậu con trai hai mươi hai tuổi, đó là ba yếu tố khiến tiền mua bảo hiểm phải cao. Tuy nhiên, không phải đóng một lần mà có thể đóng từng tháng một  cộng thêm tiền lời.”     

     

Tôi ôm đầu ra về thông báo với bà xã. Ngày hôm sau nhà tôi mượn về 150 đô-la đóng tháng bảo hiểm đầu tiên.

 

Buổi sáng, tôi đưa vợ đi làm từ lúc bốn giờ, rồi vội vã quanh về cho hai con lớn đi làm hãng điện tử. Cái job điện tử nghe kêu thật. Ông bà ngoại đọc thơ thấy cháu mình mới qua Mỹ mà sao học hành giỏi quá, chưa được bao lâu mà đã đạt được cái nghề điện tử!      

                                       

Một giờ 3 đô, ngày làm tám tiếng vị chi là 24 đô. Một tháng hai muơi ngày tính ra làm được 480 đô chưa trừ thuế. Ông bà ngoại bên nhà nhẩm tính lương mỗi đứa cháu hàng tháng gần năm triệu bạc Việt nam. Con gái, chàng rể rồi đây sẽ giàu to ở xứ người, ông bà mừng rơn đi khoe cùng bà con láng giềng.

 

Giàu đâu chưa thấy, nhưng tiền trợ cấp vừa đúng sáu tháng là bị cắt bớt, chỉ còn cái check 650 đô với 108 đồng food stamps cho mỗi tháng dành cho cha mẹ và đứa con út dưới mười tám tuổi.

 

*  *  *

 

Từ ngày về đây, gia đình tôi ở tầng lầu, tầng dưới vắng vẻ không người ở, nhưng đêm đến lại thường nghe tiếng khua động. Những tiếng cộp cộp, bình bịch như có người đục vách, tiếng lào xào như tiếng nước chảy.

                       

Vợ tôi thầm thì: “Ma ông à”.

                                                                                           

Tôi áp nạp:

 

 “Ngủ đi, mai còn đi làm, thợ sửa nhà đấy. Ở Mỹ nguời ta làm việc đâu kể ngày đêm.”  

          

Lâu ngày rồi cũng quen tai, vả lại, những tiếng động đó cũng không xảy ra thường xuyên.

                             

Có những  buổi sáng đi làm sớm, chúng tôi hay bắt gặp cặp nam nữ thiếu niên người Á đông ngồi ôm nhau trên ban-công tầng gác đối diện.

 

Bà xã tôi thắc mắc:

 

“Con nhà ai mà trốn cha trốn mẹ yêu đương sớm thế?”

 

Như thường lệ, sáng đúng bốn giờ là tôi phải chở vợ đi làm. Xe vừa ra khỏi đường hẻm, chợt một cảnh sát mặc sắc phục chận lại. Ông ra lệnh vợ chồng tôi ra khỏi xe, đồng thời đưa hai tay lên đầu. Họ đẩy chúng tôi úp mặt trên nắp ca-pô xe, rồi bắt đầu lục soát trên người, trong xe. Xong, họ chụp hình cả người lẫn xe.   

 

Sau cùng họ hỏi chúng tôi đi đâu. Câu trả lời rất rõ ràng của tôi là đi làm. 

 

 Ông ta khoát tay bảo lên xe, không cho bật đèn sáng. Ra khỏi khu vực, chúng tôi mới thấy xe cảnh sát đậu rải rác trên những con lộ gần khu chung cư của chúng tôi ở.

 

Khi tôi quay về, mọi người trong khu chung cư hầu như đều thức dậy, kẻ đứng lấp ló trong cửa, người ra hẳn ngoài sân, mắt hướng về căn apartment của tôi. Cảnh sát mặc thường phục đang lục soát tầng dưới nhà, một số khác, vũ khí cầm tay xục xạo dọc theo con suối cạn.

 

           Ông Bang láng giềng đang đứng hút thuốc trước mái hiên ngoắc tôi lại nói nhỏ vào tai:

 

“Một ổ cướp có súng, khiếp thật. Chúng nó đục vách nhét hàng điện tử lấy trộm được, khoét sàn bên trong tủ đựng áo quần bỏ cả vũ khí vào trong đó. Tôi đếm được mười thằng, toàn dân da màu bị còng tay, nghe đâu một thằng chạy thoát. Cặp trai gái thường ôm nhau ngồi trên ban-công lúc về sáng cũng có mặt trong số đó.  Hàng điện tử chúng cướp ở đâu mà nhiều đến khiếp, chất đầy một xe van, vậy mà chưa hết, cảnh sát còn tiếp tục tháo vách lục tìm.” Tôi thật sự bàng hoàng. Từ chỗ ngạc nhiên đến lo sợ. Mấy tháng trời sống trên hang kiến lửa mà chẳng hay biết gì cả. Xế trưa, một cảnh sát Mỹ gốcViệt đến nhà tôi.   

 

Ông ấy hỏi:

 

- “Cái nhóm băng đảng ở tầng dưới hoạt động đã gần một năm rồi mà gia đình ông không hay biết gì sao?”   

 

Tôi trung thực trả lời:

 

-“Chúng tôi là những người tỵ nạn mới sang, thuê căn nhà nầy chưa đầy bảy tháng.”

 

            Ông cảnh sát nhìn tôi một chặp lâu như để dò xét rồi tiếp tục tra vấn:

 

-“Bảy tháng sống ở đây, ông không phát hiện được một hiện tượng nào khác lạ?”

                   

Tôi thẳng thắn:

 

-“Chúng tôi bận rộn suốt ngày, hết chỗ làm part time rồi đến trường học, thì giờ đâu mà để ý đến những sinh hoạt của người khác.”     

                          

Khi ông cảnh sát đi rồi tôi mới giật mình. Tay nầy nghi mình bao che hoặc tiếp tay cho bọn cướp. Trái lại bọn cướp nhìn tôi như là mật báo viên. Hang ổ bị phá vỡ, tự nó đã chĩa mũi dùi vào kẻ ở tầng trên. Ðúng là một cổ hai tròng!  

 

Chiều tối cùng ngày, lực lượng FBI lại đột nhập vào căn gác đối diện nhà tôi, bắt thêm được ba tên người Mễ Tây Cơ và tịch thu ba khẩu súng ngắn.

 

 Ðêm đó, tôi bàn với vợ và hai đứa con lớn là phải dọn nhà đi gấp, chần chờ là chúng đến nhà “phơ” hết cả đám. Ðồng đảng chắc chắn sẽ nghi gia đình mình mật báo cho lực lượng an ninh hành tung của chúng. Nghe tôi phân tích, mọi người đều sợ xanh máu mặt.

 

Chỉ trong vòng hai ngày là chúng tôi lặng lẽ dọn nhà không báo trước. Ra đi âm thầm trong đêm, bỏ lại tất cả những vật dụng nặng nề, bỏ cả tiền deposit, nghĩa là bỏ của chạy lấy người.

 

* * *

 

Mấy tháng sau, nhân cuối tuần, tôi ghé vào quán cà-phê HO để kiếm tờ báo Việt ngữ, bất ngờ gặp người bạn láng giềng hồi ở apartment của ông bác sĩ. Ông Bang bắt tay tôi mừng rỡ, nói:

 

- Ông may mắn thật.

 

- Chuyện gì thế? tôi ngạc nhiên hỏi.

 

Bang thì thầm:

 

“Ông dọn nhà đi là có cặp vợ chồng già và đứa cháu nhỏ đến mướn ngay. Người vợ bị bệnh thần kinh tê liệt. Ông biết không, đúng một tuần lễ, vào nửa đêm, bọn chúng xông vào căn gác ông ở cũ gặp người mướn mới, hỏi ông chồng:

 

- Các người mướn nhà nầy bao lâu?

 

- Chúng tôi đến đây chưa đầy tuần lễ, ông cụ trả lời.

 

- Mấy người có biết gia đình người mướn trước dời đi đâu không?

 

- Già cả lại bệnh hoạn, tụi tôi làm sao biết được.

 

           Chúng kéo bà lão tê liệt rớt xuống sàn nhà, giật tấm đắp xem mặt thằng nhỏ đang ngủ, mở cửa tủ áo quần lục soát, xong chúng nhìn mặt từng người trong nhà một lần chót rồi vội vã ra xe đang nổ máy chờ.

 

Sáng hôm sau ông già kể lại cho hàng xóm nghe sự việc đêm qua mà chẳng biết chuyện gì đã xảy ra trước kia trong nhà ông đang ở.

 

Ông Bang nhìn tôi với ánh mắt như ngưỡng mộ một vị anh hùng, tiếp:

 

- “Bà con cả khu apartment đều phục ông là người can đảm. Nói không phải chỗ xin ông bỏ qua cho, chỉ có người cộng tác viên gan lì như ông mới dám đưa gia đình đến sống trà trộn với bọn cướp. Mà phải có người như ông may ra xã hội nầy mới diệt hết được những băng đảng tôị phạm. Từ ngày tiểu trừ được bọn cướp, chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm và luôn luôn nhớ ơn ông.”

 

Nghe đến đó, tôi sợ tháo mồ hôi. Chính những người bạn láng giềng còn nghi tôi là người của FBI, huống hồ bọn cướp làm sao nghĩ khác đi được! Và tôi tự nhủ sẽ không bao giờ trở lại cái khu “Thông Tấn Xã Senter” nầy nữa. Ðến đấy biết đâu, chẳng có ngày mang họa vào thân!

 

 

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Apr/2022 lúc 8:07am

Một Mẹ Nuôi Mười Con

ảnh%20Cảm%20động%20Về%202%20Mẹ%20Con

Năm nay là năm thứ 30 tôi ở Mỹ. Ngày ra đi trên một chiếc thuyền bằng một căn nhà nhỏ mà chất đầy 96 người, tôi chỉ một nách hai đứa con còn nhỏ chết mai, hay đi về nơi đâu. Chồng tôi chết trận chỉ vài tháng trước khi miền Nam mất vào tay cộng sản. Ba má tôi già yếu, chỉ biết dấu nước mắt nhìn con cháu trốn chế độ bạo tàn đi tìm tự do.

Ngoài hai đứa con tôi, tài sản mà tôi mang theo chỉ là lòng thương yêu quê hương và gia đình tha thiết, và một kho tàng nhỏ ca dao tục ngữ mà má tôi truyền lại. Ở đâu, làm gì, gặp cảnh ngộ nào, tôi cũng chợt nhớ ra vài câu tục ngữ thích hợp với hoàn cảnh để được an ủi về mặt tinh thần. Tôi nhớ rõ từng câu má dạy, vào lúc nào, ở đâu, trong tình huống nào. Tựa hồ má vẫn đi theo tôi trên từng bước chân luân lạc của tôi trên xứ người.

Định cư ở Mỹ mới được ba năm, tôi cũng chưa hoàn toàn ổn định cuộc sống để có thể gởi quà về gia đình đều đặn và đầy đủ thì tôi được tin má đã qua đời sau một cơn bạo bệnh nơi quê nhà. Trong nỗi đau buồn mất mẹ, tôi chợt nhớ đến câu má nói “Một mẹ già bằng ba con mọn”, khi má đang còn chăm sóc bà ngoại lúc ấy đang nằm một chỗ. Má còn có phước được chăm sóc bà ngoại cho đến khi ngoại qua đời. Còn tôi vô phước chưa được một ngày báo hiếu, chăm lo cho má. Nhưng rồi tôi phải nuốt nước mắt nhớ thương, lo cho hai đứa con đang tuổi lớn, cần có tôi trong việc học hành, sinh hoạt hằng ngày.

Vài tháng sau đó tôi may mắn đậu vào kỳ thi tuyển nhân viên chính phủ của một hãng bảo hiểm tai nạn lao động thuộc tiểu bang California. Cuộc sống trở nên dễ thở hơn cho tôi và hai cháu. Thời gian trôi qua dường như nhanh hơn. Rồi tôi lại nhận tin ba tôi mất, chấm dứt những ngày sống quạnh quẽ bên nhà không có má bên cạnh. Nước mắt tôi lúc này dường như khô cạn, tuy lòng tôi xót xa thương ba, tưởng tượng đến giờ phút lâm chung buồn bã của ông không có tôi bên cạnh. Tôi lại nén đau buồn, lấy công việc và con cái làm vui.

Ngày ngày tôi đi làm, bận bịu với công việc ở sở. Tối đến, tôi chia xẻ buồn vui với hai cháu về một ngày vừa qua. Thoắt một cái, con trai lớn của tôi là Thịnh tốt nghiệp đại học rồi vào quân đội Mỹ. Em gái của Thịnh, Hồng Sa, cũng học xong đại học hai năm sau đó và kiếm được việc làm ở một ngân hàng lớn trong vùng. Đó cũng là những năm cuối của tôi với công việc, vì tôi đã sẵn sàng về hưu, hưởng giai đoạn thứ ba của cuộc sống.

Lúc còn trẻ hơn, mỗi lần tôi nghe bạn bè hay người quen sắp về hưu, than thở về tuổi già đang kéo đến, tôi thường vui vẻ an ủi họ: “Nghĩ cho cùng, giai đoạn thứ ba của cuộc sống mới là giai đoạn có ý nghĩa nhất. Lúc còn trẻ thì phải lo học hành ngày đêm, tiền bạc thì chưa có. Lúc trung niên đi làm lại phải có nhiều trách nhiệm khác, tuy có đồng ra đồng vào, nhưng lại phải lo cho con cái, không có thì giờ nghĩ đến bản thân. Giai đoạn về hưu mới là giai đoạn sung sướng nhất. Không còn trách nhiệm nặng nề, chỉ mong có sức khoẻ và đừng quá thiếu thốn thì thật ra đó mới là lúc thảnh thơi nhất.”

Khuyên bảo người khác thì hay lắm, nhưng đến lượt mình sắp về hưu A  tôi lại thấy những nỗi lo khác xuất hiện. Những nỗi lo này không nằm trong danh sách những điều tôi dùng để khuyên lơn người khác. Tôi lo không biết lương hưu có đủ cho tôi sống hằng ngày hay không. Tôi lo không biết phải ở đâu vì căn chung cư hai phòng ngủ mấy chục năm nay tôi thuê để sống với hai con sắp trở thành quá rộng và quá mắc, vì Thịnh không còn ở nhà nữa, mà Hồng Sa lại đang rục rịch làm đám cưới với một anh kỹ sư, đã đánh tiếng đang tìm mua nhà riêng. Về việc này, tôi cũng rất buồn vì Hồng Sa chỉ thản nhiên báo cho tôi biết là nó và Huy, anh kỹ sư mà nó đang hẹn hò, đang dự tính lấy nhau, chứ không xin phép xin tắc gì tôi hết. Tôi vẫn còn thuộc nằm lòng câu má dạy “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó.”Thật là mỉa mai đối với tôi trong lúc này.

Tôi đem chuyện kể với cô bạn cùng sở và nhắc lại câu tục ngữ trên. Cô ta bật cười và bảo tôi không phải là người duy nhất đối diện với hoàn cảnh trớ trêu này. Cô ta còn thêm:

- Ở Mỹ này, một là bồ đừng xài ca dao tục ngữ ở bên Việt Nam nữa, hai là bồ phải sửa lại một chút mới xài được. Thí dụ nói như vầy chắc nghe có lý hơn: “Cha mẹ đặt đây, con ngồi đó!” Ha ha!

Cô bạn nói đúng thật, nhưng tôi lại thấy cô ta cũng ác vì có thể cười cợt khi tôi đang buồn muốn chết. Dù sao đi nữa,tôi cũng thầm mong Hồng Sa sẽ mời tôi cùng ở với vợ chồng nó sau này. Với ý nghĩ thầm kín đó, tôi lại nhớ đến câu tục ngữ má nói ngày xưa “Sống mỗi người mỗi nhà, chết mỗi người mỗi mồ.” Buồn cười là ngay lúc ấy tôi không muốn tin má nữa. Tôi nghĩ câu tục ngữ đó nghe có vẻ ích kỷ quá. Nếu ai cũng sống riêng rẽ thì lấy ai lo cho ai lúc tối lửa tắt đèn, lúc đau ốm bệnh hoạn? Ông bà ngày xưa dạy dỗ những thế hệ sau qua ca dao tục ngữ chắc cũng có lúc sai lầm chứ chẳng lẽ lúc nào cũng đúng cả?

Không riêng gì má tôi ngày xưa mà bây giờ mấy ông già bà cả ở Mỹ cũng còn thích dùng tục ngữ trong lúc trò chuyện lắm. Chẳng hạn như chuyện anh bạn tôi có thằng cháu vừa ở Việt Nam qua định cư. Khác với những đợt định cư của thuyền nhân như tôi cách đây vài thập kỷ, ra đi với hai bàn tay trắng, nhiều người ở Việt Nam qua sau này có mang theo ít nhiều tài sản dành dụm được từ bên nhà sang. Bà nội của anh chàng mới ở ViệtNam qua này, biết đứa cháu có rủng rỉnh ít tiền, khuyên bảo:

- Cháu nên tìm một căn nhà nhỏ mà mua đi. An cư mới lạc nghiệp được, cháu ạ!

Anh bạn tôi xen vào:

- Cô ơi, cháu phải xin lỗi cô trước, nhưng quan niệm an cư lạc nghiệp bây giờ đã lỗi thời rồi, nhất là ở Mỹ. Ở đây ai cũng phải kiếm một cái job trước, ổn định công việc một thời gian rồi mới thuê hay mua nhà ở gần chỗ làm. Bây giờ thì phải nói “lạc nghiệp rồi hãy an cư” mới thích hợp, cô ơi.

Bà cụ hứ to một tiếng, liếc anh một cái rõ dài:

- Anh ăn nói hay ho nhỉ! “Áo mặc sao qua khỏi đầu”, anh biết chưa?

Nhà anh bạn tôi là người Bắc. Các cụ miền Bắc lúc nào nói cũng đậm đà, sâu sắc. Chẳng thế mà má tôi, vốn là người Nam, vẫn thường khen các cụ, dạy tôi câu tục ngữ thật độc đáo: “Nói ở đây, chết cây Hà Nội.” Má tôi giảng: “Các cụ miền Bắc ăn nói thâm thuý lắm. Nhiều khi còn cay độc nữa. Chẳng thế mà ở một nơi thật xa Hà Nội, các cụ có thể nói một câu khiến cho cây cối ở mãi tận Hà Nội chết hết!”

Nhưng chẳng có câu tục ngữ ca dao nào giúp tôi giữ vững tinh thần trong lúc đó được. Sau khi hoàn tất các giấy tờ về hưu, tôi ngậm ngùi từ giã đồng nghiệp trong buổi tiệc dành riêng cho tôi. Hai mươi mấy năm gắn bó với chỗ làm, bảo sao tôi không buồn cho được. Nhưng tôi phải tiến về phía trước trong giai đoạn thứ ba của cuộc sống, giai đoạn mà tôi vẫn thường rao giảng với mọi người là phần đời đẹp nhất trong mỗi chúng ta. Hiềm một nỗi là ngay lúc bắt đầu giai đoạn này cũng là lúc tôi cảm thấy hụt hẫng nhất. Lương hưu của tôi khá khiêm tốn, vắt mũi cũng chỉ vừa đút miệng. Lúc này lại là lúc giá bất động sản trong vùng đang lên cao. Mua hay thuê gì trong thời gian hiện tại cũng là một nan đề.

Khi còn đi làm, lương của tôi dư trả tiền thuê nhà và trang trải những chi tiêu khác. Nay đồng lương hưu không còn làm cuộc sống của tôi thoải mái như trước. Nếu Hồng Sa còn độc thân thêm một thời gian nữa và phụ tiền nhà với tôi như lâu nay nó vẫn làm từ khi có việc thì tôi không đến nỗi phải lo trước mắt. Ngặt một nỗi là nó đang tính chuyện lấy chồng và ra riêng.

Một hôm, tôi đánh bạo dò ý nó:

- Nay mai con lấy chồng , tụi con có bàn nhau về việc mua hay thuê nhà không?

Hồng Sa thủng thỉnh đáp:

- Dạ, anh Huy và con cũng đang kiếm mua một cái condo đó má.

Tôi tiếp tục thăm dò:

- Chà, vậy thì tụi con tính chuyện tiền down nhà ra sao? Nhà cửa bây giờ mắc mỏ lắm!

Hồng Sa hồn nhiên kể:

- Má biết không, anh Huy mới tìm được một dự án bất động sản dành cho những người trẻ tuổi mới đi làm như tụi con. Họ cho mình down chỉ có 5% thôi nên tụi con sẽ lo liệu được.

Tôi vẫn chưa chịu ngưng:

- Vậy thì tiền nhà hằng tháng thì sao?

Hồng Sa thản nhiên nói:

- Tụi con đứa nào cũng có việc làm, chắc không phải lo đâu má.

Tới đây thì tôi không úp mở hoài được nữa:

- Còn má thì con tính sao? Nay mai con ra riêng, cái apartment này hai phòng, má ở sao cho hết? Mà má cũng đâu có trả tiền nổi nữa với lương hưu của má!

Hồng Sa nhìn tôi:

- Thì má trả lại, đừng thuê nữa!

Tôi bắt đầu thấy nghẹn ngào:

- Rồi má biết ở đâu đây?

Đến đây thì Hồng Sa đã hiểu ý tôi. Nó vội chặn đầu:

- Ý, má ở với tụi con không được đâu! Thấy kỳ lắm!

Tôi làm như không thấy gì là kỳ hết:

- Má có thể giúp con coi nhà coi cửa, nấu ăn cho tụi con. Có vườn tược gì má cũng chăm sóc cho tụi con luôn.

Hồng Sa bật cười:

- Bộ má quên là má vẫn thường nói với con câu bà ngoại dạy “Sống mỗi người mỗi nhà, chết mỗi người mỗi mồ” sao?

Ý cha! Bây giờ con gái tôi lại “tấn công” tôi bằng chính “vũ khí” của tôi trao truyền cho nó! Chẳng biết tự bao giờ, tôi đã bắt đầu thủ thỉ với các con tôi những câu ca dao tục ngữ của má tôi ngày xưa. Tôi rất tự hào rằng hai đứa con mình nói sõi tiếng Việt ở xứ người. Đó là nhờ tôi chỉ dùng tiếng Việt trong nhà. Tôi hiểu rằng đằng sau mỗi ngôn ngữ luôn luôn có một nền văn hoá phong phú. Vì vậy tôi rất chăm chỉ truyền đạt những kiến thức văn hoá cho hai đứa con của mình, trong đó có ca dao tục ngữ, bất cứ khi nào có cơ hội.

Nước mắt tôi bây giờ chỉ chực trào ra, nhưng tôi cố dằn lại. Chẳng lẽ tôi là mẹ mà lại đi đôi co với con gái, nói lại với nó: “Ủa, vậysao hồi giờ ở với má con không lấy câu này ra áp dụng?” Tôi chỉ biết cười lạt, buông thõng một câu:

- Con dạo này khá đó! Ngôn ngữ, văn chương không thua ai hết.

Hồng Sa biết tôi giận, nói giả lả:

- Hay là má chịu khó mướn một căn apartment nào gần chỗ tụi con ở. Mình chạy qua chạy lại với nhau thì xa cũng như gần vậy.

Tôi nói xuôi xị:

- Bộ con tưởng giá apartment một phòng thời buổi này rẻ lắm sao? Ở khu tệ nhất giá chót cũng phải một ngàn đô trở lên. Má làm sao kham nổi!

Hồng Sa bàn:

- Đi share phòng chắc rẻ hơn nhiều phải không má?

Nghe con nói vậy, tôi lại càng nghẹn ngào hơn. Tôi vừa quay đi vừa nói, dấu hai hàng nước mắt vừa lăn xuống má:

- Ý kiến cũng hay đó! Để má coi rồi tính sau.

Tôi lững thững bước ra cái patio nhỏ phía sau căn chung cư, nơi mà tôi và hai đứa con đã có bao nhiêu kỷ niệm trong mấy chục năm trời vừa qua. Sắp xa nơi này, lòng tôi sao nghe bùi ngùi khó tả. Tôi buồn buồn nhìn những liếp rau, cây chanh, cây ớt mà tôi đã tỉ mẩn chăm sóc trong thời gian qua.

Chẳng hiểu cảm xúc lúc tôi xuống thuyền rời Việt Nam và cảm xúc sắp xa căn chung cư này, cái nào da diết hơn cái nào? Hay là cảm xúc ngày xưa xa quá rồi tôi không còn nhớ, chứ bây giờ tôi thấy quyến luyến nơi này quá đỗi. Rồi bỗng dưng tôi mường tượng đến những chuỗi ngày sắp tới phải sống một mình và chợt thấy bàng hoàng khôn tả.

Bấy lâu nay cuộc sống của tôi là với hai đứa con không lúc nào rời xa, như hình với bóng. Thịnh vào quân ngũ, tôi chưa thấy xa xôi lắm vì nó vẫn thường gọi điện thoại có hình ảnh về nói chuyện với tôi khá thường xuyên. Vả lại Hồng Sa vẫn còn bên cạnh tôi. Còn sắp tới... Tôi lại muốn rưng rưng nước mắt, không dám nghĩ đến nữa. Hồng Sa đáng trách hay tôi cũng ích kỷ? Nó đang háo hức với tình yêu, chuyện cưới hỏi, tổ ấm, đó có phải là chuyện bình thường không?

Ngày xưa khi tôi cũng đang yêu, cũng mơ mộng chuyện chồng con, tôi có nghĩ đến má nhiều không? Có một lần, tôi ham chơi, về nhà trễ, chẳng giúp má chuyện bếp núc gì cả. Hôm đó má rầy tôi nhiều, vừa dọn cơm cho tôi ăn, má vừa cằn nhằn:

- Con gái lớn rồi mà hư quá, còn phải để mẹ hầu cơm nước! Đúng là “một mẹ nuôi mười con; mười con không nuôi được một mẹ”!

Tôi xin lỗi má rối rít, nhưng trong lòng không đồng ý với câu má nói. Vừa ăn cơm, tôi vừa lén má cười tủm tỉm. Má tận tuỵ lo cho gia đình thì đã rõ ràng rồi, nhưng tôi cho rằng khi nói câu này, một là má muốn đề cao hơi quá đáng vai trò của người mẹ, hai là má không... giỏi toán! Tôi trộm nghĩ, trong mười đứa con chẳng lẽ không có đứa nào lo lại được cho cha mẹ hay sao? Quay nhanh cuốn phim cuộc đời cho tới hiện tại, trong hoàn cảnh này, bây giờ tôi mới thấm thía câu má nói.

Đến lượt tôi làm mẹ, tôi mới hiểu vì sao ông bà mình đã nói ra một câu cay đắng nhưng cũng chất chứa đầy sự thật như vậy. Cũng may là hôm đó tôi không cãi lại má, lý sự với má về ý nghĩa của câu tục ngữ này.

Liên tiếp mấy tuần sau, tôi ráo riết hỏi thăm bạn bè xem có ai biết nơi nào quen giới thiệu cho tôi share phòng không. Tôi lên cả Internet để tìm tin tức. Qua nhiều tuần lễ, nhiều cú điện thoại thăm dò chỗ share phòng, tôi mới ưng ý một chỗ nhất. Căn nhà đó chủ là một bà lớn tuổi, sống với hai người con, đều đã có gia đình (Đó, người ta vẫn sống chung với nhau được, còn mình...). Nhà bà ở khu Anaheim, gần Disneyland, nhưng cũng không phải là nơi hoàn toàn an ninh lắm. Tôi thì cũng đâu có thể kén cá chọn canh gì trong hoàn cảnh này, khi biết được giá share phòng là 500 đô, rất vừa túi tiền của mình. Bà chủ nhà có hai điều kiện, một là không nuôi súc vật, hai là không được nấu ăn. Điều kiện thứ hai cũng khá ngặt nghèo cho tôi, nhưng tôi cũng đành biết tắc lưỡi mà chấp nhận chứ biết sao hơn. Tôi lái xe đến gặp bà chủ cho hai bên biết nhau. Đến nơi gặp gỡ và nói chuyện với bà chủ, tôi cũng mừng vì thấy bà có vẻ nhân hậu, thật tình. Chắc bà cũng thấy tôi tội nghiệp sao đó, gần cuối câu chuyện, bà bỗng đổi ý và bảo sẽ cho tôi nấu ăn. Tôi mừng hết lớn, chưa biết nói sao thì bà đã nói tiếp:

- Tôi muốn cô có chỗ hoàn toàn riêng biệt với căn nhà, vừa hay cho cô mà cũng cho chúng tôi. Vì vậy cô sẽ không dùng chung bếp với chúng tôi mà tôi sẽ gọi thợ dựng cho cô một cái bếp bên hông nhà cho tiện.

Tôi lắp bắp:

- Nhưng… nhưng như vậy thì sẽ tốn kém cho chị quá!

Bà chủ vui vẻ nói:

- Cô đừng thắc mắc làm chi. Coi như tôi free cho tôi tháng đầu tiền nhà vậy mà. Người Việt với nhau không giúp đỡ nhau thì ai giúp mình?

Nói là làm, vài hôm sau, bà chủ gọi thợ che mái tôn bên hông nhà ,chỗ tiếp giáp với căn phòng tôi sẽ ở. Bà cho chạy ống nước vào “nhà bếp” mới. Một bên nhà bếp để mở cho tôi ra vào từ căn phòng, còn bên kia, chỗ đi ra trước nhà, bà cho làm một cánh cửa ngăn lại. Bà đặt mua ở Home Depot một cái tủ nhà bếp, có vòi nước và chậu rửa chén hẳn hòi. Trên mặt tủ, kế bên chậu rửa chén là chỗ còn trống. Bà bảo tôi sắm một cái bếp gas nhỏ để nấu nướng. Bà còn cẩn thận mua một bình gas, bảo là “free” cho tôi lần đầu, về lâu về dài thì tôi phải tự mua lấy. Tôi đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác, từ cảm xúc này sang cảm xúc khác. Vui mừng, cảm động, xen lẫn một chút tủi thân. Hôm đến xem nhà bếp mới, tôi gởi bà tiền nhà tháng đầu (bà không lấy tháng cuối như nhiều chủ nhà vẫn thường làm) và hẹn hai tuần nữa sẽ dọn đến.

Những ngày sau đó tôi bận rộn với việc chuẩn bị cho đám cưới của Hồng Sa và Huy. Đôi vợ chồng sắp cưới này, ngoài việc lo đám cưới, còn phải lo đủ thủ tục để dọn vào một căn condo mà chúng cũng vừa kịp mua. Lo cho con, tôi không có thì giờ nghĩ đến mình. Tôi lại có thêm một niềm vui là Thịnh xin nghỉ phép về dự đám cưới em gái. Trong đêm tiếp tân đám cưới Hồng Sa, tôi hết khóc lại cười. Mọi việc diễn ra như trong một giấc mơ đẹp, nhẹ nhàng, êm ái, mà cũng đầy ắp cảm xúc. Hai đứa con tôi, hai người thân còn lại trong đời tôi,nay đã thành nhân chi mỹ. Tôi cảm được một niềm hãnh diện kín đáo là mình đã tạm chu toàn bổn phận làm mẹ. Lần đầu tiên tôi có được một niềm vui không vị kỷ, đó là vui lây với hạnh phúc mới của con gái mình. Nó khác với niềm vui khi thấy con mọc răng, biết lẫy, biết bò, tập đi tập đứng ngày chúng còn thơ bé. Bây giờ niềm vui của Hồng Sa là hoàn toàn thuộc về nó, và niềm vui lây của tôi sao mà thấy vị tha quá đỗi. Nhìn Thịnh khoẻ mạnh, rắn rỏi, đẹp trai, tôi càng vui gấp bội. Đêm ấy hình như tôi cụng ly, uống rượu với khách hơi nhiều, cười nói luôn miệng. Đến khuya về nhà, tôi chìm ngay trong giấc ngủ mệt nhoài.

Vài hôm sau, tôi trở lại với thực tế. Hồng Sa đã dọn vào nhà mới. Thịnh bịn rịn chia tay với tôi rồi trở lại đơn vị. Còn lại mình tôi với căn chung cư hai phòng trống vắng, lạnh lẽo, mà chỉ nay mai thôi tôi cũng sẽ rời xa. Đồ đạc trong nhà tôi đã cho hết vào từng thùng cạc-tông gọn ghẽ, cẩn thận ghi tên nội dung từng thùng trên nhãn để dán vào nắp thùng. Tôi phải cho đi hay bán tháo rất nhiều đồ đạc, vì chỗ mới của tôi chỉ chứa được một phần nhỏ những gì tôi đang có. Thịnh đã thuê một nhà kho cá nhân để xếp tạm những đồ vật trong phòng ngủ của nó.

Đứng một mình trong căn phòng khách im lìm, tôi chợt nhận ra là cuộc đời mình vừa sang một trang mới. Chưa bao giờ tôi thấy tôi trở về với chính tôi một cách thật gần gũi như hôm nay. Bao nhiêu năm qua, từ lúc lo vượt biên đến lúc phấn đấu để hội nhập nơi xứ người, lo cho con cái ăn học, lo cho nghề nghiệp của mình, tôi như mất đi chính tôi. Lúc nào tôi cũng hướng ngoại, lúc nào cũng phải cắn răng cố vươn lên trong cuộc sống. Tôi không có thì giờ để hướng nội, không có thì giờ để sống với chính mình, soi rọi tâm hồn mình, hay để độc thoại với nội tâm. Thì nay tôi đã có cơ hội rồi đó. Các con tôi như những con chim đã ra ràng, đã rời tổ ấm. Tôi là con chim mẹ, một hôm bỗng thấy mình không còn cần thiết cho ai nữa. Có lẽ bây giờ tôi phải cần đến tôi. Tôi phải dìu tôi đi cho đến hết cuộc đời. Tại sao lại không nhỉ? Bây giờ mới là lúc tôi sống một cuộc sống tràn đầy, trọn vẹn với tất cả ý nghĩa của nó.

Tôi gọi cho bà chủ nhà, xin phép ghé qua căn phòng để xem lại một vài chỗ trước khi thuê xe chở đồ đạc sang. Vừa lái xe tôi vừa gậm nhấm cảm giác của một người vừa thấy mình đang bắt đầu một cuộc sống mới. Hơn một lần, tôi có đọc ở đâu đó câu nói bằng tiếng Anh, đại khái có nghĩa là “Ngày hôm nay là ngày đầu tiên của phần đời còn lại của bạn.” Chẳng phải là chí lý lắm sao? Với ý nghĩ đó, tôi thấy như có một làn gió mới mẻ, tươi mát thổi nhẹ qua hồn mình. Nhưng một nỗi buồn nào đó vẫn cứ váng vất trong lòng tôi. Hai mắt tôi lại cay cay, nhưng trái tim tôi cũng có một niềm phấn khởi mỏng manh nào đó. Xe tôi chạy từ từ vào khu xóm như đang còn uể oải trong giấc ngủ trưa, dưới ánh nắng cuối hè vẫn còn khá gay gắt. Tôi bấm chuông, bà chủ chạy ra tươi cười mở cửa cho tôi vào. Sau một vào câu trao đổi với nhau, bà ý tứ để tôi một mình trong căn phòng mới “của tôi”.

Ngày trước, khi còn ở với hai con, tôi chưa bao giờ có cảm giác sở hữu căn chung cư hai phòng ngủ. Điều này cũng phải thôi vì nhà là nhà thuê. Tuy thế, đối với căn phòng mà tôi sắp share này, cũng là phòng thuê mà sao tôi lại thấy như mình thật sự sở hữu nơi chốn nhỏ bé mà ấm cúng này. Căn phòng ngó ra một cái patio có mái che và nhiều cây hoa và cây ăn trái. Cánh cửa trong phòng thông ra các phòng khác trong nhà đã được khoá kín lại. Vì vậy, coi như cái patio là của tôi, trừ khi người trong nhà chịu khó đi vòng từ trước ra sau bằng lối đi bên hông còn lại. Tôi đi một vòng xem qua nhà tắm, cũng là của riêng tôi, và nhà bếp mới xây, trong lòng dâng lên một niềm hân hoan khó tả. Đây là nơi trú ngụ mới của mình, hy vọng là cho đến hết quãng đời còn lại. Đây là nơi bắt đầu của cuộc sống mới của mình. Tôi không nợ nần ai hết. Tôi chỉ mong trời thương cho mình sức khoẻ để khỏi làm phiền con cái.

Lúc tôi giật mình nhìn đồng hồ tay chỉ 7 giờ rưỡi thì nắng chiều cũng vừa biến đi những tia yếu ớt cuối ngày. Tôi nhẹ nhàng bước ra sân sau, nhìn mông ra bên kia bức tường. Đâu lưng với căn nhà của bà chủ là nhiều nhà hàng xóm san sát nhau. Trong buổi chiều vàng, tôi nghe đủ loại âm thanh sinh động của khu xóm sau một ngày làm việc. Tiếng người lớn rì rào nói chuyện, tiếng trẻ em kêu nhau ơi ới, bằng đủ loại ngôn ngữ: tiếng Anh có, tiếng Mễ có, tiếng Việt cũng có nốt. Bên trên những mái nhà là một khoảng trời xanh, đang dần đổi sang màu tím biếc của hoàng hôn đang buông xuống. Trong khu vườn nhỏ “của tôi”, cái gì dường như cũng có, mỗi thứ một chút: chỗ này là cây chanh, chỗ kia là cây tắc; phía bên trái những khóm rau dền, cây đậu bắp, lá và quả không biết được bón phân ra sau mà xanh ngăn ngắt và lớn như tôi chưa từng bao giờ được thấy. Đặc biệt, có một bụi cây lớn có hoa trắng thật đẹp mà thoạt nhìn tôi ngỡ là hoa dâm bụt. Nhưng khi đến gần thì thấy không phải, vì lá không giống là cây dâm bụt, và hoa có cánh cũng khác với cánh hoa dâm bụt. Vả lại thật ra tôi cũng chưa từng thấy hoa dâm bụt trắng bao giờ. Hôm nào tôi sẽ hỏi bà chủ nhà xem loại hoa lạ này tên là gì mới được.

Tôi ghé ngồi xuống chiếc ghế sau nhà, yên lặng thưởng thức làn gió nhẹ của buổi hoàng hôn. Trong đầu tôi tự dưng những hình ảnh ngày xưa liên tục tái hiện, từ lúc nhỏ ở với ba má, đến lúc lấy chồng, có con, vượt biên qua Mỹ và lập nghiệp cho đến bây giờ, tất cả như một khúc phim dài sống động. Hai đứa con tôi bây giờ sao mà thấy xa xôi quá đỗi, như một kỷ niệm nào xưa lăng lắc. Bỗng dưng tôi muốn gặp Hồng Sa ngay lúc này, thủ thỉ với nó rằng tôi không bao giờ giận nó cả. Có lẽ tôi sẽ nói cám ơn nó nữa là đằng khác, vì nhờ nó “hất hủi” mà tôi đã tình cờ tìm lại cuộc sống cho chính mình. Tôi còn hình dung một ngày không xa, con gái tôi sẽ có một đứa bé xinh xinh, kháu khỉnh. Lúc ấy chắc nó sẽ lại cần đến tôi, cần bà ngoại trông cháu trong những lúc vợ chồng nó bận bịu. Chỉ tưởng tượng đến hình ảnh đó thôi mà lòng tôi bỗng dào dạt một tình thương ấm áp. Tôi chợt muốn nói với má tôi rằng ngày xưa má nói thật là đúng, một mẹ nuôi mười con, hay còn hơn thế nữa. Tôi còn muốn thêm vào câu nói đó là “cả mười đứa cháu nữa cũng được!”

Trong buổi chiều đang dần xuống, lòng tôi bỗng thanh thản, nhẹ hẫng như một đám mây trắng nào vừa chìm trong bóng tối của một ngày vừa chấm dứt.


Trần C. Trí



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Apr/2022 lúc 8:11am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22144
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Apr/2022 lúc 10:40am

Chồng Đòi Ly Hôn, Cuối Cùng Mới Hiểu “Lòng Dạ” Người Vợ Lạnh Lùng Đòi Nợ


Vợ chồng ly hôn là chuyện trọng đại .

Tại phiên tòa, một cặp vợ chồng trung niên chuẩn bị tiến hành thủ tục ly hôn.

Người đàn ông đã điền đầy đủ thông tin và ký tên của mình vào đơn ly dị rồi lẳng lặng đưa tờ đơn cho người phụ nữ.

Người phụ nữ không nói câu gì, cầm tờ đơn, liếc nhìn anh chồng với vẻ rất khinh thường, rồi xé nát đơn ly hôn trước sự ngỡ ngàng của mọi người.

Người đàn ông nói: 

- Chúng ta không phải đã nói chuyện rồi sao, em làm gì vậy?

Người phụ nữ cười nhạt nói: 

- Anh còn thiếu nợ tôi 200 triệu. Anh phải trả cho tôi xong thì mới ly hôn được.

Người đàn ông chán nản rời đi, không nói một câu nào. Trước đó đã nói chuyện xong xuôi, cả hai bên đều đồng ý, chỉ còn thiếu một tờ giấy ly hôn, không ngờ giờ cô ta lại giở quẻ.

Anh cái gì cũng không cần, giao hết nhà cửa lại cho vợ, ra đi tay trắng, chỉ cần vợ đồng ý ly hôn là được. Nhưng tới cuối cùng cô vợ lại đổi ý, muốn đòi anh trả nợ.

Về đến nhà, người vợ cầm giấy bút ra bắt người chồng viết giấy ghi nợ. Anh chồng không nói gì, ngậm ngùi nén cơn giận ghi giấy nợ đưa cho vợ.

Anh cắn răng nói: 

Người vợ lạnh lùng đáp: 

Người chồng xấu hổ không chịu nổi, trong lòng rất căm giận: 

- Đúng là trên đời lòng dạ đàn bà độc ác nhất, không sai chút nào !

Trước khi ly hôn gặp phải cảnh khốn khổ.

Người đàn ông này vốn dĩ không phải là người bèo bọt tầm thường, anh đã bỏ việc tại một công ty lớn, tự mình chuẩn bị mở một nhà máy kim khí nhỏ. Lúc đó phải đi mượn tiền, ngoài mượn tiền vợ ra, còn mượn cả người thân bạn bè nữa.

Anh là người có thể chịu khổ, mới đầu thì nhà máy làm ăn thuận lợi, trong thời gian ngắn đã tích lũy được hơn 600 triệu tiền vốn.

Nhưng khi anh ta chuẩn bị trả hết nợ cho mọi người, một sự cố ngoài ý muốn đã xảy ra khiến nhà máy biến thành đống tro tàn. Cuối cùng tính tổng gia sản lại, anh còn nợ vợ 200 triệu, nợ những chỗ khác tổng cộng hơn 150 triệu nữa.

Mọi thứ trở về con số không, lúc này người chồng mất hết dũng khí, tinh thần suy sụp chán nản, không những trắng tay mà còn mang cả đống nợ. Anh quyết định trốn tránh mọi người, sống phiêu bạt, lang thang chân trời góc biển. Anh không muốn liên lụy đến vợ mình, nên mới dứt khoát đòi ly hôn, nhưng không ngờ bị vợ làm cho mất mặt.

Đàn ông vốn tính hiếu thắng, nghe những câu nói lạnh lùng của vợ nên quyết định tạm thời không đi nữa. Thiếu nợ thì phải trả, cũng may có người đàn bà vô tình kia nhắc nhở, không thể để mất danh dự.

Đúng lúc này có một người bạn đến tìm anh ta, chủ động cho anh vay 350 triệu.

Người bạn nói:

- Tôi cho anh mượn tiền không phải là vì tình cảm bạn bè mà để cho anh gỡ vốn. Anh là người có sĩ diện, đừng khiến tôi thất vọng.

Vậy là anh ta dùng số tiền này thuê một quầy hàng ở trong chợ, từ từ làm ăn, đi sớm về khuya chịu khổ chịu cực nên rất nhanh có được thu nhập ổn định.

Người bạn cho mượn tiền kia cũng thường xuyên đến thăm, còn mang theo đồ ăn tới làm anh rất cảm động.

Sau khi được viện trợ tình thế thay đổi.

Hai năm sau, anh ta không những mở rộng quy mô làm ăn mà còn dư được nhiều tiền, anh quyết định mang đi trả nợ.

Anh định trả hết cho mọi người trước, sau đó trả cho vợ rồi ly hôn, giải quyết được vướng bận, sau này chỉ lo làm ăn.

Khi anh tìm đến nhà người mình nợ ít nhất, thật không ngờ, họ lại ngạc nhiên nói:

- Trả rồi mà, sao lại còn trả nữa?

Anh ta hỏi ai trả thì họ nói là vợ của anh. Nhà thứ hai, nhà thứ ba, đều nói như vậy.

Cuối cùng tìm đến nhà người bạn đã cho anh mượn tiền.

Người bạn nở nụ cười, nói với anh:

- 350 triệu đó chính là của vợ anh, cô ấy nhờ tôi chuyển cho anh, còn cả đồ ăn cũng đều là vợ anh mua nhờ tôi mang đến.

Anh ta kinh ngạc, nghĩ làm sao mà cô ấy có thể kiếm được hơn 350 triệu?

Trong lòng anh chấn động, không nghĩ được rằng người đàn bà mà mình đang hận này lại dùng phương pháp như vậy để cứu mình.

Anh muốn chạy thẳng về nhà, quỳ gối trước mặt vợ mà tạ tội. Nhưng tới lúc về nhà, ngồi trước mặt vợ, câu đầu tiên anh ta hỏi là: 

- Làm sao mà em có thể kiếm được nhiều tiền đến vậy?

Người vợ nói: 

- Thì em bán nhà. Do người chủ mới có lòng tốt cho em thuê lại để ở.

Anh ta trách cứ vợ:

- Sao vậy em lại dại dột bán nhà đi chứ !

Người vợ nói: 

- Nhà bán đi còn có thể mua lại, chứ người không còn nữa thì cái gì cũng mất hết!

Anh chồng lúc này thực sự xúc động, ôm chặt vợ vào trong lòng.

Cô vợ véo mũi anh nói:

- Anh vẫn còn nợ nợ em 200 triệu, giấy nợ em vẫn còn giữ đấy nhé.

Sau rồi mới lau nước mắt quở trách chồng:

- Chỉ là mấy chục vạn mà anh đã như vậy, nếu vài trăm vạn thì phải làm thế nào đây, anh nghĩ coi? Anh có còn là đàn ông không?

Anh xấu hổ, ngả đầu vào lòng vợ như một đứa trẻ ngoan đang nghe dạy dỗ.

Trong tâm thấy vui sướng vô cùng, biết rằng mình đã tìm được người phụ nữ tài ba, một tình yêu đích thực.

Nghe xong câu chuyện bạn đã biết thế nào là người vợ chưa?

Nam nhân hãy nhớ:

* Vợ chính là người phụ nữ vì bạn mà chịu thiệt thòi, bất luận vợ bạn có làm sao đi nữa thì đừng ghét bỏ họ, hãy quan tâm họ nhiều hơn.

 

 Lê Hiếu, dịch từ Cmoney.tw

https://tinhhoa.net

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 125 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.414 seconds.