Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 124 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 31/Dec/2022 lúc 8:56am

Xuân Về Vắng Cha 

 

Bà Năm đưa 3 cây nhang gần chạm trán, khấn: “Lạy thổ thần đất đai và cô hồn các bác, hôm nay là 30 Tết, con cầu xin thổ thần đất đai và cô hồn các đẳng phù hộ cho con của con – tên Cúc – làm ăn phát đạt, gặp được người xứng đáng. Nếu lời nguyện của con được linh ứng, con sẽ xin cúng một con gà. 

Cắm nhang xong, quay lại, thấy Bảo và Thảo đang nhìn Bà chăm chăm, vì chưa bao giờ thấy ai cúng và lạy, Bà Năm nạt:

 -Nhìn cái gì? Bộ lạ lắm sao?

Hai đứa bé sợ, vừa nhìn nhau vừa bước lui vào phòng, đóng cửa lại. Mẹ của Bảo và Thảo từ trên lầu đi xuống, bà Năm bảo:

- Cúc! Từ ngày tụi mày bảo lãnh tao qua đây tới giờ, đã mấy tháng rồi, mà hai đứa nhỏ cũng “ì” cái mặt tụi nó ra. Tao là bà Ngoại của tụi nó chớ bộ tao là... “cứt” sao!

Nhờ sống ở Mỹ khá lâu, ngôn từ và suy nghĩ của Cúc không còn như thời Cúc mới được sang Mỹ theo diện hôn phối, sau khi thành hôn với Đạm. Cúc đáp:

- Tụi nó mới bốn năm tuổi, biết gì đâu mà Má nói thấy ghê!

- Ghê gì! Mày không dạy tụi nó tiếng Việt thì tụi nó đâu biết Ông Bà của tụi nó là ai; bởi vậy, tụi nó cứ gọi tao là you rồi “trơ mắt” nhìn, coi tao như... “cứt”!

- Tụi con đi làm suốt ngày, thì giờ đâu mà dạy tụi nó tiếng Việt. Tụi nó không hiểu tiếng Việt; Má không biết tiếng Anh thì chịu thôi.

 - Thằng Đạm lấy mày thì nó phải “cung phụng” mày; “mắc mớ gì” mày phải đi làm?

- Nếu con không đi làm, ai gửi tiền về cho Má và họ hàng suốt bao nhiêu năm qua?

- Mỗi tháng mày “thí” cho tao có mấy trăm đô “chớ mấy”! Bà con xin, mày cũng “thí” mỗi “hộ” 100 đô “chớ mấy”; trong khi đó vợ chồng mày sống trong cái nhà “chần dần”!

- Bao nhiêu cũng “chớ mấy”, vậy tiền đâu tụi con trả tiền nhà, tiền xe, tiền bảo hiểm và nuôi hai đứa nhỏ?

Bà Năm trở lại đề tài mà Bà lập đi lập lại với Cúc không biết bao nhiêu lần kể từ khi Bà đến Mỹ:

- Nuôi con thì phải nghĩ đến tương lai cho con. Mày muốn hai đứa nó lớn lên học hành để làm ông kia bà nọ hay là mày muốn tụi nó làm thợ bạc như “thằng” Đạm?

- Con nói với Má hoài. “Nó” đem con qua đây, cho con đi học tiếng Anh rồi học nghề và tụi con có hai đứa con. Bây giờ Má biểu con “đá nó cái rột”, ai nuôi con của con?

- Mày học được chữ nào là công khó của mày chớ “dính dấp” gì tới nó?

-“Nó” phải mua xe cho con, trả tiền học, tiền sách vở, tiền xăng, áo quần v.v. chớ sao không “dính dấp”?

Bà Năm nạt lớn:

- Đi học thì mượn hoặc xin tiền của chính phủ. Mua nhà, mua xe trả góp chớ đâu phải như bên mình, mua, trả “cái rột”. Mày qua đây chỉ có bổn phận ở nhà, đi chợ nấu ăn cho nó thôi. Nó phải có bổn phận chu cấp mọi thứ cho mày. Còn con, mày nuôi không nổi thì xin tiền chính phủ Mỹ mà nuôi. Ăn học như mày mà sao dốt quá vậy?

- Tùy theo income chứ không phải ai cũng mượn hoặc xin được tiền của chính phủ để đi học hoặc nuôi con.

-“In côm” là cái gì?

-Lợi tức cá nhân hằng năm.

- Mày là “kỹ sư dược sĩ”. Mấy “thằng” dược sĩ cùng làm với mày sao mày không “chôm” một “thằng” mà mày cứ sống với “thằng” thợ bạc? Lương của “thằng” thợ bạc so với lương của “kỹ sư dược sĩ” như mày thì thấm vào đâu?

- Con nói với Má hoài. Con chỉ là người trợ giúp dược sĩ (pharmacy technician) chứ con không phải dược sĩ; vì con không có căn bản học vấn, làm sao học đến dược sĩ được! Hơn nữa, ở đây không có nghề nào là “kỹ sư dược sĩ” cả.

- Mày phụ giúp dược sĩ thì gọi là “kỹ sư dược sĩ” chớ còn gì nữa. Chỗ mày làm có nhiều dược sĩ, sao mày không “củm đại” một “thằng” để trở thành “bà dược sĩ”? “Bà dược sĩ” không danh giá hơn “bà thợ bạc” sao? Đồ ngu!

Vì mộng được làm “bà dược sĩ”, Cúc đã “tấn công” và tự “hiến thân” cho một dược sĩ làm cùng công ty CVS. Cúc hy vọng dược sĩ này sẽ ly dị vợ để sống với Cúc. 

Không ngờ, chuyện ngoại tình của Cúc và dược sĩ bị “đổ bể”. Vợ của dược sĩ đã khôn ngoan, dùng tình cảm chinh phục chồng, thuyết phục chồng dời đi tiểu bang khác.

Riêng Đạm, khi hay tin Cúc ngoại tình, Đạm âm thầm đau khổ, lên facebook tìm bạn gái.

Sau thời gian “lăng nhăng ảo” với vài cô bên Việt Nam, Đạm nhận ra đa số phụ nữ bên Việt Nam chỉ muốn tìm cuộc sống “đổi đời” – như Cúc – chứ không có tình yêu, Đạm thất vọng. Và, điều quan trọng hơn cả là, càng lớn Bảo càng giống Đạm và càng quyến luyến Đạm một cách rất thiết tha, đậm đà; vì thế Đạm quyết định tha thứ và vẫn sống với Cúc.

Sự thật là như thế. Nhưng, Cúc chỉ nói với mọi người về sự phản bội của Đạm trong chuyện “tình ảo” trên facebook; còn chuyện ngoại tình giữa Cúc và dược sĩ, Cúc “giấu biệt”.

Vì không hiểu rõ sự việc, bà Năm kể công:

Mày là con một. Vì thương mày, Ba mày phải buôn lậu để gây dựng tương lai cho mày; “không dè” ổng bị đồng bọn thanh toán vì “chia chác” không đều! Tao phải bán nhà, bán đất để tìm mai mối cho mày đổi đời. Bây giờ mày lỡ gặp thằng chồng “cà chớn” mà mày còn tiếc “cái nỗi gì”?

- Má để từ từ, được không?

- Từ từ? Bộ mày tưởng mày trẻ đẹp “woài” sao?

- Con biết, nhưng “kẹt” hai đứa nhỏ.

-“Kẹt” cái gì! Tao đã hỏi người Việt quanh đây. Họ nói, tại tiểu bang này, nếu ly dị, Mẹ được nuôi con; hằng tháng Cha phải chu cấp tiền nuôi con cho đến khi con 18 tuổi; tài sản chia hai.

 

******

Sáng chủ nhật, dậy trễ, thấy Đạm, với nét mặt rất buồn, đang đem va-ly và nhiều vật dụng của Đạm chất vào xe truck màu đỏ, Bảo ngạc nhiên:

-Daddy đem va-ly và mấy thứ đó đi đâu?

 Đạm bế Bảo lên, giọng nghẹn ngào:

- Daddy phải đi.

- Khi nào daddy về?

- Daddy sẽ không về.

Bảo tròn mắt nhìn Đạm:

- Cái gì?

Đạm lập lại. Bảo vùng vằng:

- Tại sao? Con muốn daddy trở về.

Đạm siết chặt Bảo vào lòng. Vừa khi đó, hình ảnh những buổi chiều Đạm dẫn Bảo và Thảo đi bộ vòng quanh khu vực gia đình cư ngụ, nhiều người láng giềng vẫy tay, nói “hi!” và khen hai đứa bé dễ thương, hiện về trong cõi lòng tan nát của Đạm. Một trong những người thương hai đứa bé như cháu ruột là bà Hồng; nhưng Bảo không biết Bà tên gì. Nghe Bà và Đạm thường nói chuyện bằng tiếng Việt, Bảo tự ý đặt tên cho Bà là “bà Việt Nam”. Nhớ đến đây, Đạm thở dài:

- Daddy đâu muốn đi, con!

- Nếu daddy không muốn đi, ai bắt daddy đi được?

- Quan tòa! Nhưng Cha con mình vẫn sẽ gặp nhau.

- Bằng cách nào?

- Thỉnh thoảng, daddy sẽ đón hai đứa về sống với daddy.

- Tại sao lại thỉnh thoảng?

- Quan tòa đã phán quyết như vậy.

- Quan tòa là ai mà ác vậy?

- Lớn lên con sẽ hiểu. Bây giờ con nghe lời daddy, gắng học giỏi. Hè, daddy sẽ đưa con và Thảo đi Disney World chơi.

Bảo ôm cổ Đạm. Đạm dặn:

- Lúc nào daddy cũng thương nhớ các con. Con và Thảo phải gắng học và vâng lời Mẹ dạy, nha!

Đạm dặn Bảo phải vâng lời Mẹ dạy. Nhưng suốt thời gian dài sống với Cúc, Ngoại và Thảo, lúc nào Bảo cũng chỉ nghe Cúc nói Đạm là “thằng” đàn ông xấu xa, tồi tệ, đáng ghê tởm nhất thế giới; vì đã bỏ vợ con để theo mấy bà bên Việt Nam. Cúc bán nhà – Đạm đã ký giấy thỏa thuận tặng Cúc, Bảo và Thảo “nửa ngôi nhà” Đạm được hưởng khi ly dị – dời đến khu vực khác. Cúc đổi số điện thoại; cấm Bảo và Thảo liên lạc hoặc nhắc đến Đạm. Đứa nào cãi lời, Cúc sẽ đuổi ra khỏi nhà để mấy người homeless bắt đi.

Như thế tưởng chưa đủ, bà Năm còn lo xa:

- Mày dọn nhà đi mà mày đã cho thằng Đạm địa chỉ mới để hằng tháng nó gửi tiền nuôi hai đứa nhỏ chưa?

- Hằng tháng “nó” gửi check đến luật sư của con; luật sư của con sẽ chuyển đến con.

*****

Điện thoại reng, bà Hồng nhấc lên, allo và nghe:

- Hi, “bà Việt Nam”!

- Bảo! Trời ơi! Bà phải “ở trên điện thoại” từ sáng sớm đến chiều nay mới tìm được con!

- Con xin lỗi Bà. Nhưng làm thế nào Ba của con biết con đi lính mà nhờ Bà tìm?

- Ba của con kể rằng: Hector – ngày trước cùng làm tại tiệm kim hoàn với Ba con – gặp con tại phi trường. Thấy con giống Ba con “như đúc”, Hector hỏi thăm. Con xác nhận và cho Hector biết con lén gia đình, sang California trình diện, nhập ngũ. Sau khi con lên máy bay, Hector tìm trong điện thoại của Hector, thấy số điện thoại cũ của Ba con. Hector nghĩ, cứ gọi thử xem, nếu đúng, Hector sẽ báo cho Ba con biết tin con đi lính; nếu không đúng thì Hector cũng đã hết lòng với người bạn cũ. Không ngờ Ba của con không đổi số điện thoại. Thế là Ba của con điện thoại, nhờ Bà tìm con; vì Ba con và Hector không đủ khả năng sinh ngữ cũng như sự hiểu biết về các cơ quan công quyền.

- Hector quả là người tốt! Con xin lỗi đã làm phiền Bà.

- Tìm được con, Bà vui chứ sao lại phiền. Con khỏe không? Con đang ở đâu?

- Con khỏe. Con đang ở trung tâm huấn luyện Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.

- Cái gì? Trời! Ba của con nói với Bà rằng con cho Heator biết con sắp xong năm thứ hai đại học; nhưng vì buồn gia đình nên đi lính. Tại sao con không gắng thêm vài năm nữa cho xong đại học rồi xin vào trường sĩ quan?

- Sĩ quan hoặc lính cũng chỉ đánh giặc thôi, đâu khác biệt gì. Sự khác biệt quan trọng nhất trong đời người là một đứa có Cha và một đứa có Cha mà không được gặp, không được liên lạc với Cha!

- Bà hiểu.

- Biết bao nhiêu năm rồi con không được hug, không được nghe tiếng nói của Ba con, Bà biết không? 

Dù đã nghe người Việt quanh khu vực này nói về việc Cúc ngoại tình với dược sĩ làm cùng công ty, bà Hồng cũng nói khác đi; vì Bà không muốn làm cho Bảo đau lòng thêm:

 - Là phụ nữ, Bà hiểu tâm trạng của Mẹ con. Con đừng trách Mẹ con.

 -Con không trách Mẹ con. Con hiểu Mẹ con có lý lẽ của Mẹ con. Nhưng trái tim của con cũng có lý lẽ của nó.

 Ngưng một chốc để nén xúc động, Bảo tiếp:

- Làm thế nào Bà tìm ra con?

- Sau khi hứa với Ba con, Bà vào Google, tìm, rồi điện thoại đến các nơi tuyển mộ tại Houston. Không ai có thể giúp Bà; vì Bà không có tư liệu cá nhân của con. Bà gọi các văn phòng tuyển mộ tại Dallas và Austin cũng bị từ chối vì cùng lý do. Bà khóc, giải thích với nhân viên phòng tuyển mộ tại Austin rằng Bà không biết số điện thoại của Mẹ con. Lúc sáng Ba con gọi Bà trên số desk phone của Bà – mà desk phone của Bà không có máy để ghi lại số điện thoại hoặc lời nhắn – và Bà cũng quên hỏi Ba con số điện thoại của Ba con; do đó Bà không thể gọi lại Ba con để lấy tư liệu cá nhân của con. Bà nhờ văn phòng tuyển mộ tại Austin ghi tên họ, địa chỉ và hai số điện thoại của Bà rồi chuyển đến con với lời nhắn: Nếu con nhận ra Bà là “bà Việt Nam”, hãy gọi Bà ngay; vì Ba con rất khổ tâm và lo lắng cho con!

- Cảm ơn Bà đã tìm con. Tụi con thương nhớ Ba con nhiều lắm. Nhưng Mẹ con cũng vẫn cấm tụi con liên lạc với Ba của tụi con! Mẹ con bảo, nếu tụi con liên lạc với Ba con thì Mẹ của con sẽ... tự tử chết!

 

******

Trong khung cảnh nhộn nhịp, vui tươi, nhìn Thảo rạng rỡ với chiếc áo cưới màu trắng, vương miện cũng màu trắng và bó hoa hồng trên tay, Bảo vẫn cảm nhận được sự trống vắng trong hồn chàng. Bảo thở dài, nhìn sang bạn gái, tự hỏi: Nếu sau này, con mình lập gia đình mà mình không được tham dự, mình sẽ nghĩ như thế nào? Con của mình sẽ nghĩ gì? Nếu con gái của mình phải cầm tay một người đàn ông khác trong những bước first dance – vì mình không được nhận vinh dự đó – thì con gái của mình sẽ cảm nhận như thế nào? Mình có đủ can đảm để vượt qua nỗi đau quá lớn đó hay không? Nỗi buồn trong lòng mình sẽ sâu đến độ nào?... Đang suy tư, Bảo chợt nghe giọng bạn gái:

- Bảo, đứng lên! Đứng lên, đi ra với cô dâu.

Bảo nắm tay Thảo bước vào sân khấu trong tiếng vỗ tay rộn rã. Nhìn nụ cười rạng rỡ của Thảo, Bảo cảm thấy thương em vô cùng và cũng nhớ Ba vô vàn!

Ban nhạc dạo hết phân đoạn đầu tình khúc She Walks With Me của Michael W. Smith, ca sĩ “bắt” vào:

From the first breath of her life
She flew straight into my arms
I used to catch her from the swings
When she was five...
... And she walks with me
And she talks with me...”

Lời ca gợi lại trong hồn Bảo hình ảnh những buổi chiều hạnh phúc xưa, khi Bảo và Thảo cùng Ba đi bộ quanh xóm... Kỷ niệm vừa sống lại trong hồn, Bảo đưa tay quẹt nước mắt. Thảo vừa bước theo vòng tay đưa đẩy của Bảo vừa nhìn Bảo, khẽ nói:

- Bảo! Anh gắng vui trong ngày trọng đại của đời em. Em thương anh.

Bảo tự hỏi: Ngày trọng đại của đời em mà Ba của em không được phép hiện diện! Có bất công cho em hay không? Sự bất hòa giữa Cha Mẹ là chuyện của Cha Mẹ, tại sao bắt con phải nhận lãnh hậu quả? Với hai hàng nước mắt tuôn dài, Bảo quay nhanh về phía bàn gia đình và thấy “bà Việt Nam” đang nhìn chàng với ánh mắt đầy xót thương! Mủi lòng quá, Bảo rời sân khấu, bước vội ra cửa trong sự bàng hoàng và xúc động của mọi người!

Bước chầm chậm trong khung trời rực rỡ của lồng đèn màu đỏ, chữ vàng, treo trước mỗi nhà hàng và tiếng trống của đoàn múa Lân, Bảo chợt nhớ những mùa xuân xưa, khi Bảo và Thảo được mặc quần áo mới, được Ba Mẹ đưa đi chúc Tết bà con và bạn hữu. Bảo và Thảo được “lì xì” tiền mới. Khi về nhà, Ba bày Bảo, Thảo và mấy đứa bé cùng xóm chơi “bầu, cua, cá, cọp”... Nhớ đến đây, Bảo tủi thân, tựa vào trụ đèn, gục đầu vào lòng bàn tay, dáng vẻ rất khổ sở.

Bất ngờ, một bàn tay nhẹ nhàng đặt lên vai của Bảo, giọng dịu dàng:

- Hi, Bảo!

Quay sang, nhận ra bà Hồng, Bảo hơi khom xuống, vừa hug Bà vừa thì thầm: 

-“Bà Việt Nam”! Con buồn quá! 

- Bà hiểu. Nhưng, con gắng vượt qua để niềm vui của em con được trọn vẹn. 

- Con phải làm gì bây giờ? 

Bà Hồng chưa kịp đáp thì chiếc truck màu đỏ của nhân viên an ninh tuần tiểu chạy chầm chậm ngang qua. Nhìn theo chiếc truck, niềm thương nhớ Ba lại cuồn cuộn trở về rồi òa vỡ trong lòng, Bảo không thể tự chủ được, gọi lớn: “Truck! Bring my daddy back! I want my daddy to be here for my sister’s wedding!

 

Điệp Mỹ Linh

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Jan/2023 lúc 1:49pm

Sáng sớm cuối tuần, ít người phải đi làm, ít người muốn ra khỏi nhà khi bên ngoài lạnh dưới không độ. Trời vào Đông, năm nay suốt từ tuần cuối thu, nhiều đợt tuyết nối nhau đến. Tối hôm qua, tuyết lại rơi thêm. Lớp tuyết mới phủ dày kín một lớp trắng tinh lên trên các lớp tuyết rơi từ hơn hai tuần nay, gặp lạnh không tan được. Hầu hết các tiệm quán ở khu Little Saigon, của thành phố Vancouver này, cũng bị ảnh hưởng thời tiết vắng khách hơn.

Hai người mới vào quán vừa ngồi xuống, người đàn bà đã quay sang bàn kế bên, ngạc nhiên

- Ủa!... sao hai ông bà còn ở đây?!... Năm nay không dìa ăn Tết à?

- Đi chứ!...

Bà bạn trả lời rồi hất mặt về hướng người đàn ông ngồi đối diện mình, đang lua cặp đủa vun đầy sợi mì vào miệng, nói tiếp:

- Chỉ tại ổng cứ bảo chờ "xeo" thêm, rốt rồi mua hỏng được cái vé nào hết!

Lột cái nón len dầy để lên mớ áo khoát ngoài nằm trên ghế bên cạnh mình, bà nói không chờ quay lại nhìn bạn mình:

- Thiếu cha gì vé, Bà!

- Ai hỏng biết vậy! Nhưng vé "xeo" kia kìa!... họ bảo chờ qua Giáng Sinh...

- Qua rồi! Mua chưa? ... Tui với ông này lấy xong chuyến bay tuần tới.

- Vậy à! Tui cũng tuần tới đây! Mà bà bữa nào bay?

- 14 tây. Còn bà?

- Tui cũng 14 tây!

- Hãng nào vậy?

Ông chồng hớp miếng trà rồi xen vào đỡ lời cho vợ:

- E chai na!

- Vậy là cùng máy bay rồi!... 13 triệu 7 phải hong?

Nghe bạn hỏi, bà quay sang lườm ông chồng đang ăn:

- Sao rẻ quá vậy!

- Ông bà trả hết bao nhiêu?

Người chồng lờ đi tia mắt sắc lẻm của vợ, gắt nhỏ:

- Lo mà ăn cho xong đi, nguội lạnh hết rồi!

- Ừ thì tui ăn đây chứ!

Nói xong, bà quay sang bàn vợ chồng người bạn, khẽ hất mặt và đưa mắt liếc nhanh về hướng ông chồng mình, hạ giọng:

- Ổng nói với tui tới 16 triệu hai lận!

- Ối!... xê xích chút đỉnh mà, bà ơi!

- Hứ!... hai triệu chớ ít oi à!

- Sớm chậm một chút, có khi hên, sui thì mua giá mắc... cuối năm mà, thiên hạ ai cũng muốn dìa ăn Tết!

Ờ!

“... cuối năm mà, thiên hạ ai cũng muốn dìa ăn Tết!”

Thiên hạ rất đúng!

Nhưng sao thằng Hai chợt nghe nghẹn thở. Nước từ mũi nén nghẹt xuống cuống họng. Mở mắt, mắt cay xè.

Nước! … Nước mặn đắng! … Nước đen ngòm!

Bản năng của một sinh vật vùng vẫy trước cái chết, thúc đẩy hai chân nó chòi đạp để ngoi lên bên trên mặt nước. Sự sống hối hả tìm lại sinh khí cho buồng phổi. Nước theo không khí len vào mũi, tràn vào miệng. Cái mặn đắng của muối trong nước biển làm nó sặc sụa. Giòng máu kịp mang dưỡng khí đến khối óc cho nó choàng tỉnh để biết mình đang còn sống, để nó thêm kinh hoàng khi thấy chiếc ghe của mình đã bị hai tàu hải tặc Thái húc gãy đôi. Một nửa thân ghe mang khối động cơ đã chìm mất biệt trong lòng đại dương. Chỉ còn mũi ghe nhấp nhô trên đầu sóng biển…. Ôm tấm ván vụn của chiếc ghe, nó bơi đi. Cứ bơi. Giữa đại đương mênh mông, chẳng biết đâu là bến, hướng nào là bờ. Cứ bơi. Bơi qua đêm đen. Lắm lúc nó tưởng sẽ được chết. Chết như đã nghĩ đến, khi vượt biển, thà được chết trong biển trời tự do. Nhưng rồi, trưa hôm sau, Ơn Trên đã cho chiếc tàu đánh cá thấy nó để cứu vớt, cho nó còn sống để biết 73 thuyền nhân cùng ghe, cùng trốn thoát ngục tù cộng sản, giờ chỉ có 17 người được vớt lên và đưa vào bến bờ tự do ở Mã Lai.

Rót thêm chút nước trà nóng, đưa lại gần vợ nó:

- Trà nóng, em!

Nhìn vợ mình ngồi yên lặng nghe chuyện Tết của người ta, thằng Hai chợt nghe nhói trong tim.

Tết lại đến!

Gần bốn mươi năm rồi còn gì! Sang đây, làm người ly hương, hai đứa mới biết nhau và rồi nên vợ thành chồng. Vợ chồng nó tỵ nạn cộng sản, sống ở xứ người lâu hơn thời chào đời và lớn lên ở quê hương Việt Nam của mình. Hơn bốn mươi năm rồi, từ khi cộng sản cướp miền Nam tự do, hai đứa nó có ngày nào đúng nghĩa là Tết đâu!

Tết như ngày xưa ấy!

Tết trong an bình tự do như thời Sài Gòn còn là Sài Gòn!

Tết như kỷ niệm thật êm đềm của nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân đã ghi lại:

"ôi nhớ xuân nào thuở trời yên vui
nghe pháo giao thừa rộn ràng nơi nơi
bên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng
trông bánh chưng ngồi chờ sáng
đỏ hây hây những đôi má đào"

Từ khi bọn cộng sản tráo trở, xua quân giết người, biến những ngày an bình đón Xuân của dân tộc thành cuộc thảm sát Tết Mậu Thân. Tết nhắc nhớ lắm tang tóc, thương đau. Tết đã không còn là những giây phút an bình, nhất là cho những người khoác áo trận, nơi tuyến đầu. Lời nhạc đã làm biết bao những người lính như nó thấm thía vô vàn, buồn nát lòng khi "Xuân Này Con Không Về".

Hơn bốn mươi năm rồi còn gì!

Nơi xứ người, mỗi năm khi Tết đến, cơm chay để Rước Ông Bà cũng là giỗ nhớ ngày cha, mẹ, anh và em của vợ nó, cùng tất cả thuyền nhân trên con tàu đã mất tích từ năm 80. Từ đấy, Tết đến đã không còn là niềm vui đón Xuân sang cho vợ nó, cho nó và cho các con… Ngày giỗ mà!

Để thoát khỏi gông cùm của chế độ cộng sản man rợ, gần triệu xác người vượt biển tìm tự do đã nằm trong lòng biển, hay bị vùi dập trên hoang đảo. Biết là bao nhiêu cho đúng, hàng trăm ngàn người vượt rừng đã bỏ xác.

Vết thương tỵ nạn cộng sản chưa bao giờ lành, hãy còn rỉ máu.

Thảm cảnh người dân ồ ạt chạy trốn cái “nhà nước” và quân tự xưng là “giải phóng” và can đảm chọn cái chết vì tự do hơn là phải sống trong chế độ man rợ; tuy không sao kể ra được hết, đã thật sự lột trần tất cả các mặt nạ xảo trá của Việt cộng, của đảng cộng sản Việt Nam. Đảng và nhà nước cộng sản vô cùng bối rối kinh hoảng trước dư luận thế giới. Phạm Văn Đồng, thời làm Thủ tướng chính phủ của cái nhà nước gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đã quá độ bực tức mà lấp liếm và xấc xược tuyên bố với phái đoàn doanh thương và báo chí Mỹ, cùng các truyền thông thế giới, tại Hà Nội vào ngày 31-10-1985 rằng: “những người vượt biên, vượt biển là bọn chạy trốn tổ quốc, là bọn đĩ điếm, trộm cướp”

Đồng và cái đảng bất nhân của ông ta muốn nói gì thì cứ nói, nhưng rõ ràng là nhà nước cộng sản đã không thể giấu diếm, che đậy được nỗi sợ hãi tột cùng, trước làn sóng vượt biên tìm đến Tự Do của dân chúng trong nước!

Dĩ vãng, tự nó phai mờ theo thời gian!

Hàng chục năm nay, đảng cộng sản cứ luôn miệng khuyến dụ người tỵ nạn cộng sản hãy quên đi quá khứ. Thế nhưng, quá khứ tội ác của đảng cộng sản, tự nó đã ghi vào lịch sử bằng máu và nước mắt của dân tộc Việt Nam. Hơn nữa, tội ác của đảng cộng sản không phải là quá khứ, không phải chỉ có trong quá khứ mà vẫn tiếp diễn đến thời điểm hiện tại.

Kẻ phạm tội vẫn chối bỏ tội phạm, tất nhiên tái phạm tội ác!

Trên bàn có tờ báo cũ; nó mượn để đọc, khi mới vào quán. Tờ Thời Báo, số báo đã ra từ hôm cuối tháng 9. Trang bìa hình màu tươi sáng rực rỡ, dành cho tin mừng với chú thích "Freedom at last - VOICE Canada và 19 đồng bào tỵ nạn bị lãng quên ở Thái Lan gần 30 năm qua đặt chân lên bến bờ Tự Do hôm Thứ Sáu 23/09 tại phi trường Toronto."

Người tỵ nạn bên người thiện nguyện với nụ cười trên môi, niềm vui trong ánh mắt! Có trẻ thơ còn bồng trên tay. Có người như chị Lê Thị Ba, sĩ quan huấn luyện viên của trường Nữ Quân Nhân thuở nào, là một phụ nữ trẻ trung khi vượt biển năm 1989; nhưng nỗi nhục nhằn, gian truân trong cuộc sống lưu lạc, không tương lai trên đất Thái, đã sớm biến chị Ba thành một vị cao niên gầy yếu!

Trang trong, qua bài Người Vẫn Cứu Người, tác giả Nam Lộc có ghi lại:

"lúc ngồi trên chuyến bay từ Los Angeles đến Thái Lan qua ngã Hong Kong, tôi ngỡ ngàng khi nhận ra gần nửa chỗ ngồi là người Việt Nam từ Hoa Kỳ về thăm quê hương, ai cũng ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi tưởng là bạn đồng hành và hỏi thăm rối rít “làm sao mà ông dám về VN”? Tôi nói đùa “đoán trước chuyện gì sẽ xẩy ra cho nên tôi chỉ mua vé một chiều”!

Hình ảnh trên làm tôi chợt nhớ đến một câu hát của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng trong nhạc phẩm “Kinh Khổ”: “Người về một ngày một đông hơn, người đi càng lúc càng thưa dần”!

Người về một ngày một đông hơn!

Trong những người về, chắc có người cũng đã từng phải thì thầm bàn chuyện "chôn dầu vượt biển"!

Bây giờ, câu chuyện “dìa ăn Tết” lời qua, tiếng lại, oang oang, rộn rã, nghe vui như ngày đang là Tết!

Người ta hớn hở bàn nói, từ các chiến tích vô cùng khéo léo để lòn lót tờ đô-la nơi cửa quan cộng sản ở phi trường, đến những kinh nghiệm ăn chơi trên khắp miền từ

Nam ra Bắc. Họ dặn dò nhau đừng mang nữ trang thật, cùng những cách cất dấu tiền bạc, và những con số tiền bạc là tiền hàng trăm ngàn, bạc triệu…

- Em uống thêm cà-phê.

Thằng Hai đưa tách cà phê sang vợ nó. Hai đứa nó chia nhau tách cà phê. Vợ nó không biết uống cà phê, nhưng từ khi thương nhau, cũng thích chia với nó vị đắng cùng chồng. Vị đắng của cà-phê hôm nay bổng dưng sao nghe đắng quá, vô duyên quá!

- Mình đi nghen em!

Thằng Hai nói nhỏ với vợ. Hai đứa cùng rời quán ăn.

Trời mùa Đông. Trời vẫn lạnh. Ngoài này, buổi sáng yên bình, coi vậy mà dễ chịu hơn trong quán…

Mẹ Việt Nam ơi!
“Con biết bây giờ mẹ chờ tin con
khi thấy mai đào nở vàng bên nương
Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về
nay én bay đầy trước ngõ
mà tin con vẫn xa ngàn xa”

Bùi Đức Tính
 

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Jan/2023 lúc 10:05am

Hoài%20niệm%20Pháo%20|%20Gia%20Đình%20Phật%20Tử%20Việt%20Nam%20Trên%20Thế%20Giới

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 06/Jan/2023 lúc 10:06am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Jan/2023 lúc 2:41am

Tâm Sự Đầu Xuân Quý Mão 

Ghim%20trên%20PVThanh

Nhớ hồi còn chân ướt chân ráo mới định cư tại cái đất lạnh tình nồng nầy , mình thấy cái gì mình củng ham hết . Ôi thôi ! nào là bơ, nào là sửa, kẹo, bánh , thịt thà đủ thứ, sao mà nó ê hề nhiều quá xá cở thợ mộc . Để bù đấp lại nhửng ngày thèm khát thiếu thốn lúc còn  ở bên nhà , hầu như tuần nào mình củng nhậu nhẹt lu bù . Ăn cái gì củng thấy ngon cả .

Thịt heo mua cả ký về để nguyên da và mở , bỏ vô nồi luộc chín , đem ra xắt mỏng cuốn bánh tráng rau sống chấm mắm nêm hay mắm ruốt ăn sao mà thấy nó ngon quá trời quá đầt . Bia thì mua cả  thùng, uồng hết chai nầy thì khui chai khác . Thuốc hút thì mỗi ngày một gói và toàn là thứ nặng không hà , như loại Export A . Có tuần thi đổi món ,làm thịt bò nhúng dấm , mời bạn bè lại nhà  làm một chầu càng hong ai nấy đều ngất ngư hết .Có khi thì cháo vịt , co lúc thì cháo lòng . Mùa hè thì barbecue  với thịt gà hoặc sườn ướp sả và ngủ vị hương , nướng lên thơm phức cả xóm làng. Rồi hai vợ chồng phải đi học lại để mong có một tương lai tươi sáng hơn 


Trong bốn năm dài dài đăng đẳng đầy thử thách , nhờ phước đức ông bà để lại nên rồi củng xong ,tai qua nạn khỏi . Mấy năm gần đây có phong trào karaoké , bà xả xúi tui tham gia cho vui như mọi người , chớ ở nhà ra vô gặp mặt nhau hoài dám gây lộn lắm ..Thú thiệt với các bạn là từ hồi cha sanh mẹ đẻ tới giờ ,tui nào có biết hát xướng gì đâu  . Thôi thì củng được , biểu sao tôi nghe vậy vì sách  có câu  “ nhứt vợ, nhì Trời ,thứ ba là em vợ “ .Cuối tuần , hể có bạn bè nào hú là tui chở bả đi liền ,bất kể mưa gió bảo bùng .Có lẻ là nhờ tánh như vậy nên bả thưỏng tui lắm chưa dám bỏ tui .

Bả còn canh tui rất kỷ sợ người khác xớt mất . Hồi tui mới 25 tuổi , thầy tướng  số ở Cầu Ông Lảnh có nói  là cung cư thê của tui đóng trong cung mạng . Ổng nói đó là lá số rất tốt , đàn ông mà có cung cư thê ở mạng thì sướng lắm, khỏe lắm khỏi lo gì hết. Mọi chuyện mọi thứ vợ nắm vợ lo hết còn hỏn cả mẹ lo cho con nửa , duy chỉ có một trở ngại nho nhỏ là thỉnh thoảng phải chịu nhức nhối  lỗ tai một chút. Ai lo thì người đó mệt chớ có sao đâu, miển sao tui  “phẻ  ”là được  .


Ngựơc lại,  bạn bè tui thì le lưỡi có vẻ lo ngại dùm tui , tụi nó còn nói tui tới số rồi .Không biết các ông giáo trong hội nhà ta có ông nào có số gióng như tui không ? Có lẽ tại tui “ hiền” , tui là nhà giáo coi trọng lể nghỉa, sống theo sách  nên không dám làm mích lòng ai cả nhứt là người đó là vợ mình . Một câu nhịn chín câu lành mà . Mà sao cũng lạ, nhớ lại ngày xưa hình như Tía tui  cũng có tính giống như tui vậy ..Nói thiệt với các bạn , tui mà không có bà xã lo thì giờ nầy cuộc đời chắc te tua bi đát , nhà cửa bầy hầy lắm  . 

Tui cũng có nhiều tánh xấu lắm  nhưng tui không dám kể hết  ra đây vì sợ thiên hạ cười thúi mặt . Tham sân si,  ái dục ,chấp ngã , bốc đồng và vv…tui đều có đủ cả . Có khi tui cũng tự hỏi chắc bà xã củng khổ vì tui lắm chớ không phải chơi đâu . Đôi khi bả tức tui cái gì đó tui thấy bả khóc xụt xịt , làm tui rất ân hận ., sau đó tui phải năn nĩ ĩ ôi  , phải hứa dủ thứ ,  phải thề bán sống bán chết như là “ tui mà còn như vậy nửa thì cho tui trèo lên cây ớt  té xuống bị cây hành đâm lòi ruột đi , hoặc  tui mà có nói dóc thi cho xe lửa cán  đường rầy đi   ”. Tui củng hết sức cố gắn để tự sửa chửa nhưng đâu phải là dể vì tánh tui như vậy đó , bản chất tui là đàn ông  chớ đâu phải là đàn bà.


Rồi sau đó thì karaoké tàn rụi   và được thay thế bằng keyboard . Có một cái ngộ là phần đông các  “ ca sĩ ” đều sồn sồn và đã là bà ngoại bà nội cả rồi . Trong những buổi văn nghệ như thế , nghề của tui là  nghề vổ tay cho thật lớn cho thật kêu  bất luận người ta hát hay hoặc dở . Mổi lần   bà xã tui bước lên sân khấu thì tui biết bả run lắm , còn tui củng không hơn gì . Tui thầm vái ông Địa cho bả hát cho suông  sẻ , đừng có thé lên , đừng có trật đường rầy bất tử quê lắm . Bà xả  vừa hát xong là tui thở một cái phào . Thấy củng vui vui. Nhìn ngấm các bà chị duyên dáng trong nhửng tà áo dài sặc sở , thước tha  dịu dàng như  nhửng  cô gái 20 lòng tui thấy tươi mát lại . Không hiểu khi về đến nhà các bà các chị còn giử được nét hiền hậu diụ  dàng nửa hay không  ? Nhửng lúc rảnh rổi tui thường viết báo chùa dạy khôn thiên hạ về cách ăn uống sao cho đúng phép dưỡng sinh .

 

Chắc các bạn nghĩ rằng là tui ngon lành lắm sao ? Tui cũng như các bạn mà thôi . Nghe tui nói , nhưng đừng có coi tui làm . Y pháp bất y tăng . Bà xã tui thường  mỉa mai coi chừng biết đâu ông  dám ngõm trước người ta lắm , ở đó mà làm thầy đời thiên hạ . Tui củng không biết sao mà trả lời được với bả .   

Chúng ta  đều cùng chung một hoàn cảnh ly hương cả . Tuối đời chồng chất trên dưới 60  , cũng ba chìm bảy nổi tám cái linh đinh  trong cuộc sống . Có ai  dám tự hào là mình chưa thấm mệt đâu . Lục phủ ngũ tạng đều yếu xìu hết .  Có ai mà không có vấn đề sức khoẻ nầy nọ , không đường cao thì  cũng có mở cao ,  áp huyết không cao thì củng phải có đau nhức  ở chổ nầy ở chổ nọ .

 

Đầu óc thì quên trước nhớ sau, để đâu quên đó , có khi lúc đang lái xe đèn xanh thì mình ngừng còn đèn đỏ mình lại chạy phon phon hết hồn hết vía .Tình trạng nầy càng dể xảy ra nếu bên lỗ tai  phải bị nghe  “com măn te ”  đủ thứ .Rồi còn phải tìm cách đối phó chuyện bên nầy  giãi  quyết chuyện bện kia , tùm lum  tà la . Mình không còn được như hồi 2-3 chục năm về trước nữa , mình đang bước  dần vào ngưỡng cửa của tuổi già . Sinh, bịnh, lão, tử  không ai tránh khỏi được. Nhưng có một điều chắc chắn  là mình có thể cải thiện sức khỏe được bằng cách ăn uống cho cẩn thận, nhất là đối với các chất đường, mỡ và  muối. Năng hoạt động, đi bộ , tập Tai Chi, sống điều độ , bớt rượu, bỏ thuốc , bớt café, biết tha thứ, không cố chấp  và  buông xã bớt. Sống vui với mọi người cũng như với con với cháu. Tay trong tay, ta dìu bà xã chậm bước  trong khoảng đời còn lại  để cùng già bên nhau  . /. 

                                  Đàn trẻ  đều khôn lớn                                    

Lâu lâu mới về thăm 

Như chim trời đủ cánh 

Tẻ bầy đi kiếm ăn . 

                                     

Con mỗi nơi mỗi đứa 

Còn lại vợ với chồng 

Tình gìa càng thấm thía 

Càng yêu thương mặn nồng 

                       

Tình già là chung thủy 

Là chín bổ làm mười 

Là chia bùi xẻ ngọt 

Là hy sinh suốt đời 

                                           

Tình gìa là báu vật 

Không phải của Trời ban 

Mà do công góp nhặt 

Như đãi cát gom vàng 

  

(Thơ của Anh Bùi văn Thăng, Salt Lake City)                                               

Montreal October 20, 2022

Nguyễn Thượng Chánh     

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 10/Jan/2023 lúc 2:58am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 10/Jan/2023 lúc 9:42am

Chuyện Chiếc Cầu Trên Sông Mỹ Thuận


Đã lâu lắm tôi không về lại Việt Nam. Nói vậy không có nghĩa là tôi không nhớ quê hay nhớ ít hơn những người đi đi về về từ mấy năm nay. Không, tôi nhớ quê tôi lắm chớ. Tôi nhớ đâu ngay từ khi mới vừa đặt chân xuống ghe trong đêm vượt biển. Nỗi nhớ như những lọn máu nhỏ từ đời kiếp nào vẫn chảy rì rầm trong trái tim héo mỏi. Tôi có quên đâu. Thấp thoáng giữa đám lau lách của trí nhớ bội bạc, quê hương vẫn còn đó, lẻ loi như một bông cúc vàng nở muộn, đẹp đến xót xa. Tôi nhớ như một người tình bị phụ rẫy nhớ lời đay nghiến, như người thương phế nhớ một phần thân thể đã thất lạc. Nhớ từ cơn đổ vở nhớ đi. Nhớ trong hồi đoạn lìa nhớ lại. Vậy mà tôi không về. Hay chưa về lại đó một lần. Nghe thì rắc rối như bày đặt. Nhưng mà cuộc đời cũng có suôn sẻ gì đâu.

Những năm mười tám, đôi mươi từ tỉnh nhỏ lên Sài-gòn trọ học, cách quê đâu chừng trên trăm cây số gì đó là tôi đã bắt đầu thấy nhớ. Hồi đó bạn bè cứ sửa câu hát ru em mộc mạc thành câu hát trêu chọc: “Đèn Sài-gòn ngọn xanh ngọn đỏ. Đèn lục tỉnh ngọn tỏ ngọn lu. Mới đi xa anh khóc lu bù. Chừng quen con nước bắt bỏ tù anh cũng đi”. Dĩ nhiên con trai mới nhổ giò nhổ cẳng, đứa nào chẳng có lần mơ mộng làm những chuyến giang hồ vặt để cứ tưởng mình đã lớn. Lẩn quẩn trong cái phố chợ nhỏ xíu đi tới đi lui chưa mỏi cẳng đã thấy vòng lại chỗ cũ, lòng cứ nôn nao những chuyến đi xa. Đọc hành Nguyễn Bính thấy mê làm sao cái hình ảnh hào tráng của người khách lữ, rũ áo phong sương một chiều cuối năm trên gác trọ, rượu say ngất ngưởng rồi cười khinh mạn mà nhắc tới mấy con mắt trắng với mắt xanh. Chưa hết đâu, còn cái hình ảnh não nùng của người em gái sầu muộn bên song cửa cứ vò võ trông chừng từng cánh nhạn đưa tin. Trời ơi được làm người tình cho người ta chờ đợi như vậy có nhuốm bụi cũng cam. Mơ thì mơ toàn chuyện động trời như vậy mà mới xách va-li đi khỏi nhà được đâu trăm cây số chừng đôi ba bữa là đã thấy nhớ cồn cào cả người. Có lạ không.

Vẫn có những chiều đang lang thang giữa phố, lòng bỗng nhiên chùng xuống khi chợt thấy chân mình lỡ đạp trùng lên mấy lọn nắng cũ vàng hoe. Hay những sớm thức dậy bỗng thấy buồn ngang vì một tiếng xe thổ mộ lăn lóc cóc đều đều như gõ nhịp vào thiên cổ. Cái thằng đang vui đời đô thị bỗng trở buồn ngang xương vì vệt nắng hoang, vì tiếng xe ngựa sao giống y như bóng nắng tiếng xe ở quê nhà. Có một cái gì trùng lẫn ở đâu đây. Dường như mấy góc phố nhỏ, cây me già cỗi, đêm mưa tỉnh lỵ, giọt trăng châu thổ… vẫn là một dù người ta đã thay nơi đổi chốn. Người đi bỏ lại hình ở chốn cũ mà quên bóng cứ lúc thúc theo sau. Có lúc giả bộ ngoảnh mặt mà thật ra có làm ngơ được đâu. Nó cặp kè, lẩn lút, chỉ đợi dịp là ló mặt ra trêu chọc. Bởi vậy mà trong khi đầu tôi thì háo hức lo đuổi bắt mấy cái bóng sắc mới lạ thì lòng tôi lại trì trì những kỷ niệm cũ xì. Cứ như vậy mà giằng co níu kéo hết tháng sang năm lòng vòng chơi mãi cái trò bắt trốn. Hết nhớ rồi quên. Hết quên rồi lại nhớ. Riết rồi tôi cứ thả mặc cho dòng đời xốc nổi, bởi gốc vốn từ đất ruộng bốc bụi bay đi thì làm sao chẳng có lúc tấp lại bên đường mà không nhớ xó đất quê!

Vậy đó, suốt mấy năm lang bạt ở Sài Gòn, mặc dầu lúc nào cũng tỏ ra là “tay chơi” sành sõi, nhẵn mặt khắp đầu trên xóm dưới, như một dân Sài-gòn chính hiệu, tôi vẫn cứ là một tên nhà quê đặc sệt ở trong lòng. Hở ra là nhớ. Nhớ từ cọng cỏ ướt sương nhớ đi. Nhớ từ bụi lúa trổ đòng đòng nhớ lại. Người tình đầu đời sao tôi quên cái một. Mà khoảnh đất quê nhà sao tôi lại nhớ hoài. Có lúc tôi thấy thèm về ngồi lại trên bực đá lở bên bờ sông Cái, một buổi trưa hè nào đó, lượm đá thảy lia thia trên mặt sóng mà đầu thì thả lông bông như một người vô tích sự. Có lúc tôi muốn được quay lại bãi cỏ xanh cạnh ngôi đền văn miếu cũ, chắp hai tay sau gáy nằm dài ra đó ngủ dật dờ ngó lơ mơ mặc cho cuộc đời xoay trở chung quanh. Cả cái tỉnh nhỏ mà gần như ai nấy đều biết mặt nhau, ở thì rầu muốn chết mà đi xa thì nhớ đến đứt ruột. Tôi cũng không biết tại sao. Có phải cái đó là cái mà mấy ông văn sĩ gọi là tình quê đó chăng?

Tôi nhớ những con đường lặng lẽ duổi dài theo bóng mấy hàng sao, tôi nhớ cái châu thành nhỏ xíu như chiếc khăn tay với những căn nhà xây cất nửa tây nửa ta, nhớ mấy quán sinh tố góc chợ chiều có mấy cô chiêu đãi quê mùa gọi mời đon đả. Tôi nhớ ngôi trường Tiểu Học với cái sân chơi lầy lội, ngôi trường Trung Học im ỉm uy nghiêm và tiếng trống gọi trường nghe dồn dập đến thót tim mỗi lần ham chơi tụ tập lê la ngoài phố. Tôi nhớ như in dãy phố tàu. Bạn bè dăm đứa rủ rê nhau. Áo phanh ngực đón mùi hương lạ. Háo hức chia nhau khói thuốc đầu. Còn nữa, còn nhiều lắm, làm sao kể hết. Ngay cả những thứ có lúc thấy tầm thường, nhạt nhẽo gì đâu mà sao cứ… nhớ ơi là nhớ!


Như cái bến phà Mỹ Thuận vậy đó, tôi đã đi qua lần đầu đâu thuở chín mười tuổi rồi cứ nhớ hoài mặc dầu sau này, lớn lên đã qua không biết bao nhiêu là bến đợi khác. Có một cái gì lạ lắm như nối kết tôi, thằng con trai sinh ra và lớn lên ở bên này sông cứ nhìn ngó bên kia sông như chót đỉnh của một giấc mơ phiêu lãng. Có phải con sông lớn mênh mông đó như một ranh giới vô tình đã chằng giữ những cơn mơ tuổi nhỏ. Có phải những con sóng cuồn cuộn đó đã một thời đẩy đưa hồn tôi phiêu lưu đến những chân trời xa tít, miễn phí và không nguy hiểm. Bằng lý do nào, thì đó vẫn là nơi ưa thích nhất và cũng là nơi tôi nhớ nhiều nhất, nhất là từ lúc biết mình khó có dịp qua lại nữa.

Những năm mới bỏ xứ ra đi, năm ba hôm là lại chiêm bao thấy mình về quê cũ. Mà lần nào cũng vậy, mỗi lần lại thấy đứng đợi phà qua bến Mỹ Thuận. Nghĩ cũng lạ. Lội sông lội suối cũng nhiều mà rồi cũng chỉ nhớ có khúc sông trắc trở đó thôi. Dĩ nhiên điều đó chắc không ăn nhằm gì với cái vị trí quan trọng của nó trong việc thông thương ở miền Tây. Quốc lộ số 4 từ Sài Gòn xuôi Nam đến đó là phải khựng lại. Sông rộng mênh mông, tách nguồn từ Tiền giang ở phía bắc chảy nghiêng nghiêng theo hướng Tây Nam đến đó phát đổ ròng ròng đến phát sợ. Thuở ấy, tiền bạc và kỹ thuật chắc còn non yếu quá, người ta chưa đủ sức bắc cầu. Xe đò, xe hàng tới đó là phải đậu lại, sắp hàng dài thậm thượt đợi lượt qua sông. Gặp lúc có công-voa nhà binh chiếm ưu tiên là thôi chờ đợi dài người ra. Xe cộ phì phò hục hặc, khách khứa nhốn nháo, mấy chú lơ xe hấp ta hấp tấp xách thùng xuống sông múc nước đổ máy cho hạ hỏa, mấy bà mấy cô cũng vội vội vàng vàng chạy tìm mấy chỗ giải thủy cho nhẹ mình, khi thì bờ ruộng lúc lại mấy lùm cây khuất khuất hở hở. Cái hoạt cảnh ồn ào náo nhiệt không có chỗ nào giống được. Lạ lắm.

Làm như đó là một nơi người ta rất mong cho mau tới, mà tới rồi lại cứ mong cho mau đi. Nói vậy mà không đi mau được là cũng vui vẻ như thường. Có khi thấy xe kẹt nhiều quá là thiên hạ cứ miệng lầm thầm rủa xả mà chân thì xắn xả nhắm hướng mấy cái quán nước thân tình. Hàng quán thì bán đủ thứ thượng vàng hạ cám. Người đi xa lỡ độ đường không sợ đói. Cơm nước trái cây bốn mùa, mùa nào thức nấy. Cứ nhìn mấy giỏ mận hồng đào chín mọng là bắt khát nước, mấy giỏ ổi xá-lỵ căng da xanh mướt mà phát thèm. Điệu nghệ hơn nữa, những xâu chim trao trảo quay vàng ngậy chảy mỡ bóng lưỡng chấp chới trong lồng kiếng quyến rũ còn hơn cao lâu Chợ Lớn, mấy miếng thịt sườn nướng than tại chỗ bốc mùi thơm thấu tới thiên đình. Kề đó mấy chai bia con cọp sắp hàng dọc ngang như nghinh nghinh thách đố ai mà chịu nổi. Bởi vậy mà khách giang hồ qua đó thế nào rồi cũng phải có lần ngả bàn nhậu dọc đường. Mà bởi vậy khách đa tình qua đó cũng không thiếu người vướng lại những cuộc tình tứ chiếng. Bà lớn bà nhỏ em gái em nuôi gì không biết chớ chuyện ghen bóng ghen gió vẫn xảy ra hà rằm làm cho cái bến đổ vốn đã ồn ào lại được thêm phần… ầm ĩ.

Nhưng mà tại sao là Mỹ Thuận mà không là một cái bến khác. Dọc theo miền Tây còn bao nhiêu là bến phà. Vàm Cống, Cần Thơ, Rạch Miểu, Chợ Gạo, Cổ Chiên… sao không nhớ. Mà chỉ nhớ rặt có Mỹ Thuận? Hay tại tôi cũng nòi tình như ông Cò quận chín trong tuồng cải lương Tuyệt Tình Ca có bà vợ nhỏ ở Vĩnh Long đã chèo xuồng đưa chồng qua sông Mỹ Thuận về Mỹ Tho thăm vợ lớn rồi biệt tăm biệt tích luôn mấy chục năm trời. Không, tôi biết cái bến phà đó từ lúc còn rất nhỏ, chưa tới tuổi có một vợ chớ đừng nói tới vợ hai. Kỷ niệm của tôi với cái bến phà đó không dính líu gì hết tới mấy cái chuyện tình duyên tấm mẳn. Nó chỉ dính líu tới cái tuổi nhỏ mà mộng lớn của tôi thôi. Vốn là quê tôi cách bến phà Mỹ Thuận đâu chừng chín mười cây số gì đó. Con đường nối liền bến nước với tỉnh lỵ chạy qua những thửa ruộng nho nhỏ cắt chia bằng mấy bờ đê lúp xúp, ngang qua vài xóm nhà lá lụp xụp và một hai chiếc cầu xi-măng bắt cong cong rất điệu. Con đường hiền lành thơ mộng một cách quê mùa, cũng chẳng có gì là đặc sắc.

Chỉ có điều con đường đó là cái ngõ thoát êm đềm nhất để chạy trốn nhịp sống đều đặn nhàm chán của tỉnh nhỏ buồn hiu. Con đường là cái gạch nối ngắn nhất đưa đứa con trai mới lớn từ thực tế vây khốn đến mộng mị phiêu lãng qua trung gian là cái bến phà rộn rịp đầy khách lữ hành xuôi ngược. Lần đầu tiên qua đó một lần năm chín tuổi là bắt mê ngay cái không khí chộn rộn, tất tả, lăng xăng của kẻ đến người đi, của người qua kẻ lại làm như ai nấy đều vội vã lắm. Người ta sốt ruột trông cho mau đến, đến rồi sốt ruột trông cho mau đi, đi hấp ta hấp tấp như chỉ sợ trễ một chuyến qua sông là sẽ trễ luôn cả một cuộc đời. Làm như cuộc sống không chịu ngừng lại một chút, cứ phải là những chuyến lên đường.

Ờ, những chuyến lên đường! Hình ảnh những khách bộ hành lật đật xuống xe, tay xách nách mang kéo nhau đi như chạy qua phà là cái biểu lộ tuyệt diệu nhất cho sức hút của dặm trường thiên lý, của kiểu đời gạo chợ nước sông đã làm tôi mê mẩn suốt một thời mới lớn.

Hình dung trở lại đứa trẻ sinh ra ở một tỉnh nhỏ lần đầu tiên được cha mẹ dẫn cho đi Sài Gòn. Chuyến xe tài nhứt khởi hành đâu khoảng bốn giờ sáng. Trời gần Tết đẫm sương. Lòng xe tối mò. Hơi khói xăng xông lên mũi kích thích. Đứa bé cố nhướng mắt thật to để nhìn cho hết con đường mơ trước mặt. Mà có được đâu. Cơn mê ngủ đậu chực trên mí mắt cứ đè sụp xuống hoài làm nó lắc lắc đầu như để phủi đi mà không phủi được. Tiếng xe chạy ù ù càng như ru thêm. Nhưng mà mới ngủ gà ngủ gật đâu được một chút đã giựt mình nghe tiếng anh lơ la oang oang. Bà con cô bác xuống xe qua đò. Có ăn gì thì xả rác trong xe bà con ơi… Đứa bé giựt mình mở choàng mắt dậy. Ôi thôi đâu mà đèn đuốc sáng trưng. Người qua lại rộn rịp, kêu réo thúc hối kèn cựa tự nhiên như giữa chỗ không người. Đứa bé ngơ ngác tưởng trong chiêm bao. Đâu mà mới chút nãy còn ở giữa đồng hoang tối mịt, mới ngủ quên một chút, bừng con mắt dậy đã thấy ở ngay giữa bữa chợ đông.

Bỡ ngỡ, chớp chớp con mắt mấy cái là tỉnh như sáo sậu. Nó khoái chí dòm cái hoạt cảnh mới thấy lần đầu. À thì ra người ta có ngủ như nó đâu. Người ta đi đi lại lại, chạy tới chạy lui, cười giỡn nạnh hẹ nhau suốt đêm suốt ngày. Cái cõi người lớn này lạ thiệt. Đêm hào hứng như vậy cách chỗ nó ở có bao xa, bằng đâu một chớp mắt thôi. Vậy mà ở nhà mới chạng vạng ba má đã bắt nó phải lên giường ngủ một mạch cho tới sáng trưng. Như vậy ở ngoài căn nhà nó ở, ngoài con đường tráng nhựa nó đi tới trường hàng ngày, ngoài ngôi chợ lớn cạnh bờ sông thỉnh thoảng có mấy gánh sơn đông về múa võ bán cao đơn hoàn tán, ngoài cái rạp xi-nê chiếu phim cao bồi bắn lộn với mọi da đỏ… còn có cả một thế giới lạ lùng, vui tươi, rộn rịp, chờn vờn một sức sống mãnh liệt bừng bừng ngay kề bên cái phố nhỏ buồn hiu của nó. Đúng là cả một khám phá kỳ diệu.

Xe chạy chậm lại rồi rà rà tìm chỗ đậu. Mọi người lục tục xuống xe. Thằng bé nắm chặt tay mẹ nó đi những bước như nhảy. Nó cố làm ra vẻ người lớn như để được hòa hết mình vào cái thế giới sôi sùng sục quanh nó. Nó nở mũi hít thật dài một hơi không khí mát lạnh từ ngoài sông thổi tới, thấy như hít luôn cả cái chộn rộn của đoàn người đang vội vã đi bên cạnh, luôn cả cái mùi kỳ lạ pha trộn đủ thứ thập vật trần gian: hơi người, hơi gà vịt treo buộc tòn teng dưới cặp đòn gánh của mấy bà bạn hàng, hơi trái cây vừa mới hái đổ đống trên sạp, hơi nước lèo của mấy xe hủ tiếu thơm phức, hơi xăng nhớt nồng nồng, cả hơi tinh sương của một ngày đang trổi dậy. Trong khi đó đoàn xe chạy chậm chậm cẩn thận từng chiếc một xuống phà theo sự chỉ dẫn của ông “xếp bắc”, miệng ngậm tu-huýt mặt câng câng như tự thấy mình quá sức quan trọng. Mỗi chiếc xe bò lên cầu từ tốn vừa chạy vừa run run chắc vì lòng cầu nhỏ quá chỉ vừa lọt chí mí. Kề bên một anh lơ chạy lúp xúp tay cầm cục gỗ chặn như để sẵn sàng can thiệp khi xe lỡ trớn.

Chiếc cầu sắt lót ván kêu rần rần dưới vòng bánh xe nặng trịch. Xe chạy tới đầu “bông-tông” thì ngừng lại, khục khà khục khặc như vừa thấy nguy hiểm chờn vờn trước mặt. Mà nguy hiểm thật. Ở giữa “bông-tông” là một cái cầu quay hình chữ thập, bề ngang đâu cũng chỉ vừa lọt hai bánh xe, cái nhánh thẳng nối với đường cầu đâu chỉ dài hơn chiều dài chiếc xe đò một chút mà lại đâm thẳng ra dòng sông đang chảy cuồn cuộn. Ngó mà thấy rùng mình. Hèn chi ngay đầu cầu lúc nãy thấy có một tấm bảng đỏ ghi mấy hàng chữ trắng:”Coi chừng thử thắng xe qua phà”. Điệu này không khéo xe chạy tuốt xuống sông như chơi. À thì ra tại vậy người ta bắt bộ hành xuống xe đi bộ bỏ mặc chiếc xe với ông tài xế thử thời vận. Mà chắc cũng không sao vì ông tài xế coi bộ bình tĩnh lắm, miệng ngậm trệch điếu thuốc lá, từ từ rà thắng cho xe rề rề chạy xuống tới mút bửng cầu thì ngừng lại đúng lúc ông kiểm soát khoát hai tay ra dấu ngừng. Tất cả ăn khớp đúng phốc như dứt hết sáu câu mà rơi ngay đúng nhịp song lang. Tức tốc, anh lơ xe chêm ngay hai khúc cây chặn cứng hai bánh xe hết đường nhúc nhích.


Rồi đợi đâu sẵn, bốn người phu đứng ngay bốn đầu cầu quay, người kéo người đẩy vận sức xoay bàn cầu quay một phần tư vòng tròn cho đầu mũi xe hướng ngay mũi phà đã hạ bửng đợi sẵn. Chiếc xe rú một hơi dài rồi chồm lên chạy xuống phà. Vậy là xong một chiếc xe. Phà nhỏ chở được có bốn năm xe là đầy một chuyến. Ông tài công ngồi tuốt trên phòng lái ra lệnh dỡ bửng. Ai đó đánh một tiếng kẻng. Vậy là coi như nội ngoại bất xuất, trên dưới không được lên xuống nữa, hành khách và xe cộ không được chộn rộn chàng ràng nữa. Phà dỡ đõi rồi từ từ lùi ra bến. Trời hưng hửng sáng. Gió bốc theo khói sóng thổi phần phật mấy tấm bạt che hàng trên mui xe. Nước bắn tung toé hai bên thành phà làm ướt nhem mấy dãy băng dành cho hành khách. Mặt trời hà tiện chút ánh sáng vàng cam không soi nổi con sông lớn quẩy sóng đen ngòm. Phà chạy chậm như thong thả lắm hay là tại không có sức nhanh hơn. Máy nổ rì rì đến sốt ruột. Ngồi trên mấy cái băng gỗ có lúc người ta tưởng chừng như đang đứng yên một chỗ nếu không có mấy dề lục bình trôi băng băng ngược chiều.

Gặp mùa lũ chướng xem chừng còn nhàn nhã hơn nữa. Phà qua ngang không nổi, phải thả trôi theo con nước xuống tuốt đuôi cồn rồi mới ì ạch vòng lên bờ bên kia. Như vậy mà chắc ăn nếu không phà tròng trành có thể lật ngang như chơi. Vậy mà thằng bé vẫn khoái như thường. Dễ chừng nó còn mong cho lâu tới nữa. Đâu phải lúc nào cũng được đi trên sông một cách nghênh ngang như vậy, ngó mấy chiếc tam bản chèo chống lê thê bị sóng tàu nhồi đờ đẫn mà tội nghiệp. Nó ngửa mặt hứng mấy giọt nước bay trong gió, tóc dựng đứng như bờm ngựa, lòng mơn man một nỗi vui kỳ lạ. Cùng lúc trời lộ hết bình minh. Con sông hiện rõ dần, lớn lao, chói lọi, bất trắc và mê hoặc như một huyền nhiệm. Đứa bé thấy con sông và bến nước lần đầu tiên mà sao có cảm tưởng như sẽ thấy muôn đời. Tấm lòng nhỏ xíu của nó như đã dành một chỗ rất lớn cho khoảnh sông nước đó. Nó chăm bẳm cái hình ảnh của thiên nhiên cựa mình sống dậy như một khám phá bất ngờ. Và lớn lên một cách đột ngột, từ đó.

Như vậy mà tôi qua phà Mỹ Thuận lần thứ nhất. Tôi trở ngược lại qua phà lần thứ hai ít ngày sau gì đó. Cũng y như lần đầu. Chỉ khác là vào buổi chiều, trời sắp tắt nắng. Bóng đêm chực chờ càng làm con sông, chiếc phà và người ta thêm gấp gáp. Cũng cái vội vã thêm một chút lo lắng. Cũng cái ồn ào nhưng bớt đi một chút náo nhiệt. Nhưng không có vẻ gì là sắp ngừng nghỉ. Sông nước có thôi chảy đâu. Và người ta cũng đâu có hết lên đường. Ở đó là hình ảnh một dòng sống không có khởi đầu và cũng không có kết cuộc.

Có phải tại vậy mà tôi mê cái bến Mỹ Thuận hay không? Tôi đã giữ trong tôi cái hình ảnh qua lại bất tận trên dòng sông bất tuyệt này rất lâu. Mãi đến khi lên Trung Học, tôi vẫn thường trốn nhà những ngày nghỉ học đạp cái xe đạp cà tàng chín cây số lên đó, đứng ngó ngu ngơ một đỗi rồi đạp xe trở về. Mệt đừ mà lòng lại thấy vui sướng như vừa làm một chuyến đi xa, hồn mê mải với cuộc mộng du tưởng tượng. Không biết có phải tại tôi chịu ảnh hưởng của đứa bé mê nhà ga và xe lửa trong thơ Tế Hanh hay không mà tôi cứ hay làm như nó. “Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt. Lòng buồn đau xót nỗi chia xa”. Cái hình ảnh đẹp và buồn đến dại người. Mà cũng dại thiệt. Tôi mê cái bến phà Mỹ Thuận đến dại dột.

Năm học lớp Đệ Tứ, cô bạn gái cùng lớp thân thích với tôi như quít với cam. Còn tôi thì cứ tưởng thiên hạ ai cũng mê thích kỳ quái như tôi. Lần đó tôi rủ cô ta trốn học, hai đứa lén ra bến xe lam đi Mỹ Thuận. Cô ta nghe tôi tả cái cảnh và cái tình của Mỹ Thuận nên cũng náo nức đi theo. Đến chừng lên tới đó thấy phố xá lu bu, người ta lật đật, sông nước thì vô tình cô ta đâm chán nản đòi bỏ về đi coi chớp bóng. Tôi đâu chịu. Thế là giặc giã nổi lên đùng đùng. Cô bạn thường ngày phụng phịu dỗi hờn dễ thương hết sức, hôm đó không biết nổi chứng gì mà quyết liệt còn hơn bà Trưng thù nhà hận nước dứt khoát bỏ tôi lên xe trở về. Tôi tự ái ở lại. Xui một cái là sau đó cô ta bị cha mẹ khám phá được chuyến giang hồ vặt, chắc bị nọc ra đánh đòn rồi đày vào lãnh cung hay sao đó mà thề cự tuyệt mặt tôi. Thế là “anh đi đường anh, tôi đường tôi…”

Nghĩ cũng uổng, chỉ vì ba cái vụ lên xe xuống xe mà đành rẽ thúy chia uyên. Nhưng mà tôi có tởn đâu. Tôi vẫn chứng nào tật nấy. Hể được cô nào thân ái là tôi cứ cà rà mời cho được lên chơi Mỹ Thuận một lần. Ở đó tôi huyên thuyên dẫn giải hoặc trầm ngâm tâm sự làm như chỗ đó là giang sơn riêng của tôi vậy. Có cô cũng kiên nhẫn ngồi nghe nhưng đa số thì giẩy nẩy đòi về. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì cũng đâu lỗi tại tôi. Nơi cái thành phố tôi ở thuở đó có chỗ nào thơ mộng đâu mà hẹn hò. Chẳng lẽ đưa nhau vào Văn Thánh Miếu, chỗ thờ ông Thánh Khổng chuyên trị lễ giáo mà đi lạng quạng dưới mấy gốc mù u tối om để nỉ non tâm sự. Lỡ ổng nghe được thì hóa ra tôi cũng lỗi đạo với bậc tiên sư. Nếu không thì dưới bóng cây da Cửa Hữu có miếu Bảy Bà sơn thủy cũng hữu tình nhưng thời đó nghe đồn bà hay xẹt đi xẹt lại thì càng nên tránh cái chuyện tới đó thề non hẹn biển.

Còn cái rạp xi-nê nhỏ như cái lổ mũi chuyên môn chiếu tuồng cao bồi đánh nhau với da đỏ thì giữa cảnh tên bay đạn lạc đó thì còn đâu tâm trí mà nói chuyện tâm tình. Vả lại ngay xuất chiếu buổi trưa rạp chẳng có máy lạnh lại còn đóng cửa kín bưng nên cứ vừa coi phim vừa quạt phành phạch thì hơi sức đâu nữa mà thủ thỉ. Chỉ có Mỹ Thuận của tôi là thượng hạng. Vừa có gió sông lồng lộng, có phà trôi rập rình, có đủ thứ quà cáp trần gian và nhất là có những vóc dáng giang hồ qua qua lại lại. Bến nước là nơi tao ngộ của những tay tứ chiếng, là ngã tư gặp gỡ của trăm họ miền Tây. Cà mau, Rạch Giá, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh… Họ băng ngang thì thôi chớ còn xổ dọc là gặp nhau ở đó. Không hẹn mà gặp. Gặp không chào không hỏi. Gặp một lần trong một đời. Rồi thôi. Rồi mất biệt như chưa từng đã gặp. Dĩ nhiên chắc họ cũng có trở đi trở lại nhưng rồi có ai gặp lại ai đâu. Tôi đã thấy ở đó bao nhiêu là mặt người, bao nhiêu là nhân dáng mà rồi có gặp lại ai bao giờ. Phải vậy không, ở đó giống y như cái cõi đời này mà một ông Tàu xưa đã cảm thán đến để rơi nước mắt: “tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giã, niệm thiên địa chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ”.

Đó là một quán trạm bên đường mà mọi người phải ghé qua trong cuộc hành thiên lý dù có muốn hay không. Ghé qua một chút, vui vẻ hay buồn rầu, nhẹ nhàng hay gồng gánh thì cũng phải ghé qua, đi tới đi lui, dòm ngó loanh quanh rồi quay lưng đi mất biệt. Đó chẳng giống cái đường trần thăm thẳm này sao mà khách lữ chính là chúng ta đó. Chúng ta đến rồi đi có ai biết, dòng đời vẫn chảy đến biệt mù cũng chẳng làm sao hay. Thuở ấy tôi đã triết lý vụn như vậy với bạn bè mà không ai chịu nghe tôi. Riết rồi chỉ còn mình tôi là đi lại chung tình với cái bến phà-bến đời náo nhiệt đó. Vậy mà hay, bởi vì ở đó tôi đã sống bao nhiêu cảnh tình mà cả chục năm sau tôi cũng chưa hề sống lại được. Bãi trường năm 66, 67 gì đó, tôi từ Sài Gòn về quê nghỉ hè, cô bạn con nhà trọc phú được cha mẹ lo cho đi du học ở Pháp, ngày đi quá bất ngờ cô ta đáp xe đò về tìm tôi từ giã. Không biết lúc ấy lòng buồn đến đâu mà sau khi đưa cô ta qua sông trở lại Sài-gòn, một mình đón phà ngược trở lại, bỗng nhiên tôi khải ngộ được một điều thắc mắc từ thuở mới mê thơ. Đưa người ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng.

Trời ơi lần ấy tôi mới thấy hết cái tài hoa của người thi sĩ mệnh bạc. Đưa người, ông không đưa qua sông mà nghe sóng vỗ ở trong lòng. Còn tôi đưa người, tôi lại đưa ngang sông thì sóng vỗ biết cơ man nào mà nói. Con tim dù lớn cách mấy cũng chỉ bằng nắm tay thì chỉ có nước chết đuối thôi. Lần đó tôi tôn ông Thâm Tâm làm sư phụ. Mấy thằng bạn trời đánh của tôi chỉ lo chạy xe lạng đào trong thành phố làm sao hiểu thấu được cái lớn lao u trầm của người thơ. Đời mộng và thực như vậy đó bàng bạc trên từng ngọn sóng, từng khúc quành, từng vết xe lăn, từng chuyến phà ngang trắc trở. Sao không tới đó mà coi, không tới đó mà nghe tiếng đời kêu réo. Phải rồi còn cái tiếng đời huyễn hoặc này nữa, tiếng độc huyền của ông ăn mày mù ngồi trước hàng ba một tiệm nước. Ông ta ngồi đó tự lúc nào tôi không biết.

Chỉ biết khi tôi bắt đầu quến thật sự cái sinh hoạt của bến Mỹ Thuận thì ông ta đã có ở đó rồi. Ông ta ngồi đó lặng lẽ, nhỏ nhoi, có mà như không có, giống như cây cột đèn bữa cháy bữa không. Sự có mặt của ông có làm bận tâm ai đâu họa chăng là mấy thầy phú-lít. Nhưng mà ông ta mờ nhạt quá, cũ kỹ quá nên riết rồi người ta cũng lờ đi coi như là một vai câm của vở kịch cứ đổi cảnh hoài. Như cái phần tĩnh của bức tranh động vậy. Ông ta ngồi yên như một khúc gỗ đẽo sần sùi, lưng cong vòng, mặt nghiêng nghiêng, đôi mắt sâu hoắm, hai chân xếp lại, gần như không nhúc nhích. Chỉ có tiếng đàn của ông là bay lượn thảm sầu. Cái giọng ỉ ôi như kêu rêu, như trách cứ mà cam phận, nghe nghèn nghẹn đến tức tưởi. Nó gần như gom hết tất cả cái gì oan nghiệt nhất, cái gì đoạn trường nhất, cái gì tang thương nhất của cuộc đời này lại rồi phát ra một lượt làm chết điếng lòng người. Đàn chỉ có một dây thôi mà đủ hết mùi trường hận.

Tôi khám phá ra ông một bữa về ngang trời đổ mưa bất chợt. Mọi người chạy túa vào mấy cái mái hiên tìm chỗ đụt. Vừa tấp vào một quán nước tôi để ý tới người đàn ông mù tức khắc. Có một vẻ gì lạ lắm toát ra trên gương mặt vô tri như trét sáp. Ông ta ngồi đó, lặng lờ như một vệt khói, mặc cơn mưa rào rơi lộp độp, mặc đám phàm nhân lao xao. Ông làm như không hay biết gì hết, ông chỉ biết tiếng đàn của ông thôi. Mấy ngón tay xương xẩu, đen đúa thoăn thoắt bắt nắm sợi dây đàn độc nhất, còn bàn tay trái vặn vẹo cái cần gỗ đã lên nước bóng ngời. Tôi không biết ông đàn bản gì chỉ nghe được cái não nuột của âm thanh như từng mũi kim chích thẳng vào da thịt mình đến nhức buốt. Tiếng đàn thoát đi bay lượn lẹo trong không khí ẩm đục nghe như tiếng khóc từ cõi âm vọng lại, kêu réo, van nài làm tôi rùng mình muốn phát lãnh. Nó bay ra xa, uốn éo rồi vòng lại, oằn oại. Nó vút lên cao, lanh lảnh rồi chùi xuống thấp, rụng rời. Người ăn mày mù vẫn say mê đàn như không biết cái tiếng đàn ma quái đang truyền nhiễm về đời bóng tối của u minh, dẫn đường cho những hồn oan kéo nhau về lướt thướt.

Một lúc mưa bỗng tạnh. Mọi người lục tục bỏ đi. Có bà nhón vài đồng bạc cắc bỏ nhẹ vào cái hộp thiếc đặt trên góc chiếu. Còn đa số thì chắc quá vội đi mà không kể gì đến tiếng đàn bỏ lại. Còn tôi sao tôi bỗng nhiên thấy đi không nỡ. Sao tôi có cảm giác như thiên hạ quá vô lễ với nghệ nhân. Người ăn xin mù đó đúng là một nghệ nhân. Con người đó, tiếng đàn đó sao tôi thấy tài hoa đến tột vời. Mù đã là một thiệt thòi. Mù mà tài hoa thì đúng là tội nghiệt. Có phải ông mù đã gởi tâm sự mình trong tiếng đàn tận tuyệt đó không? Tôi quay vào quán, gọi một ly cà-phê bảo người hầu bàn đem ra cho người ăn xin rồi đến ngồi trong một góc nhìn ra. Suốt buổi chiều, tôi ngồi nghe lóm hết khúc này đến khúc khác, lòng cứ thắc thỏm từng hồi theo mấy cung bạc mệnh. Mà thật ra tôi có biết bài bản nào đâu.

Thuở đó đối với tôi, những kim tiền bản, khốc hoàng thiên hay gì gì nữa cũng là quê mùa hết. Tôi chỉ khoái rum-ba với lại xì-lô. Đã nói tôi còn dại dột lắm mà. Vậy mà buổi chiều đó tôi ngồi im như chết trong góc quán, hồn mỏi mê như bị ma ám, lần đầu tiên khám phá ra cây độc huyền quái đản. Tại sao có loại đàn kỳ dị như vậy. Và tuyệt diệu như vậy. Còn người mù đó nữa, có phải chính cặp mắt đục lờ đó mới nhìn thấu được tới vô thanh để biến ngũ cung thành trăm bài kinh khổ? Đã có lúc tôi tưởng chừng ông ta biến đi đâu mất tiêu mà chỉ còn tiếng đàn ở đó thay ông kêu khóc. Hay có thể nói ông ta và đàn như nhập làm một. Làm sao có sự hóa thân kỳ diệu đó nếu không là một bậc dị nhân. Có lúc thần trí tôi mê hoang tưởng như Sư Khoáng đội mồ trở về vác đàn đi tìm bạn tri âm… Rồi tiếng đàn dứt. Tôi giựt mình thấy mình ngồi ủ rũ. Trời ngoài kia đã chạng vạng, bến phà cũng thưa bớt người qua.
Bữa đó khi ra về tôi đã dốc hết tiền còn lại trong túi cho ông ta rồi nhảy lên đeo xe hàng có giang về chợ.

Đấy cái bến Mỹ Thuận nó hỗn mang như vậy đó, nó tập trung tất cả mọi hạng người từ cùng căn mạt kiếp tới những tay đâm thuê chém mướn, coi trời bằng vung, trước ngực thì xăm “hận kẻ bạc tình” sau lưng thì xăm “thù người hại bạn” đến người cuồng sĩ tối ngày cứ đón phà từ bờ này qua bờ kia như để đón đợi một người nào đó chưa bao giờ gặp mặt mà hể mở miệng ra là cứ “liên hoành” với “hợp tung”. Tôi đã thấy có ông tự chặt ngón tay thề thôi cờ bạc, có ông cầm dao đòi rạch bụng khi người yêu đòi “tách bến sang ngang”, có ông dẫn cô nhân tình bụng mang dạ chửa đâu từ dưới quê lên tới đó rồi “quất ngựa truy phong” bỏ cô ngồi khóc bù lu bù loa bên bờ sông “định mạng”. Tôi đã thấy những anh lơ xe mở miệng ra là chửi thề thí mạng mà giữ chữ tín còn hơn cả đám anh hùng Lương Sơn Bạc, những em bé bán hàng rong nhỏ như ngón tay út tối ngày chạy theo mấy chuyến xe đò ép nài từng xâu mía ghim để nuôi bà mẹ tật nguyền. Mấy ông già ngồi bán báo mà thông hiểu trời đất không sót một mảy may, bình chuyện đời xưa không thua gì Mao Tôn Cương hay Kim Thánh Thán. Thôi thì đủ thứ cảnh đời mà có học đến già người trong trường lớp cũng không làm sao biết được. Bởi vậy tôi yêu mến Mỹ Thuận như một người tình chung thủy, như một người thầy lão luyện đã dạy tôi bao nhiêu ngón khôn khéo mà cũng không biết bao nhiêu món đoạn trường. Có lúc tôi tự thấy mình giàu có như một tay hào trưởng.
Bởi vậy bỏ đi xa rồi mới thấy mất mát biết bao nhiêu.

Ở đây xa quá lắm lúc nhớ quê, tôi hay làm thơ kể lể. Có khi nhắc tô canh chua tôm nấu với bông sua đũa, nhắc tộ cá lòng tong kho khô rắc chút tiêu thơm, có khi nhớ dĩa cơm sườn ram mặn, nhắc tô hủ tiếu của chú Thoòng có cái bụng to bằng thùng nước lèo, có khi thèm nghe lại một điệu vọng cổ mà hồi trước cứ chê lên chê xuống. Trời ơi bây giờ mà cho tôi chui vào rạp Miếu Quốc Công đeo tòn teng mấy chiếc cột chỗ hạng cá kèo mà coi tuồng cải lương Nửa Đời Hương Phấn chắc là tôi sướng lắm. Nhưng mà sướng hơn nữa nếu được về đứng lại dòm ngó ngu ngơ hai bên bờ sông Mỹ Thuận như ở tuổi mới vào đời.

Vậy đó tôi vẫn nhớ quê như mọi người nhớ quê của họ. Tôi còn nhớ thêm cái bến nước ơn nghĩa của tôi nữa. Nơi mà không ai chịu nhớ tới chỉ bởi cái tội nằm ở giữa một chặng đường. Người ta chỉ nhớ nơi đi và nơi đến. Đâu ai bỏ công đi thương nhớ một trạm dừng. Rồi bây giờ nghe đâu người ta đã bỏ luôn cái bến phà đó nữa. Người ta đã cất cầu treo ở trên dòng sông lớn. Những chuyến phà chắc đã kéo vào ụ hay rã ra đem bán sắt vụn. Hàng quán hai bên bờ chắc cũng phải đóng cửa. Mấy người chủ quán chắc đã đổi nghề khác làm ăn. Con đường đá chạy xuống phà chắc bây giờ bỏ hoang cho cỏ dại mọc lan. Tôi không về nên chỉ tưởng tượng được thôi. Sông kia rày đã nên đồng. Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai. Đêm nghe tiếng ếch bên tai. Giựt mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. Đấy ông Tế Xương ngày xưa cảm khái như vậy đó sau khi con sông ở Nam Định quê ông bị Tây tới lấp đi. Nghe mà thấy tội tình. Tôi nghĩ ông chưa nói hết những điều muốn nói. Ông không chỉ nhớ tiếng gọi đò thôi đâu. Chắc chắn ông còn rất nhiều kỷ niệm khác mà ông giữ kín cho riêng mình. Bởi vì nói ra cũng không hết được. Mà lắm khi còn bị bĩu môi là hoài cổ, là không thức thời.

Cũng như tôi bây giờ vậy, tôi cứ bị người thân kẻ lạ rầy rà, lắm khi mắng nhiếc khi thấy tôi cứng đầu cứ khư khư giữ riết lấy cho mình những hình ảnh cũ, những thương tiếc này, những ngậm ngùi nọ. Chi mà mệt vậy. Quên phứt cái cho được việc. Cuộc đời còn hàng trăm chuyện phải lo, hàng ngàn chuyện phải làm, nhắc làm chi cái chuyện đất nước cũ xì, mốc thếch. Chuyện đời thay ngôi đổi chúa là thường tình, trăm họ có khốn khó thì cũng là vận số thôi. Thì vâng. Nhưng vận số gì mà quái đản. Kẻ quyền thế dư ăn dư mặc thì cứ ngày một phủ phê. Còn bạn bè anh em tôi vốn dĩ nghèo đói ngu dốt thì cứ tiếp tục trần ai khổ lụy. Nếu tin được vào vận số thì cũng phải tin vào một quyền lực thiêng liêng nào đó. Mà hễ thiêng liêng thì phải có công bằng. Đằng này chuyện bất công ngang trái cứ xảy ra nhan nhản. Như vậy thì đâu phải là vận số nữa. Mà cái này đúng là chuyện thế gian rồi. Ai đời một dân tộc với đức kiên nhẫn, tánh cần cù, lòng đạm bạc đã đi vào huyền thoại mà mấy mươi năm rồi vẫn không ngóc đầu lên nổi thì thử hỏi có lạ không. Đã không còn giặc giã để đổ thừa, cũng không ai chen vào phá đám. Vậy thì tại sao? Chắc chắn không phải tại đám con đỏ đang chạy gạo từng bữa toát mồ hôi, càng không phải tại đám con ghẻ lang bạt kỳ hồ tứ tán ngoài cõi tạm. Vậy thì tại ai? Hỏi thì cứ hỏi chớ câu trả lời đã sờ sờ ra đó.


Gần đây bè bạn ân cần gởi cho mấy tấm hình chụp chiếc cầu trên sông Mỹ Thuận. Cầu mới tinh, cất theo kiến trúc và kỹ thuật tân kỳ, thoạt nhìn ngất ngưởng chẳng thua gì Kim Môn Kiều ở Cựu Kim Sơn, chỉ thiếu có một chút sương muối lửng tha lửng thửng là lẫn lộn như chơi. Cũng mấy cột tháp cao treo mấy sợi dây cáp cong cong. Nhìn trong hình chắc không đẹp bằng cảnh thực. Ngoài đó có con sông lớn, có gió lồng lộng, có mặt trời dát vàng buổi sáng, có mặt trăng dát bạc đêm rằm chắc còn đẹp hơn nữa. Ở xa tôi hình dung xe cộ qua lại suôn sẻ, khách đi đường khỏi phải lên xe xuống phà lôi thôi. Nghĩ tới nghĩ lui thấy cũng mừng. Mặc dầu trong bụng vẫn có chút nao nao khi biết đã mất rồi nơi chốn cũ. Bến phà xưa không còn nữa thì những vóc dáng xưa chắc cũng đã biệt mù. Chén cơm nóng lỡ đường, giỏ ổi làm quà đường xa, ly nước mía mới ép ngọt lịm, người chủ quán hay kể chuyện Tam Quốc mấy buổi trưa ế khách, những cuộc tình xốc nổi, những gặp gỡ bất chợt, người hành khất mù và ngón đàn tận tuyệt… tất cả rồi sẽ được xếp vào loại chuyện cổ tích mà người kể nào cũng bắt đầu bằng hai tiếng “hồi xưa…”.

Có thể mấy chi tiết mà tôi vừa nhắc đã mất đâu từ nhiều năm trước. Có thể trong thời buổi gạo châu củi quế người ta phải vội vã hơn trước, ăn uống nhín nhút, nói cười dè sẻn chớ không còn bung thùa như thuở tôi còn đi lại. Có thể cái bến nước đó đã mất phong độ từ lúc mới đổi đời. Nếp tinh thần đã khác thì nếp sống cũng khác theo. Người đi lại ơ thờ thì sông nước cũng chỉ là một cõi bơ vơ có lấy gì làm thân thiết. Nếu bây giờ đường đi phải rẽ qua hướng khác để đắp cao dốc cầu, bỏ lại xóm cũ hắt hiu thì cũng chỉ là nối tiếp một cách hợp lý cái cuộc sống đã bị bỏ quên từ lâu lắm. Bởi vậy mà càng nhìn tấm hình chiếc cầu mới, tôi càng thấy buồn hơn vui. Chiếc cầu được xây cất bằng vốn liếng tiền bạc và kiến thức của người nước ngoài để nối hai bờ con sông trắc trở. Mừng thì có mừng cho việc đi lại đỡ phần vất vả nhưng sao vẫn tiếc cho một nếp đời đã ăn sâu trong lòng của một số không ít người.

Và nhất là cứ tự hỏi, sao còn hàng chục triệu chiếc cầu lỗi nhịp trong lòng người mà không chịu lo bắc lại để mọi tấm lòng người Việt không còn những bờ bến phân chia?
Chính vì những chiếc cầu lỗi nhịp đó mà tới giờ này tôi chưa trở lại được quê nhà.

Cao Vị Khanh
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/Jan/2023 lúc 10:46am

Tết Ở Quê Mình 

Calligraphy%20Giving%20in%20Tet%20Holiday

Hằng năm , cứ sau ngày lễ Noel khi cái không khí lạnh ùa về thành phố thì y như rằng mọi công việc chuẩn bị cho ngày tết Nguyên đán cũng dần dần xuất hiện , những vùng trồng trọt đã có các loại bông hoa như : Mai , Cúc .Vạn thọ, Mồng gà,  Mãn đình Hồng .v.v...được các nhà vườn chăm sóc kỹ lưỡng nhằm tung ra bán đúng dịp tết , thức đêm thức hôm , tưới nước , bón phân cực khổ như vậy  mà năm nào bông hoa có giá hoặc hút hàng thì nhà vườn có được cái tết tươm tất , năm nào thời tiết thuận lợi nên số lượng  hàng hóa dồi dào làm cho giá các loại hoa tụt giãm thê thảm, khiến họ  bán mãi đến tận chiều ba mươi tết mà vẫn còn ê hề ,  nhiều người bán những chậu hoa này họ lặng lẽ “chuồn êm”  để lại bên vỉa hè những đóa hoa sầu muộn ,  thì cũng là lúc những gia đình nghèo nơi phố thị rủ nhau ra chợ ” Ẳm ” vài ba chậu về nhà chưng cho có cái không khí tết với thiên hạ , còn những kẻ bỏ của chạy lấy người kia trở về quê với nỗi buồn man mác để rồi  ăn cái tết có khi với cả đống nợ trên vai , nghĩ mà thương cho những người một nắng hai sương làm đẹp cho đời mà đôi khi bị đời trả lại đắng cay và tủi nhục ..

Còn nhiều loại hàng hoá khác dành cho ngày tết nữa , nếu liệt kê ra đây tôi e rằng kể lể cả trăm trang giấy cũng không đủ , nên tạm thời kê bấy nhiêu thôi để còn thời giờ cùng tôi trở về những cái tết của thập niên sáu mươi trên quê hương mình các vị nhé .

* * *

Khi cái mùi khói nhang và mùi khét của giấy tiền vàng bạc , giấy Cò bay Ngựa chạy được đốt lên tiển gia đình Táo quân về chầu Ngọc Hoàng  thì không khí tết Nguyên đán đã ngấp nghé bên thềm  , và khi được cắn những cục kẹo “ Thèo lèo , cứt chuột ” và nhấm nháp vài ngụm trà sen , trà lài thì đám trẻ con chúng tôi ngày ấy mừng vui khôn xiết vì hồi ấy trẻ con nhà nghèo như tụi tôi mới thấy được hết cái vị béo của mè đen trong cục “ cứt chuột”  , cái giòn giòn ngọt ngọt của những cục thèo lèo , thời bấy giờ tuy không phải bị thiếu ăn, đói khổ nhưng các gia đình nghèo chỉ dám dồn sức mua sắm cho ngày tết  được tươm tất, còn trong năm thì ăn uống đạm bạc , chi tiêu dè sẻ mới đủ tiền lo cho mọi việc trong gia đình.
 

* * *

Rằm tháng chạp là cái thời khắc bà con có trồng cây Mai trong sân nhà thường hay lặt lá , nói như vậy thì cũng không được đúng cho lắm , vì còn phải tùy theo thời tiết , tôi nhớ không lầm thì năm nào mà trời se lạnh kéo dài thì đa số người ta lặt lá trước ngày rằm tháng chạp cả tuần , còn như trời nóng bức thì lặt lá sau ngày rằm một vài bửa để nhằm cho nụ hoa Mai đủ sức nở ngay vào dịp tết , chưa hết đâu cây Mai còn phụ thuộc vào nước tưới nữa, nếu chưa đến tết mà nụ Mai khá to thì hạn chế tưới nước vô gốc , chỉ dùng bình xịt phun sương vào nụ Mai cho có hơi ẩm để tránh nụ Mai khô nước sẽ bị rơi rụng , và điều cần thiết nhứt là cây Mai phải được trồng nơi có  nhiều nắng , không được trồng trong bóng râm, vô phân tưới nước, tỉa cành và thay đất sau một hai năm sau tết để đất mới cung cấp đủ khoáng chất cho bộ rễ thì năm sau mới có được một chậu Mai tốt .       

Tôi còn nhớ nhà bà bốn bên cạnh nhà ba tôi có trồng hai cây Mai, không hiểu ông Bốn trồng khi nào mà hai cây Mai này thân nó thật to và cao , cành lá thì xum xuê  y như cây cổ thụ thu nhỏ , năm ấy trước rằm tháng chạp cả tuần, ông bà Bốn kêu con cháu trong nhà và những người hàng xóm gần đấy đến để phụ lặt lá vì cây quá nhiều lá gia đình ông làm không xuể , đến ngày hẹn hầu như cả xóm xúm lại  quanh hai cây Mai đông nghịch , trẻ con như tôi thì bắt ghế đẩu với tay lặt những cành gần dưới gốc còn thanh niên trai tráng lực lưỡng thì dùng Thang tre dựa vào thân cây leo lên phía trên cao để tuốt những chiếc lá nằm cheo leo trên đó , chừng hơn hai giờ sau thì cây Mai chỉ còn trơ lại những cành khẳng khiu lay động trước gió, ngạc nhiên về điều này  thằng Cảnh cháu cậu tư Tắc xi  thắc mắc nói :

  - Cây Mai lá tốt ghê mà ông Bốn cho lặt bỏ hết uổng quá trời luôn vậy đó .

    Con Tốt cháu  ngoại của bà Bốn lên tiếng chọc thằng Cảnh , rồi giải thích cho nó biết :

  - Thôi khùng quá ông Cảnh ơi , nói như ông để y sì mấy cái lá trên cành thì tết "Ma rốc ” cũng chưa có cái bông nào nở nữa nói chi là Tết .

Con Tốt đang nói nửa chừng rồi nó tằng hắng mấy tiếng làm ra vẻ trịnh trọng như cô giáo đang dạy đứa học trò của mình , sau đó con Tốt tiếp tục nói :

  - Ông Cảnh biết không ? Ông ngoại tui nói : “ lặt lá cũng như thay áo mới cho cây để trong nách lá nó tức mới nhảy ra những cái nụ nhỏ, rồi nhựa sống trong thân cây thay vì nuôi lá nó bắt đầu nuôi mấy cái nụ này thì mới có hoa nở trong ngày Tết ”  biết chưa ông kẹ ?.

  Thằng Cảnh nghe con Tốt giảng giải như trên làm đầu óc nó sáng ra, nó lí nhí chống chế :

  - Vậy hả ? Ai biết đâu nè tui tưởng ....

  Thằng Cảnh chưa kịp dứt lời , thằng Thành nhảy vô họng nó liền:

  - Tưởng .. Tưởng cái con khỉ khô , cái vụ đó dễ ẹc mà ông còn không biết nữa , thì làm sao ông biết được những chuyện khác .

    Nghe mấy đứa nhỏ ồn ào , ông Bốn xua tay ngăn lại rồi ông bảo :

  - Thôi xong rồi mấy cháu hốt hết lá Mai đem lại chỗ đóng un bà Bốn đang đốt kìa , bây tới cái lu múc nước  rửa tay sạch sẽ rồi vô ăn bánh mì , ông có nước đá chanh nè . Bữa nay ông mua được mấy chục ổ bánh mì “ lò đầu ” ngon lắm , có phô mai nữa nghe bây, cứ ăn cho  “ thoải mái ” , tết nhứt mà lo gì thiếu thốn .

  Đang ăn uống vui vẻ , mọi người bàn tán và  chắc mẩm rằng :

  - Hai cây Mai của ông Bốn năm nay vô địch luôn nghe mấy ông. Trời ơi tui thấy  nụ nó mọc nhóc trên cành , Hoa Mai nở xong khi rụng xuống đất cánh mai vàng cả khoảnh sân , ai có máy chụp hình lúc đó chụp vài pô kỷ niệm đẹp lắm đó . 

Liền khi đó ông Bốn sai thằng Trọng cháu ngoại của ông  chạy vô nhà bưng bộ lư đồng và hai cặp chưn đèn ra sân , ông bốn trải chiếc đệm dưới gốc cây lê ki ma  làm nơi lau chùi bộ lư đồng , bộ lư của nhà ông Bốn cũng thuộc hàng đồ cổ quý hiếm  vô cùng , năm nào cũng có vài ba chú Chệt ở Chợ Lớn  quảy gánh ve chai vô gạ gẫm ông Bốn để mua bộ lư này , xui cho mấy chú Chệt , ông Bốn là người giữ gìn chăm sóc những món đồ xưa trong nhà như của gia bảo , vậy mà mấy tay này dám đề nghị ông bán nó đi , khiến ông nổi trận lôi đình , đuổi mấy chú chạy ra khỏi nhà không kịp thở .

  - Ngoại ơi , bộ lư còn bóng lắm lau sơ sơ cho sạch bụi thôi nghe ngoại .

  Nghe thằng cháu ngoại ham chơi bàn ra không chịu lau chùi kỹ lưỡng theo ý mình , ông Bốn “ bố ” cho thằng Trọng một trận :

  - Con sao hư quá , ông dặn sao con làm vậy đi , con làm dối thì bộ lư sao đẹp được, con coi bộ lư nhà chú ( Hai Cho ) kìa , con Hồng với chú Hai chùi mới tinh sáng loáng , vậy mới được chứ thôi lau nhanh lên đi rồi phụ bà ngoại con lau lá gói bánh tét nữa đó .
 

Mới mờ sáng hai mươi chín tết , tôi nghe tiếng con heo nhà bà Bốn kêu en éc, giật mình không hiểu chuyện gì nhưng trong bụng tôi thì nghĩ:

  “ Không chừng mấy ông ăn trộm vô khiêng con heo của bà bốn không chừng ”

Con heo của bà Bốn nuôi khá lâu , nhớ dạo nọ mấy bà “di cư” gánh hai cái lồng sắt mỗi bên ba bốn heo con , khi đi ngang nơi tôi ở mấy bà cất tiếng rao :

  - Lợn con đây , giống tốt “dọt sia” thứ thiệt đây , mời bà con mua dùm 

Các bà cất tiếng rao hàng lanh lảnh , đầu trên xóm dưới đều nghe , Bà Bốn chạy ùa ra xem hàng , sau một hồi sờ nắn, vuốt ve cuối cùng bà Bốn nắm hai chân sau một chú heo rồi nói :

  “ Tui mua con này , mấy con kia coi bộ không mạnh bằng thằng Đực này đâu ”

  Sau một hồi trả giá , kì kèo bớt một thêm hai , bà Bốn cũng có được “ thằng đực ” con heo mà với bà nó mạnh nhất trong đám heo con kia. Có heo rồi phải có chuồng nuôi nhốt  nhưng ngặt một nổi nhà bà Bốn thì cũng không được rộng rãi cho lắm, chỉ có được cái sân nhỏ sau bụi chuối gần sàn nước nhà bà là còn trống , bà Bốn nhờ chú Năm Hải thợ hồ nhà bên cạnh nhà bà  láng dùm một nền xi măng có trải một lớp hồ dầu láng mượt , chú Năm trồng bốn cây trụ sắt ấp chiến lược  làm bốn cây trụ của chuồng rồi để đó , bà Bốn  nhờ ông tư Tỉnh đạp xe ba bánh xuống trại cưa cạnh cầu  Băng Ky mua mấy tấm ván  bìa được xẻ ra từ những lóng cây to  trên rừng mang về . Vật liệu đơn sơ như thế mà ông bà Bốn cũng đóng xong cái chuồng cho “thằng đực” có nơi ăn chốn ở đàng hoàng , “ thằng đực ” lớn nhanh như thổi bởi bà Bốn cưng nó vô cùng , bà nấu những nồi cháo thật to , nào là đầu tôm , cá vụn bà băm nhuyễn ra nấu chung với cám gạo ,chuối cây , rau cỏ. Khi bà Bốn múc cháo đỗ vào máng "thằng đực”  ăn nhanh chóng, do bà Bốn  siêng năng tắm táp chăm sóc”  đực” như đứa con mình  , khiến cho cô Sáu Láng con của bà  Bốn “cà nanh ” :

  - Con thấy má quý “thằng đực” này hơn con nữa nha , con gái má bị cho ra rìa rồi phải hôn ? .

  Nghe cô Sáu trách mình bà Bốn cười móm mém , phun vội miếng trầu đang nhai rồi nói :

  - Cái con này  cha bây ,“ thằng đực” này nó mau lớn bây nên mừng chứ ở đó mà cà nanh , tết nhứt là nhờ nó dữ lắm đó .

  Cô Sáu ngây thơ hỏi lại :

  - Trời ! Nó là heo chứ đâu phải người ta đâu mà nhờ hả má .

  - Chừng đó bây sẽ biết , thôi vô tắm rửa lo đi học đi con , mầy ráng học mai mốt má còn nhờ tấm thân nữa chứ ...

    “Thằng đực” được chăm sóc cẩn thận vô cùng , tôi ít khi nghe nó làm ầm ỉ vì “thằng Đực”  chưa kịp đói thì bà Bốn đã cho nó ăn rồi , có lần nó la làng lớn nhất khi ông già làm nghề thiến heo leo  vô chuồng thiến nó theo yêu cầu của bà Bốn . Vậy mà hôm hai mươi chín tết năm đó tiếng kêu của “thằng đực” vang lên đinh tai nhức óc , tôi chạy nhanh qua chuồng heo nhà bà Bốn , tôi hoảng hốt vô cùng vì đây là lần đầu tiên trong đời tôi thấy người ta chọc tiết heo , “thằng đực” bị trói bốn chân , thân hình nó co lại thỉnh thoảng cả thân nó giật bắn lên  rồi máu tung toé  vọt từ  vết đâm nơi cổ của “thằng đực” bắn  vào cái thau nhôm đỏ au , bà Bốn thì ngồi thất thần trong góc bếp , tôi thấy trên gương mặt  bà Bốn ràn rụa nước mắt , bà nuôi nó lâu ngày nên  mến tay mến chân , nay cũng vì Tết nhứt  mà người ta đành hoá kiếp nó thử hỏi sao bà Bốn không khỏi đau lòng ?
  Họ cạo lông , xẻ ra từng tảng thịt đỏ ối tươi rói , đầu , lòng chân giò được họ bỏ vào nồi nấu một nồi cháo thật to , họ xắc huyết ra từng cục nhỏ bỏ vào nồi cháo để chút nữa khi Phanh thây thằng đực xong thì họ cùng nhau thưởng thức nồi cháo huyết thơm lừng ...
 

* * *

    Chiều Hai mươi chín Tết , tôi đang phụ ba tôi lau chùi , trang trí chưng dọn bàn thờ gia tiên trong nhà , khi trời nhá nhem tối  thì công việc cũng xong , năm nay ba tôi mua mấy sợi dây đèn chớp tắt treo chung quanh bàn thờ ,  cặp đèn cầy trên bà thờ cũng to hơn cặp đèn năm rồi , bánh trái được chưng lên đủ màu thật vui mắt , nhưng tôi thích nhất là hai phong bánh in và cặp hộp trà và hai thước pháo , vì chúng được gói trong giấy kiếng đỏ , mà màu đỏ thì thích hợp với ngày tết vô cùng , chẳng hạn dưa hấu , pháo , bao lì xì , bông mồng gà, câu đối  v.v.. Cái nào cũng màu đỏ , có lẽ theo quan niệm dân gian màu đỏ biểu tượng cho sự hên , sung túc , đầm ấm nên được mọi người ưa chuộng chăng ? . 

  Đang mải nhìn cái thành quả sau những giờ phụ với ba tôi , thì ngoài ngõ có tiếng gọi vang lên :

  -Phương ơi ! đi chợ tết với tụi tui nè , chợ Tết đêm cuối đó , đông vui lắm đi cho biết với thiên hạ .

  Nghe tiếng mấy đứa bạn trong xóm réo gọi phía trước nhà , tội lật đật xin ba cho mình theo đám bạn du xuân một chuyến cho biết cái không khí chợ tết về đêm ra sao . Ba tôi cho phép và không quên cho tôi một  đồng để dằn túi , ba nói :

  - Công việc nhà cũng xong hết rồi , con đi với mấy bạn cho vui , cầm tiền theo có mua gì chút đỉnh thì mua , nhớ về sớm , đi đứng coi chừng lẫn nhau kẻo lạc .

  Tôi dạ rân sung sướng chạy ù ra sân , giống như lũ chim được quý bà quý cô mua từ những người bán ở lăng Ông bà Chiểu để phóng sanh , khi cánh cửa lồng vừa hé mở , các chú chim lần lượt tung đôi cánh mỏng vào khung trời bao la rộng lớn .

  Cả đám chúng tôi gần chục đứa , tung tăng cười nói cùng nhau cuốc bộ lên chợ , từ nhà chúng tôi đến chợ cách chừng hai cây số , với trẻ con thời bấy giờ quảng đường  như thế chúng tôi cảm thấy khá xa ,nhưng đêm hôm ấy nó thật gần , mới dăm ba câu chuyện với nhau trên đường thì chúng tôi đã đến gần chợ rồi , trên đường đi bà con đủ mọi giới đổ ra đường kẻ ngược , người xuôi đông đúc vô cùng , ngày thường đôi lúc tôi thấy họ di chuyển vội vã , nhưng đêm ấy dường như không gian dừng lại , mọi người chen chúc mua mua bán bán thật náo nhiệt , đến gần cổng chợ tôi thấy gần bến xe Thổ mộ  , những giỏ hoa Vạn thọ , hoa Thược dược Hướng Dương được các chú  “ sà ích ” chở từ vùng Thông Tây hội đem xuống , họ chất đầy hai bên vệ đường , những cây Mai được bứng lên mang theo cả bầu đất được dựng lên thành hàng , những nụ hoa mai  to và bóng lưỡng , chắc chắn sẽ nỡ kịp đúng ngày tết , nhiều người khách đến xem và mua , nhiều người trầm trồ khi thấy một ông nhà giàu nọ “ rinh ” ra xe “cyclo” máy bốn  gốc mai già , ông ta trả cho người bán cả trăm  đồng gì đó làm thằng Cảnh bạn tôi nó“ lé mắt ” ghé vào tai tôi nó thì thầm :

  - Cái ông này chắc nhà giàu lắm mầy ơi , cả trăm đồng nhà tao ăn chắc ba bốn  tháng mới hết , xài gì sang thiệt ta ? Tao có tiền nhiều chắc cũng chẳng dám mua như ổng đâu .

  Tôi xô nhẹ thằng Cảnh ra rồi nói vừa đủ cho nó nghe :

  - Người ta giàu mua nhiêu đó ăn nhằm gì mầy ơi , tụi mình nghèo thấy bạc trăm như cả  gia tài , mầy ráng học đi , lớn lên làm công chức thì thiếu gì tiền mà xài . 

  Đang mải mê ngắm nhìn những cây Mai có dáng tuyệt đẹp , tôi nghe  đứa bạn kêu làm tôi bừng tỉnh :

  - Nè ông Phương theo tụi tui vô chợ đi , ngắm gì ngắm dữ vậy , mấy cây mai này thua hai cây Mai ông Bốn xa lắc hà ông ơi.

  Tôi không hoàn toàn đồng ý với nhận xét của thằng Lập , tôi nói :

  - Về giá trị thì cây Mai ông Bốn là vô địch rồi , nhưng mấy cây Mai này họ tạo dáng và uốn những cành rất nghệ thuật tui thấy nó lạ mới nhìn hoài đó chứ , thôi mình đi đi .

  Đầu cổng chợ người ta trang trí cái cổng chào tuy đơn sơ nhưng nó gần gũi vô cùng , họ dùng  Cỏ tranh , tre , lá dừa , dây lạt buộc thành cổng chào có cái mái tranh nhỏ bên trên trông thật đẹp , bước qua cổng chào những vựa dưa hấu được chất đống cao nghiệu , những trái dưa thật to da xanh bóng lưỡng , khi đi ngang qua chúng tôi được bà bán dưa mời nếm thử , những miếng dưa xanh võ đỏ lòng ăn vào rất ngọt nghe mát cả trong lòng, ăn miếng dưa này tôi chợt nhớ lại truyện đã học ử trường về sự tích quả Dưa hấu , liên tưởng đến hòn đảo hoang vu nào đó nơi chàng Mai An Tiêm và nàng Ba bị vua cha đày ra Đảo , những tưởng họ sẽ dần dà gục ngã khi không còn luơng thực để sống , vậy mà từ sự khám phá ban đầu , rồi những ngày gieo hạt chăm sóc cho đến ngày thu hoạch những trái dưa  hấu thật ngon , họ đã được vua cha tha tội và cho đón về sống lại cuộc sống như xưa.

  Rời hàng Dưa sau khi mua vài trái chúng tôi lần lượt đi dài dài vào trong chợ , hàng hóa phong phú vô cùng , bánh mứt , lạp xưởng , trái cây , quần áo . V.v ..

  Đến gian hàng nọ hai ông “ cắt chú ” bán những tấm nhựa in hình bông hoa sặc sỡ , có tấm in hình phong cảnh , mục đồng cưỡi trâu thổi sáo , hoặc hoa văn lạ mắt vô cùng , tôi đứng tần ngần hồi lâu muốn mua một tấm nhựa để trải lên mặt cái bàn nước phía nhà trên , nhưng nghỉ lại với một đồng trong túi thì chắc chắn không đủ để tôi thực hiện điều mình muốn , thôi thì Tôi sẽ nói mẹ tôi mua vào sáng ba mươi vậy .

  Lòng vòng trong chợ cả buổi , chẳng mua sắm được gì thêm , khát nước khô cả họng chúng tôi vào hàng bán nước đá bào si rô , mỗi đứa mua một cục , đứa thì thích mùi bạc hà , đứa thì thích mùi dâu , riêng thằng Cảnh thì chơi trội , nó gọi bà chủ bán cho một chai nước xá xị con Nai hiệu Phương Toàn , nó cầm cái ly sóng sánh đầy nước xá xị , bên trong vài cục nước đá va vào thành ly khi nó cầm cái muỗng khuấy nhẹ lên  khiến tôi thèm thuồng được hớp dù một ngụm cũng đủ đã thèm , thằng Cảnh nó dốc cái ly vào miệng uống ừng ực , chừng thấy tôi chăm chú nhìn nó hình như nó đọc được tâm trạng của tôi , bỗng dưng nó ngưng uống và trao cho tôi phần còn lại của ly nước nọ nó nói :

  - Đã thiệt , nè làm một  miếng đi ông Phương , lâu lắm rồi tui  mới được uống nước này đó . 

    Thật đúng là “ Buồn ngủ mà gặp chiếu manh ” , tôi đỡ lấy ly xá xị đưa lên miệng uống một hơi sạch cả ly , hơi ga và mùi xá xị cay nồng nhưng ngon ngọt vô cùng , chưa kịp trả lại thằng Cảnh cái ly thì tôi nghe tiếng nó càu nhàu :

  - Cái ông này ngộ ghê chưa ? Uống chút đỉnh cho biết mùi thôi , ông uống ráo nạo rồi còn đâu nữa cho mấy đứa kia nếm thử 

  Không thèm trả lời thằng Cảnh , tôi nói thầm trong bụng :

  “ Đưa người ta có chút xíu hà , uống chưa thấm giọng nữa lấy đâu cho mấy đứa kia uống ” 

  Đến cuối đầu chợ trên, ở phía ngã ba đường , nơi có Trường ( Chánh ) ngôi trường tiểu học thời bấy giờ , đối diện là Chùa Bà Thiên Hậu cổng chùa rộng mở , đèn đuốc thắp sáng choang , những vòng nhang được treo trên cao cháy lập lòe khói tỏa ra mùi thơm nhẹ , bà con xa gần đến viếng chùa đông nườm nượp  suốt từ rằm tháng chạp đến hết rằm tháng giêng, tôi nghe những cô bác lớn tuổi nói ngôi chùa này tọa lạc nơi đây hơn trăm năm và linh thiêng vô cùng , mỗi khi có chuyện oan ức , hoặc gặp khó khăn trắc trở gì đó bá tánh kéo nhau đến chùa để cầu xin phù hộ tai qua nạn khỏi , nghe nói có những người cầu nguyện được bà độ rất hiển  linh nên họ mang vàng lễ , heo quay , vải vóc  đến cúng tạ ơn bà ...

  Đang loay hoay cả bọn chúng tôi chưa biết đi đâu , Bổng thằng Thành nó chỉ tay vào góc nhà Dây thép ( tức Bưu điện ngày nay ) có nhiều người ngồi chơi món “ Bầu cua cá cọp ) nó nói :

  - Cái này chơi vui lắm , mình qua đó thử thời vận xem sao mấy ông ơi !

  Chúng tôi xúm lại một bàn bầu cua , ông chủ mặt mày có hơi dữ dằn , tôi véo tay thằng thành định kéo nó sang bàn bầu cua kế bên do hai ông Trung niên ăn mặc lịch sự làm chủ , nhưng con ma cờ bạc trong thằng Thành dường như nó xúi giục phải ở lại nên thằng Thành nó phải tay tôi rồi móc tiền đặt lia lịa vào những con vật bên dưới , mấy đứa đi chung cũng hào hứng tham gia trò đen đỏ này , mỗi lần ông chủ dỡ cắi nắp ra , ba hột bầu cua như trêu người chơi , vì hể đặt con này thì nó ra con khác , ít khi người chơi đánh trúng con vật do chủ lắc Bầu cua dỡ ra , lần lượt các bạn tôi bị cháy túi mặt mày bí xị , riêng tôi phần vì có ít tiền , phần vì không quen với môn chơi này nên tôi vẫn còn giữ nguyên đồng bạc của ba cho , nhưng tôi cũng chơi bầu cua đó chứ , tôi thầm đặt tưởng tượng vào những ván bầu cua , lần nào ông ta dỡ cái nắp đều có con vật mà tôi đã chọn , thấy dễ ăn tôi định lấy tiền chơi thiệt một phen , nhưng biết đâu thắng đâu chẳng thấy nhưng thua cháy túi như mấy đứa bạn chắc tôi sẽ buồn lâu lắm , về sau này khi lớn thêm vài tuổi nữa thì tôi mới hiểu ra rằng , đã tham gia vào cờ bạc thì cơ hội thắng về cho mình rất mong manh , vì người đời có câu “ Cò gian , bạc lận ” ai vướng vô con đường này thì không sớm thù muộn mang lấy nỗi buồn khôn nguôi khi nhìn thấy tài sản của mình lần lượt  đội nón ra đi , khi muốn dừng lại thì đã quá muộn màng , khi rời khỏi bàn bầu cua tôi lấy lời hơn lẽ thiệt an ủi mấy đứa bạn , tôi mong tết nhứt có thử thời vận thì chơi chút đỉnh cho vui , đừng nổi máu ăn thua mà vô tình mình cống nạp tiền của cho đám người chuyên nghiệp trong nghề cờ bạc các bạn nhé ...
 

* * *

  Ngồi quay quần bên nồi bánh tét cao nghiệu của nhà ông Bốn nấu , chúng tôi nghe ông bà Bốn thay nhau kể chuyện dời xưa cho chúng tôi nghe , nào là Phạm Công cúc Hoa , Lâm sanh , xuân nương , Nàng út ống Tre ..v,.v...

  Ngồi canh lửa canh nước cho nồi bánh tét , trời gần sáng thì con mắt chúng tôi đứa nào cũng lờ đờ , miệng ngáp dài ngáp vắn , vậy đó nhưng khi ông Bốn lột mấy đòn bánh đầu tiên xếp ra cái dĩa bàn to tướng , mùi bánh thơm hấp dẩn vô cùng khiến tôi có cảm giác có lũ kiến đang bò trong bụng . Khi ông Bốn nói cái câu :- Ăn thử bánh đi mấy đứa .Thì cơn buồn ngủ trong mổi đứa nó tan biến đâu mất , ông Bốn đãi chúng tôi những đòn bánh đầu tiên , cái béo của thịt mỡ , cái bùi bùi của nhưn đậu xanh , cái dẻo của nếp và mùi thơm đặt biệt của lá chuối khiến chúng tôi ăn một cách thật ngon lành ...

  Khi cắn vào miếng thịt heo trong nhưn bánh , tôi chợt nhớ đến cái giãy giụa của Thằng đực , tôi nhớ lại khuôn mặt ràn rụa nước mắt của bà Bốn , chợt nghe mằn mặn trên môi , tôi thật sự chạnh lòng khi những hình ảnh của thằng Đực và bà Bốn của năm nào nó tái hiện lại trong tôi mỗi khi tết đến xuân về , ông bà Bốn đã thành người thiên cổ từ lâu , hương hồn của thằng đực có lẽ nó đã được đầu thai kiếp khác , bây giờ cái đám trẻ chúng tôi đứa nào còn hiện diện trên cõi đời này đều hoa râm đầu bạc , riêng cô Sáu là con bà Bốn mỗi sáng thường xách giỏ đi chợ ngang nhà tôi , tôi chặn cô lại và nói :

  - Má cưng thằng Đực hơn con gái má rồi đó , con gái má ra rìa rồi phải không ?

  Cô Sáu cười thật to và lấy cái giỏ nhựa để đi chợ quơ về phía tôi một cái rồi cô nói :

  - Cái thằng quỷ Phương này nha , chuyện mấy chục năm rồi mà mầy còn nhớ hay thiệt , tết nay lại nhà cô tao cho bây ăn bánh tét mệt nghỉ nghe mậy .

  Tôi cũng cười theo cô Sáu , bất giác hình ảnh xưa mấy mươi năm nó ngồn ngộn quay về , tôi thầm nói :

  - Ôi thương lắm nhé Tết ở quê mình .

  Nắng xuân chiếu rọi xuống mọi ngả đường , gió mang hơi lành lạnh lay động cành Mai trước ngõ , thêm một mùa xuân nữa Tết lại đến với quê mình . 

Hai hùng SG
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Jan/2023 lúc 8:39am

Mùa Phơi Sân Trước 


   "Người ta có đâu có nghĩa là mình phải có..."

Đọc câu truyện dưới đây của cô Tư mà thấy dạt dào tình quê, thấy như cái hương Tết lãng đãng trên con đường làng về nhà ...

Cảm nhận cái hương Tết để đi vào Hồn Tết... rồi mới ĂN TẾT…..


Hồi con nít thích đi xe đạp về nhà ngoại bằng con đường xóm cặp mé sông Rạch Rập. Đường đất dầm dãi suốt một mùa mưa, chừng gió chướng thổi về mới ráo tạnh bùn lầy. Đến Chạp thì những chân trâu cũng bị bôi xóa hết, có thể đạp xe thong dong mà thỏa thuê nghiêng ngó. 

Mùa Chạp đi bảy cây số không nghe mỏi. Gió chướng khoác lên làng mạc một vẻ mơ màng, đường uốn lượn theo sông, và dòng chảy đó thẳm suốt thoắt ẩn thoắt hiện sau những lùm cây hoang dại. Dọc đường thấy Tết lấp ló khắp nơi, trên sân nhà người, trên những giàn phơi. 

Người nhà quê hồi mình con nít toàn người nghèo, sân nhà quê hồi ấy cũng rặt sân đất, nên nhà nào cũng cặm cái giàn trước nhà, suốt sáu tháng mưa sân chìm trong nước cũng có chỗ mà đem phơi củi, hay gối, chiếu. Những ngày hửng nắng trên giàn luôn có thứ gì đó ngóng nắng, khi cám mốc, khi thì mớ bột gạo thừa trong lúc làm bánh, khi thì mớ cơm nguội hay mớ lá dừa khô dùng để nhen lửa, mấy trái đậu bắp già làm giống cho mùa sau…

Phơi trên giàn mọi thứ khô mau, vì nắng ngun ngút trên mặt, gió lộng phía lưng. Những nhà có sân rộng người ta còn phơi lúa trên giàn, lúa khô đem vô bồ được mấy hôm đã thấy trên mặt sân xăm xắp nước lúa rày đã lấm tấm xanh. Qua nhà nào có trẻ nhỏ gặp những tấm chiếu manh con con nằm uống nắng. 

Càng gần về cuối năm giàn phơi càng bận rộn. Dầu dãi oằn mình suốt năm, giờ trên giàn bày ra những món ngon chuẩn bị cho cuộc hội hè. Bánh phồng vừa quết xong, củ kiệu mới trộn đường xong, mứt gừng mới ngào nửa lửa… thứ nào cũng ưa nắng. Nhưng cá khô mới là ưa nắng nhứt hạng, mới cần thứ nắng ròng ròng như thắp lửa, thứ nắng như cháy trên đầu. Mùa Chạp cá làm đìa người ta lớp rọng lớp làm mắm để ăn dần dần cho tới mùa lúa sau, mớ xẻ làm khô ăn Tết. Mùa đìa kéo dài cả tháng nghĩa là lúc nào giàn phơi cũng đầy những con cá nằm nhuộm nắng cho đỏ au da thịt.

Mùa Chạp thể nào cũng gặp người ta ép chuối khô. Chuối xiêm chín cây sẵn ngoài vườn, lột vỏ phơi một nắng, rồi đem ép mỏng. Không như cá khô rủ rê bọn ruồi nhặng đến mức phải đốt nắm nhang cắm nơi đầu gió để xua đuổi chúng, mật chuối tươm ướt rượt chỉ mê dụ quyến rũ lũ ong. Kéo tới dập dìu, lảo đảo bay đậu như say, những con ong sa đà ở giàn phơi cho đến khi những miếng chuối ép mỏng bắt đầu khô quắt, vàng óng như vừa nướng trên than hồng. Chuối phơi đủ nắng có thể ăn tới ra Giêng, mật lặn vào trong vừa ăn vừa tợp miếng trà, hoặc ngào qua với khóm, me… đem dầm nước đá uống cũng ngon thấu trời. 

Vậy là nước miếng mình ứa ra, trên từng mét đường về nhà ngoại. Tâm hồn mệt nhoài với những món ăn cực kỳ mời gọi trong sân thiên hạ. Đang thèm tô cơm nguội chan nước dừa ăn với khô lóc nướng thì bỗng nghĩ giờ phải có thịt kho Tàu để ăn với dưa kiệu nhà kia, rồi cái hủ mắm tép dầm nắng sát hàng rào làm mình nhớ nhung chuối chát, khế chua cùng với gừng xắt mịn thì mâm mứt tắc đỏ au đằng kia làm mình lịm chết một cách lim dim như tụi kiến. 

Chân rõ ràng không mỏi, nhưng tâm rã rời, cứ chạy theo đeo đuổi miết trên những giàn phơi. Hụt hơi, chới với. Có lần về nhà kêu má Tết này làm những món này này, những món mà mình nhìn thấy mang theo trên suốt chặng đường từ nhà ngoại về. Má cười, người ta có đâu có nghĩa là mình phải có. 

Mình dại hơn cả tuổi mười ba, không hiểu câu đó mấy, nên vẫn muốn má bày thật nhiều thứ trên giàn phơi nhà mình, chớ không phải còm nhomchút dưa kiệu, dưa hành, chút chuối khô… Nên Chạp sau mình vẫn nhắc, má lại nói ta đâu cần phải có cái mà người ta có.

Cũng may qua mỗi Chạp mỗi mùa phơi mình mỗi lớn, bài học của người của ta má không nhắc nữa, mình bỗng bâng quơ nhớ. Nhận ra trên giàn đời cũng phơi những thân phận người. Ngó qua khoảng sân đã rợp những cây mồng gà, vạn thọ biết ai ăn Tết lớn ai chịu đìu hiu, như ngó qua cái sào phơi quần áo biết nhà ai đông nhà ai đơn chiếc, ai khá giả ai nghèo. Nắng gió khiến mọi niềm vui nỗi buồn bày ra như một cuộc diễu hành, không che giấu khách qua đường. Căn chòi của bà già chèo đò hay chở mình qua sông trống mãi, cho đến ngày cuối Chạp bỗng trên đống củi có phơi vài tàu lá chuối, biết tối nay trên sân nhỏ bà sẽ ngồi canh nồi bánh tét đến giao thừa. Mình bỗng nghe nhẹ nhõm khi nhìn theo bóng nhỏ đưa chiếc đò về bên kia sông.


Chật vật mấy, cuối Chạp cũng có cái đem phơi, đem nhuộm nắng, cũng có bụi bông vạn thọ, và bông trang, bông lồng đèn nở rực rỡ trên rào.



Nguyễn Ngọc Tư
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 20/Feb/2023 lúc 10:10pm

Mùa Bình An 

Hình minh họa 

“Bà già khó chu”. Ðó là biệt danh hàng xóm đặt cho bà. Bà biết hết chớ. Nhưng họ chỉ dám gọi sau lưng bà, nên bà cũng miễn chấp. Nguyên tắc sống của bà vẫn không thay đổi. Bà không muốn động chạm đến ai, và cũng không muốn ai động chạm đến mình.
     
Chiều muộn bà ra sân sau gom lá  đốt. Ðang lơ mơ nhìn những sợi khói quyện bay theo gió, chợt bà phát giác ra cành cây thông nhà bên cạnh chĩa qua vườn nhà bà. Trời ơi, đáng lẽ bà phải thấy sớm hơn mới phải. Nhánh cây đã dài cả khúc rồi còn gì.
     
Bà ngó nghiêng qua sân nhà họ, không thấy chiếc xe nào. Chắc họ đi đâu đó chưa về. Thôi, để sáng mai nhắc nhở cũng chưa muộn.
     
Nghĩ là nghĩ vậy, nhưng suốt cả buổi tối bà cứ bồn chồn khó chịu. 

Sáng ra, nhác thấy bóng người trước thềm nhà hàng xóm, bà vội nhấc điện thoại than phiền:
     – Ông bà xem tỉa giúp cành thông chìa qua nhà tôi nhé. Trái thông khô và lá rớt đầy cả góc sân nhà tôi đây nè. Phiền quá.
     – Xin lỗi bà, tôi sẽ gọi người tới chặt ngay. Bên kia đầu dây, người hàng xóm nhã nhặn đáp. Nhưng bà đã kịp nghe thoáng tiếng thở dài rất nhẹ trước khi cúp máy.
Thật ra, khu phố bà đang ở, nhà nào cũng có khoảng vườn, việc cây cối chìa cành sang nhà bên cạnh, là lẽ thường. Riêng đối với bà, chuyện đó không bình thường chút nào. Vì nó “vi phạm” nguyên tắc của bà.
      
Ngay sáng hôm sau, chiếc xe cắt tỉa cây đã đến. Ðang hút bụi phòng khách, bà bỏ dở ra sân đứng canh chừng họ. Một người đứng trên thang dùng cưa máy để cắt cành cây, một người nắm sợi dây thừng chuẩn bị kéo cành về hướng an toàn. Ðộ rung của máy cưa làm lá và trái thông khô rớt tung toé. Bà lại gọi điện yêu cầu bên hàng xóm phải sang sân vườn bà quét dọn sạch sẽ “những tàn tích” đó.

Chưa kịp vào nhà, bà lại thấy hai chiếc xe bốn chỗ và một chiếc U- hall đỗ trước sân nhà hàng xóm bên trái. Nhiều người bước xuống, rồi khuân khuân vác vác. À, thì ra họ dọn nhà đến.

Chủ mới căn nhà là đôi vợ chồng trẻ và đứa con gái nhỏ. Còn có con chó nữa chứ. Ðã có trẻ con, còn thêm chó nữa! Thật phiền quá đi mất! Bà lẩm bẩm và đi vào nhà, không đáp lại lời chào niềm nở của cặp đôi hàng xóm mới.
     
Buổi trưa ngồi trong nhà nhìn ra ngoài, bà thấy con bé hàng xóm đang lúi húi nhặt những trái Lê rụng quanh gốc cây. Cây Lê này, khi vừa mới mua nhà, chính tay chồng bà đã trồng, vì ông biết bà rất thích ăn Lê. Mỗi mùa thu đến, bà chờ đợi cây đơm hoa kết trái, háo hức như trẻ con. Kể từ ngày chồng mất, bà không còn cảm giác đó nữa. Thậm chí, trái Lê chín vàng bị dơi ăn rồi rơi rớt đầy sân, bà cũng chẳng màng. Nhưng như thế, không có nghĩa là ai muốn lấy những trái Lê của bà cũng được. Nguyên tắc sống của bà vẫn bất di bất dịch.
     
Bà nhủ thầm, khoan hẵng ra. Cứ đợi con bé đem Lê về, bà sẽ gọi điện mắng vốn nhà họ. Rằng, con nít cần phải được dạy dỗ cẩn thận, không được qua nhà hàng xóm lấy trộm. Rằng, cha mẹ cần phải trông nom con chặt chẽ….
     
Ô, lạ lùng chưa kìa. Con bé không ăn mà cũng không mang Lê về. Nó chạy đến bên thềm, đặt quả Lê xuống, rồi lại chạy đến gốc cây, nhặt quả Lê khác xếp ngay ngắn bên cạnh. Con chó cũng chạy theo nó, liếm mép và hít hít mũi vì mùi Lê thơm phức.

Một lúc sau, con bé dừng lại, vỗ vỗ đầu con chó và bảo:
     – Về nhà thôi Pom. Ði chơi lâu mẹ la cho đấy.
  
Rồi Con bé vạch lỗ rào chui trở về nhà- Cái lỗ nhỏ xíu. Con chó cũng lách mình chui qua theo .
     
Bà mở cửa, bước ra. Một thoáng bần thần, bà cầm quả Lê lên tay.
     
Bây giờ thì bà biết tên con bé là Katy. Và con chó là Pom.
     
Ngày của bà bây giờ không đơn điệu nữa. Bà có cảm giác bồn chồn, hay nhìn ra sân. Mắt bà ánh lên tia sáng, khi thấy Katy và con chó Pom xuất hiện ở sân nhà.
     
Vừa chui ra khỏi lỗ rào, bao giờ con bé cũng cẩn thận giũ lại váy áo. Con chó Pom cũng lắc lư mình giũ giũ bộ lông xù.
     
Rồi hai đứa chạy đến gốc Lê. Katy vừa lúi húi nhặt trái, vừa dặn dò Pom:
     – Không được ăn vụng nhé Pom.
     – Lê của bà thơm quá phải không. Có thèm thì cũng không được ăn nhé.
     
Ừ, mùi lê chín thơm thật, nên Pom nhà ta cứ thè lưỡi liếm liếm mép.
     
Mấy ngày lễ, cả gia đình Katy đi vắng. Chắc họ lại có reunion ở đâu đó. Tự nhiên bà nghe buồn và cô đơn vô cùng. Lễ hội là thời gian vui vẻ, đoàn tụ của mọi người. Nhưng với bà, đó là khoảng thời gian sầu thảm nhất.
     
Tháng Mười Một, ngày chưa qua mà trời đã âm u. Một vạt mây xám che ngang bầu trời ảm đạm. Bà đứng khuất sau cây Lê, nhìn sang nhà đối diện. Ánh sáng lấp lánh từ những ngọn đèn treo ngoài mặt tiền lẫn những ngọn đèn rực rỡ từ bên trong hắt lên màu hạnh phúc. Tiếng nói cười vang lên tưởng chừng như có thể sưởi ấm cả không gian.
     
Gió thông thốc thổi những chiếc lá khô bay xạc xào quanh sân bà. Mắt bà thoáng cay cay.
     
Bà vào nhà, kéo rèm cửa sổ xuống và với tay bật điện. Ánh đèn vàng hắt bóng phủ một màu đìu hiu soi căn phòng cũ kỹ. Bà nhận ra một điều, ở ngôi nhà này, tất cả đều cũ kỹ và già nua theo năm tháng, giống như bà.
    
Bà ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành to, lấy quyển albums đã sờn đặt trên đùi. Tay bà run run vuốt ve từng tấm ảnh. Ðây là hình của Paul mặc quân phục khi còn chiến đấu ở Việt Nam. Ðây là ảnh cưới của ông bà. Ðây là…
     
Không biết duyên nợ gì mà ông bà gặp rồi yêu nhau. Bà đã chấp nhận làm vợ ông, để theo ông về đất nước xa lạ cách quê hương bà một bờ đại dương thăm thẳm.
     
Hai người đã sống những tháng ngày hạnh phúc, cho dù không có con cái, vì ông bị ung thư. Thân thể to cao vạm vỡ như cây tùng cây bách của ông bị gặm nhấm từng ngày. Xót xa bà nắm lấy bàn tay gầy guộc của chồng và bất lực nhìn ông trút hơi thở cuối cùng trong đau đớn.
     
Bà đã ngất đi không biết bao nhiêu lần trước thi thể bất động của chồng. Cũng không biết bao nhiêu lần, bà ngước nhìn trời cao, oán trách Thượng đế sao quá bất công với bà.
     
Từ cái chết của ông, bà sống khép kín. Nụ cười tắt trên đôi môi. Người phụ nữ có mái tóc dài đen nhánh, suốt ngày ca hát ríu rít như chim không còn nữa. Bà chẳng buồn giao tiếp với ai, nhốt mình trong ngôi nhà bằn bặt tiếng nói cười. Lẳng lặng bà đi ra đi vào một bóng. Nỗi đau khổ không vơi, mà chồng chất với thời gian, khi chỗ nào cũng phảng phất hình bóng của ông.
     
Ðêm im ắng. Có thể nghe được tiếng dơi vỗ cánh chao chát và tiếng gió rít lùa qua những cành khô.
     
Ðồng hồ gõ từng nhịp uể oải. Khuya lắm rồi mà bà vẫn còn chong mắt.
     
Những trái Lê bà đã nhặt để đầy chiếc rổ nhỏ trên bàn. Bà nhủ lòng, khi Katy về, bà sẽ cho con bé. Lâu lắm rồi, bà mới có cảm giác mong ngóng một ai đó.
     
Vừa chui qua cái lỗ nhỏ, Katy đứng thẳng lên giũ lại chiếc váy ren hồng. Xong, con bé chạy vội đến gốc cây Lê. Nhưng, ơ kìa, sao không có trái Lê nào hết vậy. Con bé ngơ ngác nhìn lên cây rồi lại nghiêng nghiêng người nhìn chung quanh. Ðôi mắt xanh biếc ngạc nhiên tròn xoe như hai hòn bi ve.
     
Bà bước ra. Tiếng cửa mở làm Katy giật mình. Pom sủa lên một tiếng, rồi im ngay, khi con bé đưa ngón tay lên môi suỵt suỵt.
Bà nói :
     – Lúc cháu đi vắng, bà đã nhặt hết trái rồi.
Con bé tiu nghỉu:
     – Thôi cháu về vậy.
     – Khoan đã, đợi bà một chút.
Bà trở ra với rổ trái cây:
     – Katy mang về mà ăn này.
Ðôi mắt xanh biếc lại mở to:
     – Sao bà biết cháu tên là Katy? Cháu còn chưa quen bà mà.
     – Ừ, bà còn biết con chó của cháu tên là Pom nữa kìa. Bà cũng biết cả việc hai đứa rất thích Lê, nhưng chưa bao giờ ăn vụng Lê của bà.
Hai bím tóc đung đưa khi con bé gật gù:
     – Dạ, mẹ bảo ăn vụng của người khác là xấu lắm.
     – Cháu ngoan lắm. Mai lại sang nhặt lê giúp bà nhé.
Khi mở cổng rào cho Katy và Pom, bà dặn dò:
     – Muốn sang nhà bà thì đi bằng lối này. Ðừng chui qua lỗ rào, kẻo bị gai đâm xước đấy.
Vừa chạy vào nhà, Katy vừa gọi mẹ:
     – Mẹ ơi, Mẹ ơi !
Con Pom phóng theo Katy, sủa gâu gâu inh ỏi, như muốn nói, con cũng về rồi nè mẹ ơi !
     
Ðang dở tay gói quà chuẩn bị cho người thân trong dịp Lễ Giáng Sinh và New Year, Megan giật mình ngước lên :
     – Ở đâu mà con có nhiều lê thế?
Katy khệ nệ giơ rổ lê ra phía trước, liến thoắng:
     – Là của bà cho con đó.
     – Của bà à? Megan ngạc nhiên hỏi lại. Chuyện này là thế nào.
     – Thật mà, mẹ. Katy cười tươi, quả quyết.
Megan áy náy nhìn vào gương mặt rạng rỡ của con:
     – Con không được sang nhà bà nữa, nghe không?
     – Ứ…Bà tốt lắm. Con thích bà lắm.
Megan nghiêm nghị:
     – Không được cãi. Mẹ đã bảo không là không.
Không dưng bị mẹ la, Katy phụng phịu chực khóc. Con bé mếu máo trông thật tội nghiệp.
     
Megan nhẹ nhàng kéo con vào lòng. Cô không thể nói cho con bé nghe về Cái “bà già khó chịu” mà cả xóm đều không muốn dây vướng để tránh phiền hà. Cái “bà già khó chịu” mà cô đã cảm nhận ngay ngày đầu tiên dọn đến đây với cái quay ngoắt bất lịch sự khi cô lên tiếng chào hỏi. Với cô, hàng xóm là một điều rất quan trọng. Nếu sớm biết mình sẽ là láng giềng của “bà già khó chịu”, chắc gì cô quyết định mua ngôi nhà này, cho dù cô rất ưng ý nó.
Thôi thì đành cấm con bé vậy. Ðâu biết chuyện gì sẽ xảy ra …
     
Nhớ lời mẹ dặn, Katy không dám qua nhà bà, mà chỉ quanh quẩn trong sân nhà. Chốc chốc, con bé len lén nhìn những quả Lê chín vàng trên cây, rồi lại cụp mắt xuống. Con Pom chắc cũng nhớ mùi thơm những quả Lê, nên cứ cắn gấu váy của Katy mà kéo ra cổng.
     
Giằng co mấy lần như thế, Katy đành chịu thua con Pom. Cả hai đứa chạy ù sang nhà bà.

Vừa nhác thấy bóng Katy và con chó Pom, bà vội bước ra ngoài. Con bé hớn hở chào bà, rồi chạy đến gốc cây nhặt lê. Bà gom những quả lê, rửa sạch, lấy dao gọt vỏ, cắt ra đặt vào đĩa, gọi:
     – Katy lại ăn Lê với bà này.
     
Con bé cầm lấy miếng Lê, cảm ơn bà và không quên xin phần cho con Pom:
     – Bà ơi, bà cho con Pom ăn nữa nhé.
Bà gật đầu :
     – Ừ, cho con Pom ăn nữa.
Lần đầu tiên được ăn lê của bà, con Pom sướng lắm, ngoe nguẩy đuôi mãi.
     
Ba bà cháu cùng ăn Lê với nhau thật vui vẻ. Vị lê ngọt mát tan trong miệng bà. Ðã bao nhiêu năm rồi, ngôi nhà mới vang ấm tiếng con người.
       
Hôm nay Katy chẳng thấy bà đâu. Con bé nhặt Lê xong rồi, mà vẫn không thấy bóng bà. Chần chừ một chút, Katy đành quay về. Con Pom cũng lẽo đẽo theo Katy. Hai đứa buồn xo vì không gặp bà và không được ăn Lê.
     
Ngày hôm sau, Katy lại dẫn con Pom sang. Con bé ngạc nhiên thấy những quả Lê hôm qua còn xếp ngay ngắn trên thềm. Sao bà không cất đi? Nhìn thấy cửa sổ mở, Katy nhón chân nhìn vào. Không thấy bà, con bé lên tiếng gọi:
     – Bà ơi!
Con Pom cũng sủa gọi bà gâu gâu gâu một tràng dài.
Nhưng bà vẫn không ra.
Lạ lùng chưa.
     
Katy lại nhón chân gọi to hơn:
     – Bà ơi, bà ơi!
Con Pom hít hít mũi như nghe thấy gì. Nó dùng chân cào cào tường và sủa lớn.
     
Trong nhà, nghe loáng thoáng tiếng Katy và tiếng sủa giật giọng của con Pom, Megan vội chạy ra. Nhìn sang sân hàng xóm, thấy hai đứa, cô hết hồn la lên:
     – Katy về ngay.
Con bé hớt hải chạy về, níu tay cô:
     – Mẹ ơi, mẹ sang gọi bà đi.
Megan giận lắm:
     – Bây giờ còn muốn mẹ sang đó nữa hả? Ði vào nhà mau.
     
Con bé mếu máo theo sau mẹ, nhưng vẫn không chịu thôi, cứ nằng nặc xin mẹ sang gọi bà. Megan nén giận, hỏi lần hồi mọi chuyện. Thì ra, con bé vẫn lén mẹ sang chơi nhà hàng xóm. Hai bên bà cháu thân thiết nhau lắm. Nhưng từ hôm qua con bé không thấy bà. Hôm nay con bé và con Pom nháo nhào như vậy, mà bà vẫn không ra. Sực nhớ bà ấy ở một mình, cô cũng thấy lo. Nhưng cô cũng không dám tự ý vào nhà đó.
     
Megan đi sang nhà đối diện xin số điện thoại của bà. Khi đưa cho cô số, họ thắc mắc hỏi:
     – Cô lại có chuyện gì với “bà già khó chịu” đó à?
     
Megan kể chuyện cho họ nghe. Mọi người cùng tán thành việc gọi điện cho bà ấy.
     
Chuông điện thoại gióng lên từng hồi, mà không có ai bắt máy. Bây giờ mọi người thật sự lo lắng:
     – Chắc có chuyện gì rồi.
     – Phải gọi báo cho 911 thôi.
     
Các nhà đối diện và lân cận đều tập trung trước cửa nhà bà. Lúc này mọi người không còn nhớ đến những phiền hà bà đã gây cho họ. Tất cả đều chung một tâm trạng thắc thỏm.
     
Xe cảnh sát trờ đến. Mọi người dạt sang một bên. Nhân viên cảnh sát phá cửa nhà xông vào. Họ tìm thấy bà đang trong tình trạng mê man.
     
Một lúc sau, xe cấp cứu chạy đến. Người ta khiêng bà lên xe đưa vào bệnh viện.
     
      
Sau ba ngày hôn mê, bà tỉnh lại. Bác sĩ quyết định chuyển bà sang khoa nội để theo dõi.
     
Từ giường bệnh, bà có thể nhìn thấy bầu trời ngoài kia. Vẫn với màu mây xám mênh mang, nhưng bà không cảm thấy buồn man mác như những cuối ngày ngồi trong nhà nhìn ra khoảng sân nhà hiu quạnh.
     
Có vài người hàng xóm đến thăm bà mang theo lời nhắn gửi của những người hàng xóm khác. Megan, mẹ của Katy cũng đến. Cô ấy bảo đã hết mùa Lê, mà Katy biết bà thích ăn Lê lắm, nên con bé cứ nằng nặc đòi mẹ phải đi chợ mua Lê vào cho bà.
     
Bà cảm thấy ấm áp vô cùng. Sự ấm áp tràn ngập cả tâm hồn, mà không có một loại máy sưởi nào làm được. Ðó là sự quan tâm, là tình người.
     
Bao nhiêu năm nay bà đã hoang phí đời mình trong những dằng dặc buồn phiền, khắt khe và ích kỷ. Chưa lần nào bà mở lòng ra với mọi người. Lần này ra viện, trở về, bà chắc chắn sẽ sống khác.
     
Megan giúp bà làm thủ tục xuất viện.
     
Khi xe vừa dừng lại trước nhà, vài người hàng xóm trông thấy, chạy ra đón bà.
     
Những ngày vắng bà, mọi người đã ngồi lại trao đổi với nhau. Ai cũng cảm thấy áy náy, vì chỉ muốn xa lánh bà để tránh phiền hà, mà không hiểu được sự cô đơn của bà. Nếu hôm nọ không có Katy và con chó nhỏ, chắc gì mọi người đã phát giác để kịp đưa bà đi cấp cứu.
    
Cuộc sống thật phù du. Cuối đời người có mang được gì qua thế giới bên kia. Sao không mở lòng ra với nhau khi mình còn có thể.
     
Peter, chủ nhà đối diện, lúc này mới nhìn thấy sự đối nghịch của hai nhà. Bên này sân, là đèn hoa rực rỡ. Bên kia là ngôi nhà rêu phong ẩm mốc. Anh quyết định giăng đèn phía mặt tiền và mua vòng hoa đỏ treo trước cửa nhà bà.
     
Nhà hàng xóm có nhánh thông chìa qua nhà bà lúc trước, cũng mua những chậu cây trạng nguyên đỏ thắm đặt trước thềm nhà bà.
     
Mọi người còn bàn nhau sẽ mở một “block party” vào dịp Giáng sinh và Năm mới này. Ðây cũng là dịp để hàng xóm gần gũi, cảm thông nhau hơn.
     
Bà bước xuống xe, bỡ ngỡ nhìn ngôi nhà rồi nhìn mọi người chung quanh. Mắt bà rưng rưng vì cảm động. Câu cảm ơn run run trên môi không thốt thành lời.
     
Katy chen mọi người để được nắm lấy tay bà. Con bé cười toe toét bày hàm răng vừa rụng mất một chiếc hôm qua.
     
Con Pom cũng cố luồn lách qua chân mọi người. Giây phút quan trọng thế này làm sao thiếu được sự hiện diện của nó.


Biển Cát
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Feb/2023 lúc 11:55am

Người đàn bà trong "Mùa hoa cải bên sông"

Rực%20rỡ%20mùa%20hoa%20cải%20bên%20sông%20|%20Văn%20hóa%20xã%20hội


Đấy là một cô gái còn rất trẻ. Năm cô mất, mới 23 tuổi. Cô mất cùng với một thai nhi trong bụng, trong chính lòng con sông Đáy mà cô đã gắn bó từ khi sinh ra.

Trong truyện ngắn Mùa hoa cải bên sông tôi viết gần 20 mươi năm trước, có một nhân vật nữ tên là Chinh. Chinh sống cùng gia đình trên chiếc thuyền. Họ không được phép lên bờ vì lời nguyền của cha cô. Nhưng cuối cùng cô đã lên bờ vì tiếng gọi của màu hoa cải vàng quyến rũ và bởi tiếng gọi của tình yêu với một chàng trai sống trong một xóm trại ven sông. Khi biêt cô có thai, cha cô đã trừng phạt cô và đưa cả gia đình đi mất tích.

Truyện ngắn này được đạo diễn Khải Hưng làm thành phim Lời nguyền của dòng sông và giành Huy chương vàng Liên hoan phim truyền hình quốc tế tại Bỉ năm 1993. Đấy là bộ phim truyền hình Việt Nam đầu tiên giành được một giải lớn chính thức ở quốc tế. Đạo diễn Khải Hưng đã hỏi ông Chủ khảo Liên hoan phim vì sao ông trao giải cao nhất cho bộ phim đó thì ông ta trả lời: “Vì nó rất Việt Nam. Nó là của dân tộc anh”.

Khi truyện ngắn của tôi đến với bạn đọc, nhiều người thích nhưng không tin trên đời lại có câu chuyện như vậy. Xin thưa, bảy mươi phần trăm của truyện ngắn này là sự thật. Và Chinh là một cô gái có thật và được tôi giữ nguyên tên của cô.

Khi phim này chiếu trên truyền hình, tôi về quê và đi đò sang sông. Bố Chinh đã già lắm nhưng vẫn chèo đò chở khách. Con đò mà Chinh thường chở tôi sang sông đi học đã quá cũ nát. Ông nói với tôi, ông đã được xem bộ phim đó. Lúc đó tôi rất lo bị ông mắng vì đã mang chuyện gia đình ông lên phim. Nhưng ông chỉ nói thế và rồi lặng lẽ chèo đò cho tôi sang sông. 

Tôi có hai năm học phổ thông tại trường cấp III B ở An Mỹ bên kia sông thuộc huyện Mỹ Đức, Hà Tây. Bởi thế mà hàng ngày tôi phải đi đò sang bên kia sông đi học. Người lái đò cho tôi qua sông là Chinh.

Chinh là một cô gái không nhan sắc, mắt cô bị kém thị lực từ lúc sinh ra. Mỗi khi tôi cất tiếng gọi đò thì dù đang làm gì cô cũng xuống bến chèo đò cho tôi. Cô ngước đôi mắt kém thị lực nhìn về phía bờ bên kia và chèo đò. Nhiều lúc tôi lo cô sẽ không đưa tôi đúng bến và con đò có thể trôi đi cách bến rất xa. Nhưng ngay cả những chiều tối hoặc những ngày mưa, cô vẫn cập đò đúng bến. Có lẽ cô chèo bằng một giác quan khác. Lúc nào xuống bến chèo đò cho tôi, cô cũng mang cho tôi một thứ gì đó. Lúc thì bắp ngô, lúc thì củ khoai, lúc thì những trái cây trong vườn nhà cô. Cô đã quen giọng của tôi. Ngay cả những chiều mưa, đứng từ bên kia bờ sông, tôi chỉ cần cất tiếng “ơi” là cô đã nhận ra tôi và vội vàng xuống bến chèo đò sang sông đón tôi. Và lúc nào cũng vậy, khi thấy bóng cô xuất hiện từ đầu con đường phù sa chạy từ xóm trại xuống bến là tôi thấy lòng rạo rực. 

Gia đình cô từng sống lênh đênh trên đò dọc sông Đáy mấy đời. Họ bắt cá, cào hến và lấy cát bán cho những cư dân hai bên bờ sông để sinh sống. Mãi đến ngày hòa bình họ mới cập lại bến làng tôi, xin định cư trong xóm trại nhỏ bên sông và làm nghề chèo đò ngang đưa khách qua sông. Thực sự tôi không biết quê quán họ ở đâu. Thường là vừa chèo đò cô vừa hỏi việc học hành của tôi. Cô bảo, cô thèm được đi học nhưng nhà cô nghèo, phải bỏ dở để cào hến, thả lưới bắt cá và chèo đò kiếm tiền nuôi gia đình. Có một lần trời mưa, khi chèo đò ra giữa sông, cô bảo tôi chui vào lòng đò có mái che. Cô bảo tôi ngồi chơi và để mặc đò trôi đi đâu thì trôi. Nhưng tôi sợ và đã chối từ. Sau đó, tôi thấy cô không nói gì và chèo đò rất mạnh như tủi thân và như giận dữ. Mưa chảy tràn trên mặt cô. Sau này, tôi nghĩ, có lẽ cô đã khóc. Cho đến bây giờ tôi cũng không dám nghĩ đó là tình cảm của cô giành cho tôi. Khi tôi đi học xa, mỗi dịp vào làng bán cá hay bán hến, gặp mẹ tôi, cô lại hỏi: “Thiều có viết thư về không cô giáo?”. Lần nào mẹ tôi mua hến, cô cũng đong bơ hến đầy hơn đong cho những người khác trong làng. Nếu lần đó mà tôi về nghỉ thì cô thường biếu thêm cho mẹ tôi một bơ hến và nói: “Cô giáo nấu hến với canh bầu cho Thiều ăn”. Cô biết tôi là người thích ăn canh hến nấu với bầu trắng trồng ngoài bãi sông. Những lúc về quê nghỉ hè, tôi thường ra xóm trại để mong gặp lại cô. Nếu không thấy cô ngoài bến sông, tôi lại gọi đò và hy vọng cô xuống chèo đò để tôi được gặp cô. Thấy tôi, cô hỏi có phải tôi sang bên kia sông thăm bạn học cũ không. Tôi đã nói dối cô. Tôi không dám nói với cô rằng tôi gọi đò để lấy cớ gặp cô mà thôi. 

Sau khi học xong, tôi vào thành phố Hồ Chí Minh làm việc. Hai năm sau, tôi về thăm quê. Mẹ tôi cho tôi biết, cô đã mất. Mẹ tôi là người biết rất nhiều chuyện ở quê. Có lẽ mẹ tôi là một bà giáo già nên mọi người hay đến kể chuyện cho mẹ tôi nghe. Nhiều câu chuyện tôi viết là do lời kể của mẹ.

Chuyện cô mất là một câu chuyện làm tôi đau đớn mãi. Một ngày, bố cô phát hiện cô có thai. Ông đã trói cô vào cột nhà và đánh cô tra hỏi để tìm ra ai là cha của cái thai trong bụng cô. Nhưng cô không nói cho ông bố biết. Cô xin bố để cho cô nuôi giữ cái thai đó. Bố cô không chấp nhận lời cầu xin. Ông bắt cô uống thuốc lá của người Mường bên kia sông để phá thai. Vì một cô gái không chồng thời đó mà có chửa là một chuyện khủng khiếp.

Nhiều đêm, cô quỳ xuống bên mép giường của người bố cho đến sáng để xin ông hãy thương đúa bé trong bụng cô mà để cho cô sinh nở. Nhưng cô đã không thay đổi được sự tức giận và đau đớn của người bố. Người bố đã cưỡng bức cô uống thuốc phá thai.

Một buổi sáng thức dậy, gia đình cô không thấy cô. Họ đã đi tìm cô nhưng không thấy. Năm ngày sau, người ta thấy xác cô nổi ở đoạn sông cách bến sông làng tôi chừng dăm cây số. Có người nghĩ bố cô đã đẩy cô xuống sông. Nhưng đó là chuyện của người độc miệng, ác ý. Người làng tôi không tin chuyện đó. Mẹ tôi bảo là cô tự tử sau khi phải phá thai. Trong những ngày về thăm quê lần đó. Tôi đã đạp xe đến đoạn sông mà người ta vớt được xác cô. Lòng tôi buồn bã và trống rỗng vô cùng. 

Mấy năm sau, một người em trai của cô đã có vợ nhưng lại có con với một cô gái mắc bệnh tâm thần ở làng tôi. Gia đình cô gái tâm thần mang đưa bé trả lại cho gia đình cô. Và cứ ngày ngày cô gái tâm thần đó đến ngồi trước cửa gia đình cô, lúc cười lúc khóc. Có người nói cô gái tâm thần đó bị hồn của Chinh nhập vào để trả thù bố cô đã không cho cô sinh con và làm cô phải tự tử. Rất nhiều người làng tin câu chuyện đó...

Khi tôi đưa Nghệ sỹ Nhân dân Bạch Diệp về quê tôi chọn cảnh làm bộ phim Thời gian của dòng sông chuyển thể từ truyện ngắn Hai người đàn bà xóm trại của tôi. Tôi đã kể câu chuyện về Chinh cho bà nghe và đưa bà đến xóm trại và chỉ cho bà ngôi nhà của Chinh.

Thời gian cứ trôi đi, tôi đã bắt đầu già... Con sông Đáy chưa một ngày ngừng chảy ra biển. Nước sông cũ không bao giờ trở lại trên bến sông làng tôi. Nhưng con đò và Chinh vẫn thi thoảng trở về trong ký ức tôi. Trở về như một ngọn gió vừa ngân vang, vừa buồn bã và vừa thương nhớ.

Nguyễn Quang Thiều



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 24/Feb/2023 lúc 11:57am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21997
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Feb/2023 lúc 8:31am

CÒN NHỮNG TẤM LÒNG | Truyện ngắn Tràm Cà Mau  <<<<<<

Candle%20Flame%20GIF%20-%20Candle%20Flame%20Roses%20-%20Discover%20&%20Share%20GIFs


Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 26/Feb/2023 lúc 8:34am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 124 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.367 seconds.