Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình  
Message Icon Chủ đề: ĐỜI SỐNG GIA DÌNH Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 126 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22182
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 24/Jun/2021 lúc 9:33am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22182
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 25/Jun/2021 lúc 2:35pm

LẤY CHỒNG ĐI MỸ

Dịch%20thuật%20công%20chứng%20hồ%20sơ%20xin%20Visa%20đi%20Mỹ%20USA%20-%20Dịch%20thuật%20tiếng%20Anh
< -min-no-for-search="1" -result--max-height="400" --id="27738" ="is-search- is--style is--style-3 is--id-27738 is-ajax-search" ="https://tiinz.com/" method="get" role="search">

Chiếc xe buýt chậm chạp bò ngược chiều dốc suốt khúc đường Grand Ave lên đến góc State Ave. Tuyết rơi nặng hột từ chiều qua, trút hàng ngàn tấn bông tuyết xuống khu phố nằm co ro dưới bầu trời xám ngắt. Tiếng bánh xe kéo rít chuẩn bị đỗ thắng. Người phụ nữ ngồi hàng ghế thứ hai lật đật đứng dậy. Xe vẫn còn lăn bánh, tài xế đạp mạnh vào bàn thắng khiến người thị chúi nhũi về phía trước. Một tay kéo lê chiếc giỏ xách to kềnh, tay còn lại thị xô người đàn bà trước mặt dạt sang một bên, xồng xộc lấn tấm thân mập xệ tới phía trước, thản nhiên bước xuống xe.


Một ngày như mọi ngày của thị bắt đầu như thế. Chiếc xe buýt tiếp tục lăn bánh nhả cuộn khói đen khét lẹt vào mặt thị. Cơn gió tiếp tục ném vào xương tủy cái rét cắt da cắt thịt. Tiếp tục kéo lê cặp đùi nung núc, băng qua ba khúc đường lạnh cóng mới đến căn phố nơi thị làm việc sáu ngày một tuần. Khó có thể tưởng tượng nỗi khu phố lập xập, cũ kỹ chôn sâu dưới đám tuyết nhơ nhớp này một thời từng là nơi lui tới mua sắm của giới trung lưu trong thành phố.

Từ ngày thị đến đây làm việc, chỉ thấy đám cần lao ra vào. Khách đến làm móng ngoài một số khách quen to mặt người Việt thì toàn những bà Mỹ đen to xù, da đen khè cháy khét, chân vấy tay bẩn. Đám còn lại là những người khách trung đông mạt rệp luôn khiến cánh mũi thị phập phồng đánh hơi ra mùi hôi nách tởm lợm dù họ chưa vào đến cửa. Thỉnh thoảng có vài khuôn mặt Mỹ trắng nhỏ thón gốc Do Thái trông tươm tất, lịch sự, lại là đám khách thị khinh miệt ra mặt vì số tiền vụt-poa keo kiệt hệt tướng người khẳng khiu và khuôn mặt teo tóp của bọn họ.

Report this ad
Report this ad

Mới đó thị đã dày dặn hơn 10 năm trong nghề làm đẹp, cụ thể là nghề khưi chân quẹt móng thiên hạ. Thứ nghề làm dày túi cho đám chị em mới từ Việt Nam sang vừa muốn kiếm tiền nhanh, vừa tha hồ ngồi lê đôi mách chuyện ông sư bà vãi. Ở cái tiệm bà xó này, đố ai vào tiệm mà không ghé tai kể cho thị bí mật cuộc đời, nỗi oan của ông hàng xóm, xì-căng-đan của bà chị dâu, cô bồ nhí đú đởn của chồng, đứa con gái chửa hoang… Không chỉ chuyện người, mà khách vào tay thị sẵn sàng cởi lòng cởi dạ trút mọi tâm tư tình sử riêng tư, hệt như tên đàn ông nhẹ dạ sẵn sàng cởi quần trước cô gái nhà nghề.

Xuất thân từ gia đình con buôn ở miền Trung, thị là người lanh lẹ, chụp giựt, lại có bản chất siêng năng, cần mẫn. Kiếm tiền là lý tưởng sống chết muôn đời. Sáng tơ mơ trời còn tối căm, thị là người đầu tiên đút chìa khóa vào mở cửa tiệm. Thị cũng là người cuối cùng kiểm tra trong ngoài khóa cửa mỗi ngày.  Bà chủ tiệm chị họ cùng đám thợ tà tà khoảng sau 10 giờ mới kéo nhau đến. Vào những hôm bão tuyết như hôm nay, phân nửa bọn họ lười biếng nằm nhà dù biết thứ Sáu tiệm sẽ đông nghẹt mớ khách se sua sửa soạn đi chơi sòng bài cuối tuần. Bọn họ biếng nhát như thế đương nhiên hai phần ba khách sộp trong tiệm là khách VIP của riêng thị.

Đồng hồ điểm 11 giờ sáng, như mỗi thứ Sáu thường lệ, người khách sộp nhất của thị đẩy cửa bước vào. Bà trạc tuổi chủ tiệm, hơn thị chừng chục tuổi nhưng trông trẻ trung, dáng vóc đầy đặn. Chiếc áo lông trắng toát dày dặn phủ dài ôm gọn tấm thân nõn nà, khêu gợi. Chiếc cổ bà trắng trẻo, tròn trịa, rủng rỉnh những vòng dây chuyền sáng láng. Tay Bà lủng lẳng chiếc ví LV đỏ mới nhất khiến cả đám đàn bà trong tiệm rỏ dãi thèm thuồng. Bà đến thẳng ghế của thị, cởi dày vắt áo, duỗi chân nằm dài xuống chiếc ghế xoa bóp được thị chu đáo sưởi ấm nệm và nước ấm ngâm chân. Nhìn bà khách xòe bàn tay búp măng tròn trịa trắng hếu trêu ngươi, thị không khỏi liếc nhìn bàn tay gân guốc của mình, cái cảm giác ghen tức ứa lên tận cổ.

Hồi còn ở quê xưa, thị cũng xinh xắn nõn nà khiến mấy ông già thèm rỏ dãi. Mang tiếng lấy chồng có cái mát Việt Kiều gia thế, sang đến nơi mới vở lẽ gả ta chỉ giàu mỗi mớ chữ vô dụng, uổng công thị mưu toan tính toán lấy chồng đi Mỹ. Bỏ làng bỏ xóm theo gả sang đây sinh con đẻ cái, thị làm việc đầu tắt mặt tối. Làm quần quật bao nhiêu cũng không đủ ăn thua với thiên hạ. Cái hạng như bà khách đồng hương này hồi cùng quê còn lâu thị mới thèm để mắt tới, vậy mà bây giờ là bà chủ, là vợ của một tay anh chị điều khiển mấy cái hộp đêm. Nhưng nghe đâu nghề chính là nghề cho vay lấy lãi, của cải mỗi ngày mỗi thừa thãi. Người ta trông xa nhìn rộng dám làm dám hưởng, chẳng như chồng thị tỏn mỏn bám vào đồng lương công chức quèn, có chút sức lực nào xài nhẵn vào những trang sách vô bổ. Nghĩ đến gả chồng vô dụng khiến mình thua thiệt thiên hạ, cái cục tủi thân, uất ức lại trồi lên tận cổ.

Report this ad

Bất chợt, thị nghe bà khách tằng hắng giọng: “Ái dà, nhẹ tay chút!” Thị vội vàng nuốt xuống cục nghẹn, rồi tự nhiên để cho những giọt nước mắt cá sấu lả chả lăn dài xuống cặp má phệ. Bà khách dịu giọng: “Sao rồi? Thằng chả lại sinh chuyện nữa hả?” Thị nghe chính mình sụt sùi bịa chuyện: “Đêm hôm thằng chả đi nhậu về say xỉn nghe lời bà già đâm thọt chửi mắng đánh đập, lại còn hăm sẽ làm giấy tờ ly dị.” Bà khách trợn mắt: “Trời. Bỏ mẹ nó đi chứ, “dzu”ngon dzậy mắc gì mà sợ nó ly dị … đàn bà ở xứ Mỹ này ai cũng được cưng như trứng, hứng như hoa, lấy-đì-phớc mà…

Lời bà khách lọt vào lỗ tai khơi lên nỗi căm tức đã từ lâu âm ỉ. Ừ nhỉ. Quý hóa gì thứ đàn ông nhà quê cù lần này. Gả quả là tệ hại. Ngoài mỗi việc cho thị cái thẻ xanh vào Mỹ, gả chưa một lần biết tặng vợ thứ gì quý hóa. Cũng chả một lần tỏ thái độ biết ơn Thị ban cho gả hai thằng con trai nối dòng nối dõi, cái dòng dõi vô danh ba đời nhà gả không tương không xứng với dòng dõi gia đình con buôn khét tiếng nhà Thị.  Chớp cặp mắt đỏ hoe nhìn bà khách sang trọng thị hạ nhỏ giọng: “Chị Hai nói đúng quá. Ngày mai cuối tuần cho em theo chị Hai xuống sòng bài xả xì-tréc nghen. Bà khách vồn vã: Dĩ nhiên rồi, đàn em của chị Hai sẽ tếch-ke-rrrrờ h’ớ-nì…”

*

Sòng bài “Ho-Sù” quả là một thế giới vượt ngoài sức tưởng tượng của thị, cô gái nhà quê cả đời chỉ sống trong hóc bà-tó của căn nhà lát gạch hoa luôn ngỡ mình phú quý.  Ngoài người chồng xa lạ đã từ lâu chẳng để mắt gì đến thị, người thân duy nhất là ông già ruột vượt biên sang Mỹ có bà vợ mới chẳng quan tâm gì đến con gái. Mấy ông anh bà chị họ là những tay anh chị giàu có thường chờ dịp lên mặt dạy đời. Cũng nhờ thị nhanh nhẹn, tháo vát và chịu khó, họ mau chóng nhận ra giá trị lợi dụng nên tin tưởng giao tiệm nail cho thị. Từ đó thị chăm chỉ làm lụng kiếm tiền, cái bản năng “ăn thua đủ” thừa kế từ bà mẹ chợ búa giúp thị biết kiếm chác không chịu thua thiệt. Tiền bạc dành dụm, thị bắt chước đàn anh chị cho vay lấy lãi. Dựa vào đám anh chị họ khét tiếng, thị bòn vét, bóc lột người đồng hương cùng quẫn nên rủng rỉnh túi. Lần đầu tiên khi gả chồng nghe thị hù dọa đòi tiền con nợ, gả sửng sốt đến bủn rủn. Cũng từ hôm đó, thị khinh gả ra mặt.  Đàn ông không có chí hướng làm giàu đã tệ, lại còn nhát gan không dám thừa nước đục thả câu, có mà nghèo rớt mồng tơi.

Hôm nay, xỏ đôi giày gót nhọn bước trên tấm thảm nhung đỏ, dưới ánh đèn pha-lê sáng chói thị nghe lòng mình rạo rực. Xung quanh thị là những người khách đánh bài quần áo là lượt sang trọng, đâu đâu cũng đầy tiếng nói tiếng cười, khung cảnh rộn ràng như trẩy hội. Lần đầu tiên thị ngừng trách móc gả chồng mạt rệp đã đem thị sang xứ sở khỉ gió này. Cuối cùng thị đã đích thực ở Mỹ. Nước Mỹ. Nước Mỹ đây rồi. Nước Mỹ lung linh ánh đèn màu. Nước Mỹ  rộn ràng tiếng máy kéo đánh bài. Nước Mỹ trải thảm nhung đỏ. Nước Mỹ bên ngoài căn nhà tẻ nhạt nơi gả chồng lù đù dúi mũi vào những trang sách không đẻ ra tiền. Nước Mỹ ở đây đàn ông tóc xịt keo láng cóng xức nước hoa thơm phức. Hai cánh mũi hểnh của thị nở to ra sức hít hà đánh hơi mùi đàn ông có tiền, mắt thị dán chặt vào những cô vũ nữ xinh xắn chân dài, tưởng tượng ra hình ảnh của chính mình xa hoa lộng lẫy trong chiếc áo đầm nhung đỏ, bên cạnh người đàn ông cao to trong bộ vét-tông đen lịch lãm.

Trong cơn hưng phấn thị thấy mình lột xác bước ra khỏi hình ảnh cô gái nhà quê xóm chợ. Tự tin trong đôi giày cao váy ngắn, thị đưa tay cởi hàng nút áo phía trên để lộ làn da trắng hếu căng phồng dưới chiếc áo mỏng ôm sát ngực. Ngay lập tức, thị cảm giác có làn hơi ấm ai đó phà trên bộ ngực trần.  “Cưng. Chị Hai biểu anh sang tếch-ke-rrrờ cưng nè. Mình đi đánh bài. Có đàn anh bảo kê không thằng nào dám rrrrờ… túi… cưng đâu.” Thị ngẩng đầu nhìn lên, người đàn ông trông bảnh bao lực lưỡng trong chiếc áo T-shirt đen ôm sát người.  Hắn đá lông nheo, vừa nhếch mép cười vừa kéo mạnh tay Thị: “Đi… em cưng…”. Thị thấy mình bất chợt ngả sát vào lồng ngực vạm vỡ của hắn, vòng eo thị nằm gọn trong cánh tay hắn cuồn cuộn.

Đêm hôm ấy, thị ở lại sòng bài không về nhà. Thời gian qua cái vèo trong khi thị mê mẩn đắm chìm trong chốn xa hoa hào nhoáng. Hơn nửa đêm, tiếng điện thoại reng, thị dằn giọng: “Có chuyện gì chớ?” Đầu giây bên kia, giọng bà mẹ chồng đanh đá: “Mày đang ở đâu. Đàn bà con gái đi đâu nửa đêm chưa về nhà…” Lẹ tay bấm nút tắt máy, thị tủm tỉm cười nghĩ đến cảnh bà già chồng đang lên ruột. Từ ngày gả chồng cù lần rước bà già nhà quê sang ở chung trong nhà, cái gia đình đó đã không còn là gia đình của thị. Mẹ con gả một sàng, là cái gai cục sạn cần phải gàn lọc. Giục điện thoại cầm tay vào túi xách, thị ngồi xuống bàn tựa sát mình vào gả đàn anh đang xòe bài. Thả cây bài xì dách xuống, hắn nắm chặt bàn tay thị đưa lên môi hun chùn chụt: “Em cưng đúng là nàng tiên số đỏ của anh!” Hắn nói xong nổi hứng đẩy sang thị một cọc tiền chip mới thắng, ra dấu cho người chia bài chia thêm tay bài cho thị.  Thị lắc đầu nguây nguẩy: “Em hỏng biết đánh…” Hắn đặt bàn tay nóng ấm lên đùi thị: “Em cưng cứ theo anh thì đời sẽ lên hương…” Thánh nhân đãi kẻ khù khờ, lần đầu tiên đánh bài, thị và hắn đặt đâu thắng đó. Đêm càng khuya thị càng cao hứng, càng say sưa hoang lạc, chả còn nhớ gì đến những quan hệ hiện tại trong đời sống. Khi trời hừng sáng, thức giấc bởi tin nhắn thằng con trai gởi tìm mẹ, thị thấy lòng mình thờ ơ không mảy quan tâm.  Đảo mắt nhìn quanh căn phòng khách sạn nửa sáng nửa tối, mắt thị dừng lại dán chặt vào thân thể cường tráng của người đàn ông nằm trần truồng bên cạnh, cảm giác luồng điện lại rần rần trong huyết quản.

*

Nửa đêm hôm sau khi về đến nhà, thị đụng phải gả chồng ngồi uống rượu giữa nhà mặt đỏ như gấc. Thấy thị bước vào, gả chẳng nói chẳng rằng, chỉ tiếp tục tu thốc chai rượu đã cạn đáy. Cặp mắt bất thần, gả nhìn thị như nhìn vào không khí. Bà mẹ chồng hung hăng từ trên lầu đi xuống: “Mày đi đâu đêm hôm? Thằng Cu chờ cả đêm không chịu ngủ. Mày không biết nể mặt chồng, chả lẽ cũng chẳng biết thương con...” Không buồn giải thích, thị xẳng giọng: “Làm ơn xê ra! Không thì đừng có trách đàng này…”  Bà già không chịu thua: “Không thì làm sao, mày dám làm thứ gì ngoài mỗi việc ăn hiếp thằng chồng nhu nhược…” Vừa nói bà vừa nhìn sang thằng con trai ngồi yên như trời trồng. Khuôn mặt vô cảm bất động của nó chuyển sang trắng bệch, hệt như vẻ mặt ngày nó nhìn ông Tư bị trúng đạn vào thái dương. Thằng bé mồ côi cha khi chưa tròn bốn tuổi. Lòng bà bỗng dưng chùng xuống, bà lẳng lặng quay ngược bước bỏ lên lầu. Thị không tha ném theo tràng cười đắc thắng: “Đúng là mẹ nào con nấy. Chỉ một lũ hèn.” Quay hướng  nhìn gả chồng với bộ mặt đắc ý, thị đột nhiên cảm thấy mặt mình nóng rang, tai lùng bùng, mắt nổi đom đóm. Thị lảo đảo ngả vật xuống đầu đụng vào mép bàn, cảm giác dòng máu nóng đang ứa ra cùng nỗi uất ức. Thị bấm điện thoại gọi 911: “Làm ơn cứu tôi, chồng tôi đánh chết tôi…”

*

Kể từ đêm hôm đó, thoát ly từ quả thị, người đàn bà thấy mình mọc đủ lông đủ cánh bước sang cuộc đời mới.

NGUYÊN YÊN

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22182
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 26/Jun/2021 lúc 7:48am

Bốn Mươi Năm Cuộc Tình

 
Xin cho anh bạc mái đầu
Tình còn trao mãi mộng vào thiên thu
Xin cho anh kiếp giam tù
Vào đời em đó, mùa thu diễm tình
(Thơ Ngọc Quyên)
 
 
   Ngày xưa, các cụ thường nói “ khôn ba năm, dại một giờ ” để cảnh giác các cô con gái phải thận trọng, đừng để bị sa ngã trong một phút yếu lòng. Thật ra câu thành ngữ đó phải được dùng để khuyến cáo cả hai phái, nam cũng như nữ, bởi vì không chỉ bọn con gái mới có những phút yếu lòng, bọn con trai chúng tôi lòng dạ cũng có khi mềm yếu lắm, nhất là khi đứng trước người đẹp, mặt cứ khờ đi, bao nhiêu khôn ngoan đều biến mất hết.  Nếu bảo như thế là dại gái, thì tôi đã dại gái từ thuở còn nhỏ, chơi chung với bọn con gái bên hàng xóm, bị chúng nó bắt nạt, phải đứng quay dây cho tụi nó nhảy, quay mỏi cả tay mà chẳng dám phàn nàn, thật dúng là ngốc.
 
   Lên chín, mười tuổi, cả bọn rủ nhau đi tắm sông, tôi và thằng bạn đã hì hục mất cả buổi để làm bè chuối cho bọn con gái làm phao, lại còn phải tập cho chúng nó bơi nữa.  Thế mà có được ơn nghĩa gì đâu? lúc về còn bị cha mẹ chúng nó mắng là đầu têu, chơi trò nguy hiểm, thật chẳng có cái dại nào bằng.  Ấy thế mà đâu có chừa, những lần đi hái trộm trái cây, bọn con trai chúng tôi xung phong leo cây, bẻ trái ném xuống cho bọn con gái đứng chờ ở dưới đất chỉ việc hứng, và tha hồ chọn trái ngon, ăn thoả thích.  Bọn tôi có công nhưng lại phải ăn sau, ăn thừa.  Có lần bị chủ nhà trông thấy, tụi nó hè nhau chạy trước, báo hại bọn tôi còn ở trên cây, luýnh quýnh mãi mới tụt xuống được, chạy tập hậu, bị chó rượt gần chết, vấp té mấy lần sưng u cả trán, đúng là:
Vì nàng anh phải chịu đau
Vì nàng anh phải qua cầu đắng cay
 
Lớn lên chút nữa, thuở học lớp đệ ngũ, đệ tứ, tôi mê mấy cô bạn cùng lớp, nên tình nguyện làm một tên hầu hạ điếu đóm, để các cô sai vặt.  Ở nhà, tôi là thằng chúa lười, chẳng bao giờ làm gì động đến móng tay, thế mà đến trường, tôi trở thành một đứa ngoan ngoãn dễ bảo, sốt sắng làm tất cả mọi việc các nàng nhờ vả, làm luôn cả bài tập cho các nàng nữa.  Ở nhà, tôi là một ông tướng hét ra lửa, mửa ra khói, thế mà đối với các người đẹp, tôi nhũn như con chi chi.
         
 
   Chả biết con chi chi là con gì, hình thù như thế nào, chỉ biết con tim cũng như lòng dạ tôi đều mềm yếu lắm, chỉ cần người đẹp ban cho một nụ cười, một tia nhìn say đắm - thật hay giả khó biết - thì bảo cái gì mà chẳng nghe, bảo lao vào lửa cũng sẵn sàng.  Thì ra trong người tên đàn ông nào cũng có một tí máu anh hùng, anh hùng rơm hay anh hùng thật đều thích ra tay nghĩa hiệp để che chở, phục vụ cho phái yếu, nói một cách nôm na là nịnh đầm!  Sau này về già, nghĩ lại thấy những trò nịnh đầm sao mà giả dối, vô lý hết sức, tại sao các bà cứ thích khen để chúng tôi phải biến thành những tên nói dối?  Mặc một cái áo sặc sỡ như người lên đồng, trông nhức cả mắt, thế mà vẫn phải khen rằng:
- Áo em đẹp lắm, nhìn vào anh thấy cả một mùa xuân!
Chải kiểu tóc gì bù xù trông giống cái bờm con sư tử, vẫn phải khen rằng:
-Tóc em như mây trời bay, bay vào lòng đời…
 
Ôi! thật tội nghiệp cho các bà, chỉ thích nghe những lời giả dối, chẳng có bà nào chịu khó phân tách xem những lời khen đó bao nhiêu phần trăm là sự thực? Thôi cũng được đi, khen để các bà vui lòng thì tội gì không khen, vì lời khen đâu có mất tiền mua.  Thế nhưng đi mua sắm với các bà thì thật là khổ, đàn ông chúng tôi phải ôm đồm đủ mọi thứ, kể cả việc mang, xách, khuân vác lẫn việc trả tiền, các bà đi người không, tay chân thừa thãi thế mà có cái cửa xe cũng phải đợi chồng mở dùm rồi mới chịu chui vô, thế có vô lý không? Chả trách người Mỹ đã xếp đặt thứ tự ưu tiên:
   -Thứ nhất đàn bà
   -Thứ nhì trẻ em
   -Thứ ba là chó
   -Thứ tư mới đến đàn ông
Ở nước Mỹ, đàn ông chúng tôi phải đứng sau chó, thật tội nghiệp. Than ôi! cái thời “ tam tòng tứ đức, phu xướng phụ tùy ” nay còn đâu?   
 
Muốn làm một người đàn ông ga lăng không dễ đâu nhé, trước hết phải học cái tính kiên nhẫn, không được tỏ ra sốt ruột, khi phải chờ người yêu trang điểm, không hiểu họ tô vẽ gì trên mặt mà lâu còn hơn hoạ sĩ sơn vẽ một bức tranh?  Xong mục trang điểm, còn đến mục làm tóc và chọn quần áo, nàng tần ngần đứng trước cái tủ đầy nhóc quần áo mà than rằng:
- Hết áo mặc rồi!
Vào tiệm ăn thì phải  kéo ghế cho nàng ngồi trước, rồi mình mới dám ngồi.  Hẹn hò, các nàng thường đến trễ cả mấy tiếng không sao, mình lỡ kẹt xe trễ độ nửa giờ là có chầu năn nỉ gãy lưỡi, ai bảo làm đàn ông là sướng?
   Lạ một điều là biết mình bị thiệt thòi, thế mà cái lũ đàn ông dại khờ vẫn cứ chạy theo người đẹp, cam tâm tình nguyện để cho các nàng bắt nạt, bởi vì không có các nàng thì cuộc đời còn chi là hương vị? Tôi nhớ hồi học lớp đệ nhị, thi lục cá nguyệt môn toán, thấy cô bạn ngồi kế bên mặt buồn rười rượi, loay hoay hết cắn bút lại thở dài thì biết ngay cô nàng tìm không ra đáp số, thế là tôi động lòng trắc ẩn, nổi máu yêng hùng, ném bài giải cho nàng chép.  Không may, bị thày giáo bắt được, thế là bị số không điểm thi, và phải đi   “công si ” ngày chủ nhật.  Kết quả là cuối học kỳ năm đó, học không dốt mà vẫn bị đội sổ, anh chàng hiệp sĩ mặt dài thuỗn, buồn tình ca bản “ ôi ta buồn ta đi lang thang bởi vì đâu? ” Dễ thương quá là tuổi hồng, thời học trò.
 
   Tuy nhiên không phải bọn trai mới lớn chúng tôi đứa nào cũng khờ khạo cả đâu, có khối đứa cũng khôn lanh ra trò, trong số này đáng kể phải là thằng Đức, bạn thân của tôi.  Tên này ngoài bộ mã đẹp trai, lại nổi tiếng hào hoa, ga lăng như tài tử xi nê, bạn gái quen thân hay sơ đều được hắn tặng những món quà sang trọng, chủ yếu là những bó hoa thật đẹp, thật đáng giá, các cô cảm động là cái chắc.  Giá hoa dạo đó rất đắt, bọn tôi lé mắt, phục hắn sát đất, tưởng đâu hắn phải là một công tử nhà giàu, con cái của ông to bà lớn nào đó, mới dám xài sang như thế.  Nào ngờ, điều tra ra mới biết cha hắn chỉ là một tiểu công chức, gia cảnh nhà hắn cũng thường thường bậc trung như chúng tôi vậy, còn hắn chỉ là học trò, chưa làm ra được đồng nào.  Có lần không ngăn được tò mò, tôi hỏi:
-Tiền ở đâu ra mà mày dám chơi ngông?
 
Hắn do dự một hồi, rồi làm thinh không chịu trả lời, tôi năn nỉ mãi, sau cùng hắn bắt tôi phải hứa “ sống để bụng, chết đem theo, không được hé môi cho bất cứ ai. ”  Điều kiện nào mà tôi chả chịu? sau khi nghe tôi thề bán mạng, hắn mới yên lòng, ghé tai tôi thì thầm tiết lộ bí mật:
- Tao đâu có mất tiền mua? có cả một kho hàng vô tận… 
- Nhà mày trồng hoa à? hay có cửa tiệm bán hoa?
- Làm gì có!
- Thế… hoa tặng người đẹp, mày lấy ở đâu ra?
Hắn tủm tỉm cười ruồi:
- Đừng hỏi nữa, cứ đi theo tao khắc biết!
Nó dắt tôi vào… nghĩa trang, nhìn quanh quẩn một hồi rồi mới bước tới trước một ngôi mộ xây cất có vẻ cầu kỳ, sang trọng, nó chắp hai tay lại khấn vái một cách rất thành khẩn:
- Kính chào ông bác không quen, cháu mạo muội xin ông bó hoa này, ông ở dưới đó chắc không cần tới hoa đâu, để lâu nó héo đi uổng lắm, cho cháu, cháu sẽ dùng được khối việc và cháu rất cám ơn ông.  Cầu chúc cho ông được thảnh thơi an nghỉ.
Nó vái vái thêm mấy cái nữa, rồi thản nhiên cầm lấy bó hoa rất đẹp đem đi, nghĩa trang nhà giàu có khác, toàn là những loại hoa hiếm, quí. Tôi há hốc miệng, không tin những gì mình vừa trông thấy, thật khó mà tưởng tượng được ở đâu ra hắn lại có cái sáng kiến rùng rợn đó?  Lúc ra về tôi mỉm cười nghĩ thầm, không biết những người đẹp của hắn có còn cảm thấy romantic nữa không, nếu biết rằng những bó hoa rất đẹp kia - được hắn đem về lộng giấy bóng kính và cột nơ rất mỹ thuật - được lấy trộm từ nghĩa địa? Thằng bạn ma lanh không hiểu về sau có tán được người đẹp hay không? Nhưng tôi thì rút ra được một bài học: các cô có bạn trai còn là học trò, mà lại muốn lãng mạn như trong xi nê, có chàng quì gối dâng hoa, xin hãy coi chừng có ngày bị lạnh xương sống!
      
 
  Giữ lời hứa với Đức, tôi tuyệt đối giữ kín bí mật của hắn cho tới giờ này, nghĩa là hơn bốn mươi năm sau.  Bây giờ đầu đã hai thứ tóc, đã qua rồi cái thời cua đào tán gái, có tiết lộ ra hắn cũng chẳng cần, phải không Đức?  Ôi! kể làm sao hết những nghịch ngợm dễ thương của thời học trò, những ngày xưa thân ái đó, đã lưu lại trong ký ức tôi nhiều kỷ niệm khó quên, cái dĩ vãng dấu yêu đó, mỗi khi gợi lại đều làm tôi cảm động.
 
 Thuở đó tôi chỉ biết si chứ chưa biết yêu, si thì tôi đã si nhiều người, nhưng yêu thì chỉ yêu có một người thôi, người ấy chính là em.
 Tôi gặp em trong phòng triển lãm tranh của hoạ sĩ Đức Tuấn, ngày đầu khai mạc nên đông lắm, người ra vô tấp nập.  Em tới trễ, khi em bước vào, căn phòng như sáng rực lên, tà áo xanh và khuôn mặt ngây thơ, xinh đẹp của em làm tôi bị hớp hồn ngay tức khắc.  Dạo đó em mới mười sáu tuổi thôi, cái tuổi đẹp nhất của đời người. Vô tình em đứng ngay trước mặt tôi, tôi hỏi chuyện làm quen:
- Thưa cô, cô đi xem tranh à?  Phòng đông quá, trời ơi là chen…
Em đáp:
- Vâng, đông quá!
 
Vô tình lời đối thoại của em và tôi đều gần giống như trong bài thơ Đi Chùa Hương, cả hai cùng bật cười lên một lúc.  Tôi tán:
- Trông cô hơi quen quen, hình như có gặp ở đâu rồi?
Em tròn cặp mắt nai tơ, ngước lên chờ đợi… Tôi vờ suy nghĩ, rồi à lên một tiếng:
- Phải rồi, gặp ở cổng trường Trưng Vương! tôi đi đón em tôi…
 
Em lắc đầu:
- Em đâu có học Trưng Vương.
- Tôi nhớ lộn, trường Gia Long?
 
Vẫn lắc đầu.
- Trường Cô Giang? Hưng Đạo? Lê Văn Duyệt? Huỳnh Khương Ninh? Marie Curie? Lê Bảo Tịnh?
 
Em cười tủm tỉm:
- Anh có nhiều em gái quá nhỉ? hay anh là thanh tra học chính mà sao trường nào anh cũng tới?
 
Câu hỏi sao mà ác, còn nhỏ mà đã biết kê tủ đứng, tôi còn đang lúng túng, thì em đã tiếp tục:
- Thế anh đã tới Cà Mau chưa?
 
Mắt tôi sáng lên:
- Vậy ra cô là học trò trường Cà Mau?
 
Em mỉm cười, đôi má núm đồng tiền rất xinh:
- Không phải, em chỉ nói đùa thôi.
- Thế cô học trường nào?
- Để cho anh đoán!
Nói xong em bỏ ra về, để tôi ngẩn ngơ.  Người đâu mà ác gớm! làm tôi phải mất mấy tuần mới tìm ra chỗ ở của em.  Đừng hỏi bằng cách nào tôi tìm ra được? khi người đàn ông đi tìm nửa mảnh kia của mình, thì có ngại gì khó khăn?
 
 
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì với nhau
 
Mới gặp một lần mà đã tương tư, những đêm không ngủ, những chiều lang thang trên hè phố… nhìn đâu cũng thấy bóng hình em. Tôi đến tìm em nơi trường em đang ở nội trú, trường Regina Pacis, một trường nữ, dòng Công giáo, kỷ luật rất nghiêm minh.  Tôi vẫn chưa được biết tên em, nhưng mặc kệ, tới đâu hay tới đó, tôi liều rồi…
- Cậu đi thăm ai? Bà sơ hỏi.
- Em tôi!
- Cô ấy tên gì?
 
Tôi lúng túng, may sao trời xui đất khiến, vừa lúc đó thoáng thấy bóng em đang bước trên hành lang, tôi mừng rỡ kêu lên:
- Nó kia kìa! cô học trò mặc áo đầm trắng đang bước lên thang lầu đó, chắc nó chưa trông thấy tôi.
- À con bé Thiên Nhiên đó hả? Thôi được rồi, cậu ngồi chờ để tôi đi gọi nó.
 
Tôi ngồi xuống mà tim đập rộn ràng. Thiên Nhiên! tôi biết tên em rồi nhé? bí mật mãi, tên em đẹp lắm, dễ thương lắm, đẹp và dễ thương như con người của em vậy.  Không hiểu sao em có một sức thu hút lạ lùng khiến tôi mới gặp một lần mà đã tương tư, còn em, không biết em có còn nhớ cái lần gặp gỡ định mệnh đó không? hay đã quên rồi, bởi vì em chỉ coi tôi như một bóng người qua đường?
 
Tôi hồi hộp vô cùng, mỗi phút qua đi lâu như một thế kỷ, tôi sốt ruột nhìn đồng hồ, đã hơn nửa giờ rồi, sao lâu quá, hay là em không muốn gặp tôi?  Phòng đợi, khách khứa ra vô tấp nập, một cô gái ngồi gần tôi nãy giờ vừa tiễn người nhà ra cửa, quay vào, cô ta dừng chân ngay trước chỗ tôi đang ngồi, nheo mắt một cách khôi hài:
- Có thật anh là anh của Thiên Nhiên không đấy?
- Tại sao cô lại hỏi tôi như thế?
- Tại vì… Cô ta mỉm cười, tôi chính là em gái của Thiên Nhiên đây!
 
Tôi giật mình ngồi thẳng lên, mặt đỏ bừng bối rối, mắc cở như một tên đang ăn vụng bị bắt quả tang, tôi chỉ muốn độn thổ.  Nhưng khi ngẩng lên bắt chợt nụ cười ma mãnh của cô nàng, tôi thở phào:
- Cô đừng có rỡn!
Cô ta vẫn chưa buông tha:
- Ô hay, anh nói thì tôi tin, còn tôi nói thì anh bảo là rỡn?  Ở đời có chuyện lạ chưa? anh em một nhà mà không nhận ra nhau? 
 
Thấy mặt tôi thộn ra, khờ khạo quê một cục, cô ta thương hại:
- Nói đùa thôi, tôi là bạn thân của Thiên Nhiên cả mấy năm nay, tôi biết nó làm gì có anh, chỉ có hai em gái và một đứa em trai còn nhỏ.  Này, thú thật đi! có phải anh si tình nó không? hối lộ cái gì, tôi sẽ làm mai cho. 
 
Tôi cười ngượng nghịu:
- Tôi nghĩ chẳng cần đâu, chịu các cô là tinh quái.
Tới đây thì có tiếng chân đi nhẹ nhàng trên hành lang, rồi cửa bật mở và hai người xuất hiện cùng một lúc: bà sơ giám thị và Thiên Nhiên!
 
Tôi đứng bật dậy, trong khi bà giám thị quay sang Thiên Nhiên:
- Cậu ấy chờ đã khá lâu rồi đấy!
Tôi nhìn chăm chú, em đã thay y phục khác, quần jean trắng, áo pull bỏ ngoài màu vàng nhạt, tóc em mượt mà buông xõa bờ vai, ôm khuôn mặt trái soan trắng mịn, em xinh như một nụ hồng.  Em nhìn tôi với một vẻ láu lỉnh, rồi rất tự nhiên, em reo lên:
 
- Ô kìa anh Ba ( em cũng chưa biết tên tôi ) anh tới hồi nào?  Hai bác vẫn khỏe cả chứ? Bữa nay ba má em bận, không đến đón em được à?
Em hỏi dồn dập để che dấu bối rối, hỏi mà cũng chẳng cần nghe trả lời, lúc đó chắc em cũng hồi hộp lắm.  Hỏi xong, em quay sang bà giám thị, ngập ngừng nói dối:
- Thưa sơ! đây là người anh con bác ruột của em.
- Cậu đến thăm thôi, hay là..?
- Dạ thưa sơ, tôi vội vã nói, ba má của Thiên Nhiên bận nên nhờ tôi đến xin phép sơ để đưa Thiên Nhiên đi phố một lúc.
- Được, tôi cho phép, nhưng có đi đâu thì phải về sớm trước 8 giờ tối.
- Dạ!
 
Bà sơ giám thị vừa đi khỏi, tôi nhìn em đắm đuối, em lườm tôi bằng con mắt có đuôi:
- Sao liều thế?
- Không liều sao gặp được em? người đâu mà ác gớm!
Em cười, cặp mắt long lanh và đôi môi mọng, xinh quá sức:
- Em đâu có ác, không thấy là hồi nãy em đã vì anh mà nói dối ma soeur đó sao? Em chưa nói dối bao giờ…
Lòng tôi như nở hoa, thì ra em đâu có vô tình, cô bé trông tẩm ngẩm, tầm ngầm mà tình tứ ra phết.  Tôi cười thật rạng rỡ:
- Cám ơn em, thế là anh đã được đền bù.
Rất trân trọng và dịu dàng, tôi nắm lấy tay em đưa ra khỏi cổng trường, thế là bắt đầu một cuộc tình…
 
Năm năm sau, cô bé lần đầu biết nói dối đó trở thành vợ tôi.
Trước đám cưới một hôm, tôi cùng nàng đi ký giấy hôn thú ở Toà Thị Chính.  Ra về, tên bạn thân nhất của tôi đi theo để làm nhân chứng, đã ghé vào tận mặt tôi, cười chế diễu:
- Mày khôn ba mươi năm, chỉ dại có một phút thôi, đó là cái phút vừa rồi.  Tại sao mày lại ký tên vào tờ giấy đồng ý để mất tự do, cam tâm tình nguyện làm người tù chung thân của bà ấy?
 
 Tôi chỉ cười cười, không đáp, rồi nó sẽ hiểu khi đến luợt nó, đố tránh khỏi, bởi vì có ai mà chẳng phải qua cầu?  Nói một cách công bằng, ở đời cái gì cũng có vay có trả, mất cái này thì sẽ được cái khác bù lại, mảnh giấy hôn thú không đơn thuần chỉ là bản án tù chung thân, mà còn là giấy phép để mở cổng thiên đàng.  Sau đám cưới, chúng tôi có hai tuần trăng mật thần tiên ở thành phố Đà Lạt mộng mơ, sau đó trở về tổ ấm riêng, chúng tôi đã sống những ngày thật hạnh phúc. 
 
 
   Bốn đứa con theo nhau ra chào đời: hai trai, hai gái đều thông minh, ngoan ngoãn và xinh đẹp.  Căn nhà ngăn nắp, sạch sẽ lúc nào cũng rộn ràng những tiếng nói cười vui vẻ, căn bếp ấm cúng với những bữa ăn ngon nàng nấu cho chồng con, quanh năm bốn mùa chúng ta sống thật hạnh phúc.
   Thời gian trôi, theo với năm tháng, hai vợ chồng cùng già đi, em bây giờ không còn là một cô bé đỏm đáng ăn diện theo đúng mốt thời trang, người em hao gầy vì thức đêm những năm tháng dài em nuôi con bằng sữa mẹ, em không có thì giờ để đến mỹ viện chải tóc, làm đẹp vì thì giờ của em là để săn sóc chồng con.  Nhưng không phải vì thế mà em kém đẹp, dưới mắt tôi, em còn đẹp hơn xưa, vẻ đẹp cao quí của người vợ hiền. Tôi bây giờ cũng thay đổi nhiều, không còn là một chàng trai trẻ trung, hào hoa hay nịnh đầm như thuở mấy chục năm về trước, lời nói đôi khi gắt gỏng, mong em hiểu cho là vì công việc ở sở quá căng thẳng.  Cũng có đôi lúc tôi lại hay bay bướm, nhưng đó là bản tính tự nhiên của người đàn ông, tôi chỉ nói lăng nhăng cho vui, chứ chưa bao giờ phản bội em cả.
- Em đừng giận, anh thề là không có tình ý với ai khác, anh mà nói dối thì…
- Thôi đừng thề.
- Thế em có tin anh không?
Em lắc đầu:
- Những kẻ làm quấy đều sẵn sàng thề là mình vô tội, em đâu có ngu gì mà tin?
Nói thế, nhưng em vẫn vui vẻ, làm như đó chỉ là chuyện đùa.  Em khôn lắm, chính sự dịu dàng và đức bao dung của em làm tôi cảm động, và tôi biết là mình đang có trong tay một viên ngọc báu, nên tôi đã hết sức cưng quí, nâng niu, giữ gìn...
  
Thời gian vẫn trôi, các con đã đỗ đạt thành tài, và có gia đình riêng cả.  Ngoảnh đi, ngoảnh lại, chúng ta đã già, răng chưa long, nhưng đầu đã hai thứ tóc, tôi ngoài bảy mươi còn em cũng hơn sáu chục.  Chúng ta đang ở vào mùa thu của cuộc đời rồi, nhưng mùa thu vẫn còn đẹp lắm, phải không em? Thời gian đâu có ảnh hưởng đến tình yêu của chúng mình, tôi chợt có ý nghĩ ngộ nghĩnh, so sánh em 16 tuổi khi xưa và em 61 tuổi bây giờ, cũng không có gì khác biệt cả, bởi vì tình yêu tôi dành cho em lúc nào cũng như thuở ban đầu, không bao giờ thay đổi.  Đối với tôi, dù ở tuổi nào, em cũng vẫn là một người tình say đắm, em lúc nào cũng chiếm một địa vị độc tôn trong tim tôi.
  
Theo với tháng năm, chúng ta cùng già đi, nhưng vợ chồng lấy nhau càng lâu thì tình càng nặng, nghĩa cũng thêm sâu.  Những buổi sáng êm đềm, cùng ngồi uống trà bên nhau, chúng ta mắt vẫn nhìn mắt, tay vẫn nắm tay. Mắt nhìn không còn đắm đuối, nhưng chan chứa thương yêu ân tình, và tay vẫn nắm tay khắng khít, chúng ta sung sướng cảm thấy sự hiện diện của người nọ đối với người kia là cần thiết, là quí báu.  Xin cám ơn Thượng đế đã cho chúng ta còn đủ cả đôi ở cái tuổi này.
 
Thiên Nhiên ơi!
Hôm nay là kỷ niệm bốn mươi năm ngày cưới của vợ chồng mình, anh muốn nói với em tất cả những cảm nghĩ của anh, sau bốn mươi năm cùng em sánh vai đi chung trên con đường đời.  Bốn mươi năm qua nhanh như một giấc mơ, chúng ta đã có với nhau bao nhiêu kỷ niệm vui cũng như buồn, kỷ niệm nào nhắc đến cũng làm anh cảm động…..  
 
 
 
   Trải qua bao nhiêu thăng trầm, em lúc nào cũng sát cánh bên anh, nâng đỡ, an ủi, chia xẻ… và chúng ta đã dìu dắt nhau vượt qua bao nhiêu chông gai, sóng gió.  Bên em, anh luôn luôn có cảm giác êm đềm, yên ổn và sung sướng, anh cảm nhận được tình yêu sâu đậm em dành cho anh, những nhọc nhằn, hy sinh em đã chịu, và những ngọt bùi em đã cùng anh chia xẻ. Tuy rằng cuộc sống cũng như thời tiết, có những lúc mưa thuận gió hòa, cũng có những lúc phong ba bão táp, nhưng nhờ vào tình yêu chân thành, cùng với những quyết tâm cố gắng, chúng ta đã vượt qua tất cả, và con thuyền hạnh phúc vẫn vững vàng, êm ái suôi dòng.  Hôm nay ngồi nhớ lại quá khứ, quãng đời bốn mươi năm chúng ta đã trải qua bên nhau, anh không khỏi cảm động.  Xin cám ơn em đã cho anh hạnh phúc mật ngọt của tình yêu lứa đôi, xin cám ơn Thượng Đế, anh đã có em là người tình trăm năm.
 
Truyện của Phương Lan
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22182
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 28/Jun/2021 lúc 9:49am

  CHỊ ĐÃ LẦM ĐƯA EM SANG ĐÂY    <<<<<

 của Thủy Lâm Sinh, diễn đọc Nam Phong&Phượng Dung

CHI%20DA%20LAM%20DUA%20EM%20SANG%20DAY%20cua%20Thuy%20Lam%20Sinh,%20dien%20doc%20Nam%20Phong&amp;Phuong%20Dung%20%20-%20YouTube



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 28/Jun/2021 lúc 9:52am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22182
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 29/Jun/2021 lúc 11:26am

Nhà có hoa Anh Đào

Cherry%20Blossom%20Bee%20Spring%20Japanese%20-%20Free%20photo%20on%20Pixabay


Thế là tôi xin việc làm thêm, cố gắng dành dụm một số tiền nhỏ đủ để đặt cọc thuê được một căn nhà. Nhà mới tuy bé nhỏ nhưng vẫn có đủ sân trước, vườn sau, nằm ở khu an ninh và toàn người láng giềng da trắng đàng hoàng sạch sẽ. Đã thế, chúng tôi còn có sẵn cả cây chanh và cây hoa anh đào nữa.

 

Khi mở cửa bước ra sân sau, cả hai bố con tôi đều đứng sững, mở lớn mắt nhìn.


– Có cây hoa đào con ơi! Bố tôi kêu khẽ ngạc nhiên.


– Dạ, hoa đào.


Tôi đáp nhỏ rồi đứng lặng ngắm bầy ong bé tí đang lượn quanh những bông hoa vừa hé nở. Dạo ấy, khoảng cuối tháng Hai, mận đào ở Mỹ đang độ khai hoa. Những cánh hoa hồng thắm, mong manh trong nắng sớm gây trong tôi một niềm xúc cảm êm đềm và nhẹ nhàng nhưng sâu đậm. Lâu lắm, tôi mới lại nhìn thấy hoa đào.


Sử%20quân%20tử%20Loài%20dây%20leo%20tô%20điểm%20cho%20tường%20nhà%20thêm%20rực%20rỡ

 

Trí tưởng của tôi bỗng quay nhanh về một thành phố cũ, nơi mà tôi đã lớn lên và đã ướp đẫm tuổi thơ của mình bằng hàng trăm loại hương hoa: hoa hồng, hoa ngũ sắc, hoa rẽ quạt, hoa bìm bìm, hoa dạ lý, hoa mận…; và tất nhiên là phải có hoa đào. Nói một cách hơi quá ướt át, người ta vẫn gọi đó là “xứ hoa đào” mà.


Bạn%20có%20biết%20%29%20Hoa%20Dã%20Quỳ%20-%20Đặc%20điểm%20và%20ý%20nghĩa%20Hoa%20Dã%20Quỳ


Tôi thấy rõ ràng là mình đang lơn tơn, hớn hở trên đường đến trường vào một buổi sáng tinh mơ. Con đường Thủ Khoa Huân nhỏ hẹp, thoai thoải dốc, cần cận những viên đá bạc đầu dưới mỗi bước chân đi. Hai bên đường, chen lẫn giữa những bụi hoa quỳ man dại, là những cành mai mềm mại ẻo lả vươn cao – lấm tấm điểm những cánh hoa còn ướt đẫm sương đêm.




Mai%20vàng%20Bình%20Định%20bung%20nở%20rực%20rỡ,%20nhuộm%20vàng%20góc%20phố%20Hà%20Nội%20|%20Báo%20Dân%20trí


Cùng lúc, bố tôi (chắc) cũng đang đi lại trên một con đường nào đó của riêng ông. Rất có thể đó là một con đường rừng rực rỡ mai vàng – giữa vùng biên giới Hoa Việt – khi mà ông chưa lập gia đình, và vào lúc mà chuyện đánh đuổi thực dân còn là điều làm say lòng cả một thế hệ người.


 

Mẹ tôi cũng kêu lên thích thú:


– Có cả cây hoa đào và cây chanh nữa hả con!


– Vâng…

 

Tôi nói “vâng” lí nhí mà lòng thì sung sướng hãnh diện, như thể chính mình là kẻ đã gieo trồng vun xới hai cây đào và cây chanh đó vậy. Sự thực, trước đó một tuần, khi đi xem nhà vào ban đêm, tôi không hề biết rằng vườn sau có cây trái gì cả. Tìm được một căn nhà ở khu yên tĩnh, giá thuê vừa phải, và người ta không để ý đến sự dị biệt màu da hay màu tóc đã đủ làm tôi mừng quýnh đi rồi.


BM


Bữa cơm đầu tiên nơi căn nhà mới chúng tôi ăn với thịt gà luộc chấm muối tiêu và lá chanh thái chỉ. Mẹ tôi xuýt xoa khen ngon và quên bẵng đi cái tội “mềm nhũn” của những con gà Mỹ.


Như thường lệ, bố tôi vẫn giữ im lặng nhưng chỉ cần nhìn ánh mắt của ông là tôi đã nhận thấy có sự hài lòng. Cả ngày hôm ấy, và nhiều ngày tháng kế tiếp nữa, chúng tôi đều rất bận và vui – sự vui thích mà đã có lúc tôi ngỡ rằng sẽ không bao giờ còn tìm lại được trên nét mặt của bố mẹ già nữa.


Bảo%20lãnh%20con%20cái%20sang%20Mỹ%20định%20cư


Trước đó một năm, cũng đã có lúc gia đình tôi sống rất an vui. Đó là thời gian tôi vừa đón bố mẹ từ quê nhà sang, theo chương trình đoàn tụ gia đình. Nhưng rồi sau đó không lâu là những ngày tháng buồn bã, tẻ nhạt khiến tôi vô cùng bối rối và khổ sở.


Nhà%20tù%20số%204%20Phan%20Đăng%20Lưu,%20Giáng%20Sinh%20đầu%20tiên%20trong%20tù


Vì không lường trước, và cũng vì sự giới hạn của tiền bạc, tôi đã “nhốt” bố mẹ già gần cả năm dài, sau bốn bức tường, trong một chung cư ở thành phố San Jose, California. Khi niềm vui đoàn tụ đã qua đi, và khi mà cả hai người đều bắt đầu có triệu chứng chết héo giữa đất lạ xứ người thì tôi đâm hoảng.


Pleiku:%20Nô%20nức%20lễ%20chùa%20đầu%20năm%20-%20Báo%20Gia%20Lai%20điện%20tử%20-%20Tin%20nhanh%20-%20Chính%20xác


Việc đầu tiên là tôi vội vàng đưa bố mẹ đi chùa. Trời Phật ơi, chùa ở Mỹ sao mà nhỏ xíu và vắng ngắt vậy nè. Vào ngày lễ lớn chùa có đông người thì bên ngoài không còn chỗ đậu xe, và bên trong thì không đủ chỗ ngồi.


– Sao chùa chiền ở đây giống y như nhà ở thế hả con?

 

Sự thực thì đó đúng là cái nhà chứ còn “giống như” gì nữa. Tôi không hiểu, và cũng không dám hỏi xem, căn nhà đó thuê hay mua trả góp. Và dù mua hay thuê, bằng cách nào mà vị sư trụ trì trả nổi một số tiền cho căn nhà bốn phòng – đối với riêng tôi – đúng là một điều “mầu nhiệm”.


Sau đó, tôi đưa bố mẹ đi phố Tàu, với lời giải thích ba hoa rằng “vào đây bố mẹ sẽ thấy thoải mái y như thể là mình đang đi trong Chợ Lớn ở Sài Gòn vậy.”


BM


Kể cả vào mùa Hè, thời tiết của thành phố San Francisco dường như vẫn cứ hơi quá lạnh đối với sức khỏe mong manh của bố mẹ tôi. Nhìn hai ông bà già co ro, ngơ ngác giữa những hè phố luôn luôn chen chúc người đi mà không dưng ruột tôi muốn… đứt.

 

Rõ ràng là bố mẹ tôi không thấy “thoải mái” một tí nào cả. Không bao lâu cả hai người đều than là nhức đầu và chóng mặt. Chính tôi, tôi cũng cảm thấy … y như vậy!


Vì thiếu đất nên Chinatown ở San Francisco chỉ có thể phát triển theo chiều cao. Cùng với cái lối kiến trúc dọc này là cái tính hay bày biện lộn xộn và hay chưng hoa kết đèn của người Trung Hoa khiến cho đôi mắt của du khách lạc vào khu phố của họ phải điều tiết quá nhiều nên ai cũng phải chóng mặt – kể cả những người họ Tưởng!

 

Nếu bố mẹ tôi biết được rằng trong một phạm vi chỉ có hai mươi bốn lốc đường mà chứa lúc nhúc đến bốn chục ngàn người, mật độ cao nhất thế giới, lúc nào cũng nói năng ồn ào xí xa xí xồ (cứ y như là họ đang cãi nhau vậy) thì hai người còn nhức đầu dữ nữa.



Golden%20Gate%20Bridge,%20San%20Francisco,%20California%20|%20Library%20of%20Congress



Chúng tôi vội vã chạy ra khỏi khu rừng người vô duyên đó. Loanh quanh một lát, tôi đưa bố mẹ đi khoe cầu treo Golden Gate, nơi mà vẫn theo lời tôi là “to và dài nhất hoàn cầu.”

 

Bố tôi nhìn cái cầu với đôi mắt lãnh đạm như thể là người ta nhìn thấy cây viết hay cục tẩy trên bàn. Mẹ tôi thì quan sát trầm ngâm một lúc rồi lẩm bẩm:




– Theo mẹ thì mình cứ xây độ một trăm cái cột chống cho nó an toàn, con ạ. Chả tội gì phải để nó chông chênh như thế.


– Vâng, mẹ dạy như thế là phải!

 

Tôi đáp cho qua chuyện rồi lặng lẽ đưa hai người trở lại xe. Trên đường về tôi câm như hến vì lòng buồn quá. Bố mẹ tôi thì mệt quá nên cũng chả ai nói năng gì.

 

Trong xe, tôi đã mua sẵn mấy băng nhạc cải lương. Điều đáng tiếc là tuy hai ông bà cũng thích nghe cổ nhạc miền Nam nhưng không thích lắm. Hai người có vẻ ưa nghe ngâm thơ giọng Bắc hơn.

 

Tôi lại chỉ tìm được mỗi một cuốn băng của Hồ Điệp thôi nên đã có lúc “đành” phải vào phòng, đóng kín cửa lại, vừa dạo đàn, vừa ngâm một số những bài thơ (do chính tôi sáng tác) để “cống hiến” cho bố mẹ già, vào lúc mà không khí gia đình buồn tẻ hay nhạt nhẽo.


Khi còn trẻ, mỗi lần uống rượu say, ở bất cứ nơi đâu, tôi cũng đều bắt mọi người “phải” im lặng nghe tôi ngâm thơ. Dù chưa bao giờ bị ai đánh vì chuyện này, không hiểu sao, từ khi qua tuổi bốn mươi tôi “bỗng” trở nên biết điều hơn. Tôi vẫn say rượu, thỉnh thoảng, nhưng cái vụ ngâm thơ hay ca hát thì bỏ hẳn.

 

Tuy thế, tôi vẫn không từ bỏ niềm tin vào “làn hơi thiên phú” của mình. Nếu nó không giúp tôi hái ra tiền thì ít nhất nó cũng đủ làm cho bố mẹ tôi vui. Tôi đã tưởng thế, vì cũng như bao nhiêu bà mẹ “điên khùng” khác trên cuộc đời này, mẹ tôi rất thích bất cứ cái gì do con mình làm ra. Bà cụ cứ nghe đi nghe lại mãi cuộn băng này.

 

Điều may mắn là bố tôi thì khác. Ông tỉnh táo và khách quan hơn. Đợi vào lúc mẹ tôi không có mặt, ông nhỏ nhẹ nói:


BM


– Con ngâm thơ bố thấy cũng hay, nhưng giá con đừng làm như vậy nữa thì …hay hơn nhiều.


Vậy là những cuộn băng “đặc biệt” ấy phải chìm vào quên lãng. Sau vụ đó, tôi chuyển sang băng nhựa video. Không phải là tôi làm hề rồi tự thu băng để chiếu lại cho bố mẹ già giải trí như Lão Lai bên Tàu đã làm hồi xưa đâu. Nói thiệt tình là tôi chơi không tới cỡ đó. Chỉ vì thấy truyện chưởng Kim Dung được quay thành phim video và chuyển âm sang tiếng Việt nên tôi vội vàng đi mua máy, mướn phim về để cả đống ở nhà.

 

Những tác giả ngoại quốc tôi ít khi để ý, trừ Kim Dung. Nếu không tình cờ gặp ông vào năm mười tuổi, có lẽ tôi (cũng) đã thi đậu vào đệ thất của một trường công lập ngay từ keo đầu rồi.


Tôi hy vọng không khí trong gia đình sẽ đỡ tẻ nhạt hơn nếu bố mẹ tôi chịu ngồi xem phim chưởng suốt ngày. Tối đến, tôi sẽ ba hoa liếng thoắng bàn thêm cảnh Tạ Tốn cướp đao trên Bàn Sơn Đảo. Nếu bố mẹ tôi chưa hiểu rõ về công phu Sư Tử Hống hay về sự khác biệt giữa phe Kiếm Tông và Khí Tông trong phái Hoa Sơn thì đúng là những cơ hội bằng vàng để tôi có dịp khoe khoang về kiến thức (trời biển) của mình.


Tiếc thay, bố mẹ tôi chả hề để mắt đến những cuộn phim thổ tả đó. Theo lời ông cụ thì “chúng nó nói một thứ tiếng Việt không phải của người Việt.” Còn mẹ tôi thì chỉ sau một show ác đấu ngắn ngủi của Kiều Phong, ở Tụ Hiền Trang, bà đã vội vã chạy ngay vào phòng đọc … kinh cầu siêu – từ trưa cho đến tối.




Dù vẫn bị mang tiếng là hơi chậm hiểu, cuối cùng, tôi cũng nhận ra được sự thiếu thốn, mất mát lớn lao trong đời sống của hai người – nơi xứ lạ quê người. Họ cần một miếng đất. Họ phải sống trên đất, gần đất và với đất. Trải thảm, tráng xi măng, lót nhựa đường để che hết đất là giết chết con người – Giời ạ.

 

Tôi nhớ đến hôm đi San Francisco về, mẹ tôi đã nhìn những đồi cỏ bát ngát và chép miệng:


– Đất bỏ hoang nhiều quá, hoài của thật con nhỉ ?

 

Tôi vội vàng cải chính:


– Đâu có, mẹ. Nông trại cả đấy chứ. Mẹ không thấy người ta nuôi bò và ngựa trên đó sao?


– Ừ nhỉ! Thế mà mẹ cứ tưởng… Sao người ta lắm đất thế mà mình …

 

Thế là tôi xin việc làm thêm, cố gắng dành dụm một số tiền nhỏ đủ để đặt cọc thuê được một căn nhà. Nhà mới tuy bé nhỏ nhưng vẫn có đủ sân trước, vườn sau, nằm ở khu an ninh và toàn người láng giềng da trắng đàng hoàng sạch sẽ. Đã thế, chúng tôi còn có sẵn cả cây chanh và cây hoa anh đào nữa.


BM


Thời gian sau đó, gia đình tôi sống rất yên vui và ổn thỏa. Vào mùa Hè, khi tôi từ sở làm về trời vẫn còn nắng chói chang. Mở cửa vào nhà xong là tôi bước ngay ra sau vườn. Bao giờ bố tôi cũng đang ngồi uống trà dưới gốc cây đào. Mẹ tôi thì lui hui bận rộn với những luống rau bé bỏng của bà. Gần như từ sáng sớm cho mãi đến khi chiều tối, lúc nào bố mẹ tôi cũng sống ở ngoài vườn.

 

Chúng tôi phân định mảnh đất tí teo vừa thuê được ra làm nhiều phần rất là rõ rệt. Bố tôi chăm sóc cây đào, cây chanh và giàn hoa giấy màu xác pháo ở cổng vào. Rẻo đất phía trước cũng là nơi để ông trồng hoa cúc.

 

Phần tôi, tôi chỉ xin một góc cỏn con, vô cùng khiêm tốn để gieo một ít poppy và trồng mấy cụm pensée thôi. Chả hiểu bố tôi có kỷ niệm gì với loài hoa cúc đại đóa hay không; riêng tôi, hai loài hoa vừa kể đều là những hoài niệm (thê thảm) về hai mối tình te tua và bầm dập của mình. Cho mãi đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu sao, “đường tình duyên” của mình lại ít may mắn thế.


BM


Nguyên cả mảnh vườn sau là giang sơn riêng của mẹ tôi, một giang sơn nhỏ hẹp nhưng vô cùng phong phú. Tôi cuốc một luống đất dài để mẹ trồng đủ loại rau thơm: rau húng quế, húng lủi, húng trắng, tía tô, kinh giới … Tất nhiên phải có hành, ngò với sả nữa.

 

Người ta không mấy khi có dịp làm được một món ăn với sả ở Hoa Kỳ. Nhưng có hề chi. Đâu ai cố gây và giữ cho được một bụi sả chỉ vì nó cần cho nồi cà ri hay cho món thịt bò kho. Điều cần là thỉnh thoảng, khi buồn, mình có thể ngắt một lá sả vò nhẹ trong tay, rồi đưa lên mũi để hít thở được hương vị của (cả) quê hương thoang thoảng, nhẹ nhàng trong đó.

 

Mẹ tôi còn thích có một hàng cải bẹ xanh, xanh thật là xanh, để vào những lúc nắng nhạt bà có dịp nhìn thấy vài đôi bướm trắng chờn vờn trên những luống hoa vàng. Luống đất còn lại chúng tôi gieo hạt rau dền, rau cúc, và rau muống – những thứ rau mà tôi biết rằng nếu thiếu đi thì cuộc đời mẹ tôi kể như là… vô nghĩa.

 

Phần đất sát với bờ rào của nhà bên cạnh thì tôi làm giàn cây để cho khổ qua, bầu, và mướp có chỗ leo. Tôi không ưa hoa bầu và hoa mướp đâu. Coi vô duyên thấy mẹ. Nhưng với giàn khổ qua thâm thấp, lá xanh sắc, nhỏ nhắn, xinh xắn, điểm những hoa vàng nhỏ li ti thì trông xinh và thương lắm.


BM

 

Tôi “dọa” mẹ rằng:


– Bầu ở Mỹ tốt lắm mẹ nhá. Quả nào cũng dài lê thê đến chấm đất luôn.


– Hay quá, hả con.


– Dạ.

 

Tôi “dạ” ngọt như đường cát, mát như đường phèn. Thế là bữa cơm tối nào gia đình tôi cũng có chuyện để nói. Và toàn những chuyện vui. Mẹ tôi có lúc xuýt xoa:


– Bắp của Mỹ lạ lắm con nhá. Mẹ mới gieo có hai hôm mà đã lên cao cả gang tay.


– Dạ.

 

Tôi lại “dạ” dịu dàng rồi vội vã thêm:


– Ở đây nó thế mẹ ạ.


– Hay nhỉ.

 

Tôi thấy hãnh diện cho giàn bầu và mấy cây bắp con con quá. Sau hơn một năm ở Mỹ, mọi thứ đều bị mẹ tôi coi thường, kể cả “cái cầu treo dài nhất thế giới”; chỉ riêng có hai giống thực vật vừa kể là nhận được hai câu khen tặng “hay quá” và “hay nhỉ” ngắn ngủi hiếm hoi thôi.


BM


Có hôm đang bữa cơm bỗng mẹ tôi buông đũa, hốt hoảng kêu:


– Thôi chết rồi, con ơi!


– Sao hả mẹ?


– Mẹ quên nói với con là mấy cây rau ngò om và rau răm vừa mới nhú lên thì đã bị ốc sên cắn mất mấy cái lá rồi.

 

Trời, chuyện nhân quyền bị vi phạm ở Tàu, ở Cuba, ở Bắc Hàn, ở Việt Nam hay ở đâu đó thì tôi đành bỏ qua; chứ còn cái thứ ốc sên mà cũng bày đặt hoành hành ngay sân sau nhà tôi thì đâu có được.

 

Tôi bỏ dở bữa cơm, hùng hổ lái xe ngay đến Kmart vác mấy hộp thuốc trừ sên về rải khắp vườn. Thỉnh thoảng, còn có dịp chứng tỏ cho mẹ thấy là mình chưa hoàn toàn vô dụng khiến tôi thấy … khỏe trong người hết sức.

 

Bố tôi vẫn thường giữ im lặng như bản tính xưa nay của ông; tuy thế, khi nhìn thấy rau thơm trồng ở ngoài vườn đã được ông cụ chiếu cố làm cho tôi thực sự thấy rất yên lòng.


BM


Tôi nhớ mãi ngày đầu tiên đưa bố mẹ đi ăn phở ở California. Ông cứ cầm cọng rau húng quế mãi trên tay, ngắm nghía thật lâu, vò nát một góc lá, đưa lên mũi ngửi rồi vứt xuống bàn. Tôi đã thấy nhiều người tỏ sự thất vọng và khó chịu vì mùi vị nhạt nhẽo của những cây rau thơm trồng ở Mỹ, nhưng chưa thấy ai biểu lộ một thái độ chán chường đến thế.

 

Chao ơi, ngay cái giây phút đó sao tôi khổ quá. Tôi chỉ muốn chết cho rồi. Tôi thương bố tôi đến chảy nước mắt và thấy ái ngại cho những cây rau thơm mọc ở xứ người. Lá của chúng cứ mỗi ngày một lớn, và hương thơm thì cứ theo thời gian mà nhạt dần đi. Cứ y như đám Việt kiều vậy, mỗi lúc một thêm béo tốt và … nhạt nhẽo!

 

Rau thơm trồng sau vườn cũng chả thơm gì mấy, nhưng khi nhìn thấy bố tôi nhẫn nại ngắt từng lá bỏ vào chén khiến tôi thấy vô cùng an ủi.

 

Tôi đã nghĩ là phải tìm cách mua cho được căn nhà đó, phải mua bằng được một nơi trú thật an ổn cho bố mẹ già. Chỉ cần cố gắng thêm một thời gian nữa, thời gian đủ cho chúng tôi để dành được một số tiền thế chân chừng mười phần trăm là có thể nói chuyện mua bán được rồi.


Tôi cũng đã mường tượng trước là sẽ trồng thêm cho mẹ một cây bơ, và mấy cây anh đào che kín vườn sau cho bố. Rồi ra, căn nhà của chúng tôi sẽ rực rỡ hoa đào – vào mỗi độ xuân về.

 

Cái mùa xuân rực rỡ đó, tiếc thay, đã không bao giờ đến. Biến cố đến trước mùa hoa đào nở. Có hôm, người quản lý khu phố điện thoại vào tận chỗ tôi làm việc, với giọng gắt gỏng:


– Ê, daddy của mày sao kỳ quá?


– Kỳ làm sao?


– Ổng cứ mặc đồ ngủ đi vòng vòng hoài hà. Hàng xóm họ nghi ông điên. Mà ổng có “bị sao” không vậy?

 

Tôi ngọng. Sự thực là bố tôi rất hay mặc một bộ quần áo pijama trắng, đội cái nón nỉ, khoác thêm chiếc áo bành, và cầm một cây gậy đi dạo mỗi sáng “cho nó khỏe người”.


Hình ảnh này đối với tôi bình thường và quen mắt quá. Tôi quen với nó ngay từ ngày bố tôi chưa phải cầm gậy, và thay vào đó là ông cầm bàn tay bé bỏng của tôi kìa. Tôi thấy như vậy “có sao” đâu?


BM


Sau đó đến chuyện của mẹ tôi. Bà cụ có hàm răng đen. Và cũng cứ theo lời thằng cha quản lý khu phố thì bà cụ hay cười, và nụ cười của bà “khiến nhiều người sợ hãi.”

 

Hắn làm tôi nghĩ ngay đến một bà cụ quê mùa, nhỏ bé loắt choắt, lúc nào cũng đội xùm xụp chiếc khăn mỏ quạ, thỉnh thoảng đi lại ngoài đường, gặp ai cũng nở một nụ cười … ngờ nghệch. Hình ảnh này đối với một số người Hoa Kỳ quả là “khó coi,” đó là chưa kể đến hàm răng đen.

 

Tôi không hề nghĩ đến điều đó vì – trong những năm dài xa cách – mỗi khi nhớ đến mẹ tôi chỉ thấy hình ảnh của bà khi mình còn bé tí, đi đâu cũng nắm chặt chéo áo của mẹ thôi. Thuở ấy, răng của mẹ tôi đen huyền, môi hồng cắn chỉ. Dù có thêm bao nhiêu ngàn năm nữa qua đi thì mẹ tôi vẫn cứ mãi mãi đẹp đẽ và xinh tươi như thế, chứ vĩnh viễn chả bao giờ có gì “khó coi” cả.

 

Cuối cùng là chuyện mấy con gà. Đàn gà mà mẹ tôi vô cùng hãnh diện vì lúc khởi đầu nuôi chỉ có mấy con thôi mà chả bao lâu nhà tôi đã biến thành “trại gia cầm.”

 

Hàng xóm than phiền là họ không ngủ được vì tiếng gà gáy sáng. Thế mà cả hai mẹ con tôi vẫn cứ ngỡ là mình đã mang lại cho cả khu phố cái không khí thôn dã, êm đềm nhờ vào tiếng gà gáy (trong trẻo) vào mỗi sáng.


BM


Tôi có thể thuyết phục bố tôi thôi đừng đi dạo với bộ quần áo ngủ, năn nỉ mẹ tôi đừng tiếp tục nuôi gà nhưng tôi không biết làm thế nào ngăn được ác cảm và thành kiến của người dân bản xứ. Và rồi chuyện phải đến, đã đến.

 

Người quản lý báo cho tôi biết họ cần lấy lại nhà để sửa. Tôi hiểu đó chỉ là một cái cớ nên năn nỉ xin ở lại và đề nghị trả tiền thêm. Tôi cũng cố giải thích cho hắn hiểu là bố mẹ tôi sẽ… chết nếu sống không có đất.

 

Cuối cùng hắn đành nói thực:


– Từ khi tụi mày dọn tới đây khu phố ngó bộ muốn xuống giá. Chủ nhà, chủ đất nó đâu muốn như vậy. Tao chỉ là thằng làm mướn cho tụi nó thôi. Nó biểu sao là tao làm vậy hà.

 

Thế là thôi. Thôi giã từ căn nhà có hoa anh đào, có hương hoa chanh thoang thoảng mỗi sáng, có bầy ong nhỏ loanh quanh bên giàn khổ qua xanh lá mỗi trưa, có đôi bướm trắng chờn vờn trên những luống cải lấm tấm điểm bông vàng vào những buổi chiều nhạt nắng. Người ta không thể mượn một mảnh đất để làm quê hương, dù chỉ là mượn tạm để cho bố mẹ già nương náu cho hết những ngày tàn còn lại.


BM


 

 

 

Tưởng Năng Tiến

Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 29/Jun/2021 lúc 12:16pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22182
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Jul/2021 lúc 12:24pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22182
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 03/Jul/2021 lúc 7:35am

Người phụ nữ nhân hậu

BM

Nếu bạn đã có lần viếng thăm thành phố New Orleans xinh đẹp, chắc hẳn sẽ có ai đó hướng dẫn bạn đến khu kinh doanh lâu đời của thành phố này, nơi tập trung các ngân hàng, cửa hiệu, khách sạn và sẽ chỉ cho bạn thấy một pho tượng được dựng vào năm 1884, đứng sừng sững tại quảng trường nhỏ ở đây.    

Pho tượng tạc hình một người phụ nữ đang ngồi trên cái ghế thấp, tay ôm một đứa bé đang ngả đầu vào người bà. Người phụ nữ không mấy xinh đẹp và trang phục của bà khá giản dị. Bà mang một đôi giày vải, mặc váy trơn, trên vai quàng một cái khăn và đội một cái mũ rộng vành trên đầu. Bà có dáng người tầm thước, trông hơi mập. Khuôn mặt bà có nét điển hình của người Ái Nhĩ Lan với chiếc cằm vuông vức. Ánh mắt của bà thật đặc biệt, chúng nhìn bạn một cách nồng ấm, chứa chan tình cảm tựa như ánh mắt của một người mẹ dành cho đứa con thân yêu của mình.

BM

Có một số điều đáng ngạc nhiên về bức tượng này. Đó là một trong những pho tượng đầu tiên ở Mỹ được tạc để tôn vinh một người phụ nữ. Ngay cả tại châu Âu cổ xưa, có rất ít tượng đài được xây dựng để tỏ lòng tôn vinh phụ nữ, và nếu có, hầu hết chúng đều dành cho những nữ hoàng hoặc công tướng quyền quý, những người rất xinh đẹp và rất sang trọng. Nhưng pho tượng ở New Orleans này thì hoàn toàn khác.    

Pho tượng này thuộc về bà Margaret Haughery, nhưng chẳng ai tại New Orleans nhớ rõ cái tên đó. Họ chỉ nhớ bà là Margaret. Và đây là câu chuyện về bà Margaret và lý do tại sao người ta phải dựng tượng để tưởng niệm bà.

BM

Margaret mồ côi cả cha lẫn mẹ khi còn rất nhỏ. Bà được một cặp vợ chồng trẻ nhận làm con nuôi. Họ cũng nghèo khó và tử tế như cha mẹ ruột của bà. Margaret sống với họ đến lúc trưởng thành, lập gia đình và sinh một con trai. Nhưng không may, chẳng bao lâu sau chồng, rồi con bà lần lượt qua đời, để lại mình Margaret quạnh hiu. Tuy nghèo nhưng Margaret khỏe mạnh và giỏi giang. Bà không để đau buồn quật ngã, bà vẫn tiếp tục làm việc.

Bà ủi quần áo cho một tiệm giặt ủi suốt ngày từ sáng sớm đến tối mịt. Và mỗi ngày, qua song cửa sổ nơi làm việc, bà trông thấy những đứa trẻ ở trại mồ côi gần đó làm việc và chơi đùa. Một thời gian sau, một trận đại dịch xuất hiện ở thành phố, cướp đi bao sinh mạng và làm cho số trẻ côi cút tăng lên. Trại mồ côi không đủ chỗ để chăm sóc các em, còn các em thì đang cần một chỗ dựa. Chắc hẳn không ai có thể nghĩ rằng một người phụ nữ nghèo hèn, sống bằng nghề giặt ủi, lại có thể trở thành một chỗ dựa thân ái mà các em bé bơ vơ đang cần đến. Nhưng Margaret đã nghĩ như vậy.    

Bà đến thẳng trại mồ côi, nói rằng bà sẽ trích một phần lương của mình tặng cho trại và ngoài ra bà còn tình nguyện sống bên cạnh để chăm sóc các em.
  
Bà cố gắng làm việc chăm chỉ, và chẳng mấy chốc, từ số tiền lương dành dụm được, bà mua một cặp bò và một chiếc xe chở hàng nhỏ. Mỗi sáng, bà đánh xe đi giao sữa cho khách hàng và không quên xin những thức ăn còn thừa từ các khách sạn và những nhà giàu có trong thành phố về cho lũ trẻ đói lòng trong trại mồ côi. Vào những lúc khó khăn nhất, nhiều khi chính số thức ăn thừa thãi đó đã giúp các em ấm bụng.

BM
  
Với khoản tiền bà Margaret kiếm được, mỗi tuần bà trích một phần mang đến tặng trại trẻ mồ côi. Sau vài năm số tiền ấy ngày một lớn. Do tính cẩn thận và giỏi giang, công việc kinh doanh của bà ngày thêm phát triển. Và dù vẫn cho đi, Margaret vẫn kiếm được nhiều tiền hơn và mua thêm nhiều bò. Cuối cùng, bằng số tiền tích lũy, bà xây một ngôi nhà dành cho trẻ em mồ côi.

Một thời gian sau, Margaret mua được một lò làm bánh mì, rồi bà chuyển sang nghề giao bánh mì. Và những đồng tiền kiếm được, bà vẫn đều đặn trích ra tặng cho trại mồ côi.

BM
  
Rồi Cuộc nội chiến ở Mỹ bùng nổ. Trong thời buổi loạn ly, bệnh tật và đầy sợ hãi ấy, Margaret vẫn đánh chiếc xe bò đi giao bánh mì. 

Bà luôn xoay xở để vừa giúp đỡ những người lính đói khát, vừa quan tâm đến những em bé mồ côi. Dầu vậy, khi chiến tranh kết thúc bà cũng có đủ tiền xây một lò bánh mì lớn. Đến lúc này, không ai trong thành phố không biết đến tên bà. Trẻ em trong khắp thành phố yêu quý bà. Các doanh nhân tự hào về bà. Những người nghèo đến gặp bà xin lời khuyên bảo. Bà thường ngồi trước cửa văn phòng mình, trong bộ váy bằng vải dày và với cái khăn nhỏ quàng trên cổ, tận tình đưa ra lời khuyên cho tất cả những ai đến nhờ bà giúp đỡ, bất kể họ giàu hay nghèo.    

BM

Cuộc sống dần trồi cho đến một ngày, bà Margaret lặng lẽ qua đời. Lúc đọc di chúc của bà, người ta mới biết ngoài tất cả những gì bà đã hiến tặng, bà vẫn còn dành dụm được 30.000 đô la - một số tiền không nhỏ - và bà muốn tặng hết số tiền này cho tất cả các trại mồ côi trong thành phố, không phân biệt là trại của người da trắng, da đen, người Do Thái, người theo đạo Thiên Chúa hay đạo Tin Lành. Margaret luôn nói "Tất cả đều là trẻ mồ côi như nhau". Và bạn biết không, những ý nguyện cao đẹp của bà đã được ký bằng một nét gạch ngang thay cho tên của bà, vì Margaret chưa bao giờ biết đọc hay biết viết!    

BM
  
Khi hay tin bà qua đời, người dân New Orleans đã truyền tụng về bà rằng "bà là mẹ của tất cả những người mồ côi mẹ, là bạn của những người không có bạn bè. Sự thông tuệ của bà không trường học nào có thể dạy được. Chúng ta sẽ mãi mãi không được quên bà ấy". Thế là họ tạc một bức tượng mang đậm những nét quen thuộc về bà đã để lại trong tâm trí mỗi người, lúc bà đang ngồi trước văn phòng riêng hoặc đánh chiếc xe bò đi chở hàng. Và ngày nay, pho tượng vẫn sừng sững ở đó, ngay giữa thành phố đông đúc người qua lại, thể hiện tấm lòng kính trọng của người dân New Orleans đối với người phụ nữ có trái tim vô cùng nhân hậu và cách sống giản dị tên là Margaret Haughery.

BM
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22182
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 05/Jul/2021 lúc 10:03am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22182
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 06/Jul/2021 lúc 11:32am

Câu Chuyện Cuộc Đời Tôi (Đằng Sau Mặt Trăng) 


Thế giới tuổi thơ ấu của tôi ở cố đô Huế là xóm Đường Đá, bên hông Toà Khâm Mạng Phủ Cam. Đây là khu điền trang của Ông Nội tôi, trải dài từ phía dưới Đồn Girard / Lăng Mả Tây cho đến gần bờ sông Bến Ngự. Dinh cơ chính là một  tòa lầu ba tầng trắng toát bề thế, kế bên có tòa nhà thư viện hai tầng, chứa đầy sách cổ Hán Nôm, nơi làm việc của ông nội. Xa xa, khu nhà đất dành cho ba măng tôi, vườn trước vườn sau đều thông sang vườn lớn.

Từ tuổi học vỡ lòng, biết trèo cây hái trái, khi chạy chơi trong khu vườn lớn của ông bà nội, tôi đều đi ngang qua khu mộ đại gia đình, trong đó có mộ phần của Ba tôi, nằm riêng một mình giữa tầng đất thứ hai. Tôi thường ngồi trên cột đá bên mộ, cố đọc những hàng chữ khắc trên tấm bia, nhưng hình như càng đọc càng không hiểu tại sao mình không bao giờ được thấy mặt ba. Cũng không hiểu tại sao Ông Bà Nội được các chú bác kêu là “Thầy, Mạ” mà anh chị em tôi lại kêu thầy mạ mình là “Ba, Măng”. Nhiều thắc mắc vẩn vơ đôi khi theo tôi vào giấc ngủ.

Trong nhà thời ấy có bộ ván kê sát bên cửa sổ, tôi được nằm giữa Măng và Chị Băng Tâm. Vào những đêm trăng, tôi nằm nghiêng hướng ra phía vườn, theo dõi mặt trăng khi sáng trong, khi lu mờ vì mây. Bóng cây bên ngoài song cửa có lúc bỗng thình lình xoay chuyển. Nhiều hình ảnh kỳ dị nhảy múa, chập chờn. Có chuyện gì vậy, đằng sau mặt trăng nằm nghiêng kia? Giống như đằng sau những bia mộ trong vườn, đó là những bí ẩn mà tôi không thể hiểu.
Từ ngày khôn lớn, vừa nghe chuyện nhà vừa học hỏi thêm, tôi dần dần biết thêm về thân thế gia tộc mình, hoàn cảnh đất nước loạn ly, và chuyện Ba tôi bị đột tử khi tôi còn nằm trong bụng mẹ.
Chỉ mới là biết thêm. Không phải là thấu hiểu.
Nhiều bí ẩn đằng sau mặt trăng vẫn còn bị khuất lấp.
 
I.
Theo phả tộc triều Nguyễn, tập gia phả phòng 15, Ông Sơ tôi là Hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Thanh, tự Gián Trạng, hiệu Quân Đình, tước Trấn Biên Quận Công, là con thứ 51 của Đức Thánh Tổ Minh Mạng và quí nhân Lê Thị Lộc. Ông Cố Nội tôi là công tử Nguyễn Phúc Hường Điệp (tức Vĩnh), từng là Tri Phủ huyện Phú Vang năm 1877, sau đó là Đại Sứ Chánh Tế, thay Vua cúng lạy lăng tẩm các tiên vương.
Ông Nội tôi là Hoàng thân Nguyễn Phúc Ưng Đằng, làm quan coi Ký Lục, cơ quan phiên dịch Hán – Nôm và Pháp ngữ của triều đình. Bà Nội tôi là em ruột của bà cố Ngô Đình Khả, mẹ của anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Khu đất của dòng họ Ngô Đình – nơi có phần mộ ông Ngô Đình Khả và người con lớn là ông Ngô Đình Khôi – nằm kế khu đất của Ông Nội tôi, chỉ cách một con đường nhỏ, cũng phía bên dưới Đồn Girard, và cách chùa Linh Quang khoảng 400 thước. Anh em nhà Ngô Đình kêu Bà Nội tôi bằng Dì, thường cho người đem sang quà biếu trong các dịp lễ tết.

Sang đời Ba tôi, Ông Nguyễn Phúc Bửu Tiếp, sinh năm 1904, được Ông Nội cho theo Tây học. Đầu thập niên hai mươi, khi ra Hà Nội học trường Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương (École Supérieure de Pédagogie), ông Tiếp có người bạn thân cùng lớp là Ông Đặng Thái Mai, sinh năm 1902, lớn hơn ông hai tuổi. Cả hai cùng tham gia các hoạt động sinh viên.

Tuy là trường Tây nhưng hội sinh viên tại đây tự xưng là “Hưng Nam Phục Việt,” hàm ý chống lại ách lệ thuộc người Pháp. Năm học cuối, ông Đặng Thái Mai chọn chuyên khoa văn chương. Ông Bửu Tiếp chọn ngành khoa học. Cả hai cùng tốt nghiệp năm 1926, sau đó cùng nhau về Huế làm giáo sư Quốc Học, giao tình ngày càng thân thiết hơn.

Huế đầu thế kỷ 20, và vụ án “Tân Việt Cách Mệnh Đảng”

Đầu thế kỷ 20, dù triều đình bất lực trước giặc Pháp xâm lược, nhưng tại kinh đô Huế cũng như khắp nơi, tinh thần quốc gia dân tộc vẫn mạnh mẽ chống lại ách lệ thuộc, phong trào Đông Du phục quốc do các bậc sĩ phu phát động được hưởng ứng rộng rãi. Sau vụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt cóc từ Thượng Hải mang về nước kết án chung thân, tình hình càng sôi sục.

Năm 1927, Huỳnh Thúc Kháng từ chức Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ để phản đối Pháp, cùng Đào Duy Anh về Huế mở báo Tiếng Dân, nhà xuất bản Quan Hải Tùng Thư, rồi thành lập Tân Việt Cách Mệnh Đảng, do Đào Duy Anh là Tổng Thư Ký Sáng Lập. Sẵn tinh thần “Hưng Nam Phục Việt” và là bạn nhà giáo đồng trang lứa, hai ông Đặng Thái Mai và Bửu Tiếp thường lui tới sinh hoạt với ông Đào Duy Anh.

Cùng năm 1927, trong số học trò Quốc Học tham gia bãi khóa có Võ Giáp, 16 tuổi, bị viên giám thị người Pháp đuổi học. Giáp được các ông thầy thu xếp đưa vào tập việc tại báo Tiếng Dân và Quan Hải Tùng Thư. Ngoài trụ sở tòa báo trên đường Đông Ba, căn nhà của ông bà Đặng Thái Mai tại Huế trở thành nơi tụ hội.

Sau khi đảng Tân Việt được thành lập, số người tụ hội lui tới ngày càng đông hơn, gồm cả các thầy giáo và học trò. Tổ chức “Học Sinh Đoàn” của Tân Việt Cách Mệnh Đảng, ngoài Võ Giáp, còn có thêm hai cô nữ sinh Đồng Khánh tham gia rải truyền đơn, là Huỳnh Thị Liễu, 14 tuổi, và Nguyễn Thị Quang Thái, 13 tuổi. Kiểu tụ họp “cách mệnh” tài tử này tất nhiên không thể qua mắt mật thám Pháp.

Tháng Bẩy 1929, Đào Duy Anh bị bắt, đảng Tân Việt tan hàng. Các thầy trò Quốc Học Đồng Khánh liên hệ lần lượt vào nhà lao Thừa Phủ. Mấy ông  thầy giáo Lê Viết Lượng, Đặng Thái Mai, Bửu Tiếp lãnh án tù ba năm, nhưng đám học trò vị thành niên được thả ra sớm. Huỳnh Thị Liễu về quê Đồng Hới ở với mẹ. Nguyễn thị Quang Thái và Võ Giáp cùng nhau ra Hà Nội.

Theo sử sách cộng sản được phổ biến trong bách khoa toàn thư Wickipedia,  Võ Giáp chính là tên khai sinh của  Võ Nguyên Giáp, sinh năm 1911. Người vợ đầu tiên của Giáp là Nguyễn thị Quang Thái, sinh năm 2015. Đảng Tân Việt được thành lập tại Huế  ngày 14 tháng 7 năm 1928. Vẫn theo Wickipedia, đảng Cộng Sản Đông Dương thì mãi tới tháng 3 năm 1930 mới được thành lập ở… Hồng Kông. Thêm mười năm sau, Võ Nguyên Giáp mới gia nhập đảng này. Đây cũng là lúc Nguyễn Ái Quốc đang là hội viên của “Việt Nam Đồng Minh Hội” ở Quảng Châu, do Nguyễn Hải Thần là chủ tịch sáng lập (Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh làm phó, được Quốc Dân Đảng Trung Hoa hỗ trợ). Năm 1941, chính hội này đề cử Nguyễn Ái Quốc về nước hoạt động.

Chỉ cần đối chiếu niên biểu các nhân vật – sự kiện trên đây, sẽ thấy mọi  phong trào yêu nước như Duy Tân, Phục Quốc  hoặc các đảng phái, từ Quốc Dân Đảng, Đại Việt, tới Tân Việt đều hoàn toàn xuất phát từ tinh thần quốc gia dân tộc. Ngay danh xưng “Tân Việt Cách Mệnh Đảng” (kị húy tên vua Minh Mạng) cũng cho thấy chất bảo hoàng phong kiến. Sau khi rã đám, các thành viên còn lại của Đảng Tân Việt đã thành lập “Liên Đoàn Quốc Gia”. Thời ấy chưa hề có đảng Cộng sản, mọi liên hệ kể công sau này chỉ là ăn có hoặc ăn cướp. Như họ đã cướp danh nghĩa Việt Minh (tên gọn của Việt Nam Đồng Minh Hội) và cướp công cuộc kháng chiến chống Pháp của cả dân tộc.
Sau khi ra tù, năm 1934, ông Đặng Thái Mai mang gia đình ra Bắc. Riêng ông Bửu Tiếp vào Nam, có thêm cô học trò Huỳnh thị Liễu trốn mẹ đi theo. Chàng là hoàng phái con quan mà đi tù, rồi tự ý thành hôn. Nàng – sinh tại Đồng Hới năm 1914, kém chàng 10 tuổi – bỏ học rồi bỏ nhà bỏ quê theo chàng. Đó là sơ lược thân thế về Ba và Măng tôi. Chuyện phiêu lưu ái tình cách mạng của họ, nhìn lại có vẻ giống tiểu thuyết tiền chiến như chàng Dũng trong Đôi Bạn của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam hay cô Loan trong trong Đoạn Tuyệt của Khái Hưng.

Tại Saigon, Ba tôi dạy Vật Lý và Hóa Học cho các trường tư thục. Năm anh chị của tôi đều ra đời ở Saigon. Mãi tới khi người Pháp hết quyền hành tại Huế, Ba tôi mới có thể công khai trở về. Ông nội tôi, tuy từng phải nói là không nhìn nhận đứa con ngỗ ngược tù tội, nhưng trong điền trang ở Phủ Cam, vẫn có phần đất dành riêng cho Ba tôi làm nhà, và Măng tôi vẫn được Ông Bà Nội nhìn nhận là con dâu chính thức.
Sau Cách Mạng tháng Tám 1945, vua Bảo Đại từ chức, trong Chính phủ Liên Hiệp tại Hà Nội, có Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ Tịch, Nguyễn Tường Tam làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Cụ Huỳnh Thúc Kháng làm Bộ Trưởng Nội Vụ, Giáo sư Đặng Thái Mai làm Bộ Trưởng Văn Hóa. Ông Bửu Tiếp được mời giữ chức vụ Giám Đốc Bình Dân Học Vụ ba tỉnh Bình Trị Thiên. Tuy chức Giám Đốc Học Vụ được chen thêm hai tiếng “bình dân” cho ra vẻ cách mạng, nhưng dân trong vùng Phủ Cam thời ấy vẫn gọi ba tôi là “Quan Đốc Tiếp.”
Ngày 24 tháng 7, 1946, sau khi người y tá vừa rút mũi kim chích thuốc khỏe ra khỏi mạch máu ở tay là Ba tôi đứng tim chết, khi Măng tôi vừa bước chân vào nhà.

Măng tôi kể là ngay khi ôm xác Ba trong tay, bà đã cảm thấy có điều gì bất thường. Ba tôi lúc đó đang khỏe mạnh, việc chích thuốc bổ chỉ là để gìn giữ sức lực. Người chích thuốc là một y tá bà con xa, và thường chích thuốc khỏe Huile de Camphre vào thịt mông Ba tôi. Tại sao lần này ông ta lại chích vào mạch máu? Vì đó chính là mũi thuốc được thi hành theo một “lệnh xử lý” – theo từ ngữ cộng sản, có nghĩa là “giải quyết hoặc thủ tiêu.” Chi tiết việc này được kể ở phần sau.
Vậy là Ba tôi bị đột tử khi mới 42 tuổi. Măng tôi trở thành góa phụ ở tuổi 32, với 5 đứa  con thơ, tuổi từ 10 đến 3 và một bào thai 4 tháng trong bụng. Là tôi, đứa con út không biết mặt cha.

Tang lễ ba tôi nghe nói được tổ chức rất lớn. Lễ di quan có đội quân danh dự của  “vệ quốc quân” dàn chào, hộ tống. Số người đưa linh cữu từ nhà thờ Chánh Tòa Phủ Cam về nghĩa trang đại gia đình dài cả cây số. Câu chuyện về đám tang sau này còn được thầy tôi ở trường Y Khoa Huế là Bác sĩ Nguyễn Văn Vĩnh nhắc đến mỗi khi tôi có dịp gặp ông. Ông nói đám tang Ông Bửu Tiếp là một biến cố lớn ở Huế năm 1946.

Thời cầm quyền của Việt Minh ở Huế không đầy năm. Quân Pháp trở lại. Lệnh  toàn quốc kháng chiến được công bố ngày 19 tháng 12, 1946. Măng tôi mang lũ con về vùng quê lánh nạn.

Ngày 30 tháng 12 năm 1946, tôi được sinh ra trong lúc đang chạy loạn tại Mỹ Chánh nên tên tôi là Chánh. Măng tôi kể là ngay sau khi sinh, Măng đang còn nằm nghỉ thì thấy bóng Ba hiện về và từ từ bước đến nơi tôi đang nằm, đưa tay vuốt vuốt đầu tôi rồi xoay lưng bước ra . 


II.

Trong những năm chiến tranh Pháp-Việt, măng tôi một mình tần tảo lo liệu nuôi đàn con 6 đứa.
Dù hoàn cảnh khó khăn, Măng tôi kể là bà vẫn hằng cầu nguyện đọc kinh, nương dựa vào đức tin công giáo, và rất may mắn nhận được sự giúp đỡ tinh thần từ các cha Dòng Thiên An và Dòng Chúa Cứu Thế tại Huế.

Năm 1954, đất nước bị chia đôi. Người Pháp ra đi. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu một vận hội mới tại miền Nam. Măng tôi chính thức được nhận vào làm cô giáo trong trường nữ trung học Đồng Khánh. Bà dạy môn Nữ Công Gia Chánh, cùng với cô Hoàng Kim Cúc. Sau đó, măng tôi được phép đem cả gia đình vào cư trú trong khu gia cư giáo chức ngay trong khuôn viên trường. Tất cả các anh chỉ em tôi đều được các cha dòng Thiên An lưu tâm trợ giúp cho cơ hội học hành.

Mấy năm sau, anh đầu của tôi là Vĩnh Toàn tốt nghiệp bác sĩ và bị động viên, chị thứ hai là Băng Tâm, tốt nghiệp dược sĩ và lấy chồng là bạn cùng lớp, ở luôn trong Saigon. Anh thứ ba là Vĩnh Anh được học bổng Plan Columbo du học tại Canada. Hai người chị sinh đôi, Liên Tâm và Mai Tâm thì một chị vào Saigon làm việc, một chị lên Đà Lạt học rồi lấy chồng là một Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân.

Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ năm 1963. Miền Bắc cộng sản công khai xâm chiếm miền Nam, chiến tranh lan rộng, người Mỹ. Tết Mậu Thân, trong khi học Y Khoa Huế năm thứ nhất, tôi tiếp tục ở với Măng tôi trong trong khu lầu ba trường Đồng Khánh. Chính từ đây tôi đã chứng kiến cảnh quân cộng sản nổ súng mở màn cuộc tàn sát tại Huế. Trong số hàng ngàn nạn nhân của cộng sản, có các vị Giáo Sư người Đức của trường Y Khoa Huế.

Sau Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, Măng tôi di chuyển vào Saigon và được anh đầu tôi mua cho căn nhà trong Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa. Qua năm 1973, tôi tốt nghiệp y khoa Huế và chọn về Quân Y Nhảy Dù.

Năm 1975, chị Băng Tâm và chị Mai Tâm, một trong hai chị sinh đôi của tôi, cùng gia đình của họ may mắn rời nước trong mấy ngày cuối cuộc chiến. Ngày 30 tháng Tư 1975, là y sĩ trưởng của một tiểu đoàn dù lãnh phần bảo vệ cầu Bình Triệu, tôi ở lại với đơn vị tới giờ chót. Sau lệnh buông súng rồi tan hàng, như trong cơn mê sảng, tôi tìm về được tới nhà vị hôn thê.

Ba ngày sau, một đám cưới đơn giản được cử hành tại nhà nguyện Dòng Chúa Cứu Thế. Sau đó, tôi đi “trình diện học tập”, để lại người vợ mới cưới sau khi mất nước, ở chung với Măng tôi và bà chị sinh đôi còn lại.

Lễ cưới chạy tang “mất nước”, được Cha Laroche của Dòng Chúa Cứu Thế chủ hôn (3.5.75)

Năm 1977, anh Vĩnh Anh, ông anh thứ ba, từ Canada về nước thăm gia đình, có vào thăm tôi trong trại tù cải tạo ở Trảng Táo. Trước đây, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ Canh Nông, vì chống chiến tranh Việt Nam, anh phải trốn và sống bất hợp pháp tại Canada một thời gian khá dài. Sau chuyến thăm này, Măng tôi mừng hết lớn khi được thư anh báo nay đã là “công dân Canada,” có nghĩa là không còn mơ về Việt Nam phục vụ đất nước.

Về anh Vĩnh Toàn, ông anh đầu của tôi, tuy hai anh em cùng ở trong nước nhưng vì hoàn cảnh, chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Tôi chỉ được biết, sau khi tốt nghiệp Bác sĩ, thời VNCH, anh từng là Trưởng Ty Y Tế Quảng Nam. Mùa xuân 1975, khi miền Trung thất thủ, anh đang là Giám Đốc Bệnh Viện Hội An. Sau đó, được chế độ mới thuyển chuyển về làm việc tại bệnh viện toàn khoa tại Đà Nẵng.  Mãi sau ngày đi tù cải tạo về, hai anh em mới gặp lại lần đầu, khi anh vào Saigon thăm măng tôi. Nghe anh nói đã quyết định tiếp tục sống trong nước, không đi đâu cả, tôi hiểu là anh em chúng tôi sẽ đường ai nấy đi.

Cũng sau khi từ nhà tù về nhà, tôi mới biết là trong thời gian tôi đi tù, có người quen xưa là “dì” Bích Hà, con gái đầu của “bác” Đặng Thái Mai, đồng thời là người vợ sau của ông Võ Nguyên Giáp, đến tận nhà thăm Măng tôi hai lần, do hỏi thăm địa chỉ từ ngoài trường Đồng Khánh.

Măng tôi cũng nói thêm, thời Ba và măng tôi lui tới với gia đình ông Đặng Thái Mai tại Huế trước ngày bị Pháp bắt, Bích Hà chỉ mới một hai tuổi, chưa kịp có thân tình riêng. Việc “Bà Đại Tướng” cất công tìm địa chỉ, tới tận nhà thăm hẳn là do hai ông Đặng Thái Mai và Võ Nguyên Giáp quyết định. Ngay trong lần gặp đầu, Măng tôi kể là bà có nói việc con mình là bác sĩ mà cũng bị bắt ở tù. Miền Nam ngày càng đói khổ, mà ngoài Bắc vô đây cái gì cũng tha ra ngoài đó. Khi chia tay, tưởng sẽ đi luôn. Không ngờ Bích Hà còn trở lại thăm lần thứ hai, và khi ra về, còn vui vẻ mang theo tất cả những sách quý bằng tiếng Pháp do Măng tôi tặng lại.
Có thể nhờ hai cuộc viếng thăm đặc biệt này mà các anh công an khu vực có phần nương tay với ngôi nhà của măng tôi trong cư xá Bắc Hải, khi đi tù về, tôi cũng không bị làm khó dễ.

Măng tôi còn nhắc tới câu chuyện một cặp vợ chồng mà gia đình hai bên từng quen biết trước đây ở Huế, là anh chị Phục và Vịnh Thủy, từng hoạt động với anh Vĩnh Anh tôi trong tổ chức “Trí thức Việt Kiều Yêu Nước” tại Montreal. Sau khi nghe tuyên truyền đất nước  đã hòa bình độc lập, anh chị đã hăng hái tiên phong về nước phục vụ sớm sủa, để rồi chỉ vài năm sau, phải âm thầm mang hai con nhỏ vượt biển trở lại Canada. Câu chuyện anh chị Phục – Vịnh Thủy liều chết để tìm lại tự do khiến tôi không còn chút do dự.
Khi vợ chồng tôi quyết định tìm đường ra đi, Măng tôi đã lặng lẽ góp phần.

Lần vượt biển đầu tiên thất bại. Tháng 6 năm 1978, vợ chồng tôi cùng cả nhóm vượt biển bị bắt tại Vũng Tàu đưa về trại giam Cần Giờ. Tôi bị chuyển trại về khám Chí Hòa, nhưng vợ tôi nhờ mang bầu sắp sinh nên được thả ra sớm.

Chính măng tôi đã lo liệu chăm sóc khi con gái chúng tôi được sinh ra. Tên khai sinh của cháu là Hoài Anh, tên ở nhà là Bồ Câu do bà Nội đặt. Lần đầu  thăm nuôi, vợ tôi đứng cách tôi khoảng 20 thước và đưa Bồ Câu lên cao cho tôi nhìn thấy con. Chỉ nhìn từ xa thôi. Phải gần một năm sau,  tôi mới có thể ôm con khi được thả ra khỏi khám Chí Hòa.

Măng tôi rất thương yêu cháu Bồ Câu, vì như lời bà nói, ngay khi còn là thai nhi, cháu đã cùng mẹ đi tù vượt biên. Khi cháu vào đời,  bố còn tiếp tục nằm trong khám Chí Hòa. Bà thường cầm tay, vuốt tay cháu và khen Bồ Câu có bàn tay rất đẹp, giống như bàn tay của người “chirurgien”. Bà còn nói, chắc con bé sau này sẽ thành một y sĩ giải phẫu như “thằng bố của nó.”

Saigon 1978, Mẹ con Bồ Câu. Khi cháu vào đời, ba còn trong tù.

III.

Ngọn lửa nến bé bỏng lung linh trên bánh sinh nhật. Cháu Bồ Câu đầy tuổi, tươi cười trong tay mẹ, như muốn nhoài cả người về phía ngọn lửa.
Ngay sau khi thổi nến, Bà nội và cả nhà bắt đầu phút cầu nguyện trang trọng. Tất cả đều căng thẳng trước những ngày sắp tới: Bà nội đã quyết định ở lại nhà chờ tin, nhưng Bồ Câu sẽ cùng cha mẹ và các dì và cậu bên mẹ đi vượt biển.

Tháng 9 năm 1979, ra đi lần thứ hai, suốt ba ngày ba đêm trên biển, Bồ Câu thật ngoan, ngồi yên trong vòng tay của mẹ, không la khóc hay trở chướng. Sau chuyến vượt thoát đầy hung hiểm, tránh được tàu hải tặc rượt bắt nhờ đêm tối, rồi thuyền bị chìm gần bờ biển Thái Lan, chúng tôi may mắn được cứu vớt. Trong 10 tháng tại trại tị nạn Liem Ngot, Thái Lan và trại Bataan, Phi Luật Tân, cháu Bồ Câu được thương yêu, vui vẻ ca hát mừng sinh nhật hai tuổi.
Nhờ sự bảo lãnh của chị tôi và anh rể, chúng tôi được chấp thuận cho định cư tại Hoa Kỳ. Chuyến bay tới Nam Cali đúng vào ngày kỵ giỗ của Ba tôi: 24 tháng 7, 1980.

Bắt đầu lại cuộc sống từ hai bàn tay trắng, nhưng với lòng hăng hái quyết chí và tự tin. Tin Ơn Trên phù hộ. Tin vào khả năng tự lập của mình. Tin Bồ Câu rồi đây sẽ đi học và hấp thụ một nền giáo dục tốt đẹp. Cả nhà đều cật lực làm việc. Hai chị lớn nhận hàng may tại nhà. Các cậu em, sau giờ đến trường, cùng xúm xít phụ xỏ chỉ, đơm khuy.

Phần tôi thì vừa lãnh phần việc đi nhận và giao hàng may, vừa đến lớp học về chuyên môn y khoa. Với vốn liếng chuyên môn hạn hẹp và lỗi thời, để có thể bắt kịp những tiến bộ y khoa tối tân của nước Mỹ, tôi hiểu mình phải thức khuya dậy sớm và tận lực học hỏi.

Đó là thời gian căn nhà thuê bé nhỏ tràn ngập hạnh phúc, bé Bồ Câu lăng xăng vui đùa trong nhà và ngoài sân, được cha mẹ, dì câu cưng chìu thương yêu. Rồi những thùng quà đầu tiên được gửi về bên nhà ở Saigon. Tiếng máy may điện chạy hầu như liên tục, hòa với tiếng cười đùa giữa cậu cháu, tiếng ê a tập đọc tập hát của Bồ Câu. Cháu mới 3 tuổi đã hát múa đúng điệu, theo chương trình giáo dục con nít Big Bird trên truyền hình.

Sau khi may mắn đậu liền cả hai chứng chỉ y khoa quan trọng gồm bằng FLEX và ECFMG, tôi tập trung lo gởi đơn xin học thêm đến các trung tâm Giáo Dục Y Khoa, chờ cơ hội trở lại nghề y sĩ. Đúng lúc ấy cả nhà còn có thêm tin vui, mẹ có bầu và Bồ Câu sẽ sớm có em bé.
Một buổi sáng cuối tháng 10, 1981, cha mẹ đem Bồ Câu đến bệnh viện South Coast Medical Center ở thành phố Laguna Beach cho Bác sĩ Nha Khoa bọc bảy cái răng bị siết trong cùng một lần. Bé vui vẻ nói bye bye bố mẹ khi theo y tá vào phòng mổ.
Trước khi nha sĩ bọc răng, phải gây mê toàn diện, thủ thuật sẽ mất khoảng một giờ rưỡi, chúng tôi được cho biết. Chờ quá hai giờ. Rồi ba giờ. Bốn giờ. Nôn nóng hỏi thăm, chỉ được bảo phải tiếp tục chờ.

Mãi xế chiều, một y tá đưa chúng tôi vào phòng hồi sinh cấp cứu. Bồ Câu nằm bất động trên giường, phủ chăn trắng. Không mở mắt, không hay biết. Bố mẹ sững sờ. Mới hồi sáng, bé tươi tỉnh, không một lo sợ, vẩy tay bye bye cha mẹ trước khi y tá đẩy xe vào phòng mổ, mà giờ đây như một xác không hồn. Y tá giải chỉ giải thích ngắn gọn là em bé bị phản ứng thuốc nên tạm thời hôn mê.

Sự thật không như lời người y tá giải thích. Qua thủ tục pháp lý, chúng tôi nhận được phó bản của toàn bộ hồ sơ chữa trị. Riêng hồ sơ liên hệ đến giải phẫu và gây mê cho thấy chính bác sĩ gây mê đã gây ra tai họa. Thay vì phải đặt ống bơm dưỡng khí vào phổi, ông ta đưa ống đó vào bao tử, khiến bé hoàn toàn không nhận được dưỡng khí để thở trong 10 phút, gần như bị chết ngộp.

Hồi tưởng lại buổi sáng định mệnh ấy, khi ngồi trong phòng chờ, tôi nghe tiếng loa loan báo “code blue” nhiều lần, cứ ngỡ là cho ai, sau này mới biết lệnh cấp cứu đó chính là cho con mình. Đau đớn thay. Nhờ hô hấp nhân tạo, Bồ Câu sống lại, được nuôi qua ống chuyền sữa ensure từ mũi xuống bao tử, nhưng não bộ bị tổn thương trầm trọng.

Sau gần 2 tháng chữa trị tại Children Hospital of Orange County với cha mẹ túc trực cạnh giường ngày đêm, bác sĩ cho biết Bồ Câu bị chứng Cerebral Palsy – Liệt Não – nên dù sống sót nhưng cả hai phương diện thể xác và tâm lý đều sẽ phát triển chậm (both severe physical and mental retardation).
Vì đòi hỏi săn sóc đặc biệt, đành phải chấp nhận chuyển bé qua một trung tâm phục hồi chức năng. trong một thời gian vô hạn định, nhưng không có ngày nào mà chúng tôi không ghé thăm Bồ Câu, cho dù bụng thai của vợ càng ngày càng nặng nề.

Một ngày trời mưa sau Tết năm 1982, khi đến thăm, vừa vào bên trong tòa nhà của trung tâm phục hồi, chúng tôi bắt gặp trên chiếc giường đẩy, ngay giữa hành lang, một thân hình bé nhỏ đang quằn quại trong cơn co giật. Đến gần, hình hài ấy chính là con mình, miệng nghiến chặt trong cơn động kinh liên tục, mình mẩy ướt mèm. Ôm con mà xót xa đắng cay. Còn cảnh cùng cực nào nào lớn hơn thử thách này, Chúa ơi! Tất cả chỉ còn một nguyện cầu duy nhất là xin cho con mình được sống và sống chung với cha mẹ và gia đình, chứ không trong một trung tâm chăm sóc xa lạ.

Từ đó, không ngày nào chúng tôi không tới thăm Bồ Câu. Điều nguyện cầu cho con được sống và sống bên cha mẹ trở thành một quyết tâm thôi thúc hai vợ chồng sát cánh, tiến hành mọi thể thức với trợ giúp từ các cơ quan xã hội để chuẩn bị đem con về nhà.

Đứa con thứ hai ra đời ngày 10 tháng Tư, 1982. Dù phải chịu đựng quá sức khi mang thai, nhưng cháu Bea vào đời bình an, xinh xắn, khỏe mạnh. Ngay ngày thứ hai sau khi rời bệnh viện sản khoa, chúng tôi đến thẳng trung tâm phục hồi, ký giấy đón Bồ Câu về nhà.
Sau tai họa, ơn trên cho chúng tôi được hưởng nhiều phép lạ, trên cả mức chờ đợi.
Đầu tiên, là từ ngày về lại nhà, Bồ Câu vĩnh viễn thoát khỏi chứng động kinh co giật. Con mắt bắt đầu có thần hơn dù vẫn chưa di chuyển lên xuống qua về.

Nhờ từng được hướng dẫn và thực tập, vợ tôi đã có thể một mình đặt ống naso–gastric tube thông từ mũi xuống bao tử cho con trong suốt cả năm, sau đó còn tập cho Bồ Câu uống qua đường miệng, từ 1 giọt, tăng lên 2 giọt, 3 giọt rồi kiên nhẫn tập cho bé nuốt từng chút nhỏ đồ ăn nghiền đến 1 hột cơm, 2 hột cơm.
Tiếp theo, là chỉ vài tuần sau khi có Bồ Câu về nhà, cuối tháng Tư 1982, tôi được nhận vào làm bác sĩ tổng quát cho bệnh viện tư Leesville General Hospital, thuộc tiểu bang Louisiana.

Leesville là một thị xã nhỏ của vùng Southern, nơi dân bản xứ có tiếng là kỳ thị. Với tôi, thay vì tiếp tục học lên, cơ hội trở lại hành nghề bác sĩ tại đây phù hợp hơn với hòan cảnh thực tế. Tuy nhiên, cơ hội này cũng là một thử thách sinh tử, đòi hỏi sự bén nhậy khi định bệnh, tận tụy khi trị liệu. Khi giao thiệp bằng tiếng Mỹ, dù chưa thể thuần thục, vẫn cần sự chính xác, tinh tế trong ngôn từ. Đó là thời kỳ phải vừa làm vừa học, vừa gìn giữ nhân cách của một bác sĩ người Việt duy nhất trong vùng.

Rất may mắn, chỉ một thời gian sau, tôi chính thức được bệnh viện chấp nhận như một bác sĩ chính ngạch, tăng lương thêm 50% cộng bonus cuối năm. Nhờ vậy, cuộc sống gia đình mau chóng được ổn định. Số lượng bệnh nhân đến khám với tôi nhiều hơn. Trong những lần gia đình ra bên ngoài, nhiều cư dân bản xứ dừng lại bắt tay tôi, chào hỏi vợ con tôi.

Sau trên một năm được kiên trì tập luyện, Bồ Câu tạm thời đã có thể uống sữa, ăn cháo, ăn cơm với luôn cả rau cải thịt cá cắt nhỏ, khi được mẹ đút vào miệng. Phản xạ nuốt tốt dần. Phép lạ lại xẩy khi đến chúng tôi quyết định rút ống chuyền mũi – bao tử, Bồ Câu giữ khả năng ăn, nuốt bằng miệng, thân thể dần mạnh hơn, tay chân cứng cáp dần, miệng bắt đầu biết cười và bập bẹ ư ê như em Bea, khi hai chị em ở cạnh nhau.

Nhờ thu nhập khá dần, căn nhà mới có phòng tập lớn với đầy đủ tiện nghi, ngày ngày luôn có người thay phiên đến nhà làm việc, luyện tập cho Bồ Câu, nào là physical therapist, occupational therapist, speech therapist, sức khỏe của bé hồi phục dần.

Từ tuổi Mẫu Giáo, Bồ Câu được học chương trình giáo dục đặc biệt (Special Education), có xe đón rước tận nhà. Các thầy cô giáo làm việc rất công tâm và tận tụy, nhiều bà giáo trong ngành Giáo Dục Đặt Biệt thường lui tới nhà chỉ bảo, giúp đỡ. Chúng tôi luôn biết ơn họ. Không có họ, chúng tôi không thể nào có đủ hiểu biết, trong tiến trình từng bước giúp Bồ Câu khôi phục và phát triển chức năng. Khi nhà có hồ tắm với nước ấm quanh năm, Bồ Câu cũng biết tỏ ra rất thích và thoải mái nằm ngửa trong phao hoặc trên tay cha mẹ.

Gia đình đông dần với sự ra đời thêm của 2 đứa con sinh sau. Dù bận rộn tất bật hơn, chúng tôi luôn cố gắng sinh hoạt chung với các con, từ trong nhà cho đến ra bên ngoài, ở đâu có cha mẹ là có đầy đủ 4 đứa con. Nếu cha không đẩy kịp xe lăn cho Bồ Câu thì Bea đẩy chị. Nếu mẹ chưa đút kịp cho chị ăn, thì Betty lo giùm.
Dù ở nơi xa lạ, không thân thích, không một bóng đồng hương, nhưng đúng là lời chúng tôi cầu xin cho con được sống và sống với cha mẹ đã được bề trên lắng nghe. Các linh mục trong nhà thờ giáo xứ đặc biệt cho phép Bồ Câu chịu phép rước lễ vỡ lòng ở tuổi 16 (first holy communion) dù Bồ Câu không qua lớp giáo lý căn bản.

IV.

Khi tin cháu Bồ Câu gặp nạn được báo về Saigon, măng tôi bị tai biến mạch máu não khá nặng, nhưng bà cố tập luyện giữ gìn sức khỏe, nói muốn sang Mỹ chăm sóc cháu.
Sau khi được anh chị tôi bảo lãnh sang Cali, vào đầu thập niên 90, Măng tôi dời qua Louisiana ở với gia đình “thằng con út” và cháu Bồ Câu.

Trong khoảng 3-4 năm, các anh chị bên Cali thay phiên nhau qua thăm Măng, có khi rủ nhau đi chung cho vui thêm. Anh Vĩnh Anh cũng từ Montreal cũng qua thăm mẹ được 2 lần. Vậy là trừ ông anh lớn Vĩnh Toàn còn ở lại Việt Nam, anh chị em tôi có nhiều dịp sum họp. Nhờ vậy, nhiều chuyện được thổ lộ giúp tôi hiểu thêm về sự thức tỉnh của mọi người trước sự tráo trở, tàn tệ của Cộng sản.

Đầu tiên là do anh Vĩnh Anh kể lại chuyện chính anh vừa trải qua. Năm 1990, các thành viên chủ chốt của nhóm Việt Kiều Yêu Nước (VKYN) tại Montreal, trong đó có ông anh tôi, được Ban Việt Kiều của chính phủ CSVN mời về nước với mục đích, góp ý cho Đảng CSVN làm cách nào tránh được hiện tượng Thiên An Môn /Tiamen Square xẩy ra tại Trung Quốc năm 1989, sẽ không thể xẩy ra tại Việt Nam.

Theo kế hoạch của nhóm Montreal, anh Vĩnh Anh nằm chờ tại Saigon, 4 người kia bay ra Hà Nội; Một anh ở chờ trong khách sạn, 3 anh còn lại vào họp, mang theo văn bản góp ý của nhóm Việt Kiều Yêu Nước ở Montreal: bãi bỏ chế độ độc đảng, cho thành lập chế độ đa đảng càng sớm càng tốt.

Sau hai ngày không thấy các bạn mình trở lại khách sạn, và cũng chẳng nhận tin nhắn miệng nào, người chờ bên ngoài khách sạn Hà Nội điện thoại báo tin cho anh tôi. Đoán chuyện không hay xẩy ra, anh tôi tức tốc bay ra Hà Nội, đến tư gia “bác Võ Nguyên Giáp,” xin vào gặp với tư cách là “con trai của ông Bửu Tiếp”, người thầy giáo Quốc Học Huế thời xưa. “Bác” Võ Nguyên Giáp lắng nghe, lắc lắc đầu, rồi bảo anh tôi về chờ tại khách sạn.

Thêm 2 ngày căng thẳng chờ đợi trong lo âu. Bỗng trong đêm thứ hai, cả anh tôi và người bạn kia được chở vào bên trong một cơ quan, nhìn thấy ba người bạn mình đang có mặt tại chỗ, mặt mày người nào cũng xám xịt, căng thẳng, một người lại có băng trắng ở cổ tay. Không dài dòng giải thích, cả 5 người được lệnh ký tên vào một tờ giấy cam kết đủ thứ, kể cả việc không bao giờ được về lại Việt Nam.

Sau khi đồng loạt ký tên, cả 5 người được chở thẳng ra phi trường lên chuyến bay sớm nhất về Canada. Trên máy bay, anh tôi được các bạn cho biết, sau khi phát biểu ý kiến chủ trương đa đảng của nhóm Việt kiều yêu nước ở Montreal, cả 3 người bị bắt, đưa ngay vào nhốt trong một bệnh xá tâm thần. Anh bạn tổng thư ký của nhóm quá tức giận nên quyết tự sát bằng cách rạch cứa cổ tay mình, nhưng được cứu thoát. Chính vì vậy mà chúng mới thả cho về vì e ngại sẽ có khó khăn với bộ ngoại giao Canada.

Vậy là nhóm Việt Kiều Yêu Nước Montreal, trước đây đã từng bị rúng động bởi hiện tượng vợ chồng Phục & Vịnh Thủy vượt biên trở về lại Canada, nay lặng lẽ tan rã, mỗi thành viên mỗi mang một nỗi niềm riêng.
Câu chuyện anh Vĩnh Anh và nhóm bạn Montreal làm Măng tôi trầm ngâm rất lâu, sau đó bà mới kể lại một bí ẩn mà bà dấu kín trong lòng từ nhiều năm.

Sau khi Ba tôi mất, suốt thời kháng chiến chống Pháp, chi hội phụ nữ nằm vùng tại Huế cố lôi kéo Măng vào tổ chức của họ, nhưng Măng đã nhiều lần thoái thác với lý do góa phụ bận rộn nuôi bầy con, mươi lần bị kêu đi họp thì chỉ đến một lần cho có lệ.

Vào thời gian chia đôi đất nước của hiệp định Geneve 1954, Măng tôi thình lình đến nơi họp, và đến trễ. Đang đứng bên ngoài cửa căn nhà họp trong chiều tối, tình cờ Măng nghe tiếng các người bên trong phòng đang bàn tán về mình “Thằng Tiếp không chịu ra ngoài Bắc làm việc theo chỉ thị cấp trên, nên chúng ta đã xử lý nó rồi. Cái thứ công giáo đó chỉ làm hư danh cách mạng thôi. Nay còn con Liễu (tên của Măng tôi), ráng chờ coi nó có chịu tập kết hay không, rồi sẽ quyết định”. Nghe vậy, Măng tôi lạnh cả xương sống, từ từ rời căn nhà họp không một tiếng động. Từ đó, bà dứt khoát cắt đứt mọi liên lạc.

Khi nghe kể chuyện này, tôi hỏi Măng phải chăng Ba chết do cộng sản ra lệnh thủ tiêu, rồi sau đó lại dàn dựng một lễ an táng long trọng kiểu nhà nước để mà mắt thiên hạ, Măng tôi trả lời đúng như vậy. Bà cũng xác nhận ông bà chỉ là những người quốc gia chống Pháp vì yêu nước, chưa bao giờ là đảng viên cộng sản. Bà cói thêm, càng về sau Măng càng nghiệm ra những giả dối của Cộng Sản và từng lo ngại khi thấy hai con trai lớn không có kinh nghiệm này.

Nhân dịp này, tôi hỏi Măng thương đứa con nào nhất trong nhà, Măng bảo trước đây, chính tôi là đứa Măng thương nhất, vì tôi mồ côi cha ngay khi còn nằm trong bụng mẹ, lớn lên lại khốn đốn vì chiến tranh, tù tội. Nhưng giờ đây, người được Măng thương nhất lại là anh Vĩnh Toàn. Anh sinh trước tôi cả chục năm, lớn lên bên cạnh ba măng và các bạn toàn là những người chống lại sự xâm lược của người Pháp, do đó anh dễ có cảm tình với cuộc kháng chiến của Việt Minh. Măng tôi nói anh Vĩnh Anh và tôi, dù sao cũng đang sống trên một đất nước tự do. Còn anh Vĩnh Toàn đã lỡ ở lại với cộng sản, lại không hề có kinh nghiệm về họ, chắc anh sẽ là người có cuộc đời bị thua lỗ nhất, nay lui cui sống đạm bạc một mình.

Đúng là tình mẹ bao giờ cũng đổ xuống cho đứa con yếm thế nhất, ít hạnh phúc nhất. Tôi biết gia cảnh anh chị Vĩnh Toàn đã ly thân từ lâu. Anh chị chỉ có một con gái duy nhất. Cháu ở với mẹ, không có người dẫn dắt và một tai họa khủng khiếp đã xẩy ra. Năm 1987, khi đang theo học Nha Khoa Saigon năm thứ Hai, không hiểu vì chuyện gì, cháu nhảy cầu quyên sinh ban đêm trên sông Saigon.
Thật đau lòng khi nghe tin cháu, một cô sinh viên trẻ đẹp, học giỏi bị đẩy tới mức tuyệt vọng đến nỗi phải tự kết liễu cuộc sống! Cho tới nay, chính Măng tôi và anh chị em chúng tôi, vẫn không thể hiểu được nguyên nhân đã đưa tới cái chết bi thảm của cháu.

Từ khi cả nhà đã ra hải ngoại sống, anh Vĩnh Toàn cũng rất ít liên lạc. Bất ngờ, chúng tôi nhận được tin về anh nhờ một lá thư khác thường do chú Bửu Phát, em của Ba tôi, gởi từ trong nước ra. Thư cho biết có người từng là học trò của Ba tôi trước đây ở trường Quốc Học, nay làm lớn tại Hà Nội, có ý muốn thu xếp chuyện mua bán khu nhà đất của ông Nội tôi ở Phủ Cam. Anh Vĩnh Toàn, con trưởng của ba tôi hiện vẫn ở Đà Nẵng, được yêu cầu đứng tên đại diện cho toàn gia đình phía các anh chị em chúng tôi, nhưng anh thẳng thừng bác bỏ, không chịu ký tên. Vì vậy, chú Bửu Phát kêu gọi bà con bên Mỹ ký tên ủng hộ ý kiến bán khu nhà đất của Ông Nội.

Lời kêu gọi của chú Bửu Phát dĩ nhiên không được ai hưởng ứng. Ngay chú Bửu Bình, con trai út cưng của Ông Bà Nội, định cư tại Dallas qua chương trình HO, cũng không màng, thì còn ai lên tiếng. Sau năm 95, có người trong nước báo tin chú Bửu Phát đại diện gia đình đã nhận tấm bằng tổ quốc ghi ơn cho “Liệt Sĩ Bửu Tiếp” và chưng tại nhà của Chú. Hư thật ra sao cũng chẳng ai bận tâm.
Sau tin anh Vĩnh Toàn không chịu ký tên bán đất tổ tiên cho quan lớn cộng sản, có thêm tin công việc y sĩ của anh cũng không còn suông sẻ. Không hiểu vì bất mãn với chế độ hay với chính mình, anh phải tìm quên trong rượu chè, cuộc sống càng ngày càng cô quạnh. Sau một tai nạn lưu thông, anh suy yếu dần. Chị Mai Tâm cùng chồng về thăm anh tại Đà Nẵng, cho biết là tuy sức khỏe suy yếu nhưng sau cùng anh đã trở lại một tín đồ công giáo, đi lễ nhà thờ hằng tuần với vợ chồng Linh và Oanh. Oanh là bà con xa bên Nội, đã tới ở luôn trong nhà để săn sóc anh tôi trong những năm cuối đời.

Mấy tháng trước khi hoàn toàn mất trí nhớ và từ trần vào năm 2010, anh tôi nhận được tất cả các phép bí tích của người công giáo từ cha chánh sở giáo xứ. Đám tang anh được làm tại nhà thờ. Rất đơn chiếc. Không vợ con, anh chị em. Chị dâu tôi cũng qua đời chỉ một năm sau đó.

Sau vài năm ở Louisiana với chúng tôi, Măng tôi trở về California sống với các con gái. Thị xã Leesville là nơi hẻo lánh, Măng tôi không có dịp gặp được người đồng hương để nói chuyện tiếng Việt. Năm 1997, Măng bị tai biến mạch máu não trầm trọng, sau gần 7 năm được săn sóc chu đáo tại nhà của chị tôi và chồng, măng tôi qua đời năm 2004.


V.

Dù thế nào, vẫn phải có một lần về đứng trước mộ phần Ông Bà Nội và Ba tôi, một lần nhìn lại mảnh đất tổ tiên, thăm lại khu vườn kỷ niệm thời thơ ấu. Đây là điều tôi hằng tự nhủ ngay khi vừa qua tuổi hưu trí, nhưng mãi tới tháng 12 năm 2013, bốn mươi năm sau khi rời Huế và 34 năm rời bỏ quê hương, vợ chồng chúng tôi mới có dịp về nước lần đầu.

Trên đường về Huế, chúng tôi ghé Đà Nẵng và hẹn trước với vợ chồng Linh Oanh để nhờ đem chúng tôi đến viếng mộ của anh Vĩnh Toàn tôi trong một nghĩa trang rộng lớn tại Hòa Vang.
Cháu gái con anh chị cũng đã được bốc mộ rồi hỏa thiêu tại Hội An trước khi đem vào Saigon từ mươi năm trước. Chúng tôi có đến thăm nơi cất giữ di cốt của cháu trong một ngôi chùa nhỏ nghèo nàn tại Thủ Đức. Rất khó tìm thấy hũ tro của cháu vì nằm lẫn lộn với hàng trăm hũ, trong một ngăn phòng chật hẹp tăm tối. Chúng tôi thắp nén hương, cầu ơn trên cho cháu được siêu sanh tịnh độ. Trong một ngôi chùa khác tại Gia Định rộng lớn và tân kỳ, chị dâu tôi được chôn cất riêng trong một khuôn viên đẹp đẽ sáng sủa sang trọng. Anh, chị và cháu, cho tới phút cuối đời, vẫn ở xa cách nhau. Chúng tôi chỉ còn biết cầu mong cho vong linh cả ba người, vợ, chồng, con được gần gụi thương yêu nhau dù giờ đây thân xác thì ngàn trùng xa cách.

Trước ngày trở lại Huế, tôi còn gặp thêm một điều mai mỉa: Dù đã đổi chủ từ lâu, khu đất của ông nội tôi cho tới nay vẫn còn được mấy ông lớn cộng sản theo đuổi.
Chú Bửu Phát cũng đã mất từ lâu, nhưng vẫn có người giao tận tay tôi tờ giấy “Tổ Quốc Ghi Công” mang tên Ba tôi mà chú Bửu Phát từng nhận, kèm theo mảnh giấy ghi địa chỉ một ông lớn cộng sản tại Hà Nội, nói đang chờ đợi liên lạc với tôi về chuyện giúp mua bán vườn và nhà cửa của Ông Nội. Tôi liên tưởng ngay đến câu chuyện chú Bửu Phát từng đề cập mấy chục năm trước, nhưng bị bỏ giở nữa chừng. Nay biết tôi về, nên phải chăng người đó lại muốn liên lạc về chuyện cũ này. Chẳng hiểu chuyện muốn giúp mua bán vườn đất Ông Nội tôi và chuyện cấp tấm bằng tổ quốc ghi công có liên hệ đến nhau không?
Tôi từ chối nhận tờ giấy ghi số điện thoại cùng tên tuổi ông ta từ tay người liên lạc.
Sau cùng, một ngày Huế mùa đông, chúng tôi đã tới được mảnh đất tổ tiên. Khu điền trang cũ của Ông Nội tôi đã bị chiếm đoạt, đổi chủ từ lâu. Tòa nhà ba tầng xưa trắng toát, bề thế, nay nhếch nhác, thảm hại. Cây cối vườn xưa tươi tốt nay xơ xác điêu tàn. Khu nghĩa trang gia đình xưa trang nghiêm, thứ tự, nay cỏ tranh rậm rạp.

Đứng trước phần mộ của Ba tôi, nay bị chính quyền mới bắt dời đến núi Thiên Thai cùng chung với các mộ phần của đại gia đình, ôn lại lời Măng tôi kể việc ông bị chi bộ đảng của cộng sản ra lệnh “xử lý”, tôi thấm thía nỗi đau của những người quốc gia bị cộng sản sát hại.
Thời Việt Minh vừa nắm quyền tại Huế năm 1946, nhiều vị nhân sĩ trí thức quốc gia một lòng vì nước cũng đã bị thủ tiêu. Học giả Phạm Quỳnh có người con lớn là Phạm Tuyên thoát ly gia đình theo Việt Minh. Ông Phạm Quỳnh bị Việt Minh bắt mang vào rừng xử tử.

Phạm Tuyên sau thành nhạc sĩ nổi tiếng, từng kể lại là “Bác Hồ” có lần nói với ông rằng Phạm Quỳnh là một học giả yêu nước, một nhân vật lịch sử đáng được tôn trọng. Sau 30 tháng Tư 1975, Phạm Tuyên chính là tác giả bài ca “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng!” Trong khi ấy thì tại miền Nam, có tin người ta đã tìm được hài cốt của hai ông Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi bị vùi chung một hố trong xó rừng gần Huế. Các dấu hiệu từ hài cốt cho thấy hai ông bị chôn sống.

Như thời còn thơ ấu, tôi cũng đã cúi xuống cố đọc tấm bia mộ ba tôi. Ông sinh năm 1904, bị “xử lý” năm 1946, lúc khởi đầu những tháng ngày tao loạn. Đó cũng là năm sinh của tôi, đứa con được ông hiện hồn về trong mơ vuốt vuốt cái đầu nó. Từ đó, biết bao nhiêu tang thương dâu bể. Măng tôi, cô nữ sinh Đồng Khánh 14 tuổi mê ông thầy giáo độc thân, ôm truyền đơn của Tân Việt Cách Mệnh Đảng vô trường học năm 1927, nay cũng không còn nữa. Sau gần 60 năm ở góa nuôi con, Bà đã mãn phần tại California đúng năm 90 tuổi.

Trong khi ấy thì cả nước Việt Nam, số phận không khác vườn nhà ông nội tôi là bao. Mảnh đất tổ tiên bị cướp đoạt, mồ mả ông cha bị đào bới.
Hơn một thế hệ cùng thời với cha tôi đã trở thành dĩ vãng. Những người từng kề cận ông thời tuổi trẻ như Giáo sư Đặng Thái Mai hay cậu học trò Quốc học Võ (Nguyên) Giáp cũng đã không còn nữa, nhưng đất nước thì vẫn tiếp tục bị hủy hoại bởi cái chế độ phi nhân mà họ từng phục vụ.

Ngày tôi trở lại Huế, cuối tháng 12 năm 2013, cũng là lúc nhà nước cộng sản vừa rềnh rang quốc táng Võ Nguyên Giáp, chết trước đó vài tháng. Còn nhớ, trang nhà của đài BBC Luân Đôn thời ấy có bài viết về ông, nói là từ lâu Đại tướng Giáp đã bị phe cánh trong Đảng loại bỏ, tước hết mọi chức vụ, tư dinh bị đặt trong tình trạng quản chế, mọi việc đi lại, gặp gỡ, ăn nói, đều phải theo lệnh. Vậy mà khi ông mất hồi tháng Mười, 2013, hai tháng trước khi chúng tôi đi Việt Nam, vẫn rềnh rang đánh bóng tuyên truyền.
Sự tráo trở, tàn bạo của cộng sản đã đẩy nhiều thế hệ vào cảnh tương tàn chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Ba tôi bị thủ tiêu, như bao người quốc gia khác, như những bà con Huế bị tàn sát thời Tết Mậu Thân, đều là nạn nhân của cộng sản.
Nhiều thế hệ đã và sẽ còn tiếp tục đi qua, kể cả thế hệ chúng tôi. Nhiều tội ác đã bị khuất lấp hoặc sẽ được quên đi. Nhưng quên không có nghĩa là tha thứ, vì tha thứ là quyền của những người đã chết, những nạn nhân cộng sản.

VI.
Bằng cái biết hạn hẹp của mình, tôi đã cố sơ lược truyện “truyện trăm năm” của gia tộc từ những năm 20 của thế kỷ trước. Nhưng lịch sử cũng như chuyện “Đằng Sau Mặt Trăng” hẳn nhiên còn nhiều tầng bí ẩn, khuất lấp.
Xin được trở lại với phần đời bé nhỏ của gia đình chúng tôi.
Theo dòng thời gian, khi gia đình di chuyển về Nam Cali, Bồ Câu vừa bước qua tuổi teen. Biết chào hello, biết nói vài chữ bằng song ngữ, biết đòi hỏi, biết hỷ nộ ái ố, biết đi chập chững với walker, biết ăn bốc và tự xúc ăn bằng muỗng, uống với ống hút…Tuy nhiên vẫn hoàn toàn không tự lập được trong vấn đề vệ sinh cá nhân, đánh răng rửa mặt, tắm rửa, thay áo quần, vào giường, ra khỏi giường… Tất cả đều cần sự trợ giúp.

Sau khi được “cho” tốt nghiệp trung học ở tuổi 22, Bồ Câu được gởi đến Vocational Visions, là một trung tâm giáo dục giúp đỡ người khuyết tật lớn tuổi, dưới sự quản trị của Orange County Regional Center (OCRC). Có xe bus sáng chở đi chiều chở về. Tại trung tâm, có ngày Bồ Câu ở chơi tại chỗ, có ngày được xe chở đi ra bên ngoài, gọi là community trips, đôi khi hai ba lần mỗi tuần. Cứ mỗi năm, có cuộc họp giữa cha mẹ với cán sự xã hội đại diện OCRC và đại diện Vocational Visions để đánh giá tiến triển của Bồ Câu trong năm qua và chọn phương án cho năm tới. Qua đó, chúng tôi được biết chỉ riêng OCRC đã chi tiêu khoảng 38 ngàn đô cho sinh hoạt và di chuyển của Bồ Câu mỗi năm. Ngoài ra, còn nhiều phúc lợi xã hội khác, khi Bồ Câu được ưu tiên cấp thẻ Medicare, nhưng chỉ sau khi mẹ Bồ Câu chính thức nhận an sinh xã hội khi về hưu.
Nhìn lại, dù là nơi tối tân như Hoa Kỳ, tai nạn do sự lầm lẫn, sai sót trong ngành y, đặc biệt trong khoa gây mê mà nạn nhân thường là các em bé 3, 4 tuổi như Bồ Câu, là chuyện cho tới nay vẫn không thể tránh khỏi. Nhưng bù lại, hệ thống phúc lợi xã hội của nước Mỹ trong việc chăm sóc luôn vận hành hữu hiệu. Nhờ vậy, trên 56 triệu người bị khuyết tật, gồm đủ loại, chiếm 19 phần trăm dân số nước Mỹ, không ngừng được trợ giúp.
Chúng tôi luôn biết ơn và vinh dự được chu toàn bổn phận của một công dân Mỹ.

Sự sống tự nó là phép lạ.
Sau tai nạn năm 1982, các bác sĩ chuyên môn cho biết trường hợp của Bồ Câu sẽ sống không quá 25 tuổi. Bây giờ cháu đã gần 41 tuổi.
Các em Bồ Câu nay đã lần lượt xa nhà, Bồ Câu tiếp tục làm nhân, nhụy trong gia đình còn lại ba mống với nhau. Cô học trò Bồ Câu 41 tuổi nay là niềm vui cho cha mẹ trong tuổi già, khi vẫn còn có một đứa con trong nhà để coi ngó, săn sóc, vui chơi, đi đâu cũng có nhau.

Đêm đêm, chúng tôi vẫn cùng nhau cầu nguyện, tạ ơn trên cho con được sống và sống bên cha mẹ, như điều từng nguyện ước. Xin được kết bằng lời hát tạ ơn:

“Người đưa tay nâng con dậy
cho con đứng lại trên đỉnh núi
Người đưa con ra đại dương,
giúp con vượt giông bão trùng khơi
Con mạnh lại khi tựa vào vai Người,
để từ đó vượt lên hơn cả chính mình…

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 22182
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 09/Jul/2021 lúc 3:22pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 126 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.395 seconds.