Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Tâm Tình
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Tâm Tình
Message Icon Chủ đề: Hỏng Biết Hỏi Ai??????? Gởi trả lời Gởi bài mới
Trang  of 4 phần sau >>
Người gởi Nội dung
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Chủ đề: Hỏng Biết Hỏi Ai???????
    Gởi ngày: 05/Nov/2010 lúc 1:24am

Tiền pháo hoa ủng hộ lũ lụt đâu rồi ?

 

Vũ Nhật Khuê

Tuyên bố mà không thực hiện thì khác nào dân bịp bợm. Miền Bắc gọi là nói điêu. Miền Trung thì bảo là nói dóc. Miền Nam thường gọi là NỔ. Ở đây từ NỔ thích hợp nhất. Pháo thì đă nổ rồi, nhưng tuyên bố mạnh mồm to miệng trên VTV cũng đă phát đi rồi. Nhưng tiền thì đâu rồi? Lừa ai thì lừa chứ lừa người dân bị lũ lụt thì vô nhân đạo quá!…

***

Hôm qua, VNexpress có đưa tin bác Thảo – chủ tịch Hà Nội bàn về chi tiêu cho Đại lễ 1000 năm Thăng Long vừa qua. Trong đó, bác Thảo cho biết là hủy bắn pháo bông ở 29 điểm thì tiết kiệm được 5 tỷ VND. Tạm thời chấp nhận con số này, bởi v́ kiểm chứng nó không khó, hằng năm các tỉnh thành đều bắn pháo bông vào giao thừa hay lễ quan trọng. Các tỉnh bị lũ lụt cứ lấy con cố chi tiêu cho pháo hoa ở tỉnh mình nhân cho 29 sẽ có con số tương đương tiết kiệm từ lễ hội 1000 năm Thăng Long đă được hứa là cho mình.

Số tiền này theo như công bố ban đầu là để ủng hộ các nạn nhân lũ lụt.

Vậy hiện nay 5 tỷ VND đó được cứu trợ và sử dụng ra sao? Cần phải công khai chuyện cứu trợ lũ lụt từ tiền pháo hoa. Không chỉ các tỉnh bị thiên tai mà nhân dân cả nước và nhân dân ở các quận, huyện ở thủ đô xém được xem pháo hoa ở địa phương ḿnh cần phải biết chi tiết rơ ràng. Hà Tĩnh nhận bao nhiêu? Quảng Bình nhận bao nhiêu? Nghệ An nhận bao nhiêu?… Thậm chí gia đình có người thân thiệt mạng nhận bao nhiêu, gia đình bị trôi nhà, mất cửa và lũ lụt nhận bao nhiêu?

Toàn bộ lễ hội vừa qua ư nghĩa nhất là việc ngừng bắn pháo hoa lấy tiền để ủng hộ nạn nhân bị lũ lụt diễn ra cùng thời điểm lễ hội. Chính cái nghĩa cử cao đẹp này mới cứu vớt linh hồn của đại lễ 1000 năm Thăng Long cho dù nghĩa cử này không nằm trong kịch bản ban đầu của Ban tổ chức đại lễ. Vì thế cần phải làm cho đến nơi đến chốn chuyện này. Các hoạt động khác hay các màn tŕnh diễn có thể thiếu sót hay bỏ qua nhưng nhất định vụ việc dùng tiền tiết kiệm để bắn pháo hoa ở 29 điểm cho mục đích cứu trợ lũ lụt phải quyết tâm làm cho rơ ràng, đến nơi đến chốn.

Những nạn nhân bị lũ cuốn trôi cuối cùng đă được tìm thấy. Dân vùng lũ đă về xây dựng lại ngôi nhà bị trôi mất. Nhưng 5 tỷ VND pháo hoa đâu rồi.?

Tuyên bố mà không thực hiện thì khác nào dân bịp bợm. Miền Bắc gọi là nói điêu. Miền Trung thì bảo là nói dóc. Miền Nam thường gọi là NỔ. Ở đây từ NỔ thích hợp nhất. Pháo thì đă nổ rồi, nhưng tuyên bố mạnh mồm to miệng trên VTV cũng đă phát đi rồi. Nhưng tiền th́ đâu rồi? Lừa ai thì lừa chứ lừa người dân bị lũ lụt th́ vô nhân đạo quá! Lấy thiệt hại, mất mát của các nạn nhận lũ lụt để điểm tô cho Đại lễ 1000 năm Thăng Long là việc phi nhân và tội ác. Cho dù có đóng kịch để làm việc nghĩa thì ông Thảo cũng phải cho nhân dân biết 5 tỷ VND được phân chia ra làm sao.

Ai cũng biết là pháo đă bị nổ hết rồi. Tiền mua pháo thì đă trả rồi. Ngay sau khi tai nạn ở Mỹ Đ́nh các quan vẫn tuyên bố là nhất định bắn pháo bông ở 29 điểm tại Thủ Đô như kế hoạch ban đầu. Lỡ to mồm tuyên bố nhưng mua pháo ở đâu bây giờ khi thời gian cận kề ngày “pháo nổ”? Pháo thì không có để nổ nên NGƯỜI NỔ THAY PHÁO. Khi đi tìm mua pháo thấy không kịp nên mới anh hùng nghĩa hiệp tuyên bố ngừng bắn pháo hoa để tiền cứu người. Tin được không đây trời đất tổ tiên ơi?

Nếu có tấm lòng tử tế thật sự thì ngay từ đầu khi tổ chức đại lễ người ta trích 1 phần chi tiêu cho việc từ thiện. Ở đây chẳng nghe nói đến. Chỉ nghe là làm cái cổng chào này hết mấy tỷ, show tŕnh diễn nọ ngốn hết chục tỷ, rồi bắn pháo hoa dự kiến 30 điểm hết mấy chục tỷ. Toàn là thứ vô bổ vậy mà ông Thảo bảo làm cho con cháu ngàn đời. Có bệnh viện nào khai trương dịp đại lễ không thưa ông? Có trường học nào mới xây nhân mùa đại lễ không thưa ông? Có nhà dưỡng lăo nào mới xây cho bà mẹ anh hùng, các thương binh không thưa ông? Đừng nói là công trình ngàn năm cho con cháu muôn đời là lời hứa cuội lấy tiền pháo hoa ủng hộ lũ lụt ông nhé!

NGÀN NĂM BIA MIỆNG VẪN CÒN TRƠ TRƠ

Tiền chi cho đại lễ nó thâm thụt nhiều lắm rồi. Quỵt tiền “nổ” cứu trợ lũ lụt thì khó thoát nên ông Thảo mới nói là tiết kiệm 5 tỷ VND từ pháo hoa. Nói như thế để nhẹ 1 chút cho khoản phụ trội bắt buộc phải chi. Làm sao mà lừa được nhân dân 63 tỉnh thành thưa ông?. Họ biết chi tiêu pháo hoa là bao nhiêu cho một lần “pháo nổ”. Trước đây vài năm dân Quảng Bình không bắn pháo hoa để tiền cứu trợ nạn nhân bị chìm đi. Họ tuyên bố là tiết kiệm 300 triệu VND. Lấy con số này nhân với 29 cũng ra gần 8 tỷ VND rồi. Rồi tiền trượt giá này nọ con số này trên 10 tỷ VND rồi ông Thảo ạ.! Tự nhiên ông “ ngắt” hết của các nạn nhân ½ số tiền thật sự thấy tàn nhẫn quá !

Thôi cũng được, có còn hơn không! Chúng tôi cần biết là mỗi tỉnh bị lũ lụt nhận bao nhiêu và thực tế mỗi người dân bị trôi nhà mất cửa nhận bao nhiêu ?

Lẽ nào 5 tỷ VND từ Hà Nội dọc đường rơi rụng đến tay người dân chỉ còn vài gói mì tôm thôi sao?

Hiệu ứng pháo nổ đang âm ỉ trong lòng người Việt Nam. Khi ngòi nổ được kích hoạt thì có bạo tàn như Hít le, dă man như Stalin cũng bị tiêu tan.

Vũ Nhật Khuê

IP IP Logged
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 05/Nov/2010 lúc 1:26am

Quần áo cứu trợ miền Trung 'chỉ đáng làm giẻ lau nhà'

Wednesday, November 03, 2010 

 

NGHỆ AN - Sau trận lũ đợt một, nhiều tỉnh miền Trung nhận được đủ loại hàng cứu trợ cho đồng bào nạn nhân, trong đó mì tôm và quần áo cũ chiếm tỷ lệ cao nhất.

Chèo thuyền cứu trợ lũ lụt tại Nam Ðàn, Nghệ An. Hình chụp ngày 20 tháng 10, 2010. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Mới đây, một phát hiện đã làm nhiều người sửng sốt: số quần áo cũ dành để cứu trợ cho đồng bào chỉ là đồ phế thải, giống như giẻ lau nhà và số hàng này nằm tại một xưởng cơ khí.

Ngày 3 tháng 11, bà Bùi Thị Mai, chủ tịch Hội Hồng Thập Tự Nghệ An cho VietnamNet biết một số quần áo cứu trợ đã lưu lại trong kho, trong số đó có hai thùng quần áo quá tệ không thể cho đồng bào nạn nhân lũ lụt vì quá cũ và rách nhiều chỗ. Bà Mai đã cho xưởng cơ khí này để làm giẻ lau nhà cho đỡ phí.

Tuy nhiên, theo điều tra của tờ báo thì sự việc không phải như vậy. Có nhiều thùng hàng để tại kho cơ khí này đã bị mở tung ra và bên trong chỉ toàn quần áo cũ nát, không đáng để lau xe chứ đừng nói đến mặc. Số quần áo này bị nghi là đã được hoán đổi bởi nhân viên làm việc tại Hội Hồng Thập Tự và đem ra ngoài bán lấy lời.

Bà Mai kịch liệt chống lại ý kiến này. Bà cho rằng hàng cứu trợ đã được giao đúng đối tượng, không thất thoát một lô hàng nào. Khi được hỏi tại sao một số nhân viên của Hội Hồng Thập Tự mặc áo có in tên của các tổ chức cứu trợ, bà Mai không thể trả lời cho câu hỏi này.

Một số quần áo được cho là hàng cứu trợ dùng làm giẻ lau xe bị nghi là do đánh tráo hàng tốt lấy quần áo rách để phát cho dân. Thủ phạm các vụ đánh tráo này là ai, hiện chưa ai dám xác định. Tuy nhiên, theo lời nhân chứng, đa phần số quần áo này bị lấy cắp bán ra chợ trời.

 

Hàng cứu trợ bão lụt hồi gần đây đã bớt đi tình trạng đánh cắp hay phát không đúng đối tượng. Tuy nhiên báo chí lên tiếng một vài vụ lem nhem cũng khiến cho khuôn mặt các viên chức trách nhiệm phân phối ít nhiều ảnh hưởng trong mắt nhìn của công luận.

 

IP IP Logged
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 05/Nov/2010 lúc 1:34am
< ="Content-" content="text/; charset=utf-8">< name="ProgId" content="Word.">< name="Generator" content="Microsoft Word 12">< name="Originator" content="Microsoft Word 12"><>

Kính mời bạn  đọc  một bài tham luận quá hay của Trần mạnh Hảo.

      
 Một người dám nói sự thật.    

MD


                                                                                       
Lời dẫn:  Trong Đại Hội VIII Hội Nhà Văn VN khai mạc ngày 4-8-2010 tại Hà Nội, nhà văn Trần Mạnh Hảo được mời viết tham luận nhưng khi ông lên đọc thì … micro bị tắt.  Dười đây là phóng sự đài RFA về diễn tiến của Đại Hội và toàn văn bài tham luận của nhà văn Trần Mạnh Hảo.

 

 

DIỄN TIẾN ĐẠI HỘI VIII HỘI NHÀ VĂN VN

 

Nhà văn Trần Mạnh Hảo

 

Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước

(Tham luận của Trần Mạnh Hảo trong Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VIII, soạn theo thư “mời viết tham luận” của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhờ nhà thơ Trần Đăng Khoa đọc giùm – cám ơn!) ........

 

Trần Mạnh Hảo

 

“Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” K. Marx

 

***

 

Kính thưa quý đồng nghiệp cầm bút,

Thưa quý vị quan khách và quý vị lãnh đạo,

 Thói thường, con người sợ món gì nhất? Sợ ma quỷ ư? Không! Sợ vợ ư? Không! Sợ công an ư? Không! Sợ kẻ cầm quyền ư? Không! Sợ chết ư? Không!

 Theo chúng tôi, con người trên mặt đất này sợ nhất sự thật! Vì vậy, ngạn ngữ Việt Nam từng nói: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Người Trung Hoa từ thượng cổ đã nói: “Trung ngôn nghịch nhĩ”. Người Ba Tư cổ khuyên: “Nếu nói ra sự thật, anh sẽ chết”. Người Ai Cập xưa cảnh cáo: “Khi sự thật bị bỏ quên quá lâu, một hôm nó thức dậy thành ngày tận thế”. Ngạn ngữ Tây Tạng tiền Phật giáo khuyên: “Mày chỉ được phép nói ra sự thật, nếu mày làm vua”. Thổ dân Úc bảo: “Ai nhìn thẳng vào sự thật sẽ bị mù mắt”. Lịch sử nhân loại đã ghi nhận hàng triệu con người từng dám cả gan nói lên sự thật mà bị mất mạng, bị tù tội hay bị quản thúc tại gia.

 Đã có bao nhiêu lý thuyết chính trị thề bồi giải phóng con người, bao nhiêu cuộc lật đổ, cuộc cách mạng tuyên thệ giải phóng con người, giúp con người hoàn toàn tự do, sau khi đã giết hàng triệu triệu sinh mạng. Rút cuộc, con người hình như vẫn chưa được hoàn toàn giải phóng, chưa hoàn toàn được tự do, con người vẫn còn sợ hãi vì bị sự dối trá thống trị? Một số đất nước, một số dân tộc trên hành tinh vẫn còn bị nhốt trong nhà ngục có tên là dối trá. Cần phải làm một cuộc cách mạng của sự thật mới mong giải thoát cho nhân dân khỏi ngục tù kia.

 Chìa khóa cuối cùng giúp con người được giải phóng, được hoàn toàn tự do, chính là sự thật, một sự thật không còn bị giấu như loài mèo giấu của quý. Karl Marx đã tôn vinh sự thật lên tột cùng của nhận thức luận và phương pháp luận: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý”: không có sự thật đi kèm, mọi kết luận, mọi lý thuyết, mọi khế ước, mọi hội kín, mọi cuộc cách mạng đều chỉ là ngụy lý, ngụy tạo, là lừa bịp. Cố Tổng thống Ba Lan Lech Kaczyński (1949-2010) người vừa bị tử nạn trong vụ rơi máy bay trên đường bay đến rừng Katyn tham dự lễ kỷ niệm 22.440 người con ưu tú của dân tộc Ba Lan bị Hồng quân Liên Xô chôn sống hồi đầu chiến tranh thế giới thứ hai; trong bài diễn văn viết sẵn mà ông không còn cơ hội để đọc, có đoạn viết như sau: “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất luôn luôn giải phóng cho con người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường hòa hợp.”

Lấy ý tưởng từ câu cách ngôn kinh điển của K. Marx và lời trăn trối thiêng liêng thống thiết lớn lao của ngài cố Tổng thống Ba Lan trên, chúng tôi viết bản tham luận theo yêu cầu của Hội Nhà văn Việt Nam này.

 Dostoyevsky, nhà văn vĩ đại nhất của chủ nghĩa hiện thực Nga và thế giới, từng tuyên ngôn rất hoa mỹ, rằng: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”. Chúng tôi thêm: “Sự thật sẽ cứu chuộc thế giới”. Sự thật sẽ cứu chuộc nền văn học của chúng ta, cứu chuộc Tổ quốc ta, nếu chúng ta cả gan một lần cùng nhau: “Gọi sự vật bằng tên của nó” theo cách ngôn của phương Tây.

 Nếu Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân tộc Việt Nam mở HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI để tìm ra con đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ quốc ta, giống nòi ta. Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đáng tan BỌN GIẶC CÓ TÊN LÀ DỐI TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy nghìn năm trước chúng đã nuốt chửng toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng định cư lâu dài phía nam sông Dương Tử.

 Chúng tôi viết bản tham luận này cũng để nhằm hưởng ứng cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực đất nước hôm nay” do Ban Tuyên giáo Trung ương vừa tổ chức tại Đà Lạt trong hai ngày 12-13/7/2010 với hơn hai trăm văn nghệ sĩ và các nhà lý luận phê bình hàng đầu Việt Nam tham dự. Cuộc hội thảo dũng cảm kêu gọi văn nghệ sĩ từ trên mây tỉnh giấc, quay về với hiện tình đất nước, do GS.TS. Phùng Hữu Phú (Ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê bình Trung ương), chỉ đạo. Theo Đại từ điển tiếng Việt trang 803, từ “hiện thực” có nghĩa như sau: “Cái có thật, tồn tại trong thực tế” (Bộ Giáo dục & Đào tạo–Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam-NXB Văn hóa Thông tin xuất bản 1998). Như vậy, khái niệm “hiện thực” chính là sự thật đã và đang xảy ra trong thực tại trên đất nước ta. Cuộc hội thảo của Ban Tuyên giáo Trung ương vừa qua có thể được gọi bằng một cách khác: “Văn học nghệ thuật phản ánh sự thật của đất nước hôm nay”. Muốn phản ánh được sự thật của đất nước hôm nay, việc trước tiên của chúng ta là phải nhìn ra sự thật, gọi đúng tên sự vật, không phải sự thật tô hồng hay sự thật bôi đen, mà sự thật đúng như nó đang tồn tại khách quan quanh ta.

Lâu nay, vẫn nghe dân gian xì xào nửa hư nửa thực rằng: “Các thế lực thù địch (xin lỗi, tiên sư nó) nói cái gì hình như cũng đung sắc đúng, Ban Tuyên giáo Trung ương (xin lỗi) nói cái gì hình như cũng sờ ai sai…” thì quả là chưa chắc; bằng chứng là trong hoàn cảnh đất nước mà sự thật trốn biệt như hôm nay, thì việc Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn chúng ta hãy mở mắt, từ bỏ giấc nam kha vô tích sự quá dài để nhìn vào sự thật, nói lên sự thật đất nước, là một việc làm quá đúng.

 Tất nhiên, sự thật mà Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn nhìn nhận được nhìn bằng mắt thường, chứ không phải sự thật bịt mắt bắt dê, hay sự thật được nhìn bằng mắt kẻ khác, nhìn bằng những thấu kính ảo, kính lồi, kính lõm, hay chiếc gương chiếu yêu, chiếu bóng… Thâm ý của Ban Tuyên giáo Trung ương hình như muốn chúng ta tìm lại phong trào “Nói thẳng, nói thật” thời kỳ Đổi mới năm 1986 -1987 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát động?

 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trong cuộc gặp mặt văn nghệ sĩ năm 1987, đã làm gương nói thẳng nói thật, khi ông đặt vấn đề rốt ráo cho văn học nghệ thuật là nhà nghệ sĩ phải có tự do sáng tác; ông nói: “Cởi trói như thế nào, cởi trói nói ở đây trước hết là Đảng phải cởi trói cho các đồng chí… Tôi cho rằng khi những sợi dây ràng buộc được cắt đi, sẽ làm cho văn học nghệ thuật như con chim tung cánh bay lên trời xanh…”.

 Rõ ràng, qua lời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đảng đã thừa nhận từng trói văn nghệ sĩ và trí thức rất nhiều năm. Lần này, Ban Tuyên giáo Trung ương, thông qua cuộc hội thảo cấp nhà nước “Văn học nghệ thuật hướng vào sự thật của đất nước” đã khuyến khích kẻ hèn này là chúng tôi nói lên sự thật, toàn là những sự thật chết người, sự thật mà chính quyền cố tình giấu diếm vì món lợi của quyền lực, với sự ngụy biện chống lại lẽ phải, chống lại chân lý: “Nói ra sự thật lúc này không có lợi”. Chả lẽ vì cái lợi, vì miếng ăn mà chúng ta đành phải nói dối hết đời ông đến đời cha, hết đời con đến đời cháu hay sao? Vậy chừng nào nhà nước Việt Nam mới cho người dân chúng tôi công khai nói ra sự thật đây? Chúng tôi đành lấy lời dạy của K. Marx làm bùa hộ mệnh: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để một lần cuối cùng nói ra sự thật của đất nước chúng ta, dẫu có bị bị làm phiền, thậm chí bị tù đầy cũng mặc. Một kẻ nói dối, một dân tộc nói dối “lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do, không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải… Khi một kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh, kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi.

Được lời như cởi tấm lòng, chúng tôi xin kể ra SỰ THẬT ĐẤT NƯỚC qua mắt mình, cái mà nền văn học của chúng ta lâu nay lảng tránh, làm ngơ, mặc “quốc gia hưng vong”, “ thất phu” thay vì “ hữu trách” thì hầu như cánh “thất phu” nhà văn thảy đều “tắc trách”… Chúng tôi mong 700 tờ báo của lề phải, tức báo của Đảng và nhà nước, hãy hạ cố chỉ ra những sự thật mà chúng tôi gọi tên trong bài tham luận này đúng hay sai. Còn nếu quý vị dùng công an hay nhà tù để đối thoại với chúng tôi thì quý vị đã mặc nhiên thừa nhận chúng tôi nói đúng; chỉ vì đuối lý mà quý vị mới phải dùng hạ sách là làm phiền chúng tôi, đe dọa chúng tôi thì quý vị đã không chính danh quân tử, dùng nền chính trị bá đạo ứng xử với người dân, khi người dân dám nói lên sự thật để hi vọng trên đất nước đau thương và cam chịu này le lói một nền chính trị vương đạo, dựa vào sự thật, lương tri và lẽ phải. Trong hàng trăm sự thật nhãn tiền của đất nước, chúng tôi chỉ xin kể ra ba sự thật mà thôi.

Chưa bao giờ số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay: nước nhà đang bị giặc ngoại bang xâm lấn bằng cuộc chiến tranh ngọt ngào, chiến tranh ôm hôn thắm thiết và tặng hoa, tặng quà anh anh chú chú, bằng cách chiếm dần hai quần đảo chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa, lấn chiếm dần dần biên giới đất liền và hải đảo, khiến nguồn lợi biển vô cùng tận của ta rồi sẽ mất hết, dân tộc ta không còn đường ra đại dương, coi như tiêu. Ngoại bang dùng chiêu bài “ý thức hệ” và “16 chữ vàng” làm dây trói vô hình, trói buộc Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam phải nhân nhượng kẻ xâm lược hết điều này đến điều khác. Trên đất liền, ngoại bang dùng con bài khai thác bauxite, mua đất thời hạn 100 năm của 18 tỉnh lấy cớ trồng rừng, thực chất là công cuộc chiếm đất di dân theo kiểu vết dầu loang, theo kiểu “nở hoa trong lòng địch”. Đến nỗi, khi giặc chiếm Hoàng Sa rồi đặt tên quận huyện cho quần đảo này, sinh viên thanh niên biểu tình chống giặc lại bị nhà nước Việt Nam bắt. Vậy, nhà nước chúng ta hiện nay đứng về phía ngoại bang xâm lược hay đứng về phía nhân dân ta? Cũng chưa bao giờ như hôm nay, thiên nhiên và môi trường sống trên nước ta lại bị phá hoại khủng khiếp như thế: rừng bị triệt phá gần hết, sông ngòi đồng ruộng cạn kiệt nguồn nước, lụt lội kinh hoàng, khí trời bị ô nhiễm tới mức cuối cùng, nước mặn xâm hại phá hủy các đồng bằng. Chỉ cần một trận mưa lớn là Hà Nội, Sài Gòn biến thành sông do quy hoạch xây dựng phản khoa học. Hạt lúa, củ khoai, mớ rau, tôm cá, thịt gia súc, gia cầm cũng đang bị các chất hóa học độc hại chứa trong thức ăn, các chất tăng trưởng, chất bảo quản độc hại ám sát, khiến sinh tồn của giống nòi có cơ biến dạng…

 Đạo đức xã hội tha hóa tới mức cuối cùng, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải… Một ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và rất nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh Hà Giang chơi gái vị thành niên do ông hiệu trưởng trường trung học Sầm Đức Xương bắt các cháu nữ sinh là học sinh trong trường làm điếm, nhằm cống nạp cho các quan đầu tỉnh. Nghe nói ông Nguyễn Trường Tô, ông Sầm Đức Xương từng là những người nhiều năm liền được bằng khen vì thành tích học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Một sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa từng là đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú, đã ra tay giết và cướp của chính người yêu cũ của mình một cách man rợ, không phải là cá biệt trong một xã hội con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết nhau được đưa tin đầy tràn trên các trang báo lề phải. Lối sống vô đạo đức, hành vi vô luân, con người ứng xử với con người man rợ hơn dã thú đang là vấn nạn quốc gia, có thể đưa một dân tộc vốn có văn hóa, văn hiến bốn nghìn năm tới chỗ diệt vong… Không nhìn ra những nguy cơ chết người này, liệu 100 năm nữa Tổ quốc Việt Nam chúng ta còn tồn tại không? Dòng giống con Lạc cháu Hồng còn tồn tại không?

 Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực, đúng như ý kiến của ông Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã công nhận. Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay đồng nghĩa với dối trá: thày dối trá thày, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục. Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa… là sách đạo văn. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ… lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Việc Hà Nội vừa qua đưa chỉ tiêu “xóa mù tiến sĩ” cho cán bộ công nhân viên nhà nước đã nói lên học vị tiến sĩ chẳng còn giá trị gì cả. Có lẽ trong vài năm tới, sau việc Bộ Giáo dục ra chỉ tiêu đào tạo thêm 23.000 tiến sĩ, sẽ dẫn tới chiến dịch xóa mù tiến sĩ trên phạm vi toàn dân. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị tiến sĩ nhưng chưa có bằng tốt nghiệp đại học, thậm chí có vị chưa có bằng tốt nghiệp cấp 2 vẫn lấy được học vị tiến sĩ. Việc chính trị hóa môn văn, môn lịch sử, môn triết học, chính trị hóa nền giáo dục… đã tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước. Giáo dục như thế sao có thể đào tạo ra những công dân chân chính? Đây là dấu hiệu suy vong lớn nhất của dân tộc do nền giáo dục thiếu tính nhân văn, thiếu tính chân thật gây ra. Những quả bom B52 tinh thần là nền giáo dục đi chệch hướng chân thiện mỹ đang rải thảm lên tinh thần dân tộc, thì ai là người phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đây?

Than ôi, sau những quả bom tinh thần có tên là giáo dục mà chế độ tự ném vào mình, chỉ cần ngoại bang ném bồi thêm mấy quả bom thật vào hai đập thủy điện Sơn La và Hòa Bình là đồng bằng Bắc Bộ và cả Hà Nội sẽ biến mất, dân tộc sẽ biến mất… Hai đập thủy điện khổng lồ trên nghe đâu lại nằm trên vết nứt động đất… mới hãi hùng làm sao? Đầu nguồn sông Hồng, đầu nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc đã và đang xây hàng trăm đập thủy điện, khiến hai con sông chính của đất nước khô cạn dần, không còn đủ nguồn nước tưới cho hai đồng bằng chính nuôi sống dân tộc. Cách Móng Cái 60 km, tại Phòng Thành, Trung Quốc đang xây nhà máy điện hạt nhân rất lớn; nếu có sự cố kiểu Chernobyl vào mùa gió bấc, Hà Nội và dân đồng bằng Bắc Bộ có thể sẽ chết hết vì nhiễm phóng xạ hạt nhân…

 

 

SỰ THẬT HAI

 Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không? Không! Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng? Thưa, chính quyền! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi. Vụ tham nhũng mới nhất như một đòn hiểm ác đánh một cú chí tử vào đất nước là tập đoàn Vinashin – một nấm đấm thép của chính phủ – đã cướp đi của nhân dân số tiền khổng lồ là 80.000 tỷ đồng. Cứ thử làm tròn dân số nước ta là 90 triệu người (thực ra dân số Việt Nam mới chỉ trên 85 triệu dân), vị chi mỗi người dân vừa bị tập đoàn quốc doanh Vinashin cướp đi gần 9.000.000 đ. Chín triệu đồng với người nông dân là một nguồn vốn lớn: một gia đình nông dân có bốn nhân khẩu chẳng hạn, đã vừa bị Vinashin cướp đi nhãn tiền 36.000.000 đ. Đã có bao nhiêu tập đoàn Vinashin cướp hết tiền của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại chưa bị phát hiện? Những nấm đấm thép của chính phủ như các tập đoàn kinh tế: tập đoàn Than, tập đoàn Điện, tập đoàn Khoáng sản… đã và đang đấm chí tử vào hầu bao dân nghèo Việt Nam. Theo kiểm toán nhà nước, năm 2008, các tập đoàn kinh tế – nắm đấp thép – đã làm thất thoát 10 tỷ đô la. Năm 2009, số thất thoát (đổ tội cho lỗ vốn) cũng không nhỏ hơn số 10 tỷ đô la năm trước. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh, các công ty quốc doanh đang là đại họa cho quốc gia; chứng tỏ thành phần kinh tế rường cột của mô hình xã hội chủ nghĩa này đã hoàn toàn thất bại. Về quốc nạn tham nhũng, bà Phạm Chi Lan, chuyên viên kinh tế cao cấp của chính phủ đã phải cay đắng thừa nhận “bọn nắm đấm thép – chúng nó ăn hết tiền của dân rồi” như sau: “Một khi vẫn còn các ông lớn chủ đạo vẫn ngốn hết nguồn lực của đất nước và thâu tóm hết quyền thiết kế chính sách có lợi cho mình, thì làm sao thằng nhỏ động lực kinh tế tăng tốc được” (Tuần Việt Nam 22/07/2010).

 Tại sao nhà nước ta hiện nay vốn có hai chính quyền cồng kềnh, chồng chéo nhau, giẫm đạp lên nhau: một chính quyền theo hệ Đảng và một chính quyền theo hệ nhà nước với hàng vạn ban thanh tra, hàng vạn chi bộ bốn năm sáu tốt, với hầu hết mấy triệu đảng viên gương mẫu đều đã học tập tốt đạo đức Bác Hồ, mà giặc tham nhũng lại ngang nhiên hoành hành trắng trợn từ vi mô đến vĩ mô đến như vậy? Quan tham nhìn từ xã trở lên không thấy lao động chân tay, không thấy lao động trí óc, chỉ sử dụng một thứ lao động có tên là LAO ĐỘNG LÃNH ĐẠO mà ai ai cũng giàu có hơn dân thường hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỉ lần là sao? Chung quy lại, có phải là do thể chế sai, mô hình chính trị sai: VỪA ĐÁ BÓNG VỪA THỔI CÒI, VỪA ĐI THI, CHẤM GIẢI VỪA PHÁT GIẢI VỪA ĐƯỢC LÃNH GIẢI. NHÀ NƯỚC – ĐẢNG MỘT MÌNH MỘT CHỢ: VỪA THAM NHŨNG VỪA CHỐNG THAM NHŨNG? Xin hỏi: tay phải tham nhũng, liệu tay trái có dám cầm dao chặt được tay phải hay không?

 Linh hồn triết học duy vật biện chứng Marxism nằm ở câu kinh mà đảng viên cộng sản nào cũng phải thuộc làu làu: “Mọi sự vật đều được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất”. Chỉ trừ nền chính trị của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không hề nằm trong quy luật vận động này của Marx, vì nó triệt tiêu đối lập chính trị!

 Nền chính trị độc đảng, độc quyền của nước ta hôm nay đang chống lại biện chứng pháp Marxism. Trong phép biện chứng do Hegel sáng tạo, Marx tiếp thu, có ba nhịp như sau: xuất đề, phản đề và tổng đề. Phản đề hay đối lập chính là linh hồn của biện chứng pháp Marxism. Chối bỏ đối lập, triệt để cấm phản đề, cấm đối lập chính trị, nền chính trị của nước ta ngày nay đang chống lại chính cái lý thuyết chủ nghĩa cộng sản mà nó thề nguyền đi theo, thành ra một nền chính trị thoái bộ, rất giống với các nền chính trị thần quyền thời Trung cổ bên châu Âu.

 Hãy xem khẩu hiện rất duy tâm, hoàn toàn chống lại thuyết Marxism của Đảng cầm quyền: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh MUÔN NĂM”. Marx từng giải thích tại sao loài người thống khổ: vì loài người còn phân chia giai cấp. Mục đích của Marx là làm cho nhân loại tiến đến đại đồng, tức tiến đến thiên đường cộng sản. Muốn đến thế giới cộng sản, phải xóa bỏ các giai cấp: xóa bỏ giai cấp tư sản, xóa bỏ giai cấp vô sản, xóa bỏ nhà nước, xóa bỏ công an, quân đội, tất nhiên phải xóa bỏ cả Đảng Cộng sản, vì Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp vô sản. Mà khi xóa bỏ giai cấp, thì đảng của giai cấp cũng không còn. Hô “Đảng Cộng sản Việt Nam MUÔN NĂM” cầm bằng như hô: “Xã hội loài người có giai cấp muôn năm”! Rõ ràng hô như vậy là treo cổ chủ nghĩa Marx, là không chính danh, là tự xóa bỏ tính mục đích của Đảng Cộng sản.

 

SỰ THẬT THỨ BA: NÓI MỘT ĐÀNG, LÀM MỘT NẺO, HAY LÀ DANH KHÔNG CHÍNH THÌ NGÔN KHÔNG THUẬN

 Đảng, Nhà nước Việt Nam nói thì rất hay, nhưng làm thường ngược lại. Những nguyên tắc, nguyên lý, luật pháp, chính sách, đường lối của Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam hiện nay hầu hết đều không chính danh.

 Xin chứng minh

 Trong Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam người dân được hưởng tất cả các quyền: quyền sống, quyền làm người, quyền hoạt động chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, lập đảng phái, quyền biểu tình, tự do tôn giáo, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do đủ thứ…

 Chính sách hộ khẩu đã cấm tự do cư trú.

 Quyền được biểu tình của dân bị cấm chỉ bởi một nghị định (do Thủ tướng Phan Văn Khải ký): cấm từ năm người trở lên tụ tập hay đi hàng dọc ngoài đường, ngoài phố. Anh bạn chúng tôi có 5 đứa con, cộng hai vợ chồng là 7 người, mỗi sáng Chủ nhật anh chị dẫn bầy con đi tập thể dục tại công viên cách nhà hơn cây số . Đoàn rồng rắn tí hon của anh chị không thể đi thành một hàng, mà phải bí mật xé lẻ thành hai tốp, anh dẫn 3 đứa con, chị dẫn 2 đứa con giả vờ không quen biết nhau, đi vào hai lề đường khác nhau, sợ đi chung sẽ bị công an bắt… Anh bạn này tâm sự: ra Quốc lộ số 1, qua một số đường phố ở các thành phố nhỏ, thấy trâu bò được ung dung đi thành bầy đàn hàng mấy chục con trên đường mà không bị công an bắt? Sao kiếp người ở Việt Nam lại tủi hổ hơn kiếp bò: con bò còn được tự do tụ tập, tự do nghênh ngang rồng rắn trên đường, được Đảng và nhà nước đối xử tử tế hơn hẳn con người… là sao hở các ông trời con?

Tự do tôn giáo bị cái rọ tôn giáo quốc doanh cấm cản. Hàng trăm sư sãi, chùa chiền vốn theo một hệ phái Phật giáo riêng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam đã bị cấm hoạt động, bắt phải vào Phật giáo quốc doanh, nếu không chịu quốc doanh hóa Phật giáo sẽ bị bắt. Công giáo cũng phải thành Công giáo quốc doanh. Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành… cũng phải vào quốc doanh thì sao gọi là tự do tôn giáo? Ở một đất nước không có TÔN GIÁO TƯ NHÂN, chỉ có TÔN GIÁO QUỐC DOANH mà cứ xưng xưng toe toét: Việt Nam có tự do tôn giáo.

 Điều 4 trong Hiến pháp cho phép chỉ một mình Đảng Cộng sản được nắm quyền lãnh đạo mãi mãi, đã cấm mọi công dân tự do hoạt động chính trị, trong khi quyền người dân được tự do hoạt động chính trị ghi rõ ràng trong Hiến pháp. Điều 4 của Hiến pháp là điều không chính danh.

 Đảng và Nhà nước có trên 700 tờ báo giấy báo viết báo hình. Xã hội tự xưng là “nhân dân làm chủ: của dân, do dân, vì dân”, “cán bộ là đày tớ nhân dân”. Tai ngược thay, chính anh đầy tớ này được độc quyền ra báo, lại cấm ông chủ ra báo là sao? Marx – sinh thời từng ca ngợi nền tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản. Marx lên án cay độc nhà vua Phổ kiểm duyệt báo chí theo kiểu nhà nước Việt Nam hôm nay lùa tất cả nền báo chí nước nhà vào cái rọ lề phải, đánh sập hơn ba trăm blog và website cá nhân trên Internet như lời khoe khoang của ông tổng cục phó Tổng cục An ninh Bộ Công an, trung tướng Vũ Hải Triều… Không có nền tự do báo chí tư sản, nền xuất bản tự do tư sản, không thể xuất hiện chủ nghĩa Marx. Nếu Karl Marx tái sinh xuất hiện giữa lòng Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay, chắc chắn cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản sẽ bị lính của ông Vũ Hải Triều bắt ngay tắp lự.

 Khi người dân không có quyền ra báo tư, lập nhà xuất bản tư… cũng có nghĩa người dân Việt Nam hiện nay không có quyền tự do ngôn luận.

 Khi Hiến pháp đã cho công dân cái quyền thì người dân không phải đi xin. Hiến pháp bảo công dân có quyền sống, quyền làm người, vậy chả lẽ khi sống là phải thở, phải ăn, phải mặc, phải yêu vợ… thì cứ mỗi lần thở, mỗi lần ăn, mỗi lần mặc, mỗi lần yêu vợ… lại phải làm đơn xin phép công an à?

 Hiến pháp của các nước dân chủ văn minh sinh ra để bảo vệ người dân, đảm bảo nhân quyền, dân quyền và mọi quyền tự do của dân, cốt yếu để ràng buộc kẻ cầm quyền. Hiến pháp nước ta hiện nay sinh ra hầu như để chỉ trói buộc người dân và tạo hàng nghìn kẽ hở cỡ lỗ thủng con voi chui lọt cho kẻ cầm quyền tự do đánh tráo Hiến pháp, tự tung tự tác, làm ngược lại Hiến pháp mà không bị luật pháp ràng buộc là sao?

Quốc hiệu nước ta hiện nay xưng là: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực ra có đúng không? Thưa không! Vì nền kinh tế nước ta từ năm 1986 đến nay là nền kinh tế thị trường, tức nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, một chủ nghĩa tư bản hoang dã. Vậy quốc hiệu nước ta muốn sát với “sự thật của đất nước” như gợi ý của Ban Tuyên giáo, phải đặt lại là: “Cộng hòa Tư bản Chủ nghĩa Việt Nam” mới chính danh.

 Chủ nghĩa xã hội nói cho cùng là một mô hình ảo, hoàn toàn không có thật. Hồi chúng tôi theo học tại Học viện Gorky bên Liên Xô năm 1988, thường nghe dân Liên Xô định nghĩa về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Lenin-Stalin như sau: “Chủ nghĩa xã hội là con đường vòng vèo nhất, đầy máu và nước mắt nhất, khốn nạn nhất để đi lên tư bản chủ nghĩa”. Liên Xô, với mô hình xã hội chủ nghĩa trại lính (hay trại tập trung) đã phải mất 74 năm đi vòng vèo trong máu xương, ngục tù, trong đày đọa của những quần đảo Gulag hắc ám, man rợ… để năm 1991 mới tới được nền kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa. Quốc hiệu của nước ta như vậy là không chính danh.

 Cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào đít khái niệm kinh tế thị trường của nhà nước ta hiện nay là một cái đuôi giả, một cái đuôi nhựa chạy bằng cục pin sắp thối của Trung Quốc. Theo nghĩa từ điển: “định hướng” có nghĩa là xác định phương hướng, mà điểm tới đã được xác định cụ thể. Ví dụ ông A hẹn ông B qua điện thoại, rằng mai ta gặp nhau ở Hồ Con Rùa, tập kết tại đó ăn sáng, uống café, định hướng Buôn Ma Thuột mà tới Plây-ku nhé! “Xã hội chủ nghĩa” là khái niệm ảo trên giấy, chưa có thật trên đời và sẽ không thể có thật vì nó dựa trên những nguyên lý ảo tưởng, bịa đặt, phi khoa học.

 Đưa đất nước đi vào chỗ không có thật, định hướng tới cõi không có thật mà đến thì than ôi, thà giết đất nước đi còn hơn! Nên khẩu hiệu “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” in trên đầu tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, nếu theo tiêu chí “hướng về sự thật” của Ban Tuyên giáo chỉ dẫn, phải đặt tên lại cho đúng với thực chất ngữ nghĩa của từ điển là: “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa không có thật” mới đúng. Không có sự thật đi kèm, mọi lý thuyết, mọi mô hình xã hội, mọi lời hứa đều là sai trái, ảo tưởng, hứa hão, đúng như K. Marx đã nói.

 Đồng nghĩa Đảng Cộng sản là đất nước, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc là không chính danh. Đảng Cộng sản mới chỉ có 5 triệu đảng viên, còn nhân dân Việt Nam ngoài Đảng chiếm đa số tới hơn 80 triệu dân, có phù phép kiểu gì, Đảng Cộng sản cũng không thể biến thành đất nước Việt Nam được. Đảng nghĩa là phe phái, là một nhóm người. Một nhóm người sao có thể biến thành tất cả được, nên danh từ ĐẢNG TA dùng để gọi Đảng Cộng sản là không chính danh. Liên Xô đã bỏ ra 74 năm để tìm mà không thấy chủ nghĩa xã hội đâu, chỉ thấy trại tập trung, thấy nhà tù nhiều hơn trường học. Lenin, Stalin, Mao… đã biến nhân dân các nước Nga, Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, hàng chục nước Đông Âu… thành hàng tỉ con chuột bạch cho cuộc thí nghiệm máu cộng sản chủ nghĩa bằng bạo lực, bằng cải tạo áp đặt, bằng thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo nhưng đã thất bại hoàn toàn. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Đông Âu giờ đã đi theo tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm ảo, nên khẩu hiện “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” là rất buồn cười, giống như nói “Yêu nước là yêu cái không có thật” vậy…

 Quốc hội nước CHXHCN VN được Đảng Cộng sản và nhà nước phong cho là cơ quan lập pháp cao nhất của nhân dân Việt Nam là không chính danh. Vì thực tế, Quốc hội này chỉ là cơ quan ngoại vi của Đảng, do Đảng lãnh đạo; Quốc hội mà 98% dân biểu là đảng viên của một đảng duy nhất thì việc gọi Quốc hội này của dân là một trò hề, là không chính danh; Quốc hội này của Đảng, dân nào có quyền bính gì trong Quốc hội giả hiệu này?

 Việc một nhóm người không ai khiến, tự nhiên nhảy phóc ra đấu trường xã hội ngót trăm năm nay, hung hãn cầm mác cầm lê cầm búa cầm liềm cấm cản những nhóm người khác lập phe đảng là không chính danh, không logic, không công bằng, không có luật hay chỉ là luật rừng?

Đảng Cộng sản Việt Nam không do nhân dân Việt Nam bầu ra, nên sự tồn tại của Đảng để tuyệt đối cầm quyền là không chính danh. Đúng như Mao nói rằng chế độ chuyên chính vô sản của ông ta là do súng đẻ ra: “Súng đẻ ra chính quyền”, tức là SÚNG BẦU RA CHÍNH QUYỀN… Mấy chục năm nay, người ta đã cố tình gọi nhầm SÚNG là DÂN: “súng bầu lên chính quyền thì lại nói dối là dân bầu”… Cũng giống như (giả dụ thôi, hi vọng đừng biến thành sự thật!) sau bài viết này, công an gọi tên Trần Mạnh Hảo lên… dọa bắn; Hảo ta vốn là một con cáy 64 tuổi biết cầm bút, thấy súng há mồm sắp đối thoại với mình, sợ vãi đái, nghĩ mình miệng hùm gan sứa, sức đâu cãi lại miệng súng, đành phải ký vào giấy cung khai rằng: báo cáo các anh, em đã nói sai, đã nói dối, vì Đảng ta và nhà nước ta từ xưa tới nay thật thà hơn đếm, có biết nói dối là gì đâu. Thế rồi báo An ninh hôm sau hí hửng: trước lý lẽ sắc bén và thực tế sáng ngời chính nghĩa của nhân dân, tên Hảo đã không đủ lý lẽ đối thoại, đã ăn năn hối lỗi vì dám vu cáo cho Đảng ta nói dối…

 Việc Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 theo thuyết Marxism là không chính danh.

 Marx bảo: chủ nghĩa tư bản xuất hiện với đại công nghiệp. Marx lại bảo phương thức kinh tế châu Á không nằm trong chủ nghĩa Marx. Marx phán: giai cấp vô sản là hệ quả của giai cấp tư bản. Nghĩa là tư bản đẻ ra vô sản. Trung Hoa, Việt Nam và cả châu Á, thế giới Ảrập, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Phi Châu… trong thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20 chưa hề có chủ nghĩa tư bản. Năm 1930, Việt Nam chưa có ông bố tư bản, sao lại có đứa con tên là vô sản ra đời? Bịa ra một giai cấp vô sản ảo để thành lập ra đảng của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản Đông Dương là không chính danh, là trái với thuyết Marxism, là xây nhà trước, xây nền nhà sau.

 Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Đông Dương nêu khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ” là không chính danh. Diệt trí thức là diệt đi hai ông đại trí thức Marx-Engels ư? Trí thức là linh hồn của xã hội, diệt trí thức cũng có nghĩa là diệt luôn xã hội loài người.

 Năm 1958 – 1960 Bắc Việt Nam (năm 1975 là cả nước) tuyên bố tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với “mo cơm và quả cà”, không thông qua con đường tư bản chủ nghĩa theo sự xúi dại của Lenin là không chính danh. Theo Marx, linh hồn của xã hội chủ nghĩa là đại công nghiệp; chỉ có nền nông nghiệp lạc hậu mà dám thí mạng cùi tiến lên xã hội chủ nghĩa là tiến lên toàn dân cùng chết đói, hay tiến lên công xã kiểu diệt chủng như Khmer Đỏ, tiến lên “đại nhảy vọt” kiểu Mao khiến mấy chục triệu người chết đói, dân chúng phải ăn thịt cả con mình như cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội do Thông tấn xã Việt Nam vừa phát hành đã kể.

 Năm 1986, theo gương Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì chôn chủ nghĩa tư bản (như Marx-Engels dạy) đã quay ngược lại chôn chính học thuyết cộng sản, bằng cách xây dựng nền kinh tế tự do đa thành phần tư bản chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi chết đói. Theo Marx dạy: kinh tế nào, chính trị ấy: hạ tầng cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc chính trị. Nay, kinh tế Việt Nam là tư bản tự do mà chính trị vẫn giữ nền chính trị độc tài xã hội chủ nghĩa là sai quy luật, là không chính danh, là đầu chuột đuôi voi, là ông nói gà bà nói thóc lép, là hồn Trương Ba, da hàng thịt…

 Marx–Engels từng công khai tuyên bố trong trước tác của mình: “Chúng tôi không có ý định đoán định tương lai một cách giáo điều mà mong muốn dùng phương pháp phê phán thế giới cũ để tìm được một thế giới mới… Việc kiến tạo và tuyên bố một lần và mãi mãi những giải đáp cho các vấn đề của mai sau không phải là việc của chúng tôi…”. Rõ ràng, chính Marx và Engels đã coi học thuyết của mình chỉ là những giả thuyết, những phép thử, những phỏng định về tương lai, tuyệt nhiên không giáo điều cho lý thuyết của mình là chân lý vĩnh hằng. Những ai đã, đang coi học thuyết Marx là chân lý bất biến là đang chống Marx, là muốn dùng Marx giả, Marx dỏm bịt mắt trí thức và nhân dân để quyết câu giờ giữ quyền lực là không chính danh. 

Theo định đề: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” của Marx, chúng ta thấy thực tế đã không chấp nhận cuộc thí nghiệm XÓA TƯ HỮU hãi hùng nhất trong lịch sử loài người của Marx-Engels-Lenin với tham vọng “XÓA TƯ HỮU, XÓA CÁ NHÂN, XÓA NHÀ NƯỚC, XÓA MÂU THUẪN, XÓA ĐẢNG CỘNG SẢN, XÓA CÁC GIAI CẤP VÀ ĐẢNG CỦA NÓ, XÓA CHÍNH BIỆN CHỨNG PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI CỘNG SẢN ÁO TƯỞNG PHI BIỆN CHỨNG – NƠI KHÔNG CÓ CÁI DỐI TRÁ, KHÔNG CÓ CÁI ÁC ĐỘC VÀ CÁI XẤU XA, NƠI TUYỆT ĐỐI TỰ GIÁC, TUYỆT ĐỐI TỰ DO, TUYỆT ĐỐI GIÀU CÓ, TUYỆT ĐỐI KHÔNG CÓ NGOẠI TÌNH, KHÔNG CÒN HÔN NHÂN, KHÔNG CÒN GIA ĐÌNH KIỂU CŨ, KHÔNG CÒN NGÂN HÀNG, KHÔNG CÒN TIỀN TỆ…”. Đó là một xã hội bịa đặt không có thật: vì không có cái ác thì cái thiện cũng bị triệt tiêu, không có cái ngụy thì cái chân cũng biến mất, không có cái xấu thì cái đẹp cũng chẳng còn…

 Một trăm sáu mươi hai năm từ khi “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Marx–Engels ra đời đến nay, hàng trăm triệu sinh mạng đã bị giết, hàng tỉ người bị tù đầy, bị ngược đãi để “các vị lãnh tụ kính yêu” làm cuộc thí nghiệm đẫm máu cải tạo thế giới từ TƯ HỮU sang CÔNG HỮU, từ TƯ BẢN sang VÔ SẢN, từ CÁ NHÂN sang TẬP THỂ, XÓA QUỐC GIA chỉ còn QUỐC TẾ, XÓA HOÀN TOÀN THẾ GIỚI CŨ, NHÂN LOẠI CŨ chỉ còn MỘT THẾ GIỚI MỚI TINH, NHÂN LOẠI MỚI TINH KHÔNG CÒN TRUYỀN THỐNG, KHÔNG CÒN LỊCH SỬ, KHÔNG CÒN QUÁ KHỨ, KHÔNG CÒN TÔN GIÁO… Chao ôi, khi một con người không còn quá khứ, một dân tộc không còn lịch sử, con người ấy, dân tộc ấy sẽ biến thành tinh tinh, xã hội tinh tinh hay thành những cục bột biết ca hát?… Rút cục, cuộc thí nghiệm cộng sản kinh hồn trên phạm vi toàn thế giới đã hoàn toàn thất bại. Những nước cộng sản cứng đầu nhất như Bắc Triều Tiên, Cuba hiện nay cũng đang rục rịch thí nghiệm mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tập toẹ học lại những bước đi làm giàu vỡ lòng nhân loại đã có từ trước khi Marx ra đời. Đây là sự thật không thể nào chối cãi, dù cãi cối cãi chày bằng còng số tám hay nhà tù, họng súng v.v…

 Cám ơn Marx, đã cho chúng tôi đề bài “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để làm một bài tập làm văn về sự thật này. Cám ơn ngài cố Tổng thống nước Ba Lan tự do Lech Kaczyński đã cho chúng tôi ý tưởng rất hay: chỉ có sự thật mới giải phóng con người, làm chủ đề bài tham luận. Chúng tôi cũng xin cám ơn tiêu đề của cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật hướng về sự thật đất nước” của Ban Tuyên giáo Trung ương đã gợi ý, khích lệ chúng tôi dám liều mạng nói lên những sự thật cay đắng nhất, khủng khiếp nhất của đất nước chúng ta hiện nay, những sự thật chết người, ai ai cũng biết mà vì sợ tù tội nên không ai dám nói ra.

 Viết đến đây, chúng tôi chợt nhớ đến truyện “Bộ long bào của vị hoàng đế” của văn hào Andersen. Thằng bé trong thiên truyện đã liều mạng xé toang bộ long bào hoang tưởng của vị hoàng đế kia bằng cách hét thật to: ông vua cởi truồng! Tiếng kêu thất thanh của chân lý ấy có làm đám đông đang bị quyền lực hôn mê, luôn miệng tung hô vị hoàng đế mặc bộ long bào đẹp nhất tỉnh ra hay không? Nhưng hình như ngay sau khi gọi sự vật bằng tên của nó, thằng bé do sự thật, do tự do phái đến đã biến mất. Do đó, mới còn biết bao nhiêu ông vua triết học cởi truồng, vua chính trị cởi truồng, vua cách mạng cởi truồng, vua chủ nghĩa cởi truồng… đang đi nhông nhông ngoài xã hội, ngoài phố xá, đã và đang được những đám đông giả vờ cuồng tín hòng trục lợi xúm vào vạn tuế, ca ngợi các ngài khoác những bộ long bào tuyệt vời của trần gian…

 Sự thật giản dị nhường ấy, sao bị cả đám đông lờ đi? Mới hay sự cám dỗ của dối trá có bùa ngải quỷ sứ, mê hoặc con người trong bóng tối, trong đe dọa, trong hấp lực của củ cà rốt treo trước miệng con lừa… Sự thật chỉ có thể tồn tại công khai dưới ánh sáng mặt trời. Xã hội của những hội kín vây bủa con người trong lừa mị, trong sợ hãi u u minh minh, luôn xua đuổi và cầm tù sự thật. Chối bỏ sự thật, những xã hội do băng đảng hội kín cầm quyền hầu như không bao giờ đi cùng đường với lẽ phải và công lý.

 Chúng tôi không dám làm thằng bé trong thiên truyện kia của Andersen; làm vị thiên sứ của sự thật này, coi chừng khả năng biến mất là điều có thể xảy ra. Hãi quá!

 Chúng tôi chỉ xin kể ra ba vị nhà văn Việt Nam hình như cũng đang thử đóng vai trò của thằng bé ấy, vai trò thiên sứ của sự thật, của tự do.

 Đây là lời của nhà văn Đỗ Chu bùi ngùi, chua xót, khi ông nói về sự lãnh đạo của Đảng với nhà văn; sao nhà văn giống chú cún con ve vẩy đuôi theo ông chủ trong sân nhà thế: “Tớ yêu Đảng như yêu vợ. Vợ còn sống thì tớ nghe vợ. Vợ chết thì tớ lập bàn thờ khấn vái cho đến chết. Đảng cũng là vợ của tớ. Đảng bẩn thì tớ mua xà phòng cho Đảng tắm. Mua nước hoa cho Đảng thơm. Đảng nói thì không được cãi. Đảng bảo ăn là ăn. Đảng bảo uống là uống. Đảng bảo nằm là nằm. Đảng bảo lên giường là lên gường. Đảng bảo ra đường là ra đường…” (Trích bài “Nhà văn Đỗ Chu yêu Đảng như yêu vợ” của Nguyễn Trọng Tạo ngày 13/7/2010). Về việc này, mới thấy Nguyễn Vĩ xưa thánh thật, khi ông viết: “nhà văn An Nam khổ như chó!”.

 Đây là mấy câu thơ của nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đình Chính (con trai cố nhà văn Nguyễn Đình Thi, người rất nhiều năm trước và sau 1975 từng làm Tổng Thư ký – ngày nay gọi là Chủ tịch – Hội Nhà văn Việt Nam): “Mấy thằng bạn văn nghệ chửi đổng hát hay / Cổ họng rắn hổ mang trơn tuột liếm mồi trong các HỘI ĐOÀN / hót hít chính trị như chó hít hóng cứt…” (Trích trong bài thơ “Đêm Sài Gòn” in trong tập thơ Chẹc chẹc của Nguyễn Đình Chính, do Tân Hình thức Publishing Club ấn hành trên mạng 2010).

 Đây là nhà văn đại tá công an Mai Vũ, trước Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ XIII, đã lên tiếng đòi tự do sáng tác, mặc dù từ năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã cởi trói cho các nhà văn:

 “Đây là vấn đề nhạy cảm mà không phải ai cũng có dũng khí dám nói thật. Nhằm thiết lập một trật tự xã hội tư duy đồng chiều, chúng ta đã chính trị hóa mọi đời sống xã hội. Điều đó thật tai hại, nó làm khô héo tinh thần dân tộc. Chính trị hóa khoa học đã dẫn đến phủ nhận chân lý khách quan, làm méo mó khoa học. Trong lịch sử Xô Viết trước kia, đã có thời người làm vườn Lưxenkô – Mitsurin được tôn vinh như những nhà cải cách vĩ đại, còn Mooc găng, Menđen là những kẻ phục vụ chủ nghĩa tư bản vì thuyết gen di truyền. Kết quả, nhà di truyền học thiên tài Vavilôp đã phải tự sát, còn nền di truyền học nước Nga thì lụn bại, để lại một vết nhơ đau đớn trong đời sống khoa học xã hội Xô Viết. Đó là vụ ngụy khoa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Chính trị hóa giáo dục cũng chỉ đẻ ra những chiến binh đánh bom tự sát, chứ không đẻ ra những công dân xây dựng tương lai.

 Hội Nhà văn không phải là dàn hợp xướng để hát theo cái gậy chỉ huy của người nhạc trưởng. Nó là lãnh địa của những tư duy và sáng tạo cá nhân, nó là một tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các nhà văn lấy sứ mạng phục vụ Tổ quốc và nhân dân trên hết.

 Nhà văn viết theo mệnh lệnh của trái tim, mà trái tim nhà văn thuộc về Tổ quốc và nhân dân. Anh ta là tội đồ và đáng nguyền rủa nếu thóa mạ Tổ quốc và dân tộc. Còn khuynh hướng chính trị tùy thuộc quyền lựa chọn của mỗi nhà văn. Hãy để con ngựa Văn tung vó trên cánh đồng bát ngát của tự do” (“Về Hội nhà văn của chúng ta” của Mai Vũ, in trên website Trần Nhương ngày 11-7-2010)

Tiếp nối ba nhà văn trên, chúng tôi xin mời quý vị đọc lại bài thơ “Bài ca sự thật” của chúng tôi (Trần Mạnh Hảo) đã in trên báo Tuổi trẻ số tất niên ngày 24- 01-1987:

 

BÀI CA SỰ THẬT

 Sự thật của tôi

Sự thật của anh

Sự thật của chúng ta

Sự thật của mọi người?

Nhân loại có bao thời

Sự dối trá làm quan toà phán xử

Bru-nô ơi trái đất vẫn tròn

Mà chân lý nghìn sau còn trả giá

 Nhưng đất nước vẫn đi tìm sự thật

Trong câu hát có mồ hôi nước mắt

Có con nghê đá đầu đình cười cợt các triều vua

Có thằng Bờm chẳng tin lời hứa hão

Cái quạt mo không để phú ông lừa

Vua Hùng ơi Người đi tìm sự thật

Bằng cách ngày đầu năm xuống ruộng cày bừa

 Bao triều đại xưa đổ vì ưa nói dối

“Muốn nói gian làm quan mà nói”

Sự thật giấu trong nhà dân đen

Sự thật từng vật vờ đi như ăn mày đầu đường xó chợ

Sự thật làm anh hề, chú mõ

Sự thật như nàng Thị Kính oan khiên

Sự thật trốn vào ngụ ngôn, ngạn ngữ sấm truyền

Sự thật có khi mượn Xuý Vân mà giả dại

Sự thật chiếc lá đa bay qua bao thời đại

Bay về đây trời nổi can qua

Con vua thất thế quét chùa sãi ơi!

 Vĩnh biệt chú Cuội

Vĩnh biệt thành tích ma, báo cáo láo thành thần

Bệnh hình thức gọi sai tên sự vật

Người đói phải nói lời no

Vị đắng sao lại kêu là mật?

Ngục tù mang nhãn hiệu tự do!

 Vĩnh biệt khái niệm quét vôi và từ ngữ nước sơn

Đạo đức dính trên đầu môi chót lưỡi

Vĩnh biệt những bóng ma cơ hội

Những cái đầu già cỗi tự bên trong

Những con mắt nhìn người bằng bóng tối

Có nhận ra tia nắng mới trong lòng ?

 

Tôi là người tập yêu sự thật

Tập nghe nên có lúc ù tai

Tập nhìn nên chói mắt

Đất nước đổi thay

 

 

<="LP style
IP IP Logged
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 05/Nov/2010 lúc 2:37am
Hàng cứu trợ bị biến thành … giẻ rách!
03/11/2010 16:00 (GMT +7) Tuoi tre On Line


Bắc hết lụt, phía Nam dải đất miền Trung lại tiếp tục hứng chịu bão lũ. Khắp nơi các nhà hảo tâm sôi sùng sục tìm cách “chia lửa” hoạn nạn với đồng bào. 
Thế nhưng tại Nghệ An - nơi nhiều cơn lũ đi qua: Hàng cứu trợ bị biến thành… giẻ rách!


Cú điện thoại ngay trong đêm bí hiểm. Đầu dây bên kia giục giã: Người ta bán quần áo cứu trợ để làm giẻ lau xe ô tô, lau máy. Không tin nên cuộc điều tra bắt đầu!
Kho hàng nằm sát nơi tiệm sữa chữa ô tô. Phía trong cơ man là quần áo cũ.  Một số còn nguyên gói hoặc y nguyên trong bì. Khó khăn lắm mới tìm được chiếc bì
chứa đầy quần áo có ghi đơn vị quyên góp hàng cứu trợ. Tài xế chở xe hàng này cho biết, số quần áo cũ ấy chở từ ga Vinh (Nghệ An) và đây là hàng cứu trợ từ
phía Bắc gửi vào.



Kho chứa quần áo cứu trợ ở tiệm sửa chữa ô tô


Đột nhập vào tiệm sửa xe ô tô


Cổng Ga Vinh náo nhiệt. Khách đi tàu xe, kẻ buôn bán nhộn nhịp. Địa điểm mà người đưa tin thông báo nằm ở trên  đường Trường Chinh (Phường Lê Lợi, TP Vinh) -
Cách ga Vinh không xa. “Nơi chứa quần áo cứu trợ đã bị xới tung hết rồi. Họ mua về cả xe quần áo để lau ô tô đấy. Nhưng tiếc của nên nhiều người đã chọn lấy cái mới
đã dùng hết”, người dân phản ánh.
 
10h sáng, kho hàng nằm trước tiệm sửa xe nên rất khó để chúng tôi  tiếp cận. Gần 1h chiều nắng, tiệm sữa chữa xe ô tô vắng hoe. Kho hàng trước tiệm cửa sắt hé mở
đủ lọt người chui vào. Qua ánh sáng khe cửa cũng đủ thấy đống quần áo nằm ngổn ngang trong đó.

Mới nhìn qua thì đây chỉ là đống quần áo cũ rất bình thường. Lao vào bới tung nó lên mới thấy những chiếc hộp, cái bì đựng quần áo cũ nằm ẩn nấp phía dưới. “Bị bới tung
là vì một số cửu vạn thấy tiếc quá nên xin vào bới tung để tìm đồ lành. Chứ mới chở về còn nguyên đai nguyên kiện lắm”, người dẫn đường giải thích.Quả thật khi PV trực
tiếp lao vào đống hỗn độn quần áo thì thấy xuất hiện những gói nilon nhỏ, dán cẩn thận, bên trong là nhiều loại quần áo đã cũ nhưng có thể dùng được. Những gói nilon này
được xếp cẩn thận trong những chiếc bì xác rắn loại lớn.

Phần lớn những chiếc bì này không ghi dòng chữ nào nên rất khó xác định được nguồn gốc. Sau gần 15 phút tìm kiếm cuối cùng PV mới phát hiện được một chiếc bì nằm
dưới cùng của đống quần áo. Bì màu trắng, phía ngoài có ghi rõ chữ màu xanh. Nội dung của dòng chữ chỉ vẻn vẹn: Hội chữ thập đỏ huyện Thanh Trì-TP Hà Nội. Phía dưới
còn có biểu tượng chữ thập của Hội và ghi tháng 10/2010.


Trong kho còn nhiều bao quần áo cũ “nguyên đai nguyên kiện”


"Tấm lòng" của nhà hảo tâm để... lau ô tô, lau máy !


Lân la ở chợ ga Vinh, những tiểu thương nơi đây hết sức bức xúc cho rằng hàng cứu trợ đã bị bán hoặc cho lại làm giẻ để lau ô tô, lau máy.
Trong khi cán bộ khối đang vận động chúng tôi đóng góp ủng hộ đồng bào gặp lũ lụt thì hàng cứu trợ lại bị ghẻ lạnh. Người dân đã mất niềm tin”, chị L-Một tiểu thương trực tiếp
chứng kiến những chiếc xe ô tô chực chờ ở ga tàu hàng để mang theo quần áo cứu trợ bức xúc . Anh T - Tài xế chiếc xe công nông BKS 3120 đã thừa nhận đã trực tiếp chở
quần áo từ toa hàng cứu trợ về cho tiệm sữa chữa ô tô trên đường Trường Chinh mà chúng tôi đã đột nhập. “Tui thấy một anh mặc bộ quần áo chữ thập đỏ bảo chở đi thì tôi
chở chứ có biết đâu. Thuê chở thì tôi lấy tiền thôi”, anh T cho hay.

Hỏi cánh tài xế và người dân xung quanh chợ ga Vinh ai ai cũng cho biết đúng là có chuyện hàng cứu trợ là quần áo đã biến thành giẻ rách. Anh T và một số tài xế khác cũng đã
xác nhận là có chở số hàng cứu trợ là quần áo đến các địa điểm kinh doanh ô tô hoặc sữa chữa máy móc.


Bao bì có ghi địa chỉ nơi gửi hiếm hoi trong kho.

Chủ nhân hàng cứu trợ là ai ?


Hầu hết người dân xung quanh chợ ga Vinh đều biết hàng cứu trợ là quần áo bị “bôi nhọ” một cách rõ ràng. Tuy nhiên họ mơ hồ về việc hàng này bị bán hay cho. Và ai là người cho :
ga Vinh hay một ai khác? Nhưng thông tin chắc chắn là việc làm “động trời” trên đã diễn ra từ buổi sáng đến trước 14h ngày 27/10.Tại phòng Hóa vận (Ga Vinh), chị Bùi Thị Hương -
Thư ký hóa vận khẳng định đúng là ngày 27/10 có hàng cứu trợ từ Hà Nội gửi về. Và ngay đó không chỉ có một toa mà là 3 toa được gửi về từ ga Hà Nội. Trong đó đơn vị nhận là
Hội chữ thập đỏ tỉnh Nghệ An (2 toa ký hiệu 231804 và 231875) và Hà Tĩnh (1 toa 231715).

Vậy đơn vị nào là “chủ nhân” trực tiếp tuồn hàng cứu trợ quần áo vào tiệm sửa chữa ô tô. Biến "tấm lòng" của các nhà hảo tâm thành… giẻ lau ô tô, xe máy?!


Tài xế chiếc xe này thừa nhận đã chở quần áo cứu trợ vào xí nghiệp ô tô
Hàng cứu trợ còn nguyên kẹp chì!


Phòng Hóa vận - Ga Vinh khẳng định hàng cứu trợ bị cho hoặc bán không thể do đơn vị này làm.
Theo quy trình thì khi nhận hàng, ga Vinh sẽ gửi vận đơn đến nơi được nhận. Sau đó đại diện đơn vị này đến sẽ nhận giao liên 4. Sau đó ra bãi dỡ hàng để kiểm tra ký hiệu kẹp chì.
Nếu kẹp chì đã bị phá hoặc không đúng thì ga Vinh sẽ lập biên bản. Còn nếu kẹp chì nguyên vẹn thì tiến hành giao toa. Trong trường hợp hàng cứu trợ được bốc dỡ sáng ngày 27/10
thì hoàn toàn do trách nhiệm và toàn quyền của Hội chữ thập đỏ tỉnh Nghệ An.

Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và thông tin đến bạn đọc.
IP IP Logged
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 10/Nov/2010 lúc 7:47am
Đoàn Cứu Trợ Tới Quảng Bình Bị Đuổi Vì Qua Mặt Cán Bộ Xã


Chuyện chỉ xảy ra ở quê nhà Việt Nam: đoàn cứu trợ bị cán bộ xua đuổi. Bản tin trên báo Lao Động hôm Thứ Hai 8-11-2010 đã kể lại tình hình ở tỉnh Quảng Bình, “Phó Chủ tịch xã đuổi đoàn cứu trợ lũ lụt.”
Báo Lao Động viết rằng, Đoàn cứu trợ do báo Tuổi trẻ Thủ đô và Cty TNHH lương thực HÀ Việt đến tặng quà cho nhân dân vùng lũ tại 3 xã Quảng Văn, Quảng Sơn, Quảng Tiên ở huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình đã bị ông Trần Văn Phương - Phó Chủ tịch UBND xã Quảng Văn đuổi.
Lý do vì sao? Báo Lao Động kể:

“Trong chuyến công tác ngày 2.11 do báo Tuổi trẻ Thủ đô và Công ty TNHH lương thực Hà Việt đi tặng thăm và tặng quà đồng bào miền Trung bị lũ lụt tại 3 xã Quảng Văn, Quảng Sơn, Quảng Tiên của huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Khi đoàn công tác đang chuyển hàng cứu trợ từ ôtô xuống sân UBND xã Quảng Văn thì bất ngờ ông Trần Văn Phương - Phó Chủ tịch UBND xã Quảng Văn có những lời lẽ xúc phạm và có ý định đuổi đoàn cứu trọ ra khỏi UBND xã với một lý do khó hiểu là chưa bàn giao hàng cứu trợ cho xã đã phát hàng cho dân...”



Nguồn Việt Báo
IP IP Logged
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 11/Nov/2010 lúc 9:24am
Quê hương

Đón người bạn về phép Việt Nam qua, câu đầu tiên anh khoe.
- Ông biết không, dân nhà mình bây giờ nó ăn chơi, chích choác, cờ bạc, nghiện ngập… mình không lại được. Giàu cũng chơi, nghèo cũng chơi. Thằng giàu thì chơi theo phong cách “đại gia“, những thằng nghèo thì chơi theo phong cách phá đời, hoặc bán mạng. Gộp chung lại: nó là một canh bạc mang tầm văn hoá của người Việt thời “mở cửa“.
- Cái gì? Đánh bạc mà ông cũng gọi là văn hóa? Tôi hỏi bạn.
Anh đáp.
- Chứ sao? Ngài thử xem có nước nào mà người người đánh bạc, nhà nhà đánh bạc như ở Việt Nam không? Không hả? Vậy thì đúng rồi. Dân Việt mình nó hay ở điểm đó. Nơi nào có tệ nạn, nơi ấy có người Việt. Thời bao cấp dân tình bụng lép kẹp nên có cờ bạc cũng chỉ gọi là phọt phẹt, giải khuây, đủ tiền hút thuốc lào vặt. Nhưng thời nay, thời “mở cửa“ thì cờ bạc đã lẻn vào mọi nhà và ru ngủ từng người một. Sáng sớm, mở mắt, ra quán phở, gặp nhau, câu đầu tiên không phải là good morning hay mo-neo gì cả mà được thế bằng.
- Hôm qua vào “con” gì?
- Ông có “gặt” con nào không hay lại “móm”?
- Ông “chập” bao nhiêu?
- “Chập” ít thế chả bõ dính mép. Nghe tôi “chập” một “nhát” có phải bữa nay giàu to không?
- Đêm qua có mơ mẩn được “con” gì không?
- Lại mơ gặp đàn bà à? Đàn bà chín vía, đàn ông bảy vía. Nghe tôi, chặn đầu, chặn đuôi, chặn một phát ở giữa là “gặt” hết.
- Hôm nay “chập” gấp đôi chứ? Cứ nhỏ giọt thế bao giờ mới lên tiên?
- Hết tiền rồi à? Thì cầm tạm “con” xe máy, chiều “vào cầu”, lại chuộc ra.
- Xe máy cầm rồi à? Nhà làm sổ đỏ chưa? Rồi à? Vậy là có giải pháp rồi. Sao không tính cửa đi một nước lớn có hơn không? Nghe tôi: ông chập “một nhát” cho lão “đề” kia nhập bọn với đám trẻ mồ côi luôn.
- Lớn bé gì nữa. Sổ đỏ tôi cũng cầm mẹ nó tuần trước rồi.
- Vậy là ông đang “bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước”* rồi. Thôi, chọn dòng nào nó xoáy một chút, “thăng” cho nó nhanh…
- Thôi đi các bố trẻ. Mở mắt ra chỉ thấy nói chuyện “đề đóm”, não hết ruột…
Bạn tôi bảo: dân mình có cái thú đi ăn phở buổi sáng. Mới chạng vạng sáng mà quán nào cũng đông nhung nhúc. Bàn ghế các quán thường được đóng bằng gỗ tạp, đen, cáu bẩn, nham nhở và… xiêu vẹo.
- Kệ mẹ nó! Người nhà anh bảo vậy. Quán phở nhà mình là phải vậy. Ngồi ăn phải người chen người, phải chúi mặt chúi mũi vào nhau, rồi thằng gặm, thằng nhai, thằng chan, thằng húp, xụp xoạp, xuýt xoa nó mới sướng.
Mấy bữa đầu, đêm thì thức khuya, nhưng sáng sớm anh đã bị khua dậy để đi dùng điểm tâm cùng người nhà.
Anh làu nhàu, dụi mắt, giọng còn tiếc rẻ.
- Sớm thế? Mới gần sáu giờ sáng, làm sao đã ăn nổi?
Người nhà anh bảo.
- Sáu giờ là hơi muội rồi đấy. Chậm tí nữa là chỉ còn nước lèo thôi.
Vậy là mặc dù mắt mũi còn ríu lại, nhưng bạn tôi cũng phải lồm cồm thức dậy để đi “tập thể dục buổi sáng”. Lúc anh về phép, trời nồm, khách khứa ra vào vô hồi kỳ trận, kéo theo đủ các loại bùn đất. Không sao! Người nọ tha vào, người khác lại tha đi. Qui luật bù trừ cả. Có lẽ vì thế mà cả chủ lẫn khách chẳng ai buồn quan tâm tới khung cảnh nhớp nháp, dơ dáy nọ.
Nhận ra khách quen, bà chủ quán phở tươi cười, chào đon đả.
- Vào đi. Vào đi. Vẫn tái gầu** hả? Hôm nay có thêm ai đấy? Lạnh thế mà mặc sọc và áo máy ô à? Cứ vào chỗ đi đã! Có quẩy nóng đấy! Lấy ngay đi nhé, kẻo lúc nữa là hết đấy. – Sâm ơi dọn bàn lẹ đi – bà chủ quán lầu bầu quát người giúp việc – gái chưa chồng con làm gì mà như bò đái đêm thế? – À, xin chào! Hôm nay “chuyển gam” bò tái à? Lại còn ba trứng gà nữa. Hốc vừa trứng gà thôi, kẻo lại mang “gút” vào thân thì khốn. Được rồi, lượn vào chỗ đi đã. – Ấy, này, thằng kia, nhớ phần tao hai số đẹp vào nhớ. Hôm qua dở hơi, nghe theo giấc mơ ỉa đái của mày, tao “móm” cả hơn triệu bạc.
Thấy bạn tôi đứng ngẩn người nghe bà chủ vừa đối đáp vừa mời khách, người nhà liền giật tay, kéo tuột anh vào tận trong cùng rồi giục người giúp việc dọn bàn.
Bạn tôi bảo.
- Ông biết “bồi” quán phở nó tiếp khách và dọn bàn kiểu gì không? Khách đến tự kiếm chỗ mà… ngồi. Dọn bàn hả? – Chờ tí đi – tiếng cô “bồi” khẽ bẳn lên. Rồi “bồi bàn” cũng huỳnh huỵch đi tới. Như một diễn viên thuần nghệ, cô “bồi” thò hai tay, vun đống đồ thừa trên bàn nhưng không phải là hất chúng vào thùng rác mà đôi bàn tay khéo léo của cô “bồi” hất toẹt những thứ đó xuống… đất. Tiện thể cô “bồi” kéo tuột chiếc khăn màu cháo lòng vắt trên vai, phe phẩy dăm ba cái lên mặt bàn như thầy bùa làm phép thánh nhưng không phải để trừ ma, mà để khử… vi trùng. Xong! – OK rồi đấy! Nói xong cô “bồi” nguẩy mông đi phăm phăm về phía bà chủ. Đám khách hình như đã quá quen kiểu cách đó, nên kẻ trước vừa nhổm lên là kẻ sau đã tự bố trí chỗ ngồi. Cửa hàng giờ cao điểm nên phải chục phút sau mới có phở ăn. Người nhà anh gọi rượu. Tiếng cô “bồi” nói dóng từ xa.
- Rượu trong xó đấy, tự rót mà uống.
Anh bảo: Gọi “bồi” cho có lệ chứ thực tình người nhà anh đã thò tay, với cái can bằng nhựa, đựng 10 lít rượu “quốc lủi”, để góc nhà, rót đầy vào cái chai nửa lít.
– Mình “chào cờ buổi sáng nhé”? Người nhà hỏi bạn tôi.
Anh thoáng nhăn mặt đáp.
- Mới gần 6 giờ sáng mà rượu gì?
Có lẽ ngôn ngữ anh vừa phát ra hơi lạ tai nên đám khách đang ăn phở ở những bàn xung quanh kẻ ngẩng lên, kẻ quay lại nhìn anh như nhìn… động vật lạ. Người nhà anh khẽ đá chân bảo.
- Thử đi. Rượu nếp cẩm, uống hơi bị “phê” đấy. Say thì về lại ngủ tiếp.
Vậy là không chờ anh biểu quyết, bốn chén rượu gạo được rót tràn trề cả ra bàn.
- Nào! – người nhà giục anh nâng chén – uống đi, đây là tiết mục “chào cờ buổi sáng”. Thiếu tiết mục này, người ngợm nó bấy, khó làm việc lắm.
Thấy anh cầm chén rượu trên tay nhưng có vẻ ngần ngừ không muốn uống, người nhà anh liền huýt nhẹ vào cánh tay, giục.
- Uống đi. Tăng đầu là phải cạn chén mới được, bằng không khởi sự một ngày làm việc sẽ lởm khởm lắm.
Nhìn người nhà đều đã uống sạch bong mấy chén rượu và dường như cố ý chờ anh cạn chén để rót tiếp, bạn tôi đành nhắm mắt, rồi biểu quyết làm một tợp hết sạch chén rượu vào bụng.
Vừa lúc cô “bồi” bê hai bát phở trên tay, sầm sầm lao vào phía trong. Nhìn thấy cung cách “chào cờ buổi sáng” của anh bạn, chắc không giống ai, nên cô “bồi” cười toét, nói.
- Trông hoành tráng thế này mà sao uống rượu như uống ký ninh thế, rồi chẳng để ai kịp đáp lời, cô “bồi” hỏi cộc lốc.
- Bốn tái gầu của ai đấy?
- Bàn này. Người nhà anh bạn tôi đáp. – Có quất không bố trí mấy quả đi.
Cô “bồi” đáp gọn lỏn.
- Dưới đất ấy. Lấy hộ cái.
Người nhà anh lại khẽ xoay người, thò tay, nhón mấy quả quất trong một cái rá đặt gần can rượu. Chêm gia vị xong xuôi, người nhà anh bạn tôi lại nâng ly, bảo anh tiếp tục “chào cờ buổi sáng” lần hai.
– Nào, thôi, làm lượt này lót dạ rồi ăn đi – người nhà anh giục – ăn kẻo nguội mất. Tái gầu mà nguội, ăn mất sướng.
Mọi người đều đã lạch cạch đặt chén lên mặt bàn, nhưng thấy anh bạn tôi còn xoay xoay chén rượu trên tay, bèn nói.
– Sao không uống rượu đi? Người nhà anh giục.
- Từ từ. Bạn tôi đáp – phải nạp đầy đã, mở mắt, uống ngay của này vào là “đi” mất.
Mấy người khách ngồi bàn kế, mặt mũi đỏ như gà chọi, vừa ăn, vừa hóng chuyện. Một người gặm nốt cái chân gà rồi ném tọt miếng xương xuống sàn nhà, đưa tay quệt ngang miệng rồi nghiêng người, nói khẽ.
- Ông anh ở xa về phải không?
- Người nhà anh hỏi.
- Sao ông biết?
- Người nọ cười xòa, đáp.
- Nhìn kiểu ông anh ngồi ăn, xương xẩu không “rải thảm” xuống nền nhà, và chê rượu buổi sáng ai mà chả đoán ra. Ở nhà, cứ 6 giờ sáng là tụi này phải “chào cờ” vài “choác” cùng một bát phở. Thiếu tiết mục này là gay go lắm, người ngợm như cua bấy. Chẳng buồn làm chuyện gì cả.
Người nhà anh ngừng ăn, hỏi chuyện người nọ.
- Ông lái xe, mà sáng nào cũng “cử tạ” cả gần nửa lít, liệu có đi được không hay ăn xong lại đánh xe ra một bãi nào đó, làm một giấc đến chiều?
– Làm gì có. – người khách nọ ngừng gặm xương, tợp thêm ngụm rượu, đáp – Đây là chương trình “nghị sự” buổi sáng. Phải có nó tay lái mới “lụa”***. Tôi mà hôm nào có chuyện đột xuất, không được “chào cờ” buổi sáng, là gay go lắm. Chân tay, đầu óc mụ mị, tíu ta tíu tịt, không muốn làm gì cả. – Bà chủ ơi – người khách ngắt đứt câu chuyện, ngoái cổ, gọi toáng – còn quẩy nóng không? Cho thêm mấy “chùy” nữa đi.
– Còn đấy. – tiếng chủ quán đáp lại, rồi lại gọi toáng. – Sâm ơi, đem quẩy vào cho khách đi.
Cô “bồi” chắc đang dở tay trong bếp, nghe bà chủ gọi, bèn lao vọt ra, hai tay chùi lấy chùi để lên chiếc tạp dề màu gạch cua trước ngực, hỏi gắt.
- Ai gọi quẩy đấy?
– Bàn này. – Tiếng người khách nọ đáp.
- Mấy quẩy? Cô “bồi” hỏi cộc lốc.
– Ba “chùy” nữa thôi.
- Cần gì nữa không?
Người khách nọ cười hề hề.
- OK rồi. Sao hôm nay cô em bẳn như mắm tôm thế?
- Bẳn cái gì? Cô “bồi” vặc lại – Đang đứt mẹ nó ruột đây này. Hôm qua nghe lời bà kia – cô “bồi” hất hàm về phía bà chủ – “chập” cả hơn triệu bạc. Đi tong mẹ nó hết. Tháng này làm không công cho bà ý.
Bà chủ tay hối hả sắp phở cho khách nhưng vẫn dỏng tay nghe ngóng mọi chuyện. Thấy cô “bồi” phàn nàn, liền ném tọt cái môi nước phở vào nồi nước dùng, giơ tay quệt mồ hôi trán, nói như quát.
- Tiên sư con điên kia. Mày học ở đâu cái lối tự mình làm bậy, khi đổ bể lại đổ quàng cho người thế? Chị mày bảo tiền ít thì “chập” vừa thôi, khốn nỗi mày lại muốn dỡ hết nhà thiên hạ xuống làm chuồng xí của mày, bây giờ mày trắng tay lại quay sang đổ thừa cho chị mày à? Mày tưởng chị mày không đứt ruột à? Tại thằng bỏ mẹ kia kìa – bà chủ quán giơ tay chỉ một gã ngồi sát cửa ra vào, trên bàn là can rượu 5 lít cùng chiếc cốc sứ, đầy tràn rượu, bát phở nóng còn nguyên vẹn. Gã đang cắm cúi ghi ghi, chép chép la liệt những con số vào một quyển sổ.
Nghe bà chủ nhắc đến mình, gã dừng ghi chép, ngửng lên, nhe răng cười.
- Con xin mợ. Gớm, từ ngày con ghi đề, ngày hôm qua mới “khợp” được của mợ hai triệu bạc, còn những hôm con bị “móm” thì ai cười phe phé cho?
- Thằng ôn con. – Chủ quán tay thoăn thoắt làm phở nhưng miệng vẫn không ngớt mắng gã nọ. – Hôm qua tại mày “bơm” dẻo, chị mày mới húng như thế, nên chiều mới ra đê. Báo hại cả con điên kia cũng dửng mỡ, nướng cho mày cả mấy triệu bạc.
- Thế hôm nay có gài con gì không? Gã chủ “đề” nhe nhởn hỏi, rồi nâng cốc rượu, ngửa cổ nốc cạn.
- Chị mày đéo chơi nữa. Hôm qua “móm” cả ngày làm việc rồi.
- Dễ thường mình bà “móm” chắc. Gần chục năm ghi đề, hôm qua thằng em mới chính thức được làm người.
- Đã thế hôm nay tiền phở chị mày tính gấp đôi.
- Chuyện vặt. Gã chủ đề xục đũa vào bát phở, lùa một đọn đầy vào mồm, miệng nhồm nhoàm đáp – Cả tuần này, thằng em ăn một, trả hai cho bà chị. Hả giận chưa?
Bà chủ quán cười toét miệng, mắng.
- Thằng ôn con. Dễ chị mày ăn bẩn vậy chắc? Chị mày dám chơi, dám chịu, chứ không có kiểu thắng quả thì xí phần về mình, còn thất bại lại đổ quàng, đổ xiên cho thiên hạ. Nhưng từ bây giờ tao đéo tin vào những lời mày hót nữa.
- Thế hôm nay có làm một xuất không? Gã chủ “đề” vẫn nhe nhởn hỏi.
- Không. Đéo chơi nữa. Mất công về nhà thằng chồng nó “hát ca trù” cả đêm tới sáng. Đau hết cả tai.
Vừa lúc chồng bà chủ quán bê rá phở từ bếp ra, nghe vợ bóc mẽ mình, liền cau mặt, quát vợ.
- Mụ lại nói xấu gì tôi đấy? Đã bảo bao lần rồi? “gài” con nào thì “gài” nhưng đừng có “khát nước”. Bà không nghe tôi, mất mẹ nó cả ngày lao động, giờ còn nói xấu tôi phải không?
Bà chủ quán nhìn chồng, nửa cười, nửa bẳn.
- Ơ, – bà chủ buông lọn bánh phở trên tay xuống rá phở, nói. – Ông “lượn” ra đây làm gì thế? Bỏ rá phở xuống đây rồi vào bếp sắp đồ cho tôi, còn đứng đó ca cẩm gì thế? Thế ai đưa tôi vào con đường tội lỗi này hả? Dễ là tôi chắc?
Nghe vợ chồng ông bà chủ như sắp sửa giao chiến, cô “bồi” đang thập thò nơi cửa bếp bèn chạy thốc ra ngoài, chắp hai tay vái lấy vái để về phía vợ chồng ông bà chủ.
- Thôi, con xin hai sư phụ! Gớm, trong quán thì ngồn ngộn khách, tây, ta đủ cả mà hai sư phụ cứ băm bổ nhau như thế, bố thằng nào muốn ăn uống nữa.
- Tao làm gì? Bà chủ nhìn cô “bồi”, quát. – Tại lão kia cứ làm như mình là cháu ngoan bác Hồ không bằng. Ở Việt Nam mình nhà đéo nào chả cờ bạc. Thằng lớn đánh lớn, thằng bé đánh bé. Già đánh kiểu già, trẻ đánh kiểu trẻ. Nhà nước đánh kiểu nhà nước, nông dân đánh kiểu nông dân. Tao đánh bạc thì cũng đánh bằng đồng tiền mồ hôi nước mắt mình làm ra chứ có đánh bằng “tiền chùa” đéo đâu mà ta thán. Vả lại tao cũng chỉ phọt phẹt đánh vài ba triệu là cái đinh rỉ gì?
- Đã bảo thôi mà lại. Cô “bồi” lôi xềnh xệch ông chủ đi về phía bếp, rồi nhân lúc đi ngang qua bàn anh bạn tôi và người nhà đang ngồi, bèn ghé tai ông chủ nói. – Có “tây” đang ngồi ăn phở đấy. Sư phụ “tạnh” đi, không người ta cười cho.
- Tây nào? Ông chủ sững người, nhăn mặt nhìn cô “bồi” hỏi – Quán này toàn “tây đề”, “tây xe ôm”, “tây taxi”, “tây chợ trời” “tây chợ người” và “tây chích choác” chứ tây đéo nào nó thèm lò dò vào đây?
- Khổ chưa? Cô “bồi” nhìn ông chủ, thở dài, rồi kéo tay ông chủ đến bên bàn người bạn tôi và người nhà đang ngồi, nói. – Đây này, người ta mới ở bên kia về, lần đầu người nhà dẫn ra đây ăn phở mà hai sư phụ cứ băm bổ nhau như vã mắm, bố thằng nào mà nốc được.
- Đâu? Ai? Ông chủ quán nhìn khắp lượt những người đang ngồi chung bàn cùng anh bạn tôi, hỏi. – Ông à? Hay là ông? Còn ông? – Cũng không phải à? Thế còn ông? – Ông thì tây thế đéo nào được. Da cũng ngăm ngăm như tôi. Chủ quán đứng im, tay khẽ vê vê cằm, cân nhắc rồi nhìn chằm chặp anh bạn tôi, quả quyết nói. – Chỉ còn ông. Đúng không?
- Nhầm rồi. – Người nhà bạn tôi ngừng ăn, ngẩng lên nói đùa. – Tôi đây này.
- Ông? Chủ quán cười toét. – Ông có từ Tây Nguyên về thì có. Chủ quán đập đập tay vào vai anh bạn tôi, nói. – Xem ra chỉ có ông này.
- Sao anh nghĩ vậy? Bạn tôi nâng chén rượu nốc ực vào cổ, mặt nhăn đanh lại, hỏi.
Ông chủ quán cười tít mắt.
- Cái dáng ngố ngố nó đã phản bội chú. Chú uống rượu trông khổ sở như vợ vừa bỏ. Ăn thì như mèo ăn, chứ không nhồm nhoàm như đám này. Vả lại anh để ý không thấy chú “rải thảm” xuống nền nhà. Đây, chú xem đi. Ông chủ lấy chân gạt một đống xương, rau, vỏ chanh, vỏ quất từ dưới gầm bàn của đám khách bên cạnh ra giữa nhà, nói – Cái này là văn hoá ăn uống của người nhà mình. Gạt tàn thuốc bàn nào anh cũng bố trí một “phát” trên bàn, vậy nhưng chú coi, cố bố nào gạt vào đó cho con nhờ đâu. Còn đồ ăn thừa, đĩa để xương và đồ thừa trên bàn anh cũng bố trí đủ cả, vậy nhưng các các “sếp” cứ tiện tay ném tọt hết xuống nền nhà. Chú không biết, chứ chỉ ít phút nữa, khi các “sếp lớn” này rút quân là cái quán của anh giống như vừa gặp đại hồng thuỷ. Bên chú chắc không có tiết mục này đâu nhỉ. Còn nữa, anh hỏi thật nhé: Chú đi tắm trắng à? Giá nước da con mụ kia nhà tôi được một phần ba của chú có phải hay không. Đàn bà mẹ gì mà da dẻ như củ súng luộc, được mỗi cái “khoản ấy” thì vô địch thủ…
- Ông giời đánh kia, lại nốc cả nửa lít vào bụng rồi hay sao mà đứng đó để lải nhải, nói xấu vợ thế? – Con Sâm đâu rồi? Bà chủ gọi toáng – Sâm ơi! Bảo mày đi lấy thêm quẩy với rau thơm về cho khách mày đã đi chưa? Chưa à? Thấy cô “bồi” thò đầu từ bếp ra, khẽ lắc, bà chủ quát toáng. – Con dở người kia, mày với lão hâm nhà tao hôm nay làm sao thế? Cả lão nữa – bà chủ quán giơ cái muôi múc nước phở dứ dứ về phía chồng, nói gắt – Tối nay ông về sẽ biết tay tôi.
Nghe vợ quát, ông chủ quán phở nhìn đám khách, gãi mang tai, cười toét, bảo.
- Đấy, có các người làm chứng nhé. Giữa ban ngày ban mặt mà mụ ấy vi phạm nhân quyền thế đấy. Động một tí là mụ ấy doạ sẽ cắt giảm “ngân khố”, rồi đêm đến lại vạch đường biên giới “chủ quyền”. Ông chủ quay sang phía anh bạn tôi, thò tay, nhấc can rượu, đổ đầy vào mấy cái chén, nói. – Nào, anh cụng với chú một ly. Trước lạ, sau quen. Quán của anh chị nó tuyềnh toàng vậy, chú không chê mà đến ăn là anh chị mừng lắm rồi. Rượu hôm nay anh đãi. – Bà “tám” kia – ông chủ quán nói toáng về phía vợ – Rượu của bàn này hôm nay “fruy” nhé. Nhớ đấy!
- Nhớ rồi! Dở người ạ! Bà chủ khẽ quát rồi bưng phở cho khách, tiện thể nán lại chỗ bàn anh bạn tôi đang ngồi, nói nhỏ. – Chú ở nước nào về đấy? Đức à? Lão dở hơi nhà tôi cũng có đứa em gái bên đó đấy, nó tên Vượng, nhưng không phải mụ Vượng béo làm Gala cười đâu nhé. Chú có biết nó không? Ừ, mà chú biết làm sao được. Nó mới đi được mấy năm nay. Đang tính nhờ người “chạy” cho nó xuất chồng Tây. Cả nhà có mỗi mụn con gái, nhưng ở nhà thì ế sưng ế xỉa, nên đành phải cho nó xuất ngoại. Biết đâu nó tốt số, lấy được thằng Tây tử tế, cải thiện được giống nòi chú nhỉ. Còn chú? Đi bao lâu rồi? Ở đâu bên đó? Thu nhập khá không? Có tính về nước đầu tư không? Chú thích lấy vợ tây hay vợ ta? Tính sẽ ở luôn bên đó hay lúc về già thì chuồn? Này, chị bảo thật: Chú đừng có dở người, nghe tụi nó khuyên bậy, rồi xin hồi hương, hay vác cả đống tiền mồ hôi nước mắt của mình về nước kinh doanh hay đầu tư hợp tác con mẹ gì cả. Làm thế là hão đấy. Bọn trong nước chúng nó lừa dẻo lắm. Chú để ý mà xem, lúc chú chạy đi nó coi chú như cứt nát, ấy vậy nhưng khi chú có chút da, chút thịt trở lại là chúng lại vờn chú như chó vờn xương. Không cứ gì chú chị mới khuyên đâu, quán chị thi thoảng cũng có đám “tây” mũi tẹt về phép, kéo nhau ra đây ăn nhậu, chị cũng khuyên như thế. Nhưng nhiều đứa có chút tiền, sinh dửng mỡ nên xoay ra muốn mua chút danh, vậy là lò dò về nước, rồi để cho tụi nó “vặt lông” như vặt lông cừu. Tới khi còn trơ lại dăm ba cái xương sườn, muốn bỏ chạy thì hết mẹ nó hơi rồi, vậy là sướng mà chẳng biết đằng sướng, lại tự thân đụt vào cửa tử. Nhưng cũng may là những thứ của nợ ấy nó “tử” sớm, chứ nếu mà nó sống dai, mà leo tới chức này, chức nọ, rồi có quyền sinh, quyền sát trong tay thì còn khốn nạn nữa chú ạ. Nước mình bây giờ nó thế. Người có lòng hoặc là nghèo kiết xác, hoặc là bị tụi nó đì cho không ngóc đầu lên được. Số còn lại toàn bọn mặt người, dạ thú. Mà chú ở nước ngoài bao lâu rồi? – Hơn 20 năm? Vậy là bọn nó phải gọi chú là “khúc ruột ngàn rặm” đấy. Nhưng này – bà chủ khẽ nghiêng người như muốn hạ bớt “triết áp”, nhưng tiếng thì lại ông ổng. – Theo chị chú cứ làm khúc ruột thừa cho chị. Nó thối, nên không thằng chó nào nó nhòm ngó tới cả. Như vậy chứ lại khoẻ. Chứ chú mà làm “khúc ruột ngàn rặm” là chẳng chóng thì chày, tụi nó cũng tuốt ruột của chú ra để làm… cỗ chú đấy.
Bà chủ quán còn định hỏi một thôi một hồi nữa nhưng cô “bồi” từ bếp đã đột ngột xuất hiện.
- Bà này, hỏi gì mà như C18**** thẩm cung Việt kiều tham nhũng công quỹ quốc gia thế? Để cho người ta còn ăn.
- Con dở hơi này. – Bà chủ thoáng giật mình, quát cô “bồi”. – Bảo mày đi đâu mà tự dưng mày hiện ra như ma thế? – Ăn uống xong hết rồi. – Này, mày nhìn đi! – Bà chủ chỉ vào đám bát của anh bạn tôi và người nhà, nói. – Ăn uống thế này có sướng không? Không giống như cái đám kia. Kiếm ăn thì chật vật, nhưng bữa nào ăn cũng chỉ vớt dăm ba cánh phở, còn để nguyên cả bát nước. Đã vậy rượu thì ông nào ông nấy cũng nốc căng một bụng. – Chú xem – bà chủ vừa dọn bàn, vừa nói – bọn thanh niên ở nhà bây giờ hư hỏng lắm chú ạ. Đói cũng rượu. No cũng rượu. Nghèo cũng đánh “đề”, mà giàu cũng đánh “đề”. Bên đó chú có chơi “đề” không? Không à? Vậy là chú đủ điểm cháu ngoan bác Hồ đấy. Bọn đàn ông ở nhà bây giờ mất nết lắm. Sểnh ra là gái, hở ra là rượu, rồi chích choác, đề đóm. Thằng ôn kia kìa, chú đoán nó bao nhiêu tuổi? – 37 tuổi á? – Này, thằng kia! – bà chủ quán gọi toáng về phía gã chủ “đề”. – Thằng “đề” kia! Mày biết người ta đoán mày bao tuổi không? – bà chủ quay lại, nói. – Nó mới 27 tuổi thôi chú ạ. Tuần này nó mới “thắng” quả đậm, nên trông nó có vẻ hoành tráng một chút, chứ mấy tháng trước mà chú gặp nó, chắc chú sẽ đoán nó là ông cụ 40 mất. Nó á, thằng “đề” kia kìa, ngoài ghi “đề” và nốc rượu ra nó chẳng còn vị gì khác đâu chú ạ. Mở mắt là đi các quán để ghi đề. Chiều đến là lại phục ở nhà, ngồi nốc rượu rồi há hốc mồm để nghe kết quả sổ số. Mấy lần nó bị cháy đề, gán cả nhà vẫn không đủ trả nợ, suýt nhảy lầu rồi đấy. Mà thôi, chuyện Việt Nam chán bỏ mẹ. Chú được đi nước ngoài vậy là đại phước. Nghe chị khuyên này – bà chủ lại khẽ cúi xuống như muốn giảm “triết áp” nhưng giọng lại vẫn tông tổng. – Chú ở được bao lâu cứ ở. Tụi nó mà đuổi thì “phắn” mẹ nó sang nước khác mà ở chú ạ. Kiểu gì thì kiểu bọn Tây nó vẫn văn minh hơn Việt Nam mình cả thế kỷ. Chú về, thấy đất nước mình có khác không?
- Khác chứ! Người bạn tôi đáp. – Nhiều chỗ không nhận ra nữa.
- Ối giời ơi, con Vượng nhà tôi nó đi mấy năm, về phép nó cũng nói như chú. Đúng là “gà công nghiệp”. Nhưng chú ơi đấy không phải là điều mừng đâu. Ngày xưa, đói ăn, nên nhìn chất nhau nó dễ. Còn bây giờ nó lộn tùng phèo hết cả. Ra đường chẳng biết thằng nào là giả, thằng nào là thật nữa. Lão hâm nhà tao bảo thời bây giờ là thời gì nhỉ? Bà chủ quán nhăn đanh mặt, gãi gãi tóc mai, vẻ suy ngẫm.
- Thời lưu manh giả danh trí thức. Có thế mà lần nào cũng quên. Cô bồi đứng bên hóng chuyện, bèn nói góp.
- Ờ đúng rồi. – Con ranh này, đứng bên cạnh mà không nói ngay, để chị mày phải động não, mệt hết cả óc. Con ranh này nó nói đúng đấy chú ạ. Thời nhà mình bây giờ nó thế. Chú ra đường phải cảnh giác nhé. Những thằng trí thức nhất, nhân cách, đạo đức, hiền triết, thánh thiện nhất, nhiều khi lại là những thằng lưu manh nhất đấy. Mà không, phải gọi chúng là một lũ nộm mới chuẩn, chú ạ. Đấy, chú cứ nhìn bọn trai tráng ngồi đây ăn phở thì biết, chúng nó là tương lai của đất nước cả đấy, trông thằng nào thằng nấy cũng đẫy đà, phổng phao cả, nhưng trong máu, tim, gan, lòng phèo của tụi nó toàn là hê-rô-in, thuốc lắc với giun sán cả. Gớm, cứ nhìn chúng nó ăn nhậu mà chị muốn phát dồ. Việt Nam mình bây giờ hầu như là thằng già phải khiêng thằng trẻ đi chôn. Vậy nhưng chúng nó không biết sợ đâu chú ạ. Dân nhà mình bây giờ chúng nó sống chẳng giống hệ nào cả. Tầu chả ra Tầu, Tây chả ra Tây. Ti vi thì cả ngày lẫn đêm lúc nào cũng thấy “ngổ ngổ, nỉ nỉ”. Ra đường chỗ nào cũng đụng phải tiếng Ăng-lê. Cái phố này duy nhất có quán của chị là không đề tiếng êng-gờ-lích. Cứ đà này mất gốc sớm. Chú về lượn lờ nhiều chú thấy không? Chỗ nào cũng thấy nhậu nhẹt, chè chén, chích choác, chỗ nào cũng thấy xây xây, phá phá, cứ loạn hết cả lên. – Thôi, – bà chủ quán giúi lại tệp tiền vào tay người nhà anh bạn, nói. – Lão nhà tôi đã nói rồi, rượu hôm nay là “fruy”, cầm lấy, kẻo lão ấy biết lại chửi tôi tham, phiền lắm. Thôi nhé, chị đéo “buôn” nữa, kẻo thằng già nhà chị ra, nhìn thấy, lại bảo chị suốt ngày “buôn dưa lê”…
Bạn tôi cùng người nhà rời quán phở một đoạn, anh bèn hỏi người nhà.
- Sao người nhà mình nói chuyện với nhau cộc lốc và tục tĩu thế?
Người nhà anh cười, bảo.
- Thế mới gọi là dân dã. Quán phở sịn cũng có, nhưng tới chỗ đó ăn uống mất sướng. Chú tính ngồi ăn mà cứ có người đứng kè kè bên cạnh, rồi ho một tiếng, hay muốn sỉ mũi một cái cũng phải quay trước ngó sau, hay xin lỗi thằng bên cạnh, thà mình ngồi vỉa hè, bụi bặm, ồn ào một chút nhưng mình vừa ăn, vừa ngắm khung cảnh dân tình qua lại vào lúc buổi sớm, vừa hóng hớt chuyện thế thái, nhân tình, có sướng hơn không?
Bạn tôi bảo: Có lẽ người nhà tôi có lý, bởi cái hương vị ấy quả đúng chỉ có xứ mình mới có.

© Việt Hà
© Đồng Chăn Vịt
——————————————–
Ghi chú:
* Câu thơ của Tố Hữu
** Tái gầu: nước váng mỡ trong nồi nước phở
*** “lụa” : tiếng lóng, chỉ tay lái sành điệu.
**** C18: Cục cảnh sát điều tra

nguồn: vnkatonák
 
IP IP Logged
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 14/Nov/2010 lúc 5:19pm

CỨU TRỢ SI LÍP, XU CHIÊNGTRƯƠNG DUY NHẤT

 

http://quechoablog.files.wordpress.com/2010/11/ap_201011090505491972.jpg?w=242&h=300

Blog của Trương Duy Nhất chịu chung số phận với vnwebblogs đã bị đánh sập. Suốt tuần này vẫn khôi phục chưa xong. TDN gửi bài này cho một số blog bạn bè, trong đó có Quechoa.

 

Chuyện về mấy thùng áo quần cứu trợ bị đem dùng làm giẻ lau xe trở thành tâm điểm của dư luận suốt mấy tuần qua. Mổ xẻ đã nhiều, phê phán, thậm chí lên án cũng đã quá nhiều.

 

Đúng. Song có một điều không báo nào đi truy ngược để hỏi: Tại sao nó lại bị biến thành giẻ lau và nó có đáng bị đem đi làm giẻ lau hay không?

Trước, trong và sau lũ, tôi cũng đã có mấy bài cảnh báo về những vấn nạn cứu trợ phản văn hóa dạng này. Không nên phê phán người dân bưng mì tôm cứu trợ đi bán. Bởi cứu trợ toàn mì tôm, lũ rút cả tháng rồi, về cứu trợ vẫn phát mì tôm cho dân. Ăn mì tôm phát ngán, họ phải đem bán đi lấy tiền mua gạo nấu cơm chứ, ai nhai mãi được ?

 

Không thể trách người dân vùng lũ như năm rồi ở Quảng Nam đem đào hố chôn vứt những thùng thịt hộp cứu trợ, bởi khi nhận về mở ra thì thịt bốc mùi đến lợn cũng chê không thèm ăn. Không thể trách chính quyền huyện Núi Thành (Quảng Nam) năm rồi khi họ “chê” không nhận hàng trăm tấn gạo cứu trợ vì toàn thứ gạo đã mốc meo nhìn đã phát ngán. Không thể trách người dân vùng lũ Nghệ An khi họ buộc lòng phải vứt những mớ áo quần lót cũ rách kia vào tiệm lau rửa xe.

 

Nhìn những bức ảnh sau (ảnh của Trần Hải, Nghệ An gửi cho Trương Duy Nhất blog), bạn đọc sẽ hiểu rõ hơn, đúng hơn về hành vi đem áo quần cứu trợ đi lau xe của người dân vùng lũ. Người Việt có câu rất hay “đói cho sạch rách cho thơm”. Những thùng hàng cứu trợ với áo quần cũ rách và những chiếc si líp, xu chiêng loăng nhoăng rách nát như thế có đáng để đồng bào vùng lũ phải nhận? Nếu là bạn, bạn có nhận không và sẽ dùng những của nợ kia vào việc gì? Trả lời xong câu này hãy đi trách hay… chửi người nhận!

 

Nhiều khi, nhìn những vật phẩm cứu trợ đó, người dân vùng lũ cảm thấy họ bị xúc phạm, bị xem thường, bị khinh khi, hơn là được cứu giúp.

 

Dân vùng lũ cần, rất cần được cứu trợ. Nhưng cứu trợ chứ không phải là bố thí! Dân vùng lũ đã gánh chịu quá nhiều mất mát, đau thương, tang tóc rồi. Xin đừng xúc phạm họ nữa. Đừng ném thêm mì tôm, thịt-gạo thối, thậm chí cả si líp, xu chiêng vào những thùng hàng “cứu trợ”!

 

 

http://quechoablog.files.wordpress.com/2010/11/ap_2010110905055694322.jpg?w=500&h=375http://quechoablog.files.wordpress.com/2010/11/ap_201011090506049742.jpg?w=500&h=375

 

 

 

 

http://quechoablog.files.wordpress.com/2010/11/ap_201011090505411342.jpg?w=500&h=375http://quechoablog.files.wordpress.com/2010/11/ap_2010110905054919721.jpg?w=404&h=500

 

KHI LÒNG TỪ THIỆN… QUÁ ĐÁT

 

Mỹ Hòa

 

Lòng từ thiện quá đát, giống như những sản phẩm hết hạn dùng, cũng cần bị cấm sử dụng và đem thiêu hủy.

 

Những “diễn viên” từ thiện bậc thầy

 

Một hộp sữa bột cho trẻ em được bật nắp trước đó và hạn sử dụng chỉ còn vỏn vẹn một tháng, một chai nước mắm hết hạn từ hơn hai năm trước, một gói bột ngọt và 10 gói mì ăn liền. Đó là suất quà từ thiện mà mỗi hộ dân thuộc 656 đối tượng nghèo và gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn của Hà Tĩnh nhận được. Những con người này, chỉ chưa đầy 2 tháng trước đang oằn mình chống chọi cơn bão số 3, tận mắt chứng kiến những người bị thương, chết, chứng kiến cả nghìn ngôi nhà sập, tốc mái và hàng nghìn héc ta lúa ngập úng…

 

Và họ không phải trường hợp hi hữu có “may mắn” được nhận những món quà như vậy. Tính từ đầu năm 2010 đến nay, đã có ít nhất 2 vụ việc tương tự được báo chí “vinh danh”. Cuối tháng 3, các em học sinh một trường khuyết tật ở Hà Nội nhận được 3.000 gói bột dinh dưỡng ăn liền hết hạn từ lâu do một doanh nghiệp chuyển qua Trung ương Hội Chữ thập Đỏ Việt Nam. Tiếp đến, tháng 6, Đoàn y, bác sĩ từ thiện do một bác sĩ ở Bệnh viện Nhiệt đới TP ************ làm trưởng đoàn đã lặn lội về vùng sâu, xa tiến hành khám chữa bệnh và phát thuốc… quá đát, thuốc kém chất lượng, không rõ nguồn gốc cho người nghèo.

 

Trong những “bộ phim” từ thiện kiểu này, thường có một “kịch bản” khá tương đồng. Trong đó, “diễn viên” sắm vai nhà từ thiện là những người ít nhiều cơm no áo ấm, khỏe mạnh và lành lặn về thể chất. Trước niềm hân hoan và vui sướng của những con người thiệt phận, các “diễn viên” này rưng rưng cảm động giơ tay phân phát món quà từ tâm. Chỉ khi những chiếc nhãn dán đè, những hạn dùng thuốc bị cắt lộ ra, ánh đèn trường quay vụt tắt, dàn diễn viên mới trở về đúng nghề nghiệp đích thực của mình: các bậc thầy trong một lĩnh vực đầy tiềm năng – tiêu thụ hàng quá đát.

 

Để thực sự “tỏa sáng” trong nghề nghiệp hấp dẫn này, họ phải chinh phục được hai thử thách sống còn: bước qua lương tri con người, lương tâm nghề nghiệp và bôi đen trách nhiệm xã hội, trách nhiệm cộng đồng của mỗi doanh nghiệp, tổ chức.

 

Những hộp sữa đã bật nắp, nước nắm dán nhãn “hàng tài trợ không bán” đè lên hạn sử dụng đã được làm quà tặng cho người nghèo.

 

Trong một xã hội nhân văn, những con người thiệt thòi luôn là nỗi ám ảnh của cộng đồng. Ở đó, những số phận thiệt thòi, sự mất mát của người khác là nỗi đau chung của cộng đồng và được cộng đồng giang tay đón nhận, che chở. Đối với một đất nước có truyền thống “lá lành đùm lá rách” như Việt Nam thì đó chính là những chiếc lá rách cần che chở, đùm bọc nhất.

 

Bởi không chỉ thiệt thòi về số phận, thân thể, đây còn là tầng lớp dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Điều họ cần không chỉ là những món quà vật chất, lòng thương mà còn là sự tôn trọng và tình cảm đồng loại xuất phát từ đáy lòng.

 

Trong một thế giới nhân văn, các doanh nghiệp ngoài và trên cả mục tiêu kinh doanh, phải luôn nhận thức được trách nhiệm xã hội. Bởi đó là một cách để các doanh nghiệp đền đáp và hoàn trả món nợ với cộng đồng của mình. Các hoạt động bảo vệ môi trường, từ thiện… nằm trong món nợ phải trả này.

 

Hơn nữa, tính toán một cách sằng phẳng, những hoạt động này cũng góp phần mang lại danh tiếng, củng cố thương hiệu cho các doanh nghiệp. Với các chứng nhận, với cơ hội xuất hiện trên các phương tiện truyền thông lớn nhỏ, dù cố ý hay vô tình, các doanh nghiệp cũng đã PR cho tên tuổi “vì cộng đồng” của mình.

 

Và trong một thế giới nhân văn, bất kỳ bệnh viện, bác sỹ nào cũng nhận thức sâu sắc, đầy đủ sứ mệnh cứu người cùng trọng trách “lương y như từ mẫu” của mình.

 

Nhưng tất cả những con người đó, tổ chức đó đã sử dụng phần trách nhiệm, lương tâm của mình thế nào khi phát quà quá đát vào tay người nghèo, người khuyết tật, ốm yếu. Họ lạm dụng lòng tin của người khác ra sao khi chỉ chăm chăm tăng “doanh số” hàng quá đát lên cao nhất, nhanh nhất và “làm duyên” điệu nghệ nhất trước mắt người dân và báo chí?

 

Bằng việc làm của mình, liệu họ có khiến những người thiệt thòi cảm thấy bị xỉ nhục và mất lòng tin vào lương tâm và tình yêu thương đồng loại? Liệu những con người đó có bị đẩy sâu thêm vào bi kịch của mình?

 

Tất cả những điều đó được đánh đổi bằng vài “mớ” phế phẩm hoàn toàn vô giá trị, liệu có phải cái giá quá đắt?

 

Đổ phế thải vào… người sống?

 

Những món quà trên theo đúng quy định pháp luật, lẽ ra đã phải được mang đi thiêu hủy, và các doanh nghiệp hẳn cũng phải chi một khoản không nhỏ cho việc này. Nhưng chúng đã được các chủ nhân khôn ngoan tái sử dụng theo cách lợi cả đôi đường: vừa được tiếng lại vừa tiết kiệm tiền.

 

Khá kỳ lạ, nhưng câu chuyện này có thể khiến người ta liên tưởng tới vụ đổ phế thải lấp mộ người chết khiến dư luận phẫn uất gần đây. Có lẽ là vì việc tặng quà hết đát làm từ thiện cũng chẳng khác nào đổ phế thải vào… người sống. Chỉ có điều, cái việc đổ phế thải xây dựng thì bị cấm rành rành, nên người ta luôn phải thực hiện chuyện này một cách vụng trộm, chui lủi và nếu bị bắt thì sẽ bị phạt. Còn cái việc đổ phế thải vào người sống lại được thực hiện một cách tinh vi, dưới ánh sáng ban ngày và trước con mắt của vô số người.

 

Tất nhiên, nếu không bị phát hiện ra thì hẳn còn được xưng tụng và biết ơn dài dài. Còn nếu bị phát hiện thì cũng chẳng biết… phạt ai và phạt thế nào.

 

Có một công thức “đổ lỗi vòng quanh” rất hiệu nghiệm trong những trường hợp thế này. Ví dụ, trong vụ 3.000 gói bột dinh dưỡng hết hạn, khi sự vụ vỡ lở thì: “Trung ương Hội Chữ thập Đỏ Việt Nam sau khi kiểm tra lại thì cam đoan rằng đã nhận hàng, khi mà hạn đã hết. Trách nhiệm của Hội chỉ là đã không kiểm tra kỹ nên để lọt. Doanh nghiệp tặng 3.000 hộp dinh dưỡng kia thì cho biết đã chuyển hàng cho Hội trước khi hết hạn. Bằng chứng là có phiếu xuất kho”. (Giadinhnet). Ai cũng có chứng cứ rõ rành, hùng hồn, chỉ có các em khuyết tật và phụ huynh các em là vẫn băn khoăn sao hạn dùng mới lại “bay trúng” vào hạn dùng cũ và sao người ta lại nỡ dành cho những số phận tội nghiệp của vứt đi.

 

Và những “vụ án” tưởng chẳng có gì phức tạp như thế dần rơi vào mơ hồ, cũng không thấy ai công khai nhận trách nhiệm hay lên tiếng xin lỗi những người “chẳng may” được quà.

 

Loại bột dinh dưỡng quá đát mà các em nhỏ khuyết tật nhận được

 

Vậy là một câu hỏi lại bỏ ngỏ: sẽ ra sao nếu những món quà này được đưa vào sử dụng rộng rãi? Đừng quên, chúng không phải là những mặt hàng thông thường. Nếu là chai dầu gội đầu hết đát có lẽ nặng cũng đến mức gây rụng tóc, hay lọ mỹ phẩm thì cũng đến gây dị ứng. Nhưng đây là bột dinh dưỡng, thuốc và sữa… Đó đều là những sản phẩm dành những đối tượng yếu đuối, cần nhiều sự bảo vệ che chở hơn cả: trẻ em, người ốm, người già.

 

Và sự cố tình vi phạm của các “tác giả” là rất rõ, nó thể hiện ở những hạn dùng được dán đè hạn mới hoặc bị “thủ tiêu”, hay âm thầm nằm dưới nhãn “hàng tài trợ không bán”.

 

Bình thường, những sản phẩm này đều là một nguồn thực phẩm/ thuốc rất tốt cho cơ thể con người, hoặc cứu người, nhưng một khi quá hạn, chúng không chỉ giảm hoặc mất tác dụng mà còn có thể gây độc. Ai có thể đảm bảo những mặt hàng quá đát này nếu được đưa vào sử dụng không gây ra hậu quả khôn lường, lâu dài thậm chí là cái chết thương tâm.

 

Theo pháp luật, các doanh nghiệp kinh doanh hàng quá đát hoặc kém chất lượng sẽ bị xử phạt, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội nghiêm trọng. Hẳn chúng ta còn nhớ trong vụ sữa nhiễm Melamine của Trung Quốc (khiến ít nhất 6 em nhỏ tử vong và gần 300.000 em khác bị ảnh hưởng), đã có 21 bị cáo bị kết án, trong đó có 2 kẻ phải nhận án tử hình.

 

Nhưng sẽ ra sao khi những mặt hàng quá đát này lại được gắn lên mình cái mác đẹp đẽ – TỪ THIỆN? Còn cần “giọt nước tràn ly” nào nữa thì những “phi vụ” từ thiện như thế mới bị phanh phui và chịu sự trừng phạt thích đáng? Một nạn nhân? Hai nạn nhân?… Bao nhiêu là đủ để thức tỉnh?…

 

(Nguồn: phongdiep.net)

 

IP IP Logged
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 25/Nov/2010 lúc 2:26am

Để gọi tên sự vật một cách rõ ràng – phần cuối: Dẫn hổ về thịt dê nhà
 
Dương Thu Hương 
 
Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác.
Với dân chúng trong nước, giờ đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu, họ thôi là thượng đế và dân chúng thôi là những con nộm bị điều khiển bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền sáng tác. Dân chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những con vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng không còn được bóng tối che đậy.
Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng. Nhưng bất kì kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng. Bởi vì, chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào cũng cần bàn tay của con người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn tay cầm dao găm, súng lục. Khi con người đã nhìn rõ sự thật, khi họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ là ai và họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách nào, lúc ấy, các nòng súng sẽ đổi hướng.

Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của trên năm mươi gia đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng niệm những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ đã từng quên những người dân đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên các chiến sĩ đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979...
Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì?
Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200.000 euros tại đại lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân khoản ở ngân hàng ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được chiếc xe ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng quay cũ kĩ của đám mới giầu.
Ai đó từng nói câu này: “Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền”.
Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó: khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội ác. Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: dân đen. Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có thể hút máu dân đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên ổn lương tâm vì không mắc tội giết cha.

Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin. Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô la trong công quỹ. Hàng triệu đô la ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng loáng kia được đặt trên đất liền để làm “hiện vật bảo tàng”.
Nghe tưởng như chuyện đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ có ở Việt Nam, nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang ngược đó. Chỉ có ở xứ Việt Nam, khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể xảy ra hiện tượng này.
Lấy ví dụ thứ hai: các vụ buôn người. Dưới chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều này nếu không là chính các thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại buôn người? Vì buôn người thu lời nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như zero nếu có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản Việt Nam, đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng.
Đã là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các điều luật thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên gọi là “dân đen” của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các bậc trị vì dân. Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm mọi cách để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ này có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay.
Hãy đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay:
“Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp...”
Thứ nhất, tác giả bài báo này quên rằng “Kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là đích xác các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách mạng. Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ nhân. Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao động bị đe doạ.
Phải chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới người”, nói cách khác: “người vượn Néandertal”?
Thứ hai, câu “lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân...” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật. Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam đang thực thi chính sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”.
Tại sao lại “bòn nơi khố quạnh”? Vì ngu, vì tham, vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những người không có phương tiện để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng một lần vì đói nghèo và sợ hãi.

Tại sao lại “đãi nơi quần hồng”? Vì người cộng sản lúc này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai của họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy.
Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào nó.
Đám cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản” xuống vũng bùn của “các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ thường sa sả chửi rủa, họ đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà trước đây họ mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang là thứ “khỉ khoác quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng cảnh báo trước đây.
Trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục, ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình.
Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều Lý, triều Trần, triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy lừng chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi nghĩa dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy nhất xây dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại, những gương mặt sáng chói trong lịch sử đất Việt đều là những anh hùng chống Tầu và chống Nguyên – Mông. Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua Nam ở”.
Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người Việt Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết sam như gã A.Q, đàn bà không bó chân như các mợ Tầu.
Tuân theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công trong cuộc cách mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó là vì tính đến cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả năng nối tiếp truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ.

Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng?
Còn hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu để cắm ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân đã ôm bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”?
Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở.

Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ nói sẽ là “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu bọ này đã bôi nhọ mặt chúng ta!”
Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc. Tại sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng?
Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười một người trong bộ chính trị. Không lẽ cả mười một người này mắc chứng mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người này mắc bệnh thiểu năng?
Nếu để cho mười một kẻ thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt xứng đáng là các bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ chưa từng thấy mà trong đó các con bệnh bị tiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng nhận thức sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và tương lai của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay trước lũ bán nước.
Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng hai mặt.
1. Với triều đình Bắc Kinh chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố: Thành Thăng Long cũng chỉ là một bộ phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều. Một khi thủ đô của một quốc gia đã định vị như vậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác nhận danh tính chư hầu một cách công khai. Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ lòng trung thành vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà Nội.
2. Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu diệt.
Chọn ngày quốc khánh Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi xuống. Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của mình.
Nếu như năm 1945, cha anh họ là các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử. Người Việt Nam ta có câu
“hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này, không những là những con “cẩu tử” mà còn là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”.
Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họ là những con cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt nào cũng lưu cữu một thành tố có tên gọi
“chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu đậm nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”.
Cuộc thực dân hoá của Pháp 100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời kì bắc thuộc của giặc Tầu. Họ biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày hôm trước còn được tung hô hoàng đế, hôm sau đã biến thành
“Thằng chó săn, thằng phản tặc, phường bán nước”.
Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán nước của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi dân tộc. Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn Ánh. Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu “cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây là bọn “dẫn hổ về thịt dê nhà”

DẪN HỔ VỀ THỊT DÊ NHÀ.
Tại sao lại là hổ và dê?
Hổ, vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ không thể là con rắn.

Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽ thấy rằng toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phần sống lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt lên chính giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng của nó.
Đế quốc Trung Hoa sẽ trải rộng khắp châu Á. Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh thành khác nhau của
Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm quyền Hà Nội, kẻ dựng lên công trình bauxite Tây nguyên?
Bauxite ư? Trò lừa đảo!
Thiếu gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam, tại sao không là Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác bauxite để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân tích chán chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thế giới cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn đỏ Hungaria. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật?
Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi con tính của họ là trở thành một thứ
“Thái thú Tô Định hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều.
Còn Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng Việt, Quảng Nam, Quảng Lạc... họ không cần quan tâm. Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích của nhân dân, biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng kinh nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán.
Ông nghị Trần nói rằng
“Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không thể có phản biện. Phản biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù đang còn nhiều chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù, chúng tôi có các phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe cộ bây giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu độc. Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết. Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém họ...”
Những lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để của tính tội phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ nhà. Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, truỵ lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON.
Vào những năm 1989, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản, người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là
“Người công an nhân dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì dân”.
Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản.
Nhưng ông Lê Giản đã chết và
“Người công an nhân dân” cũng đã chết theo. Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng không phải là vô hình vô ảnh.
Tôi chứng minh:
Cách đây ngót ba thập kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên từ phương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụ đã báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều tẩm formaldéhyde (thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung thư.
Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì
“sợ mất lòng nước bạn”. Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợ chẳng hạn), đối với người ngoài, họ tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt đối thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và sẽ chết vì bệnh đó.
Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻ ngồi quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều đình, chịu trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật vào tai dân chúng, bỏ mặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết mòn!

Đối với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy. Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sự chuyển biến chất lượng này: từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với nhân dân.
Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trở thành kẻ thù của nhân dân.
Bây giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệ ông chủ của nó?
Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị cướp đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long An, Bình Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu
“Trả đất cho dân”, “Chống cửa quyền, tham nhũng”. Những người dân ấy đã bị đám công an và dân phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối xử ra sao? Mấy thế kỉ đã qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn nha lại mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều: “Đầy nhà một lũ ruồi xanh” và “Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi”.
Gần đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết.
Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm? Tại sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết những tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh Hoá?
Nếu là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến mạnh mẽ, tại sao họ không dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại đi đàn áp những sinh viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ mù loà, óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác ?
Vì chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trả lời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứ hai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay.
Nhiều người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại huyện Việt Yên vì tội danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia đình anh Khương đã chở xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền mạng. Dân chúng xông lên ủng hộ gia đình nạn nhân, con số lên đến hàng ngàn người, làm thành một cuộc biểu tình rầm rộ chưa từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất dậu.
Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước khí thế căm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo lên xe đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó berger. Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát thân.
Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi. Không phải công an nào cũng phú quý vinh hoa như ông nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống của họ cũng không phải là
“thiên đường nơi hạ giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp lính bây giờ tương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân chủ xảy ra ở Nga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới rồi.
Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cả thì đó là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì miếng cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt cổ.
Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị kỉ của mỗi con người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản để chủ nghĩa cuồng tín không thể đặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà.
Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với lũ con còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉ để làm nặng thêm túi tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (như ông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộ và các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổ dưỡng làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân vân...

Sự tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi thánh nhân thường hiếm mà kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ cũng là dân Việt. Là dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu sôi sục liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân.
Dân Việt!

Ai là dân Việt?
Phải chăng đó là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa kia sống ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá như chín mươi chín tộc Việt kia?
Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều?
Ngoài các lý do về nhu cầu bờ biển với các hải cảng, nhu cầu khoáng sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra, đó là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt.
Niềm kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó. Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải chịu thua? Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt Nam, mảnh đất cỏn con, dường như là một
“vết thương lòng, một sự tự ái” mà vua chúa Trung Hoa không chịu được.
Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng
“Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”.
Đó là một nhận định sáng suốt.
Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúng ủng hộ xâm chiếm Việt Nam. Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến trên 90%. Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn sợ hãi, họ phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn lại vẫn là trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai có thể chối bỏ.
Năm nay đã là năm 2010, thế kỉ 21, Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi xác người thân cho nhau để chén thịt. Kinh tế phát triển, các phương tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo lan tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền, ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên thế giới. Vậy thì, cái
“hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được” kia không chỉ làm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổ họng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung.
Vì lý do nào mà bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ định?
Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ
“lũ chó Việt Nam, phải đánh bọn chúng. Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”, và công bố một cách chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt ngày, phần còn lại của bán đảo được quy định là một tuần, tóm lại là chương trình con hổ Trung Quốc nuốt trọn con dê Đông Dương?
Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không tự nguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán?
Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời.
Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi để chống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia.
Để tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi xuống phương Nam. Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: “Nam tiến”!
Nam tiến, nam tiến và nam tiến!

Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sự dưới triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527. Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ Thăng Long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng và lập làng xây ấp. Rồi tiến đến châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai. Cứ thế mà hành trình này tiếp tục cho đến mũi Cà Mau.
Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên ta.

Bây giờ, chúng ta không còn cơ hội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta không thể Nam tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi đâu?
Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai, đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau.
Để giữ được non sông, để có thể là người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước, một chính quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã biến ngọn cờ Thăng Long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng Bắc Kinh. Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân tộc mình một con rắn độc, cũng như Vua An Dương Vương xưa đánh mất non sông vì trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ Châu. Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu.
Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ luỵ tình nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan dung. Tại đền thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu tượng Mỵ Châu nằm gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một cái lên lưng và nhổ một bãi nước bọt để trừng phạt
“con Mỵ Châu bán nước”. Còn tượng đá trong đền, tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được hương khói do lòng đồng cảm với “Mỵ Châu khờ dại và lụy tình”.
Dân Việt vốn không cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình.
Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ tình ai, nó chỉ luỵ cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu tạo, xây đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là liếm cho mượt bộ lông của chính nó mà thôi
.
Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc.
Người dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại số phận bi thảm của An Dương Vương.

Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội không đứng lên cùng với họ.
Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ?


Dương Thu Hương 
IP IP Logged
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 25/Nov/2010 lúc 2:28am
Chiến dịch THỦ TIÊU CÁC CỘT MỐC BIÊN GIỚI VIỆT-TRUNG

 

Đây là chứng tích bán nươc. Lich sữ và Tổ tiên dân tộc VN va hồn thiên sông núi không dung tha hành động nầy!
Còn những kẻ nịnh và chạy cờ, bưng bô, hãy đọc tài liệu nầy: các ngươi có xấu hổ không?
Có lấy vải che mặt khi ra đường mà đi không?

 Chiến dịch THỦ TIÊU CÁC CỘT MỐC BIÊN GIỚI VIỆT-TRUNG

Note: Tài liệu bằng hình ảnh dưới đây khá quan trọng đưa ra bằng chứng Trung Quốc và CSVN đã phối hợp thủ tiêu các cột mốc cũ . Câu hỏi được đặt ra và dễ trả lời là đường biên giới cũ mà CSVN đã "nhượng" cho Trung Quốc nằm sâu trong lãnh thổ VN, do đó những đường biên, chứng tích cũ thì bọn nầy phải xóa đi . Hình ảnh nói lên tất cả và đây cũng là chứng tích bán nước rõ ràng nhất cần phổ biến rộng , Vietland sẽ lưu bài nầy vào trang đầu một thời gian để bạn đọc góp ý và cùng nhau phổ biến rộng tội bán nước của đảng CSVN . (Xuân Nhi)

Chiến dịch thủ tiêu các cột mốc biên giới VIỆT-TRUNG



Chiến dịch đã phát động vào ngày 20/07/2010.

Hàng loạt những cột mốc lịch sử quốc giới Trung-Việt đã bị Trung Cộng và CS Việt Gian
tất bật tháo gỡ đưa vào các Bảo Tàng Lịch Sử địa phương mà chúng gọi là:

Chiến dịch “bài trừ các mốc biên giới cũ”

Tại sao bọn Trung cộng xâm lược có quyền làm như thế?

Đảng CS Việt Gian đang câm lặng?






             Mốc số 17 (đoạn Vân Nam-Hà Khẩu)



Cột Mốc “Đại Nam Quốc Giới” tại Phòng Thành, Quảng Tây




Việt Nam tham gia việc khuân vác cột mốc quốc giới dâng cho Trung Cộng.
IP IP Logged
Hoàng Dũng
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 08/Nov/2008
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 592
Quote Hoàng Dũng Replybullet Gởi ngày: 13/Dec/2010 lúc 10:52pm

http://dailyvnews.wordpress.com/2010/12/01/wikileaks/#more-13545

WikileaksKế hoạch cho Việt nam được hưởng quy chế Khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc kinh

01/12/2010 DailyVNews Để lại phản hồi Go to comments

Biểu%20tượng%20Wikileaks

Kami

Tin liên quan: Hội Nghị Sát Nhập Việt Nam vào China : Tỉnh hay Khu Tự Trị ? (Ninh Cơ ghi lại. Trích tài liệu chép lại từ băng ghi âm cuộc họp mật giữa đại diện Tổng Cục Tình Báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 Việt Nam để lưu trữ, được bảo quản theo chế độ tuyệt mật).

*Và cái gì chờ đợi cũng đã đến, khi tổ chức Wikileaks công bố một tài liệu “tuyệt mật” động trời liên quan đến Việt nam. Đó là biên bản họp kín giữa ông Nguyễn Văn Linh Tổng BT Đảng CSVN, ông Đỗ Mười Chủ tịch HĐBT đại diện cho phía Việt nam và ông Giang Trạch Dân Tổng BT và ông Lý Bằng Thủ tướng Chính phủ đại diện cho phía Trung quốc trong hai ngày 3-4/9/1990 tại Thành đô.

Trong tài liệu tuyệt mật liên quan tới Việt nam này của mình, Wikileaks khẳng định thông tin dưới đây nằm trong số 3.100  các bức điện đánh đi từ Hà nội và Thành phố Ho Chi Minh của cơ quan ngoại giao Hoa kỳ tại Việt nam gửi chính phủ Hoa kỳ, tài liệu này có đoạn ghi rõ “… Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công CNCS, Đảng CSVN và nhà nước Việt nam đề nghị phía Trung quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao trạch Đông và Chủ tịch Ho CHi Minh dày công xây đắp trong quá khứ và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung quốc để Việt nam được hưởng quy chế Khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc kinh như Trung quốc đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng tây…. Phía Trung quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt nam trong thời hạn 30 năm (1990-2020)để Đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung quốc”.

………………………………………

 



Chỉnh sửa lại bởi Hoàng Dũng - 13/Dec/2010 lúc 10:57pm
IP IP Logged
Trang  of 4 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.289 seconds.