Người gởi |
Nội dung |
thylanthao
Senior Member
Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
|
 Chủ đề: Trần Thành Mỹ Gởi ngày: 21/Oct/2007 lúc 11:29am |
TRĂNG
MƠ
*
Đêm đêm, ngắm trời cao
chi chít đầy sao, trăng ẩn hiện lúc mờ khi tỏ, mình cũng thấy hồn lâng
lâng theo mây gió bâng khuâng . Nghĩ đến chị Hằng sao mà âm thầm cô đơn quá !
Nhìn chị mà ngẩn ngơ với nét đẹp kiêu sa. Mắt chị diệu hiền mơ màng mơn trớn vỗ
về như mẹ hiền bên đàn con dại, lòng ngổn ngang trăm mối mà vẻ mặt cứ ung
dung. Tình chị không rực cháy như tia
sáng mặt trời nóng bỏng, thiêu đốt như nỗi ghen của Hoạn Thư mà rưng rưng, e ấp
dịu dàng của cô gái dậy thì còn treo giá ngọc. Chị thung dung khoe sắc cao sang
huyền ảo, tập trung không gây tiếng động như biểu dương sức mạnh thật của mình
: ‘’Seul le silence est grand tout le reste est faiblesse’’ (Chỉ có yên lặng là
cao cả, tất cả còn lại là yếu hèn).
‘’ Trăng bao nhiêu tuổi trăng già’’, ‘’ Trăng
bao nhiêu tuổi gọi là trăng non ?’’.Không ai biết chắc tuổi thọ của trăng,
‘’còn người thì tột đầu non’’ chứ trăng tồn tại mãi chẳng biết ngày tàn. Trăng
cũng sống hợp thời xuất xử, lộ diện toả ánh sáng lung linh. Củng e thẹn nép vào
mây khuất bóng, khi lưởi liềm phải trái khuyết tròn. Không biết có phải giữ vệ
sinh hay làm dáng mà thường thay xiêm đổi áo, khi khoác chiếc ‘’burka’’ mỏng
dầy làm tăng vẽ đẹp não nùng, bí ẩn, gợi mơ, khi choàng khăn màu cầu vồng trong
suốt , lúc như gót ngọc thanh thoát lướt qua màng tơ trời, yểu điệu, tuyệt thế
thoát trần. Tia nhìn không là hung thần, cháy da bỏng thịt, xoáy tim của kẻ
‘’lấy oán báo oán, oán oán chập chồng’’. Ánh sáng ấy như của mẹ Têrêsa nhỏ
người mà đức thánh.
Nhìn
đêm không trăng, dù sao trời chiếu sáng, vũ trụ như lắng đọng buồn thiu. Bóng
tối ‘’phần tối tăm bí mật’’ của ‘’Hổ nhớ rừng’’ ( Thế Lữ) bao trùm làm không
gian như nghèn nghẹn không yên. Những cặp mắt sói lang, hùm beo săn mồi thêm
rực sáng, đoàn thú nhỏ hiền lành thu hình không dám trở mình im hơi nín thở
trên đám lá vàng khô. Giang sơn của kẻ
bất lương cũng lấy sao đêm làm pháo lệnh, trăng đèn lồng, cả những trận đánh
pháo kích tấn công thường xảy ra sau khi mặt trời khuất bóng. Trăng còn là vệ tinh duyên dáng xoay vần theo quả
đất màu xanh, chứng nhân âm thầm quan phòng giám sát, yên lặng lắng nghe ghi
nhận bao chuyện vui buồn riêng tư thầm kín của thế nhân, luyện tâm thiền định
vằng vặc không mảy may xao động phân tán khí thần. Bàn tay Chị mầu nhiệm không
khác chi của Phật Quan Âm phẩy xoè nhốt Tôn Hành Giả nghiêm răng, bất thần rọi
pha vào hang cùng ngỏ hẻm vạch mặt chỉ tên, làm lộ diện bao cuộc âm mưu cướp
bóc. Ảnh hưởng của trăng đong đưa thủy triều lên cao xuống thấp, theo âm lịch,
ngày giữa tháng trăng tròn. Cao điểm nhất, rực rỡ thay ‘’khuôn trăng đầy đặn
nét ngài nở nang’’, ngày mười lăm, trăng rằm. Tết Trung thu, rằm tháng tám, đèn
manchon trời thấp sáng, dưới thế vui theo với bao loại lồng đèn lớn nhỏ đủ thứ
hình màu. Có phải chăng trăng cũng biết nũng nịu soi bóng mình qua gương hồ
sông nước, ‘’Giao trì nhất phiến nguyệt’’, ‘ Đối kính họa mi nhất điểm biến
thành lưỡng điểm’, biết hòa mình với tâm sự của người đời, bầu bạn với chinh
nhân ?
‘’Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dậm trường.’’
Trăng
cũng lấp ló thẹn thùng vén rèm mây tạo
mơ gây mộng, trầm ngâm ngắm dáng mình qua đôi mắt nhân gian thì thầm trút cạn
tâm tư. Cái nhìn của trăng thẳng ngay
thanh khiết trái với kẻ bất lương, tiểu nhân lăng loàng nguy hiểm, kẻ bất
tài hưởng thụ nịnh hót xu thời. Trăng
cũng thông hiểu ‘’cao nhơn tắt hữu cao nhơn trị’’ nên tỏ ra khiêm tốn , biết ta biết người khác hẵn với
con người thường mang mộng độc tôn duy nhất.
‘’Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn,
Sao trăng lại phải chịu lòn đám mây’’
Cái
vẻ đẹp huyền diệu từ lúc mới mọc đến thời kỳ ‘’trổ mã’’, chéch bóng đến trăng
tà, sự hiện diện ‘’nghìn trùng xa cách’’đó,
ánh sáng ‘’mơ huyền’’ hay nồng thắm ấy , tưởng chừng như chỉ để trang
điểm thiên nhiên, gây hứng thú. Nhưng không đâu, nhớ ánh trăng chênh chếch
thình lình rọi sáng làm thức tỉnh lương tâm rối bời của Jean Valjean, vì sống
còn lạc lối, trong ‘’Les Misérables’’(Những kẻ khốn cùng) của Victor Hugo, phải
công nhận trăng tuy xa mà gần và gắn bó mật thiết với thế gian. Mọi sinh hoạt
văn hoá nghệ thuật giải trí đều ca tụng, thi vị hoá trăng, mỗi người mỗi vẻ,
như Lý Bạch ‘’dám’’ chết vì Hằng Nga, Lưu Trọng Lư ‘’Dưới trăng vàng thổn
thức’’, Thế Lữ qua tâm tình của chúa sơn lâm bị giam cầm trong củi sắt :
‘’Còn đâu những đêm vàng
bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống
ánh trăng tan.’’
Hơn
thế nữa, nguồn sinh lực của trăng dồi dào cho đến đổi được chào hàng đổi
chác’’Ai mua trăng tôi bán trăng cho’’. Không những chỉ người thành thị, có
học, giàu sang mới biết yêu trăng, người đồng quê không kém ; Họ còn biết dung
hòa công việc, giải trí với vui chơi, như gánh lúa, đập lúa, giả gạo dưới
trăng, cúng đình cúng miểu
... ‘’Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng
vàng đổ đi’’
Tuổi
trăng, năm tháng không ai nhớ đến chỉ biết rằng duy nhất có một vầng trăng
nhưng dáng hình thay đổi. Biết đâu có ngày trăng ngủ nghỉ, vắng nhà, đi thăm
bạn bè thân thuộc khi ta nhìn lên trời cao lồng lộng toàn thấy hằng hà sa số
sao đêm.
Đừng nghĩ trăng chỉ có bề ngoài một mặt
tốt xinh, thật sự trăng cũng lạnh lùng phũ phàng, vô tình, thâm hiểm. Trăng
chứng kiến tang thương , khổ đau không chút đổi thay xúc động . Đường trăng
trăng cứ đi, theo quỷ đạo riêng của mình, bổn phận cứ hoàn tất không suy suyển
như các bậc tôi trung thờ vua thời trước, ‘quân xử thần tử, thần bất tử bất
trung’, con chiên các giáo phái, ‘fans’ của ca nhạc sĩ nổi danh hay đồ đệ của
các đảng các băng. Trần thế có nhiểu nhương, giết nhau cũng mặc, trăng vẫn vô
tình soi rọi bằng ánh sáng mơn man đùa ghẹo. Bấy giờ, quả thật trăng quá quắt,
đang ướm trên người lớp áo của bè lũ thực dân xâm lăng vui cười trên xương
máu dân lệ thuộc, giới quyền quí cao
sang vung tiền mua nô lệ thỏa mản điên cuồng, túi tham không đáy, với bề ngoài
lương thiện của kẻ giả nhân giả nghỉa tốt bụng giúp đời. Hoặc trăng như người
bàng quan nhìn hồng trần thế sự một cách cao ngạo, trịch thượng, rẻ khinh, yếm
thế. Âu cũng là hình ảnh của các mệnh
phụ phu nhân nội tướng, sau bức màn nhung giựt giây điều khiển các đấng phu
quân ‘râu quặp’, như Trụ vương mê Đắc kỷ, Mira Milosevic làm vận nước đảo điên.
Bề ngoài hiền như Phật mà bụng chứa toàn gươm đao. Đó còn biểu hiện chế độ
không đi sát lòng dân, xa vời quần chúng ‘dân ngu khu đen’, tự cao tự đại suy tôn
mình có một không hai, không ai thế được, thay quyền Tạo hoá, ban phúc họa cho
con dân. Bạn thường nghĩ trăng hiền, khờ khạo mà quên rằng trăng cũng biết trả
thù, ngang nhiên che cả mặt trời luôn đẩy mình vào hậu trường sân khấu về đêm,
nên có hiện tượng ‘nhật thực ‘, ‘nguyệt thực’ làm vầng ô tối mặt, nguyệt điện
bị phủ kín bằng mảnh y đen. Ngửa mặt nhìn chiếc gương treo xa vời vợi ấy, con
người như thấy hình ảnh mình qua chú Cuội với cây đa. Cuội hồn nhiên, đơn sơ,
thật thà thơ mộng, cây đa như cây dù, chiếc nón che đở nắng mưa. Cuội như ta,
cô đơn luôn ươm mơ ưóp mộng, không thể tách rời khõi ảnh hưởng của thiên nhiên.
Hình ảnh độc đáo duy nhất ấy phản ảnh kiếp sống trần ai. Có tài giỏi nhất đời,
giàu sang tột bực vẫn thui thủi với tâm sự riêng tư, một mình triền miên cô
độc, chẳng ai hiểu nỗi mình mà mình cũng khó tin ai. Ngày xưa, trăng là cung
Quảng vàng son, thiên đàng đầy hoa thơm cỏ quý, trái ngon như đào tiên ăn vào
trường sanh bất tử. Đẹp như Hằng nga, vủ khúc Nghê thường..., ai mà trong đời
mình chẳng có một lần ngắm trăng, tưởng tượng, đưa hồn mình lạc lối Thiên thai.
Thế
nhưng, thật sự chị Hằng cũng rổ mặt chằng chịt, chỗ lồi chỗ lỏm, ngay cả cung
thiềm không bóng dáng sinh vật vảng lai và bặt dạng cả chú Cuội bên gốc đa
huyền thoại.
Dù biết thế, con người vẫn không ngừng lột
xác rắc mộng gieo mơ, dệt tơ cầu vồng thành mắt vỏng đu đưa hồn xác mình nhập
thể vào lưới trời lồng lộng biến thiên. Trăng mãi mãi vẫn là nguồn suy cảm vô
biên, ngọn đèn trời mang ánh sáng thiết tha, huyền diệu. Trăng mang dáng dấp
của người bạn trung thành đầm thắm theo bước chân mình dung rủi xẻ chia. Trăng
là ánh mắt trẻ thơ trong sáng, tầm nhìn trìu mến của các bà mẹ ru con quên
nghỉ, vẻ đẹp thoát tục của các bậc tu trì giúp đời thánh thiện, phong vủ biểu
giúp bác nông dân nhẩm đoán thời tiết cầu mong sao cho mưa thuận gió hòa. Nếu
ta ví mặt trời là cha thì trăng như mẹ, hạnh phúc gia đình tùy thuộc không
những chỉ ở hai đấng song thân thôi mà còn ở đàn con cháu. Kỳ vọng chúng ta
biết đoàn kết phát huy, bảo tồn gia sản, môi trường sinh dưỡng, khí trời ta thở
để quả đất xanh mãi mãi chan hòa ánh sáng trời trăng ;
Ngày 12-05-02
Trần Thành
Mỹ
Chỉnh sửa lại bởi thylanthao - 22/Oct/2007 lúc 8:43pm
|
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
|
IP Logged |
|
thylanthao
Senior Member
Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
|
 Gởi ngày: 01/Jan/2008 lúc 8:11am |
13. Tết Ta
Trần Thành Mỹ
Hằng năm Tết đến, nhà nhà đều chuẩn bị đón Xuân. Người Việt ta thường
lo sắm Tết từ đầu tháng chạp và chào mừng năm mới không chỉ có ba ngày
như phần đông các nước Tây phương mà đối với dân ta « Tháng giêng là
tháng ăn chơi » sau một năm làm lụng vất vả. Chủ yếu là nông nghiệp, ở
thôn quê, mùa gặt đã xong, ai cũng muốn thoải mái nghỉ ngơi, tổng kết
thu hoạch, rút kinh nghiệm năm vừa qua, đặt niềm tin hy vọng vào năm
tới. Hơn thế nữa với truyền thống đẹp mang bản sắc dân tộc có lý có
tình có hậu « Cây có cội nước có nguồn », « Ăn trái nhớ kẻ trồng cây »,
dân ta có tập tục tiễn biệt năm cũ đón mừng năm mới thật sáng tạo thơ
mộng hòa đồng với người hòa hợp với đất trời.
Tết ta theo âm lịch nên luôn luôn không bao giờ có trăng. Tùy tháng
chạp thiếu đủ, ngày cuối năm sẽ là 29 hay 30 trái với Âu Mỹ theo dương
lịch nên đêm giao thừa có khi lơ lửng vầng trăng treo. Tập tục đón Xuân
một phần ảnh hưởng do đêm trừ tịch không có bóng dáng chị Hằng nầy.
Cuộc kết thúc nào cũng thường có hai mặt tích tiêu. Nó biểu hiện cho sự
vỉnh viễn ra đi và ngược lại tia sáng ở cuối đương hầm, niềm hy vọng
vào tương lai. Ðêm tối cũng làm cho ta hoang mang lo âu bồn chồn tưởng
tượng đến bao chuyện không may và cũng là thời gian liều thuốc cần
thiết Thần ngủ ru ta vào giấc mơ an dưỡng. Ðây còn là điểm cuối xuống
hàng sang đoạn qua trang của một ngày hay năm, giới hạn giữa ngày và
đêm, tối và sáng, cũ và mới âm dương.
Xưa kia, người Việt ta tin vào Thần quyền, những đấng khuất mày khuất
mặt linh thiêng nên có những tập tục thờ cúng sùng bái đa dạng phong
phú theo bản năng tự nhiên, bảo thủ thường không nặng tính khoa học
thành rườm rà mơ hồ khó tin khó giải thích làm người đời sau cho là mê
tín dị đoan.
Thật ra với nếp sống chạy đua nước rút của thời đại ngày nay, thời giờ
là tiền bạc, tất nhiên là nên đơn giản hóa mọi việc để thích nghi.
Nhưng không thể vứt bỏ hết mọi thứ vì những tập tục cổ truyền vẫn là
dấu mốc quá khứ, chứng tích hữu hình, tâm linh của ông bà ta theo dòng
lịch sử dựng và giữ nước. Nhờ đó ta mới truy nguyên ra được tâm tư
nguyện vọng, lòng yêu nước, óc tiến thủ, sáng kiến, quyết tâm khai phá
của một dân tộc hiếu hoà chỉ muốn sống còn trong độc lập tự do truyền
lại cho thế hệ mai sau.
Vốn gốc là dân đi khai phá khẩn hoang lập nước, phải tranh đấu triền
miên với khí hậu « sơn lam chướng khí », thiên tai, giữ đất giành độc
lập tự do, kinh nghiệm máu xương đó cũng góp phần cốt yếu cho tình yêu
quê hương, gia đình, tính biết tiên liệu, vui hưởng nhất là ôn cố tri
tân luôn nhớ công lao của tổ tiên cùng nhau nhìn về phía trước. Tết quả
là cơ hội đặc biệt hòa hợp với thiên nhiên thực hiện tổng hợp các thành
tố trên phân biệt hẵn thế nhân với sinh vật khác trên quả địa cầu.
Thử lướt qua không khí Tết khắp nơi trên thế giới, phải công nhận là
Tết ta rộng rãi quá, làm cho con người xích lại gần nhau hơn, tìm lại
chính mình, nhớ đến cội nguồn, hòa đồng thân thiện.Trẻ em Tây phương
chẳng hạn, với nền văn minh cao, đầy đủ tiện nghi vật chất, thế mà chắc
chắn là không bao giờ có cái tâm trạng háo hức được quây quần đoàn tụ
đùm bọc đón Xuân như trẻ em Việt ta. Trẻ em Âu châu có thể còn thích
thời gian lễ Giáng sinh hơn vì Tết thường dành cho người lớn. « Nói có
sách mách có chứng », vậy chúng ta hãy cùng nhau hồi tưởng tìm hiểu một
vài tập tục đón Xuân trong mỗi gia đình mà ngày nay phần đông ít ai còn
nhớ đến hoặc chỉ làm theo tập tục. .
Thật ra ít có dân tộc nào mà tinh thần đón Xuân cao và lâu như ta. Từ
đầu tháng chạp cuối năm là đã lo chuẩn bị rồi, tùy theo hoàn cảnh gia
đình như lập chương trình như đưa con về thăm nội ngoại, quà biếu xếp
lớn xếp nhỏ, gia đình họ hàng, quà « lì xì » cho con cháu của mình, bạn
bẻ và cả hàng xóm láng giềng. Ít có ai đi du lịch chơi xa trong thời
gian nầy khác hẵn với người Âu Mỹ chỉ chờ được dịp nghỉ là « bồng bế
nhau lên nó ở non » dự những cuộc thể thao với tuyết băng về mùa Ðông,
du lịch Cruise trên biển cả ở các quốc gia có nắng.
Tết của ta cũng có thủy có chung, kéo dài từ tháng chạp cuối năm sang
năm mới cả tháng giêng. Chúng ta chẳng những vui hưởng chung với nhau
mà còn biết hòa đồng với thiên nhiên sinh vật khác và thanh cao mầu
nhiệm hơn với bên kia thế giới chúng sinh, cõi vĩnh hằng vô lượng.
Không giải thích cụ thể rõ ràng rành mạch được những vấn đề tâm lý trừu
tượng vô hình siêu nhiên, phải phục ông cha ta đã khéo dựa vào cái
không không ấy thành có như trừ trừ thành cộng, những chuyện mà ngày
nay thế hệ trẻ cho là hoang đường mê tín thành những bài học hữu dụng.
Dựa vào kinh nghiệm sống phải đương đầu với bao thiên tai về phong thổ
thời khí, khai hoang lập ấp dựng bờ mở cõi, săn đuổi thú dữ để sống còn
gầy dựng, tổ tiên ta phải thông minh kiên trì gan dạ mới tạo đươc cho
con cháu hậu sinh một giang sơn gấm vóc hình chữ S ngày nay.
Tập tục rước ông bà về với con cháu chiều cuối năm và tiển đưa mùng 4
hoặc mùng 7 đầu năm chứng tỏ lòng nhớ ơn của một dân tộc biết đoàn kết
sống theo bước tiến của cha ông. Trước khi muốn ai đến nhà mình thì
mình phải trân trọng đến mời, đó là học phép xử thế. Lễ tảo mộ thường
bắt đầu từ nửa tháng chạp là bằng chứng cụ thể rõ ràng con cháu chẳng
những lịch sự mà còn hiếu thảo « giẫy mả » sơn phết lại mộ phần cơ ngơi
của người quá cố để cùng nhau đón Xuân. Tổ tiên ta há chẳng đã hé mở
cánh cửa văn minh cho chúng ta rồi sao ? Phép xã giao « tại gia » đã
được truyền dạy trước từ lâu.
Vì thế người ngoại quốc sẽ lấy làm ngạc nhiên khi thấy trong những ngày
đầu năm ông bà về thì bàn thờ khói hương nghi ngút, sáng tối dâng trà,
trưa chiều cúng cơm, giàu thì mâm cao cỗ đầy, nghèo thì tùy theo hoàn
cảnh của mỗi gia đình. Thật ra, đây chỉ là dịp để bồi dưỡng thêm sức,
gặp mặt vui chơi sau một năm làm việc mệt nhọc, xóa bỏ xích mích giận
hờn. Có ở xa đâu đi chăng nữa, « Tết nhứt » cũng cố sắp xếp về thăm nội
ngoại. Có chứng kiến cảnh đoàn tụ quây quần bên nhau của những người
cùng huyết thống, ta mới cảm nhận được bài học triết lý sâu sắc của cha
ông « tề gia », đoàn kết nhỏ trước rồi sau đó mới có đoàn kết lớn, «
trị quốc, bình thiên hạ » được. Là hậu bối của các bậc tiền hiền uyên
thâm quảng đại như vậy phải là do ơn may vì không ai có thể chọn trước
được cha mẹ mình.
Thi vị và huyền bí làm sao huyền sử Con Rồng cháu Tiên rạng ngời hồn
dân tộc! Thật ra chưa ai thấy Rồng cũng như Tiên, nhưng ai cũng cho
rằng rồng có sức mạnh như vũ bão, tiên đẹp tuyệt trần. Trên thế giới
hầu như dân tộc nào cũng có truyền thiuyết về việc lập quốc thường được
biểu hiện qua một hình ảnh nào đó. Pháp ngoài lá cờ tam tài xanh trắng
đỏ thêm lá cờ với hình vẽ « con gà trống » để mỗi lần đi dự thi tranh
giải thường mang theo phất cao hầu nói lên sự có mặt của mình và khích
lệ « ba quân », thắng trận là đầy ấp trên trang đầu các tờ báo hình ảnh
chú gà trống giương cánh gáy ò ó o. Nhật hảnh diện ví mình là con cháu
Thái dương Thần nữ nên trên lá quốc kỳ có vòng tròn đỏ biểu hiệu mặt
trời.
Do đó tập tục « dựng nêu ăn Tết ăn chè » ngày nay không còn nữa, trước
nhà vào chiều cuối năm cũ và hạ nêu chiều mùng 7 đầu năm mới quả là một
sáng kiến thật độc đáo sáng tạo văn minh của cha ông. Người ta dùng cây
tre thật thẳng cao, đốt to dài, tuốt hết gai cành, tùy vùng, chung
chung là treo trên ngọn một mảnh vải đỏ, bên dưới một giỏ đựng trầu
cau, một lá bùa Bát quái. Ðó là cách biểu hiên ranh giới ngăn cách thế
giới người với ma quỷ, chứng nhận nhà nầy có chủ hợp pháp, có lý lịch
tốt, tà ma « quyền lực đen » không được quấy phá đi chỗ khác chơi, vì
nhà nầy thuộc về con dòng cháu giống đúng con cháu Rồng Tiên Như vậy tổ
tiên ta há chẳng đã đi tiên phong trong việc dựng cột treo quốc kỳ đó
sao ?
Người Ấn độ xem bò là con vật linh thiêng, ta không « thờ » các con vật
nhưng cũng tránh không gọi đích danh như cọp là ông Ba mươi, ông Hổ,
con rắn là ông Dài,… Một tập tục biết phải quấy khác là không quên ơn
thần linh liên quan trực tiếp đến cuộc sống nên trong ngày Tết có cuộc
đưa Táo quân Thần bếp cởi cá chép về trời để báo cáo với Ngọc Hoàng
thượng đế tình hình thế sự tối 23 và ruớc Ngài vào tối tháng cuối năm.
Có những nghi lễ mà ngày nay dường như ít còn ai nghĩ đến là lễ cúng
đầu năm xin tuổi. Người Việt ta thường thờ cúng ông bà, tin tưởng ở
Trời phò hộ, Thần linh, đấng khuất mặt khuất mày độ trì. Các bậc Nho
gia văn thi sĩ thường khai bút đầu Xuân để đón năm mới, tổ tiên ta lập
bàn hương án trước nhà tạ ơn Trời Ðất cho ta sống đến ngày nay, xin
thêm tuổi mới, dùng cây hương điểm qua trên các đồ hình « khai nhãn »
để thấy cái đẹp muôn màu muôn vẻ quanh ta, luôn cảnh giác phân biệt
chánh tà, « khai nhĩ » để biết nghe lời hay ý đẹp, « khai khẩu » để
biết trên trọng dưới nhường « lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau » « ăn
coi nồi ngồi coi hướng » đừng bạ đâu ngồi đó, tệ hại hơn nữa là giành
giựt cấu xé nhau vì miếng ăn vị thế cao sang, « nhả ngọc phun châu »
chứ đừng « ngậm máu phun người » « xuất khẩu thành thơ » chứ đừng … đồ
dõm, hàng lậu, khai mũi, khứu giác để phân biệt nơi sạch chỗ dơ, không
chỉ để ngửi « đánh hơi đồng »..
Xem đến đây, các bạn trẻ đừng vội mắc cở cho rằng ông bà ta sao mà mê
tín quá, « quê ơi là quê ». Không đâu, đây quả là một lối giáo dục sắc
bén gây chú ý đánh mạnh trực tiếp vào tâm hồn con người bằng cách gợi
hình cụ thể vì ngũ quan là sinh lộ quan trọng thiết yếu chẳng những cho
cơ thể tâm linh mà còn là nguồn gốc của tham sân si,hỉ nộ ái ố. Lối
giảng dạy âm thầm, thâm trầm, bình dị đó như « nước chảy đá mòn » thấm
dần vào đầu óc trẻ lúc nào không hay. Tuyệt chiêu.
Hơn thế nữa lúc nào truyền khẩu vẫn là phương cách truyền bá tư tưởng,
tin tức hữu hiệu nhất, nhanh chóng nhất có từ thời xa xưa dựng và giữ
nước chưa có chữ viết. Ngày nay chúng ta sống trong một thời đại văn
minh đầy đủ, tự do và khoa học kỷ thuật dù không giải quyết được hết
mọi vấn đề, cũng đã chứng minh làm sáng tỏ được bao điều thắc mắc huyền
bí trước kia. Chúng ta thường quá khắt khe trong việc phê phán các dữ
kiện thời xa xưa, đòi hỏi phải được giải thích bằng khoa học, lý trí,
số học. Trước kia người cùng thời với Galilée chẳng những không tin
trái đất quay mà còn lên án ông phản động buộc tội ông dám nói ngược
lại chủ trương của giới cầm quyền lúc bấy giờ. Những tác phẩm hay nổi
tiếng quốc tế « Mười ngàn dậm dưới đáy biển », « Tám mươi ngày vòng
quanh trái đất » của nhà hàng hải đại văn hào Pháp Jules Verne cũng chỉ
được độc giả thời ông xem như là những quyển sách du lịch sáng tạo viễn
vông không có thật kích thích trí tưởng tượng óc viễn du, mơ một thế
giới trên trời dưới biển mơ hồ hoang đường bí hiểm mà kỳ thú, thế thôi.
Ngày nay văn minh rồi cũng không thay đổi, tuyệt tác Harry Potter của
nữ văn sĩ Rowling nổi danh thế giới là bằng chứng hùng hồn nhất. Con
người vẫn mơ những chuyện kỳ lạ, bí hiểm, huyền hoặc, quyền lực siêu
phàm, phủ phàng, những chân trời, xã hội tương lai phóng đại tối đa
kích thích tận cùng giữa thật và ảo, tranh tối tranh sáng ghê rợn, tốt
xấu quyết liệt chống nhau bất phân thắng bại, phản ảnh tổng hợp khuynh
hướng mới cũ, xưa nay, có khác chăng là càng tiến bộ, con người có
những viễn ảnh sáng tạo kiên quyết táo bạo hơn cả hai mặt trái phải..
Rồi thế giới có tiến xa thế nào đi chăng nữa dần dần cũng khám phá ra
có chuyện khó tin mà có thật, trái lại ngày nay với hào quang của khoa
học kỷ thuật, tôn giáo, con người vẫn bó tay thúc thủ chưa giải thích
nổi bao hiện tượng huyền bí siêu nhiên, tưởng vậy mà không phải vậy,
đạo đức càng ngày càng tráo trở, lật lọng vô độ khó lường, khó còn giữ
trọn vẹn niềm rin..
Ðiểm độc đáo ở đây là để giáo dục con em, tùy theo dân trí mỗi thời, tổ
tiên ta đã biết dùng hình tượng hành động cụ thể để diễn tả truyền đạt
tư tưởng, hướng dẫn theo nề nếp đạo đức truyền thống dân tộc, không
phương hại hay làm ngu dân. Không có lối độc tài áp bức, cưởng chế đe
dọa nào hết. Lối giáo dục nhân bản, có tình người đã được rao giảng lưu
hành hữu hiệu cho đến ngày nào dân trí cao cho rằng lối giải thích đó
không còn thích hợp nữa thì tập tục đó tự phai đi. Ðừng coi thường
những thói quen, lưu ý nhắc nhở cần thiết có ảnh hưởng tốt đối với cá
nhân tập thể.
Như việc nuôi dạy trẻ cũng tùy thuộc vào tuổi tác thời kỳ mà hướng dẫn
từng bước. Không có chuyện thần đồng mới ba tháng mà « nhảy lớp » biết
nói biết đứng chựng được. Phải có sự huấn luyện, khô cả cổ, đau cả
lưng, lập đi lập lại nhiều lần, té lên té xuống, u đầu sưng trán, qua «
thôi nôi » mới hy vọng trẻ biết bập bẹ nói, chập chững biết đi. Hơn thế
nữa còn tùy thuộc sức khoẻ cá tính và hoàn cảnh sống mà mỗi em tiến
nhanh hay chậm không có mốc thời gian nào nhất định.
Chưa giải thích được bằng lý, khoa học được thì tổ tiên phải tận dụng
cái gì mình có, mình thấy, mình biết. Những hiện tượng con người phải
tiếp xúc hằng ngày không biết cội nguồn căn nguyên, mù tịt không cắt
nghỉa rành mạch được thì người xưa cũng phải tìm hiểu sâu sát vấn đề
bằng cách nầy cách khác. Có mặt trời mặt trăng, ngày đêm, nam nữ, sống
chết thì tất có thế giới hữu hình vô hình, có trời đất thì có thiên
đàng địa ngục, có thần thánh tà ma ác quỷ. Những chuyện siêu nhiên vượt
tầm hiểu biết thì thuộc về thế giới khác huyền bí, mà vị chỉ huy tối
cao tối thượng là Trời, dưới có các Thần linh Tiên nữ…như cách tổ chức
chính quyền kẻ cả tôn giáo sau nầy.
Chẳng hạn như cũng để răn đe con cháu, hay đúng hơn để hữu hiệu hóa
phương cách giáo hóa con em, ta dựa vào Thần quyền nên có tục lệ tiển
đưa ông Táo , những vị « dân biểu » về trời họp, dâng sớ tấu trình tổng
kết tình hình mỗi gia đình cuối năm. Ðây có phải chăng cũng là tập tục
manh nha các tờ báo cáo tổng kết hoạt động kết quả thành tích cuối năm
hay rộng ra ngày nay đơn thỉnh nguyện, kêu oan, khiếu nại, làm reo biểu
tình…Tư tưởng tổ tiên đã nghĩ đến guồng máy hành chánh, luật pháp, thật
tiến bộ làm sao !
Cũng không chừng vốn biết tâm lý con người thường thích sống hơn chết
vì không biết cái thế giới bên kia thế nào nên phân vân hoài nghi, sợ
điều bất trắc xảy đến do quyền lực siêu nhiên, ông cha ta đã khéo hướng
dẫn lèo lái con cháu theo hướng ý của mình theo cách « ở hiền gặp lành
», « tích ác phùng ác,tích thiện phùng thiện ». Óc sáng tạo của tổ tiên
kỳ thú biết bao !
Mùng ba Tết là ngày Tết nhà, Tết trâu, lẩm lúa, vườn tược, chuồng heo
gà bò….Nói chung chung những nơi hay sinh vật liên quan trực tiếp với
cuộc sống của gia đình. Thường những đòn bánh Tét được tét ra từng
khoanh, bánh ít, sau khi cúng được đem cho heo gà ăn, tượng trưng cho
sự xác nhận khen thưởng công trạng. Ðây cũng là một cách dạy ngồ ngộ
thâm trầm vẫn mang tính cách hòa đồng nhân bản. Trên đời, là sinh vật
dù là con người, sinh vật cao cấp nhất, vẫn phải nhờ đến người khác,
không ai sống một mình được. Nước nào cũng đề cập đến việc nầy cho rằng
người dân một nước như thể anh em, tôn giáo còn nhấn mạnh rõ hơn, chúng
ta đều là con của Ðấng Tối cao. Tổ tiên ta chẳng những ý thức được điều
đó mà còn biết diễn tả bằng phép xưng hô gọi nhau như người thân ruột
thịt anh chị em chú bác cô dì,…Các bạn thấy không, di chúc để đời phải
học và hành đó.
Chúng ta thường quên điều ấy nên có sự phân chia giai cấp giàu nghèo
như trước kia giai cấp cùng đinh (les parias) ở Ấn độ chằng hạn chịu
nhiều điều tủi nhục nhất. Họ phải sống trốn tránh như người cùi hủi,
không được chường mặt ra ngoài, vì nếu người quyền quí giàu sang nào
chẳng may đụng vào họ, về nhà phải tẩy uế và có khi còn cắt cả chỗ quần
áo nào chạm phải. Cũng chính từ lòng ích kỷ tự cao tự đại quá độ đã làm
nẩy mầm móng kỳ thị chủng tộc tôn giáo và chiến tranh tất nhiên có cơ
phát triển và địa bàn hoạt động càng ngày càng bành trướng hơn.
Ông cha mình không nghĩ như thế đâu, ngay cả thú vật trong nhà, nói
chung sinh vật cỏ cây đều được nhớ đến như để xẻ chia chung hưởng.
Không có chuyện trên đội dưới đạp, « ăn cháo đá bát » của những kẻ
không tự trọng vô liêm sĩ khi được « ngồi mát ăn bát vàng » rồi thì
vong ơn phản phúc, trở mặt « lên chân » khinh người.
Hằng năm Tết đến, nhìn bao cây nhang sau khi đốt xong cuộn tròn trên
phần cọng nhang còn lại, tàn rơi đầy trên lư nhang, khi còn sinh thời
má tôi thường vui mừng kính cẩn bảo :’ Ông bà về rồi, nhang cong là ông
bà chứng giám lòng thành con cháu đó’. Bao nhiêu tuổi đời Xuân đến, tôi
vẫn được nghe những câu nói tương tự như vậy kèm thêm vài câu chuyện
vui, hành động đáng nêu gương của ông bà, lâu lâu bà lại cười cười kể
xen vào những tập tục cổ xưa thời mẹ tôi còn nhỏ, như chôn cái « rế »
lót nồi trước cổng nhà để xua đuổi bọn « đầu trộm đuôi cắp », mà theo
năm tháng dần trôi không còn ai giữ nữa.
Nhớ sao là nhớ không khí Tết quê hương, với bông vạn thọ tượng trưng
cho sống lâu « trăm tuổi bạc đầu râu », cành mai rực vàng năm cánh đem
đến may mắn cho gia đình. Ngày mồng một thì khỏi sợ bị rầy, ai cũng
phải phép tắc lễ độ, mắt mày tươi vui ‘ vì buồn ngày đầu năm thì buồn
cả năm luôn’. Những bao thơ đỏ lì xì làm rộn lòng các em trẻ nhỏ tung
tăng trong quần áo giày dép mới, những câu chúc mừng năm mới vang vang
từ trong nhà ra đến ngoài đường, đâu đâu cũng vui như hội.
Têt nguyên đán gồm bao yếu tố điều kiện thiên thời địa lợi muôn màu
muôn vẻ hòa hợp thiên nhiên với cuộc sống trần gian. Ðây còn là cơ hội
cho chúng ta nhìn lại quá khứ ôn cố tri tân, tự hào về nguồn gốc, óc
tiến thủ dấn thân của tổ tiên, tìm lại bản ngã tự kiểm tự phê sống hòa
đồng đoàn kết bình đẳng, bổ sung bồi dưỡng tiềm năng, sức khỏe, kiến
thức để đừng đánh mất lấy chính mình.
Không có Tết nơi nào đẹp thân thiện và đầy ý nghĩa bằng Tết ta quê nhà vì tình người luôn luôn còn có dịp trổ hoa. !
Trần Thành Mỹ
|
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
IP Logged |
|
thylanthao
Senior Member
Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
|
 Gởi ngày: 05/Feb/2008 lúc 7:05pm |
10. Lời Chúc Ðầu Năm
Trần Thành Mỹ
LỜI CHÚC ÐẦU NĂM
Qua
TẤM NGÂN PHIẾU 5.000.000.000.000
ÚM BA LA ! Với chiếc đũa thần, lời cầu chúc nhiệt thành đầu năm, những
con số trong ngân phiếu sẽ biến thành bao mộng mơ hy vọng Con số 5 đầu
gồm năm con số 1, tượng trưng cho 5 châu bốn bể tứ hải giai huynh đệ,
vàng trắng xám đen đỏ, tất cả là anh em trong đó có chúng mình.
Con số 1 là chiếc đũa thần, cây gậy của tuổi già, chiếc đũa của nhạc
trưởng điều khiển gia đình, mỗi con người trên thế gian không ai giống
ai cần trân trọng lẫn nhau .
...
0-1 : Con số 0 đầu tiên tượng trưng cho những đóa hoa mỹ miều, nực
hương, kết thành vòng hoa muôn màu nghìn tía, xin kính dâng lên Ðấng
Tối Cao cho chúng ta còn được đến ngày hôm naỵ
0-2 : Con số 0 thứ hai, những tràng hoa Xuân bất tử kính dâng ông bà cha mẹ vì công ơn sinh thành dưỡng dục
0-3 : Con số 0 thứ ba, những bong bong đủ màu tung bay, hình ảnh của mỗi gia đình trên trái đất vui hưởng hòa bình tự do .
0-4 : Con số 0 thứ tư, những tia pháo bông như lòng người mở hội biết xẻ chia, bình đẳng.
0-5 : Con số 0 thứ năm, trùng trùng điệp confettis kết thành năm vòng Olympic tượng trưng kết đoàn thế giới năm châu .
0-6 : Con số 0 thứ sáu, lung linh những vì sao mang ánh sáng huyền diệu
soi rọi biến đổi đầu óc tối tăm của những đứa con trần gian.
0-7 : Con số 0 thứ bảy, những giọt sương tựa pha lê trong « buổi bình
minh cây xanh nắng gội » ‘Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng’ như
những giọt nước mắt vui mừng mang tình người trung hậu thủy chung biết
xẻ chiạ
0-8 : Con số 0 thứ tám, vương miện cho tất cả chiến sĩ anh hùng trên
mọi lãnh vực đã góp phần vào việc xây dựng gia đình Tổ quốc quê hương ;
0-9 : Con số 0 thứ chín, những hạt giống tốt đưọc ươm mầm sống mạnh, giúp đở nhau không còn ngu dốt đói nghèo .
0-10: Con số 0 thứ 10, những sợi tơ óng ánh dệt thành vòng tay đoàn kết lớn sưởi ấm lòng người .
0-11: Con số 0 tứ 11, một giàn nhạc gồm nhạc công năm châu, chung sức
nhau ca tụng Tạo hóa thiên nhiên đã cho ta cuộc sống, quả đất màu xanh
xinh đẹp cần được bảo vệ môi trường sinh duỡng cho giống người truyền
mãi đến ngàn sau .
0-12: Con số 0 cuối cùng, cuộc đời là sắc sắc không không, xin hãy tận
hưởng, thưởng thức của Trời cho mình có, đừng bận lòng chi chuyện có có
không không.
Trần Thành Mỹ
|
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
IP Logged |
|
thylanthao
Senior Member
Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
|
 Gởi ngày: 02/Mar/2008 lúc 3:00pm |
Tha Hương Ngộ Cố Tri
Trần Thành Mỹ
Chiếc xe mang bảng Pháp chầm chậm ngừng trước cửa. Nhìn qua
cửa kính ngăn ánh sáng và tầm nhìn bằng chiếc màn the xếp thành nhiều
‘plis’ dọc, tôi hy vọng là khách tìm d? dàng được nhà ở xứ Bĩ láng
giềng tuy gần mà xa nầy. Chỉ cách thủ đô Bruxelles đ chừng 100km, vì
nói tiếng Hòa lan, nên ai cũng tưởng chừng như vùng ‘khỉ ho cò gáy’, xa
mú tí tè, dân còn b lạc... Kia rồi, dáng dấp của quê hương rõ nét, tim
tôi lâng lâng, trí óc mường tượng dấu móc kỷ niệm, tay rung rung mở
chốt cửa như quay ngược thời gian ký ức.
Mấy mươi năm qua nay mới có dịp trùng phùng trên đất khách nhờ các đấng
lang quân, chưa bao giờ gặp gỡ, thế mà nhìn qua cứ tưởng đã có lần
quen. Tay bắt mặt mừng, trống ngực đánh phèn la như hồi xưa đàng trai
lần đầu xem mắt. Tóc ai cũng đã điểm sương, hoa râm nhiều ít, thế mà nụ
cười tươi vẫn còn giữ vẹn thuở nào. Mình trước kia đã bệ vệ mập tròn,
các chị bạn ít nhiều cũng quyết không thua phát tướng. Thời gian như
lắng đọng, gặp nhau mt phút, dĩ vãng gợi bao năm. Nhưng vốn tha hương
nên không ai nhắc chi đến chuyện cũ xa xưa cũng như chuyện gia đình
rườm rà chưa cần thiết. Câu chuyện loanh quanh hiện tại, dòn tan bằng
tiếng mẹ điểm đệm thêm bằng tiếng ngoại thật kỳ thú vui tai.
Ðây là ba c?u nhà giáo Pháp văn thế mà xả xú báp toàn mùi nước mắm nhỉ.
Những tiếng lóng, câu chuyện trào lng dí dỏm, cười ra nước mắt sau ngày
30-04-75 được nêu ra như pháo nổ. Thói thường các pháp sư chỉ quen bắt
ấn, niệm thần chú bằng tiếng Phạn tiếng Miên, hô phong hoán võ, phất
trần trừ tà, đoán việc âm dương, vẽ bùa đuổi ma yểm quỉ, các Pháp sư
nầy cũng dốc hết bao thành công lực , hồ lô bùa phép sử dụng lối chơi
chữ, cách nói lái đa dụng, đc đáo tuyệt vời để bồi dưỡng phong phú hoá
tiềm năng trở về nguồn. Có chị còn áp dụng lối nói lái có mt không hai
nầy vào tiếng Pháp làm ông xả ngẩn ngơ.
Chẳng những được nghe được nói mà còn tìm lại được thú vui quen thuc
truyền thống của dân mình. Người Việt ta ai cũng muốn ‘ sống có
nhà...’, nhà thì có vườn. Rng thì trồng rau, cây ăn trái mận xoài, đu
đủ, táo, chuối,...thêm bồn Bát tiên bạch mai chiếu thủy, mai vàng hay
hàng chùm nụm, bông giấy đủ màu uốn tỉa thành hình rồng phượng... tùy
theo tài khéo léo của chủ nhân. Hẹp thì biến thành vườn thu gọn, loại
mini, bonsai, tạp lục, tả bín lù. Nhớ lại bài :
‘Con gà cục tác lá chanh,
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi.
Con chó khóc đứng khóc ngồi,
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng’
mới thấy cách nấu nướng của ta cũng cầu kỳ, tinh luyện, gia vị nào món
nấy đòi hỏi lắm công phu, kỷ thuật, mỹ thuật, sáng tạo, khéo tay. Do đó
để có món ăn quen thuc hợp khẩu vị dân mình, đi ở đâu cũng cần có vườn
rau quê hương.
‘ Thò tay bức mt ngọn ngò,
Thương em đứt rut giả đò ngó lơ’
_ ‘ Ngò rí đây à, sao mà thơm quá, khác hẳn ngò ở bên đây... hăng hắc
thế nào ! ‘ chị bạn vừa reo vang vừa vuốt nhẹ lá ngò mảnh khảnh, thân
cây khoe hoa trắng nhỏ, cành đơm trái như hạt tiêu xanh đậm.
Nhìn xuống chân sợ dẩm phải đám rau vấp cá mọc tàng lang bên bờ mương,
thứ rau mà các vị hòa thượng thường kiêng, mùi tanh tanh, beo béo đặc
biệt trn làm nham cua, thit heo luc thái chỉ, chua chua ngòn ngọt nhậu
với bia hay rượu đế quên đời.
Bên liếp cải bẹ trắng, bẹ xanh, cải ngọt mượt mà đơm ngồng vươn cao
khoe nụ, lú nhú khóm húng lủi lá tròn gờn gợn sóng, húng cây lá nhọn
vững chải sum suê làm phát thèm bánh xèo chiên bằng chảo gang dòn béo,
chấm nước mắm ớt chua cay đúng như câu ‘‘tay làm hàm nhai’’ hay bài thơ
phổ nhạc ‘‘tôi đem quê hương tôi vào lòng’’ nhớ nhớ biết chừng nào !
‘ Gió đưa cây cải về trời,
Rau răm ở lại chịu lời đắng caỵ’
Rau răm mùi vị cay cay như quế không thể thiếu khi ăn ht vịt ln vịt
giữa chấm muối tiêu chanh. Tần dầy lá thay đở rau om , ngò gai nơi xứ
lạ biến nồi canh chua thơm phức, đậm mùi. Tía tô lá nham nhám hai mặt
hai màu xanh tím, húng quế thơm nồng mấy ai quên bên tô phở béo bốc
hơi.
Nhìn rau thôi đã nhớ món ăn liên hệ không phải chỉ bằng ký ức mà thường
còn đánh mạnh vào ngủ quan, mắt nhìn màu sắc, hình thù, mũỉ ngửi hơi
mùi, miệng nhai nếm thử tài đầu bếp, tay sò mó xem tình hình ấm lạnh,
tai lắng nghe âm thanh phân loại món ăn.
Thật ra ‘Ăn để sống’ nhưng có lắm lúc
‘ Miếng ăn là miếng tồi tàn,
Mất ăn mt miếng ln gan lên đầu !’
Người ngoại quốc cũng nhận thấy vườn Việt ta hơi lạ, có thứ rau mà họ
nghĩ hoa trái chỉ dùng làm kiểng để trang trí trong nhà. Những liếp rau
dền tím đỏ cao ngồng nghềnh với hoa như chổi lông gà hay bông mồng gà
chưng trong ngày Tết, cụm hẹ ngẩng đầu khoe những chiếc dù xanh li ti
hoa trắng nhỏ gợi nhớ đến cun gỏi cuốn tròn dài chấm với tương
ớt...phát thèm. Rau tần ô còn gọi là cải cúc rực vàng trong nắng sớm,
mà theo ông bà ta ăn vào bổ cả tì, can, phế, thận, nấu canh sôi đập cái
trứng bỏ vào, lòng đỏ còn nguyên như mặt trăng bao quanh hào quang mây
trắng. Hàng thì là làm giảm mùi tanh của cá, chững chạc như lính hầu
mặc áo có tưa ren mang lng vàng vinh qui. Giàn bầu rợp lá tròn to
giương cao ngọn, tua tủa râu xoắn ốc bên hoa đực vàng rực rỡ, nặng trĩu
quả vỏ xanh điểm sọc trắng như chiếc bình cổ thon treo lủng lẳng trong
tranh. Thật sự món ăn ta món nào ướp gia vị riêng của món ấy, thịt cần
hành, gà gừng, bò tỏi, chó riềng... Rau quả là hương thơm thoang thoảng
của đất trời mà cũng là nước hoa thuần tinh quyện mùi da thịt, chất xúc
tác hạnh thông huyết quản, điều hòa nhịp thở, kích thích mạch tim. Mấy
giờ bên nhau trôi nhanh như chớp. Ðã đến lúc chia tay hẹn ngày tái ng
để có dịp học hỏi đổi trao kinh nghiệm, thông báo tình hình duy trì
phát triển vườn nhà hầu luôn nhớ trở về nguồn.
Hình ảnh quê hương ẩn tàng cô đọng trong lá rau đầy mùi vị như sắc thái
của cuc đời. Không khác chi chiếc đủa thần, vòng quạt phép mầu, rau
phong phú hóa màu sắc, tạo hương thêm vị, tô đậm tình người, nhắc gợi
tập tục, ci nguồn dân tc. Nhìn vườn rau mà nhớ thương quê hương sâu
sắc, gặp lại bạn bè nhớ bọc trứng nở trăm con !
Trần Thành Mỹ
|
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
IP Logged |
|
thylanthao
Senior Member
Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
|
 Gởi ngày: 01/Apr/2008 lúc 5:40pm |
Hoài Niệm
Trần Thành Mỹ
Ðể tưởng nhớ cô Hồ thị Ngọc Lệ, cựu giáo sư trường Trung học Gò công
Nhớ những ngày đầu chúng mình về trường Trung học Gò công (1958), bấy
giờ trường mới toạ lạc ở khu sân banh cũ với ba dãy trệt hai dọc mt
ngang vừa làm văn phòng vừa là lớp học, cổng chính uy nghiêm với mái
che cổ kính thêm miếu Tiên sư bên cạnh quan phòng.
Ngày trình nhiệm sở đầu tiên, chúng mình hợp nhau lại hồi hp chờ vị
Hiệu trưởng từ Saigon về. Khóa I Quốc gia Sư phạm nầy gồm có bốn nữ
nhất nam, ba gốc địa phương, hai từ Long xuyên Châu đốc. Hôm ấy, còn
đang tán gẫu, ba hoa chích choè, b?ng đâu chợt thấy ông khách lạ vào
trường, túi xách tay, bụi đường còn phủ nhẹ trên áo nón đang ngơ ngác
tìm quanh.
Vốn xinh nhất đám lại lanh lẹ liếng thoáng trẻ trung, chị nhanh nhẩu bước ra chào nghĩa hiệp:
" Dạ thưa ông cần tìm ai ?"
" Văn phòng trường Trung học ạ !"
-" Xin ông cứ đi thẳng vào".
Ông khách mỉm cười cám ơn thẳng tiến, chị trở lại vui vẻ thuật kèm điệu
b cái phút hi ng đầu tiên ngắn ngủi ấy cho chúng tôi nghe. Thời gian
chờ đợi trôi qua, mạnh ai nấy bàn tán hình dung tưởng tượng vị chỉ huy
tương lai của trường.
B?ng thầy giám thị Châu văn Giao bước vào mời qua văn phòng chào gặp
Hiệu trưởng. Bốn cô chôn chân như bị "trời trồng", nghẹn thở. Ðáng đời
cho chừa thói thầy bói đoán mò, chùm nhum ngồi lê đôi mách ! Chị lại
phá bầu không khí ngt ngạt nầy :
" Trời đất! Ai mà dè, hồi nãy mình cứ tưởng..." Chị chưa dứt câu mà
không hiểu vì sao cả bọn đồng cườị..r. Sau đó điều thích thú là được
biết ông cũng là hiệu trưởng đầu tay, người miền Bắc mà tên lại đặc sệt
mùi Nam Ðoàn văn Xếnh.
Phòng ốc còn thô sơ, "thượng tầng kiến trúc" mới toang nên v?n giữ vẹn
nhiệt tình, quyết tâm, lòng hăng say, năng lực phục vụ. Cũng có lẽ vì
chúng mình đặc biệt được nâng bậc nên như để thẩm định phẩm cách, thể
vị, vô hình chung nhất tề đoàn kết nối vòng tay sống trọn lòng với chức
phận dạy và học đầu đời.
Ngoài chuyên môn, chúng mình luôn mong đưa mt luồng gió mát vào sinh
hoạt khác như tổ chức " Cây mùa Xuân", bích báo, lễ Tất niên và nhất là
văn nghệ mà chị là "mt cây" múa hay, đạo dỉn giỏi từ lúc chúng mình còn
cùng lớp cơ mà.
Hằng năm trường có lệ tổ chức l? phát thưởng trọng thể. Lúc bấy giờ địa
điểm là rạp hát Gò công và l? nầy lúc nào cũng được phụ dỉn văn nghệ
mới xôm tụ thành công. Chị không ngại bõ ra công sức, sau giờ dạy, sốt
sắng say sưa luyện tập các em bao điệu múa dân tc đề cao quê hương. Múa
đũa, múa nón, múa quạt, múa cấy trồng làm mát mắt hả dạ người xem.
"Tiếng trống Mê linh" được biểu diễn rất công phu chính xác hào hùng
vừa múa vừa ném đổi trao đuốc gậy. Vũ khúc "Giòng sông xanh" với trang
phục áo dài tay có cánh uyển chuyển thướt tha thơ mng ru hồn khán giả
say mê. Cũng chính vũ khúc tuyệt diệu nầy, mấy năm sau khi chị đã
thuyên chuyển đi, đoạt giải nhất trong cuc tranh giải ở Tiền giang làm
vinh dự cho trường.
Chưa hết đâu, vở kịch "Con thỏ ngọc" gây bao hứng thú làm khách chủ
trầm trồ tán thưởng. Cảnh mặt trăng từ từ lố dạng, nhô dần lên cao, màn
thỏ ngọc bay theo cây đa thật điêu luyện thú vị và sáng tạo vô cùng!
Ðến đây chúng ta cũng phải ghi nhận tính tháo vát, khả năng bén nhạy
dám nghĩ thích làm, chịu khó lại khéo tay tiềm tàng của học sinh Gò
công.
Cũng như chị, tôi đã nhận chân được giá trị ẩn luyện đó qua l?n dàn
d?ng v? kịch thơ "Hoành sơn", Phích trong vai Trịnh Kiểm, Ánh Tuyết vai
Ngọc Báu, Quyên vai Nguyễn Uông, Mai vai Nguyễn Hoàng.... Tài ngâm dỉn
của các em, trên 30 năm (1958-1988) vẫn là kỷ niệm đẹp khó phai. Ðặc
biệt là các nam sinh rất khéo léo trong việc trang trí dàn cảnh, đc đáo
nhất là Út đã tự sáng chế mão cánh chuồn, cân đai, áo bào được dệt rồng
thêu giấy bạc vàng lấp lánh.
Mt lần khác trong dịp Tất niên, vở kịch Sớ Táo quân do Dực soạn giả
kiêm dỉn viên, ông Táo với áo mão cân đai mà không mặc quần lại mang
hia đọc sớ điểm đệm bằng tiếng trống chầu gây nức tiếng cười rang. Sáng
kiến nầy đã gây tiếng vang nên được mời trình diễn công cng ở bến xe đò
cũ gần nhà bảo sanh Trương văn Huân. Rồi mt vài tờ báo đăng tin khen
khích lệ văn nghệ trường nhà.
Riêng chị, gắn bó hơn để trở thành nàng dâu xứ Gò ở Sài gòn hoa lệ. Sau
75, vì sự sống còn của gia đình, chị vĩnh viễn ra đi sau tai nạn giao
thông bất hạnh !
Dân Gò công vốn tôn sư trọng sĩ, tinh thần nầy đã từng đuợc khắc ghi
đậm nét trên bảng " Lương sư hưng quốc" thuở nào. Hiện nay nhiều người
con tinh thần của trường đã làm rạng danh quê hương thứ hai cuả chị ở
trong như ngoài nước, chúng mình cũng hảnh diện ngầm lây.
Bây giờ Chị đã đứng trên mọị sự, chúng tôi những người dân Gò biết Chị xin đa tạ không quên.
Ingelmunster 08-09-88
Trần Thành Mỹ
|
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
IP Logged |
|
thylanthao
Senior Member
Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
|
 Gởi ngày: 02/May/2008 lúc 6:06pm |
Quảng Cáo
Trần Thành Mỹ
Hàng tuần, nhìn xấp giấy quảng cáo đủ màu nhét nghẹt thùng thơ
ngoài cổng, cảm thấy thương trẻ em các nước khó nghèo ngày ngày phải
bươn chải bươi lượm trong bãi rác ngút ngàn. Ngược lại ở đây, bây giờ
tất cả như dư thừa, hỗn đn, phí hoang.
Thật vậy, ngày nay, bước ra đường, đâu đâu bạn cũng bị thu hút, bao
quanh bởi những tám bảng nhỏ lớn, đủ tầm cỡ, màu sắc, hình vẽ, ánh sáng
đập vào mắt gây chú ý. Bạn không muốn nhìn cũng thấy, không muốn đọc
cũng không thể làm lơ. Dần dần như quen thuc, gần gũi, nhập thể ăn sâu
vào tiềm thức bạn lúc nào không ngờ được. Về đêm, những ngọn đèn đủ màu
sặc sỡ, chói chang, chớp tắt, dạ quang chỉ cần lướt qua bạn có thể đoán
ngay đề tài, ni dung, vị trí.
Quảng cáo như gắn chặt vào cuc sống người dân, nhất là ở thành thị.
Thật ra chẳng có mt ai dửng dưng nổi với tiến b nầy. Lúc đầu chiếm địa
vị lặt vặt nhỏ nhoi ở trang cuối cùng tờ báo, co giãn theo thời, rồi
dần dần biến thể, phát huy, lan rng sang địa hạt truyền thanh, truyền
hình.
Ðây là cách giới thiệu, mời gọi, rao hàng, thông tin, chỉ điểm, mt tên
thám thính đi đầu, tiên phong, tiền đạo, thông tín viên truyền tin
nhanh chóng. Nghề này, hợp thời đúng mốt, còn đắt giá hơn cả bao nghề
nhẹ nhàng thanh lịch hốt bạc khác như làm mẫu, minh tinh lolita.
Thử quan sát chung quanh mt tí, bạn sẽ thấy ngay chính mình cũng không
thoát khỏi vòng phong tỏa muôn màu muôn sắc đó, từ đầu đến chân, sợi
tóc móng tay, sự hiện hữu bàng bạc, mật thiết, trực tiếp với mọi hoạt
đng, đặc biệt là ‘hồ bao’ túi tiền chúng ta. Cũng chính nhờ thế, khung
nhìn của bạn mở tầm phóng cao xa hơn, nhiều đề tài mới đầy triển vọng
sôi đng nới rng vòng đai bè bạn thành ‘club’ thành ‘băng’.
Thoạt nhìn, tưởng chừng như ảnh hưởng quảng cáo hời hợt, không có chiều
sâu. Nghĩ lại, chỉ cần căn cứ vào vài sự kiện thông thường mới nhận
chân không có phạm vi, ngành nghề nào mà không thông qua ‘b tham mưu’,
trung tâm chỉ huy nầy. Sức mạnh như phong ba, lớn thuyền lớn sóng, biển
to sóng cả. Cũng có thể ví như giòng nước ngầm thẩm thấu vào sáng kiến
con người.
Sử dụng được đủ cả các giác quan thật khó có ai thoát khỏi vòng tay tâm
lý nầy dễ dàng. Thúc bách tính tò mò, kích thích óc tưởng tượng, triển
khai phát huy tiềm năng, gây suy tính, tập phê phán, tạo cơ hi hành đng
thi thố sức tài. Không khác chi gia vị cuc đời, lối xây mng trên ‘plan’
giấy, kiểu chọn âm thầm cho mỗi cá nhân mt hướng đi riêng, vòng quạt
rng đề tài, vườn hoa khoe sắc thắm mà người hái mua phải biết chọn đúng
sở thích khả năng mình.
Theo thời gian, quảng cáo không ngừng thay đổi nhất là nhờ sự phối hợp
chặt chẽ với văn hóa, khoa học, kỹ thuật. Ðây cũng là thước đo trình đ
văn minh căn cứ trên sáng kiến phát minh, cuc đánh giá cán cân kinh tế,
mức sống nhu cầu phồn vinh mỗi nước. Chỉ có nước nghèo mới còn tìm thấy
trẻ em bươi nhặt rác, lượm giấy kiếm tiền đ nhật mưu sinh. Chỉ cần nhìn
nước nào mà vở tập học sinh còn bao bìa bằng giấy báo, đất nước nầy
chưa thoát khỏi đói khổ khốn cùng.
Rồi đâu có phát triển là có cạnh tranh, có tranh giành là có đối thủ.
Cường đ cũng tăng cùng mực đ tiến lùi, sang hèn, khôn dại. Không từ bỏ
phương cách, sáng kiến, kỹ thuật, mánh lới nào ngay cả tráo trở, gian
dối quỉ quyệt nếu cần, sự cạnh tranh sống còn, ráo riết không nương tay
nầy lắm lúc biến thành chiến tranh tiến b.
Ngày xưa, người Việt ta lấy khiêm nhượng làm đầu, Tàu ‘xính xái’, nay,
mục đích là làm thế nào cho số thu đầy ‘kết’ mà thôi. Không còn lối
‘Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa ct mà nghe’,
mà phải
‘Dare to be great’ (Dám trở thành vĩ đại),
bằng không
‘ Người ta lớn bởi vì ta quì xuống’ vậy.
Nói đi rồi cũng phải nói lại, không có quảng cáo thì kinh tế cũng khó
phồn vinh. Mt ví dụ nhỏ minh chứng, đài truyền hình to nhất thế giới
của Mỹ CNN hiện nay cũng không ngừng quảng cáo liên tục, vì thật sự có
quảng cáo mới có người chi sponsor.
Vả lại, quảng cáo là lối chào hàng , tất nhiên chỉ hé mở cho khách phần
nào cần phơi bày, tốt khoe xấu che. Thật khó lòng mà nhắm mắt tin, phân
biệt giả chân. Có tiếp cận, đụng chạm, thực hành rồi mới rõ trắng đen.
Lắm lúc thấy vậy mà không ph?i vậy, hoặc như J.J.Rousseau nói ’’Hãy làm
điều gì tôi nói mà đừng làm điều gì tôi làm’’. Vẫn biết ‘tốt g? hơn tốt
nước sơn’ nhưng làm thể nào để phân biệt g? tốt? Tất cả mặt hàng đều
được khoa học k? thuật tô son điểm phấn, nghiên cứu hóa trang kỹ lưỡng,
bọc gói mỹ thuật, tốt xấu không ranh giới, d? dàng đánh lận con đen như
‘mà’ cặp mắt bình thường. Thử lướt qua vài quảng cáo, bạn học được
nhiều điều mới lạ. Bạn thâu thập ngay từ cơ bản đến cao điểm, ngay cách
sử dụng từ cũng đòi hỏi lắm công phu. Quán ăn chẳng hạn, bạn biết được
nhiều món nổi tiếng từng vùng, chưa nếm qua, có tên tuổi, lắm lúc làm
cho bạn cảm thấy nhớ món quen thuc đến cồn rut cào gan.
Nhìn các cô gái xinh đẹp, bạn tưởng như thoang thoảng mùi son phấn nước
hoa thơm phức trên da thịt của các thiếu nữ đang xuân. Muốn đẹp có thẩm
mỹ, đừng lo bệnh đã có bác sĩ Ðông, Tây, dân tc gia truyền. Ăn khó
nhai, nha sĩ với máy móc tối tân sửa chữa răng thật, trồng răng giả như
khuôn. Chuyện đâu còn đó, ‘lo chi con bò trắng răng’, phí công, mọi
việc đã có quảng cáo chỉ điểm.
Ngày nay, ngay cả tr? con cũng là đối tượng quan trọng. Ðồ chơi bây giờ
phải kể là thuc hàng kỹ nghệ có tầm vóc lớn, theo khuynh hướng thời
đại, có tính cách giáo dục, hợp lứa tuổi... Và ngay chính b môn quảng
cáo nầy cũng phải theo luật tiến hóa biến chuyển không ngừng, lắm lúc
mất đà đi sai lệch mục tiêu lạc hướng. Ðối với giới trẻ chẳng hạn, tâm
hồn trí óc như trang giấy trinh nguyên, cun băng còn mới, nên d? thu
thập mọi mới lạ, đổi thay. Thường theo xu hướng nhất thời, nhiệt tình
dễ chấp nhận mà cũng không ngại vứt đi. ‘Gần mực thì đen gần đèn thì
sáng’ cũng có thể áp dụng trong trường hợp nầy.
Với ngôn từ hình ảnh được phóng đại tối đa, ’hào quang’ chói lọi của
ngành ’rêu rao’ phô trương bày vẽ nầy, người ta bị lòa mắt d? rơi vào
cạm bẫy êm đềm tự nguyện lúc nào không hay, khó có lối thóat ra mà
không bị ‘trầy vi tróc vẩy’. Càng ngày, có thể ví như chiếc áo lâu năm
quen thuc, vứt tiếc, gặp hoài lờn mặt, vắng thì nhớ, bỏ vương thương
ti.
Nghĩ cho cùng, quảng cáo muôn màu muôn mặt, gợi hình gợi cảm, lôi cuốn,
mời gọi quyến rũ như người phụ nữ ‘mỗi người mỗi v? mười phân vẹn
mười’, như người mẫu, minh tinh được điểm tô săm soi chăm chút do sự
phối hợp của bao ngành vệ tinh liên hệ trước khi ‘trình làng’ ra mắt.
Tung ra thị trường, qua tay bao nhiêu khách đủ giới, rồi thì cái được
cắt lng kỷ niệm đến đầu bạc răng long, cái rách bươm nhầu nát, bị vứt
bỏ không tiếc thương bay lang thang theo cơn gió trên đường phố, trong
sọt rác, hoặc trôi giạt qua sông vào biển, hay phất phơ nuối tiếc bám
chắc vào cây cành khoe sắc màu lần cuối!
Nhu thân ph?n con ngủi, có sinh t?t có t?, như việc rủi may là chuyện
tất nhiên. Hãy chấp nhận cuc sống được trao, tự tạo cho mình niềm tự
hào đã là ‘tinh hoa’ của đất trời, an tâm dung bước.
Trần Thành Mỹ
|
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
IP Logged |
|
thylanthao
Senior Member
Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
|
 Gởi ngày: 01/Jun/2008 lúc 10:11am |
Trên Vỉa Hè
Trần Thành Mỹ
Con đường chính của Saigon của thập niên 50-60 tấp nập người
xe. Những chiếc taxi với dáng dấp riêng biệt, thường là Renault 4, hai
màu xanh và vàng, đưa rước khách xuống lên như mắc cửi. Phố phường đông
đúc, hàng quán san sát, nhà hàng tiệm ăn, tiệm tạp hóa, rạp chiếu bóng,
khiêu vũ trường, tiệm giải khát dầy đẩy. Từ đó cũng xuất hiện dần dần
những từ phiên âm theo phong trào mới, tùy theo ngành nghề, như
‘ba’(bar) ‘gái bán ba’, ‘dancing’, ‘ca ve’ ( vũ nữ )…. Nép dưới khung
cảnh sang trọng, rộn rịp tưng bừng náo nhiệt nhất là về đêm ấy, một bức
tranh khác không kém sôi động, lớp người sống trên vỉa hè, trong con
đường hẻm hẹp không tên, giữa hai bức tường của hai dãy phố cao tầng.
Cuộc sống thật xô bồ giữa lòng thành phố, hai thành phần xã hội đối
chọi nhau.
Nhìn bề ngoài ta tưởng chỉ có lớp người kiếm sống, lương thiện. Thật ra
cuộc đời luôn luôn có hai mặt tốt xấu, nghèo giàu. Từ ngàn xưa, ở mọi
thời đại,bao cuộc cách mạng manh nha hy vọng lấp dần hố sâu giữa hai
thế giới trái phải ấy. Rồi ngày nay, cuộc tiến bộ khoa học kỷ thuật,
nếp sống văn minh tiện lợi thích nghi có khi chỉ đào sâu thêm lòng ích
kỷ, độc tài, độc tôn, kết quả lũy tiến nhanh chóng mặt, triệu phú tỷ
phú hàng loạt, ngày xưa đếm chỉ có trên đầu ngón tay, tư bản đỏ đen
vàng xám, danh sách mỗi năm cứ bổ sung dài ra. Còn thành phần cày cụi
làm việc chỉ do công sức khả năng học vị của chính mình thì chỉ đủ có
tiền để đạm bạc sống cầm hơi.
Oái oăm hiện tượng nầy xảy ra ở mọi nơi, nước giàu như nghèo, thành
phần xã hội sang hèn, có hay ít học. Càng văn minh, cả lạc hậu, nhiều
mưu chước táo tợn ác độc hơn gấp bội. Bao mánh khoé được điều nghiên
sâu rộng, áp phe, thành phần chạy chọt, nịnh hót xu thời trá hình, chớp
bắt cơ hội làm đảo lộn vàng thau lẫn lộn. Ai cũng là vua một cõi, ăn
xin cũng có vua sinh sát thường vắt chanh bỏ vỏ, các trẻ mồ côi sống
bên đống rác, móc túi, đánh giày cũng có đầu nậu, băng đảng trưởng. Sa
đọa hơn là trẻ em bụi đời nghiền ngập thật đáng thương vì khó có cơ hội
hy vọng tìm được con đường lương thiện. Những đứa trẻ bị đời nguyền rủa
nầy thật đáng thương, tội đâu phải do chúng tạo ra đâu mà chính xã hội
đã đầu độc chúng, đẩy đưa chúng vào con đường không lối ra. Vì sống
còn, miệng đói ăn chân phải lết phải bò. Thời bấy giờ, bao gia đình
chạy loạn từ làng lánh nạn ra tỉnh, đô thị, con đông lúc nhúc, sanh năm
một, sống vất vưởng chạy gạo tiền độ nhật, dưới những túp lều xiêu vẹo,
quây quần bên những khu đổ rác được giải tỏa ra ngoại ô để chỉnh trang
thành phố. Hoặc nằm trong nhà ga dưới góc hiên, bên bờ tường che khuất
bằng hàng cây me, cây cổ thụ, dọc theo hàng rào kiên cố của biệt thự
lâu đài như của dòng họ chú Hỏa, hay trong hẻm hẹp thật ra là trên
mương cống nước thải ra giữa hai dãy lầu như ếch ngồi dưới đáy giếng
trong lòng thành phố thủ đô, trên con đại lộ chính Saigon.
Chiếc lều là do kết hợp vài tấm tôn cũ kỷ sét rỉ được đặt nghiêng
nghiêng dọc theo bức tường sau dảy phố không có cửa hậu thông ra, che
một chiếc chỏng có bốn chân bằng gỗ tạp nhạp đóng phủ trên bằng vài tấm
phên ván mỏng te hay chiếc ghế bố « sập ký nình » vá chầm bằng nhiều
lớp mảnh bao bố tời đủ nhản hiệu như bản đồ thế giới. Một tấm ni lông
hay một tấm poncho cũ xì to dùng vừa làm mái lợp che mưa, vừa làm máng
xối để hứng nước mưa vào thùng hay chậu móp méo miệng đáy mòn. Mỗi lần
mưa to gió lớn, cả gia đình ngồi co ro sát cạnh nhau đở ướt.
Tuy nhiên dầu phải sống chật vật bữa đói bữa no, trên vỉa hè, họ luôn
cố gắng không làm những nghề bất lương như trộm cắp giựt đồ vì họ biết
rằng đây là nơi nương tựa dừng chân có thể là ngắn hạn hay vĩnh viễn.
Họ làm mọi nghề lặt vặt như chạy xích lô mướn từng ngày, khuân vác hàng
ở chợ, chạy xe ba bánh, ‘bán chạy’ từng mớ quần áo cũ ở chợ trời, trên
lề đường,…Con cái cũng cố cho đi học được ngày nào hay nấy và trong
thời gian nửa triệu quân nhân đồng minh sang giúp cho Việt nam Cộng
hòa, nhiều nghề mới cho các trẻ nầy như gọi taxi, xe xích lô máy cho
những lính ngoại quốc xa nhà sau hành quân nghỉ phép, quanh các vũ
trường hay các tiệm giải khát các ‘ba’.
Trái ngược lại, đáng thương hơn là những trẻ mồ côi chạy loạn từ các
làng xa về thành phố bơ vơ rơi vào những tên đầu nậu, băng đảng giang
hồ, vua móc túi, đánh giày, ăn xin…Kỷ luật rất tàn bạo, một khi vào rồi
là quyền sinh sát do đảng trưởng, thủ lĩnh. Mỗi ngày phải kiếm một số
tiền bắt buộc, nếu không sẽ bị trừng phạt dã man. Băng đảng bất hợp
pháp nầy vẫn có những quy lệ kỷ luật riêng có thể nói là vào rồi thì
khó ra, tính trung thành là điều kiện tiên quyết. Mỗi thành viên dù còn
nhỏ cũng không thể được miễn, thay vì được xâm mình như các đàn ‘anh
chị’ giang hồ tứ chiến, du côn có tiếng, thành tích được kể truyền
miệng trong giới xã hội đen ít tốt nhiều xấu đánh lộn đâm chém, đụng độ
trận gây thương vong giành địa bàn hoạt động, cướp giật, cờ bạc ăn
chơi, làm lễ tuyên thệ « nhập môn » bằng cách nướng khuôn sắt cháy đỏ
đặt vào lưng để đóng dấu không xóa được.
Có nhìn một đứa trẻ đang hành nghề móc túi chẳng hạn, hoặc khi nào mình
bị ‘chôm’ một lần, chúng ta phải công nhận rằng dù còn nhỏ tay nghề
nhanh tay lẹ mắt của trẻ cũng đáng nể nang. Chắc chắn là phải có qua
một thời bị đòn đánh đập để vào nghề, có khi bị tù ra khám, các em phải
kinh qua bao khổ luyện bằng nước mắt và máu. Có lỡ bị bắt, dù bị tra
khảo cách mấy, vẫn không bao giờ khai báo kẻ chủ mưu hay cùng băng. Các
trẻ bất hạnh nầy chỉ biết vâng lời, thi hành triệt để công việc được
phân, thường không bao giờ biết mặt người ‘chóp bu’, rất rõ ‘luật giang
hồ’, một khi vi phạm rồi thì tất khó sống được. Không được học, chưa
bao giờ nhận được một cử chỉ, lời nói thân thiện an ủi, con tim của các
em càng ngày càng chai lì hằn sâu những bất công xã hội. Càng lớn lên,
thật khó có cơ may để trở về con đường lương thiện.
Còn « đạo binh » đánh giày, mỗi em với chiếc hộp gỗ đánh giày lảng vảng
trước các tiệm ăn, tiệm kem, trạm xe buýt, bến xe đò đi lục tỉnh, ở các
góc ngã ba đường, lẽo đẽo bám mời mọc khách nào có mang « giày Tây ».
Ðịa bàn hoạt động cũng được phân ranh, tên nào « xé lẻ » đi nhầm vào
vùng khác thường bị hành hung không tiếc thương. Mỗi ngày các em phải
nộp hết tiền mình cật lực làm được, giấu diếm khi phát hiện ra thi bị
kỷ luật nặng nề. Trẻ đánh giày thường không móc túi sợ ‘bể nồi cơm’ tức
là mất việc luôn thêm bị hành hình nếu bị phát hiện. Do đó còn hy vọng
hoàn cảnh đưa đẩy vào con đường thay đổi cuộc sống khá hơn.
Riêng thành phần mua lông vịt, giày dép cũ, đồ bằng nhựa, chai bể thông
thường từ gia đình nghèo bị chiến tranh nhà cửa bị đốt phá không còn
chỗ dựa nên trôi giạt tìm sống đến ven các đô thị tỉnh thành. Ðể tìm
sống độ nhật, mỗi gia đình luôn tổ chức theo vốn liếng ít ỏi của mình,
phân công con cái vừa theo mẹ mua đồ cũ một buổi vừa đi học. May ra
kinh tế gia đình khá hơn và con cái lớn theo thời gian và kinh nghiệm
đời, hy vọng các trẻ nầy có cơ hội tìm đuợc công việc lương thiện xa
đường hư hỏng như buôn bán hàng rong, bán báo dạo, bồi bàn,…
Cho đến thời các binh sĩ đồng minh ồ ạt sang miền Nam, bao nghề mới mở
ra theo nhịp sống vội vã hưởng thụ của tầng lớp giàu mới và nhu cầu của
những người lính giàu có có nếp sống hoàn toàn khác hẳn truyền thống
dân ta. Người Việt thường bảo thủ nhưng lại chuộng cái hay cái mới, ưa
bắt chước văn minh nước ngoài. Trong thời kỳ thái bình, việc chọn lọc
dở hay đã là khó rồi huống hồ thời kỳ nội chiến, việc mất còn không còn
thuộc một ai. Do đó ai cũng phải bươn chải cày cục chẳng những để sống
mà hưởng thụ hết mình, lắm lúc làm giàu càng tốt bất chấp phương tiện,
mánh lới, chiêu bài nào. Bộ mặt xã hội thay da đổi mặt thật nhanh thật
nhanh.
Một trong những nguồn lợi bất ngờ thời bấy giờ là rác. Bao gia đình
sống vất vưởng nhờ những đống rác ngùn ngụt xông mùi để tìm cái gì có
thể bán lại được cho các chủ vựa thường là người Hoa. Nhưng ‘rác Mỹ’
lại khác, không phải là món kiếm ăn cửa giới nghèo nàn đâu. Ðó là những
đồ gia dụng quá kỳ hạn sử dụng, những đồ ăn hộp chẳng hạn, dụng cụ điện
cũ hư được nửa triệu quân đội đồng minh tiêu dùng. Rác nầy thuộc cao
cấp phải được đấu thầu để rồi trở thành một nguồn lợi to tác thu nhập
giúp thành phần áp phe, giỏi manh mún, đầu nậu, lái mối manh nha tạo
một tầng lớp xã hội, ‘dân giàu mới’ thời bấy giờ.
Xã hội thay đổi trong thời kỳ chiến tranh tất có nhiều hậu quả khó
lường, thật giả tốt xấu không ai biết chắc được. Người mang mặt nạ mới,
kẻ khác đội lớp giả mạo, giả danh giả dạng. Ngay cả nghề ăn xin cũng
lắm lúc trá hình. Giả bộ gẩy tay treo tay lên, hàng ngày túc trực trước
quán ăn nhà hàng đến từng bàn xin khách tiền hoặc đồ ăn dư để rồi nuôi
heo và tối tối đi xem hát cải lương hát bộ.
Gia đình anh tư Ròm chạy xích lô đang tá túc trong con hẻm trên mương
ấy gồm thê tử 7 người. Không ai biết anh Tư từ đâu đến nhưng những dãy
nhà chung quanh lâu ngày thấy anh hiền hậu nên cũng tin cậy nên đi đâu
hoặc rước con cái đều nhờ anh. Anh tên Mạnh nhưng vì ốm tong ốm teo nên
để phân biệt với các đồng nghiệp khác, hành khách hay mối quen gọi như
vậy cho dễ nhớ. Vợ anh tên Tý nhưng theo quen miệng gọi là chị Tư,
người mảnh khảnh dễ nhìn sanh con năm một. Do đó, đứa lớn giữ đứa nhỏ,
đứa nào bế nổi thì bồng nách, cõng được thì cõng, mệt quá hoặc mê chơi
ham ăn thì cứ để em bò lê bò càng, bò la bò lết trên lề đường. Tắm rửa
thường qua loa và cũng như các trẻ khác thích tắm mưa vì sau đó các em
thấy mình trở như khác lạ, sạch sẽ, khoẻ khoắn, mặt mày xinh đẹp hẳn
lên.
Hàng xóm của gia đình anh Tư là gia đình em gái của anh, cô Lựu mới 20
tuổi mà cũng đã 3 con lúc nhúc rồi. Hai chị chồng em dâu thay phiên
nhau lo các cháu nhỏ và thêm buôn bán lẻ tẻ, buôn bắt cái nầy sang bắt
cái kia, « bán chạy » ở lề đường gần chợ trời hoặc ở các công viên
nghỉa là vừa bán vừa đề phòng, mắt láo liêng, xem có ‘phú lít’ cảnh sát
đến là dông cho nhanh. Phong chồng của Lựu có tật chân làm nghề sửa xe
đạp ở trên lề đường gần nhà, cũng bảo đảm phần nào gia đình đông con.
Kế đấy là ông Bảy, trên 60 tuổi, ở một mình một thân, làm việc lặt vặt
ai cần mướn. Nhà cửa ông bị đốt rụi sau cuộc bố ráp của lính Pháp ở
miệt vườn Hậu giang, bà Bảy sau đó bệnh nặng qua đời, tứ cố vô thân,
ông trôi giạt lên Saigon. Mỗi gia đình một hoàn cảnh đáng thương. Do đó
họ cố sống nương tựa lẫn nhau vẫn cố giữ cái nề nếp thành thật tương
trợ nông thôn.
Các đứa nhỏ lớn dần trong cái hỗn độn vừa phóng khoáng mới lạ gần như
buông thả, kích thích vừa gò bó kềm hãm bởi cuộc sống cực nhọc của cha
mẹ. Nhưng còn nhỏ chúng chưa suy nghĩ nhiều về vấn đề này dù chúng nó
cũng đã thấy tận mắt y phục đắc tiền của các cô cậu nhà giàu lên xe
xuống ngựa với bao đồ chơi như búp bê, xe đạp nhỏ ba bánh mà chúng nó
mê mẫn thèm thuồng. Các em cũng biết tủi thẹn không bằng với bạn bè
trong lớp, may là giới nào thủ phận giới đó, các trẻ nhỏ chưa ý thức
lòng nhân đạo sớm đâu, nhưng không khinh khi chê bai bài xích nhau là
tốt lắm rồi.
Nhan con gái lớn của anh chị Mạnh và Thành con trai cả của anh chị
Phong được 14 và 12 tuổi năm 1975. Ngày 30- 04, cũng như các trẻ nhà
nghèo khác, các em cũng không biết làm gì vì trường đóng cửa. Trước đó
các em cũng đã nhận thấy không khí hối hả đi ra về bất thường của nhiều
nhà gần đấy. Anh Mạnh được nhiều người dặn trước hẹn ngày giờ nào chở
đi, các chị thì được dúi tiền nhờ xem nhà dùm vài ngày,…
Nhan và Thành cũng tò mò dẫn các em nhỏ theo đoàn người đổ xô ra đường
thường về phía phi trường, bến cảng và nhất là hướng về các tòa đại sứ.
Lạ là người ta chen chúc, dẫm chân lên nhau, thúc đẩy giành giật cho
bằng được lên tàu lớn nhỏ. Về nhà, Nhan kể với mẹ là đã thấy nhiều
người tranh nhau xuống tàu đi đâu không biết, nó còn thấy có khi cố đẩy
con họ theo đoàn người xa lạ nữa. - Con dám đi không ?Con với Thành dám
dẫn hai em đi theo không ? Vượt biên đó. Ba má không có tiền để đi
được, má sẽ đem các con ra đó rồi tìm mọi cách len trộn vào đoàn người
di tản, hy vọng sống tốt hơn. Ðừng lo gì cho ba mẹ ở nhà, cố gắng giữ
gìn thân các con là quan trọng rồi.
- Con sẽ đem theo Nhân, Nhạn hai em trai kế con tụi nó lanh lợi lắm hy
vọng luồn lỏi theo vào, còn hai em nhỏ ở lại với ba mẹ. Thành chắc chỉ
dẫn được thằng Tèo theo. Má chuẩn bị cho tụi con đi liền đi, không dễ
gì tìm được chuyến đi đâu, khó lắm.
Thế vậy mà năm đứa nhỏ nhà nghèo tháo vát nầy may mắn đi chui trót lọt
trong những ngày đầu tháng 05. Bặt tin bao nhiêu năm, hai gia đình nầy
bớt người rồi mà cũng không khá hơn chút nào trong thời kỳ đổi đời nầy.
Biết là các con đã đi mà cũng không dám tiết lộ cho ai biết, khổ hơn là
không biết còn sống hay chết, hỏi ai bây giờ, không dám tin ai nên
không tiện hỏi thăm nhau.
Hơn thế nữa, họ lại thuộc thành phần nghèo ‘rớt mồng tơi’,‘người vô
sản’ theo thời bây giờ, nên người quen biết khá giả cũng ‘ngán’ họ lắm,
biết đâu một ngày nào đó họ ‘ tố khổ ‘ là tiểu tư sản hay nặng hơn là
tư bản mại sản thì bị bắt đi ‘học tập’ mút mùa. Cơ trời không đoán nổi
đành rồi mà còn mưu người sao cũng thâm hiểm và lật lọng như trở bàn
tay, nguy tai !
Tuy nhiên gia đình anh Mạnh vẫn giữ gốc nông dân. Họ chỉ tin điều gì họ
thấy, họ sống qua. Kinh nghiệm trong những ngày chiến tranh ở vùng đồng
ruộng làm anh nhận anh rằng cuộc sống ở thủ đô hay các tỉnh thành lớn,
tinh thần người dân phóng khoáng, tự do hơn tuy có thiên về ích kỷ cá
nhân vì phần đông từ mọi miền vùng ‘ tứ xứ ’ đến, không ai biết ai, rõ
lai lịch cội nguồn ai nên ít có thành kiến bảo thủ về dòng tộc, thành
phần xã hội, lý lịch.
Còn đối với vùng xa thành phố, làng xã, tập tục « lệ vua không bằng lệ
làng », « đời cha ăn mặn đời con khát nước » vẫn chẳng thay đổi bao
nhiêu dù hình thức áp dụng, thể chế có khác đi mà một trong những khía
cạnh khắt khe đó là khó khoan dung với kẻ phạm tội, phản bội, ác đồ.
Thành kiến và phong tục tập quán như hằn sâu vào tầng lớp người chân
chất đó vừa phóng khoáng vừa bảo thủ dễ tin. Ðối với họ, cái gì Trời
cho không phải là trò chơi mà là một đặc ân, thân thể con người chẳng
hạn, không được hành hạ phá hủy mà phải tôn trọng, gìn giữ phát huy, từ
đó mới có lòng nhân. Thế mà nông thôn vẫn là địa bàn mầm mống hoạt động
mọi thời và nông dân luôn chịu thiệt thòi nhiều nhất.
Do đó anh Mạnh không thể như những kẻ chụp giật thời cơ, đội nón mang
dép mới là đổi đời, vì bấy giờ « y phục cũng làm thầy tu » được. Họ
cũng không theo đám người đi ‘hôi của’, xông vào nhà bỏ chạy không ai
cai giữ, vét gì lấy nấy, bán tháo bán dở đồ cắp được. Hoang mang trước
tin đổi tiền, thương gia bị gắt gao kiểm kê, nhà cửa của giới chức cấp
cao của chế độ miền Nam bị tịch thu, người dân cũng bán gia dụng không
cần thiết để mua nhu yếu phẩm. Gia đình anh Mạnh đã chật vật càng túng
bẩn hơn mà vẫn không « đói ăn vụn, túng làm càn » và cũng nhất định
trốn tránh không đi vùng kinh tế mới. Ban ngày họ tìm được công việc gì
để sống qua ngày là được. Saigon cũng như mọi tất cả các thành phố lớn
khác, dù sao từ trước đến nay vẫn là nơi dễ sống trà trộn trốn tránh
hơn vì không ai biết ai nhiều và nhất là thủ đô của Việt nam Cộng hòa
tập trung nhiều tai mắt báo chí ngoại giao thế giới. Hơn nữa, anh chị
có gì để lo sợ cho bản thân đâu trong tình thế mới nầy. Anh chị quyết
định bám trụ ở đây hy vọng tìm được tin tức các con biệt tăm từ ngày ra
đi.
Thời kỳ nầy, biết bao thay đổi đảo lộn tưởng chừng làm sáng giá thêm
thành phần lao động thật sự nghèo nàn. Vậy mà đây là còn thời điểm của
những kiêu binh, “kẻ đục nước béo cò” thò mặt ra trở cờ chỉ điểm tố
khổ. Gia đình người dân trước kia còn ăn cơm hạt bể bây giờ khoai trộn
bo bo ngay trong nước có tiếng được gọi là « vựa lúa Á châu ».
Hai đứa con của anh Tư Út Một, Út Hai và bé Chót của anh Phong cũng
được 12, 14 tuổi. Ông Bảy đã qua đời sau một cơn bệnh nặng được mang
trong bệnh viện không đủ tiền thang thuốc. Hơn mười năm qua rồi, vẫn
bặt tin xa. Tuy nhiên chị Mạnh cứ có dịp là đi cầu nguyện van vái ở
chùa, trước Hang đá Ðức Mẹ, Chùa Chà, đi xin xâm ở Lăng Ông Bà
Chiểu,…cho các con còn sống. Hy vọng đó cũng theo thời gian xuống thang
dần vì theo chị dọ hỏi, tin tức của những người vượt biên khác đã được
biết khá nhiều rồi. Vẫn biết con mình không được đi theo diện chính
thức hay bán chính thức mà nói theo kiểu nói thời bấy giờ con anh chị
đi chui, đi « canh me », bao nguy hiểm có thể xảy ra không lường trước
được. Nhiều người bị bắt tù, chết bị không được tàu ngoại vớt, do giông
tố bảo táp, cướp bóc giết người, bị hải tặc hành hung, …chỉ nghe đến là
chị đã rùng mình trách mình đã cho các con đi một mình còn nhỏ. Mà nghĩ
lại ra đi thì tương lai của trẻ nếu thoát được chắc chắn hơn của cha mẹ
chúng là tất nhiên.
- Dì Tư ơi dì Tư, hổm rày cháu tìm dì quá mà không thấy dì đâu cả, có
rảnh dì đến nhà con ngay, có tin cho dì mà đừng nói cho ai biết trước
hết nga, Hồng bạn gái của Nhan vui mừng gọi rồi rù rì với chị.
- Chuyện gì vậy hả Hồng ? Bây giờ dì đi theo Hồng được không ? Hồng bây giờ có bận làm gì không ?
- Dạ không, vậy dì cháu mình đi nha.
Trên đường đi, Hồng cho chị Tư biết là bây giờ ở nhà phụ lo tiệm cơm
của ba má qua đời để lại, tiếp tế thăm nuôi anh cả đã bị đi học tập mà
con cái nhỏ còn đang đi học. Chị tư nôn nao muốn hỏi Hồng tin buồn hay
vui nhưng nhìn vẻ mặt bình thường tự nhiên của Hồng chị đoán chắc Hồng
muốn dành cho mình sự ngạc nhiên hay tránh cho chị nỗi bực mình nào.
Hồng tìm người làm à ? Trước kia ba má Hồng còn sinh tiền, chị cũng
thường hay đến phụ trong những ngày nhiều khách, gia đình nầy cũng hay
giúp đỡ gia đình anh chị khi túng quẫn ngặt nghèo nhất là Hồng một bạn
gái rất tốt luôn luôn sát cánh bảo vệ Nhan. Chị cố gắng kềm không thở
dài nhưng tim sao mà hồi họp lạ, con đường chẳng cách xa bao nhiêu mà
sao lâu tới quá.
- Dì nhớ phố nhà cháu không, mình đi ngõ hông lên lầu luôn nghe dì, nói chuyện dễ hơn.
Chị gật đầu theo chân Hồng như cái máy, tin vào Hồng chỉ mang điều may mắn thôi.
Vào nhà, miệng vừa mời chị Tư ngồi Hồng vội vã vào trong và đem ra một
phong thư đưa chị xem. Nhìn sơ qua tên trên bao thư và viết không dấu
của người gửi, chị ngẩn ngơ đưa mắt nhìn Hồng vừa đưa trả lại bức thư
không nhầm nhò gì với mình.
- Thư gửi cho em nhưng trong đó có thư cho dì nữa. Dì lấy thư ra đi và
đọc cả hai. Cháu đi lấy gì dì cháu mình uống một chút, khát quá.
Không ngần ngại gì nữa, run run chị vội bóc thư, càng đọc mắt chị mở to
hơn, hơi thở dồn dập hổn hển và cuối thư chị ôm hai lá thư vào lòng
khóc nức nở vừa gật gật xá xá bốn bề vừa lẩm bẩm « Cám ơn Trời Phật
Chúa Mẹ, Ông Bà cha mẹ, con Nhan còn sống ». Vậy mà vừa nghe tiếng lẹt
xẹt đôi dép đến gần, chị hoàn hồn hoảng hốt ngó quanh quẩn tứ phía
tưởng như tiếng « dép râu » của công an khu vực xuất hiện bất thần, vội
vã nhét bức thư vào ngực vuốt tóc vuốt mặt làm tỉnh. Khi thấy Hồng xuất
hiện với hai ly nước mát, chị bật cười chảy nước mắt nói :
- Cô làm tôi hết hồn, sao bây giờ cái gì cũng làm cho tôi sợ được hết.
Thời nầy hạng thứ dân như tôi mà cũng sống không yên ngán bị chụp mũ tố
ẫu thì bị tù mục gông rục xương. Nghèo như tôi có gì mà mất đâu, chén
sành mẻ đâu ngại cụng với chén kiểu ly pha lê, nhưng vì chờ tin mấy đứa
nhỏ sống chết thế nào nên đành giả dại qua ải thôi. Cám ơn cô Hồng quá,
à mà nhận được thư nước ngoài như vậy coi chừng có gi liên lụy với gia
đình cô không ? Có ảnh hưởng không tốt về việc đi học tập cậu ba đại úy
không ? Cô gọi tụi tôi là anh chị và xưng em cho thân tình hơn và đúng
theo kiểu gọi mới hiện đại bây giờ. - Vậy thì chúc mừng anh chị nhưng
em nghĩ xin chị không nên tung tin sớm quá không lợi đâu. Không phải em
lo gì về phần gia đình hay cá nhân em mà chính cho anh chị thôi. Ðiều
quan trọng nhất đã biết rồi, từ trước đến giờ đã dấu nhẹm được thì cố
dấu cho đến trót. Em sẽ trả lời cho Nhan để trấn an Nhan và cho biết
địa chỉ nhà của anh chị để Nhan trực tiếp liên lạc. Hơn thế nữa, anh
chị có thể viết thư cho Nhan gửi chung hoặc riêng tùy ý, em gửi cho.
- Hồng biết mà, chị từ trước đến nay có biết viết thư gì đâu, ông xã
mình làm nghề « dân biểu » ( tiếng lóng mới cho nghề chạy xích lô ) lâu
quá, tay cứng rồi viết chữ như con còng chính tả trật lất hết ráo trọi.
Hồi nãy chỉ thấy qua loa cái địa chỉ viết bằng tiếng u tiếng Tây gì đó
chị đã hoa mắt rồi, đớ lưỡi đánh vần ù ù cạc cạc. Thôi xin cho can đi,
chắc chị nhờ em giúp chị viết dùm, chỉ cho chị ký tên ở cuối thư.
- Tùy chị thôi. Lần đầu tiên viết thư về nước, Nhan không chắc thư có
đến hay không nên như chị thấy, Nhan cẩn thận viết rất ngắn, đúng thôi,
điều cần thiết là cho biết là cả năm đều khoẻ. Từ nay, hai gia đình thở
phào được rồi, hy vọng ngày gặp gỡ không xa đâu.
Vài tháng sau, thùng đồ gửi về khi nhỏ khi to gồm có quần áo, thuốc
men, đồ ăn,…Nhờ bán lại quà nhận được, gia đình dành dụm để có một số
vốn hầu sửa lại chiếc lều rộng rãi thoáng mát hơn và cho các con có thể
tiếp tục đi học, tìm cách bán hàng rong trước rồi tùy thời, hy vọng gặp
lại con.
Sang Mỹ, ba chị em Nhan may mắn đã được một gia đình không con đỡ đầu
nuôi cho đi học. Ra trường đi làm ba anh em ra riêng sống với nhau và
luôn liên lạc với anh em với Thành cũng được một gia đình Việt giúp đỡ
lúc đầu. Nhan sắp lập gia đình với một thanh niên Mỹ gốc Việt nên nhất
định làm mọi thủ tục để bảo lãnh cho cha mẹ và hai em. Anh chị lúc đầu
từ chối nhưng sau đó Nhan thuyết phục là nếu không đi thì các em còn
lại cũng không đi được nên cuối cùng anh chị đồng ý vì con.
Trong thời gian chờ đợi giấy tờ, anh chị Tư luôn tìm cách giúp đỡ trong
khả năng của mình, đem về săn sóc một vài đứa trẻ gái hoặc nhỏ mồ côi
bơ vơ đói khát nằm ngủ bên bờ tường cao của nhà ga góc hẻm từng em một,
sau một thời gian tìm cách đem gởi các hội từ thiện hay tìm công việc
nào để sống qua ngày. Có tiền khá hơn chị sang một chỗ ở bìa chợ để
gánh bán cơm tấm buổi sáng, các em nhỏ phụ giúp. Sau đó hai chị em mở
được một quán ăn nhỏ cho khách bình dân. Ðời sống tuy cơ cực nhưng tạm
ổn hơn.
Ngày gia đình chính thức ra phi trường đi Mỹ, anh chị Tư vốn đã gầy mà
còn mất thêm vài kí lô. Nhớ lại thời gian làm thủ tục nộp đơn đến ngày
ra đi, anh chị không thể nào tưởng tượng được bao giai đoạn nhức đầu
tốn tiền bao công sức đã trải qua. Thế mới ngộ ra rằng nghèo có khổ
nhưng cũng có niềm vui sướng riêng, càng có của thì bậc thang phiền
toái lo toan càng dài tỷ lệ thuận theo cái gì mình có. Vậy mà túi tham
của con người vẫn còn không đáy.
Sống trên vỉa hè bao nhiêu năm chứng kiến bao cuộc đổi thay đất nước
ngay trong lòng thủ đô Saigon, Hòn ngọc Viễn Ðông, nay đã đổi tên, dù
phải sống kiếm ăn từng ngày có khi bửa đói bửa no, anh chị Tư vẫn không
bao giờ nghĩ rằng ngày nầy có thể xảy ra, rời xa Tổ quốc. Thế mà tại
sao cuộc đổi đời vẫn không cản ngăn được bao chuyến ra đi bằng mọi
phương cách sống chết ? Trước kia chiến tranh đã chia đôi đất nước,
cuộc di cư còn chỉ xảy ra trong đất nước thôi, bây giờ, Bắc Nam một
dãy, thế mà thành phần vô sản như gia đình anh chị cũng đành quyết định
bay đi.
Phi cơ cất cánh lên cao dần lượn một vòng trên không phận Saigon từ
giã, nhìn qua cửa kính nhỏ, thành phố thu hình lần nhỏ lại thành một
điểm rồi mất dạng ngoài tầm nhìn trong phút chốc để rồi ngự trị khắc
ghi mãi mãi trong tận cùng tâm hồn .
Xin chào quê hương và hẹn một ngày về !
Trần Thành Mỹ
|
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
IP Logged |
|
thylanthao
Senior Member
Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
|
 Gởi ngày: 01/Jul/2008 lúc 8:37pm |
Trò Chơi Tuổi Thơ
Trần Thành Mỹ
Cùng gợi lại cho nhau nghe những trò chơi thuở trước lúc còn
ngồi trên băng ghế trường Nữ Tiểu học quê nhà. Thùng !Thùng !Thùng !
Tiếng trống vừa điểm vang, được lệnh thầy cô, như đàn vỡ tổ bay ra khỏi
lớp, những lúc nghỉ nầy quả là một lối mở nút chai, giải tỏa sinh lực
bị dồn ép trong giờ học vừa quạVới óc tưởng tượng phong phú, qua kinh
nghiệm của thế hệ trước, bao trò chơi được bày ra nhiều cách, dụng cụ
khác nhau, cá nhân tập thể và nhất là tùy theo thời tiết, trong hành
lang trước lớp hoặc ngoài sân. Nước ta vốn nông nghiệp, tất nhiên trò
chơi nhầm thích ứng với tập tục thói quen, vì từ công tác đồng áng chăn
nuôi đến nội trợ, phụ nữ Việt luôn đều góp phần không nhỏ nên việc giải
trí cho phái nữ cũng được phân định quan tâm. Trò chơi nào cũng có quy
luật riêng và thường khởi đầu bằng cuộc thi xếp hạng. Khán giả không
được « xía » vào, cổ vũ phê bình.
Trước hết, trò chơi thuần túy nữ sinh, luôn luôn ngồi « chồm hỗm » nầy
là đánh búng tương đương lối chơi bắn đạn bắn kè của nam sinh thay vì
hòn bi viên đạn cục kè, dùng toàn hột me khô. Ðây cũng là lối tập bắn,
luyện nhắm chính xác, khéo tay. Có hai lối chơi « búng chỉ », hột me
đầu tiên do đối thủ chỉ định, và « búng gạch », dùng ngón tay gạch giữa
từng cặp hai hột me cấm không được chạm vào hột nào hết.
Cuộc thi mở màn là mỗi « lực sĩ » để tất cả hột me vào lòng bàn tay,
vừa « chưởng lực » vừa hất lên vừa lật úp bàn tay cho tất cả hột me rơi
trên mu bàn tay, rồi lại hất lên cho hạt rơi trở lại vào lòng bàn tay.
Nếu không hột nào rơi ra ngoài xuống đất gọi là ‘trụm’, việc xếp hạng
trước sau là do số hạt rơi ra nhiều ít.
Cách búng thường phải dùng hai ngón tay cái và trỏ chụm vào nhau, ngón
cái búng ngang, ngó trỏ búng dọc. Khi búng, cổ tay bắt buộc phải sát
đất, nếu di chuyển gọi là ‘búng hất’ bị phạt, nhường phiên cho người
khác.
Thật không dễ đâu vì luôn luôn phải ngồi chồm hỗm, dạng chân, xoay qua
trở lại, nhắm thật trúng đích, phát pháo đúng mục tiêu mới thắng.Trò
chơi nầy thường chơi trong hành lang hơn ngoài sân và có thể chỉ có hai
hoặc nhiều người. Thú vị nhất là cuối năm, bạn bè hùn nhau hột me nhờ
mẹ nấu chè hột me với nếp nước dừa thơm béo ngọt làm sao !
Có dịp nhìn vào cập của nữ sinh dầy cộm, bạn khám phá không phải chỉ có
sách vở bên trong mà còn có cả kho tàng giải trí nào giây, banh, hột,
đũa, gia tài đầu tiên của tuổi học trò. Môn tiếp đây sử dụng cả toàn
thân lúc ngồi khi đứng, đánh đũa hay đánh tên với mười chiếc đũa tre và
một trái banh. Thi xếp hạng là quay dưới đất ba chiếc đũa thành hình
tam giác đủ to để có thể đặt đầu chiếc đũa vào trong. Ðặc điểm là trước
khi thực hành mỗi giai đoạn bắt buộc phải « chuyền » tức là tung banh
lên cao rồi dùng hai tay xoay vòng bó đũa, tùy theo giao ước ban đầu,
một hay nhiều vòng, cuối cùng tay nầy nắm bó đũa tay kia hứng bắt trái
banh. Bước nào cũng do sự kết hợp giữa tung hứng banh và xoay vòng bó
tên một cách nhịp nhàng chính xác.
Phần mở màn khởi đầu tuần tự lưa từng chiếc một, rồi hai cho đến mười.
Kế đó là ‘nụm’, một tay nắm giữa bó đũa, tay kia chạm luân phiên vào
hai đầu bao nhiêu lần theo qui định. Rồi đến ‘nẻ’, dùng một đầu bó đũa
đập xuống đất, rồi quay sang đầu kia gây tiếng vang.
Trò chơi nầy đòi hỏi mắt phải tinh để theo dõi banh, ước lượng cao
thấp, độ lệch. Còn phải tùy theo hướng gió đất ẩm hay khô để tung banh
theo ý. Tay không được ướt ảnh hưởng đến banh tên.Cử động nhịp nhàng,
dễ dàng, dẻo dai xoay trở, linh động đứng lên ngồi xuống, chăm chú
không phút lãng xao. Ðây cũng thể hiện được nét chính các động tác đồng
áng như bó mạ, đập lúa, sàng sải gạo, cấy trồng,…truyền thống của dân
mình.
« Nhảy giây » là trò chơi ngoài trời mà hầu hết nữ sinh thích dự. Có lẽ
đây là trò chơi phổ biến nhất, nước nào cũng biết tuy căn bản vẫn giống
nhau nhưng kỹ thuật nhảy thật thiên biến vạn hóa, lối luyện toàn thân
càng ngày càng đòi hỏi nhiều sức lực hơn.
Dụng cụ căn bản chỉ cần một sợi giây sử dụng cho cá nhân hay phe nhóm
tập thể, bằng nhiều thế xuôi, ngược, tréo trước sau. Hai tay nắm hai
đầu giây, quay giây qua đầu, nhảy lên cho giây luồn dưới chân, nếu đạp
lên dây là thua. Khởi sự quay vòng trước mặt là xuôi, sau lưng là
ngược. Hai tay tréo lại gấp dây thành vòng nhảy qua cũng đòi hỏi lắm
công phu. Vận tốc cũng đáng kể, càng nhanh càng nhiều vòng nhiều điểm.
Có thể dùng một sợi dây cho nhiều người tham dự, chia phe tiếp sức,
tinh thần đồng đội được nâng caọDây do hai người phe khác quay. Cơ bản
như trên và tùy thuộc vào người tham dự đồng ý hay sửa đổi tùy thích.
Nhảy giây đúng là môn chơi biến chuyển nhất, muôn phương nghìn cách
thay dạng đổi hình. Có dịp nhìn các cuộc biểu diễn hay thi đua quốc tế,
nhảy dây quả thật không còn là một môn thể thao giải trí thông thường
mà xứng danh là một nghệ thuật, kỷ thuật toàn diện, một thế võ tuyệt
luân.
« Mình ơi tôi gọi là nhà,
Nhà ơi tôi gọi mình là nhà tôi. »
Chữ « nhà tôi » được dân ta thường thường dùng trong việc vợ chồng lịch
sự gọi nhau lúc giao tiếp với khách, nhập thể chủ với nhà đủ chứng tỏ
hoài bão của người Việt « sống có nhà, chết có mồ ». Do đó cũng ảnh
hưởng đến việc giáo dục con em.Các bạn đừng tưởng xứ mình nghèo chỉ có
nhà tranh vách đất, trò chơi « đánh nhà » thể hiện rõ nhất nét cao
sang. Từ mới học lớp a b c khoanh đã tập tành học đòi xem đất cất nhà
tối tân đủ loại.
Trước hết, vẽ hình nhà xuống đất theo mẫu sơ đồ kiến trúc đã được chuẩn
y : nhà trệt với ba ô, nhà lầu bảy ô, nhà nóc bằng nhiều tầng cao,
building tám ô, nhà nóc chùa vẽ hình xoắn ốc, nhiều ô tùy hứng.
Cách chơi mỗi người đều có một ‘đồng mạng’ bằng gạch hoặc đồng tiền để
ném vào ô qui định. Nhảy một chân gọi là ‘cò ’, đặt một lượt hai chân
vào hai ô qui định là ‘chập’, ‘hất’ là vừa cò vừa dùng bàn chân tạt
ngang đồng mạng sang ô khác, ‘xủi’ là đẩy thẳng lên ô trên. Cán mức là
ra, thay phiên người khác. Khi nào thực hiện đúng các bước đi, sẽ được
cất lần lượt một đến nhiều nhà, trái lại nếu không cẩn thận đề phòng đi
sai nước, nhà bị cháy tiêu.
Ðây là lối luyện thăng bằng, trầm tĩnh, bền chí hữu hiệu nhất dù không
đòi hỏi nhiều sức hay căng thẳng như nhảy giây. Các bạn gái quen chơi
thì tất biết, trò chơi nào cũng lắm công phu. Ngay cả « con cò bay lả
bay la », khi đậu trên một chân thì vững chứ chỉ có cò què mới ‘cò rò’
một chân thôi.
Khi cò, một chân làm trục, chân kia gập lại, có mỏi nhờ tay vịn dùm
cũng chẳng dám vịn dùm. Hai cánh tay không dùng làm cánh quạt, chỉ làm
« gạt đờ co » hỗ trợ thân mình thoát hẳn sức hút của địa cầu trong chốc
lát tung lên giáng xuống. Phải dùng cả nội lực thâm hậu dồn xuống bàn
chân làm chuẩn, giữ trọng tâm cho vững không khéo ngả nghiêng luýnh
quýnh chân co chạm đất, uổng toi công. Thất bại của mình còn có thể là
đòn bẩy gây thắng cuộc cho đối phương.
Tuy nhiên đề cập đến học trò là liên tưởng ngay đến hoa phượng, miền
Nam xưa kia còn gọi là cây điệp. Hoa phượng đẹp đỏ như xác pháo, chỉ nở
vào mùa hè báo hiệu múa thi, nghỉ hè cuối năm học. Còn đối với nữ sinh
thật có nhiều công dụng tạo trò chơi.
Tai hoa dáng dấp chiếc thuyền con dược vò nhẹ thành bong bóng nhỏ, rình
bạn nào không để ý đập bóng lên trán, nổ tét gây tiếng vang. Bạn giật
mình, hết hồn la hoảng, thủ phạm thích thú cười rũ rượi. Rồi một màn
rượt nhau, la chí chóe đùa nhau đập bóng phượng ‘trả thù’ vui nhộn hả
hê !
Cánh hoa ăn dòn dòn chua chua ngòn ngọt, khá mỏng manh trùm lên một bàn
tay khoanh tròn hổng trên kín dưới như chiếc trống chầu nhằm kề tai
bạn, tay kia đập nổ bốp. Cánh hoa vỡ tung như xác pháo vu qui. Không nổ
bể là pháo lép, ắt là bị « chọc quê » trở lại.
Nhụy hoa hình nốt nhạc, cọng đỏ nhụy vàng. Trò chơi ‘đá gà’ phỏ biến
nhất vào mùa hoa phượng nở rộ, dùng hai nhụy hoa tượng trưng hai con
gà, khều móc nhau, bên nào đứt đầu thua cuộc. Thấy thế mà không dễ đâu,
đối thủ phải biết chọn cách ngồi thích hợp, ngồi bệt hay hồm chỗm, ước
lượng tình trạng gà địch, lập thế lừa giật, chọn nhụy hoa tươi như cựa
bén của gà nòi. Rồi như trong mọi chiến cuộc, xáp lá cà, mất mát không
thể tránh, thắng bại định ngôi phân thứ nhất thời thôi. Trong phút giây
nháy mắt, mọi bất ngờ xảy ra thật bất lường đoán trước phòng ngừa !
Tóm lại đây là những trò chơi mà nữ sinh ngày xưa thường bày ra chơi
nhất. Không thuộc môn học thể thao bắt buộc mà đúng là phương cách dọ
dẫm, hướng dẫn, phát huy khả năng tiềm lực cá tính có khuynh hướng giáo
dục theo truyền thống nước nhà. Ðó cũng là lối giải tỏa, xả hơi thỏa
mãn tính hiếu động của tuổi trẻ, xả « xu báp » sau giờ học căng thẳng «
bất ly cục kịch », ít nhúc nhích, kỷ luật khắt khe của nền giáo dục
Việt nam nhất là thời Pháp thuộc. Nhưng rồi, sĩ số càng gia tăng, giờ
học tùy hoàn cảnh đất nước bị rút ngắn, trường sở không còn sân chơi
thích hợp, trò chơi biến dạng dần dần.
Tất nhiên môn chơi môn nào vẫn cần phải thích nghi với hoàn cảnh hiện
tại của xã hội, chuyển tiếp, hội nhập vào trào lưu tiến hóa văn minh.
Và trò chơi dù « vang bóng một thời » vẫn là kích thích tố khai nguyên,
phát huy mầm hoạt động, năng lực tiềm tàng, khơi nguồn tài năng, phản
ảnh khía cạnh bản tính tâm tư của từng thế hệ, kỷ niệm gây mơ xây mộng
đẹp nhất của tuổi học trò vô tư trong trắng hồn nhiên.
Trần Thành Mỹ
|
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
IP Logged |
|
thylanthao
Senior Member
Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
|
 Gởi ngày: 01/Aug/2008 lúc 6:18pm |
Paris Lần Ðầu Gặp Gở
Trần Thành Mỹ
Paris đây rồi, thủ đô ánh sáng của nước Pháp ! Tôi đến Paris
13 vào mùa hè ấm áp, nắng chói chan, rn rịp ‘phố đông người qua’. Không
phải Paris vào thu của Anatole France với ‘‘lá vàng trong những hàng
cây đang run rẩy’’.
Không biết con số 13 tốt xấu thế nào với dân bản xứ, vì đến đãy, khu
phố nầy, thật ít thấy người da trắng mà phần nhiều là người châu Á, mt
China town. Hàng quán được trình bày theo gốc gác của chủ nhân, bao
người bao vẻ. Nhan nhản những hoa quả ngoại nhập, thức ăn Tàu, Việt,
Miên, Lào thuần túy hay chế biến cho hợp khẩu vị mọi người. Bàn ghế
được bày ra hiên, thực khách ngồi trong ngoài, có khi còn xếp hàng chờ
đợi. Những đĩa rau đầy ấp, giá trắng phau, húng quế, ngò gai xanh tươi,
ớt đỏ mng, chanh tươm nước, màu vàng của ht cải làm khách qua đường ‘mê
hồn trận’ quên mất mình đang ở Paris. Họ gọi nhau bằng tiếng mẹ, xí xô
xí xào ng nị, mầy tao răng chừ mô tê, thế nào bòn ơi...
Người bản xứ như lạc lõng hay hòa đồng trong lớp người xa lạ nay trở
thành quen thuc, họ cũng cầm đũa gắp, dùng chén t ăn mì phở cơm canh.
Họ cũng thích ngồi bên tô phở tàu bay xe lửa toả khói, nặn chanh, thêm
tương ớt, ngắt nhỏ ngọn rau thơm, chan nước mắm nếu cần. Nhìn những mái
tóc nâu vàng nghiêng nghiêng nhai nhóp nhép cuốn chả giò dòn khếu, uống
nước dừa tươi còn nguyên trái, ăn cơm bì, bún chả bún nem, Ðông Tây như
chẳng còn ranh giới cách ngăn. Thế mới thấy tinh thần căn bản của Pháp
quốc cởi mở, tự do, tôn trọng nhân quyền khác hẵn với thực dân tư bản.
Hăm hở lên xuống bao chuyến métro để đến chiêm ngưỡng dung nhan chiếc
tháp cao nổi danh thế giới vì nói đến Paris không thể thiếu Eiffel. Ðể
chào mừng thiên niên kỷ mới, Tháp đươc tô điểm bằng mt màu sơn nâu sầm
sậm đặc biệt dành riêng, sừng sững hiên ngang dạng chân như thách đố
với thiên nhiên , thế giới. Ai được xem cảnh Tháp trong đêm giao thừa
bước sang thế kỷ 21, đắm mình trong ánh sáng đèn đuốc, pháo bông tưng
bừng đủ màu chớp tắt như lễ đăng quang rạng ngời bầu trời, từ các tầng
của tháp tung ra, tuyệt vời thơ mng.
Ðến đây mới nhân chân sự khác biệt giữa giàu nghèo, văn minh và kém mở
mang. Tây phương càng ngày càng nghiêng về cá nhân chủ nghĩa, thích
sống trong cái kén gia đình chỉ gồm có hai người tưởng cho đến đầu bạc
răng long. Hưởng thụ là căn bản. Ngay cách xưng hô cũng có khuynh hướng
bình dân hóa dần dần, chữ ‘vous’ được thay bằng chữ ‘tu’ thắt chặc tình
thân mật thêm. Họ tin tưởng vào khoa học, khởi điểm của mọi tiến b, và
tập trung vào việc cải thiện đời sống vật chất.
Quan niệm sống cũng thay đổi theo thời, chạy đua nước rút với trào lưu
thế giới. Ðời sống tinh thần, họ hoài nghi yếm thế hơn. Còn ở các xứ
nghèo kém mở mang, ăn chưa đủ no, lo cũng vô ích, cái hố sâu giữa hai
tầng lớp xã hi sang hèn khó được lấp bằng. Người giàu có cơ phương giàu
hơn, bè đảng vây cánh càng nhiều càng tốt, để lại cho con cháu về sau :
‘’ Ông cha kiếp trước khéo tu,
Ngày nay con cháu võng dù hiên ngang.’’
Ngẩng lên nhìn tháp, tôi có cảm tưởng như đang chiêm ngưỡng mt b xương
khổng lồ, nồng cốt của thế nhân, mt giàn phóng hỏa tiễn trực chỉ không
gian vô định, mt kỳ công trong lãnh vực khoa học kỹ thuật tiến b. Những
chiếc thang máy đưa người lên cao xuống thấp, đứng xa nhìn bằng cặp mắt
dân nhà quê lên tỉnh như tôi, thật giống như con kiến vàng bò trên cây
me cây ổi .
Ðiểm hay ở đây là qua hai cuc thế chiến , tháp vẫn giữ vẹn hình hài mà
còn được trang trí tô điểm xinh đẹp hơn lên. Rời cô tháp Eiffel uy
nghiêm chọc khoảng trời Paris lồng lng, soi mình trên gương sông Seine,
tôi liên tưởng đến tháp chùa Thiên Mụ của sông Hương núi Ngự miền
Trung, hy vọng có ngày...
Ơ kìa đại l Champs Élysées dài rng với Khải hoàn Môn hùng vĩ ‘lòng chợt
vui như say, kìa đường lên Thiên thai’, nơi mà Lưu Nguyễn xưa nay lạc
bước, vốn có ‘nhạc vàng ai mê say’, rượu vàng ai ngây ngây’ mà nhớ đến
đường Norodom (sau nầy là Thống Nhất) thời Pháp thuc. Cũng con đường
chính rng nhất Saigon thời bấy giờ, hai hàng cây dọc bên lề dẫn đến Sở
thú, lề đường tráng xi măng sạch sẽ để cho dân chúng tham dự buổi lễ
diễn hành ngày Quốc khánh Pháp 14-07 hằng năm.
Lần theo con đường nổi danh thế giới nầy, tấp nập nhất là du khách khắp
nơi, quán ăn giải khát sang trọng đắc tiền đầy người chật cả lối đi,
hình ảnh quen thuc của Saigon thuở trước với phố Catinat, Charner,
Bonard tưng bừng náo nhiệt mọi mùa.
Có nhìn tận mắt hình ảnh nầy mới thấy thương dân thuc địa, có lẽ người
Pháp cũng muốn biến các thủ đô chiếm hửu rập khuôn theo hình ảnh quê
hương mẫu quốc. Saigon, mt Paris mini, bonsai ? Nhiều người cho rằng
nhờ họ ta mới có những kiến trúc nguy nga đồ s như dinh Toàn quyền,
dinh Thủ tướng, Bưu điện, Toà Ðô chính, Nhà hát Tây, nhà thờ Ðức Bà...
! !
Nhớ tên các đường Saigon thời bấy giờ đều mang tên Pháp như Calmette,
Galliéni, Ch***eloup Laubat,...nhưng không hiểu vì lý do gì mà đại l đi
thẳng vào tim dinh Toàn quyền mang lá cờ tam tài lại mang tên Norodom,
ông hoàng Sihanouk Cao miên, từng sang Việtnam du học ở Saigon. Không
lẽ người Pháp có lý thật khi họ bảo :’’Dân Pháp dốt về địa lý’’vì ở đây
đã lẫn ln Việt nam với Kampuchea. Hoặc giả họ không phân biệt được Việt
Miên Lào mà họ đã sáp nhập thành mt Indochine française, Ðông dương
thuc địa của họ. Cũng như, có lẽ vì không biết giống đực giống cái tên
Việt, nên đã đặt tên trường Nữ trung học miền Nam và miền Trung là
GiaLong, Ðồng Khánh ! !
Mt ngày đối diện với Paris mới nhận chân người Pháp rất hòa đồng, tự
do, bình đẳng, bao dung, ít kỳ thị, có khi còn hơn hẵn dân ta. Mong dân
mình yên hưởng hoà bình thật sự để có cơ kiến tạo quê hương. Việt nam
ta được thiên nhiên ưu đải rất nhiều, thế mà vẫn nghèo khổ trên tiềm
năng phong phú. Chất xám cũng chưa được triển khai, sử dụng đúng mức,
lắm khi cờ nằm trong tay mà không dịp phất hợp thời.
Xứ nào cũng có nét đẹp riêng đc đáo của nước ấy như Trung quốc nổi
tiếng về Vạn lý trường thành, Việt nam vịnh Hạ long, Kampuchea với Ðế
thiên đế thích...Hãy thưởng thức, học hỏi cái hay cái đẹp của nguời hầu
sửa sai, phát huy cái gì mình sẵn có vì nếu Paris được mỹ danh Thủ đô
ánh sáng, Việt nam cũng vinh hạnh là Hòn ngọc Viễn đông.
Trần Thành Mỹ
|
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
IP Logged |
|
thylanthao
Senior Member
Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
|
 Gởi ngày: 03/Sep/2008 lúc 8:05pm |
Một Thời Trọ Học
Trần Thành Mỹ
Trước kia dân tỉnh đi học Trung học ở Sài gòn xa nhà nên phải
ở nội trú hay trọ học nhà tư nhân, thân quen nào đó. Cuộc di chuyển
cũng không dễ dàng gì vì việc giao thông bấy giờ còn hạn chế thô sơ.
Quê tôi tựa như hòn đảo nên việc luân lưu với các vùng phụ cận đều phải
qua phà hoặc bằng ghe thuyền tàu.
Nhớ mỗi lần đi về, đường dài chỉ 58km, thế mà phải mất cả 4 giờ, có khi
còn hơn như trễ chuyến đò, trời mưa gió thình lình. Nhìn các con nhỏ
12-13 tuổi leo lên xuống xe đò còn cần người đở, với rương trấp gỗ nặng
nề mà người lơ nặng nhọc kéo lên để trên mui xe, cha mẹ vừa phụ nâng,
dặn dò đủ điều vừa lo cụ bị thức ăn đi đường cho con.
Cảnh tượng chia tay sao mà bịn rịn! Xe bắt đầu chuyển bánh, hình ảnh
người thân từ từ mất khỏi tầm nhìn, đứa trẻ vẫn cố ngoáy cổ lại bám víu
một phần nhỏ nào dáng dấp để lại sau lưng cho đến khi ’Cùng ngoảnh lại
mà cùng chẳng thấy’’, bấy giờ cảm giác bơ vơ chợt đến, nhìn quanh đâu
cũng thấy vài gương mặt buồn xo, rơm rớm nước mắt. Ít khi bọn trẻ chúng
tôi có diễm phúc được thân nhân đi theo. Chúng tôi thường hẹn nhau cùng
đi một lượt theo các anh chị học lớp trên đã quen đường đi nước bước,
nhóm nào về nhà trọ chung nhóm nấy, giúp đở kiểm soát hành lý cho nhau.
Xe đò lục tỉnh, trong những ngày nghỉ lễ, tựu trường, nghỉ hè đầy hành
khách, mà thật ra xe có đầy mới chịu khởi hành. Trên đường còn dừng lại
nhiều lần để rước bạn hàng quen thuộc hoặc ở các trạm kiểm soát, đóng
thuế. Hành lý xách tay thường được ôm vào lòng hoặc để dưới chân, còn
dưới ghế ngồi thường là đầy gà vịt được ai ‘’xí’’chỗ trước rồi, lâu lâu
bực bội nó mổ vào chân làm hành khách ‘chịu trận’ không rút chân lên
được, la ới ới. Các bác tài lâu lâu cũng nổi hứng chạy thi đua khi nghe
tiếng kèn xe khác xin vượt, giới trẻ háo thắng thích chí cổ vũ không
cho qua, rồ ga chạy nhanh làm các ông bà lớn tuổi la lối om sòm, các cô
gái im hơi lặng tiếng ghì chặt thành tay ghế. Thỉnh thoảng, tùy khúc
đường tốt xấu, xe chạy chậm vì phải vượt ‘ổ gà’ lắm lúc làm ruột gan
như’lộn tùng phèo’.
‘Két…két két…’ tiếng xe thắng gấp rít lên lẫn với tiếng càu nhàu, chuởi
thề của bác tài hậm hực vì con trâu thình lình bất kỳ xuất ý nhảy dựng
băng qua lộ. Tiếng chú lơ vang vang ‘tốp, tốp’ vừa huýt còi miệng, vừa
mở cửa nhoài lủng lẳng ra ngoài vừa đập đập vào hông xe để đổ khách
xuống hay rước thêm khách mới.
Trong khung cảnh tình huống ồn ào như vậy, mà vẫn có người quá mệt mõi
ngủ gà ngủ gâ.t. Sợ nhất là các ông sồn sồn, các chú Ba, vừa to con vừa
lấn chỗ. Ngủ mê đâu biết gì, ngả nghiêng sang người bên ca.nh.Các cô
gái càng tránh né thì cái khối thịt mỡ đó như bị nam châm càng lấn áp
ngả sập vào cổ, vai không làm sao đở nổi. Càng đẩy ra càng nặng chình
chịt, vả lại gần quá cũng không đẩy được thành ra cứ phải gồng mình đẩy
đở cho đừng chạm vào yếu điểm thôi. Có cô quá bực dọc hất xô mạnh ra
làm người ngủ gật tỉnh dậy, xin lỗi rối rít, rồi chứng nào tật nấy, lại
nhào vào. Mấy bà ‘đi bán lợn xề’, bán hàng xáo, vui tính lanh miệng,
ngứa mắt ngứa mồm chẳng chịu tha đập mành mạnh vào vai tên ngủ gục la
to:’’Dậy đi, nam nữ thụ thụ bất thân ‘’mà. Ngã vào… đè người ta, không
khéo… có bầu là bắt đền phải cưới đó. A lê hấp, tỉnh lẹ đi cha nội’’.
- Ê, ê ‘nè’ chú lơ ơi. Tới bờ lộ lớn ‘lằng’ kia cà, ‘mần’ ơn ngừng cho ngộ xuống xe nhe.
- Bộ chú ba muốn ‘lái’ hả ?
- ‘Pậy’ nà! ‘Lâu’có, ngộ ‘lâu’ có muốn ‘lái’, gần tới nhà ngộ ‘lồi’ mà.
Cuộc đối thoại giữa hai người làm hành khách phì cười, mạnh ai hiểu sao
tùy thích, người nghĩ chữ ‘lái’ đúng nghĩa, người khác nhớ đến chuyện
phiếm tiếu lâm nghe kể:.
“Trên một chuyến xe đò đang chạy phom phom, thình lình bác tài nghe la to:
- Bác tài ơi, ngừng lại dùm li cho ngộ ‘lái’ một chút.
- Không được đâu chú ba ơi, gần tới bến rồi, ngừng đây bị phạt đó.
Mười lăm phút sau, xe đến bến dừng lại, hành khách xuống xe. Bác tài ân
cần đến bên chú Ba hỏi thăm thì nghe chú tiu nghỉu trả lời:
- Ngộ ‘lái’ lồị”
Người Tàu thường đọc mẫu tự R, Ð trại ra thành L như ở nhiều vùng nước ta đọc R thành D, TR thành CH vâ.y.
Bằng chứng rõ rệt nhất là ngày xưa các cụ ta đã chẳng, phỏng theo cách
phát âm của người Trung Hoa (Paris là Bá Lị), đọc Paris thành Ba Lê,
Rousseau thành Lư Thoa, Montesquieu ra Mạnh đức tư Cưu, trong khi đó
tiếng Việt ta phiên âm tiếng ngoại nào cũng khá chính xác và dễ dàng.
Ngoài ra, chẳng hạn mẫu tự B bê bò và P phở, bê trên B ,bê dưới P,
chúng ta có ‘bà ba bả bán bánh bò bông…’ chứ không có viết ‘Pí Po pụng
pự” nhưng cần đọc thì không khó khăn gì như chữ ‘poupée’, ‘bon papa’.
Nhận thấy ưu điểm đa năng của tiếng mẹ, càng ngày việc phiên âm phiên
dịch càng chính xác hơn trong văn hóa ngôn ngữ và ngay cả trong khoa
học kỷ thuâ.t.
Quê tôi bao quanh bởi biển sông, nên muốn lên Saigon phải qua bắc Mỹ
Lợi, sông Bao ngược, sang Mỹ tho Tiền Giang dùng phà Chợ Gạo lúc bấy
giờ còn sử dụng móc gỗ kéo dây cáp bằng tay. Lúc đầu cũng có phà, rồi
lắm khi phà hư, sửa chữa trong thời gian khá lâu. Do đó phải dùng
thuyền ghe thay thế. Giao thông càng bị trì trệ, di chuyển khó khăn
hơn. Xuống xe là phải mang theo cả hành lý theo, tìm người vác phụ
xuống ghe nhỏ để sang bờ bên kia. Phải nhanh chân lẹ mắt theo nhau sát
gót kẻo trễ hụt chuyến đò.
Chiếc ghe tròng trành mỗi lần khách xuống, chủ ghe phân phối chỗ ngồi
hai bên trên miếng ván gỗ để thuyền có thăng bằng. Thuyền vừa đủ người
vội tách bến. Tiếng mái chèo khua lách tách, sóng vỗ bì bõm bên mạn ghe
như tiếng nhạc buồn tiển đưa, gió vờn nước xôn xao nhảy vọt, chân trời
xa xa, gần đến bến mới thở phào nhẹ nhõm nhìn thấy dáng vóc đất liền.
Nắng lung linh phản chiếu mặt nước lăn tăn tạo thành những bức tranh
sơn thủy đủ hình màu tùy óc tưởng tượng của khách đi ghe. Bầu trời
trong xanh cũng không phớt hồng thêm đôi má điểm son môi, gieo ánh mắt
mộng mơ huyền ảo. Thời gian như lắng đọng, ai ai dường như cũng đăm
chiêu thủ thế phòng thân. Tay vịn chặt bờ thuyền, tay ôm chặt giỏ xách
cần thiết, chiếc thuyền con lướt nhanh nhịp nhàng tùy công sức của bác
lái đò, xuôi theo dòng nước, tránh xoáy hiểm nguy tìm cách cập đúng bến
bờ. Ngay các cậu trai nhỏ thường ngày lí lắc cùng đành thúc thủ ngồi
im. Bây giờ nhớ lại tôi còn có cái cảm giác rờn rợn lành lạnh, do đó
thầm phục những nhà mạo hiểm vượt đại dương biết dường nào.
Thật ra ngày xưa, các cô gái cậu trai ở đồng quê hoặc ven sông rạch
biển mới có thể biết bơi, chứ còn các cô ở chợ, hồi còn nhỏ chỉ thích
chạy nhông nhông tắm mưa, bập bõm lặn hụp trong ao nhà, ‘lội chó’ chút
đỉnh thôi, do đó qua sông làm sao không ngán sợ lo âu. Vả lại sông Bao
ngược quê tôi gồm hai dòng nước biển sông to rộng, nhiều xoáy nước hiểm
nguy có thể hút chìm cả ghe tàu, vì vậy nếu ghe chìm mà không biết bơi
thì lặn 3 ngày trồi lên thành ‘’thằng chổng’’. Nhớ lại câu nói mà dân
ta hay kể theo chuyện người Ấn độ, hằng năm, thường tắm một lần ở Hằng
hà để tẩy uế trừ tà tội lỗi ‘Có tội lội xuống sông, chổng mông hết
tội’, mỉm cười tự trấn an.
Ghe cặp bến. Lại một phen hối hả mang rương trấp lên để kịp tiếp tục
lên xe trực chỉ Saigon hoa lệ. Bến xe đò lục tỉnh lúc nào cũng tấp nập
người xe, hỗn độn, chụp giựt, giành mối hành khách. Lại một phen tìm
xích lô, kèo nài trả giá, tùy lúc, hai ba đứa ngồi chồng chất lên nhau
chung xe về nhà trọ.
Lên xe xuống đò, bao kỷ niệm khó quên.Sau đó, phà thay thế ghe thuyền.
Rồi mọi chuyện trên đời cũng na ná giống nhau, gặp gỡ chia tay, ngược
chiều cùng chuyến, buồn vui, hẹn hò chờ đợi…
Con đi học xa cha mẹ ở tỉnh cũng ít có dịp đi thăm, ngay các con nhà
khá giả, cô nương cậu ấm cũng thế. Tự lập tự lo bắt đầu từ khi rời quê.
Vì thế thật thích thú được người nhà viếng thăm một lần nào đó.Me. luôn
cụ bị vài thức ăn con ưa, quà biếu cho chủ nhà trọ thường là bà con họ
hàng quen biết. Má của chị nầy lên, ba của chị kia đến đều được bạn bè
mừng rỡ tiếp đón như quen thân từ lâu. Một buổi tiệc nho nhỏ vui vẻ
thắt chặt tình đồng hương xa quê.
Chỗ trọ không có đầy đủ tiện nghi nhưng ấm cúng. Chúng tôi cùng nằm
chung trên bộ ván, ngủ riêng trên ghế bố hoặc trực tiếp trên sàn gỗ gác
trọ, mỗi người chiếc chiếu, cái mùng, gối mền, nằm san sát nhau như cá
mòi, thế mà không bao giờ có cải cọ dành chỗ than phiền. Thời kỳ nầy
thật đong đầy kỷ niệm vì tuổi chớm lớn vừa hớp sinh khí tự do. Ngoài
việc học, thường chùm nhum đấu láo, tán gẫu, bàn chuyện tào lao cộng
thêm ăn hàng ăn quà vặt, các cô cũng theo gương người trước tập tành
không bỏ sót món nào. Các bạn đừng tưởng là tật hư thói xấu phải chửa
phải chừa, thật ra đó là truyền thống ngàn xưa để lại cho phái yếu
‘ngây thơ vô số tội’ thuộc nhóm ‘nhứt quỉ nhì ma thứ ba học trò’. Chưa
kể đến hờn giận, ganh ghét, ghen tuông mau nước mắt.
Phải có ở nội trú, trọ học, sát cánh bên nhau mới rõ thực hư. Người ta
thường bảo muốn biết ai nên ở chung với người ấy, còn muốn hiểu rõ
người nào thì nên đi làm công cho họ, bề trái, bộ mặt thật mới hiện rõ
ra ngaỵCó sống chung nhau, nếu chín bỏ làm mười, chuyện bé đừng xé ra
to, dĩ hòa vi quí thì đó là gia đình thứ hai của mình rồi.
Giận hờn là đăc trưng của các cô, vờ giận cũng có, giận dai không
thiếu, các cậu coi chừng đó.Giận mà im phăng phắc, không hé răng trách
móc nửa lời, cười cười bảo là “em chả…”,“không có gì đâu”, đó là giai
đoạn báo động, các cậu cần tính nước cờ xuống nước xin lỗi hoặc ‘cả gan
cùng mình’ thì tìm cách lờ chuồng đi chờ lúc khác.Nhớ dai nhưng dễ dãi,
nhất là khi nói trúng tim đen, hoặc được ‘lọt vào mắt xanh’’ rồi thì
khác hẳn tính bay bướm của các ông “khi thương thương vội khi lìa lìa
xa”.
Giữa con gái với nhau, cũng có những mối tình bạn học trò sâu đậm hơn
bình thường. Họ như cập bài trùng, đi đâu có chị nầy là không thể thiếu
chị kia. Không dấu diếm, công khai ngồi riêng tâm sự, không cần sự có
mặt của bạn bè khác, không muốn xa nhau phút nào, mặc cho bạn bè xì xầm
chọc ghẹo cho là “đồng tính luyến ái nữ”.
Tốt xấu càng lộ nguyên hình khi ăn cùng mâm, nằm cùng bộ ván, sống
trong một phòng to chung. Có cố dấu thế nào đi chăng nữa cũng ‘dấu đầu
lòi đuôi’ thôi.
Ở nhà trọ là thế, còn ở nội trú trong trường? Bạn đừng nghĩ buồn chán
mất tự do. Thật ra đây là nơi hướng dẫn vào nề nếp kỷ luật, theo giờ
giấc nhất định đã được nghiên cứu cho thích hợp với lứa tuổi đang lớn,
háo thắng như “ngựa con háo đá”, bồng bột, mộng mơ, lý tưởng, nông nổi,
dễ tin, hời hợt ương ngạnh, bướng bỉnh, gàn dở. Ðây là lò luyện tập
sống chung nhau, gây tình đoàn kết, nhân nhượng, tự trọng, nâng đở
khuyến khích, an ủi đùm bọc nhau. Cẩn thận trong lời ăn tiếng nói, đứng
ngồi:
“Ăn coi nồi ngồi coi hướng”
“Lời nói không mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Còn tự do là tự do trong kỷ luâ.t. Không có lối sống quá phóng khoáng
tùy tiện, đi học trể về sớm, rong chơi thả giàn, tụ tập tán huơu tán
vượn, cập bè cập bạn diễu bát phố, lê la hàng quà xem phim. Bạn không
có thì giờ để buồn chán vì chương trình ở đây được tính sẳn cho hoạt
động trong ngày của bạn rồi, khít khao sát nút, giờ học nghỉ, giải trí,
chơi. Bạn khỏi lo gì cả, chỉ cần áp dụng đúng là đã muốn hụt hơi. Mơ
mộng một chút trong giờ học bài qui định là cả một vấn đề, chạy ‘vắt
giò lên cổ’ cũng khó kéo lại được thời gian mất mát bỏ phí đã qua.
Ở nhà trọ, bạn có thể kéo dài thời gian tán gẫu, rồi tối đến thức thâu
đêm vừa học vừa ngủ gà ngủ gật trên tập sách. Bạn tùy tiện du di giờ
học giờ chơi chuyện trò, còn ở nội trú mọi việc phân minh hơn. Giờ học
bài có giám thị trông, đâu có chuyện chùm nhum lại đánh cờ bàn chuyện
phiếm.
Cũng có thể vì cách ép vào khuôn nề nếp ấy đã làm cho học sinh xích lại
gần nhau, bao che, bảo vệ nhau hơn. Dễ cảm thông vì đồng cảnh ngộ nên
thường giúp đở nhau tiến bộ, đoàn kết. Do đó các cuộc chống đối, làm
reo, biểu tình thường được tổ chức, thông tin, phổ biến ít gặp trở
ngại, khám phá. Nếu khéo lèo lái, họ trở thành một khối, một cuộn sóng
thần, một ngọn núi lửa hoạt động với tất cả sức mạnh của tuổi trẻ lao
vào lý tưởng mà họ cho là cao cả đối với họ lúc bấy giờ. Thật ra tuổi
trẻ hăng say đầy nhiệt huyết, táo bạo mà cũng dễ bị ảnh hưởng nhất
thời.
Nhìn thấy những cuộc ấu đả trong các trận bóng đá quốc tế hay cả trên
sân nhà đã làm thiệt hại không những vật chất mà còn cả sinh mạng, điển
hình đội bóng Liverpool Anh bị phạt cấm ra sân 5 năm
.
Cách điều động hàng ngàn cảnh sát bảo vệ cầu trường, kiểm soát ‘đón
đưa’ các ‘fans’ quá khích trên xe lửa, xe buýt riêng, giới trẻ ngày nay
thật không dễ gì ‘quản lý’. Cuối tháng 10- 2005, Paris được thế giới
chú ý đến qua việc báo chí truyền thanh truyền hình rầm rộ bằng những
bài tường thuật nóng bỏng, hình ảnh sôi động minh họa cảnh đập phá đốt
xe, cơ sở công cộng, những cuộc ấu đả, chống đối, trò chơi ‘cúp bắt’
của những đám trẻ không có việc làm dễ bị xúi giục, nhất là thuộc thành
phần ở chung cư ngoại ô nghèo, tị nạn bất mản vì kỳ thị, thất nghiệp,…
Bao nhiêu thanh thiếu niên bị dụ dỗ, gạt gẫm trở thành bụi đời, nghiện
ngập ma túy xì ke, trộm cắp, ăn xin, bỏ nhà ra đi theo đảng theo băng.
Truyền hình còn ta chứng kiến cảnh những tên lính trẻ ở các nước Phi
châu, Nam Mỹ còn trẻ măng, miệng phì phà thuốc hút, thắt lưng xề xệ võ
đạn, thị oai ‘tướng trời’ bằng những loạt súng chỉ thiên. Kìa là những
tấm thân còm cõi của trẻ em đói rách Phi châu, ruồi nhặng bu trên mắt
đầy ghèn, lượm từng mảnh bánh vụn rơi dưới đất đở lòng, bám vào vú mẹ
chỉ còn xương bọc da gầy đét.
Nhưng nếu được hướng dẫn, tổ chức theo đường lối đúng, có lý tưởng mục
tiêu chính đáng, thật là sức mạnh tối cần đáng được biểu dương. Trái
lại thật kinh khủng đáng sợ nếu là chính sách tàn bạo như Hitler trong
thế chiến thứ hai đã thể hiện việc huấn luyện thanh thiếu niên Ðức sắt
máu dưới lá cờ có hình chữ ‘Vạn’. Ngày nay nhan nhản cảm tử thiêu thân
khủng bố hy sinh để được lên thẳng cõi Trên đã ôm bom vào mình giết hại
không tiếc thương bao mạng người vô tội, không thù không oán.
Sang xứ văn minh, nhà trọ đầy đủ tiện nghi hơn, mỗi người phòng riêng,
phương tiện di chuyển cũng dễ dàng hơn thật, nhưng không khí thân tình
đoàn kết ấm cúng rất khó tìm. Mạnh ai nấy sống, riêng rẻ, rời rạc, vô
tình. Nhóm bạn cũng phân chia giỏi kém, giàu nghèo.Khoẻ thì khinh yếu,
kỳ thị ngầm làm sao tránh khỏi.
Nhớ những ngày trọ học, bạn bè ở khắp nơi 21 tỉnh miền Nam, thế mà tuổi
trẻ dễ kết thân nhau. Ði đâu về trể quên báo trước là cả nhà nhôn nháo
lên, khi gặp lại bị chị nầy rầy em kia trách, buồn buồn thế mà thấy
lòng ấm lạ. “Chén đĩa trong sóng còn khua”, cũng có nhiều trận cải nhau
chí choé kịch kiệt, khóc lóc ầm ỉ, rồi cũng lẳng lặng làm hòa thật
nhanh, bỏ qua như chẳng có gì làm bận tâm nhau lâu đươ.c. Trọ ở tư gia
thường thay đổi chỗ ở, do đó thường có bạn mới, trái lại ở nội trú
trường , tình bạn kéo dài sâu đậm hơn. Người Việt ta có câu;”Bà con xa
không bằng láng giềng gần” huống hồ bạn bè với bao kỷ niệm vui buồn,
từng xúm lại bắt ‘tàu lặn’ rệp hôi hôi, đập ‘máy bay’ muỗi vo ve đầy
máu.
Làm sao quên được chị Thẩm Biên hòa thường mang bưởi mít cho cả bọn cùng ăn vừa gở từng múi mít vừa tắc lưỡi khen:
“Chà thơm ngon quá, ăn rồi mới thấy quả là mít …đặc”.
Thế là cả đám nhao nhao lên như ong vỡ tổ:
“À, đúng phóc rồi, mít đặc, mít đặc thật” làm bầu không khí vui nhộn hơn (mít đặc nói lái lại là mắc địt.)
Chị khác lại ngâm nho nhỏ: Ờ ơ…
‘Cái địt là cái trời cho,
Ai mà không địt,… ốm o gầy mòn’ … ờ ờ ờ.
Ông bà ta dạy thế đó có hay không.
Lại một phen ồn ào náo nhiệt nhại ghẹo thỏa thuê.
Nhớ lại một câu đố mà không một ai đoán được lúc bấy giờ:
“Súng da, đạn gió nhầm chân, bắn mũi”
làm cả phòng sau một hồi thì thầm xì xào phỏng đoán, gãi tai bức tóc,
đầu hàng vô điều kiện, vỗ tay phục lăn khi được nghe lời giải đáp
“tuyệt chiêụ”, là bộ phận ai cũng có không thể thiếu: “ đại bác đánh
rắm”.
Còn chị Tiếng xinh đẹp tóc quăn dợn sóng ở Thủ Ðức, mỗi lần ba mẹ đến
thăm là mang cả bao bố đậu phộng còn tươi vừa mới đào lên. Món nầy ăn
hoài không chán, mà ăn rồi thì khó nhịn xì hơi ngầm hay lộ liễu, thay
phiên nhau quạt tay, nín thở, hít ‘hơi ngạt’, bình thúi phê thơm làm
náo loạn cả phòng lắm lúc cũng bị bà chủ nhà ‘quạt’ lia lịa, cả đám áp
nhau đưa tay lên môi suỵt nhỏ le lưỡi bịt tai, vui làm sao!.
Nhớ câu chuyện kể đối đáp nhau về ‘Lỡ trôn’, chỉ bắt đầu khơi mào khi nghe tiếng ‘chít’ mở màn:
-Con gì kêu thế?
-Con chuô.t.
-Chuột kêu sau thúi?
-Chuột chết.
-Chuột chết sao kêu?
-Hai con chuô.t.
Lại một phen cười inh ỏi lăn kềnh ra, tình đoàn kết tương thân tương trợ gắn bó nhau thêm.
Còn nói gì ăn quà vặt, ăn hàng, con gái cũng trứ danh lắm. Ði đâu là đi
cả đám, hàng quán nào được các cô học trò chiếu cố là trúng mối to. Mùa
nóng là vây quanh nghẹt xe đậu đỏ bánh lọt, nước đá nhận, nước mía…Thèm
chua cay ngòn ngọt thì có chùm ruột, xoài cóc ngâm cam thảo,… gỏi đu đủ
bò khô của chú Xồi thay vì rao hàng khua kéo kêu ‘rắt rắt rắt…”…Ðang
học mà thình lình nghe rao món ăn khoái khẩu là thế nào cũng tạm nghỉ
giải lao cùng nhau thưởng thức… vì “có thực mới vực được đạo” mà..
Tuy nhiên cái mầm mống tự do, bộc phát đâm chồi từ nếp sống chung bình
dị ấy vẫn còn giữ được nét khép nép dễ thương ngần ngại dọ dẫm, bước
chập chững vào cuộc đời. Ở đây dù cũng đã có bàng bạc vấn đề giai cấp,
đối kiến, tôn giáo, nhưng như trong ván bài lúc nhập cuộc, tất cả đều
còn mang tước hiệu chung ’con bài’ ngang nhau, dân ở trọ.
Làm sao quên được những lần đau ốm, chẳng hạn những cơn đau bụng có chu
kỳ mà trời đặc biệt dành riêng cho phái yếu hầu luyện thiên chức làm mẹ
sau nầy, bạn bè săn sóc nhau tận tình như ruột thi.t. Nhớ hơn nữa những
cuộc hờn giận vu vơ ‘thân nhau lắm cắn nhau đau’, bây giờ nghĩ lại thật
khó nhịn cười. Cải vả, tranh luận sôi nổi khích bác nhau sao tránh
khỏi, chuyện thường xảy ra nhưng không bao giờ có ác ý trả thù.
Thời gian qua xóa đi bao dấu vết hồn nhiên của một đoạn đường tuổi trẻ.
Ðể rồi một hình ảnh thoáng qua cũng gợi lên chuổi nhớ, câu chuyện buồn
cười làm lòng người như thêm, hồi sức bồi hồi. Ðây cũng là lò luyện
lòng chịu đựng , kiên trì gắn bó, nếp sống thích ứng học hỏi hòa đồng.
Rồi bao nhiêu năm sau, có dịp nào gặp lại, mà thật ít có dịp, kỷ niệm
vẫn hiện về từ đáy sâu vô thức. Hoặc lâu lâu phủi bụi thời gian, hình
ảnh sống chung nhau vẫn lóng lánh vòng quạt dư hương trung thật nhất.
Những gương mặt ngày xưa có tinh nghịch hồn nhiên nghiêm nghị khó khăn
thế nào đi chăng nửa vẫn còn rực sáng trong khoảng thời gian truy niệm
ngắn ngủi bất chợt nầy đưa hồn ta một thoáng lui về những ngày xa xưa
cũ có nghĩa tình chia xẻ buồn vui xa quê.
Bây giờ bạn bè mỗi người mỗi hướng, kẻ còn người mất, việc gặp lại nhau
chắc chỉ hẹn trong giấc chiêm bao.Tuy nhiên quá khứ dù đã bàng bạc xa
vời nhưng vốn sống đó vẫn là kho tàng nuôi dưỡng, tích lũy, rút tỉa bao
bài học cần thiết đáng trân quí vô cùng, kỷ niệm khó quên của một thời
cùng nhau trọ ho.c.
Trần Thành Mỹ
|
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
IP Logged |
|