Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Làm Quen Nhắn Tin
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Tổng Quát :Làm Quen Nhắn Tin
Message Icon Chủ đề: Nhắn tin anh HP Gởi trả lời Gởi bài mới
Trang  of 2 phần sau >>
Người gởi Nội dung
HEICHPE
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 17/Sep/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 474
Quote HEICHPE Replybullet Chủ đề: Nhắn tin anh HP
    Gởi ngày: 19/Feb/2008 lúc 1:34pm
Anh Mười Lăm
 
Cám ơn anh có nói vê tôi với anh  Mười Ba. Bạn  cũ lâu năm không gặp , nhớ nhau và nhắc lại chuyện học trò ngày xưa. Ở tuổi tôi và anh Mười Ba còn biết nhau là quý rồi. Cuộc đời nhanh quá anh nhỉ ! Mà dòng đời rất vô tư , chẳng hờn ai , chẳng óan ai. Ai biết nhau , nhớ nhau , nhắc lại với nhau trong nhiều hòan cảnh: thương , ghét, buồn , vui..tất cã đều quy cho đời. Sự thật cuộc đời đâu có làm gì nên tội. Cay nghiệt , đớn đau , hạnh phúc ..v..v .. đều do con người tạo nên , để rồi óan trách , hờn ghen  , giận dỗi hay cho đời là đẹp vi hạnh phúc . địa vị , giàu sang ..trong đó con người phải sống và trãi rộng lòng mình để đón nhận hay tác tạo  những điều đó , để rồi trách móc hay ca tụng cuộc đời.. buồn cười , anh Mười Lăm nhỉ ! Ồ, mà  sao tôi vô duyên thế ? Chắc lòng mình không ổn định hay sao ,Thế thì nên đi tìm thuyết VÔ VI hay giờ đây thiên hạ hay Thiền , để tìm một cái gì đó xem ra  có vẽ hư ảo.. mà đôi khi an ũi được lòng mình, anh nhỉ !

Buồn cười quá ! Sao lại đi tâm sự với anh, anh Mươi Lăm !

Thôi, xin bỏ qua đi , anh nhé ! ,

Về các trang sách Graziella hay bài  thơ Le Lac của Lamartine, tôi nghĩ giờ đây  cũng còn vài người  nhớ lại quảng đời niên thiếu của mình. Lúc đó tuổi học trò hay sinh viên đến học đường mà cũng có nhiều mộng mơ. Để rồi có dịp đọc được những tác phẫm lãng mạn , trữ tình , chắc anh và tôi và cùng những thanh niên khác học thuộc lòng vài câu , để lòng mình nói với lòng mình. ...Giờ đây, qua mấy thập niên rồi, bất chợt đọc được bài thơ và  sách Graziella , tôi muốn chia xẻ nên POST trên diễn đàn , lẻ dỉ nhiên có người như anh và ai nửa đọc lại thấy vui vui..Tôi cũng vui khi được biết anh Mười Lăm là một trong số ít nhiều người thích xem lại  những trang sách – quá cũ nầy – đôi khi không thích họp với vài vị khác. Thôi đành chịu. Tôi an ủi là mình đã làm 1 việc trên đây và có ít nhiều vị cũng  như   tôi, đọc lại chuyện cũ để trãi lòng mình trở về năm tháng xa xưa.

Tôi cũng xin vài vị không thích đơc sách nầy cãm phiền, vì mổi người đều có sở thích riêng của mình, cũng như l bản nhạc không họp với ý mình thì xin bấm nút SKIP.

Một lần nửa cám ơn anh Mười Lăm, không quên gửi lời thăm gia đình anh Lộ Công Mười Ba.

IP IP Logged
nqtuan2910
Groupie
Groupie
Avatar

Tham gia ngày: 24/Oct/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 65
Quote nqtuan2910 Replybullet Gởi ngày: 20/Feb/2008 lúc 5:07am

Kính chào anh Lộ Công 15 thân mến

Kính chào Chú HP thân mến

- Tuấn đã liên lạc được với thầy Phan Thanh Sắc và thầy Hoàng Ngọc Hùng qua điện thoại rồi và đã save các photo của các vị và hẹn có dịp về Gò Công sẽ đến thăm, vì chủ nhật bận đi dư giỗ tộc Phan ở Vĩnh Lộc- Bình Chánh 18-1 âm lịch (24-2-2008) Tuấn đã có gởi cho thầy các tờ tông chi họ Phan lưu lạc ở Gò Công và bảng tông chi họ Trần (nghe thầy nói vui lắm cùng nhắc  đến cô giáo Trần Thanh Trước có đọc các bài viết của Tuấn trên diễn đàn) Ngánh bà trần thị Dự; kiến họ là gốc bên ông Tổ Nguyễn văn Tá và bà Tổ Phan thị Vân (dính bên kiến họ Lộ... )
 
- Anh đã cho thông tin trên web và Tuấn đã đọc các bài viết trên mạng giáo dục Gò Công rất đặc sắc về tất cả chủng loại.
 
NGUYỄN QUỐC TUẤNPHAN QUỐC TUẤN là một
 


Chỉnh sửa lại bởi nqtuan2910 - 20/Feb/2008 lúc 5:12am
nqtuan2910
IP IP Logged
nqtuan2910
Groupie
Groupie
Avatar

Tham gia ngày: 24/Oct/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 65
Quote nqtuan2910 Replybullet Gởi ngày: 24/Feb/2008 lúc 10:01am
Chào Dượng Heichpe !!!
- Cháu có về Gò Tre hôm thứ bảy 22/02/2008 đã gặp thầy giáo Phan Thanh Sắc gởi lời thăm Dượng Heipchpe và có nhắc thời xưa lúc cùng đi học. Thầy Sắc vui lắm !!! cho nhiều thông tin kiến thức mà cháu đang tìm tòi về họ Phan định cư ở Gò Công ; Thầy chỉ biết được vị Cao tổ (thế hệ thứ 2) còn di tích ở Gò Tre, chỉ biết man máng như thế Sơ, Cố, Nội, Cha... Thầy có nhắc dựa theo lời Cha của cháu kể lại có họ hàng với Đức Từ Dụ (chớ không hẳn do bà nội thứ nhì) là bà Phan thị Tánh (phu nhân Đức ông Phạm Đăng Long.
 
- Ngánh bên Thầy Sắc có cụ bà Phan thị Vân là em ruột ông Phan văn Lương (Cố nội của Thầy Sắc) chồng của bà Vân là Nguyễn văn Tá, con là Nguyễn thị Lẫm(ngánh bên kiến họ Lộ bà con đầu ông Cố bên cháu) Hồi trước trong những noté của cha cháu đã ghi lại nhiều về kiến họ Trần, Nguyễn, Đặng, Châu và nhất là Phan. Ngánh bên Dượng Heichpe thuộc Ông Phan văn Huê (nghe hậu duệ nói lại tên đúng là Phan văn Chăng.
- Cháu tưởng Thầy Sắc đâu xa lạ ai dè Thầy lúc trước làm kế toán ở nhà Bà Tám Đại Đồng (má ông Hai Tây) và cũng là thầy dạy học anh Bảy Diệu của cháu, được các vị thân tộc tặng các quyển gia phả bằng chữ nho của Cử Nhân Phan Khắc Nhu viết cùng bản dịch của Phan Đức Mỹ( vị này giỏi chữ Hán lắm : du học Trung hoa lục địa) có tên thỉ tổ vào Thanh Vĩnh Đông- Tân An (hướng từ Đồng Sơn qua chợ Dinh đi đò Thanh Vĩnh Đông qua, bây giờ các nẻo đường băng qua sông Vàm cỏ cháu cũng hơi thuộc vì đi tìm gốc gát. Nói chung thời gian tìm tòi cũng được các bản phả chữ nho do các Ngài Phan Thanh Giản và Trương Quốc Dụng viết rất kỹ.
 
- Bửa nay cháu dự giỗ tộc Phan ở Bình Chánh 18/01 Mậu Tý (24/2/2008) thì được thông tin rất quí giá do hậu duệ của Ngài Phan Công Thiên ở Đà Sơn Điện Bàn là :
    Đời thứ VII : Phan Công Hiển, học vị tiến sĩ đã có công giúp chúa Nguyễn mở rộng bờ cỏi phương Nam được phong là "Thứ sử quan", vợ là Nguyễn Phước Bình. Ông bà sinh được 11 người con, trong đó có 5 người con tòng quân cho chúa Nguyễn bình định Thủy Chân Lạp, lúc ổn định 5 người con ở lại dạy dân Chân Lạp về văn hoá và cày cấy, rồi sinh cơ lập nghiệp trong đó, con cháu về sau phát triển di cư đến miền Tây Nam kỳ.
(dựa theo tài liệu của giáo sư Phan Tương- HỌ PHAN TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC VIỆT NAM)
 
- Để khi nào cháu xin được tờ tông chi bên Dượng Heichpe, cháu sẽ vẽ lại bằng autocad rồi qua Dượng dễ lắm.
 
cháu PHAN QUỐC TUẤN và NGUYỄN QUỐC TUẤN là một
 
nqtuan2910
IP IP Logged
HEICHPE
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 17/Sep/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 474
Quote HEICHPE Replybullet Gởi ngày: 24/Feb/2008 lúc 1:49pm
nqtuan men:
Hp vua doc phan tren day. Tuan cho  E Mail address de noi nhieu hon.
hp
IP IP Logged
nqtuan2910
Groupie
Groupie
Avatar

Tham gia ngày: 24/Oct/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 65
Quote nqtuan2910 Replybullet Gởi ngày: 24/Feb/2008 lúc 7:14pm

E-mail của cháu là : nqtuan2910@yahoo.com.vn

- Cháu đã liên lạc được với các ngánh Phan, Huỳnh, Nguyễn, Lê, Trần, Phạm Đăng, Châu, Lộ Công 15, Lộ Công Thông (cháu) và Lộ Thư Nhàn (con gái của Thầy giáo Bích) : Đây là các ngánh bà con xa đầu ông Cố mà cha cháu đã ghi từ lâu.
Hẹn gặp Dượng Heichpe !!!
(Dượng nhớ nq(quốc) chớ không phải số 9 : nqtuan2910@yahoo.com.vn
nqtuan2910
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 24/Feb/2008 lúc 8:54pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ nqtuan2910

Chào Dượng Heichpe !!!
...thông tin rất quí giá do hậu duệ của Ngài Phan Công Thiên ở Đà Sơn Điện Bàn là :
    Đời thứ VII : Phan Công Hiển, học vị tiến sĩ đã có công giúp chúa Nguyễn mở rộng bờ cỏi phương Nam được phong là "Thứ sử quan", vợ là Nguyễn Phước Bình. Ông bà sinh được 11 người con, trong đó có 5 người con tòng quân cho chúa Nguyễn bình định Thủy Chân Lạp, lúc ổn định 5 người con ở lại dạy dân Chân Lạp về văn hoá và cày cấy, rồi sinh cơ lập nghiệp trong đó, con cháu về sau phát triển di cư đến miền Tây Nam kỳ.
(dựa theo tài liệu của giáo sư Phan Tương- HỌ PHAN TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC VIỆT NAM)
 
...
 
 
  1. Đà Sơn là tên một thôn (làng) ở Quảng Nam trước đây. Hiện nay Quảng Nam đã tách thành 2 đơn vị hành chính là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Đà Sơn thuộc về phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu - thành phố Đà Nẵng trong khi huyện Điện Bàn thuộc về tỉnh Quảng Nam. Trường Đại học sư phạm Đà Nẵng (nơi tôi đang dạy) ở trên địa bàn thôn Đà Sơn
  2. Ở Điện Bàn có xã Điện Tiến có 4 thôn có tên "Sơn" : Diệm sơn, Thái Sơn, Cẩm Sơn và Châu Sơn - nhưng không có..Đà Sơnvà không còn nơi nào có tên là Đà Sơn. Tuy nhiên, ở xã Điện Quang có hai phái tộc Phan rất lớn mạnh.
  3. Đình làng Đà Sơn (phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu - thành phố Đà Nẵng) đã được UBND TP Đà Nẵng công nhận là di tích lịch sử văn hoá(Quyết định số 2133 ngày 16/3/2000)
  4. Khi tìm đọc gia phả tộc Phan ở làn Cổ Mân(cũng ở Đà Nẵng) được biết vào thời chúa Nguyễn, một chi tộc Phan - xuất phát từ tộc Phan của Thỉ tổ Phan Công Thiên ở Đà Sơn, phường Hòa Khánh Nam - đã phân nhánh sang lập nghiệp tại đất trà Sơn Úc (Vũng Thùng. Các vị tiền hiền tộc Phan đã cùng với họ Phạm (đến ở đất này trước) thành lập làng Cổ Mân.
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 24/Feb/2008 lúc 8:57pm

DÒNG HỌ VỊ THỦY TỔ PHAN CÔNG THIÊN

Ở ĐÀ SƠN

Phần nhiều dòng họ các chi phái ở miền trong theo phổ liệu đều ghi gốc tích thời thượng cổ xuất phát từ Việt Thường bộ, Thanh Lam động(a) về sau di chuyển vào Lâm Châu (Lâm Bình) rồi mới chuyển vào đạo Quảng Nam(b) và tiếp tục vào tận cực nam.

Ông Phan Công Thiên gốc từ Thanh Hóa, sinh ngày 6 tháng giêng năm Mậu Ngọ (1318) đời Trần Minh Tông (1314-1329) lấy vợ là Trần Ngọc Lăng, công chúa con vua Trần, sinh năm Quý Hợi (1323). Ông được vua Trần ban chức "Ðô chỉ huy sung thập tam châu kinh lược chiếu dụ xử trí sứ" tức là chức Kinh lược coi 13 châu, chiêu dụ các chủng tộc địa phương, xử trí an cư lạc nghiệp, hòa hợp làm ăn.

Ông vào đóng tại Ðà Sơn năm 1346 lúc này gọi là Trà Ngâm động, Trà Na Xử, với diện tích rất rộng thuộc phía nam xứ Hóa Châu, từ sông Cu Ðê phía nam đèo Hải Vân vào đến huyện Ðiện Bàn, có các họ Phan, Nguyễn Kiều, Ðỗ vào khai hoang lập ấp ở lẫn với người Chiêm Thành.

Kể từ năm 1307, sau lúc Chiêm Thành nhường lại châu Ô, Lý, vua Trần Anh Tông đổi tên là châu Thuận (từ Quảng Trị vào bắc Thừa Thiên) và Châu Hóa (từ nửa phía nam Thừa Thiên vào địa bàn Quảng Nam phía bắc sông Thu Bồn), việc chỉ đạo sản xuất khai hoang được thuận lợi, nhưng sau khi vua Chiêm là Chế Mân chết, bà Huyền Trân được đưa về bắc thì tình hình trở nên gay go, các vua Chiêm kế vị đòi lại 2 châu ấy. Chế Bồng Nga từ 1377 gây chiến với Ðại Việt đã từng tiến ra phía bắc làm chủ tình hình từ Nghệ An trở vào Thuận Hóa. Cuộc chiến xảy ra liên miên kéo dài cho đến lúc Chế Bồng Nga tử trận vào năm 1390, tình hình mới ổn định.

Ông Phan Công Thiên vào làm Kinh lược sứ vùng Hóa Châu thời kỳ khó khăn, thế lực quân Chiêm Thành hùng mạnh, lòng dân ly tán, nhưng ông khôn khéo xử trí người Việt và người Chiêm đảm bảo cho sản xuất ổn định, sinh hoạt an toàn.

Ðến cuối đời Trần do tuổi già sức yếu, ông xin nghỉ, được vua Trần phong là "Thành Hoàng Thuận Quốc Công" giao cho 2 người con tiếp tục nhiệm vụ của cha: Kinh lược các châu, động trại, toàn quyền xử lý các địa phương.

Ông Phan Công Thiên về dựng tư phủ tại trại Trà Na làng Ðà Sơn bấy giờ. Người con trưởng là Phan Công Chánh dựng công phủ tại Ðà Câu (sau là Lạc Câu) châu Thăng Hoa, người con thứ 2 là Phan Công Nhâm dựng công phủ tại trại Nội Ðồng, xã Ðà Ly, đặt huyện nha tại trại Kỳ La. Nhưng tiến trình diễn biến một cách bất lợi: năm 1400 Hồ Quý Ly giết vua nhà Trần, mà hai ông Công Chánh. Công Nhâm lại là cháu ngoại Hoàng tộc Trần Triều công chúa, một đối tượng mà nhà Hồ đương tìm cách trừ khử.

Với trách nhiệm đối với nhân dân, và trách nhiệm riêng đối với gia đình, ông Phan Công Thiên phải bố trí cho hai người con: con trưởng xin từ chức mượn cớ về nghỉ để nuôi dưỡng cha mẹ già. Con thứ 2, ông Phan Công Nhâm phải thu hết sổ sách giấy tờ đến yết kiến quan nhà Hồ, nói dối là chào mừng chính quyền mới và vâng lệnh nhận công việc Triều Hồ để tránh hiềm nghi. Viên quan nhà Hồ vui mừng thiết đãi yến tiệc rồi giao cho ông Công Nhâm nhận quản lý số lưu dân người Việt, tha dòng tôn thất cũ nhà Trần, ôngchuyển những dân Việt chống lại Triều mới, di chuyển vào, chia vào các trại cho làm nhà ở và cấp ruọng đất để sản xuất ổn định.

Năm 1402, Hồ Quý Ly chiếm đất Chiêm Ðộng, Cổ Lũy, đặt 4 châu: Thăng, Hoa, Tư Nghĩa (Quảng Nam, Quảng Ngãi) nhưng khi nhà Minh đánh bại Hồ Quý Ly, đem đất Chiêm Ðộng Cổ Lũy trả lại cho Chiêm Thành, thì người Việt ho họ Hồ điều vào, nay lại chạy ra châu Hóa phía bắc sông Thu Bồn, ông Phan Công Nhâm vẫn khôn khéo xử trí để đảm bảo cho người Việt được an toàn.

Tuy vậy, một người cháu (đời thứ III) là ông Phan Công Minh vẫn bí mật rèn luyện lớp trẻ, chuẩn bị lực lượng để chờ cơ hội lập công cứu nước. Năm 1425, lúc vua Lê cử tướng Trần Nguyên Hãn vào đánh Tân Bình, Thuận Hóa, thì ông Phan Công Minh đem lực lượng sung vào nghĩa quân chống đánh giặc Minh lập được nhiều chiến công. Nên khi đánh đuổi được giặc Minh, nước nhà hoàn toàn giải phóng, vua Lê phong ông là "Thuận Hóa hầu" (mộ ông bà tại làng Ðà Sơn có bia ký).

Ông Phan Công Thiên mất ngày 14-4 âm lịch năm 1405.Do có công tích lớn nểnTiều Thần phong sắc "Thành Hoàng Thuận Quốc Công"; Triều Lê phong "Hữu Dực Thánh Thành Hoàng"; Triều Nguyễn phong "Dực bảo trung Hưng linh phò Tôn Thần" - Hiện nay lăng mộ ông tại thôn Ðà Sơn, xã Hòa Khánh Nam- quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng

Con cháu ông vẫn tiếp tục khai hoang lập ấp, có nhiều công tích ở nhiều nơi, nhiều vùng đất nước: Quảng Nam, Thừa Thiên, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Khánh Hòa, Bình Thuận và tận Nam Bộ.

Ðời thứ IV: Ông Phan Công Xiêm cai cơ đồn Hóa ồ (Nam Ô) có công khai hoang hai xứ Ðồng Thiên, Ðồng Tranh ở vùng Cu Ðê (Hoà Vang) đến nay vẫn còn địa danh lưu truyền.

Ðời IV: Ông Phan Cao Huy và bà Lê Thị Ngọc Mỹ, ông bà có công phò vua Lê lánh nạn Ai Lao lúc bị nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, nên về sau ông được phong "Ðô đốc chỉ huy HiênNgọc Hầu", bà "Tứ phẩm cung nhân".

Ðời thứ V: Ông Phan Công Giáo lúc gặp chúa Nguyễn Hoàng vào quan sát vùng đất Ðiện bàn đã trình bày tình hình và thành tích tổ tiên, được chúa Nguyễn Hoàng báo cáo ra vua Lê nên được phong sắc cho tổ Phan Công Thiên nói trên. Còn ông Công Giáo được ghi là Công Thần, con cháu được nhận tước nam và ruộng đất làm hương hỏa phụng thờ (mộ phần ông bà tại Ðà Sơn có bia ký).

Ðời thứ VI: Ông Phan Công Tấn Ngọc khai hoang 2 xứ đất Mộc Sách, Gô Mê, mộ dân đến ở, lập xã hiệu Trung Sơn (nay Thanh Vinh), Tân Ninh, Hương Phước (nay là xã Hòa Khánh và Hòa Liên, Hòa Vang).

Ðời thứ VII: Ông Phan Kế Khanh năm Quan Thuận thứ IV (1463) khai khẩn 5 xứ đất Ðồng Rau lập ấp xã Cẩm Nê, 7 xứ đất Ðồng Quang lập xã Cẩm Tọa (Hòa Vang).

Ðời thứ VII: Ông Phan Công Hiển, học vị tiến sĩ đã có công giúp chúa Nguyễn mở rộng bờ cõi ở phương Nam được phong là "Thứ sử quan" vợ là Nguyễn Phước Bình - ông bà sinh được 11 người con, trong đó 5 người con đầu tòng quân chúa Nguyễn bình định Thủy Chân Lạp, lúc ổn định 5 người con ở lại dạy dân Chân Lạp về văn hóa và cày cấy, rồi sinh cơ lập nghiệp trong đó, con cháu về sau phát triển di cư đến miền Tây Nam Bộ.

Ðầu thế kỷ XVII: Hậu duệ của ông Phan Công Hiển vào Nam có ông PhanTans Thọ ở tại Gia Ðịnh Thành, đến đời thứ V cháu chắt của ông Phan Công Tấn Huynh (Quỳnh) giúp chúa Nguyễn ánh cai quản đất Gia Ðịnh Sài Gòn (Sài Gòn). Có nhiều công tích được phong là Hoàng Công Hầu, làng mộ ông hiện nay tại đường Huỳnh Văn Bánh quận Phú Nhuận, Sài Gòn.

Nói chung con cháu ông Phan Công Thiên với hai hệ Phan Công Chánh (hệ I) và Phan Công Nhâm (hệ II) phát triển khá đông đúc ở Quảng Nam, vào các tỉnh miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

Riêng tỉnh Quảng Nam đã được các hệ phái xác minh ở nhiều huyện.

Huyện Hòa Vang có 34 chi phái ở các thôn xã

Huyện Ðiện Bàn có 11 chi phái ở các thôn xã

Huyện Ðại Lộc có 11 chi phái ở các thôn xã

Huyện Duy Xuyên có hai chi phái ở các thôn xã

Huyện Thăng Bình có 9 chi phái ở các thôn xã

Huyện Quế Sơn có 10 chi phái ở các thôn xã

Các huyện Tam Kỳ, Núi Thành, Tiền Phước có 8 chi phái ở các thôn xã.

Riêng tỉnh Quảng Nam có 85 chi phái - Từ Quảng Nam lại phát triển đi các tỉnh khác:

Ở tỉnh Quảng Ngãi:

Ông Phan Văn Tỏ đời thứ XVI từ Quảng Nam vào sinh cư lập nghiệp tại làng Ðông Mỹ, huyện Tư Nghĩa. Con cháu ông Phan Văn Tỏ đời thứ IV có ông Phan Văn Hảo ra sinh cư lập nghiệp tại làng Mỹ Lợi, huyện Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên.

Ðời XVII: Ông Phan Văn Chiểu cũng từ Quảng Nam vào lập nghiệp tại làng Lương Nông Bắc, xã Ðức Thạnh huyện Mộ Ðức.

Ở tỉnh Bình Ðịnh:

- Ông PhanCông Bình đời thứ XVII cũng từ Quảng Nam vào lập nghiệp tại làng Hiếu Nghĩa, huyện Tuy Viễn.

- Ông Phan Công Binh đời thứ XVII dời vào sinh cư tại làng An Dưỡng, Tổng Trung An, Phủ Hoài Nhơn.

Ở tỉnh Khánh Hòa:

- Ông Phan Văn Cường cùng em là Phan Văn Kiểu đời thứ XXII dời vào xã Ninh Thuận, huyện Ninh Hòa đến nay ba đời.

- Ông Phan Công Thạnh đời thứ XIX cũng dời vào Nha Trang đến nay 7 đời.

Ở tỉnh Bình Thuận: Ông Phan Quyên dời vào Phan Thiết đến nay 4 đời.

- Ông Phan Cẩn cũng dời vào Phan Thiết đến nay 3 đời.

- Ông Phan Ðồi cũng từ Kim Bồng dời vào Phan Thiết đến 3 đời.

Ở tỉnh Gia Ðịnh nay là Sài Gòn.

- Ông Phan Tấn Thọ đờithứ XIV hậu duệ ông Phan Công Hiên dời vào địnhcw tại Gia Ðịnh Thành, con cháu có ông Phan Tấn Huỳnh, nhận chức Tổng Trấn Phiên An.

- Ở tỉnh Thừa Thiên Huế:

- Ông Phan Công Tích đời thứ XVIII, tước phẩm "Phong Ðăng Hầu" triều Gia Long thuộc dòng trực hệ 1 phát triển con cháu gồm 6 chi phái: chi 1, 2, 3, 4 và một phần chi 5 sinh cư tại Ðà Sơn, Ðà Nẵng, Sài Gòn. Còn một phân chi 5 và 6 sinh cư tại các phường Tĩnh Tâm, Tây Lộc, Vĩnh Lợi và Ðập Ðá thành phố Huế truyền đến nay là 8 đời. Con cháu đông đúc.

Tự tôn tại Ðà Sơn hiện nay là ông Phan Văn Nam, tại Huế là ông Phan Văn Dư và Phan Văn Minh.

Ông Phan Văn Hảo đời thứ XIX con cháu hệ phái Phan Văn Tơ đời thứ (XVI) tại làng Ðông Mỹ, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi dòng Ðà Sơn, cháu đời thứ III ông Phan Song (tức Thắng) về lại Quảng Nam lưu cư tại làng Bàn Thạch, huyện Duy Xuyên rồi đến ông PhânHò đời thứ 4 (tức XIX) di lưu sinh cứ tại làng Mỹ Lợi, Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên, truyền đến nay ở Mỹ Lợi là 7 đời.

Ông Phan Hữu Quyền đời thứ XVII Hậu duệ Phan Hữu Phú (đời V) dời ra sinh cơ lập nghiệp tại làng Thổ Sơn, xã Lộc Tiên, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên truyền đến nay ở Thổ Sơn đến nay là 9 đời.

- Ông Phan Công Ðông, đời thứ VI giữ chức cai cơ thờ chúa Nguyễn, Trấn thủ Thuận Hóa (Phố Ký ghi tại Ðình Quảng Ðức). Vợ là bà Nguyễn Thị Ngọc Oai Tùng tam phẩm phu nhân đến nay chưa biết hệ chi phái này ở Thừa Thiên hay nơi nào khác.

- Tại Thừa Thiên còn có ghi chi phái quê quán ở Thanh Hà, Quảng Lộc, Quảng Ðiền, vào Quảng Nam ở xã Quảng Châu, Hội An hiện có con cháu ở thôn 2 Hải Sơn, Krông Bông DaKlaK và chi phái khác ở thôn Phước Thọ xã Esphe Không Nắc DaKlaK (còn đương điều tra xác định hệ phái).

Nói chung hệ con cháu dòng họ thủy tổ Phan Công Thiển rất đông, đã 95 chi phái liên hệ xác nhận gốc tổ. Còn các chi phái ở DaKlaK, Phú Vinh (QUế Xuân) Phước Kiều (Ðiện Phương), Mỹ Thuận (Ðại Lộc) Nho Lâm (Bính Trị) vẫn còn tiếp tục sưu tầm để đối chiếu tộc phả xác định thế hệ.

Ngoài ra có một dòng họ Phan ở Quảng Nam có quan hệ đồng tộc cần xác minh.

- Làng Thị Lai (xã Ðiện Phong) ông Phan Phước Triệu với các con Phan Phước ức, Phan Phước Vạn, Phan Phước Bách (có nói về dòng họ theo thế phổ ở dưới) có quan hệ với Ðà Sơn trong các ngày tế lễ và trùng tu lăng mộ tổ.

- Làng Bản Lãnh (Ðiện Trung) sinh 4 hệ phái ở Bản Lãnh, Ðông Yên,Cổ Tháp. Trong Phổ Chí Ðà Sơn có ghi là hệ phái đồng tôn, những đến nay chưa các định.

- Làng Phong Thử (ÐIện Thọ) ông Phan Ðài sinh hệ phái Phan: Minh Ðức Ðường (có nói về dòng họ theo tộc phả ở dưới). Phái Quang Tiền Vũ Hầu, Phái Phan Phụng Tiên sinh hệ phái Phụng Tự - Hệ Minh Ðức và Quang Tiền có quan hệ đóng góp trùng tu lăng mộ tổ ở Ðà Sơn.

- Làng Bảo An (Ðiện Quang). Ông Phan Nhơn Huyện, sinh hạ phát triển dòng họ tại địa phương này, cũng tham dự ngày lễ hội lớn và cũng đóng góp trùng tu lăng mộ tổ.

- Làng Phiếm ái (ái Nghĩa, Ðại Lộc) ông Phan Ðức Cấp sinh hạ phát triển tộc họ tại làng này cũng có quan hệ đồng tôn với Ðà Sơn.

(Tư liệu trên viết theo "Thế phổ dòng họ Ðà Sơn Quảng Nam" 1328 - 1997 do Ban tu sưu tộc Phổ chí biên soạn năm Ðinh Sửu (1997).



Chỉnh sửa lại bởi Hoang_Ngoc_Hung - 24/Feb/2008 lúc 9:01pm
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 24/Feb/2008 lúc 9:10pm
có 11 di tích văn hóa cấp quốc gia, 14 di tích cấp thành phố bị hư hỏng, xuống cấp, thiệt hại nặng nề sau cơn bão số 6 (trong đó có 12/14 di tích cấp quốc gia và thành phố bị sập một phần và tốc mái...).
 
di tích cấp thành phố đình Đà Sơn, một trong những nơi bị thiệt hại nặng nề nhất thuộc tổ 15, phường Hòa Khánh Nam, Liên Chiểu, vào chiều 13-10, già làng Nguyễn Đình Rốt cho biết: Đình thờ bổn xứ thần hoàng của Đà Sơn này đã tồn tại từ gần 600 năm nay. Hằng năm vào dịp mùng 10-3 âm lịch, đình Đà Sơn lại tổ chức lễ hội cúng đình, hội làng với mục đích báo cáo lên tổ tông những thành quả của con cháu đã làm được, đồng thới tổ chức bảo tồn các trò chơi dân gian như đấu vật, kéo co, chọi trâu... tụ tập con cháu và thu hút du khách khắp nơi.

Lần trùng tu gần đây nhất là vào năm 1963 và với tích tam miếu, đình thờ bà Chúa Ngọc và phò mã Cao Cát là nơi linh thiêng được bao đời con cháu truyền tụng, giữ gìn.

Đình Đà Sơn được Sở Văn hóa - Thông tin (VH-TT) thành phố và Ban quản lý bảo tàng, di tích thành phố công nhận là di sản được bảo tồn. Vài năm gần đây, đình đã có nhiều hư hỏng, xuống cấp nên dân làng Đà Sơn đã đề nghị Sở VH-TT thành phố có biện pháp khắc phục, báo tồn.

Đồng thời với lòng tôn kính và mong muốn giữ gìn di tích văn hóa, người dân Đà Sơn đã đóng góp hơn 200 triệu đồng và kiến nghị đề nghị Sở cấp kinh phí và nhanh chóng tu sửa lại đình...

Nhưng chỉ một tiếng đồng hồ quần thảo, cơn bão số 6 đã làm cho ngôi đình xuống cấp, nay càng tan hoang hơn, tất cả mái đình của "tam gian tứ dị" bị sập hoàn toàn.

Mặc dù người dân Đà Sơn hiện nay lâm vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn với hàng trăm ngôi nhà bị tốc mái, sập đổ, và trên 100 hộ dân vẫn còn chịu cảnh màn trời chiếu đất vì quá khó khăn không thể có tiền để xây dựng và sửa chữa nhà ở. Nhưng ai ai cũng rất sẵn sàng góp công, góp sức, thậm chí là một ít kinh phí đóng góp để sớm khôi phục, bảo tồn đền làng...

.

____________________________

.
ngày 14/12/2007, sau 5 tháng sửa chữa với kinh phí 857 triệu đồng, công trình trùng tu, tôn tạo Đình Đà Sơn (thuộc phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu) đã được Sở Văn hóa - Thông tin thành phố Đà Nẵng tổ chức nghiệm thu, bàn  giao cho Ban Quản lý di tích địa phương.
 


Chỉnh sửa lại bởi Hoang_Ngoc_Hung - 24/Feb/2008 lúc 9:38pm
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 24/Feb/2008 lúc 9:40pm
Để góp chút sức già giúp thân hữu phương xa biết thêm gốc tích tộc phả (ở khu vực Miền Trung), vị nào cần tìm biết thêm gì hãy ghi câu hỏi (về: tin tức, hình ảnh,...?) và tôi sẽ cố gắng .
 
Nhà giáo Hoàng Ngọc Hùng
Huynh trưởng hướng đạo  
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
nqtuan2910
Groupie
Groupie
Avatar

Tham gia ngày: 24/Oct/2007
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 65
Quote nqtuan2910 Replybullet Gởi ngày: 24/Feb/2008 lúc 9:51pm
Kính chào Thầy Hoàng Ngọc Hùng thân mến,
 
- Thầy share tư liệu về thỉ tổ Phan Công Thiên ở Đà Sơn rất quí và rõ ràng. Bửa Tuấn dự giỗ tộc 18-01 âm lịch Mậu Tý 2008 có nghe ông Phan Chính là hậu duệ của Ngài có nhắc rõ 5 vị ở lại miền Tây Nam kỳ. Vào năm 2002 Tuấn có đi công tác thiết kế khách sạn ở Cẩm Kim- Hội A. Quảng Nam, có ghé con cháu đời thứ 22 của Ngài Phan Công Thiên; có nhắc địa danh Đà Sơn nay không còn chỉ nghe kể vậy, có những chi nhánh bị đứt không liên lạc (như lời Thầy đã ghi). Tuấn có tìm di tích của Kỵ Phan Tấn Huynh(Huỳnh) ở quận Phú Nhuận theo lịch sử ghi là Phó trấn Gia Định, mộ tọa lạc tại Đ. Huỳnh văn Bánh nhưng thực sự không có, chỉ có mộ Ngài Trương Tấn Bửu- Tổng trấn Gia Định.
 

- Thầy Phan thanh Sắc có nhắc nói đến Thầy Hùng rất mặn mà với Gò Công, mặc dù cách cả ngàn cây số(1000km) chắc có duyên với quê mình lắm. Nhờ Tuấn ghé thăm các vị cao niên, nhà tộc ở miền Trung mà có khái niệm về tông chi được chính chắn hơn. Thầy có nghe nói họ Huỳnh gốc họ Hoàng vào Nam đổi chữ như Vũ thành Võ. Bên Ngoại Tuấn họ Huỳnh có Cậu của Tuấn lập tông chi và Tuấn dựa vào đó mà viết phả đã hoàn thành in sách phát cho bà con bên ngoại gần cả trăm quyển ai cũng có, các cậu còn sanh tiền có nói gốc họ Huỳnh là họ Hà ? gốc Thiên Địa hội "Phản Thanh phục Minh" bên Tàu trốn qua Việt Nam mai danh ẩn tích ??? Họ Huỳnh này lập cư ở Bình Phú Đông (nay là ấp Bình Hưng- Gò Công Tây) rất đông nguyên cả làng. Nếu Thầy biết thông tin thêm cung cấp dùm để cập nhật cho hoàn chỉnh.
Chào Thầy Hùng, hẹn gặp lại
 


Chỉnh sửa lại bởi nqtuan2910 - 24/Feb/2008 lúc 10:18pm
nqtuan2910
IP IP Logged
Trang  of 2 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.105 seconds.