Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: XÓM CẦU HUYỆN Gởi trả lời Gởi bài mới
Trang  of 2 phần sau >>
Người gởi Nội dung
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Chủ đề: XÓM CẦU HUYỆN
    Gởi ngày: 03/Jun/2007 lúc 11:56am

     

    Thương nhớ Gò Công

quê hương thân yêu của tôi


            Giòng sông nước vẫn chảy êm đềm, thực ra đây chỉ là một con kênh nhỏ, chi nhánh của con kênh Sa Li Sết Ti, kênh bắt đầu từ mũi tàu của bến đò Gò Công, chảy ngang qua trường Nữ tiểu học, trường Nam tiểu học, dinh ông phó, kênh cặp theo lộ đá đến cống bên hông nhà Ông Thôn Khoa thì uốn khúc bắt đầu từ nhà chú năm Quăn, người đi trên lộ đá sẽ không còn nhìn thấy con kênh nữa, dòng nước từ đây lượn lờ chảy sau dãy nhà cho tới chân cầu Huyện.( Khoảng trước năm 1956, tại giao điểm ngả ba đường Tổng Đốc Phương ( VC đổi thành đường Hai Bà Trưng) và đường Tổng Thứ( VC đổi thành đường Nguyễn Huệ), có một cây cầu, sườn  bằng sắt, mặt lót ván bắc ngang qua con kênh, tên gọi là Cầu Huyện, sau vì cầu xuống cấp nên sở Trường tTền cho phá bỏ, đặt cống lấp đất thành con lộ)

Ngày còn bé, dưới mắt tôi, con kênh thật rộng, viên đá tôi ném đi chưa qua nửa dòng kênh, từ trường Bà Phước trở lên bến đò, hai bên bờ kênh có cẩn đá, từ dinh Ông phó tỉnh trưởng trở về Cầu Huyện, hai bên bờ là đất, cây lát, cóc kèn, ô rô…mọc từ bờ vươn ra trên thước tây.Những người sống ở đây cố cựu đều còn nhớ, trước cửa mặt sau nhà Ông Chủ Chí, trước mặt nhà ông Thân Bính, bờ sông có cẩn gạch, có bậc tam cấp xây bằng đá, dùng cho ghe chài cặp bến dễ dàng trong mùa thu lúa, trong lòng kênh có mọc nhiều cây bần( thủy liễu), có nhiều cây tàng lá xanh mướt, thân cây cở ôm tay. Từ bờ ranh nhà ông Đốc Phủ Tường phía bên kia bờ chảy qua nhà bác tám Hải, Thầy Năm Cần, bờ sông được chủ nhà trồng dừa nước, vừa thu huê lợi từ lá( thuở nhà dân còn lợp bằng lá dừa nước)và cũng để giữ bờ khỏi sạt lỡ

            Tôi lớn lên tại xóm Cầu Huyện( thực ra khu nhà tôi thuộc đầu xóm Cầu Huyện, chánh xóm phải từ đầu nghĩa trang Triều Châu, sau nầy ( khoảng 1957) nghĩa trang được phá bỏ, chỉ có một số ít ngôi mộ được thân nhân lấy cốt, còn lại san bằng xây lên hai dãy phố, dân quen gọi là khu Kiến Ốc Cục chạy dài tới đầu cầu Huyện) từ năm 1948…

            Tôi chào đời tại làng Tân Niên Trung( Giồng Sơn Quy) Bà Mụ Thích là người đở đẻ cho mẹ tôi. Ông Nội tôi gốc người Yên Luông Đông, làm nghề dạy học, sau mấy năm dạy tại nhiều trường của nhiều làng, Ông tôi về dạy tại trường Tân Niên Trung, cất nhà gần khu nhà việc, gần hồ nước, nghỉ hưu ra làm làng, được dân tín nhiệm, tỉnh trường Pháp( Ông Grimal) bổ làm Hương Cả sau lên Đại Hương Cả, cho đến khi Việt Minh bắt đầu nổi dậy; Ông thấy có nhiều bất ổn trong cuộc sống, nên quyết định dời nhà vào sống tại tỉnh Gò Công, Ông xin miếng đất cạnh nhà thờ của Ông đốc phủ Nguyễn văn Hải( Vị Tỉnh Trường người Việt đầu tiên của tỉnh Gò Công)  để cất nhà, trước nhà là một con lộ trải đá xanh, bên kia lộ là  giòng kênh( con lộ nầy trải đá lồi lõm cho tới năm 2005 mới được nới rộng và tráng nhựa).

            Đây là xóm Cầu Huyện, thời niên thiếu tôi đã sống và lớn lên ở đây, tôi quen thuộc từng ngôi nhà, từng khóm hoa bụi cây, con đường từ nhà dẫn tới chợ Gò Công( khoảng dưới 200 thước) rất thân quen với tôi từ ngày còn thơ ấu, tôi học trường Bà Phước, tôi học trường Nhà Đèn, tôi học trường Quan, Tôi học trường Trung Học tôi đều đi trên lộ đá nầy, con lộ đá trải dài tới ngả ba trường Bà Phước là bắt đầu con lộ tráng nhựa, hai bên bờ lộ đá là hai bờ đê, một bên chạy suốt trước các cổng nhà, một bờ đê mướt cỏ xanh chạy cặp bờ sông, trước nhà ông Huyện Đạt tới nhà Ông Chủ Chí, cạnh lộ trước rào nhà có một con mương rộng khoảng thước tây; một lối đi mòn vô tình hình thành trên bờ đê sông bởi dấu chân của người qua lại, trong số đó có tôi,.năm tôi học trường Bà Phước( Trước đây Gò Công chưa có trường mẫu giáo, quý bà sơ mở ra trường tư nầy để cho con em chưa tới tuổi nhập trường công có dịp làm quen với chữ nghĩa.), có mẹ, có chị đưa đón, tôi còn nhớ mỗi lần chị thứ năm của tôi rước tôi về, chị thường dẫn tôi xuống tam cấp bờ sông trước trường để rửa chân( điều nầy ba tôi rất cấm kỵ) thay vì đi thẳng về nhà, chị lại dẫn rẽ về hướng biển Tân Thành( đường Nguyễn Thái Học, VC đổi lại là đường Thủ Khoa Huân), quẹo trái ngang cổng nhà máy xay lúa của Thầy Tư Ngô( Dương Tấn Ngô).bên kia lộ nhà máy là một thửa ruộng, chị bắt đầu dẫn tôi lội ruộng, nước lấp sấp tới mắt cá chân,đi dọc suốt ngang qua nhà Ông Chủ Chí, nhà Ông Chìn Thơ, Tỉnh đòan Bảo An, gần tới nhà Chú Sáng chị mới dẫn tôi lên bờ lộ me( Đường Phan Châu Trinh)để về nhà, một lối đi rất thích thú đối với tôi thời bấy giờ, chị cũng không quên dẫn tôi đến miệng cống trước nhà Trung Úy Tròn để tẩy sạch vết bùn dơ và cũng ân cần dặn tôi khi về nhà đừng cho mẹ biết.

            Tôi vào học lớp năm( lớp chót) với Thầy ba Nguyễn văn Thắng tại trường nhà đèn( Thầy Thắng là con Ông cả Trượng, với ngôi mộ xây chạm trổ công phu nằm phía phải hướng Sài Gòn về Gò Công, khi xe sắp vào tỉnh) Buổi sáng thường đi học chung với chị thứ tư, chị đang học lớp tiếp liên với Cô Trần Thị Lài tại trường nữ tiểu học Gò Công, chị ôm cặp da đi trước,tôi lẻo đẻo bước theo sau, vừa đi, chị vừa dạy tôi đọc tiếng Pháp.Lundi là thứ hai,mardi là thứ ba, chị dạy tôi đọc thứ, đọc tháng, đọc số, chị tôi đọc trước, tôi lặp lại dù trong bụng không thích mà miệng vẫn phát âm như máy, khi chị thứ tư của tôi thi đậu vào trường Gia Long, tôi đi học chung với chị thứ năm và thứ sáu, tôi học lớp chót thì chị thứ năm và sáu cùng học lớp nhì, chị năm học lớp nhì với Cô Xuân Nguyệt( sau nầy là bà Đ/Tá Tiên, tỉnh trưởng Gia Định) chị sáu học với cô Bùi Nguyệt Chương là em gái của hai anh .em song sinh Bùi Khắc Khương và khắc Vi

            Đó là những ký ức mà tôi còn giữ được thời thơ ấu, tôi là con út nên được sự chăm sóc cẩn thận của gia đình, không được ra bờ sông một mình, tuy vậy, tới năm tôi học lớp ba, lớp nhì,lớp nhất, tôi vẫn lén ra bờ sông với mấy đứa cháu nội Ông Thôn Khoa để bắt con vọp, con còng, con nha, con ba khía, nước sông ròng sát đáy trơ lại bên chân bờ những lùm cây ô rô, dây cóc kèn và những đám lát xanh um, lớp sình cạnh bờ là hang ổ của còng, nằm dưới mặt sình là những con vọp, cứ xôm 5 ngón tay xuống sình đôi ba lần là đụng một con, buổi trưa tôi bắt chừng năm, mười con lén đem về bỏ vào lu nước ao để sau nhà, trong những lu nước nầy mẹ tôi vẫn thường mua vài con vọp bán ngoài chợ về thả vô lu để lóng nước cho trong, đôi lần mẹ tôi xúc lu, người lấy làm ngạc nhiên vì thấy số con vọp nhiều ra, sau mẹ tôi biết, nhưng có lẽ thấy tôi chơi chung với đám cháu Ông Ba Khoa nên bà cũng an tâm không rầy.

            Xóm Cầu Huyện của tôi bắt đầu từ nhà Ông Chủ Chí nằm ở ngả ba đường Nguyễn Thái Học đường đi xuống biển Tân Thành, bên kia đường là tường rào trường Bà Phước ( tường xây cao 2 mét quét vôi trắng) ( Ngả ba nầy cho tới khoảng năm 1956 thành ra ngả tư vì một con lộ được đấp ngang qua dinh ông Phó, biến khúc sông trước trường Bà Phước thành hồ nuôi cá Phi) Con lộ trải đá mang tên Tổng Đốc Phương, từ ngả ba nầy ngược lên chợ mang tên Trưng Nữ Vương, kế tiếp là nhà Ông Quản Phát , phố Thầy Đồng( giáo sư Pháp văn Trường Khái Trí) có ba căn, thầy ở căn bìa, hai căn bên cạnh là hai gia đình người Tàu gốc Lào, phía sau dãy phố nầy là nhà Ông Chín Thơ, cửa chánh hướng ra ruộng , một con đường nhỏ thẳng góc với đường Tổng Đốc Phương, có tên là đường Cả Thuận đây là một con đường ngắn trải đất đá đỏ chạy cặp hông khuôn viên nhà Ông Chín Thơ , chỉ có mấy nhà là một dãy phố công chức có 3 căn, căn đầu là nhà Ông Phán Lạc, kế Ông Phán Danh ( sau 2 vị nầy đều lên Huyện), Thầy Lang( thuế vu , nhà ông Ba Bắc( tôi không nhớ tên, vì Ông là người Bắc nên cả xóm mọi người đều gọi như thế, thời đó Gò Công người Bắc đếm chưa hết 5 ngón tay )nhà trong cùng là nhà thầy Sáu Báu .Lẽ ra con đường nầy ăn thông  với con lộ cặp mặt ruộng phía trước nhà ông Chín Thơ , nhưng vì ngôi nhà của Ông Nguyễn Minh Hiếu là con trai của Ông Chủ Chí , thời tây bị trưng dụng làm căn cứ quân sự, đệ nhất Cộng Hòa làm doanh trại Tỉnh Đoàn Bảo An và vì nhu cầu cần thiết cho khu vực quân sự, nên khúc lộ nầy bị rào bít lại .Đầu ngả ba là nhà Ông Huyện Lạc, kế tiếp là nhà ông Phán Mai Lang Đờn, rồi tới Ông Huyện Đạt, bên hông rào nhà Ông Mười Đạt là một con đường trải đá, con đường nầy người dịa phương vẫn quen gọi là Lộ Me, mặc dù đường có tên là Phan Châu Trinh và dọc hai bên đường giờ đây chẳng còn dâu tích một cây me nào . Khi xưa đất Gò công còn nhiều vũng sình, nước phèn và mặn, nên Tây cai trị cho đào ao Trường Đua lấy nước ngọt cho dân xài, thực ra nước ao nầy cũng không được ngọt mấy , chỉ lờ lợ khá hơn nước sông, đất đào ao được dùng để lấp những vùng trủng thấp, cũng như dùng để đấp nền những cao ốc, dinh thự, như nền dinh tỉnh trưởng, Pháo đài quân sự( sau là trường Nam tiểu học), để tiện việc vận chuyển khối đất khổng lồ nầy, con đường Lộ Me được đấp trước, khi con đường thành hình chưa có tên Lộ Me, sau đó những cây me được trồng hai bên đường, vừa để lấy trái vừa có tàn che mát …Cũng từ cảnh trí nầy mà dân dã gọi là đường lộ me, và xóm nhà dân ở đây cũng có cùng tên là Xóm Lộ Me…Trước năm 1954, con đường nầy vắng vẻ, một bên là ruộng( điền sản của Ông Chủ Chí) một bên là nhà dân thưa thớt , cạnh ngã ba nầy là nhà ông thân Bính , kế là nhà Ông cả Thuận, nhà Ông Thôn Trưởng Nguyễn tấn Khoa là cuối xóm Cầu Huyện( Xóm Cầu huyện trên)vườn rào nhà Ông Thôn Khoa giáp ranh một cống nước, bên kia rạch nước là nghĩa địa Triều Châu, đó là xóm cầu Huyện, nơi tôi sống và lớn lên suốt một khoảng thời thơ ấu…

            Nghĩa địa nằm pbên phải con đường, gồm mồ mả lộn xộn, cây hoang, cỏ dại mọc chen lấn trông cảnh vật âm u mang vẽ tha ma hoang địa…bên kia đường cũng có vài ngôi mả, đặc biệt con kênh tới đây uốn khúc cong về hướng Bắc, nên bờ trái đường rất rộng ( vì hình thể của con kênh, tôi nghĩ là nghĩa địa có trước khi con kênh đươc đào).Đầu nghĩa địa phía trước bờ sông là nhà của chú năm Quăn( tóc của Ông quăn xoắn, có lẽ Ông lai Miên)Chuyên nuôi, bán gà đá độ( gà cựa)và cá lia thia đá, Nhà Ông cũng còn là một trường gà và trường cá, tội nghiệp chữ “trường” ở đây hết sức, Trường là nơi đào luyện uốn nắn con người, nơi để cho con người học hỏi theo một chuyên môn nào đó, trường ở đây lại chỉ nơi cờ bạc, đá gà, đá cá, Ông Năm Quăn có người con trai mà giới lính tráng cũng như thanh niên Gò Công thường biết tên đó là ba Hóa, nhà anh ở Xóm Cỏ chuyên nuôi” em út”…(Khoảng giữa thập niên 60)

            Qua khỏi nghĩa địa là quán của bác Tám Kỷ, bán bánh kẹo cho trẻ con trong xóm, bên trái sát bờ sông đầu dưới nghĩa địa là nhà mấy người Tàu làm nghề cải muối chỡ bán trên Chợ Lớn, Có nhà tôi còn nhớ tên là nhà Ông Tào Báu, có một cái chòi lá dựng dưới góc một cây keo già cạnh mặt đường là nhà của ông bà Bảy Điếc( Ông lãng tai rất nặng).Ông là người xứ khác, bị án lưu đày, phát vãng tới đây, sinh sống bằng nghề làm mướn.Từ đây xuống tới Cầu Huyện non trăm thước nữa, nhà cửa san sát, dân sống bằng nghề mua gánh bán bưng, lao động chân tay, cầu Huyện nằm ngay ngả tư gần cuối đường Tổng Đốc Phương, bắc ngang kênh đi về hướng làng Tân Niên Tây, Vàm Láng…

            Trở lại ngôi nhà đầu tiên của xóm tôi là nhà của Ông Chủ Chí, nhà trở mặt về hướng Nam( hướng nhà lý tưởng của khoa địa lý vì hứng ngọn gió mát)ngó ra mặt ruộng( giữa thập niên 50, ruộng bị lấn chiếm cất nhà vì nhu cầu phát triển dân sinh) mặt hậu day ra bờ sông, nhà nầy nằm trong một khuôn viên rất rộng, được bao bọc xung quanh bằng tường rào, nền tường rào được xây bằng đá ong cao khoảng thước tây, trên là hàng rào làm bằng cây vuông, to hơn cổ tay, từ chân tường lên đến ngọn cao hơn hai thước, ông Chủ Chí là con ông cả Thuận( Ông Thuận nhà cuối xóm là Đại Hương Cả Thuận), tên Cả Thuận được đặt tên đường bên hướng đông nhà ông( Giữa thập niên 60, con đường nầy bị dân lấn chiếm cất nhà, ngôi nhà đầu tiên cất trên con đường nầy có mặt tiền ngó ra bờ sông là nhà của Thiếu Tá Cảnh( Truyền Tin). Thuở sinh tiền Ông Chủ Chí được đề cử lên chức Cả, Ông Chí ngại đồng chức với cha nên từ chối không nhận. Trong xã hội trọng lễ giáo Khổng Mạnh ngày xưa, người dân thường sống rất có tôn ti trật tự, dù nhiều khi cũng rất vô lý, tên tuổi đặt cho con cũng phải nhìn trước ngó sau, ngoài người trong họ, còn phải nhìn ngó chòm xóm, các vị chức sắc trong địa phương , cũng có người vì cái tên mà tứ chối cái chức, như Ông Hai Giái, ba của chú ba Nô chích thuốc dạo, ( đặt tên xấu cho người khuất mặt đừng quở)…Ông đi lính cho Tây lên tới cai( Hạ Sĩ) khi sắp thăng chức đội thì ông xin giải ngũ, có lẽ ông sợ cả đời phải đội hoài…

            Ông Chủ Chí có một người con trai tên là Nguyễn Minh Hiếu, ngôi nhà của Ông Hiếu bị Tây trưng dụng làm đồn lính , thời Đệ nhất Cộng Hòa là Tỉnh Đoàn Bảo An, thời Đệ nhị Cộng Hòa là hậu cứ của Tiểu Đoàn 882 Địa phương Quân, ngay trên cửa chánh vào nhà, phía bên trong còn chạm nổi ba chữ Nguyễn Minh Hiếu .Ông Hiếu có bằng cử nhân Luật ( học hàm thụ bên Pháp) Nhưng vì giọng nói của Ông như bị dị tật rất khó nghe nên ông chỉ là luật gia chứ không hành nghề luật sư, ông làm việc ở Sài Gòn. Ông chỉ có ba người con, người con cả là chị hai Nguyễn thị Nghĩa, tuổi Tý ( 1924)từng là á khôi trong kỳ kẹt mết tổ chức tại Gò Công thời còn Tây . Người thứ ba là Nguyễn Minh Phương , tức Ách Phương, từng đóng đồn ở làng Bình Xuân, thời đệ nhất Cộng Hòa trong một lần đụng độ với Việt Cộng, anh bị bắt dẫn đi mất tích . Người thứ bảy là chị Nguyễn Thị Mẫn dạy học tại làng Tân Niên Trung. Giữa thập niên 1950, vào mỗi buổi sáng, khách bộ hành đi trên đoạn đường nầy đều nhìn thấy một bà cụ, đầu tóc bạc phơ, ngồi câu cá bên bờ kênh, mặt ngó về phía dinh ông Phó, đó là bà Chủ Chí. Trong khuôn viên nhà nầy có rất nhiều chậu kiểng xưa, trồng cây cảnh đẹp, nhiều cây thiên tuế cao hơn thước, trong vườn trồng nhiều cây ăn trái như xoài, gốc thân xoài phải vòng tay hai người lớn ôm mới giáp,  chuối thân mập, cao, quày nào cũng trên 7 nải , ngoài đường trông vào thấy cảnh kín cổng cao tường, âm u nhàn dật…Nhà có cổng chánh ngó ra hướng nam, hai cánh gổ rộng trên bốn thước, cổng sau ngó ra bờ kênh gồm một cánh cửa gổ xây nằm trong bờ tường đá ong kín chắc…

            Ông Quản Huỳnh Đình Phát là con trai của Ông Cai Tổng Thới, gốc người Chợ  Giồng Ông Huê ( xã Vĩnh Lợi) xuất thân nhà giàu, kiến họ Hùynh Đình nổi tiếng giàu có ở Gò Công, Ông vốn thích súng đạn từ niên thiếu, lớn lên ra làm làng, lãnh chức Hương Quản trong ban hội tề làng Thành Phố ( Sau đổi tên xã Long Thuận, Gò Công ). Ông chỉ huy một trung đội lính làng, sau đổi là Dân Vệ, Thời Cộng Hòa đệ nhị gọi là lính Nghĩa Quân, Ông có biệt tài mở đường và hành quân lùng địch. Đơn vị ông từ xe( Dodge) tới súng ống đều do ông ngọai giao xin hoặc bỏ tiền túi ra mua nên hỏa lực trang bị khá mạnh, có cả đại, trung liên, súng phóng lựu…Khả năng chỉ huy như một sĩ quan bộ binh, hầu hết các cấp lãnh đạo tỉnh Gò Công đều rất tín cẩn vào khả năng của Ông, nhất là thời Đại Úy Nguyên, quận trưởng Quận Gò Công, vị chỉ huy quân sự đầu tiên ngồi ghế quận trưởng thay quận Vỹ bị Việt Cộng phục kích giết chết tại cầu Đúc( dưới), thời Đệ nhất Cộng Hòa Quận Gò Công thuộc tỉnh Định Tường.

            Một lần ở trại tù Nam Hà( khoảng tháng 4 năm 83) tôi vào khu F dùng cơm với tướng Cao gốc người Gò Công, tướng Cao ăn chung với tướng Bá, quý vị tướng lãnh thấy tôi còn trẻ mà tới năm thứ 8 còn ở tù nên tới hỏi thăm, biết tôi là dân Gò Công, tướng Lạc và tướng Di đều có hỏi thăm về gia đình Ông Quản Phát . Ông Lạc quay sang nói với tường Nghi:

            Mông Sừ Phát là một ông quản, chỉ huy một trung đội lính dân vệ, nhưng khi phối họp hành quân với bộ binh , ông chỉ huy đi một cánh mhư cấp tiểu đoàn.

            Ông Phát xuất thân từ một gia đình giàu có, với diền sản phụ ấm, gia đình ông có thể sống sung túc suốt đời mà không phải làm gì cả , nhưng có lẽ trời sinh ra ông có dị ứng với Cộng sản, tính ông lại thích mạo hiễm phiêu lưu nên tình nguyện giữ chức hương quản .Ông rất thích tốc độ khi lái xe, đây là một khuyết điểm nhỏ của ông, ngoài ra ông không có làm điều gì mích lòng người dân cả . Ông có khá đông con, đầu lòng là hai ả tố nga, Lan ( Phấn) là chị, Phương là cô em, còn lại là sáu bảy trai gì đó, đặc biệt mấy người con của ông rất hiếu thảo, Lan làm thư ký tỉnh, Phương dạy học trường trung học Hòa Bình, Bá là sĩ quan Sư Đoàn 7 tốt nghiệp khóa 9/68 Thủ Đức, Diệp là lính dân vệ trong trung đội của ông, sau 75 Phi là cầu thủ xuất sắc của đội Cảng Sài Gòn( Thời Kim Hoàng( Hoàng đế) đứng thủ môn).

            Bởi lái xe quá nhanh nên có hai lần gây tai nạn chết người, một lần từ Tân Trung về, gặp một người quen ông cho quá giang, khi quẹo cua gắt , ông hành khách nầy lọt xuống đường chết ( thân phụ Đại Úy Hương), một lần mùng 3 tết ông đưa thằng con đóng ở căn cứ Đồng Tâm dù về chơi trở lên Mỹ Tho, ông rủ thêm thằng rể đi cho có bạn , xe ông đụng vô gốc cây bên đường , ông con rể chết( thầy giáo Nguyễn Văn Ba), con trai bị thương, ông chẳng sao cả, người ta nói mạng ông rất lớn, bị VC bắn lén, giựt mìn hoài mà chẳng hề hấn gì, thuở nhỏ ông từng bị trâu chém. Vít lên trời, rồi cũng chẳng sao, có lần chính tôi tình cờ chứng kiến , chiếc xe dodge của ông đụng cây cột đèn trước nhà ông cả Thuận , chiếc xe chẳng hề hấn gì , cây cột đèn thì ngã vắt qua rào vào sân nhà, tôi thấy mặt ông có vẽ đổi sắc, sau nầy lớn lên tôi mới biết, thuở nhỏ ở Chợ Giồng, ông là học trò của thầy giáo Đậu ( con trai ông cả Thuận) , Ông Phát có tính trọng thầy , ông đổi sắc mặt vì sợ phiền lòng thầy học cũ, ngày tôi rời Gò Công ra đi, cây trụ đèn vẫn còn đó, có chân đế to hơn các trụ đèn khác ( nhưng nhỏ hơn trụ đèn trước nhà ông Huyện Đạt) là do ông Phát bỏ tiền ra sửa đền( $2000 thời N . D. Diệm, lúc lương tân binh $900/tháng).Ông hành quân liên tục mà chưa hề bị thương, bọn VC rất oán ông mà không trừ ông được.Sau 75 ông bị bắt đi tù qua 3 trại tù : khám đường Gò Công, Trại Mỹ Phước Tây, trại Chùa Phật Đá( Quận Cai Lậy)gở đâu cũng hơn 5 cuốn lịch. Thả về ông nuôi thỏ, chim hoàng yến, sống tạm qua ngày dưới sự kiểm soát của đám cú vọ Công An, ông mượn cớ cắt cỏ cho thỏ để nhân tiện ghé nhà thăm viếng huynh đệ đồng chí hướng , Ông bị tai biến mạch máu não hơn 6 năm trời, được sự phụng dưỡng tuy khó khăn nhưng vô cùng hiếu thảo của thầy giáo Oanh là con trai thứ của ông, đây là khoảng thời gian dài nằm một chỗ đau buồn của ông, trong cảnh túng quẩn của gia đình, ông chứng kiến cái chết bất ngờ của người con trai lớn, Trung Úy Huỳnh Đình Bá, chỉ cảm mạo sơ sài mà qua đời, mấy tháng sau người bạn đời của ông, một người đàn bà có dáng dấp sang trọng quý phái, tận tụy cả đời cho chồng cho con lại vĩnh biệt cõi đời.Ngày 28-6-98 vào lúc 9 giờ 55 phút Ông Phát qua đời, tang lễ cử hành trang trọng, di quan về làng Hòa Nghị, an táng trên đất nhà, một điều rất đặc biệt là những người khiên quan tài của ông đều là những người lính cũ trong trung đội mà ông chỉ huy ngày trước, điều nầy đủ nói lên cách cư xử của ông đối với thuộc cấp ngày xưa.

            Tôi biết đến Thầy Đồng qua sự nhắc nhở của ba tôi, ba tôi là học trò của thầy lúc học tiểu học, lúc tôi còn học tiểu học, thầy Đồng dạy pháp văn cho trường trung học Khai Trí, mỗi ngày tôi thường đi ngang qua nhà thầy, căn phố bìa thầy đang ở thuộc chủ quyền của ông Chín Thơ, nhà ông Chín Thơ quay mặt cùng hướng với nhà ông Chủ Chí, mặt sau tiếp giáp với mặt hậu của ba căn phố nầy, buổi sáng cũng như buổi chiều, ông thầy thường dọn một bàn trà bên hông nhà, thầy Đồng thường cùng với ông Chín Thơ, ông Huyện Đạo ngồi uống trà đàm đạo nhìn khách qua đường, nhiều buổi chiều có cả bác Sĩ Huân, tôi còn nhớ thầy Đồng có đôi chân mày rậm và dài( mày rô) . Ông cũng một thời tham gia kháng chiến chống Pháp cùng thời với bác sĩ Huân và thầy Giáo Phi Líp ( Cột chèo với Thầy Năm Tri) .Tôi không biết rõ ông có mấy người con, nhưng lúc tôi biết thì ông sống với 3 người con gái,Cô Năm, Cô bảy Quyên ( Nguyên) và cô Chín Duyên, cô Năm, cô Bảy có con, chồng của 2 cô nầy hình như đang họat động cho Việt Cộng, cô Chín Duyên là giáo viên dạy trường nữ tiểu học Gò Công, Cô có vóc người thon gọn thuộc lọai liễu yếu đào tơ, người có nhan sắc mà nhiều nơi dạm ngỏ cô đều từ chối, Thì ra cô có người yêu đang tập kết .Đến cuối năm 72, khi phái đoàn Bắc Việt vào đàm phán đóng tại Tân Sơn Nhứt, cô thoát ly theo sống với người yêu cũ là thành viên của phái đoàn nầy. Sau ngày sập tiệm, cô và chồng có trở về, Cô có qua nhà cám ơn Ông Quản Phát biết cô mà không làm khó dễ( Quốc gia thua CS ở chỗ tình cảm nầy đây) .hai căn kế bên là của gia đình người Tàu, có nếp sống tương đối nghèo, vì gia đình đông con mà họ chỉ buôn bán nhỏ ở chợ .Nhà Ông Chín Thơ và ba căn phố nầy nằm trong khuôn viên rộng bằng nhà Ông Chủ Chí, mặt tiền ngó ra ruộng, mặt hậu day ra bờ kênh, bên hướng tây giáp vườn nhà ông Chủ Chí và Ông Quản Phát, hướng đông chạy dọc suốt con đường cả Thuận.           Băng qua đường Cả Thuận là dãy phố công Chức, nhà Ông Phán Lạc ở căn đầu, cạnh bên là ông Phán Danh ( Ngôi mộ đẹp nhất trong đất thánh Tây có tượng thiên thần là mộ của bà Phán Danh dân Gò Công thường gọi là bà Mụ Chi  )rồi tới nhà Ông Ba Bắc. Khi Ông Phán Danh ( gần hưu lên chức Huyện)cất nhà riêng, một villa dường lộ me, căn phố nầy gia đình Thầy Lang ( phòng Thuế) dọn lại ở , dãy phố nầy có mặt tiền ngó qua hông nhà Ông Phán Đờn.Ông Phán danh có 2 người con trai,người thứ hai là Võ Minh Khải, tên tân là Micheal ( Thiếu tá hành chánh quân y) người kế là Võ Minh Trị, tên tây là Nicolas ( có thời là Trung tá quận trưởng quận 6 Sài Gòn)

            Ông Nguyễn văn Lạc xuất thân trường Ch***eloup Laubat, phủ toàn quyền mở kỳ thi chọn thư ký Ông dự thi và đổ hạng tư, Ông Vương Hồng Sển hình như đậu đầu,đầu tiên bổ về làm việc ở khám lớn Sài Gòn, sau đổi về làm việc ở tòa bố Gò Công lên đến chức Phán( secretaire principal) sau được thăng Huyện.Ông là người có học nhưng không được đắc dụng nên thường lấy rượu giải sầu, nếu tình cờ đi ngang nhà đúng buổi cơm chiều sẽ thấy ông ngồi bàn uống lave, ăn cơm cùng vợ con, con ông đông, tính tình hiền đều hiếu học.Tôi còn nhớ Anh Nguyễn Vĩnh Hồng tốt nghiệp y khoa, bác sĩ làm việc ở Phan Rang, Anh Nguyễn Vĩnh Châu tốt nghiệp sư phạm dạy học tại Gò Công, Anh Vĩnh Tấn, cựu học sinh khóa 2 , kỷ sư công chánh , trước 75 là phó ty công chánh Mỹ Tho, chị Tư Công là giáo viên dãy trường nữ Gò Công, Chị Nhẫn tốt nghiệp đại học khoa học, dạy trường trung học Gò công, chị Quyên là giáo viên sư phạm , hai chị em đều là cựu học sinh nội trú trường Gia Long…còn mấy người nhỏ tuổi hơn tôi là Son, Tài, Phước.Gần hưu ông được thăng chức Huyện.Từ giã quan trường, ông trả nhà lại cho chính phủ về mua lại ngôi trường Huỳnh Phước làm tư gia…

            Kế là nhà Ông Phán Đờn, tôi không rõ xuất thân của ông lắm, tôi chỉ biết ông lên Phán và Huyện đều sau ông Lạc, đi làm bằng chiếc xe đạp sườn ngang màu đen, đạp xe rất chậm, trông dáng dấp ông hiền lành, qua đời vì bệnh già tại nhà, ông có nhiều con, người thứ hai là Anh Hai Ry, Anh Hai thuộc người trong gia đình giàu có ở Tăng Hòa, tôi không rõ lý do gì lại là con nuôi của Ông Phán, anh là chủ xe đò Thanh Long, lúc bến xe còn nằm phía đông mặt chợ, ngó mặt ra bờ kênh , xe anh bị hư thắng hay sao mà cấm đầu xuống kênh, hai bánh sau còn trên bờ, con nít Gò Công thường hát diễu( dĩ nhiên là có tôi) …Xe Thanh Long- chạy vòng vòng- lọt xuống sông.Anh Hai Ry có người con trai lớn là Th/tá Châu, anh là lính không quân, lái tàu bay phục vụ tại phi trường Biên Hòa, dân trong ngành gọi anh là Châu Cháy( Anh có hỗn danh nầy là vì một mình anh làm cháy hai tàu bay).Anh rất giỏi về kỳ thuật máy móc, một mình anh có thề tháo ráp một chiếc xe hơi dễ dàng, lúc tôi chuyển về trại tù Nam Hà, tôi gặp Anh Châu ở đây, Anh được cán bộ trại Nam Hà cho anh coi xếp máy phát điện trại.Anh được hưởng nhiều sự ưu tiên hơn tù bình thương khác, em trai của anh là Khanh, bạn học với tôi thời tiểu học, người thứ ba là Anh Ba Jack( Mai Lang Huệ).Lúc tôi còn đi học anh mang chức Ách, người thứ tư là Mai Lang Tấn, có thời làm trưởng phòng hành chánh tòa bố Gò Công, nhiều giấy tờ bản sao bằng cấp của tôi còn chữ ký thị thực của anh, người vợ thứ của anh có lúc làm trưởng ty thuế vụ Gò Công , người thứ năm, trung tá Mai Lang Luông chiếm nhiều huy chương về bắn súng tại Á Vận Hội, kế là Anh Mai Lang Đức, bạn cùng thời với người anh thứ ba của tôi, Anh mang cấp thượng sĩ hải quân, người con trai út, Anh Mai Lang Xuân, lúc tôi mới vào trung học thì anh là cầu thủ của đội tuyển Gò Công, tôi nhớ anh đứng vị trí tiếp ứng trái, sau nầy lớn lên, tôi không còn gặp lại anh nên không biết anh có vào quân ngũ hay không, bên gái có chị Mai thị Hạnh, cựu nữ sinh Gia Long, sau là nữ hộ sinh quốc gia, Chị Mai Kim Liên lập gia đình với thầy giáo Đống văn Chương, Chị Mai Kim Lan có chồng người Tân Phước, Ông Nghĩa nỗi tiếng đẹp trai của xã nầy, chồng của chị Liên và Lan đều qua đời trong tuổi trung niên, sau 75 có mấy người cháu nội Ông Đờn họat động trong nhóm phục quốc Gò Công , sau bị bắt, bị tra tấn tàn nhẩn và bị tội tù cũng nhiều năm

            Nhà cạnh là nhà Ông Huyện Đạt, ông làm việc ở sở trường tiền Gò Công, nhà của ông ở trong một khuôn viên rất rộng, xung quanh rào kẽm gai, trồng chen cây kim quýt kiểng làm hàng rào , có hoa ti gôn leo quanh che kín, nhà ông xây theo một mô hình lạ và đẹp mắt do chính ông vẽ kiểu, nền nhà là một hồ nước cao khoảng thước tây, nhà thoáng mát rộng rãi,có hai cổng vào, một cổng ngó ra bờ kinh, một ngỏ ngó ra đường xóm lộ me đều xây bằng đá cao trên hai thước, có hai cánh cổng gổ trông rất chắc chắn.Ông có người con trai tên Mỹ Điền từng làm việc trong văn phòng của HCM, sau ngày sập tiệm có về thăm Gò Công và nghỉ hưu ở Sài Gòn, người thứ ba là cố giáo Hớn, dạy học tại trường nữ tiểu học Gò Công, chồng là thầy Nguyễn Văn Huệ( Văn Công Huệ) gốc người Trà Vinh, nỗi tiếng là hiền đức và là giáo viên dạy giỏi của trường nam tiểu học Gò Công, tôi là học trò của thầy năm học lớp nhì, Sau 75 thầy được con trai bảo lảnh sang Pháp và mất bên đó, cô thứ tư tôi không biết tên, cô có hai dòng con, có Tỷ trạc tuổi tôi, có Anh Kỳ lớn hơn tôi vài tuổi và nhiều chị trạc tuổi các chị tôi, người thứ sáu tên Châu, trước 75 là thông tín viên của các báo ngọai quốc ở Sài Gòn, vẫn thường xuyên lên Sài Gòn bằng chiếc xe Vespa, Sau 75, Quang, con trai chú Sáu có một cây k54, Công An biết được, vây nhà bắt cả hai cha con, Chú Sáu bị tra tấn tàn nhẩn, nhà bị tịch biên, sau khi ra tù chú sống vất vưởng ở Gò Công và bệnh chết âm thầm ở đâu đó….Người thứ bảy tên Ngự, trước dạy học ở Gò Công, học trò cô có người thành đạt, nổi tiếng là giáo sư giỏi của trường Trung Học Gò Công là Cô Trần Thành Mỹ, Cô Bảy chỉ dạy ở Gò Công có mấy năm thì đổi về Sài Gòn.

            Đầu ngả ba là nhà của ông Hương Thân Nguyễn văn Bính, đây là ngôi nhà thờ của gia đình Ông Đốc Phủ Nguyễn văn Hải , Ông Thân Bính là con của Ông Đốc Phủ Nguyên, gọi Ông Phủ Hải bằng Chú , ngôi nhà nầy nền cao non thước, ba căn hai chái rất rộng, nhà trên nối nhà dưới bằng một nhà cầu ( nhà kiểu chữ Công }Cửa ngỏ nhà xây tường ba mươi, hai cánh cổng bằng gổ ghép dầy khoảng nửa tấc có mái lợp ngói, cửa ngỏ nầy cũng là nơi trú nắng mưa cho khách bộ hành, cũng là tụ điểm cho học trò trên đường đi học về, tụ lại đây đánh đáo, bắn kè, ban đêm là chỗ hẹn hò lý tưởng cho những cặp tình nhân, hay đệ tử của thần Lưu Linh khi quá sỉn.Bờ sông trước nhà có cẩn đá, có xây bậc tam cấp để ghe chài chỡ lúa thu của tá điền cặp bến dễ dàng, nhà nầy chỉ có hai vợ chồng cho tới gần tuổi bốn mươi mới sinh một gái, để tránh rổi rảnh, bà Hương cho học trò ở trọ cho nhà đở trống vắng.Thập niên 50, học trò trai ở nhà dưới, gái ở nhà trên, lửa với rơm không thể ở gần được, nên sau nầy bà chỉ nhận học trò nữ, cô Nguyễn Thị Nhung là con gái duy nhất của Ông bà Hương, cô học Đại Học Khoa Học, về dạy vạn vật trường trung học Gò Công.

            Ông Cả Thuận nguyên gốc người Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre,nội tổ của Ông, đậu tú tài tại khóa thi Gia Định, theo nghĩa quân Thiên Hộ Dương,nghĩa quân thế yếu thất bại bị Tây ruồng bắt, trốn lánh trôi dạt về lập nghiệp ở làng Yên Luông Đông sống bằng nghề dạy học.Ông Cả dạy học nhiều nơi, cuối cùng dạy tại trường làng Tân Niên Trung, Ông cất nhà định cư tại đây sau 26 năm làm nghề gõ đầu trẻ, Ông hưu trí ra làm làng, giữ chức Hương Cả, sau lên Đại Hương Cả( miền Bắc gọi là Ông Cổ).Ông vốn người thông thái, giỏi chữ Hán, thông chữ Nôm, nói đọc, viết được chữ Pháp, các thú ăn chơi Ông đều rành rẽ, chánh tỉnh thời đó là Ông Grimald rất quý mến Ông, thường đánh xe ra tận nhà thăm Cả, tánh Cả không màng lợi danh; Chánh tỉnh đề nghị tặng mề đay, Ông từ chối tự cho mình không có công trạng, Chánh tỉnh đề nghị cho con trai cả làm thông ngôn, Ông cũng cám ơn mà không nhận, Ông chỉ muốn con trai nối nghiệp dạy học của Ông Bà. Thời Nhật qua, họ cũng đóng bản doanh ở nhà việc cạnh nhà Ông, Cả có thể giao tiếp được với họ bằng bút đàm, giúp đở phiên dịch cứu gỡ nhiều trường hợp oan ức cho dân.Lính Nhật cũng rất nể Ông, Ông rành điển tích sách vở, nên rất thiện nghệ cầm chầu hát bộ( bội).Bầu gánh rất nể nang Ông vì Ông thưởng phạt rất phân minh, đào kép không dám hát cương trật điển, biết rượu, biết thuốc nhưng không ghiền, chỉ uống nước trà thay nước lạnh, vợ bé vợ mọn Cả rành sáu câu, con cái cũng đôi ba dòng, dòng chính thất chỉ có một Mông sừ Đậu, học hết bậc sơ học, Cả xin cho con dạy học tại làng Vĩnh Lợi vì cưng con sợ phải lên Sài Gòn học tiếp mà xa nhà, Cả cũng có hai người con gái ở dòng chính thất nầy, một người thứ tư và một người thứ tám…Còn những người khác phát bệnh chết lúc còn thơ.Năm 1948 vì dị ứng với giặc cờ đỏ, Cả dời nhà vô Gò Công , xin cất nhà trên miếng đất cạnh nhà thờ Ông Đốc Phủ Hải do con trai của ông đốc phủ là Ông Cai Tổng Tân làm giấy cho phép cất nhà trên đất của Ông làm chủ quyền; ngôi nhà chữ đinh được dỡ từ Tân Trung đem vào cất lại .

            Thầy Ba Đậu ra dạy mấy năm phải thi vô chánh ngạch, Đốc học Tây, Ông Be A Nô đòi tiền hối lộ, Cả không chịu chi, cho con ở nhà nghỉ dạy đi học lấy giấy phép về mở dépot de pharmacie ở bến xe ngưa( Phòng khách nhà bác Hai Bỉnh, ba của Thiếu tá không Quân Lư Kim Sơn) để kiếm sống qua ngày. Khi Pharmacie đầu tiên ở Gò Công của dược sư Cổ Trung Nguơn ra đời cũng tại bến xe ngựa nầy( khoảng năm 1955) mang tên đường Từ Dũ, theo luật hiện hành lúc bây giờ, tất cả các depot nếu muốn tiếp tục họat động, phải mở cách xa pharmacie 500mét, các dépot thời đó( Của Thầy Mên, Thầy Mười Bé…)đều nằm trong vòng chưa tới 500mét nên đều được lệnh đóng cửa. Thầy Ba dẹp tiệm về mở cây xăng hiệu con ngựa bay ( mà trước đây Gò Công chỉ có một cây xăng độc quyền hiệu con sò của chú Sáu Bùi văn Bửu ) tại mủi tàu, cạnh bến xe và bến tàu Gò Công, một vị trí rất đắc địa, nhưng vì không quen mua bán trong cảnh đời tráo trở, với lại vốn liếng không nhiều nên khó bề bán thiếu chịu, Thiếu Úy Giác thuộc giáo phái Cao Đài mượn xăng Ông nhiều lần , Ông vẫn tưởng mượn là phải trả nên đi đòi, Thiếu Úy bực mình nhưng vẫn phải trả, trả bằng xăng đựng trong thùng phuy quân đội, trả xong thiếu úy đi tố Ông chủ mua xăng nhà binh, Ông giáo bị câu lưu 6 tháng nhốt ở khám Chí Hòa, ra tòa nhờ luật sư Phan Kiến Khương biện hộ Ông được tha bổng về, Ông sang lại cây xăng với giá thật rẻ cho Dương An để trang trải nợ nần …từ đó Ông về nghỉ hưu non.Ông giáo có 6 người con, hai trai bốn gái, người thứ ba là giáo sư văn chương và pháp văn của trường Trung Học Công Lập và bán Công Gò Công mà dân địa phương thường gọi là thầy Ba Ton ( Hình như những người có tên thứ đều có hỗn danh đi kèm, Tôi có người bạn học chung lớp nhất tên Nguyễn văn Ba…Nựng, sau khi đi tù về có tên mới là Ba …Bọ Chét ( khóa 4/69 TĐ)Bạn chung thời Trung học có Nguyễn văn Ba…Lém( khóa 3/68 TĐ) Võ văn Ba…Trụi ( khóa 23 VB).Anh Ba tốt nghiệp Trường Quốc Gia Sư Phạm khóa1 ban 3 năm,Chị thứ hai lớn lên thời giặc giả nên chỉ học xong tiểu học ở nhà phụ việc gia đình Người thứ tư là chị Tuyết Nga, cựu Học sinh nội trú Gia Long, làm cán sự xã hội cho cơ quan truyền giáo Tin Lành Gia Định, người thứ năm là chị Ánh Nguyệt học trung học dỡ dang theo chồng phục vụ sư đòan 23BB, người thứ sáu là chị Nguyễn Thị Lang tốt nghiệp Sư Phạm Cấp Tốc Sài Gòn dạy trường tiểu học Ngả năm Bình Hòa sau tiếp tục học đậu cử nhân giáo khoa Việt( Đại Học VK/SG)chuyển về dạy việt văn Trường Trung Học Gò Công. Người con trai út là sĩ quan tiểu đoàn 50CTCT đóng tại số 1Bis Phan Đình Phùng Sài Gòn, đã từng lảnh án lưu đày khổ sai hơn 8 năm qua các trại tù Cộng Sản từ Nam ra Bắc…

            Thập niên 50, lúc anh Ba còn là học sinh trường pétrus Ký, mỗi kỳ hè đến, anh quy tụ một số bạn bè cùng trường gốc người Gò Công như Anh Paul Đen Trần Anh Kiệt), Anh Paul Mắm, Anh Bảy Lê Tấn Châu, Chị Mai Thị Hạnh , Anh Truyền ở tăng Hòa, Anh Hậu ở bến xe ngựa, về nhà mở lớp dạy hè miển phí gọi là lớp hướng dẫn, tôi còn nhớ học sinh đa số đều đang theo học trường Gia long, một số ít là học sinh trường Khai Trí, mỗi năm học sinh càng đông nên phải mượn nhà thờ của Bác Sĩ Trần Công Đăng , lớp học được kéo dài bốn năm năm gì đó cho tới khi các anh thực sự ra trường mới dẹp lớp, tôi còn nhớ một trong những người từng theo học lớp hướng dẫn nầy là ba anh chị em ruột : Anh Nguyễn văn Ngôn( khóa 19 VB), em là chị Nguyễn Tường Tâm , Nguyễn Tường Vân hiện là bác Sĩ ở Toronto.

            Ông Thôn Trưởng Nguyễn tấn Khoa , đây là một ngôi nhà cao cẳng bằng gổ, có kiến trúc rất đẹp , tọa lạc trên một khu đất rộng rãi , Ngôi nhà nầy ông mua lại của bà Ba Thức , người đàn bà có chồng Pháp giàu có ngày xưa, nhà có hai cửa ngỏ trụ xi măng đúc hình khối chữ nhựt có mặt diện gần một thước vuông , nối liền hai cửa ngỏ là một hàng rào có chân đế đúc bằng đá xanh, trên chân đế là sắt dầy khỏang nửa phân rộng ba phân uốn hình hoa văn rất đẹp , phía trên rào sắt là hàng rào bông giấy được cắt xén cẩn thận, mỗi khung sắt là một màu bông giấy khác nhau . màu đỏ, màu tím, màu gạch tôm …, sân hai mặt nhà phía bắc và phía tây được trán xi măng thành hình chữ T rộng rãi cho một chiếc xe hơi chạy , trước con đường trán xi măng là một sân đất , có hồ cá xây nổi trên mặt đất cao khoảng một mét, xây hòn non bộ, thả cá lia thia tàu, sau có thầy phong thủy khuyên ông bỏ đi hòn non bộ. Cũng giống như nhà Ông Thân Bính , trước sân nhà có xây hồ cá với đường kính khoảng hai mét rưởi, giữa có hòn non bộ, sau cũng đập bỏ đi đổ đất vào trồng hoa kiểng, sân đất trồng nhản, xoài, một ít hoa lài sát chân rào, sân tráng xi măn và quanh nhà để hàng trăm chậu kiểng, tây, ta, hoa, lá, đủ sắc đủ màu, nhà có thuê ba bốn người phụ việc, các anh nầy đạp xích lô ( xích lô nhà) chở người nhà đi chợ ( về sau Anh Thành nghỉ làm ở đây về sống bằng nghề đạp xích lô), để chăm sóc vườn tược, để kéo lúa đi xay gạo, hai ba người đàn bà phụ bếp, sai vặt với một bà vú. Nhà Ông Thôn thường xuyên đãi tiệc, khách khứa thuộc hàng chức quyền tronh tỉnh, bà Thôn thuộc kiến họ Đổ, gốc người Bình Ân cũng là một kiến họ có điền sản ở Gò Công .

            Ông Thôn có ba người con trai, chú Hai Nguyễn tấn Kỳ, chủ xe đò Kỳ Quan chạy lộ trình Gò Công Sài Gòn, Chú Ba Nguyễn tấn Nam, Chú Năm Nguyễn Tấn Lựu làm việc ở Sài Gòn, Chú Năm trong khai sinh chánh lục bộ ghi nhầm tên Lóc, ba người gái là Cô Sáu Bưởi chủ tiệm may y phục Việt Tân nằm trong dãy phố 12 căn , Cô tám Hoa ( khai sinh tên Ngọt) , Cô chin Nguyễn thị Nở trước học dược, sau bỏ qua cao đẳng sư phạm ra trường dạy Lý Hóa trường Trưng Vương cho tới ngày sập tiệm.

            Ông Thôn có ba nhánh cháu nội đều học tại Sài Gòn, nghỉ hè thường về đây, là học sinh của các trường Ch***e Loup và P.Trus Ký Sài Gòn, mỗi lần lễ lạc hay nghỉ hè bạn bè của các anh thường tụ lại đây rất đông đa số là cầu thủ Gò Công như Anh Tam Lang, Anh Châu Chuột, Anh Xiếu, Anh Quý nhà thờ, Cháu ông Thôn có anh Trọng là thủ môn của hội Gò Công sau nầy là Thiếu tá Nguyễn tấn Trọng lái Si Núc, bị VC bắn rớt bị bắt và được trao trả tù binh tại Tây Ninh, Anh Nguyễn tấn Tâm đứng góc trái (hàng tiền đạo, Mai lang Xuân trái tiếp ứng) sau nầy là cán sự phụ tá phòng thí nghiệm, Anh đền nợ nước trong trận Mậu Thân 2 tại Đức Hòa trong màu áo Biệt Động Quân, Anh Nguyễn tấn Quan trước học y khoa nửa chừng gia nhập quân đội về ngành quân y, Anh được thăng cấp Đại Úy sau trận An Lộc trong màu áo Biệt Động Quân , Nguyễn tấn Kỉnh là hiệu trưởng trường Ông Kho thuộc quận Ngả Năm sau là Nghị Viên tỉnh Sóc Trăng.

            Đây là xóm cầu Huyện trong ký ức của tôi , xóm nhà của đầu thập niên 60 trở về trước, sau nầy với giòng thời gian, ảnh hưởng theo cuộc thăng trầm của đất nước, xóm cầu Huyện ngày nay đã có quá nhiều thay đổi, con kênh nối liền từ con kênh Sa Li Sết Ty bắt đầu từ mũi tàu bến đò Gò Công, chạy uốn vòng ngang qua Cầu Huyện đã tạo thành một thế đất rất vượng phát theo khoa địa lý đối với xóm nầy, trên con rạch có 2 cây cầu bắt ngang , cầu Quan từ bên hông hướng tây Bon ga Lô bắt ngang kênh nối đường bên hông pháo đài ( sau nầy là trường Nam tiểu học mà dân dã thường gọi là trường Quan) .Trước đây tại vị thế của cây cầu Tây Ban Nha có một cây cầu bắt tạm qua gọi là cầu Ông Phủ( Phải chăng vì cầu bắt nối đường lộ me với đường trước nhà Ông Đốc Phủ Tường nên có tên là cầu ông Phủ….. Những người biết chuyện nầy đã hóa ra người thiên cổ gần trăm năm nay) Cầu Huyện bắt ngang kênh nối liền đường Tổng Thứ với con lộ xuôi hướng Bình Ân , Tân Niên Tây, từ hướng chợ đi xuống là nhà của một cựu chiến binh đời Tây , Ông cất nhà một nửa trên đất, một nửa trên nước, phía sau nhà có một cái “Gió”( Để bắt tôm cá) trông rất đẹp mắt, Ông là người miền Bắc( Lúc đó Gò Công người gốc Bắc chỉ đếm chưa đủ đầu ngón tay).Ông có mấy người con gái, có Cô Liểu trạc tuổi tôi.Bên kia đường là bờ đê với một con lộ đá đỏ , lúc đó con đường cùn nầy chỉ có mấy nhà , một ngôi nhà thật lớn cất theo kiểu nhà quan, đó là nhà của Ông Cai Tổng Thới, thân sinh của Ông Quản Phát, sau nầy miếng đất trống ngay đầu cầu, cậu Mười Miền từ Bình Xuân tản cư vào cất một ngôi nhà nhỏ chuyên bán vật liệu xây cất nặng, sau làm ăn phát tài ông cất một nhà lầu đúc thật khang trang với 2 mặt tiền ngó ra 2 con lộ…bên kia cầu , sát bờ kênh, một bên là nhà cô Tư Ngà, có đứa em trai tên Trần Công Điệp bạn học cùng thời trung học với tôi, Điệp cũng là đứa bạn học đầu tiên ăn đạn VC, sau năm học đệ tứ, Điệp thi rớt Trung Học, Điệp từ giã trường, trên đường lên Sài Gòn tình nguyện nhập ngũ, đường bị VC dấp mô, tất cả xe đang di chuyển đều phải dừng lại, Điệp nóng lòng đi nên xuống xe đi phá mô, Điệp bị du kích núp trong xóm bắn sẻ chết, đối diện với nhà Điệp bên kia đường cũng sát bờ kinh là nhà của Thầy Tư Nhơn, Thầy Tư là y tá của bệnh viện Gò Công, Ông có mấy người con, Trai là Huỳnh Đình Nhi tử trận trong sắc phục cảnh sát, Gấm là chị và Hoa là em, Hoa cũng là bạn học cùng lớp với tôi.

            Con kinh với dòng nước hiền hòa lặng lờ chảy, thủy triều lên nước ngập be bờ, ròng thì sát đáy, đám lát trơ gốc trên bải sình, thường những buổi chiều nước ròng, lòng kinh có rất nhiều người đi mò tôm, nôm cá, đa số là cư dân gần lò cải muối.Tôi nhìn thấy sự hiền hòa của con kênh đã ảnh hưởng đến tánh tình của người dân ngụ cư trên xóm Cầu Huyện, đường binh nghiệp không được vượng phát bằng đường giáo dục, từ nhà Ông Chủ Chí xuống đến nhà Ông Thôn Khoa chỉ có khoảng mười ngôi nhà mà đã có trên hai mươi người làm nghề dạy học, gia đình nào cũng có con em học đại học, nhưng cuộc đời không phải lúc nào cũng êm xuôi như giòng nước chảy, con kinh không còn thông giòng như trước nữa, Trước đời Tỉnh trưởng( Thời đó gọi là Ông Chánh tên gọi tắt Chánh Tham Biện)Kiên và Ông Chánh Trực cây Cầu Quan bị phá bỏ trở thành con lộ nối liền con đường bên hông Bon ga Lô chạy thẳng tới cửa dinh tỉnh, đường có lót cống nên dòng nước vẫn chảy thông, sau đó một con lộ khác thành hình, nối liền con đường bên hông hướng đông nhà Lãnh Binh Tấn, qua con đường bên hông Pháo Đài chạy ra tới Cầu Tàu, con kinh bị cắt hai lần nhưng nước vẫn còn thông nhờ hệ thống cống, cho tới thời đệ nhất Cộng Hòa, một con đường mới lại hình thành, con đường lộ đá nối liền con đường bên hông trường Bà, đâm chệnh vô dinh Phó Tỉnh, lại một lần nữa con kinh mang thêm một vết thương, nhưng giòng nước vẫn thông giòng, ba con đường mới nầy tạo nên cảnh trí mới cho Gò Công, một hồ tắm có cẩn đá bốn hướng, chung quanh hồ là hệ thống công viên rất đẹp, có băng đá với đầy đủ hoa kiểng, có những bải cỏ cắt xén công phu, bốn mùa đều được chăm sóc cẩn thận, lối đi trong công viên trải đá sỏi trắng, hồ tắm có xây hai cầu nhày bằng gổ, có nhà bằng gổ để thay quần áo.Trước trường Bà Phước là hồ thả bông súng, thả cá Phi nuôi, có nhà thủy tạ, có mấy cây dừa, cây liểu rũ bóng xuống mặt hồ, khi hòang hôn xuống, nhiều trai thanh gái lịch ngồi băng đá hóng gió, tuyệt nhiên không thấy cảnh trêu ghẹo nhau, cũng như không nghe thấy những lời nói tục tằng hay xã rác bừa bải, các trụ đèn đều có treo giỏ rác bằng lưới kẽm, đó là thời thái bình của đất Gò Công dưới thời ông Chánh Trực ( Gốc Người Bình Dương), thời mà giặc cờ đỏ chưa lộ mặt dã man, công trình làm đẹp châu thành là do công Ông Chánh Trực và Ông Chánh Kiên.

Thời đệ nhị Cộng Hòa, con đường Phan Chu Trinh dược nối thẳng qua kinh bằng một cây cầu gổ, kinh phí do phái đoàn y tế Tây Ban Nha cấp; Số tiền cho xây cầu khang trang rộng rải nhưng khi tiền đến tay VN thì bị…bốc hơi cầu xây bằng gổ vừa đủ một chiếc xe ba bánh chạy … cầu chỉ hiện diện mấy năm thì gãy hư, con đường đất dược đắp lên.. dân tới bây giờ vẫn quen gọi Cầu Tây ban Nha. Cho đến sau nầy, khoảng giữa thập niên 60, giặc cờ đỏ nổi lên giết chốc khủng bố, dân chúng trong các làng xa không còn chịu đựng nỗi nữa, tìm lên tình sống, bờ kinh từ trước nhà Ông Huyện Lạc trở xuống tới dãy phố Kiến ốc Cục đều bị dân cấm dùi cất nhà sàn tràn lan dày bít bờ sông, con đường ngắn mang tên Cả Thuận cũng không tránh khỏi số phận, bị xóa tên trên bản đồ Gò Công, mà ngay đầu ngã ba nầy là nhà của Đại Úy Cảnh( lúc Sập tiệm mang Thiếu tá) Con kinh bị ức hiếp tơi bời, chỉ còn lại một giòng nước nhỏ đen sì, xú ám như con mương nghẻn. Dưới con mắt nhà phong thủy thì cảnh quang bị tàn phá nặng nề, những gia đình cố cựu của xóm Cầu Huyện đã có một đời sống xuống dốc trông thấy, Ông Thôn Khoa bán nhà bỏ xứ lên Sài Gòn sống, nhất là sau năm 75, sự xuống dốc quá nhanh đã làm cho người trong xóm không khỏi ngậm ngùi… Để cuộc sống trở lại bình thường như trước, con kinh thì nhà đã lỡ cất, chỉ còn cách là mở rộng con lộ đá Tổng Đốc Phương, tráng nhựa rộng rãi cho xe lưu thông hai chiều, lưu lượng của giòng xe cũng giống như lưu lượng của con kinh trước kia… ba mươi năm sau ngày sập tiệm, con đường Tổng Đốc Phương được mở rộng, xóm nhà cố cựu bị lấn hơn nửa sân trước nhà không nhận được dù chỉ một xu tiền bồi thường,

            Bây giờ trên đất tạm dung nầy khi thả hồn về xóm Cầu Huyện thì hình ảnh của xóm Cầu Huyện của đầu thập niên 60 lại hiện ra trong trí, hình ảnh rất rõ ràng và sinh động, cũng con kinh uốn khúc lững lờ chảy ôm sát con đê mướt cỏ xanh, với chưa tới mười ngôi nhà nằm trong những khuôn viên rạch ròi, mang nét cổ kính mặt day ra hướng bờ kinh, thuở nhỏ trên đường đi học về tôi rất e dè trước đám chó nhà Ông Quản Phát, bầy ngổng nhà Ông Phán Danh, sơ ý đi lẻ loi là bị ngổng mài cổ sát đất rượt đuổi, bờ đê trước nhà Ông Huyện Đạt khá rộng, thỉnh thoảng tôi có nhìn thấy một cặp rắn to hơn cổ tay người lớn, dài hơn thước tây, rượt nhau đùa giỡn, đầu rắn ngẫng cao khỏi mặt đất cở hai tấc, những tháng ngày giáp tết, gió chướng thổi, bụi đường cuộn lên từng chặp, những vạt áo dài tha thướt của các cô nữ sinh như khêu vũ trên thảm cỏ xanh và cũng rất đặc biệt trên bờ đê nầy thường có một loài hoa dại vẫn thường trổ vào dịp cuối năm, hoa mang tên rất bình dân: Hoa Tép Mở, lá cây hơi nhám,to cở lá muồng, hoa kết từng chùm, mới nở hoa có màu xanh lá mạ, to hơn hoa điên điển mà bé hơn hoa so đũa, một thời gian sau ngã sang màu vàng của mở heo vừa thắng mới xong, cắt hoa chưng bình hoa tươi được mấy tháng, nhiều nhà bình dân vẫn dùng hoa nầy để chưng tết, sau nầy lớn lên tôi không còn thấy loài hoa nầy mọc trên đê nữa. Cũng trên khoảng bờ đê nầy, thuở nhỏ tôi thường hay ngồi trước trụ xi măn cổng nhà Ông Huyện Đạt để xem tập lính, có khoảng hai trung đội tân binh tập ắc ê ở đây, dân gọi là lính gạc ( lính gác các dinh thự) Tôi còn nhớ có hai huấn luyện viên, một mang Cai và một mang Đội, Thầy Đội gương mặt sáng sủa trông hiền lành, ít rầy phạt lính, Thầy Cai gương mặt khắc khổ, rất thường hằm hè quát tháo rầy la lính, thầy Cai tôi không nhớ tên, còn thầy Đội là Chú Sáu Hải , con Ông Bộ Giáp, nhà giáp ranh nhà ông Thôn Khoa, đối diện nhà Cô Hai Mạo, trước ngày sập tiệm chú Hải mang cấp Thiếu tá, những lúc tình hình biến động, có một hai tiểu đội lính nằm chốt ở nhà Ông Thân Bính( có lẽ là lính gạc, lính bảo An dưới quyền chỉ huy của Trung úy Ngô văn Thi, Lúc tôi thi mãn khóa ở Quang Trung, Thiếu tá Ngô văn Thi từ trường Thủ Đức xuống làm chánh chủ khảo môn Vũ Khí), lại có một lần thời đệ nhất Cộng Hòa, một lô cốt xây bằng gạch được xây trước nhà Ông Cả Thuận, lô cốt nầy làm cho con đường buổi tối thêm phần lạnh lẽo, lô cốt được dựng lên trên một vị trí không thích hợp nên mấy tuần sau được dời xuống phía sau nhà Ông Thôn Khoa trên đầu nghĩa trang.

            Cũng trên con kênh nầy, đã có một vài sự việc xảy ra đáng ghi nhớ.Thời Gò Công còn ở cấp quận thuộc tỉnh Định Tường( Tỉnh trưởng là Thiếu Tá Lâm Quang Thơ) ngư dân Vàm Láng đánh lưới bắt được một con trông giống như con vít hay con ba ba, rất lớn, trực kính khoảng hai thước, đầu to cở quả dừa, chính quyền địa phương cho thả con Vít xuống hồ tắm cho dân chúng xem, tôi còn nhớ con vít lội liên tục quanh hồ, trông rất hiền lành, bơi khá nhanh nhờ cặp vi quạt nước khá dài, Vít không ăn chi cả, dù đã thử thả rau cải, vịt con.Vít cứ thong thả bơi quanh hồ, đầu chạm vào bờ đá cẩn hồ bị rách da tươm máu, có nhiều thanh niên dạn dĩ đã bơi theo vít, có người lại trèo lên lưng Vít để cỡi, Vít cũng không phản đối, được mấy hôm, chính quyền cho dời Vít sang hồ cá trước trường Bà, góc hướng cạnh đông bắc( gần dinh Ông Phó) đóng cột che thiếc lại thành một hình vuông, định bán vé thu tiền khách hiếu kỳ, công trình đang dở dang thì Vít chết, lúc Vít chết khiêng lên bờ tôi có lại xem, xác Vít được lật ngữa lên, người lớn chỉ chỏ mấy nét lằn ngoằn dưới bụng Vít bảo là mấy chữ Hớn, dư luận cho rằng Vít là thần là thánh nên không muốn dính liếu vào tiền bạc, thân xác nầy đâu phải là món đồ chơi mà làm trò vui cho thiên hạ, Vít từ giã cõi đời ô trọc để về cõi vĩnh hằng…

            Cũng trên hồ tắm nầy, thời Trung Đoàn 12 thuộc Sư Đoàn 7 còn đóng tại nhà thương cao cẳng, Thiếu tá Nguyễn Hữu Duệ giữ chức Trung Đoàn Trưởng, đến mùa Giáng Sinh hồ trở nên rực rỡ, bởi Ông cho lính làm một hang đá nổi trên mặt nước, bè nổi to cở 1/5 mặt hồ, mấy cây liểu phía sau cầu nhày, được kết đèn giặng sao thật to, không khí Gò Công trở nên nhộn nhịp trong những ngày mừng Chúa( Ông Duệ lại là một Phật Tử)

            Những đêm tối thứ bảy, con đường cặp bờ kinh rộn rã bước chân người đi, bởi thường cuối tuần nào cũng vậy, nếu phòng thông tin không chiếu phim thì Tiểu Đoàn 518, thuở đó tiểu đoàn đóng trước nhà thương, trong sân nhà bác Năm Chì,Tiểu đoàn trưởng lúc bấy giờ là Đại úy Đổ văn Tâm sau nầy Ông Tâm về bộ chỉ huy chiến dịch Hòang Diệu của Trung tá Dương văn Minh, trong một đêm ngũ gần cầu Chữ y , phòng ngũ mở quạt máy sáng dậy đại úy Tâm chết tự hồi nào.( lúc đó Tiều Đòan 521 đóng tại Tăng Hòa) Tiểu đoàn có ban văn nghệ mà hai nghệ sĩ gây ấn tượng sâu đậm với dân Gò Công là nghệ sĩ Phi Thoàn và Phúc Nguyên( Khi tôi vào lính Phi Thoàn mang cấp Trung Sĩ nhất trong Biệt Đoàn văn Nghệ Trung Ương).

            Cũng trên con đường Cầu Huyện nầy đã từng in bước biết bao nhiêu là người đẹp, theo thứ tự thời gian tôi được biết: Mai Kim Liên, Mai Kim Lan.Nguyễn thị Hồng Hạnh, Võ thị Hồng Sương, Nguyễn Thị Lang,Phùng thị Mười, Chị em Lệ Hoa Lệ Hường, Bùi Oanh Yến, Chị em Bạch Cúc Bạch Mai Bạch Lan., Ngô thị Oanh, Huỳnh thị Phương, chị em Nhung Hồng, Võ thị Phích, chị em Thu Cúc Thu Hường, và còn nhiều nhiều người đẹp khác mà tôi không biết tên, dưới con mắt tôi( năm tôi học đệ nhất)có lẽ Thu Hường là cô bé thùy mị và duyên dáng nhất.Mỹ nhân tự cổ…với thời gian, những người đẹp mà tôi kể tên bây giờ gặp lại trông chắc ngộ lắm, còn mấy người giữ được nét đẹp ngày xưa?, tôi chỉ tưởng tượng, răng cỏ thì đơn giản, miệng nói đả đớt ngồi ôm cháu nội, ngọai nựng nịu, hay khi trái gió trở trời kéo vạt áo lau mũi mặc kệ vú thò ra…Cũng cầu mong cho tôi đừng gặp lại để hình bóng mỹ nhân vẫn tồn tại trong bộ nhớ của tôi,

            Thịnh rồi suy, không có gì trường tồn mãi trong cõi đời nầy, trong bước đời tôi, tôi luôn gặp cảnh tái ông thất mã, lận đận khoa trường tôi vào lính, gia đình tôi có nhiều đời sống bằng nghề dạy học, chẳng có quen ai trong quân đội, tôi ra trường được chọn về ngành Chiến Tranh Chính Trị, đóng cạnh đài phát thanh quân đội, bà con quen biết khen nhà có phước, giặc cờ đỏ cưỡng chiếm miền Nam, tôi vào tù từ Nam ra Bắc, gỡ hơn tám cuốn lịch, bà con lại cho tôi có số rủi,từ tù về sống dưới chế độ Cộng sản, nhìn thấy người dân, bạn bè lần lượt vượt biên, người tới được miền đất hứa, gửi tiền về nuôi người ở lại ấm no, có nhiều gia đình được tin thân nhân bỏ xác trên biển Đông mà không dám khóc vì sợ Công An.Chương trình H.O ra đời, chỉ cứu xét trường hợp ở tù CS trên 3 năm, thế là tôi chính thức đi Mỵ bằng phi cơ, khỏi phải tốn tiền đi chui, khỏi lo đem thân nuôi cá…bà con trong họ lại nói tôi có phước.

            Tôi viết lại những dòng trên đây là vì lòng tôi nhớ quá, ngôi nhà của tôi nằm trong xóm Cầu Huyện, trong ngôi nhà đó bây giờ chỉ còn hai chị của tôi, hủ hỉ sống tuổi già bên nhau.ba tôi bỏ cuộc đời ngày tôi còn ở trại tù Hà Tây, mẹ tôi cũng vừa mới theo ba tôi trong những ngày cuối thế kỷ 20.Những người thương tôi đã lần lượt ra đi, chỉ còn lại có hai chị, đã săn sóc tôi từ những ngày còn thơ bé, lo lắng cho tôi trong những ngày đi lính, tiếp tế thăm nuôi tôi trong suốt hơn tám năm tù, nuôi dưỡng tôi trong ngày tháng sau tù…Bây giờ ngồi đây viết lại những dòng chữ nầy với niềm ước mơ nhỏ nhoi sẽ được về thăm lại ngôi nhà xưa, thăm lại những người thân, tôi tưởng tượng, đôi mắt của Ba của Mẹ tôi trong ảnh trên bàn thờ chắc sẽ lóe sáng lên niềm vui mừng rỡ…tôi nhìn lại con đường và những ngôi nhà kỷ niệm với chòm xóm cũ, người còn sống thân quen chắc chẳng còn được bao nhiêu, thế hệ trẻ sẽ nhìn tôi như một người xa lạ, cây trụ đèn mà ngày xưa Ông Quản Phát đụng gãy nay cũng không còn vết tích…Một niềm an ủi là tôi còn biết rõ thân thế tôi…

            Cái gì qua rồi mới thấy tiếc


 

Viết tại Kỳ Đà Dộng những ngày cuối thu…

Thủylanvy





Chỉnh sửa lại bởi SuperUser - 12/May/2012 lúc 6:09pm
IP IP Logged
Phanthuy
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 01/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 960
Quote Phanthuy Replybullet Gởi ngày: 03/Jun/2007 lúc 1:34pm
Cam' ơn bài viết của Thy Lan Thảo. Khâm phục tri' nhớ kỳ diệu của huynh đã ôn lại trong tri' óc của những người cùng thời  voi' chúng ta những con người nổi tiếng, những hình bóng xa xưa....tất cả như bừng sống lại.
Tuy nhiên muội nhớ còn có 1 gia đình cũng nổi tiếng gần xom' của huynh mà các học sinh thời đó ai cũng biết mà chưa nghe huynh nhắc, đó là gia đình thầy Lộ Công Bích , gia đình nhà giáo nổi tiếng có nhiều người khoa bảng, thành danh mà hiện hữu ngay trong Hội thân hữu Gò công của chúng ta như ông Lộ Công Mười Lăm, em của thầy Bích ,anh Lộ Công Thông , là con của thầy Bích , cô Lộ Xuân Nhi, Lộ Xuân Hiền là cháu nội thầy Bích.... còn nhiều nữa mà Thủy xin mạn phép gia đình thầy Bích chỉ nêu vài người để cho các bạn cùng thời được biết.
PhanThuy-CA
IP IP Logged
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Gởi ngày: 03/Jun/2007 lúc 4:25pm


Đây là xóm Cầu Huyện trên. Xóm có nhà Thầy Bích là xóm cầu huyện dưới, xóm nầy nhà đông mà mình không gần gủi nên viết khó chĩnh xác, phải nhờ Anh Mười Lăm  viết hộ thì tốt hơn. Mong muội thông cảm



Chỉnh sửa lại bởi SuperUser - 12/May/2012 lúc 6:09pm
IP IP Logged
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Gởi ngày: 29/Jan/2008 lúc 9:08pm

MƯA 

ĐỒNG  THÁP  MƯỜI


***

Mỗi ngày cứ đến 5 giờ sáng là kẻng báo thức vang lên trong khi ngoài sân trời hãycòn tối mịt.

Tất cả tù choàng thức dậy sau một giấc ngủ như mê, đầy mệt mỏi, ai cũng lao động quá nặng nề trong việc cuốc đất đào kinh mà thời gian nghỉ ngơi quá ngắn. Có những ngày nắng gay gắt, gặp phải thế đất gò, cứng như sắt, toán đào kinh về tới trại thì trăng đã lên, nhảy ùm xuống kinh tắm vội vàng, vô tới chỗ nằm là căng mùng ra ngủ chẳng kịp nói với người nằm bên cạnh một câu nào; gặp hôm mưa dầm, ra lãnh lô đất: nước lên tới gối, be bờ, tát nước xong có khi gần hết buổi sáng. Làm việc với hết sức con người mà mỗi ngày lãnh 2 ca cơm với 1 phần canh lưng chén  (thường là rau, bí luộc với muối và chút mỡ heo); đào kinh 2 thước rộng, 2 thước ngang, sâu 1 thước rưởi, đáy 1 thước, triên bờ bảy-ba, hai con kinh song song, phần giữa sẽ đắp thành con lộ, bờ đê hai bên bờ kinh sẽ trồng chuối và trồng khóm. Chương trình còn dự định xả phèn đất Đồng Tháp bẳng cách đào những con kinh nhỏ, xẻ dọc ngang cho nước chảy ra con kinh lớn  mà lao động chính là lực lượng tù của trại “cải tạo” Mỹ Phước Tây.

Không biết “người ngồi trên” đã nghiên cứu kỹ chưa chứ theo cách đào kinh nầy thì sức khỏe của tù ngày sẽ kiệt dần vì “chế độ” ăn uống quá kém mà việc làm lại  nặng nhọc, trong khi mỏ phèn của Đồng Tháp Mười thì quá lớn. Hơn 5 giờ sáng đã xuất trại, lội ruộng, băng đồng, trung bình mỗi ngày hơn 6 km mới tới nơi, đi và về đã muốn hết... hơi  chứ đừng nói chi đến việc đào kinh.

Tuần lễ đầu tiên mới chuyển từ trại Hoà Đồng lên đây, tôi cảm thấy toàn thể xương trong người rã rượi, bắp thịt của tay mỏi nhức như dần, không có ngày nào tôi đào xong phần đất, thường đều phải nhờ anh em trong toán phụ tiếp, một điều làm cho tôi hết sức ái ngại, bởi bạn bè đã mệt mỏi sau phần đất của mình nay còn phải bỏ công đào giúp; cả toán phải xong, sau khi tên "chịu trách" kỉểm tra thấy đạt thì cả toán mới được tập trung chờ điểm danh ra về, nên dù không muốn, anh em cũng phải phụ nhau để được về sớm. Nhiều khi vì mệt mỏi quá, không ai phụ ai nên trăng đã lên mà tôi vẫn còn nguyên cả lớp đất cao khoảng hơn 4 tấc. Anh em tù thường gọi đùa là “còn đứng trên bục thuyết trình” vì mọi người đào, chân đã đặt xuống đến lớp đất đáy mà mình còn đứng trên cao với quần xà lỏn, áo rách vá chầm, mặt mày đầy bùn đất; khi nào xong, ra vũng khoát nước rửa mặt, rửa xong lên tôi mới thấy nhẹ người, mới thấy một ngày lao động với tôi thực sự... hết.

Ngoài cái khổ về lao động vất vã, còn một nỗi khổ khác mà hầu hết đám sĩ quan trẻ chúng tôi phải cắn răng chịu đựng là việc ăn ở chung chạ với đủ thành phần trong xã hội, nằm cạnh người biết điều còn đỡ, rủi ro nằm bên tên lưu manh thì thật là khổ tâm (từ hạ sĩ quan, binh sĩ đến trộm cắp, chiêu hồi). Vui thì nó cười nói, buồn thì chửi xiên, chửi xéo:

- “Đồ cái thứ quen thói ngồi mát ăn bát vàng, đồ cái thứ chỉ tay năm ngón, bây giờ cho... chết mẹ tụi bây luôn ".

Chưa kể đồ đạc, hở ra là bị mất cắp, nếu nóng mặt trả lời lại, đêm ngủ nó giả đò mớ, quơ chân đá vô sườn, vô lưng (trại nầy trước khi chúng tôi đến chỉ có vài sĩ quan, còn lại đa số là tù hình sự).

Trại cải tạo Mỹ Phước Tây nằm trên trục lộ Cai Lậy - Kiến Tường, trước đây là căn cứ pháo binh của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Phía sau trại là phố chợ của khu trù mật Mỹ Phước Tây. Trước và bên hông trại là hai dòng kinh Dương văn Dương.

Mấy tháng đầu, tôi ở trong nhóm do chú Tư Hiếu làm nhóm trưởng. Chú là người có cấp bậc cao nhất của nhóm nầy, thượng sĩ, thuộc chi khu Cái Bè, tính đằm thắm  rất dễ chịu, hiểu đời. Chúng tôi khoảng 10 ngưởi, đều là sĩ quan từ trại cải tạo Hoà Đồng lên, nhập vào nhóm nầy, sống chung với nhau trong một gian nhà cột tràm, lợp đứng, vách chầm lá, khoảng 50 mét vuông. Khi tôi tới, đã có sẵn trên 40 tù với 6 em “Phục Quốc” đang bị còng chân chung một thanh sắt; phòng quá chật, nền đất, tôi phải nằm chung mùng với thiếu úy Tài, trung đội trưởng Thám Báo, tiểu khu Gò Công, cạnh Tư Què, nhỏ hơn tôi khoảng 5 tuổi, can tội trộm.

Những buổi lao động về trễ, nhìn thấy ánh trăng lấp ló trên trời tôi mới thấy thấm thía câu "Một nắng hai sương" mà trước đây tôi chỉ hiểu lờ mờ. Bây giờ chạm thực tế mới hiểu rõ: sáng đi sương còn mờ mịt, tối về sương rơi ướt tóc... Nhóm sĩ quan Gò Công chuyển lên trại nầy khoảng trên một trăm, cùng chung cảnh khổ nên dễ kết thân với nhau,  nhưng hầu hết anh em đều không quen với việc lao động, nên sức khoẻ sút kém trông thấy rõ. Trại chia ra làm 3 hệ, mỗi hệ chia thành từng nhóm ở chung nhau: hệ quân đội, hệ cảnh sát và hệ hành chánh. Một dãy ngang, hai dãy dọc, chính giữa là nhà bếp và trại tù nữ, sát bộ chỉ huy là dãy nhà nhỏ dành cho những người bệnh dễ lây như lao, cùi...  Chức sắc trong nhóm có 3 cấp: nhóm trưởng, nhóm phó, thư ký nhóm do anh em bầu lên, cũng có khi do trại chỉ định (thực ra do Bảy Quế chỉ định). Khi ra lao động thì do một số quân đội và cán bộ  Việt Cộng bị nhốt về các tội  tham ô , hủ hóa hay chiêu hồi dẫn đi , có võ trang súng ống đầy đủ đi kèm. Thường là súng trường CKC, thỉnh thoảng mới thấy có súng AK. Những tên tù chức sắc nầy được gọi là “chịu trách”. Thường những tên “chịu trách” này rất  sắt máu và hắc ám hơn cán bộ trại bởi họ muốn lập công, chuộc tội để được tha về sớm . Trưởng bên tù Nam là Bảy Quế, một tên Việt Cộng bị ghép tội phản gián. Tên nầy ốm cao, người miền nam, chịu trách nhiệm điểm danh xuất trại cũng như điểm danh vào buồng buổi tối, có quyền đề nghị biệt giam và cũng thường ngồi chủ trì các buổi họp kiểm điểm ở đội. Bên nữ là Bà Hai Cốt cũng can tội gián điệp (Sau ngày sập tiệm, báo Sài Gòn... Lóng Cóng có đăng một tiểu thuyết gián điệp mà Bảy Quế và bà Hai Cốt là 2 nhân vật chánh.)

Ở tù với Việt Cộng ít khi tù được ở yên; ở trong nhóm nầy vừa tạm ổn, tương đối vừa mới hiểu rõ tính tình nhau là chuyển đổi qua nhóm khác, bởi vậy trong tù có câu: "Thứ nhất tự khai, thứ hai đổi nhóm”. Tôi chuyển qua nhóm 20, nhóm trưởng tên Đẹp, trung sĩ cảnh sát, nhóm phó là Khanh, thượng sĩ quân cảnh tư pháp. Hai tên nầy sống có vẻ cách biệt với anh em trong đội, thường thích tỏ ra mình là cấp chỉ huy, và có vẻ không ưa gì đám sĩ quan từ Gò Công lên. Tôi biết trong hoàn cảnh nào tôi cũng phải cố gắng thích ứng để sống, thực ra trong nhóm nầy cũng có vài sĩ quan Gò Công nhưng chỉ có  một người bạn là Võ Văn Trầm, khóa 2 CTCT Đà Lạt, thuộc Sư Đoàn 9 là tương đối thân thiết với tôi, ra lao động, chúng tôi vẫn thường đào đất 2 lô tiếp giáp nhau, Trầm có sức hơn tôi nhưng để hoàn thành phần kinh đào cũng phải hết sức vất vã.

Buổi sáng, các đội tập trung ngoài sân trại, trong lúc chờ đợi điểm danh xuất trại, một số anh em tìm những tảng đá xanh mài lưỡi len cho bén, âm thanh rền vang trong cảnh trời còn tối đen; Bang, Đại úy phân chi khu trưởng xã Long Thuận thường chỉ cảnh mài len cười nói:

- Coi kiếm sĩ mài gươm dưới ...mây kìa.

Hôm nay đào kinh tận giáp hạt nên Bảy Quế cho xuất trại sớm, trên 600 tù, tay cầm len, tay xách bị đựng cơm nước, đi thành một dọc dài trên con lộ cặp bờ kinh, đường liên lộ đến Kiến Tường, ngang qua trại tù Vườn Đào (tù nhân trại nầy toàn là sĩ quan, có một nữ sĩ quan là trung úy Nguyệt) tôi nhìn thấy anh em trong trại này còn trên sân chưa ra lao động. Gió buổi sáng mang chút sương đêm còn sót lại, cảm giác lành lạnh nhưng rất dễ chịu, thỉnh thoảng có vài bạn tù  băng vội xuống ruộng bên đường hái rau diệu, rau má hoặc rau dền, hay tấp vào quán bên đường mua nải chuối, gói xôi... Có tốp đi trong im lặng, cũng có tốp cười nói râm ran

- Ê Mỏng, hôm nay chắc trời sẽ mưa lớn.

Thằng Trầm đi bên cạnh nói với tôi:

- Tao khoái trời mưa, mưa cho thiệt lớn, đỡ phải đào đất.

Thật vậy, mưa có lạnh lẽo và ướt át thật nhưng nước ngập tràn, thấy đường đâu mà đào với đắp, chúng tôi tìm bờ đất cao, ngồi rút mình dưới cái nón lá, trông mỏng manh như một cây nấm dại. Thường, cứ thấy bầu trời còn nhiều mây đen, liệu mưa khó dứt hột là Bảy Quế cho thu quân, phần lớn cho thu quân khi trời mưa là do đám vệ binh sợ tù trốn trại.

Trời dần sáng tỏ, khi tới gần giáp hạt, thỉnh thoảng trên đường liên tỉnh có chuyến xe đò Sài Gòn - Kiến Tường chạy ngang qua, nhiều hôm tôi kịp nhìn thấy ánh mắt thật buồn của một cô gái nào đó ngồi bên cửa xe làm tôi chạnh lòng nhớ tới những ngày công tác tại quận Phú Lộc, chiều chiều buồn ngồi một mình trong quán ven đường, nhìn xe cộ tấp nập qua lại với tốc lực thật vội vã từ Sài Gòn về Bạc Liêu hay Cà Mau, bên chai bia, gói thuốc lá mà nhớ tới Sài Gòn, nhớ đến con đường Cường Để mỗi khi mùa hè đến, cổng trường rực rỡ xác hồng của hoa phượng, có cô bé mắt nâu vén vạt áo dài ngồi vào yên sau chiếc xe Honda dame màu xanh, vòng tay ôm thật sát tôi... Quận Phú Lộc này tôi đến công tác có một tuần lễ, nhưng những người lính và dân ở đây còn để lại trong lòng tôi nhiều cảm tình đẹp, nhất là thiếu tá Phát, vị quận trưiởng đẹp trai, mà tôi cũng vừa hay tin đã tự sát trong ngày của Tháng Tư đen... Bây giờ, nhìn chiếc xe đò chạy ngang, tôi có một ước muốn thật tầm thường là được ngồi trên chiếc xe đò để về Sài Gòn, một việc còn khó hơn là bắc cầu qua biển nối Gò Công với Vũng Tàu... Bây giờ, trước mặt là  một cánh đồng mênh mông cạnh những thửa đất hoang ngập đầy nước và cây điên điển. Trời tháng Mười hoa điên điển nở vàng, màu vàng thật đậm... đúng từ xa trông cũng đẹp mắt lắm.

- Ê Trầm, cố gắng đào lẹ, phụ tao hái bông điên điển chiều về nấu canh chua ăn.

- Để coi trúng lô đất nào, gặp chỗ nhiều nước quá, tao với mày làm... trâu nằm vũng chứ làm sao mà xong sớm được.

Thằng Trầm nói xong ngước nhìn trời, nó chỉ đám mây đen đang từ hướng Nam kéo tới .

-Tao cá với mày là hôm nay mưa lớn lắm, lo mà tìm chỗ trú mưa chứ đào đục gì mà đào.

Bảy Quế vừa căng dây cặm tiêu, chia lô vừa nhìn trời rồi lẩm bẩm:           

- Hôm nay chắc trời mưa suốt ngày .

Tôi và Trầm đứng nhìn lô đất mới lãnh, nước lên tới đầu gối, đỉa trâu lội lều bều. Trầm ngó mặt lên trời cười ngất:

-Hôm nay cúm núm kêu rồi Mỏng ơi! (Cúm núm kêu lúc trời giáp tối) Hút một điếu thuốc rồi tính sau.

Trầm móc bao nylon đựng thuốc rê ra vấn một điếu rồi thảy chuyền cho tôi.

- Đắp bờ xong, tát cạn nước cũng trưa trật rồi, chỉ còn mong mưa tới sớm. Lao động là vinh quang mà Mỏng.

Tôi nói nhỏ vừa đủ cho Trầm nghe :

- Nhưng mà không lao động là... vinh râu đó nghe Trầm. Kệ, tới đâu tới, hút thuốc uống nước, rồi ngồi... cầu mưa.

Tôi trả lời với Trầm mà mắt nhìn quanh, bạn tù mọi người cũng đều lo lắng nhìn lô đất. Có nhiều người cùng nhau hợp tác, bắt đầu be bờ tát nước. Trầm bắt đầu cầm len khui hộc, nó xắn ngầm từng tảng đất thật to, tôi nhìn cục đất mà thấy ngán ngược. Ðặt len nằm trên bờ, tôi xắn quần, bắt đầu ôm đất đắp bờ. Dù đang lao động nặng nhưng vì buổi sáng hôm nay mây âm u, gió lại sắt se, gần nửa thân mình ngâm dưới nước nên tôi cảm thấy trong người ớn lạnh. Cho tới gần 10 giờ thì bờ bao cũng đã đắp xong, Trầm buông len, giơ chân lên khỏi mặt nước, cả chục con đỉa trâu bám đầy ống quyển, mập căng đầy máu. Nó kéo từ con ra khỏi da, máu chảy đỏ nước. Trầm nhìn quanh, thấy chẳng có chỗ nào để giết đỉa, đành quăng ra xa mà coi bộ ấm ức lắm, nó móc túi lấy chút thuốc rê quẹt lên vết đỉa cắn để cầm máu, miệng lầm bầm chửi thề. Tôi cũng chẳng khá hơn gì nó, chốc chốc thò tay xuống nước là kéo ra một chú đỉa... Dưới mắt tôi, ở đây đỉa đúng là... lềnh như bánh canh. Trầm  phụ tôi tát nước và  kiểm soát lại các nơi rò rỉ .

- Nghỉ chút Mỏng, kiếm cái gì ăn, tao thấy đói rồi.

Thằng Trầm khoát nước rửa tay, lên bờ móc thuốc vấn hút và đi lần đến chị gánh hàng. Nó mua 2 gói xôi, tìm bờ cao ngồi rồi vẫy tay gọi tôi .

Tôi đi lần tới, Trầm vừa ăn vừa phân công :

-Tao xắn đất ngầm, mày dùng thùng đạn tát nước cho nhanh, khi nào cạn nước thì phụ đào với tao.

Trong không khí lành lạnh, trên 600 người tù trải dài một khoảng tầm xa nhìn mút mắt. Nhiều lô đã tát nước xong, đất được len vụt lên bờ đều đặn, mỗi cục đất với hình dáng và trọng lượng gần giống như nhau, liên tục bay bay lên bờ.Những giọt mưa đầu tiên bắt đầu rơi, thằng Trầm cười cười nhìn tôi:

- Ê, khoẻ rồi Mỏng à ...Coi trước chỗ nào có lùm cây cao để đụt mưa, tao nhìn đám mây này thấy mưa tới chiều chưa dứt. Mày nhớ bọc thuốc hút lại cho kỹ, lạnh mà không có thuốc hút là buồn lắm đó.

Tôi nhìn quanh, cả cánh đồng đưng chẳng có cây nào có tàn cao đủ để núp mưa. Nhìn xa, ngoài đường lộ thỉnh thoảng có xe đò chạy qua, cũng có những bàn tay như vẫy chào. Nhìn lên bầu trời thì mây đen vần vũ, hạt mưa đã bắt đầu nặng hạt. Rất nhiều anh em tù bỏ lô đất lên bờ đứng hút thuốc. Gió bắt đầu thổi mạnh và cơn mưa cũng trút giọt ào ào.

Mình mẩy ướt nhem, tôi và Trầm xách bị cơm chạy núp mình vào một đám đưng gần kề, che sụp nón lá lại mà nép mình tránh mưa. Mưa thật nặng hạt, chốc chốc hai đứa rút chân lên, lấy tay gỡ bớt đỉa, đỉa trâu no máu con nào con nấy mập ú. Thằng Trầm càu nhàu :

- Lao động là vinh quang, tụi mầy không làm mà cứ theo hút máu tao hoài, chết nè con.

Thằng Trầm dùng thân cây đưng lộn ngược con đỉa ra, máu đỏ ướt cả tay nó.

Trời đã trưa mà mưa không dứt hột, bụng đói mà không biết làm sao ăn. Gió lộng tứ bề, tôi cảm thấy lạnh, cái lạnh không bình thường như mọi khi gặp trời mưa.  Trong người tôi hình như có tới hai luồng lạnh, một từ trong xương lạnh ra, một từ ngoài lạnh vào.

- Ê Trầm, hình như tao bị cảm, tao thấy lạnh quá, không làm sao chịu nổi.

Tôi vừa đánh răng bù cạp vừa nói với Trầm, nó nhìn tôi bằng cặp mắt ái ngại:

- Giữa đồng không mông quạnh như vậy thì làm sao có chỗ khô ráo mà tránh mưa, tránh gió. Mầy thử lựa chỗ nào nước cao ra đó trầm mình xuống nước, ló đầu lên, che nón lá kỹ lại coi có đỡ lạnh hơn không. Dân quê mình ra đồng làm ruộng gặp mưa to gió lớn vẫn chống lạnh bằng cách này.

Tôi đảo mắt nhìn qua một lượt, mấy cây điên điển nở hoa vàng đang lả mình theo từng cơn gió giật, có nhiều khóm chỉ còn ló thật ngắn chút đọt, trong lòng thấy ngao ngán, tôi lách đám đưng, lội chậm chậm về hướng bụi điên điển, từ từ ngồi xuống nước, chỉ để  ló từ cổ trở lên. Quả nhiên thấy ấm hẳn lại. Thằng Trầm nhìn vẻ mặt dễ chịu của tôi, nó cười khằng khặc:

- Ấm chưa Mỏng? Chừng nào lạnh hết chịu nổi tao cũng xuống với mầy 

Tầm mắt tôi chỉ cách mặt nước khoảng gang tay, hạt mưa xéo mạnh vào mặt nước, rải đều chập chũm. Tiếng mưa rơi, tiếng gió từng cơn, tiếng đưng quằn ngã theo gió vang vang bên tai tôi, lòng tôi tủi buồn thương cho thân tù... Chốc chốc, tôi lại phải lấy tay rà khắp người để kiểm soát đỉa, bởi tôi vẫn thường bị mấy con đỉa lẻn vào... "bộ chỉ huy" để hút máu. Mấy con đỉa này  tù bắt được thường đề quyết là đỉa ... cái. Tôi co ro ngồi dưới nước, tuy có ấm hơn ngồi trên bờ nhưng vẫn cảm thấy lạnh lắm, gió xoáy thổi vào mặt bật tung nón lá ... Mắt tôi mờ lại trước những giọt mưa, những chùm hoa vàng điên điển, trước tôi còn thấy rõ, sau dần dần mập mờ nghiêng ngả theo từng cơn sóng nước, theo từng câu hỏi hiện ra trong đầu tôi: Mẹ của tôi bây giờ đang ăn cơm trưa? Mâm cơm không biết còn được mấy món hay là chỉ trơ một dĩa rau luộc? Không biết có thêm được trứng vịt luộc dầm nước mắm, với đồng lương dạy học của chị, vừa nuôi ba, nuôi mẹ lại cưu mang thêm đứa em tội tù? ...Mỗi lần gặp Mẹ bên hàng rào kẽm gai , bên bờ ruộng, chỗ cho thăm nuôi phía sau trại , lần nào tôi cũng phải hết sức cố gắng cho nước mắt khỏi tuôn trào, bao lần tôi đã nói:

“Mẹ tìm người gửi chứ đi thăm đường sá xa xôi quá, sức khoẻ Mẹ bị suy giảm làm sao con an tâm sống được”

Mẹ ừ, mẹ hử, tay Mẹ lần xoa bóp tay con, Mẹ vuốt tóc tôi, mắt Mẹ đỏ hoe... rồi vắng một tuần lại cũng thấy Mẹ lên thăm. Mẹ đâu biết rằng khi con từ giã Mẹ trở vào nhóm là phải vội vàng lên trình diện ban chịu trách để đi lao động ngay, đó là quy luật dành riêng cho người có thăm nuôi trong ngày chúa nhật: tùy theo mùa, “lao động” có khác nhau, khi thì một thúng lúa giống lội trên 6 cây số đường ruộng; khi thì 5 cây chuối cây giống cao khoảng hơn thước; khi thì một bó đầu khóm giống. Thúng lúa giống một giạ tuy có nặng nề, vậy mà dễ di chuyển vì khi thấy mệt, tù cứ để xuống nghỉ, thời gian di chuyển không bắt buộc nhưng  tù nào cũng muốn xong về sớm đề sắp xếp đồ thăm nuôi; 5 cây chuối mới là nan giải , thường thì tù dùng dây kết lại làm bè, rồi cứ dọc theo bờ kinh mà kéo tới khúc lộ, đoạn ôm từng cây băng qua, ra tới nơi, đào lỗ trồng 5 cây xong mới được về. Sau đó, tên chịu trách còn đến xem xét từng... cây coi có bị bầm dập gì không (xem cây chứ không phải xem người vì người đã bầm sẵn rồi có dập thêm thì chúng càng mừng thôi); Với  đầu khóm giống càng khổ hơn vì tuy nó không nặng nhưng gai góc, nếu vác vai thì gai đâm cổ, ôm ngang eo thì làm sao đi, cách nào thì cũng bị gai quào xước cả người.

Mới mười tám tháng xa nhà mà lòng tôi đã thấy nhớ lắm. Lúc ở đơn vị, dù là đơn vị tổng trừ bị luôn phải rày đây mai đó, nhưng mỗi khi thấy nhớ nhà thì dù cho cắm trại... 200% đi nữa, tôi muốn về là tôi về, không có đơn vị trưởng hay quân cảnh nào cản ngăn tôi được, dù biết  về thăm Mẹ xong trở lại là... chịu phạt. Bây giờ Mẹ tôi ngồi đó, rất muốn ôm hôn Mẹ mà không làm sao hôn được.

Mất Nước là mất tất cả, tôi bây giờ là thằng hàng binh, nhục ơi là nhục, đánh đấm kiểu nào mà phải buông súng đầu hàng! Không! Trăm lần không! Ngàn lần không! Cá nhân tôi không đầu hàng mà tôi bị bắt buộc ở trong “tập thể đầu hàng”.

Ngày còn ở trại cải tạo Huyện Tây, mỗi nửa tháng được cho thăm nuôi một lần, tù bên trong nhìn rõ thân nhân từ ngoài đường di chuyển về hướng cổng trại. Ðã có lần máu tôi chợt nóng lên, mắt tôi như tóe lửa, khi nhìn thấy cảnh Mẹ tôi hai tay xách đầy hai giỏ, nặng lầm lũi bước vào cổng trại bị một thằng võ trang dùng mũi súng gạt ngang làm Mẹ hoảng hốt chao người, mất thăng bằng suýt té, hai tay tôi đã nắm chặt lại trong niềm tức giận, Mẹ ơi! Con trai Mẹ hèn quá! Mẹ ơi! Hoàn cảnh nào đã biến con trai Mẹ thành thằng hèn. Mẹ ơi! chắc Mẹ vẫn biết thằng con trai út của Mẹ có một trí nhớ rất tốt, cả đời nó sẽ không bao giờ quên hình ảnh Mẹ mình lảo đảo trước sắt thép của kẻ thù

Mưa vẫn trải đều hột, chưa có dấu hiệu gì sắp ngớt, bầu trời vẫn một màu đen kịt, thỉnh thoảng chớp nháng sáng trời, sấm động gầm gừ rền vang, gió vẫn xoáy lốc từng cơn

- Mưa quá làm sao hút thuốc Mỏng, mầy đói bụng chưa?

Tiếng của Trầm làm tôi quay về với thực tại, Trầm đã ngâm mình xuống nước không biết lúc nào và đang ngồi phía sau tôi, thấy tôi ngoáy đầu nhìn lại, nó nhe răng cười, da mặt nó đã tái xanh dù nắng gió đồng Tháp Mười đã biến tù thành ông táo Tàu từ lâu. Người tôi run lên từng đợt, tôi vuốt mặt mấy cái:

- Lạnh quá Trầm ơi, tao chịu hết muốn nổi rồi, chút về mày cạo gió giùm tao nha Trầm. Đói bụng quá mà mưa như vầy làm sao mà ăn, tao cũng thèm thuốc lắm rồi, mưa điệu nầy tới chiều chưa dứt. Mà tại sao lần nầy tụi chịu trách cho thu quân trễ quá vậy?

Mắt tôi thấy nằng nặng với cái lạnh, đói, lại còn buồn ngủ nữa, tôi bỗng như thấy lại hình ảnh một buổi trưa tại trại Huyện Tây: vì buổi sáng Mẹ đã vào thăm, buổi chiều tôi  yên chí nằm trong phòng, ai ngờ tôi đã rất ngạc nhiên khi được gọi tên ra thăm nuôi. Mặc vội bộ bà ba đen  Xây Dựng Nông Thôn, tôi ào ra cổng trai, mắt mở to đầy ngạc nhiên lẫn thích thú "Mắt Nâu"! Trời ơi Mắt Nâu của tôi lặn lội từ sài Gòn xuống thăm tôi, đi chung với Mắt Nâu còn có Khưu thị Tuyết Mai, cũng bạn chung lớp năm Nhiệm Ý, ban Việt. Theo phản ứng tự nhiên tôi chồm tới định nắm tay, nhưng tôi kịp "thắng" lại, vì tôi đã tự biết tôi là ai. Tôi đâu còn là sĩ quan ở trại Nguyễn Bỉnh Khiêm gần đài phát thanh Sài Gòn nữa mà mừng vui khi thấy Mắt Nâu vào trại thăm tôi như những ngày còn trong đơn vị. Ở đây là “trại cải tạo”, một lối nói văn vẻ thay cho trại tù hay khám đường ....

 - Ê, Bảy Quế đang nói gì với mấy nhóm trưởng kìa Mỏng. Không chừng thu quân đó mày.

Tôi đang mơ màng nhớ lại những hình ảnh đã qua thì  giọng thằng Trầm một lần nữa lại đưa tôi về thực tại, hai hàm răng tôi đánh vào nhau nghe cồm cộp, tiếng tôi run run đứt khoảng:

- Về là phải rồi ...mưa như vầy mà còn đào gì nữa.

Tôi đứng thẳng người lên, cơn gió xoáy ngang làm tôi lảo đảo suýt té, ngồi lâu quá chân bị tê, bây giờ gió mưa lại đập vào người làm tôi run lên.

            - Rán đi Mỏng, chắc về thiệt. Mày lấy tấm nylon của tao quấn đỡ, về tao cạo gió cho mày.

Thằng Trầm an ủi tôi. Chú Tư Hiếu, nhóm trưởng, khoát tay ra hiệu tập họp, tôi run rẩy chạy lúp xúp theo Trầm về vị trí xếp hàng, anh em bạn tù người nào cũng loi ngoi như chuột lột, mặt mày xanh xao, đứng co ro. Bảy Quế điểm danh xong toán nào là cho toán đó về, anh em rẽ nước, băng đồng... Mưa vẫn không ngớt hột, chúng tôi vừa đói, vừa lạnh trong khi nước lên ngang rún, phải lội hơn cây số mới ra tới bờ lộ cái, anh em rủ nhau chạy cho... đỡ lạnh

- Rán chạy lẹ Mỏng, tới quán mua mấy củ mì ăn đỡ đói với hút điếu thuốc cho ấm lòng.

Thằng Trầm run giọng nói với tôi. Rồi đám tù cũng về tới trước cổng trại, hôm nay không có anh em nào xuống kinh tắm như thường lệ mà tự động xếp hàng chờ điểm số để nhập trại. Gió vẫn vù vù thổi, chớp vẫn nháng sáng trời, có lẽ đã hơn 2 giờ trưa, tôi thấy trong người khó chịu, vào phòng thay áo quần khô xong tôi vạch lưng cho Trầm cạo gió, nó xin chút dầu lửa và dùng cái muỗng cạo lưng cho tôi.

- Mầy bị trúng gió rồi Mỏng, mới cạo sơ mà đã thấy tím bầm ...

Tôi cũng không màng ăn cơm chiều, trùm mền nằm thiếp luôn cho tới kẻng điểm danh tối mới ráng ngồi dậy, thấy nặng đầu và mình mẩy nóng hực, tôi đứng lên mà lảo đảo suýt ngã...

- Anh Đẹp báo cáo giùm, tôi nóng quá, lại chóng mặt, không ra điểm số được.

Tôi gượng nói với Đẹp trưởng nhóm, xong ngã ra. Tôi nằm mê man cả hai ngày, chỉ uống chút nước do người bạn tù nào đó cũng bệnh nghỉ ở nhà như tôi mớm cho. Mấy viên thuốc ABC mang theo, tôi cố gắng uống mỗi ngày 4 viên, buổi tan tầm thằng Trầm đi lao động về nấu cho tôi soong cháo, nhưng tôi cũng chỉ ăn được vài muỗng vì miệng mồm đắng nghét. Thằng Trầm an ủi tôi :

- Mầy phải rán uống thuốc và ăn nhiều cháo mới có sức mà hết bệnh được.

- Miệng đắng quá, tao thèm uống nước chanh Trầm ơi, tay chân tao như rã rời, cử động hết muốn nổi.

Tôi gượng cười:

” Không biết tao qua khỏi con trăng này không”.

Tôi thiếp đi nhiều hơn tỉnh, nhiều đêm thức giấc, tôi nhớ Mẹ vô cùng, từ nhỏ sống cạnh kề Mẹ, tôi ít khi bệnh; vào quân trường cũng thế, ai sao tôi vậy, chín tháng quân trường, ngay cả trong thời gian huấn nhục tôi chưa từng bị xỉu; cũng từng dầm mưa dãi nắng khi ra đơn vị; cũng ngủ bờ, ngủ bụi, nhất là trên con đường máu 7B di tản từ Pleiku về đến Bình Tuy, biết bao nhiêu là gian hiểm tôi đều vượt qua được, không lẽ trong cảnh tù đày như vầy mà lại... Tôi không dám nghĩ tiếp, nhưng có lẽ vì quá tủi thân, nước mắt tuôn trào ướt cả má. Nhiều lúc tôi nghĩ quẩn, phải chi mình chết bờ, chết bụi trên con lộ 7B cho rồi đở phải cực thân như bây giờ.; nhưng rồi tôi cũng lại nghĩ: “Sông có khúc, người có lúc” mình phải ráng sống , sống để có ngày nhìn thấy toàn dân đứng lên xé nát lá cờ sao.

Tình trạng cứ thế kéo dài đến mươi ngày tôi mới dần tỉnh. Trầm đi lao động về, cùng với thằng Quang Phục Quốc, ngày ngày vẫn nấu và mang đến chỗ nằm cho tôi từng chén cháo. Tôi ăn được nửa chén, rồi một chén... Những chén cháo có được là nhờ từ những buổi lao động may mắn gặp được đất mềm, tụi nó đào xong sớm, rảnh tay bắt con cá, con tôm; ngang đồng nhổ nắm rau đắng đất về nấu cháo cho tôi, Ôi! Trong hoàn cảnh không có người thân mà được bạn tù chăm sóc, lòng tôi cảm động lắm! Tôi cũng tự mình cố gắng đi ra, đi vào, phơi nắng buổi sáng, gần một tháng trời mới tương đối bình phục. Một hôm thằng Trầm về sớm nấu cho tôi một soong nước, nó ra phía sau pha nước cho tôi tắm, đã lâu mới cởi áo quần, tôi thầy người tôi toàn là xương, tắm mát mẻ, hòm đất đóng lâu ngày phải kỳ cọ thật lâu; buổi tối thằng Trầm pha gô nước trà có mấy miếng kẹo đậu phọng, mời một số bạn bè trong nhóm đến uống trà mừng... tôi hết bệnh. Tuy trong mình thấy nhẹ nhàng nhưng tôi cảm thấy còn yếu lắm bởi ăn cháo suốt gần cả tháng.

 

Rồi tôi bị chuyển qua nhiều trại tù, riêng trại Mỹ Phước Tây tôi ở gần 12 tháng. Một thời gian rất ngắn so với tuổi tù của tôi, nhưng tôi nhớ trại nầy nhiều nhất. Mỹ Phước Tây trong lòng tôi vẫn là ... địa ngục trần gian bởi chế độ lao động quá nặng nề và cai tù đánh đập tù quá tàn nhẫn. Anh Thiếu Tá Huề kiệt sức chết ở đây, anh Đại úy Lành (giáo phái Hoà hảo) bị tụi cán bộ dàn cảnh bắn chết phía sau trại, anh trung sĩ Gương, cảnh sát, bị võ trang nhắm thử... súng bắn chết... người thật trong lúc lao động đào kinh. Còn biết bao nhiêu anh em tù bị chết vì mìn bẫy trong lúc cuốc đất trồng hoa màu, bao nhiêu anh em vượt trai bị bắt lại bị đánh mềm như bột, thân thể tươm máu còn bị trói ké, bỏ nằm dưới cột cờ phơi nắng, trình điễn cho  anh em tù đến coi. Ba người bạn cùng nhóm: Sàng, Bi và Nguyễn Thanh Quang (trung úy Không Quân) và Đại úy Triệu, tỉnh đoàn trưởng, tỉnh đoàn Xây Dựng NôngThôn, Gò Công vượt thoát được.

x

x x

 

 

Nhiều năm đã trôi qua, bây giờ nơi đất tạm dung, mỗi khi tan ca về gặp phải trời mưa, lòng tôi lại bùi ngùi nhớ tới những cơn mưa Đồng Tháp. Trầm qua Mỹ theo diện HO 15 bây giờ ở đâu? Đại úy Triệu vượt thoát tới bến bờ tự do hình như đã qua đời vì bệnh? Còn Quang, Sàng ,Bi... bây giờ các bạn ở đâu? Tôi hy vọng trái đất vẫn tròn, có  như vậy mình mới mong có cơ duyên gặp lại những người bạn đồng cảnh ngộ ngày xưa.

            Nếu không có ngày của tháng Tư đen, tôi sẽ không bao giờ hiểu được sự thâm ác của người cộng sản. Một ngày nào đó tôi sẽ về thăm lại quê hương, tôi sẽ tìm thăm lại con lộ 7B mà tôi đã bước chân đi qua, một đoạn đường đầy máu và nước mắt mà người chết đi cũng chưa hiểu tại sao phải bỏ quân đoàn 2, đoạn đường mà xác người chết bị đạn hất tung hai ba lần như trong một bản nhạc của người họ Trịnh đã viết. Tôi sẽ thăm lại Đồng Tháp Mười, thăm những con kênh xẻ ngang dọc như bàn cờ mà ở đó ngày ngày tôi đều bị đỉa hút... máu, người... hút hết sinh lực; ở đó tay chân tôi đã phải lao động khổ sai, tai mắt tôi đã phải luôn nghe và chứng kiến những lời chửi mắng của bọn chịu trách, cai tù.

 

Tôi  có thực hiện được điều mà lòng tôi mong muốn không? Sẽ được thôi, nếu tôi tin tưởng cờ vàng rồi sẽ bay trở lại trên suốt dải đất quê hương ...vào một ngày không xa lắm !

 

 

 Viết Tại Kỳ Đà Động Houston , Quí Xuân 2003

 THỦY  LAN  VY


 

 



Chỉnh sửa lại bởi SuperUser - 12/May/2012 lúc 6:07pm
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 25/Sep/2010 lúc 10:33am
.
 
mykieu kêu tôi viết về Cầu Huyện thì sau đây xin gởi bản đồ của miếng đất của ông cố tôi là Nguyễn văn Tá (con bà Trần thị Dư, chị bà Trần thị Sanh) và bà Phan thị Vân.
Cách đây gần 2 năm tôi có về nhà ở Cầu Huyện và tim ra được bàng khoáng của miếng đất nơi tôi ở lúc còn nhỏ. Bản đồ nầy không được rõ lắm vì được làm từ năm 1882 do arpenteur-geometre Renouard vẽ.
 
 
 


 
 

 
 
 
 
Con đường (RUE trong bản đồ) là đường TỔNG THỨ, tên của ông Tổng LÊ QUANG THỨ, như Thầy Phan Thanh Sắc đã nêu ra trong bản tương phân của bà Huyện HUỲNH ĐÌNH NGƯƠN trong trang web "Gò Công ngày củ". Cuối đường có cây cầu. Đó là CẦU HUYỆN.
 
 


Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 26/Sep/2010 lúc 10:21pm
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 26/Sep/2010 lúc 3:34am
 
Eo ơi, bằng khoán này xưa quá ! rất quý , rất kỹ niệm cho Gia Tộc của anh LoCong15 , nhưng bây giờ còn giá trị chủ quyền của mình không ?(nếu gia đình chưa sang nhượng cho ai). Hay phải vẽ lại và làm bằng khoán khác ?.
Đường Tổng Thứ có phải nhà anh LC15 trên đường này ?  khu này có phải là "xóm Cầu Huyện dưới" hay không? vì trong bài viết của anh ThyLanThao, nhà anh LC15 ở xóm Cầu Huyện dưới .
Hồi nhỏ chắc anh LC15 có biết bao kỹ niệm nơi này. Kỹ niệm tuổi thơ bao giờ cũng đẹp. Anh LC15 kể đi Smile, hay sẽ kể trong Đặc San Xuân Tân Mão cũng được ! nhớ cho xem hình ngày xưa nữa nhe anh LC15 !
Đa tạ ,
mk
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 26/Sep/2010 lúc 5:02pm

~::Trích Dẫn nguyên văn từ lo cong

 
Như đã nói là chuyến về Gò Công vừa qua tôi đã gặp được nhiều cái hay. Cái hay nhứt là tôi tìm gặp giấy điền thổ xóm Cầu Huyện, chỗ ngày xưa tôi ở lúc còn nhỏ trước khi lên Saigon học trung hoc Pétrus . Bản đồ (plan cadastral) nầy làm năm 1882. Mời xem kỹ hình số 1 phía dưới, bên tay mặt.
 
 
                                                                   Hình 1
 
 
                                                   Hình 2
 
 
 
Hình số 2 chỉ rõ ràng là miếng đất nằm sát bờ rạch Cửa Khâu (kinh Salicetti). Sau đó Chánh phủ lấy phần đất chạy dọc theo bờ sông làm một con đường chạy ra đến cầu Quan. Đường đó ngày xưa không có tên. Chúng tôi kêu là đường "Mé sông". Sau đó có tên gì không nhớ nhưng tên khác với tên của khúc đường tiếp đó chạy ra chợ Gò Công. Hiện nay đường nầy tên là Hai Bà Trưng. Thầy Nguyễn văn Ba (anh của Thy Lan Thảo) hiện đang ở trên đường nầy. Ngày tôi còn đi học tiểu học ở Gò Công có Thầy Huệ có cô con gái tên Bạch Liên ở trên đường đó. Cô nầy lúc đó đi học bằng xe đạp mỗi ngày.
Cái cầu trong hình 2 sau được mở rộng ra trong phần đất để trở thành CẦU HUYỆN.
Con đường (được chú thích trong hình là RUE) cũng được nới rộng vào phần đất và trở thành đường TỔNG THỨ (bây giờ là Nguyễn Huệ).
Con kinh Salicetti, lúc tôi còn ở Gò Công thì bị chận ra, lấy một khúc làm hồ tắm (piscine), trước trường Quan (tiểu học nam). Năm 1948 cầu Huyện bị đốt, không được sửa lại mà bị lấp làm cống. Bây giờ thì lấp hết từ đó ra đến sau chợ. Chỉ phía đầu kia con kinh là còn nước thôi.
Đó là lịch sử Cầu Huyện theo tôi biết.
 
 




http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=1670
mk
IP IP Logged
lo cong
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 30/Oct/2007
Đến từ: Canada
Thành viên: OffLine
Số bài: 2596
Quote lo cong Replybullet Gởi ngày: 26/Sep/2010 lúc 10:39pm
~::Trích Dẫn nguyên văn từ mykieu:
 
 
 
Eo ơi, bằng khoán này xưa quá ! rất quý , rất kỹ niệm cho Gia Tộc của anh LoCong15 , nhưng bây giờ còn giá trị chủ quyền của mình không ?(nếu gia đình chưa sang nhượng cho ai). Hay phải vẽ lại và làm bằng khoán khác ?.
Đường Tổng Thứ có phải nhà anh LC15 trên đường này ?  khu này có phải là "xóm Cầu Huyện dưới" hay không? vì trong bài viết của anh ThyLanThao, nhà anh LC15 ở xóm Cầu Huyện dưới .
Hồi nhỏ chắc anh LC15 có biết bao kỹ niệm nơi này. Kỹ niệm tuổi thơ bao giờ cũng đẹp. Anh LC15 kể đi Smile, hay sẽ kể trong Đặc San Xuân Tân Mão cũng được ! nhớ cho xem hình ngày xưa nữa nhe anh LC15 !
Đa tạ ,
mk
 
Ngày xưa có 2 nhà lớn (ba căn hai chái). Bây giờ không còn nữa!
Đúng rồi, ngày hồi nhỏ tôi ở nhà đường Tổng Thứ sát bờ sông trước khi chánh phủ phóng con đường "mé sông" dọc theo con kinh Salicetti ra đến nhà Bà Phước. Tuy nhiên bờ sông vẫn còn của chúng tôi nên có xuồng đậu được. Từ đó, nhiều lần, tôi cùng với vài bạn khác chèo xuồng từ đó lên đến Cầu Đúc trên (bây giờ là cầu Huyện Chi) để thăm chị Mười Bốn tôi, lúc đó ở với Dì Bảy tôi cũng sát bờ sông bên đó, trước mặt nhà máy xay lúa của ông Trần Công Đán. Có một lần có Mặc Thủy đi chung nữa. 
Trong miếng đất có một con rạch chạy từ sông vô phía sau 2 nhà chúng tôi. Con rạch được chận lại làm 4 cái "đìa" để nuôi cá. Mấy cái ao nầy có ống cống cho nước từ sông vào ra. Lúc nước lớn cá từ sông vào. Chúng tôi làm mấy cái hầm để cho cá nhảy vào rồi bắt ăn. Vui lắm !!!
 
 


Chỉnh sửa lại bởi lo cong - 26/Sep/2010 lúc 11:14pm
Lộ Công Mười Lăm
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 27/Sep/2010 lúc 3:18am
 
~::Trích Dẫn nguyên văn từ lo cong


 
nhiều lần, tôi cùng với vài bạn khác chèo xuồng từ đó lên đến Cầu Đúc trên (bây giờ là cầu Huyện Chi) để thăm chị Mười Bốn tôi, lúc đó ở với Dì Bảy tôi cũng sát bờ sông bên đó, trước mặt nhà máy xay lúa của ông Trần Công Đán. Có một lần có Mặc Thủy đi chung nữa. 
Trong miếng đất có một con rạch chạy từ sông vô phía sau 2 nhà chúng tôi. Con rạch được chận lại làm 4 cái "đìa" để nuôi cá. Mấy cái ao nầy có ống cống cho nước từ sông vào ra. Lúc nước lớn cá từ sông vào. Chúng tôi làm mấy cái hầm để cho cá nhảy vào rồi bắt ăn. Vui lắm !!!
 
 




 
 
 
 
Photobucket 
 
 
Photobucket 
 
 
 
 
 
 


Chỉnh sửa lại bởi mykieu - 06/Nov/2011 lúc 4:43pm
mk
IP IP Logged
mykieu
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 10/Jun/2009
Thành viên: OffLine
Số bài: 3471
Quote mykieu Replybullet Gởi ngày: 06/Nov/2011 lúc 4:48pm


                EM  DỄ  THƯƠNG
                               * * *
Con sông nào tuổi nhỏ
Dồn kỷ niệm tràn bờ
Đất đá còn nguyên đó
Chỉ tại mây hững hờ !
 
Con đường trầy trụa đá
Đếm từng bước chân qua
Dấu chân nào em bước
Xóa vết đời xót xa...
 
Gió đùa sóng gợn nhẹ
Tà lụa trắng bay bay
Còn đâu mùa xuân trẻ
Dáng Cầu Huyện thương hoài.!
 
Từng gốc me bụi chuối
Hàng rào bông bụp thưa
Kỷ niệm dồn dập tới
Ướt sủng lòng gió mưa...
 
Em ngày xưa lụa trắng
Guốc vong gỏ nhịp đời
Ảnh hình đâu dễ mất
Ta nhớ mãi giọng cười ...
 
Nắng trưa hồng đôi má
Bụi tan trường quyện bay
Người dưng quen hay lạ
Đêm ngủ nhớ thương hoài ...
 
Hình như đời trả giá
Đã qua tuổi trăng tròn
Bao năm đời mặc cả
Tìm mãi vết cũ mòn !
 
Sông xưa thành mương cạn
Cầu Huyện ai nhớ cầu
Áo lụa xưa màu trắng
Sắc trắng đã úa màu.
 
Chỉ còn trong ý nhớ
Em yêu kiều dễ thương!!

            thylanthảo


mk
IP IP Logged
Trang  of 2 phần sau >>
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.203 seconds.