Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn  
Message Icon Chủ đề: TRUYỆN HAY CHỌN LỌC Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 202
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23897
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 13/Aug/2025 lúc 9:26am

Chuyện Giả Tưởng 

Hình minh hoạ

(Đây là một chuyện giả tưởng. Viết dưới dạng …kiếm hiệp để thấy cái chất hoàn toàn giả tưởng của nó. Vậy, nếu có trùng hợp với ngoài đời là sự ngẫu nhiên ngoài ý muốn của tác giả). 

…Gã tên là Nguyễn Văn Mít (Tên giả đó. Sau này, trong khi tung hoành trên chốn giang hồ, gã còn thay tên đổi họ… lia chia để đánh lạc hướng kẻ địch. Cho nên, cả hai phía hắc bạch chẳng biết đâu mà mò !) Người ta truyền tụng rằng gã thuộc dòng dõi mấy đời khoa bảng, chớ thật ra ông nội của gã là nhà nông. Điều này giải thích tại sao gã sanh ra đã biết căm thù địa chủ. Sự căm thù đó thể hiện qua lập luận rất tà giáo sau đây : tất cả những thằng có ruộng đều là địa chủ, mà hễ là địa chủ là phải ác ôn, tất cả những người làm ruộng đều là bần nông, mà hễ là bần nông thì phải thay trâu để cày bừa. Cái lý luận của Mít đưa đến khẳng định : để không còn có người bóc lột người, phải lôi bọn địa chủ – lớn nhỏ hầm-bà-lằng – xuống làm bần nông hết (Sau này, khi Mít đã gồm thâu một phần thiên hạ và lên làm minh chủ võ lâm, hắn đã áp dụng " chiêu số đấu tố địa chủ " một cách bừa bãi, giết hại không biết bao nhiêu sanh linh thuộc cả hai phe hắc bạch, gây sóng gió trên chốn giang hồ một dạo !) Mặc dầu có gốc nhà nông nhưng Nguyễn văn Mít lại không thích làm ruộng. Gã lý luận : tại vì mình làm ruộng mới sanh ra giới địa chủ. Và gã cũng không thích đi học, bởi vì nhà trường đẻ ra trí-thức, trí-thức đẻ ra bất công ( Mấy thằng có chút chữ nghĩa lúc nào mà không ăn trên ngồi trốc?) bất công đẻ ra bè phái, bè phái đẻ ra…v.v. Cho nên sau khi biết đọc biết viết sơ sơ, gã bỏ đi " giang hồ tầm sư học đạo " để thực hiện cái mộng của hắn : làm bá chủ võ lâm ! (Bàn về trí thức, giáo chủ Bắc phái – một hệ phái hắc đạo lừng danh giang hồ – đã tuyên bố một câu…xanh dờn : " Trí thức không bằng một cục phân ". Thật đúng với tư tưởng của Mít ta. Cho nên sau này Mít đã tìm đến thọ giáo với vị giáo chủ đó hết một thời gian, học được những quái chiêu vô cùng tàn khốc. Như chiêu " trăm hoa đua nở ", khi phát chiêu người nghiêng nghiêng như cành liễu đong đưa, hai tay dang ra như đón chào, từ lòng bàn tay chưởng phong tuông ra thật nhẹ nhàn mang theo mùi thơm ngọt ngào mời mọc như mùi rượu " trúc diệp thanh "…làm địch thủ ngất ngây, nhắm mắt bước vào vòng chưởng lực ! Ghê gớm vậy đó !) 


Một hôm, Nguyễn văn Mít dừng chân ở một quán nước nằm cạnh bìa rừng. Trong khi xì xụp húp tô nước vối nóng hổi, gã nghe (Cái… nghề nghe lén này, gã là số một !) hai tên có vẻ đạo tặc ngồi ở bàn bên to nhỏ mà tay vẫn không rời đốc kiếm : - Đại huynh liệu đến chùa Thiếu Lâm có biết đường dẫn tới Tàng Kinh Các không ? - Ta đã có mang theo sơ đồ, ngươi yên tâm. Ta chỉ cần ngươi nhanh tay hạ thủ mấy tên sư đứng gác quanh đó. Còn bên trong ta sẽ lo liệu. - Nghe nói ở đó chứa rất nhiều võ công bí kíp lưu truyền tồn trữ từ mấy mươi đời. Người giang hồ nói chỉ cần học được một pho thôi cũng đủ làm cho bốn phương cao thủ võ lâm nể mặt. - Ngươi nói đúng. Nhưng mà… Tên này bỗng liếc sang Mít, làm tô nước vối trong tay của gã xuýt rơi xuống bàn. Mít vội vã húp lia húp lịa không kịp thổi (Mới ra giang hồ, còn kém bản lãnh là cái chắc !) Tên " đại huynh " đứng lên : - Ta đi thôi ! Đường còn xa. Rồi cả hai khoác bọc hành lý, bước ra khỏi quán. Đợi cho chúng đi một đỗi, Mít trả tiền rồi cấp mã-tấu lẽo đẽo theo sau. Vừa đi vừa suy nghĩ : " Mình muốn tầm sư học đạo mà thiên địa mênh mông biết sư ở mô ? Thời may gặp hai tên này gợi ý cho mình lên chùa Thiếu Lâm thọ giáo. Kệ nó ! Mình cứ tạm cạo đầu làm sư làm tiểu một thời gian rồi sau đó xuống núi mặc tình mà tung hoành ". Rồi gã lại suy nghĩ : " Mà mình phải thủ tiêu hai tên đạo tặc này mới được. Kẻo chúng nó lên… làm rùm trên đó thì sức mấy mà mấy thằng trọc không nghi mình nằm vùng ? " ( Xưa nay, Mít thù địa chủ, ghét trí thức, và không ưa thầy tu. Cho nên mới gọi ông sư là " thằng trọc ". Mít lý luận : " Bọn này là bọn đứng ở kẽ giữa, nghĩa là không theo phe nào hết. Vậy là không theo phe ta. Phải xem chúng như thành phần nguy hiểm " ) Nghĩ đến đó – đến hành động thủ tiêu hai tên đi phía trước – Mít hâm hở cầm chắc mã tấu, nín thở nhón chân chạy theo. Gã định từ phía sau " phụp " cho mỗi đứa một phát ( Cái trò… đánh lén hạ cấp này cũng là " nghề " của gã, bởi vì gã chủ trương " mọi " phương tiện đều tốt, quân tử tiểu nhân là cái… khỉ gì ?") Chưa kịp ra tay, gã đã nghĩ lại : " Chúng nó hai thằng. Mình mới phụp thằng đầu thì thằng kia đã phụp lại mình rồi. Không ổn ! Không ổn ! " Vậy là gã dừng lại, núp sau góc cây, tìm một phương kế khác. 


Vốn tánh khôn ranh xảo quyệt, nên chỉ cần vài phút sau là gã đã nghĩ ra một quỷ kế để đưa gã vào làm đệ tử Thiếu Lâm mà không tốn công sức và …nước bọt để xin xỏ, lại còn được lòng tin cẩn của các " sư tiền bối " nữa là khác ! Quỷ kế đó như sau : xin cùng đi với hai tên kia cho có bạn trên đường dài ; trong khi chuyện trò, mình thổ lộ tâm tình rằng thì là mình chán mùi tục lụy nên muốn lên chùa Thiếu Lâm để qui y đầu Phật (Thế nào chúng nó cũng nói rằng chúng nó cũng muốn lên xem thắng cảnh ở trên đó ! ) ; lần hồi mình làm thân với chúng nó để đánh tan mọi nghi kỵ ngờ vực ; đến chùa, mình lạy xin qui y, nhưng…" bỏ nhỏ " với mấy sư rằng bọn nó có gian ý, bằng cớ là trong người thằng "đại huynh" có tấm sơ đồ để xâm nhập Tàng Kinh Các …


Thế là xong chuyện ! Vậy mà xong chuyện thật ! Nguyễn văn Mít đã được một vị sư chùa Thiếu Lâm nhận làm đệ tử ( Đời thứ mấy gã cốc cần biết ). Hằng ngày, ngoài việc tập luyện võ nghệ, gã phải nấu nước pha trà và quét dọn chánh điện. Mới đầu gã thấy thích thú. Nhưng sau một tuần trăng gã bắt đầu càu nhàu :" Bắt trèo lên tuột xuống lau chùi mấy tượng phật muốn …hộc xì dầu mà chỉ mới dạy đứng trung bình tấn và thở khí công. Cứ đà này thì còn lâu mình mới thành cao thủ ". Một hôm, gã bỗng nhớ lại câu chuyện của hai tên đạo tặc định đột nhập Tàng Kinh Các. Rồi gã suy nghĩ : " Tại sao mình không lén vào đó …'chơm' đại một pho rồi tuột xuống núi chạy về xứ ? Học thẳng trong sách có phải nhanh hơn không ? " Lại suy nghĩ : " Tàng Kinh Các thì mình biết ở đâu rồi. Nhưng muốn vào đó không phải dễ ? Phải qua hai thằng trọc ngồi ngay cửa vào và tránh mấy thằng khác đi tuần rỏn chung quanh. Mặc dù mình được các sư tin cẩn, nhưng không có lý do mà đi lẩn quẩn gần đó chúng nó cũng sanh nghi. Phải đẻ ra một cái cớ, hay đợi một cơ hội...". 


Mấy hôm sau, cơ hội đã đến với Mít : chú tiểu quét dọn Tàng Kinh Các ngã bịnh, Mít ta – người đã được phương trượng gọi là " cứu tinh của Thiếu Lâm Tự " sau vụ tố cáo hai tên gian tặc – được cắt đi thay thế. Được lịnh, lòng Mít như …mở cờ, nhưng ngoài mặt thì cứ tỉnh bơ như chẳng có chuyện gì quan trọng (Đây cũng là điểm cốt cán của con người Mít : nhìn bên ngoài ít ai đoán đúng trạng thái ở bên trong. Cho nên sau này, trong những kỳ đại hội quần hùng, biết bao nhiêu cao thủ võ lâm đã lầm Mít. Họ đã ôm hun Mít – hồi này đã đổi tên là Xoài – " thấm thiết tình huynh đệ chi giao " để rồi ít lâu sau tử vong trong chưởng phong của gã ! ) Vậy là sáng bữa đó, Mít – mặt hiền như bụt – cấp chổi cầm khăn vào Tàng Kinh Các. Sau khi kính cẩn châm trà cho vị sư già đang ngồi đọc sách trên bồ đoàn đặt ngay giữa đại sảnh, Mít lui cui quét dọn lau chùi, miệng như lâm râm niệm Phật mà mắt thì …láu liên. Gian phòng này không rộng bao nhiêu, nhưng sách nằm trên kệ thì đầy tường. Ngoài ra, còn nhiều ngã vào bên trong nhưng bị đóng lại bằng những cánh cửa to có khoá. Mít nghĩ : " Mẹ nó ! Biết quyển nào mà lấy !" Nhưng khi nhớ lại những gì đã nghe lén ở quán nước, gã tự nhủ : " Quyển nào mà chẳng dạy võ công. Cứ xem pho nào vừa …tầm tay mà cũng đừng to quá để lận lưng không thấy cộm … là đớp." Thế là sau khi để ý đến một quyển kinh đúng … tiêu chuẩn gã cứ lau đi lau lại vòng vòng để … rình " thằng trọc " ngồi kia. Lâu sau, vị sư già – chừng như mỏi mệt – chấp tay nhắm mắt. Đợi một lúc, gã khúm núm thưa nhỏ : " Bạch sư cụ … " Gã … bạch mấy lần mà sư ông vẫn làm thinh. Gã mừng rỡ … phóng lại chỗ để cái khăn lau làm dấu khi nãy, rút lấy quyển kinh nhét lẹ vào lưng. Nhìn lại sư cụ thấy vẫn chấp tay nhắm mắt thở đều. Gã từ tốn cấp chổi cầm khăn nhẹ nhàng đi ra mà nghe trong lòng đang … thổi kèn đánh trống ! 


Đêm đó, gã " tuột " xuống núi, không quên mò lại kẹt đá lấy thanh mã tấu mà gã đã cất giấu trước lúc gã lên chùa xuống tóc qui y ( Hành động của gã ở chùa Thiếu Lâm – gọi nôm na là lừa thầy phản bạn – người trên chốn giang hồ chẳng ai hay biết. Các nhà sư được lịnh nín khe. Có lẽ sợ mất mặt. Mãi về sau này, một vị sư … phản tỉnh đã " xì " ra, nhưng lúc đó Mít – đổi tên là Hà văn Ổi – đã là giáo chủ của một môn phái, nên … hồ sơ được xếp vào văn khố ! ) Xuống núi, sau khi chạy đến tờ mờ sáng thấy đã khá xa, Mít lủi đại vào một bìa rừng núp xem động tĩnh. Thấy êm rơ nên gã bèn trèo lên một cành cây to rút quyển sách ra coi. Quyển sách đó đã bị mọt ăn mất trang bìa và mấy trang đầu. Bên trong cũng bị lủng rất nhiều lỗ nhưng vẫn còn nhiều chữ và hình vẽ. Gã sung sướng quên cả mệt nhọc, nhét quyển sách vào ngực, tựa lưng vào thân cây suy nghĩ miên man : " Vậy là chẳng mấy chốc mình sẽ thành cao thủ. Phải là cao thủ mới lập ra môn phái, mới chế ngự được quần hùng, mới gồm thâu được thiên hạ, mới thanh toán hết địa chủ, mới đè đầu được lũ trí thức, mới nắm cổ mấy thằng trọc, mới … mới … " Rồi gã ngủ thiếp đi … ngon lành ! 


Vậy là trên đường về xứ – bây giờ gã đã đổi tên là Lý văn Xoài – mỗi ngày Mít ( Xin lỗi. Tôi vẫn phải dùng tên Mít để độc giả dễ dàng theo dõi câu chuyện, kẻo không, sẽ không còn biết ai là ai nữa ! ) trốn vào một nơi vắng vẻ mở sách ra học. Mới đầu còn hơi khó hiểu, khó làm. Thêm phần sách bị mọt đục nên phải khổ công mò mẫm. Nhưng nhờ mấy chương đầu còn nhiều hình vẽ với những mũi tên chỉ dẫn nên lần lần gã cũng hấp thụ được. Nội công của gã càng ngày càng thâm hậu, và gã đã có thể đào khoét sâu dưới đất một cái hang có ngõ vào được bít lại, rồi gã nằm dưới đó mấy hôm mà không … chết ! ( Sau này, trong công tác nghiên cứu các tuyệt kỹ võ lâm, ngài KuBa-Móp của xứ Nga-la-tư có đặt giả thuyết rằng gã đã ngậm mấy viên nhựa … á phiện để chịu đựng. Giả thuyết chưa được kiểm chứng nhưng vẫn … lưu hồ sơ ! ) 


Khi về đến xứ thì gã đã có thể phóng mã tấu mà không nghe … tiếng gió ( thế mới chém lén kẻ địch được ! ) và trong bóng tối gã vẫn xuất chiêu trúng đích dễ dàng (thế mới là … hắc đạo !) Có điều là những chiêu thức của gã phần nhiều thật quái dị. Lý do là khi đọc tới những hàng chữ bị mọt ăn mất gã cứ … ráp đại những hàng chữ còn lại với nhau cho nó … xong chuyện ! Ví dụ như khi gã học chiêu " Đao thức trực chiếu ", trong sách có mấy dòng chữ bị mọt đục, gã đành đọc " nhảy " nên khi phát chiêu, đường mã tấu lại đi … cong cong chớ không đi thẳng ! Ngay như chiêu " Chẻ trúc ", rất tầm thường mà trên giang hồ ai ai cũng biết, đường mã tấu của gã đang đi xuống bỗng dừng lại – chỗ này sách bị mọt đục – rồi rút về như thâu thức – lại mọt đục mất mấy hàng – chợt lại … chém tiếp, chém tiếp ! Cho nên cao thủ võ lâm chỉ thấy ở gã toàn là quái chiêu thôi ( Vài chục năm sau, chính những chiêu thức " không giống ai " đó đã làm cho mấy " đại cao thủ " của xứ Đại Hùng Kê và xứ Đại Bàng bị thân bại danh liệt ) 


Về xứ, gã rút vào một cái hang đá ở vùng cao nguyên để tiếp tục luyện tập võ công. Lâu lâu, gã … xuất hang để " tiếu ngạo giang hồ ", thâu nạp đồ đệ và để kết giao với các giáo phái khác hầu có thêm vây cánh. Hồi này, quê hương của gã vẫn bị thống trị bởi xứ Đại Hùng Kê, cho nên gã dùng chiêu bài " cứu quốc " để quy tụ quần hùng, bởi vì gã biết rằng ai ai cũng muốn " viết lại trang lịch sử " giống như phong trào " Phản Thanh phục Minh " ở bên Tàu thuở trước. Trong thâm tâm của gã muốn mượn tay quần hùng để diệt bọn Đại Hùng Kê, rồi sau đó gã sẽ chế ngự quần hùng để gã lên làm võ lâm bá chủ là cái mộng của gã xưa nay ! Về phía quần hùng thì họ xem Nguyễn văn Mít tức là Xoài ( Nhưng bây giờ đã đổi tên là Hà văn Ổi ) như một nhân vật có khả năng liên kết tất cả các phe hắc bạch, bởi vì sau mấy lần luận kiếm, họ nhận thấy đường … mã tấu của gã không thuộc một môn phái nào cả ( Cái thế " vô sư môn " của gã hoá giải mọi tranh chấp phe phái vốn dĩ là nguồn chia rẽ xưa nay của giới võ lâm). Vậy là toàn thể quần hùng nhất tề " đứng lên cứu nước " dưới sự lãnh đạo của Mít ( tức là Hà văn Ổi ). Quyển bí kíp bị mọt đục vậy mà đã giúp gã " làm nên sự nghiệp ". 


Trở lại chuyện luyện tập võ công của Mít – ở trong hang, dĩ nhiên – gã tuyên bố với đệ tử và quần hùng rằng ở hang để đừng bị ràng buộc bởi vật chất xa hoa và gã ở một mình để dễ tập trung tư tưởng ngày đêm tìm đường cứu nước. Vậy là mọi người rút lui êm lặng mà lòng thán phục con người đã quá hy sinh vì đại nghĩa đó ! Chẳng ai biết rằng gã đang cố gắng học cho chóng hết quyển bí kíp võ công đó để còn tiêu hủy nó đi hầu xoá tan dấu vết. Gã còn nghĩ : " Ngày nào mà quyển bí kíp còn, là ngày đó sanh mạng của mình vẫn không yên. Sẽ có những thằng khốn nạn tìm cách giết mình để cướp bí kíp. Hoặc sẽ có những thằng mất dạy lén ăn cắp trong lúc mình sơ hở. Loại đệ tử phản thầy thời nào mà không có ? Nguy hiểm ! Nguy hiểm ! Sách mà lọt vào tay chúng thì thế giới này sẽ … loạn tới đâu ? ". ( Phải lý luận như thế mới là … đỉnh cao trí tuệ ! Điều gì " ta " làm, cái gì của " ta ", hay … lấy về cho " ta " đều đúng đều tốt, đều có chánh nghĩa. Còn những gì " của lũ chúng nó " đều sai, đều xấu, đều ngụy hoàn toàn ! ) 


Thấm thoát mà Mít đã học gần hết quyển sách. Bây giờ nội lực gã rất thâm hậu, võ công gã đã vào mức thượng thừa. Mỗi chiêu phát ra là cả mười hai thành công lực đẩy tới ! Từ xa, gã có thể phá sập một nhịp cầu đúc hay đánh lật một đoàn xe lửa nặng cả ngàn tấn mà chỉ sử dụng công lực của … một ngón tay ấn xuống cái nút đỏ ! (Ngày xưa, Đoàn Nam Đế bên Tàu có môn " nhứt dương chỉ " lừng danh giang hồ, nhưng so với môn " độc chỉ công " này của gã thì chẳng thấm vào đâu cả ). Còn " thần sầu quỷ khóc " hơn nữa là gã chỉ cần dang hai tay … hốt một cái là " cát bay đá chạy, nhà sập cây ngã ". Môn này gọi là " Bình địa thức ", là môn mà gã thường dùng nhứt để đánh dấu nơi nào gã đã đi qua… Hôm nay, gã dứt điểm quyển bí kíp. Chiêu thức cuối cùng này, bởi vì gã đã vượt mức thượng thừa, chỉ cần đọc đến đâu là tự nhiên tâm ý phát huy đến đó. Hai tay gã đưa tới đưa lui càng lúc càng nhanh. Chưởng phong nghe o o … Vách đá bốn bên và trên trần bể vụn ra nhỏ, rơi rào rào … Gã chấp tay thâu thức, trầm khí đan điền, rồi vừa cười to vừa hét lớn : " Ha ! Ha ! Ta đã thành công ! Ta đã thành công !" Tiếng của gã dội trong vách đá, nghe vang vang tiếp nối một cách thật là ma quái… Gã cầm quyển sách lên, vừa lật nhanh mấy trang mới học xong vừa suy nghĩ : " Từ quyển sách nhỏ này ta sẽ tạo nên một môn phái vĩ-đại !" Bỗng gã thấy ở trang cuối có mấy dòng chữ nhỏ. Gã đưa lên đọc : " Đến đây là hết quyển Thượng dạy về môn Đả Phá. Xin đọc tiếp quyển Hạ dạy về môn Xây Dựng để phát huy toàn bộ pho võ thuật Thái Bình Thư này ". Gã ngạc nhiên thốt : " 

Thì ra còn một quyển nữa mà ta không biết. Tiên sư nó ! " Suy nghĩ một lúc, gã bỗng cười khẩy : " Xây dựng là cái khỉ gì mà mấy thằng trọc vẽ vời ? Với công lực thiên hạ vô địch của ta, chuyện di sơn đảo hải ta còn làm được thì chuyện gì mà ta không làm được ? " Rồi gã cười to ngạo nghễ, đập hai bàn tay vào nhau : quyển sách tan thành mảnh vụn… 


Thời gian sau, Mít tái xuất giang hồ với cái tên mới là Hà Văn Ổi, lập môn phái Hồng Kỳ giáo thâu nhận đệ tử, chiêu dụ quần hùng, đánh đuổi bọn bạch chủng Tây Vực, gồm thâu thiên hạ rồi lên làm võ lâm chí tôn với khẩu hiệu " Muôn năm truờng trị "… Rồi ba mươi năm sau… Thanh mã tấu " trấn giáo " của Nguyễn Văn Mít ( tức Xoài, tức Ổi… ) đã truyền qua mấy đời chưởng môn. Vị nào cũng là " đại cao thủ ", nhưng không có vị nào đẻ ra được môn võ công mà giới giang hồ gọi nôm na là " Xây Dựng ". Cho nên, Hồng Kỳ giáo chỉ biết có " Đả Phá " dài dài…  


Tiểu Tử

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: Online
Số bài: 23897
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 12:41pm

Bần Xanh


Ông Chín Khởi đặt tách trà hột keo vừa mới uống vài ngụm xuống bàn, khoác vào người chiếc áo sơ mi dày đã sờn rách vài chỗ được bà Chín vá lại rất khéo. Thân hình lão ngư rắn rỏi, sạm đen với tiếng cười nói rổn rảng của dân miền biển làm ông có vẻ trẻ hơn nhiều so với tuổi ngoài 60. Ông kiểm lại lần nữa những vật dụng bất ly thân trong mỗi chuyến ra khơi đựng trong cái thùng thiếc có nắp đậy và có cột dây đeo. Cái thùng này vốn trước kia là thùng đựng dầu của hãng con sò đã theo ông từ hồi mới bắt đầu đi biển, nó có thể trở thành cái phao cứu sinh khi cần thiết.

Trong rất ít đồ đạc mang theo khi đi biển, cái mà ngư dân đóng đáy quan tâm bậc nhất, đó là con dao xếp bén ngót có dây để mang vào cổ. Giữa biển cả mênh mông, những miệng đáy vô tri giăng thành hàng không hề phân biệt được cá tôm hay ngư phủ, nếu lỡ sút tay trợt chân rơi xuống dưới rượng đáy, chỉ cần nước biển xiết dòng chứ chưa nói tới phong ba bão tố thì đã bị cuốn hút vào miệng đáy không có đường ra. Lúc đó trong bụng lưới dưới lòng đại dương sâu thẳm chỉ còn con dao đeo trước ngực là có thể cứu sống ngư dân bằng cách rạch lưới bơi ra, nếu không thì chỉ còn ngàn thu vĩnh biệt!

Lâu lâu vào cuối mỗi con nước khi tàu thuyền cập bến khoảng giữa đêm hay rạng sáng, lẫn trong tiếng rộn rạo, lao xao của người về kẻ đón, thi thoảng vẫn nghe tiếng khóc đàn bà bật lên nghe thắt ngực, đứng tim. Rồi một thi thể bợt bạt, cong queo nằm trên tay lưới khiêng ngang xóm đáy, vậy là con nước tới vắng một người bươn bả ra khơi để đem về cho vợ con chén cơm manh áo. Nhiều người ở vùng biển này cho rằng không có lời thề nào nghiêm trọng, linh thiêng hơn lời thề “chun đáy”, kế đó là “sập đáy”!

Ông Chín cẩn thận quấn dây chung quanh con dao xếp, ông sẽ đeo nó trước khi bước lên chòi đáy, chuẩn bị găm hoặc thu lưới, di chuyển trên những sợi dây chão lúc căng lúc chùng theo hàng cột đáy trụ giữa đầu sóng ngọn gió, nơi giao thoa giữa sông và biển. Nơi đó con người thật vô cùng nhỏ bé, lại bám víu vào một thứ cũng nhỏ bé mong manh không kém trước đại dương, đó là những rượng đáy hàng khơi xa thẳm với cái chòi canh treo trên cột đáy cheo leo.

Ông Chín uống cạn tách trà đã nguội, đi chân không rời khỏi nhà, ghe đáy đang đợi ông ngoài cảng cá để bắt đầu chuyến ra khơi cách bờ gần 20 hải lý.

Hai vợ chồng ông chín Khởi có cả thảy 5 người con, đứa đầu là thằng Hai Soài, đứa kế là thằng Ba Rạp, kế nữa là thằng Tư Láng, hai đứa con gái là Năm Lanh và Sáu Quanh. Cả gia đình sống trong một cái nhà lá ở tận Cống số 0, nơi giáp ranh với rừng đước bạt ngàn của xã Kiểng Đôi.

Sau khi lập gia đình, thằng con trai lớn đã cùng vợ đi bỏ mối tôm cá khô từ Kiểng Đôi lên Chợ Lớn rồi lập nghiệp luôn trên đó. Thằng Ba cũng vậy, bỏ nghề biển về quê vợ miền nước ngọt trồng vườn cây ăn trái, lâu lâu chúng nó đưa mấy đứa cháu nội về thăm, vợ chồng ông Chín cũng mừng khi thấy các con đều làm ăn khấm khá mà quên mất đã giận chúng nó bỏ nghề hạ bạc vì sợ hậu quả “nhất phá sơn lâm, nhị đâm hà bá”.

- Đó, ba thấy không, nhà mình theo nghề biển mấy chục năm nay mà cứ phải ở trong cái nhà lá này, tụi con thì dốt nát, ba má thì cơ cực cả đời...

Đó là lời cay tiếng đắng của thằng Soài khi vợ chồng nó quyết định rời xứ Kiểng Đôi. Không phải là ông Chín không biết điều đó, nhiều đêm nằm trằn trọc trong chòi đáy ở xa tít ngoài khơi, chung quanh chỉ có tiếng sóng vỗ và tiếng kẽo kẹt của giàn dây chão giữa biển cả mênh mông, ông đã không nén được tiếng thở dài não nuột. Phải, ba đời nhà ông đều theo nghề đáy sông Cầu, biết bao nhiêu gian nan nguy hiểm, đem sinh mạng phó thác cho thủy thần mà chưa ai dựng nổi một miệng đáy để nuôi vợ con. Nhưng nếu buông cái nghề này ra thì biết làm gì bây giờ, hơn nữa ông đã gắn bó với nó gần hết đời người, những khi nằm bờ vì mãn con nước hay vì biển động ông nhớ biển nhớ chòi đến thẫn thờ.

Thôi thì phận ai nấy giữ, cũng mong cho con cái đổi đời miễn đừng đứa nào quên quê hương xứ sở, quên biển cội sông nguồn. Nói cho cùng, chúng nó rời quê hương đi xứ khác mưu sinh thì cũng giống như con rạch Cần Lộc đổ ra sông Soài Rạp rồi băng mình ra biển Đông vậy thôi! Dòng chảy đó vơi đầy theo từng con nước đã đem về nguồn lợi dồi dào cho người dân xứ biển, tạo công ăn việc làm cho biết bao người trong cái xã Kiểng Đôi này.

Năm con Lanh 18 tuổi,ông bà Chín gả nó cho con trai của một nhà có tới mười mấy miệng đáy bên Bình Đại. Họ sang thêm hàng đáy gần bên chủ ông Chín, rồi vài xị đế với con cá nhám tươi rói làm bữa tả-pín-lù trên cái chòi canh lộng gió là coi như duyên phận của hai đứa nhỏ đã được định đoạt!

Từ đó nhà chỉ còn hai vợ chồng ông và thằng Láng với con Quanh. Ông thì vẫn bán mình cho biển, bà thì đầu tắt mặt tối làm mướn khắp nơi, hai đứa nhỏ vẫn còn đang tuổi ăn tuổi lớn.

***

Con nước này thật kỳ lạ, bà Chín lầu bầu với thằng Láng lúc ngồi đập vỏ sắn ngâm lưới cho chủ đáy, mấy lần bà đã sơ ý tự đập vào tay mình đau điếng. Con nước gì mà đổ đục toàn sứa với cá nóc, lâu lâu lộn vô vài con ốc, con đẻng, mấy trái bần sâu, còn tệ hơn những con nước mùa gió chướng khiến chủ đáy rầu thúi ruột, làm bà Chín cũng buồn lây. Biển thất, tiền công chẳng bao nhiêu, vậy là chuyến này ông Chín không thực hiện được lời hứa lợp lại cái nhà cho vợ con trước mùa mưa.

Đêm về hai cánh tay mỏi nhừ, bà Chín nhờ con Quanh xoa dầu nãy giờ vẫn không thấy bớt. Áng chừng hai anh em nó đã ngủ say, bà nhẹ nhàng mở cửa bước ra vặn sáng ngọn đèn bão treo trước cửa. Nhìn ngọn đèn bà liên tưởng đến ngọn đèn hắt hiu ngoài biển trên chòi canh của ông Chín mà thấy chạnh lòng. Đợt này về bà sẽ khuyên ông nghỉ đi chòi, già rồi mà phải thức khuya dậy sớm để canh con nước, rồi giặt lưới, phơi lưới..., đêm hôm sóng to gió lớn ngoài biển biết bao nguy hiểm chực chờ. Ở trên bờ thiếu gì việc làm vừa sức ông, còn có thằng Láng đỡ đần lo gì thiếu đói (bà nghĩ vậy nhưng chắc gì ông đã chịu nghe)!

Bà Chín cứ đi tới đi lui ngoài hàng ba, gió giờ này rồi mà vẫn còn cố mang cho hết hơi nóng của một ngày biển thổi ập vào người như rang tép, như sấy mực, bà thấy bứt rứt gì đâu!

Vô nhà nằm lăn qua lăn lại vẫn không thể nào chợp mắt, đâu chừng quá nửa đêm bà Chín hốt hoảng ngồi dậy lao ra cửa khi nghe tiếng gọi thất thanh của vợ thằng Siêm trong xóm:

- Bác Chín ơi! Bác Chín!

Tiếp đó là tiếng lao xao, rầm rì của nhóm người theo sau một cái võng lưới, trên đó bà nhận ra ngay ông Chín bởi cái ống quần nhuộm sắn quen thuộc. Bà điếng hồn lao tới, hai người khiêng võng vẻ mặt buồn bã lẳng lặng đưa ông Chín vào trong nhà, đặt ông nằm trên cái giường tre, sửa lại cái mền chỉ đắp trên người ông từ cổ xuống kín hai bàn chân, trên mặt ông ai đó đã phủ lên một tấm giấy điều đỏ thẫm.

Tiếng kêu khóc của hai anh em thằng Láng bật lên thảm thiết, bà Chín như một người đang mộng du vẫn không tin chồng mình đã chết. Bàn tay run rẩy của bà giở tấm giấy điều như giở bỏ một tấm màn đen tối mong thấy lại hình ảnh an lành của người bạn đời trở về nhà sau chuyến ra khơi, nhưng trước mắt bà chỉ là một gương mặt im lìm, xa lạ. Bà nghe tiếng của người chủ đáy như vọng về từ đáy biển:

- Đây là một việc rất đau lòng, hàng đáy bị sập, biển thất nên có mình anh Chín canh đáy, ảnh bị rơi xuống cùng với đám lưới đang phơi, không thoát ra được. Tụi tui xin thành tâm chia buồn với gia đình.

Bà Chín, người đàn bà suốt đời ngóng về phía biển khơi để chờ chồng, đã ngã vật ra nền đất bất tỉnh. Không một tiếng khóc, không một lời nói, không một giọt nước mắt nào lăn ra từ khoé mắt nhăn nheo của bà.

Chủ đáy cũng là người tình nghĩa, mặc dù đang hứng chịu những tổn thất do sự cố sập hàng đáy nhưng ngoài chi phí cho đám tang họ cũng trả đủ tiền công của con nước này, cho thêm một khoản tiền kha khá để mấy mẹ con bà Chín xoay xở trong lúc khó khăn.

Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống, chưa đầy nửa tháng tất cả tiền đã bốc thành hơi bởi những khoản nợ lặt vặt cả năm nay ngoài chợ hay ở mấy tiệm hàng xén. Nỗi đau chưa lắng xuống, bà Chín tiếp tục làm thuê khắp nơi, đi lượm (phân loại cá), xẻ cá, lột tôm, đạp mắm, đập tôm khô, vá lưới..., việc gì cũng làm kể cả công việc ngoài ruộng muối dưới cái nắng thiêu đốt thịt da.

Thằng Tư Láng đã 17, cái tuổi bẻ gãy sừng trâu của nó bây giờ là chỗ dựa cho mẹ và đứa em gái. Sau cái chết thương tâm của chồng, bà Chín cương quyết không cho thằng Láng đi biển mà xin cho nó vô làm công ở lò mắm Quê Hương, lương hơi thấp nhưng gần nhà lại không phải quá cực khổ nguy nan như nghề bạn đáy.

Còn Sáu Quanh cũng đã 14 tuổi, thỉnh thoảng cũng đòi đi làm với má nhưng bà Chín bắt ở nhà lo cơm nước. Thêm cái nó còn nhỏ nhưng biết nấu món canh mẳn rất ngon, đó là món canh chỉ có người vùng biển này nấu mới đúng hương vị mộc mạc nhưng đậm đà mà dù họ có đi đâu cũng không thể nào quên. Chính ông Chín Khởi đã dạy cho nó nấu, cái mùi vị đặc biệt của món canh xuất phát từ sự tươi ngon của con cá mới đánh bắt trên biển, từ những trái cà chua, cọng hành, trái ớt, những nhánh quế hay ngò gai đã trở thành rau khô do từ đất liền mang ra chòi canh để gần cả một con nước, thêm ít nước mắm và tiêu xay..., tất cả những nguyên liệu đơn sơ đó được cho vào nồi theo một thứ tự nhất định đã tạo nên hương vị ngàn khơi của món canh ngư phủ.

Vậy là con Quanh chỉ ở nhà để nấu cơm cho má và anh, những bữa cơm đơn sơ không chiếm nhiều thời gian của nó. Buồn buồn, nó hay đi dọc bìa rừng xanh ngắt cặp theo tuyến đê biển như đôi giao long hiền lành đang nằm lắng nghe tiếng sóng. Đó là khu rừng phòng hộ che chắn suốt chiều dài của xã Kiểng Đôi cho tới đầu chợ Vàm.

Quanh thường vào rừng nhặt những trái bần rụng, có khi leo lên cây như khỉ để hái mấy trái bần ương hoặc hơi non một chút nhưng nó thích ăn hơn. Bần non xanh đậm, vừa chua vừa chát nhưng chấm muối ớt thì ngon tuyệt, ăn kèm với mắm cá cơm nữa thì bao nhiêu cơm cũng hết. Bần chín thì dầm ra nấu canh chua với cá, tôm, cua hay mực cũng được, chưa kể má nó còn chế biến một loại mứt nhừ từ những trái bần chín rục, có thể cho thêm ít nước và nước đá vào quậy lên uống là ghiền luôn. Tóm lại nó thấy vui vì có những trái bần, thật nhiều trái bần trong túi áo, trong cái rổ cảo nhỏ xinh của nó, nhiều khi ăn không hết chẳng biết để làm gì.

Chưa kể con Quanh còn mê mẩn những nụ bần vừa hé nở lộ ra những tua nhị màu đỏ san hô còn cuốn chặt bên đài hoa xanh lục, nó đâu biết rằng vẻ đẹp tinh khôi đó là cội nguồn tồn sinh của những trái bần mà có lúc nó nâng niu như một gia tài.

Con Quanh cứ tha thẩn cả buổi trong rừng đước, leo trèo trên những cây bần, cây mắm, tay chân mặt mũi lấm lem bùn đất, nó cười khúc khích khi thấy mấy con cá thòi lòi đang cắn nhau trong vũng sình giật mình phóng tuốt vô gốc đước rồi trố mắt ra nhìn nó. Cả mấy con còng màu sắc sặc sỡ kia nữa cũng là đồ chơi của nó, chúng quá dễ thương và sạch sẽ một cách kỳ lạ giữa sình lầy. Chúng cõng những cái mai tuyệt đẹp trên lưng, nhiều nhất là màu xanh da trời và màu cam, còn lại là màu đen, trắng, cả màu nâu cũng có. Bước chân con Quanh làm chúng vội tuột ngay xuống hang, chỉ cần bẻ một nhánh đước nhỏ chặn cách cửa hang chừng một gang tay là chúng lại bò ra chỉ việc chụp là dính. Tuy nhiên nó chưa bao giờ làm đau hay làm chết một con còng nào, kể cả những con mang chiếc càng to tướng mà người ta hay bắt rồi bẻ càng đem luộc bán ngoài chợ thành một món đặc sản gọi là càng còng, thân còng thì làm mắm, cũng thành đặc sản là mắm còng! Còn nó khi bắt được mấy con còng, nó chỉ cho bò trên tay một chút thôi rồi thả chúng về hang, có khi cũng bị còng kẹp nhưng không đau mấy.

Có bữa con Quanh lang thang trong rừng đước kiếm bông ô rô để chưng bàn thờ ông Chín. Ở vùng nước mặn quanh năm cỏ cây khô đéng, cháy vàng, hoa trái phải đem từ nơi khác đến nên đắt kinh khủng. Vì vậy trên bàn thờ ông Chín thường ngày chỉ có bông ô rô, sang hơn một chút là bông giấy xin của mấy nhà ngoài chợ.

Mải ngó quanh ngó quất nó đã vượt quá giới hạn mà bà Chín đã căn dặn, đó là không được đến gần khu vực biên phòng.

Cái đồn biên phòng lúc đó chỉ cách nó chừng non chục thước, nó đang nghểnh cổ dòm coi có ai không thì thấy vắng ngắt, chắc mấy anh lính đi tuần hết rồi! Bất ngờ một con chó to gần bằng nó chồm lên sủa liên hồi muốn thủng cả lỗ tai. Nó hoảng hồn ụp cái rổ bần vào ngực co giò chạy thục mạng, cũng may là con chó bị cột vào cây đước sát đồn chứ nếu không thì…

Từ đó con Quanh không còn dám bén mảng tới gần đồn biên phòng, mặc dù... hầu như ngày nào nó cũng vô rừng tìm hái mấy trái bần, chơi với bầy cá thòi lòi và đám còng cưng của nó.

******

Hôm nay thằng Láng được nghỉ sớm, thường ngày nó vẫn về sau khi bà Chín đã đi nằm. Nhà cửa trống không, con Quanh chắc lại đi hái bần nữa rồi, tội nghiệp con nhỏ không có ai chơi cùng, cả con mèo con chó cũng không. Cái xóm đáy thưa rỉnh vài mái nhà, ai cũng đầu tắt mặt tối ngoài thớt cá hoặc đi làm mướn cả ngày, không có ai cùng trang lứa với em nó cả.

Tư Láng xuống bếp giở nắp nồi cơm, chỉ còn chút cơm cháy dưới đáy nồi, chảo tép rang bữa trưa ăn chưa hết còn bắc trên bếp. Giờ này sao con Quanh cũng chưa về lo cơm nước, một lát má về tới thế nào cũng bị la cho coi, Láng vừa thắc mắc vừa đi lấy gạo nấu cơm.

Cơm vừa sôi thì bà Chín về tới, hôm nay đến kỳ vựa cá trả tiền công còn cho một mớ khô cá lưỡi húa và tôm đuôi mang về. Bà định bụng sẽ biểu con Quanh làm món khô nướng chấm nước mắm bần, thằng anh nó chắc là khoái phải biết! Còn mớ đuôi tôm khô này cùng với một ít nếp cũ trong bếp, sáng mai bà sẽ làm món xôi mặn để mấy mẹ con ăn lót lòng.

Nhưng hai má con bà Chín chờ hoài, chờ mãi, vừa đói vừa lo, không biết con Quanh đi đâu tới giờ vẫn chưa thấy về. Lác đác xa xa vài nhà trong xóm đã đỏ đèn, thằng Láng ra ngồi bệt xuống ngạch cửa hai tay bó gối ngóng chừng về phía cánh rừng đã xuống màu xanh đen.

Bà Chín đang nằm nghỉ mệt trên tấm vạt giường kê sát đất, nghe tiếng chó sủa văng vẳng từ hướng đồn biên phòng bà bỗng ngồi bật dậy kêu lên:

- Thôi chết rồi Láng ơi! Nãy về ngang chợ má nghe nói có thằng ngáo đá bị nhốt ngoài đồn biên phòng mới trốn thoát hồi xế trưa. Con Quanh... trong rừng đước...

- Trời ơi, sao nãy giờ má không nói! Bữa nào nó cũng vô trong đó...

Hai mẹ con chỉ kịp quơ lấy cái đèn bão đang treo ngoài cửa, lập cập bật ống quẹt. Chạy ngang mấy căn nhà còn tối om trong xóm bà Chín kêu to:

- Quớ chú Ba Gà, chị Hai Nhan, thằng Siêm, thằng Gộc... làng xóm ơi! Làm ơn đi kiếm con Quanh phụ dùm tui!

Cả nhóm người lớp rọi đèn pin, lớp xách đèn bão, có người còn quấn giẻ rách vào cây củi tẩm dầu lửa đốt sáng cả bìa rừng. Tiếng mọi người gọi con Quanh vang khắp khu rừng, vô tới giữa rừng họ đụng tốp lính biên phòng đang dắt chó đi lùng sục.

- Bà con đi kiếm ai? Quanh nào? Tụi tôi quần nát hết khu này từ hồi chiều rồi có thấy ai đâu, cả con đường tắt ra thị trấn cũng vậy.

Bà Chín thất thần tựa vào người thằng Láng khóc không ra nước mắt:

- Quanh ơi! Con ơi...

Dù nghe tốp lính biên phòng nói vậy nhưng mọi người vẫn tích cực đi tìm không chừa một gốc đước, một vũng sình nào. Họ vừa tìm vừa gọi con Quanh lạc cả giọng, vừa cố an ủi bà Chín. Một nhánh dây cóc kèn vướng vào chân thằng Láng làm cả hai mẹ con ngã quỵ. Dưới ánh đèn mù mờ bà Chín nhìn thấy cái rổ nhỏ của con Quanh, chung quanh lăn lóc mấy trái bần non và một nhánh bông ô rô dập nát. Bà thét lên:

- Quanh ơi! Con đâu rồi Quanh ơi?

Mọi người hộc tốc rọi đèn tìm khắp chung quanh khu vực đó, chỉ thấy rễ đước đan xen chập chùng dưới hàng ngàn thân cây thẳng tắp như câu trả lời lạnh lùng của số mệnh.

Mẹ con bà Chín ở trong rừng đước cho tới sáng, bà nằm mẹp dưới đất không dậy nổi, mắt mở hé lờ đờ, tóc tai dã dượi. Còn thằng Láng chỉ qua một đêm mà thiếu điều nhìn nó không ra! Nó cứ đi vòng vòng chỗ con Quanh buông rơi rổ bần, cố tìm ra chút tăm hơi của em nó, ra xa hơn một chút cũng không thấy gì. Nó lại không thể bỏ mặc bà Chín để đi giáp khu rừng một lần nữa. Không nói ra nhưng nó nghĩ cả lính biên phòng cũng không thấy có dấu vết sát thương, hy vọng con Quanh chỉ bị khống chế, đưa đi đâu đó, thậm chí... Chỉ cần con bé vẫn an toàn tính mạng và trở về nhà.

Từ đó bà Chín cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, buông hết mọi việc cho thằng Láng. Bà tự trách mình đã bỏ mặc đứa con gái út mà bà hết mực thương yêu ở nhà một mình và đã không ngăn cấm nó vào rừng. Bởi bà cũng như nhiều người trong xóm Cống đã xem rừng đước kế bên nhà như khu vườn của nhà mình, bắt cua, bắt cá, hái bần, mót củi... bình yên bên rừng đã ngót một đời người, hơn nữa còn có đội biên phòng.

Nhiều ngày liên tiếp bà Chín lang thang khắp khu rừng với hy vọng mong manh sẽ có một dấu hiệu gì đó để tìm ra con gái. Có lần người ta gặp bà ngất xỉu ngoài bìa rừng với mấy trái bần nhỏ nắm chặt trong tay.

Công an địa phương vẫn đang tích cực truy tìm dấu vết kẻ ngáo đá và bé gái ở xóm Cống nhưng hình như đã không còn hy vọng.


Nguyễn Thỵ

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 202
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.445 seconds.