Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 90
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21951
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 07/Mar/2024 lúc 9:56am

CHO CON ĐI VƯỢT BIỂN


tau%20vuot%20bien%202

Cả nhà đang vui mừng anh Thi tôi thi đậu vào đại học Tài Chính chưa được bao lâu thì anh phường đội ghé nhà đưa giấy báo tin anh Thi đã… trúng tuyển nghĩa vụ quân sự.

Mẹ tôi “quen” với anh phường đội, mời anh vào nhà thì thầm to nhỏ xin anh hủy tấm giấy gọi này như lần trước anh đã từng làm và hậu tạ anh, nhưng lần này anh phường đội nói không thể vì chỉ tiêu quận đưa ra rất cao phải gom đủ số.

Cả nhà cùng lo âu, chiến tranh biên giới Việt Nam và Campuchia đang diễn ra từng ngày, những đợt nghĩa vụ quân sự nối tiếp nhau lên đường.
Cầm tờ giấy báo nghĩa vụ trong tay mẹ tôi nước mắt rưng rưng nhưng cả quyết:
– Ði nghĩa vụ là… chết. Không, nhất định là không.

Mẹ ra phường… khiếu nại với hai tờ giấy, một giấy báo đậu đại học và một giấy báo trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, xin cho con được đi học đại học vì giấy báo này đến trước, thì ông chủ tịch phường đã nhiệt liệt chúc mừng con trai bà được trúng tuyển cả hai thứ.
Nhưng nghĩa vụ quân sự thiêng liêng cao cả hơn anh Thi phải thi hành trước. Ông hứa hẹn khi nào hoàn thành nghĩa vụ anh Thi sẽ vào học đại học.
Mẹ tôi cay đắng nghĩ thầm con tôi đi bộ đội có khi chết mất xác ở Campuchia hay nếu sống sót trở về, lời hứa hôm nay của ông cũng theo gió bay mà thôi.

Thế là anh Thi tôi phải dẹp mộng bút nghiên lên đường vào bộ đội tại quân trường Quang Trung Hốc Môn.
Mẹ tôi chưa chịu thua, mẹ an ủi con trai:
– Con cứ vào trại Quang Trung, mẹ sẽ tìm đường cho con đi vượt biển tìm cuộc sống tự do và yên chí ăn  học đàng hoàng.
Tôi ngây thơ cũng đòi đi vượt biển cùng với anh thì mẹ mắng:
–  Ði vượt biển vui lắm sao mà đòi đi chung? Nhà mình không có nhiều tiền, mẹ sẽ dốc hết tài sản lo cho anh con. Mày là con gái… không quan trọng.

Sau 1975 gia đình tôi mất tất cả tiền bạc gởi trong Ngân hàng Việt Nam Thương Tín và sau hai lần đổi tiền tài sản vốn liếng càng teo tóp lại.
Bố tôi là công chức thì mất việc. May nhà mặt tiền nên mẹ mở cửa hàng tạp hóa nho nhỏ sống tằn tiện qua ngày với hộ khẩu 4 đầu người gồm cha mẹ và anh em tôi.
Người chị Cả của tôi đã lập gia đình ở riêng.

Anh Thi vào trại Quang Trung được hai tháng thì mẹ đã có mối đi vượt biển. Một ngày cuối tuần anh được phép về thăm nhà. Anh đã không trở về trại mà đáp xe đò đến Cần Thơ bắt đầu cuộc hành trình tìm đường vượt biển.
Những ngày đầu ở Cần Thơ anh Thi cùng chủ tàu và vài người khác sống trên ghe giả làm người đi buôn than củi. Cũng như họ, anh Thi mặc bộ quần áo bà ba đen, đầu đội chiếc mũ tai bèo, bèo nhèo cũ rích.

Bọn họ vừa đi buôn vừa… thực tập lái ghe, lúc từ từ  trong lòng sông hẹp hay lúc tốc độ nhanh khi ra sông Cái cho thật thuần thục.
Từ Cần Thơ đi Sóc Trăng, Bạc Liêu và xuống tuốt luốt Cà Mau, qua lại mấy đồn kiểm soát gần trạm biên phòng cho chúng quen ghe, quen mặt, chờ thời cơ sẽ xuất phát lên tàu lớn ra biển luôn.

Người đội trưởng của anh Thi ở Quang Trung kết hợp cùng công an phường mấy lần đến tận nhà truy tìm anh Thi, kết tội anh đào ngũ, nếu gia đình bao che sẽ bị tội nặng, nhưng cha mẹ tôi vẫn một mực kêu oan, không biết con trai bỏ đi đâu.

Ở nhà đêm nào gia đình tôi cũng coi tin thời tiết trên ti vi, thấy biển êm thì mừng thầm, thấy “biển động đến động mạnh”  hay “gió giật mạnh cấp 6 cấp 7”  trở lên là hoang mang lo lắng. Gió cấp này ngư phủ cũng không dám ra khơi đánh cá.

Gia đình tôi sợ chính quyền và sợ cả thời tiết nắng mưa. Chỉ biết cầu nguyện cho anh Thi được mọi sự bình yên.
Thế mà một đêm khuya nghe tiếng gõ cửa, bố tôi ra mở và kinh hãi thấy một người mặc áo khoác dài tới chân đứng lù lù trước cửa. Người đó vội thì thầm lên tiếng ngay:
– Bố ơi con là Thi đây.

Chuyến đi đã thất bại ngay lúc ra quân, người từ các ghe nhỏ chưa kịp lên ghe lớn thì bị công an ập tới, một số người bị bắt, một số người chạy thoát.
Anh Thi phải chi tiền nhờ người dân địa phương giúp đỡ mới thoát ra khỏi vùng sông nước chằng chịt Cần Thơ trở về Sài Gòn, anh đợi nửa đêm mới dám về nhà mình vì sợ hàng xóm phát hiện.

Cả nhà cùng bàng hoàng lo sợ. Nhốt anh ở trong nhà một ngày sau cha mẹ tôi đã gởi anh xuống Bà Chiểu ở nhờ nhà bác ruột tôi vì nếu ở ngay nhà mình thì sớm muộn gì hàng xóm cũng biết, hàng xóm biết thì chính quyền sẽ biết.
Anh về nhà nửa đêm và ra đi cũng nửa đêm như tên tội phạm.
Mẹ tôi mang đến nhà bác tiêu chuẩn 9 ký gạo, một ký cá khô và một ký lạp xưởng để khỏi phiền bác thời buổi bao cấp gạo thịt khó khăn.

Cha mẹ tôi sốt ruột lại đi tìm nhiều mối vượt biên khác, nếu chỗ này không xong thì còn chỗ kia.
Hai tuần lễ sau bỗng bác trai đạp xe xuống nhà tôi, mang theo gạo, cá khô, lạp xưởng vẫn còn y nguyên và ngại ngần nói với mẹ tôi:
– Chúng tôi mang trả lại chú thím phần thực phẩm này, chưa dùng đến…
Mẹ tôi ngạc nhiên:
– Chẳng lẽ anh chị nuôi không cháu Thi à, nó còn ở nhờ nhà bác mà?
– Thím thông cảm cho, con cháu thương thì thương nhưng… bà nhà tôi lo lắm, không dám chứa chấp cháu trong nhà sợ mang họa, nó vừa tội đào ngũ vừa tội phản động vượt biên.
Hai tuần cháu ở, chúng tôi phải che giấu, không dám khai báo với tổ dân phố có người tạm trú, nuôi cháu thế là đủ rồi, chú thím làm ơn… mang cháu về.

Ông bác ra về rồi mẹ tôi ngồi thẫn thờ chẳng biết tính sao thì bố tôi đi đâu cũng vừa về đến, không kịp nhìn thấy những món hàng thực phẩm còn để trên bàn, bố tôi vội vàng vào đề ngay:
– Có chuyến đi ngay đêm mai, tối nay tôi phải đến bác đón thằng Thi về và mang đến điểm hẹn. Chuyến của Tư Lùn mà bà từng tin cậy và  mong đợi đấy…
Mẹ tôi mừng rỡ:
– Ðám này tổ chức chuyến nào là thành công chuyến ấy. Ðợi chuyến của họ lâu mà chắc. Nhà mình gặp vận hên rồi.
Mẹ tôi chỉ túi gạo:
–  Bác trai vừa đến và không chịu chứa thằng Thi kìa… chuyến đi thật đúng lúc. Chắc là trời… giúp.
Tối hôm đó bố tôi đến nhà bác đón anh Thi về và mang anh đến điểm hẹn. Hôm sau anh đã có mặt ở Bến Tre. Chuyến tàu sẽ xuất phát ở cửa biển Bình Ðại.

Một tuần lễ trôi qua, tin từ  nhóm tổ chức Tư Lùn cho biết tàu đã ra khơi rồi.
Cả nhà cùng vui mừng, tàu ra khơi sẽ ra đến hải phận quốc tế thì không sợ bị bắt nữa, số phận con tàu chỉ trông vào biển cả và thời tiết.
Chúng tôi lại coi ti vi phần tin thời tiết và cầu nguyện cho chuyến tàu thuận buồm xuôi gió đến bến bờ tự do.

Một tháng trôi qua cả nhà đang khấp khởi mừng thầm bỗng có người phụ nữ lạ tìm đến nhà, hỏi đúng tên và địa chỉ nhà tôi, bà đi thăm nuôi con bị tù ở Long Ðất Vũng Tàu, thằng con nhờ bà chuyển lá thư này cho người bạn cùng tù với nó tên là Thi.
Trời ơi, thì ra chuyến tàu vừa ra khơi đã bị công an đuổi theo bắt lại trọn gói, cả đám thuyền nhân vào trại tù ở Long Ðất.
Mẹ tôi suy sụp, vì thương con, vì số vàng chắt chiu để dành cho con đi vượt biển hai chuyến đã cạn túi rồi, tương lai đen tối đang chờ đón anh tôi ở phía trước.

Bố tôi là điểm tựa chính của gia đình, bố nén thương đau, vẫn bề ngoài điềm nhiên, mỗi khi có hàng xóm nào hỏi thăm về Thi thì bố vẫn giữ vững lập trường đáp nó bỏ đi từ dạo đó nhà vẫn chưa có tin tức gì.
Bố tôi đi Long Ðất thăm nuôi anh Thi, khi về ông còn mua một quả mít to bán ở dọc đường, mít Vũng Tàu nổi tiếng múi dày thơm ngon.
Mẹ tôi chán chường:
– Ông còn tâm trí thưởng thức mít được hả? Ông ăn hết đi, tôi quyết chí…không ăn.
Hàng xóm có kẻ tò mò hỏi tôi:
– Bố cháu đi đâu mà mua mít về, người lại nắng gió ngăm ngăm ra…
–  Bố cháu đi thăm họ hàng ở Vũng Tàu.
Bà hàng xóm lửng lơ:
– Không phải đi thăm thằng Thi hả…

Thế là lần sau bố tôi lặng lẽ đi thăm anh Thi và nhất là không mua mít dù bố tôi khen rẻ và ngon, sợ hàng xóm biết, không lẽ lại nói đi thăm họ hàng ở Vũng Tàu lần nữa?
Ở tù hơn một năm thì anh Thi được thả ra, lần này đành phải mang anh Thi về nhà chị Cả tôi, dù gia đình chị ở xóm bên, cách xóm tôi không xa.
Nhà chị có lầu, cho anh lên tầng trên ở một phòng. Ðứa con chị còn bé mới lên ba chẳng biết gì, không cho nó lên tầng trên là được.
Hy vọng công an khu vực không nghi ngờ và xét hỏi như thời gian đầu anh Thi mới đào ngũ nữa.

Cha mẹ tôi không biết cách nào xoay ra tiền để lo cho anh Thi tiếp tục đi vượt biên, anh không thể trốn chui trốn nhủi mãi trong một góc nhà ngày đợi hai bữa cơm như một thằng tù giam.
Cha mẹ tôi có lúc tuyệt vọng bàn nhau hay là mang anh ra phường tự thú đã trở về nhà sau một thời gian… đi hoang, để khỏi phiền lụy đến gia đình, để mở ra cho anh một con đường sống trên cõi đời, dù sống với một xã hội mà mình từng toan tính bỏ chạy, muốn lìa xa nó.

Tôi 17 tuổi, bắt đầu thi vào đại học, đơn xin vào đoàn trường của tôi mang về phường bị uỷ ban phường nơi tôi cư trú nhận xét những lời tệ hại “có anh phản quốc đào ngũ…” làm tôi khóc quá chừng, không vì tiếc mình chưa được là đoàn viên của trường sẽ ảnh hưởng đến kỳ thi này mà vì chạnh lòng thương anh Thi tôi.
Người ta sỉ nhục anh như một tội phạm nhưng anh vẫn là ngôi sao sáng của gia đình và của tôi. Các môn toán, lý hóa tôi đều khá là nhờ có anh kèm.

Vậy mà tôi thi rớt đại học, chỉ được chuyển xuống nguyện vọng hai là trường trung cấp sư phạm. Tôi không hề thích nguyện vọng này, chỉ ghi cho có lệ mà thôi vì tin tưởng khả năng mình sẽ vào đại học.

Một hôm người bạn tù Long Ðất rất thân anh Thi đến nhà tôi tìm anh.(người mà trước kia mẹ anh đã đến nhà đưa thư anh Thi ở trong tù) Tôi kín đáo dẫn anh đến nhà chị tôi. Hai người bạn lên tầng lầu nói chuyện rất lâu.
Người bạn tù này cùng vài người bạn tù khác cũng ở Long Ðất đã rủ nhau tổ chức vượt biển, người có khả năng lái tàu, người là hoa tiêu.
Họ bàn nhau mua chiếc ghe nhỏ, dài chừng 8-9 mét, động cơ máy cũng…nhỏ, chừng 1 block. Chi phí cây nhà lá vườn kiểu “con nhà nghèo” chừng 5 – 6 cây vàng là đủ. Nếu anh Thi muốn tham gia thì góp 1 cây vàng để sắm đồ, đưa vàng trước đi sau.

Cha mẹ tôi nghe đều run sợ hơn là mừng, ghe đi biển trung bình dài 15 mét, ghe nhỏ dài  8-9 mét này đi ra biển thì làm sao chịu nổi sóng gió?, lại chỉ có  vài mống trên ghe lấy đâu ra người tài giỏi để giúp đỡ lẫn nhau?

Hơn nữa nhà đã hết tiền, một cây vàng bây giờ cũng là gia tài lớn, đưa vàng trước, ghe chưa chuẩn bị xong bị bắt thì coi như mất toi cây vàng.
Anh Thi chỉ biết khích lệ tinh thần bố mẹ:
– Các bạn ấy đều cùng tuổi trẻ, cảnh ngộ ra tù lông bông, con đường sống và tìm tương lai duy nhất là đi vượt biển nên ai cũng cố gắng hết sức mà tìm vận may cho đời mình.
Mẹ tôi đau trĩu lòng cũng đành gượng cười:
–  Ðể bố mẹ tính, chưa quá tam ba bận mà.
Bố tôi tán thành:
– Bước đường cùng rồi… con cứ đi theo các bạn.
Tôi lại đòi đi theo:
–  Anh Thi cho em đi theo anh với. Em không được vào đại học, chán lắm.
– Nếu cha mẹ đồng ý thì em đi cùng không mất tiền đâu, ghe còn rộng chỗ mà.
Mẹ tôi gạt phăng:
– Thân phận anh Thi đang dầu sôi lửa bỏng. Hai đứa đi một lúc nếu …
Mẹ tôi tự bịt miệng lại, kiêng cữ không dám nói tiếp nếu… sợ xui xẻo cho chuyến đi sắp tới.

Bố mẹ đã vay mượn họ hàng mỗi người một ít cho đủ một cây vàng để chơi ván bài chót, mặc cho số phận muốn ra sao thì ra. Mẹ cũng không quên đưa riêng anh Thi chiếc nhẫn mỏng 5 phân vàng để anh… có tiền đánh điện tín về nhà báo tin vui.
Anh Thi lần thứ ba rời khỏi nhà trên đường đi tìm tự do. Lần này anh đi bằng cửa biển Gành Hào Bạc Liêu…

Bố tôi đưa anh đến Bạc Liêu và ở lại nhà người thân của người bạn cùng chuyến với anh để nghe ngóng tin tức, mấy ngày sau, khi chiếc ghe nhỏ bé ra khơi không nghe động tĩnh gì thì bố yên tâm ra về.
Cả nhà tôi lại rơi vào vòng lốc xoáy của thấp thỏm chờ đợi và nghe ngóng thời tiết. Hỡi những cơn gió đừng giật mạnh. Hỡi biển đừng động mạnh cho chiếc ghe nhỏ bé kia ra khơi và đến nơi đến chốn nhé.

Mỗi một ngày trôi qua là một ngày căng thẳng với gia đình tôi, chân như đạp trên chông gai, người như ngồi trên chảo lửa, tim gan ruột phổi như đảo lộn tùng phèo. Họ đang lênh đênh trên biển hay đang ra sao có trời mà biết??

Ðược 3 tuần là mẹ tôi bắt đầu chờ mong… tờ điện tín, ngày nào mẹ cũng mong giờ người đưa thư qua nhà, anh đưa thư trẻ tuổi chạy xe đạp vèo qua cửa thì mẹ tôi thở dài thất vọng, anh ngừng lại đưa thư, nhưng lại là thư từ miền Bắc gởi sang mẹ tôi càng chán thêm, chìa tay nhận lá thư mà chẳng buồn nhìn mặt anh đưa thư, làm như anh cũng… có tội khi không có một tin tức gì của anh Thi tôi.

Mẹ tôi đau xót đếm từng ngày và thở than:
– Ðược một tháng rồi mà chẳng có tin. Con ơi là con ơi!
Thấy mẹ buồn tôi cũng buồn theo, tôi bi quan như mẹ, tưởng tượng ra bao cảnh hãi hùng. ghe… lạc đảo hoang, ghe đang… hư máy hay… hết xăng dầu lênh đênh trên biển và khủng khiếp nhất là ghe… đã chìm vào biển khơi?!

Có hôm mẹ tôi nằm ác mộng thấy anh Thi hiện về đứng ở đầu giường, anh mặc chiếc áo kẻ ca rô màu xanh hôm anh ra đi. Mẹ tôi kêu rú lên:
– Thi ơi, con đâu rồi? con đâu rồi?
Nghe mẹ kể tôi và mẹ lại òa khóc tiếp cứ làm như vừa được tin anh Thi tử nạn ngoài khơi.
Bố tôi phải gắt:
– Hai mẹ con bà làm gì mà sầu bi thế. Từ Gành Hào đến Thái Lan là gần nhất, nhưng biết đâu ghe nó lạc đường tới Mã Lai nên chưa có tin về??
Mẹ tôi giãy nảy lên:
– Ống còn muốn nó đi lạc đến Mã Lai à, sao ông không cho nó đi lạc đến Philippines, Hồng Kông luôn đi cho tôi đợi chờ thêm vài tháng nữa, chết dần chết mòn thêm nữa.
– Tôi chỉ… thí dụ thế thôi để mẹ con bà yên tâm chờ đợi.

Sang tuần lễ thứ năm, tuần lễ thứ sáu thì mẹ tôi đã kiệt sức trông thấy, gầy hốc hác, phờ phạc như một nhánh cây khô, mẹ như một người không có hồn. Chị tôi phải đưa mẹ đến tư gia của một y tá để truyền nước biển.
Ðôi lúc tôi bắt gặp vẻ buồn rầu thất vọng trên gương mặt người cha luôn tỏ ra cứng cỏi với vợ con. Bố tôi cũng lo buồn lắm đấy nào dám nói ra.
Cả nhà tôi âm thầm cùng gánh chịu một niềm đau.

 

Anh đưa thư trẻ vẫn nhởn nhơ đi qua nhà mỗi ngày, nhưng trưa nay anh quẹo thẳng vào sân nhà tôi và hớn hở:
– Mời nhà ra nhận thư nè…
Tôi nhanh chân từ trong nhà phóng bay ra ngoài sân, thấy tôi anh đưa thư mới khoan thai chậm rãi móc trong cái túi vải đeo ngang vai đầy ắp văn thư và lôi ra một mảnh giấy gì đó:
– Ðiện tín từ Thái Lan của Nguyễn Quang Thi nè.

Chữ “nè” của anh đưa thư vừa chảnh chọe vừa dễ thương làm sao.
Tôi mừng vui cuống quýt, líu ríu nhận tờ điện tín, mẹ tôi đang mệt mỏi nằm dưỡng sức trong nhà cũng xồng xộc đi ra, mặt mẹ tươi rói như hoa mới nở. Phép lạ nào mà nhiệm màu đến thế với người đàn bà hôm qua còn nằm thiêm thiếp để truyền nước biển?
Giọng mẹ rổn rảng như hồi chuông đổ hàng xóm bên cạnh cũng có thể nghe thấy:
– Có điện tín Thái Lan à? Cám ơn cháu nhé…
Mẹ móc hết tiền lẻ trong túi áo đưa tặng anh đưa thư mà không cần đếm.

 

Quả nhiên, bà hàng xóm bên cạnh bấy lâu hay tò mò thắc mắc đã bước sang, chẳng biết bà vui cùng hay là ganh tị:
– Có tin thằng Thi đến đảo rồi hả, thích nhỉ? Tôi đoán đúng mà, nó đi vượt biển chứ còn đi đâu, giấu ai chứ chẳng qua mắt được tôi…
Cả nhà tôi đã hồi sinh.

Vài ngày sau nhận thêm lá thư của anh Thi. Lá thư viết trước tờ điện tín dù nó đến sau. Anh kể chiếc ghe nhỏ bé chở 12 người đã may mắn trong biển êm gió lặng sau 7 ngày thì đến Thái Lan, 5 phân vàng mẹ đưa anh đã tặng cho người dẫn đường chiếc ghe nhỏ của anh khi ra đến cửa biển nên anh không có tiền đánh điện tín về nhà ngay. Nhưng anh tin là chờ mong càng dài thì niềm vui mừng càng tràn đầy.

Trời ơi, anh Thi đâu biết là anh để cho chờ mong khủng khiếp này dài thêm chút nữa là cả nhà càng thêm sống dở chết dở…
Mẹ tôi mỉm cười hạnh phúc trách yêu thằng con trai đang bình yên nơi xa:
– Có mấy phân vàng mang theo phòng thân mà cũng cho người ta…
– Biết đâu nhờ anh rộng lượng tử tế nên trời thương.
Mẹ tôi kể công:
– Nhờ mẹ đi coi bói và đi chùa cầu nguyện nữa chứ.
Bố tôi phản đối:
– Chuyến nào của nó bà chẳng đi coi bói chẳng đi chùa cầu nguyện, vậy mà hai chuyến trước thất bại còn vào tù hơn năm trời.
Mẹ tôi bỗng quay ra nhìn tôi và tiếc rẻ:
– Nhưng chuyến này Trời Phật thương, biết thế mẹ cho con đi cùng với anh Thi, chẳng tốn thêm tiền lại được thêm một đứa.
Bố tôi hù dọa:
– Nhưng nếu nó đi thì sẽ thành 13 người là con số không may đấy.
Tôi nũng nịu với bố mẹ:
– Thôi, mẹ đã bảo con gái…  không quan trọng mà. Anh Thi đi được là cả nhà mình trút được gánh nặng sầu lo, con cũng đang sung sướng hạnh phúc lắm đây….

Nguyễn Thị Thanh Dương
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21951
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 11/Mar/2024 lúc 10:37am

Đêm chia tay ở Tà Niên

chia%20tay

1.

Khoảng chín giờ tối, tôi lặng lẽ rời trường đi về hướng giếng Cây Trâm như lời hướng dẫn. Đèn đường lưa thưa, nên đoạn đường tối lờ mờ không nhìn rõ mặt người. Đêm như lặng lẽ bắt đầu với vài cơn gió hanh hanh mùi rạ khô dọc ven đường. Vừa đi tôi vừa cố nghe ngóng những động tĩnh chung quanh và mong rằng không gặp mặt học trò hoặc người quen. Lòng dạ xôn xao, cả ngày hôm nay tôi chẳng làm gì ra hồn và gần như không nuốt được buổi cơm chiều. Mặc dù đã hứa, tôi cứ mãi đắn đo không biết có nên giữ lời hứa đó hay không? Đây là buổi hẹn rất nguy hiểm cho người gặp gỡ và có khi sẽ là một lần vĩnh viễn chia tay. Những ngày tháng gần đây Rạch Giá trở thành nơi tập trung cho những chuyến ra đi, những chuyến ra đi biền biệt quê nhà. Ngôi trường cấp 3 Rạch Sỏi nhỏ bé của tôi cũng không ngoại lệ. Học trò bàn chuyện "vượt biển" nhiều hơn chuyện học. Thầy cô mỗi ngày nhìn xuống lớp, vài khuôn mặt mất đi giữa ghế bàn. Đôi lúc phải dồn lớp dạy mới đủ số học sinh. Đã có nhiều buổi chiều học sinh vào trường như thăm viếng thầy cô và để kín đáo nói lời chia tay. Ở tuổi các em "ăn chưa no, lo chưa tới" mà đã phải tự làm người lớn, vượt ngoài ý thức của bản thân. Một thế hệ "lớn trước tuổi", toan tính hoang mang nhiều hơn mơ mộng sách bài. Nhiều thầy cô giáo phải "nổi giận" vì tinh thần học tập sa sút của các em. Tôi thương các em nhiều hơn bao giờ hết. Nếu tôi là các em chắc cũng không thể làm khác, nhiều khi còn tệ hại hơn không chừng? Vì thương con, cha mẹ đã đẩy các em "ra khơi" mong sẽ tìm được một cuộc sống, một tương lai tốt đẹp hơn. Chỉ với hành trang là những tờ giấy trắng, các em phải làm gì cho những bước đường vô định, tương lai may rủi nơi bên kia xứ lạ quê người?
    –  Thầy Hoàng... thầy Hoàng phải không?
    Tiếng gọi làm tôi giật mình, dừng bước chân lại. Chiếc xe lôi trờ tới, trời tối không nhìn rõ mặt người đàn ông chạy xe.
    –  Dạ... tôi đây. Tôi là thầy Hoàng.
    –  Thầy lên xe, tôi đưa thầy về Tắc Cậu.
    Giọng người đàn ông rắn rỏi, chắc không còn trẻ. Mọi việc đúng như lời căn dặn của Dung, tôi bước vội lên chiếc xe lôi... Rồi không ai nói gì thêm, người đàn ông đạp chiếc xe lôi đưa tôi qua khỏi giếng Cây Trâm chạy về hướng Minh Lương. Tuy trời tối nhưng vì quá quen thuộc nên tôi có thể đoán được đoạn đường hai bên. Chạy một lúc sau, người đàn ông chợt quay xe trở ngược lại đường cũ. Có lẽ do thận trọng, tôi chỉ biết ngổi yên lặng phía sau. Đến ngã ba Sua Đũa thì chiếc xe lôi quẹo trái vào phía Tà Niên. Vài chiếc xe gắn máy vượt qua để lại những vệt đèn sáng phía trước. Đây là đoạn tôi có nhiều nhà của học trò chạy dài cho đến chợ Tà Niên và cả bến đò Tắc Cậu. Thật tình mà nói, tôi chẳng biết chiếc xe lôi sẽ đưa tôi đi đâu, ghé nơi nào? Chỉ biết đêm nay tôi sẽ đến nơi đưa tiễn LTT Dung, người bạn gái thân thương của những ngày tháng ở đại học sư phạm Sài Gòn. Cũng đêm nay ba chị em Dung sẽ cùng gia đình chồng tương lai rời bến ra khơi ở Tắc Cậu. Đây là chuyến đi "bán chính thức", tương đối an toàn vì mỗi người hình như phải đóng số tiền khá lớn: 10 cây vàng. Đó là chưa kể ba chị em phải mua giấy chứng nhận người Việt gốc Hoa, với một giá không phải rẻ. Vì hầu hết tổ chức dành cho người Việt gốc Hoa, mua tàu mua bãi của các chuyến vượt biển này. Tôi không biết rõ, chỉ nghe Dung nói lại. Cuộc hôn nhân của người đẹp khoa Anh ngữ: LTT Dung là ba chỗ cho nàng cùng hai đứa em trai, quà cưới của gia đình bên chồng? Chạy vào một khoảng không xa, chiếc xe lôi chợt chậm lại rồi ngừng trước cỗng của một căn nhà vườn. Tôi lo lắng, đúng ra phải vào tận Tắc Cậu kia mà. Đây là Tà Niên, nhà học trò tôi cùng khắp con đường này. Có lẽ đây cũng là đoạn đường đẹp nhất Tà Niên với những vườn khóm thẳng tấp, với những ao bông súng tím thẳm sau nhà. Tôi nhớ hình như nhà vườn của em Sĩ cũng ở gần đâu đây? Tôi có ghé căn nhà vườn trồng khóm của gia đình Sĩ vài lần. Rồi nhà của chị em Thanh Nga, Thanh Sơn... được mệnh danh là "con chim sơn ca" của trường cấp 3 Rạch Sỏi cũng ở Tà Niên...  Nhưng hình như từ ngả ba Sua Đũa đi vào, không gần đến như vậy. Nếu bị học trò bắt gặp tôi không biết phải giải thích thế nào cho ổn thỏa: đang đêm thầy Hoàng vào đây để làm gì?
    –  Thầy Hoàng dô nhà... Cô Dung đang ở trổng!
    Giọng người đàn ông đứng tuổi, kéo tay tôi bước vào nhà. Bên trong tôi đã thấy Dung đứng phía sau chiếc tủ thờ lớn. Nụ cười quen thuộc nở khó khăn trên khuôn mặt mệt mỏi của người con gái.
    –  Anh tưởng là Dung ở Tắc Cậu?
    –  Có chút thay đổi nên chưa kịp báo cho anh biết. Anh vào đây có gặp khó khăn gì không?
    –  Không, mọi chuyện bình thường. Gặp được Dung là mừng lắm rồi.
    –  Theo em...
    Tôi theo chân Dung rời nhà trên, đi xuống phía nhà sau. Căn nhà dài qua vài căn phòng khá khang trang, phía sau là căn bếp lợp lá với chiếc bàn ăn tròn. Ngồi quanh chiếc bàn là hai thanh niên trẻ và người đàn bà đứng tuổi độ năm mươi cùng mấy tô cháo ăn lỡ. Mùi cháo cá và rau đắng nồng ấm gian nhà.
    –  Dũng, Cường hai em trai của Dung. Đây là dì Sáu, đi chung... Anh ngồi ăn chút cháo cá, nghen anh?
    Tôi lắc đầu nhìn khuôn mặt lúng túng của Dung. Chưa bao giờ tôi thấy Dung như đêm nay! Nét kiêu sa trên khuôn mặt đẹp không còn nữa, mà những lo âu có chút sợ sệt khiến nàng trở nên vụng về. Có thể mấy đêm qua Dung đã không ngủ được. Không khí căn phòng chừng như căng thẳng, không ai muốn lên tiếng nói gì. Buổi ăn tối vội vã kết thúc, hai em trai Dung và người đàn bà đi chung chào tôi rồi lặng lẽ đi lên nhà trên. Họ tìm chút nghỉ ngơi cho cuộc hành trình dài, vô định sắp tới? Căn nhà bếp chỉ còn lại tôi và Dung. Có lẽ đã nửa đêm. Tôi ngồi xuống bàn đối diện nàng, nhìn bâng quơ không biết phải nói gì trước.
    Có quá nhiều người đã bỏ ra đi. Có người tôi quen, có người yêu dấu. Những mất mát, đắng cay của quê hương không cầm chân được ai? Đêm nay tôi lại tiễn đưa thêm một người bạn gái thân thương của nhiều tháng ngày quen biết. Đã qua khỏi mức bạn bè, nhưng chưa lần vượt qua tình yêu như thể. Tôi có chút gì đó ngần ngại. Dung cũng dùng dằng ở mức đón đưa...
    –  Mấy giờ thì Dung vô Tắc Cậu? Tôi lên tiếng phá bầu không khí căng thẳng, khó thở.
    –  Ba giờ sáng. Để Dung pha cho anh ấm trà...
    Chỉ còn vài tiếng nữa. Đêm luôn dài, nhưng bây giờ sao quá ngắn. Nét lo âu, mệt mỏi làm khuôn mặt Dung đẹp nhiều hơn. Đêm nay có lẽ Dung sẽ không phàn nàn, nếu tôi có tham lam nhìn nàng không rời mắt. Nhìn vệt chân mày rậm vắt ngang đôi mắt như biếng lười chăm sóc. Nhìn đôi môi ướt nhỏ, thỉnh thoảng bím chặc suy tư. Nhìn khuôn mặt thanh tú rõ từng sợi lông măng lưa thưa dọc đường chỉ tóc mai. Tôi nâng niu từng giây phút nầy với Dung như trân trọng tình bạn giữa tôi và nàng. Tình yêu sẽ là sự chiếm ngự, chỉ có tình bạn là chia sẻ, quý trọng lẫn nhau. Tình yêu sẽ  cho bạn hạnh phúc và khổ đau. Tình bạn sẽ làm cho bạn thăng hoa và rộng lượng.
    –  Mình ra ngoài uống chút trà đi anh. Bên trong nhà nóng quá! Dung đưa tách trà cho tôi, nói nhỏ.
    Bây giờ tôi mới cảm thấy hơi nóng hâm hâm trong căn nhà bếp. Hai đứa ngồi xuống bên hiên mái hè, trời tối đen hòa vào tiếng côn trùng, ếch nhái kêu đêm. Có quá nhiều câu hỏi cho Dung, nhưng không hiểu sao tôi vẫn yên lặng. Mấy ngụm trà nóng khiến tôi tỉnh táo hơn, thỉnh thoảng vài cơn gió thổi nhẹ mùi hương con gái nồng nàn.
    –  Anh nói với Dung hay hỏi Dung câu gì đi anh?
    Chừng như nói câu nói, mọi câu hỏi đều trở nên vô nghĩa và trống rỗng. Chừng như chỉ có sự yên lặng là ngôn ngữ của cuộc chia ly? Đêm vây phủ như có bàn tay mềm mại đang ôm phủ bàn tay tôi ấm áp. Trong hơi ấm của bàn tay Dung sao tôi nghe như có tiếng thở dài. Tiếng thở dài đáng lẽ không nên có ở một người con gái. Người con gái đẹp, thông minh và mang niềm kiêu hảnh trong ánh mắt của người chung quanh. Đã có người tự tử vì nàng, đã có người buông bỏ tất cả tiền tài, gia đình để chỉ được có Dung. Chuyến đi này là tất cả những gì người đàn ông đó dành cho nàng và hai đứa em trai.
    –  Rồi Dung sẽ đến được bến bờ hạnh phúc. Anh sẽ cầu nguyện cho Dung, cho mọi người...
    –  Tất cả những điều anh nói là của ngày mai... Bây giờ Dung đang ở đây. Dung chỉ muốn hiện tại, đang bên cạnh anh...
    Vài sợi tóc theo gió đêm Tà Niên vướng lòa nhòa trên mặt tôi. Hơi thở của Dung thật gần. Thật gần để bất chợt có bàn tay kéo khuôn mặt tôi vào chạm bờ môi con gái. Nụ hôn bỡ ngỡ, vụng về rồi bám chặc không rời. Nụ hôn dài như hương từng rẫy khóm của đêm Tà Niên ngọt lịm.
    –  Để anh đừng quên Dung... Để anh sẽ nhớ Dung...    
    Nụ hôn để nhớ, không phải để yêu. Không hiểu sao tôi nghe tiếng nấc nghèn nghẹn của Dung. Tôi rất sợ nước mắt, nhất là nước mắt của con gái. Như phản xạ tự nhiên, tôi kéo khuôn mặt nàng áp vào ngực của mình. Nước mắt của buổi tiễn đưa nào mà không thắm mặn. Đêm Tà Niên cuộn tròn thương tiếc, vùn vụt trôi nhanh.
    –  Cô Dung ơi, đã tới giờ... Phải đi rồi cô Dung!
    Tiếng người đàn bà thì thào, hối thúc. Tôi kéo tay Dung đứng dậy đi vào. Bên trong mọi người trên tay một chiếc xách nhỏ chờ đợi. Không khí trở nên căng thẳng, ngột ngạt. Lấy một xách tay góc nhà, Dung đưa cho tôi:
    –  Nhờ anh đưa lại cho gia đình Dung...
    Rồi chừng như không nói gì thêm được nữa, Dung cúi đầu đeo chiếc giỏ xách bước theo mọi người. Bên ngoài trời vẫn tối đen. Mấy chiếc xe lôi đang chờ sẵn, lặng lẽ đưa nhóm người chìm vào đêm tối. Tôi cầm chiếc xách tay, lên chiếc xe lôi khác quay trở lại trường. Đồng hồ đeo tay tôi chỉ 3 giờ 45 sáng ngày 4 tháng Ba, năm 1978 ở xóm nhỏ Tà Niên.
                       
2.
Đã hơn bốn mươi năm, thời gian thoáng chốc. Tất cả mọi đổi thay như xô đẩy chúng ta đi vào biết bao định mệnh đời người. Số phận không nói lên hoàn cảnh và đôi khi cùng hoàn cảnh lại có muôn vàn số phận khác nhau... Vài tuần lễ sau của đêm hôm đó, tôi đã đem chiếc xách tay đến cho gia đình Dung ở Sài Gòn. Nhưng mãi đến gần 4 tháng sau, tôi mới được tin của Dung từ gia đình nàng. Chuyến đi của Dung đã không đến được bến bờ tự do. Con tàu định mệnh đó vĩnh viễn nằm lại lòng biển rộng. Phải mất nhiều đêm, nhiều ngày tháng sau này để tôi có thể chấp nhận được sự thật đau xót này. Tất cả chừng như không có một hình ảnh nào, một vết tích nào để khỏa lấp ánh mắt, nụ cười và đôi môi hôn ấm của đêm chia tay vội vã ở Tà Niên. Tôi vẫn luôn tin rằng một nơi nào đó trong vùng trời tự do vĩnh cửu, Dung đang vun đấp cuộc sống có thật của mình. Nơi đó sẽ không còn khổ đau, không còn những hệ lụy cưu mang cho một kiếp người... Biển rộng bao la nhưng biển cũng hẹp tay người. Hình ảnh người con gái trong đêm chia tay ở Tà Niên luôn sống mãi trong tôi. Nụ hôn vội vàng để nhớ, là nụ hôn tha thiết nhất một đời có được:
 
... Tình yêu như biển
Biển hẹp tay người
Biển hẹp tay người lạc lối
Em đi về nơi ấy
Nơi đâu nơi đâu
Sông cạn đá mòn
Trăng treo đầu con sóng
Tan theo tan theo
Chút tình xa vắng...
 (1)
                       
Mỗi số phận của chúng ta, đôi khi gắn liền với những biến động của hoàn cảnh và lớn rộng hơn, của lịch sử. Nhưng đôi khi, số mệnh của chúng ta lại lặng yên nằm bên lề của mọi cơn lốc cuộc đời. Dù ở phía nào đi nữa, sự hữu hạn của kiếp người, chỉ cho mỗi chúng ta chiêm nghiệm được một phần thật nhỏ nhoi của thân phận. Không có mẫu số chung cho định mệnh. Hãy mở rộng mọi ý thức và đừng bao giờ đóng kín những đổ vỡ của trái tim. Cuộc đời sẽ tin yêu ta, nếu ta đặt trọn mọi tin yêu có thể cho người. Lá khô rụng kín mùa này là mần non hoa trái mùa sau. Có bao nhiêu dư âm xưa trong đêm dài chờ sáng? Có bao nhiêu cuộc chia ly trong giọt lệ trùng phùng? Dù biết rằng trái tim luôn đập theo từng nhịp của hôm nay cho sự sống, nhưng không hiểu sao dòng máu chúng ta đôi lúc luân lưu, tuần hoàn trong mỗi tế bào của quá khứ? Những ngày đầu của mỗi tháng Ba, phải chăng vẫn buồn và vẫn khoắc khoải trôi về:

 

... Phương trời mình đi xa thêm xa

Nghe vạn mùa thu sau lưng ta

Em ơi, em ơi! Thu thiết tha

Ơi người vì ta qua phong ba

Có còn gì sâu trong tâm tư

Mắt lệ mờ hoen dư âm xưa... (2)

 

– Nguyễn Vĩnh Long

Durham, North Carolina

 

(1) Lặng Lẽ Nơi Này –  Trịnh Công Sơn

(2) Tình Lỡ –  Thanh Bình

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21951
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 12/Mar/2024 lúc 7:33am

Chuyện Một Thuyền Nhân 


Sau nhiều năm "luyện chưởng" ở miền Bắc, tôi được phép "hạ san". Cầm tờ "lệnh tạm tha" tôi trở về thành phố đã thay tên, từ cảnh vật đến tình người đều thay đổi, tôi ngơ ngác như Mán ra thành.

Tuy đã ra khỏi "lò hấp", nhưng người ta vẫn "quan tâm?" về tôi, ngày ngày cho chú công an khu vực đến "vấn an sức khỏe" và mỗi tuần tôi phải lên trụ sở công an phường để họ ngắm dung nhan cùng đóng một con dấu đỏ vào tờ giấy ra trại.

Dù tỏ ra "ưu ái" nhưng khi tôi xin phép về quê để viếng mộ Cha-Mẹ, tôi phải đợi dài cả cổ. Hỏi thì được trả lời "đang kíu xét". Tâm sự với thằng bạn thì nó hỏi:

– Mầy có gì cho nó chưa?

Tôi đáp:

– Tao vừa mới ra tù, không một đồng xu dính túi, lấy gì mà hối lộ?

Nó cười:

– Dễ lắm, chỉ cần vài điếu thuốc có cán thôi. 

Tuy không tin lắm, nhưng tôi cũng thử cầu may. Tôi xin người thân tiền mua 3 điếu thuốc có đầu lọc, mượn cái hộp quẹt của ông anh vợ, rồi đến gặp tên cán bộ phụ trách, mồi điếu thuốc mời anh ta hút và tặng luôn 2 điếu bỏ túi, thế là tôi có ngay tờ giấy phép đi đường.

Hết xẩy! Từ đó về sau, mỗi khi cần gì tôi chỉ bổn cũ soạn lại hoặc đôi khi cho chắc ăn hơn, tôi mua vài tờ vé số cặp 2 hoặc 3 (1 đồng/tờ) trao cho tên cán bộ, rằng thì là cán bộ lương chẳng nhiều, giữ vài tấm vé số nầy biết đâu gặp may trúng độc đắc sẽ đổi đời; nghe bùi tai nên lúc nào họ cũng thỏa mãn ngay cho tôi khỏi cần "kíu xét".


Về thăm lại nơi chôn nhao cắt rốn cách Sài Gòn hơn trăm cây số, quê tôi trước 1975 thật trù phú, nhưng nay cũng cùng số phận hẩm hiu của cả miền nam, trở nên tiêu điều, người dân vất vả hơn, câm nín hơn và nhất là vắng tiếng cười hồn nhiên của trẻ thơ….

Tôi vốn luôn nghĩ rằng Sinh-Lão-Bệnh-Tử là luật của vũ trụ, chẳng ai tránh khỏi, nên ngay trước sự ra đi của người thân tôi cũng xem đó là điều tự nhiên, chẳng có gì phải bi lụy; nhưng lần nầy, đứng trước mồ của mẹ, nước mắt tôi tự dưng tuôn thành giòng. Một mảng ký ức trở về trong tâm khảm tôi:

"Vào những ngày cuối của tháng 3/1975, di tản từ V1DH về trú ở V3DH, tôi gặp lại ông Xếp cũ năm 1972 cùng phục vụ ở CCHQ/MT mà hiện là HT của 1 chiến hạm. Tôi hỏi ông đi đâu? Ông bảo muốn kiếm vài bản đồ vùng Đông Nam Á. Tôi vào phòng thằng bạn lấy cho ông vài bản. Ông vỗ vai tôi thân mật bảo:

– Anh về nói với bà Cụ (Mẹ tôi) chuẩn bị sẵn, khi tôi đến đón gia đình bên vợ sẽ đón luôn gia đình anh.

Số là, ông rất mến tôi vì khi tôi phụ tá ông, mọi việc của căn cứ tôi đều cán đáng. Ngoài ra, ông lập gia đình với một người phụ nữ gần nhà tôi, tức ngoài tình chiến hữu còn có thêm tình chòm xóm. Tôi cám ơn ông, nhưng cho biết là sẽ không đi.


Rồi ngày 29/04/1975,ông Xếp của tôi là Đô Đốc TL/HQ/V1DH và ĐĐ.TL/HQ/V3DH, trước khi lên xe ra Vũng Tàu để xuống chiến hạm 2 ông cũng đã khuyên tôi nên cùng đi với 2 ông:

– Anh ở lại với tụi nó không được đâu. 

Tôi cám ơn 2 ông nhưng khước từ ra đi và trở về Sài Gòn để sau đó đi tù. Tuy nhiên, cho đến nay, tôi không ân hận chút nào về quyết định nầy. Vì tôi không thể bỏ Mẹ tôi để ra đi. Mẹ tôi, người đã cho tôi cả một tình thương bao la, ngay từ khi ba tôi bỏ gia đình đi sống với một bóng sắc khác lúc tôi vừa tròn tuổi thôi nôi. Dù nhà thật nghèo, phải vô cùng vất vả, nhưng Mẹ tôi lúc nào cũng vì Nội và 2 chị em tôi. Mẹ tôi thủ tiết cho đến khi nhắm mắt lìa đời năm 1976, đúng vào lúc kẻ cướp đày tôi lên vùng thượng du Bắc Việt.

Tôi đã đi biết bao sông dài, biển rộng, nhưng không có đại dương nào bao la bằng tình thương của Mẹ tôi. Tôi cũng đã có dịp đi công tác ở nước ngoài, thấy được sự văn minh, giàu có của họ, nhưng không có vật chất nào đủ hấp dẫn để tôi phải xa Mẹ tôi. Tiếc thay việc ở lại của tôi chỉ là điều vô nghĩa vì ước nguyện được cận kề Mẹ tôi đã không thành. Mẹ tôi, một người phụ nữ hiền lành, chất phác, không biết chữ để đọc được sách thánh hiền, nhưng bản chất đôn hậu, luôn yêu thương, giúp đỡ mọi người, nên rất được hàng xóm mến, và cả gia tộc nhà chồng thương, tuy nhiên thật tội nghiệp, chỉ có thằng con trai là tôi nhưng từ khi tôi học trung học, đại học và làm lính với cuộc sống phiêu bồng thì chẳng mấy khi được gần con, thậm chí trước khi nhắm mắt lìa đời cũng không được thấy con lần cuối.


Trở lên Sài Gòn, lần nầy tôi quyết định phải ra đi. Nghe nói có thằng bạn cùng khóa HQ, thường tổ chức vượt biên. Tôi tìm đến, đề nghị lái ghe cho nó. Nó đồng ý nhưng chỉ cho thêm một chỗ. Tôi trình bày là tôi có một vợ và một con, chẳng lẽ phải để lại người nào? Nó dứt khoát một chỗ, nếu nhận thì đánh, không thì thôi. Tôi từ chối, lủi thủi ra về, lòng ít nhiều xót xa, nhớ lại kỷ niệm 2 năm chung quân trường và vào năm 72-73 khi tôi phục vụ ở CC/HQ/MT, lúc đó nó bị nạn dường như vụ còi hụ Long An, ghé tôi và tôi vẫn đối xử trong tình bạn. Rồi cơn buồn chỉ thoáng qua, vì vào thời điểm 1983 phong trào vượt biên còn khá rần rộ, tôi lại là lính biển thứ thiệt, chắc sẽ không đến nỗi nào và đúng như tôi nghĩ, không biết họ lấy tin từ đâu mà nhanh thật. Nhiều tổ chức đã đến đề nghị tôi cộng tác với họ, kể cả một tên Đại Úy bộ đội. Trước kia, tôi không rõ về VC lắm, nhưng giờ thì cho cả kho vàng Fort Knox tôi cũng không tin nổi họ, do đó tôi cho biết là 29/04/1975 đang ở Vũng Tàu, dù có phương tiện nhưng tôi đã không đi, vì không đâu đẹp bằng quê hương mình, vả lại sau nhiều năm cải tạo, tôi đã hiểu được lao động là vinh quang, nên từ nay sẽ hăng say lao động để góp phần làm cho đất nước ta giàu mạnh. Tên bộ đội, không biết là muốn bẫy tôi hay thực sự đã chán ghét chế độ, hắn tròn mắt nhìn tôi và nghĩ có lẽ tôi mới vừa ở Chợ Quán hay Biên Hòa ra, nên vội vã kiếu từ. Những tổ chức vượt biên, nếu để hốt vàng thì thường chỉ cho người Hoa Tiêu thêm 2 chỗ, còn nếu không vì thương mại thì họ chấp nhận cho cả gia đình người lái cùng đi. Lần đầu, tôi đến với một gia đình ở Sa Đéc, nhưng thấy không thuận lợi, nên không tiến hành. Lần thứ hai, gia đình của cựu Đại Tá Tỉnh Trưởng Gò Công đề nghị tôi hợp tác và đưa tôi về Bến Tre để cùng nhà văn Kim Nhật tìm phương cách ra đi. Ông nầy nguyên là Bác Sĩ y khoa, mê chủ thuyết cộng sản nên theo VC và giữ chức giảng nghiệm viên y khoa ở cục R, nhưng khi rõ bộ mặt thật đê hèn và man rợ của chúng, ông bỏ về thành viết cuốn Đường về R và bị VC tuyên án tử hình khiếm diện nên phải trốn về Bến Tre để sống. Nguyên là BS, nhưng ông ăn trầu bỏm bẻm, đi chân đất... Sống như một bần cố nông thứ thiệt, ông kịch giỏi đến nỗi sống chung với hàng xóm toàn là VC nơi quê hương đồng khởi của chị Ba Định mà không ai biết được hành tung. Từ nhà ông ra biển, với một chiếc ghe nhỏ gắn buồm con, hai cây dầm, một hai tấm lưới bén, một cái thạp nhỏ và ít muối hột, ông cùng cậu con khoảng 7, 8 tuổi và tôi dãi nắng, dầm mưa trong 2 ngày lần dò ra cửa biển. Trên đường đi, gặp bất cứ trạm kiểm soát nào ông cũng tự động ghé vào, trình thẻ đảng và hỏi các đồng chí nhờ chỉ giùm nơi nào có thể lưới kiếm chút cá về làm mắm trong khi chờ mạ lớn để cấy. Tôi vốn là dân thành phố da dẻ trắng trẻo lại vừa ở tù ra không có giấy tờ, nên những khi đó tim tôi đập liên hồi. Ông giải thích:

– Chú không biết, VC là chúa đa nghi, mình phải cao tay ấn nếu không chúng nghi sẽ hạch hỏi, còn tránh né hoặc không tuân thủ chúng sẽ dùng AK hoặc thượng liên để giải quyết. Tuy đôi khi cũng có vài tên VC xuống kiểm soát ghe, nhưng thấy không có vẻ gì khả nghi, nên chúng cũng cho đi. Thời gian ở bên nhà văn Kim Nhật không lâu, nhưng ông kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện của VC, thú vị nhất là việc anh Ba mặt nám tức Lê Duẩn khi làm bí thư xứ ủy Nam Bộ đã đê tiện hiếp chị X... Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Cần Thơ. Chị là con của một ông Hội Đồng giàu có, là hoa khôi của Tây Đô và có vị hôn phu là Tiểu Đoàn Trưởng của Tiểu Đoàn nổi danh 307. Lê Duẩn đã điều vị Tiểu Đoàn Trưởng nầy đi xa để ly gián hai người, rồi ra lệnh cho chị Chủ Tịch Liên Hiệp Phụ Nữ Nam Bộ cùng chị X vào cục nhận công tác. Khi bị Lê Duẩn hiếp, chị X đã kêu la cầu cứu, nhưng chẳng ai dám can thiệp, kể cả nhà văn Kim Nhật. Bất mãn, buồn chán… Ông bỏ trốn về thành…. 


2 hôm sau, tôi trở lên Sài Gòn, trình bày mọi việc cho tổ chức. Nhận thấy là thái độ của nhà văn Kim Nhật chưa dứt khoát, vì Ba ông không muốn xa con cháu; riêng ông có vẻ mong 1 người đồng chí cũ hiện giữ chức vụ lớn trong Quốc Doanh đánh cá đang tìm cách cướp 1 chiếc ghe tốt, có trang bị vũ khí để vượt biển được an toàn hơn chiếc ghe sông nhỏ với thành ghe rất thấp không thích hợp để đi biển của gia đình ông cựu Đại Tá Tỉnh Trưởng Gò Công.

Rồi tôi nhận lái ghe cho 1 tổ chức người Hoa. Họ cho tôi 2 chỗ và thêm 1 người bạn của cậu em vợ được tháp tùng với giá đặc biệt 1 lượng vàng. Tôi bàn tính mọi việc với Bà chủ ghe, Bà nghe tôi nhưng cho rằng "tôi là người quan trọng nhất, không nên lộ diện sớm, chỉ nên đi như khách và chỉ nhận trách nhiệm khi ghe ở ngoài biển". Tôi đồng ý. 

Đúng ngày hẹn, ghe Taxi đón chúng tôi gần bến phà Thủ Thiêm. Đến Cần Giuộc, Cần Đước gì đó khoảng 2, 3 giờ đêm; người lái Taxi cho biết là "động rồi, cá lớn phải chạy về Vĩnh Bình ẩn và yêu cầu chúng tôi lên bờ tự túc về nhà". Ghe Taxi chở khoảng 20 người, hầu hết là người Hoa, tôi khuyên họ là nên phân nhóm nhỏ 2, 3 người để di chuyển nhằm tránh sự nghi ngờ của dân địa phương và lực lượng dân phòng. Nhờ là lính biển, quen nhìn phương hướng, tôi dẫn cô em gái, cậu em vợ và bạn nó, tìm ra được bến xe đi Chợ Lớn. Len lén ngoái đầu lại, thì tất cả mọi người cùng đi trên chiếc ghe Taxi cũng đã có mặt. Xe chở khách bán buôn, đã đầy nghẹt, còn quang, gánh thì cũng đầy trên nóc và lủng lẳng khắp thành xe. Tới mỗi trạm gác thì người phụ xế đều chạy đi nạp hối lộ, do đó không hề có sự kiểm soát nào, nhờ đó chúng tôi may mắn về đến Sài Gòn được an toàn.

Bà chủ ghe đến gặp tôi và trấn an, tôi yên chí, không hề thắc mắc là thời đó chưa có điện thoại di động để liên lạc thì làm sao ghe Taxi biết được là đã bị động. Mải vài hôm sau, cháu của bà chủ đến gặp tôi. Chị là vợ của một Thiếu Tá Công Binh đã vượt biển thành công sang Úc và đã làm thủ tục bảo lãnh vợ – con, nhưng có lẽ vì nóng lòng hoặc không chịu nổi sự hoạnh họe của lũ VC ở địa phương Cây Gõ nên chị liều lĩnh vượt biên trước. Chị Y khóc lóc kể với tôi rằng chiếc ghe trị giá 12 lượng vàng mà phần chị và 3 người con đã góp vào 8 lượng, nhưng bà chủ ghe dì ruột của chị vì tham dùng người lái phụ chỉ tốn thêm 1 chỗ đã lái ghe đi, bỏ rơi cả gia đình chị. Tôi nghèn nghẹn, nhưng cũng chỉ biết an ủi chị rằng lòng người khó mà dò.


Ít lâu sau, có 2 người đến gặp tôi nhờ lái ghe. Người đàn ông xưng là dân Quốc Gia Hành Chánh Cựu Phó Quận Trưởng Quận Cần Đước. Bà vợ thì đeo cẩm thạch, vàng đầy tay và chiếc đồng hồ hiệu Citizen (thời đó Citizen là đồng hồ thuộc loại xịn) để khoe của và sự thành công. Trong khi bàn bạc và bày vẽ phương cách ra đi cùng họ, tôi đã thật thà khai báo là "vừa bị 1 tổ chức lừa, nhưng tôi nghĩ là họ sẽ không tệ như tổ chức kia". Họ cười cười và hẹn 2 ngày sau sẽ đến đón tôi, nhưng hơn tuần lễ vẫn không thấy, tôi bèn tìm đến nhà họ ở đường Tôn Thất Thiệp khu Chợ Trời để hỏi, thì người nhà của cặp nầy cho biết là chưa thuận lợi để đi và sẽ báo ngay cho tôi khi họ quyết định. Tôi ra về, nhưng sau đó được biết là họ đã bỏ rơi tôi, dùng người lái phụ lái ra cửa Tiểu thì bị Công An Tỉnh Tiền Giang xét bắt, cả 150 người khách và Ông-Bà chủ ghe phải đi gỡ lịch. Thật may! Số tôi đã hết dịp đi tù.


Tôi vốn gốc dân quê không lanh lợi, lớn lên đi học, đi lính, rồi đi tù nên thật ngờ nghệch trước những đổi thay của xã hội thời VC. Sau 2 lần bị gạt, tôi thật hoang mang, cộng với chuyện gia đình không vui, nên tuy bề ngoài luôn cười cợt, nhưng bên trong lại thường khóc thầm. Biết điều phiền muộn của tôi, người anh vợ từ sau khi ra tù, ngày ngày phải đạp xích lô để kiếm sống, nhưng thỉnh thoảng cũng đi vác củi thuê cho Ty Chất Đốt của thành phố, để khỏi phải đi vùng kinh tế mới và anh đã đề nghị tôi cùng làm việc nầy. Tôi lên phường xin cấp cho 1 giấy tờ hợp pháp để tôi làm việc cho Ty Chất Đốt Thành Phố. Những chức sắc của VC hầu hết đều không có trình độ văn hóa, thường chỉ do có công với "cách mạng" mà được chỉ định phụ trách điều hành công việc hành chánh. Tên Cán Bộ Phường Trưởng vui vẻ bắt tay tôi và gọi tôi là đồng chí, làm tôi nổi da gà.


Ty Chất Đốt tọa lạc trên đường Trần Quý Cáp thuộc Quận 3. Hàng ngày họ cắt 5-6 xe vận tải lên rừng chở củi về thành phố. Mỗi chiếc xe, ngoài tài xế là nhân viên cơ hữu của Ty, còn chúng tôi 5, 6 đứa chỉ là phu công nhật. Tài xế vận tải thời nầy có thớ lắm, thật khá giả và rất hách dịch. Số xe lên rừng mỗi ngày chỉ cần vài chục người phu, nhưng số người chầu chực buổi sáng mong được cắt đi lúc nào cũng khoảng vài trăm và người phụ trách chấm công lại là 1 cựu Trung Úy VNCH. Không rõ người anh vợ tôi đã nói gì mà mỗi khi thấy tôi thì ông cựu Trung Úy nầy đều chỉ định tôi đi làm và có lần còn kề tai nói nhỏ:

– Khi nào dzọt, đàn anh nhớ thằng em nầy với nhé.

Từ nhà tôi ở Phú Nhuận ra đến Ty Chất Đốt, tốn 5 đồng xe lam, 2 ngày ở trong rừng ăn 4 dĩa cơm với vài miếng ba rọi kho và chút rau muống tốn 40 đồng cộng thêm 4 đồng trà đá vì trời nóng như thiêu, vị chi là 49 đồng, nhưng khi được trả công chỉ nhận có 50, hoặc 55 đồng. Đường lên rừng Xuân Lộc, Hớn Quản, Lộc Ninh, Trảng Bàng... thật khủng khiếp, không chỉ ổ gà mà toàn lỗ chân Khủng Long, ngồi trong lòng xe mà bị dằn xốc đến nỗi có lần tôi treo một cái võng nylon để nằm và chiếc võng đã bị đứt làm đôi.

Sáng thì bụng trống trơn, lên đến rừng thì tên tài xế ra lệnh phải lăn xả vào công việc, trời thì nắng như thiêu, nhiều lần tôi bị choáng váng. Nếu 1975, khi tôi tù ở Long Giao, VC đã đốn vô tội vạ cao su ở Long Khánh để làm củi thì nay chúng cũng tàn phá những rừng của Miền Nam để lấy củi. Những khúc củi dài 2 mét, đường kính từ hai đến 4 tấc có khi nặng cả trăm kí lô gram. Chúng tôi phải khiêng đến xe với khoảng cách vài chục đến trăm mét, rồi chất lên xe tải có mui, lèn kín củi như chất que diêm trong một cái hộp quẹt. Tội nghiệp, mấy cậu trai trẻ thấy tôi quá đuối nhiều lần đề nghị:

– Ông thầy mới ra tù, khiêng hổng nổi đâu, để tụi em làm. 

Tôi thật cảm động, cám ơn các em, nhưng cũng phải ráng hết sức mình. Chất kín củi lên xe đã khó, mà chừa hộc để tên tài xế giấu nhựa cao su hay cà phê hoặc đậu xanh lại càng khó. Chắc chắn là hắn đã ăn chịu, nên chẳng ai dám tố cáo, còn nếu rủi bị thuế vụ xét gặp thì hắn sẽ đổ đẩy cho lũ phu chịu tội. May là chuyện bị xét đã không xảy ra lần nào. Chỗ xuống củi để trữ cho thành phố là khu đất gần Trung Tâm Tiếp Huyết và Tổng Y Viện Cộng Hòa. Việc xuống củi thì tương đối dễ dàng hơn. Trên đường Võ Di Nguy đoạn gần khu chứa củi thì con buôn đã đứng sẵn rất nhiều và các cậu phu lợi dụng đẩy xuống đường vài khúc củi để kiếm thêm vài trăm đồng. Phần tôi, đang đóng kịch đã giác ngộ lao động là vinh quang, nên dù một đêm trên rừng làm mồi cho muỗi đốt, khổ sở, vất vả, bầm dập tay chân.. để hầu như làm việc không công, nhưng tôi vẫn làm ra vẻ vui vẻ, còn các cậu trai trẻ thì đâu thể ngu như tôi rồi lấy gì sống. Chính VC đã đẩy các em phải mánh mung để sinh tồn.


Rồi một ông Trung Tá Công Binh mời tôi tham gia tổ chức của ông. Ông dẫn tôi đến xem chiếc ghe đang tân trang. Ghe dài khoảng 17 mét, 4 máy. Ông cho biết đã có 2 khẩu đại liên M60, 2 cây phóng lựu M79, 1 khẩu M16, vài thùng đạn và tuyên bố là nếu bị VC xét thì ăn thua đủ để thoát hoặc chết, quyết không để chúng bắt. Dù không thấy súng ống, nhưng tôi thích phương cách của ông Trung Tá Công Binh nầy. Tiếc là để kiếm cho đủ 250 người khách vượt biên như ông muốn không phải dễ và chẳng biết đến bao giờ.

Sau đó, một ông Trung Tá Dù đề nghị tôi lái cho 1 tổ chức đã có liên tục 10 chuyến thành công. Ông ta chỉ cho tôi thêm một chỗ và dù chưa thấy qua chiếc ghe, nhưng tôi vẫn nhận vì bằng mọi giá tôi đã nhất quyết phải ra đi. Ông giao cho tôi một số tiền để mua sắm hải đồ và tôi may mắn được em của một người bạn cùng khóa HQ bán rẻ nửa giá.


Trước khi ra đi, tôi đã dùng số tiền thừa phân nửa đó để đãi cho 4 đứa con của người dì vợ, mỗi đứa 1 tô bò viên ở chợ Phú Nhuận.Nhìn những đứa bé sung sướng xì xụp với tô bò viên, tôi thật xúc động. Trước 1975, nhà chúng cũng không tệ, nhưng khi VC thống trị thì trở nên nheo nhóc, cha là ngụy nên phải đi tù, mẹ thì muôn ngàn khó khăn để nuôi đàn con đông nheo nhóc, do đó trong nhiều năm chúng chỉ biết cơm độn với rau muống chấm nước mắm kho quẹt. Riêng cô chị cả của chúng, 16 tuổi đã đỗ tú tài 2, hạng tối ưu và nhờ học ở hội Việt-Mỹ nên khá thạo tiếng Anh, nhưng vì lý lịch con ngụy nên không được tiếp tục học, cũng không xin được việc làm. Cô tâm sự:

– Người xứng với em thì hoặc đang ở nước ngoài hoặc còn trong tù, còn lũ người rừng nầy (VC), thì dù chết em cũng không ưng. 

Do đó cô đã lén lút buôn chuyến, xuống miền Tây mua ít thịt thà, cá mắm đem về Sài Gòn bán kiếm chút lời, nhưng thời đó những món nầy đều bị cấm, bị chận xét, tịch thu và phạt; nên 10 chuyến chỉ họa hoằn 1, 2 chuyến là thoát. Kiếm được chút đỉnh, vay mượn thêm, cô vượt biển nhiều lần, nhưng đều thất bại và sau cùng bị chết đuối. Tội nghiệp, cô rất ngoan đạo, nhưng phận bạc phải lìa đời lúc tuổi còn thanh xuân.

Người trong tổ chức của ông Trung Tá Dù, chở tôi từ Sài Gòn xuống Vĩnh Bình bằng xe gắn máy. Ông nầy là cựu Đại Úy Biệt Động Quân, người to lớn, mập mạp, đội nón cối, đi dép râu, giống hệt 1 cán bộ VC, còn tôi với giấy tờ giả, ôm sacoche theo ông như là tà lọt. Nghe nói ông gốc dân Văn Khoa, không biết làm cách nào mà có dạo phụ trách thảo diễn văn cho tên Tư Lệnh Quân Khu 7 của VC.

Đón chúng tôi ở 1 quán cà phê ở Vĩnh Bình là 1 bí thư Xã Ủy VC. Ông nầy mê cộng sản, đã hiến 15 mẫu đất cho VC làm công binh xưởng, cả gia đình đều theo VC, có vài đứa con đã lên bàn thờ, riêng bà vợ bị bom gảy cột xương sống. Có điều là dưới thời VNCH thì ai cũng được bệnh viện chăm sóc, chữa trị, nhưng khi VC cướp miền Nam thì tất cả thuốc men đều vét sạch chở ra bắc, từ đó người dân Miền Nam dù bệnh gì thường chỉ có xuyên tâm liên hoặc thuốc dỏm, Bác sĩ dỏm thôi. Đến 1976, thì Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bị giải tán và hầu hết cán bộ VC Miền Nam cũng bị cho ra rìa. Bất mản vì 2 thập niên theo VC, chỉ được dăm bằng liệt sĩ, vài tấm huân chương treo vách để nhát con nít khi chúng khóc, vợ đau xin cấp thuốc cũng không có... ông bí thư Xã Ủy nầy quay sang bắt tay với "ngụy" và sau mỗi chuyến thành công được tổ chức thưởng cho 2 lượng vàng.

Cạnh nhà ông Bí Thư là nhà của tên Trung Đội Trưởng du kích xã, hôm đó có giỗ. Khoảng hơn 20 tên du kích với AK47, CKC nhậu nhẹt rần rần; thỉnh thoảng có tên kêu vói mời Bác Năm (ông Bí Thư) sang nhậu với chúng, ông ta thối thoát: 

– Tao không khỏe, tụi bây cứ tự nhiên.

Đến đêm, ông và cậu con, chống ghe nhỏ đưa tôi và ông Đại Úy Biệt Động Quân ra chiếc ghe lớn đậu gần 1 trại cùi. Mọi người đã lên ghe đầy đủ và chúng tôi là 2 kẻ sau cùng. Ghe bắt đầu hướng ra biển. Theo giao hẹn, tôi chỉ trách nhiệm khi ghe ra biển, nhưng khi đi được một đoạn còn khá xa biển, người lái ghe nhảy xuống ghe con trở về. Phóng lao phải theo lao, tôi tiếp tục lái ghe ra cửa Ba Động.


Hồi năm 1971, khi phụ trách chiếc kiểm báo Hạm Ba Động HQ 460, tàu tôi neo ngoài khơi cách cửa Ba Động 20 cây số, các Sĩ Quan thay nhau vào Vĩnh Bình mua thực phẩm cho tàu, còn tôi chưa lần nào vào đó. Vì không biết gì về cửa Ba Động nên khi ghe ra gần đến cửa biển, dù sông thật rộng, ghe tôi bị vướng phải một cồn ngầm. May nhờ thủy triều lên, tôi rút ghe ra được và thẳng ra biển. Lúc đó biển thật động, mà ghe là ghe nhỏ đi sông, thành ghe rất thấp, không có volant nên phải lái với cái cần lái ở đuôi ghe. Do không thể đâm thẳng ra biển, tôi phải lái chếch sóng, nhưng ngày càng gần hải đăng Vũng Tàu. Cuối cùng tôi phải liều lĩnh chấp nhận rủi- may đâm ra khơi. Hôm đó vì biển quá động, những ghe quốc doanh đánh cá từ Côn Sơn phải chạy cả về SGN và khi ghe tôi ra khơi khoảng hơn nửa giờ thì bị một ghe Quốc Doanh đuổi theo. Ghe chúng lớn loại đi biển được trang bị máy mạnh, còn ghe tôi nhỏ, máy chỉ 2 Bloc; nếu chúng tiếp tục đuổi chắc chắn sẽ bắt được chúng tôi, nhưng không hiểu vì sao chúng bỏ cuộc và ghe tôi thoát nạn. Trưa hôm sau, chúng tôi lọt vào một cơn giông. Thường thì sóng biển từng đợt đánh theo chu kỳ, nhưng trong cơn giông thì sóng loạn, tôi vừa lái vừa cố gắng tránh sóng, tuy nhiên vì thành ghe thấp và đôi khi tránh không kịp nên thỉnh thoảng ghe cũng bị sóng tràn vào. Tôi yêu cầu cánh đàn ông, chia từng cặp thay nhau múc nước đổ ra biển. Còn phụ nữ và trẻ con thì thật tội nghiệp, họ vô cùng sợ hãi, nhưng chỉ biết xì xụp lạy hay cầu nguyện. Trên ghe tôi có 1 ông Tiến Sĩ, nhưng lúc đó ông không phụ tát nước mà chỉ cầu nguyện như những người phụ nữ, tuy có trình độ văn hóa cao nhưng khi hữu sự giá trị của ông lại không bằng các cậu trai trẻ. Phần tôi, đã từng 2 lần thoát chết trong trại tù CS, nên lúc đó tôi không hề sợ, ngoài ra nhìn hàng chục đứa bé thật tội nghiệp, tôi càng vững tay lái hơn, vừa niệm Phật vừa lái đến khi trời sụp tối. Tôi đang lo là sẽ không thấy đường để tránh sóng thì may thay sóng dịu dần như có một phép mầu. Sau 1 ngày vật vã với sóng gió, tôi mệt đừ, nên giao tay lái cho cậu em vợ và ngả lưng bên cạnh những buồng dừa ngổn ngang. Số là tổ chức cho biết là tôi có 1 người phụ lái và 1 người thợ máy nhưng trên thực tế thì người phụ lái là 1 cựu Đại Úy Địa Phương Quân đã có lái qua tàu sông, nhưng suốt trong chuyến vượt biên ông không lái thay cho tôi lần nào. Còn người thợ máy thì dỏm, thực ra chỉ là 1 thợ tiện, anh ta ở trong cabine trông nom máy và phụ trách giữ mấy bao bột đậu xanh và bột Bích Chi. Anh lại rất say sóng, nên giữ gìn thế nào mà mấy bao thức ăn nầy bị lọt xuống hầm máy và ngấm dầu gas-oil nên không còn dùng được.


Trong đêm, khi cậu em ôm tay lái, tôi chập chờn bên cạnh thì nghe tiếng nước chảy róc rách. Kiểm lại thì chiếc thùng phuy chứa nước uống vì quá cũ lại bị sóng nhồi nên bị thủng và nước thoát ra, khi tôi phát giác và bít được lỗ thủng thì nước chỉ còn lại rất ít. Rồi một cơn mưa to chợt ập đến, do không được dự trù trước nên một số người vội đem cái mền căng ra hứng được đầy phuy nước. Điều thật buồn cười là cái mền cũ có lẽ từ nhiều năm không được giặt nên ngày mai khi nắng lên, nước hứng được có màu xám đen và trên mặt là một lớp váng. Dĩ nhiên là chẳng ai dám động đến, do đó suốt chuyến vượt biên, ngày 2 lần, khoảng 10 giờ sáng và 17 giờ chiều, cậu em vợ tôi và vài cậu nữa phải chặt dừa, đem phát cho trẻ con, phụ nữ và đàn ông mỗi đầu người khoảng 10cc nước dừa tươi, phần tôi cũng ngần đó. Sang ngày thứ tư, chúng tôi gặp 2 tàu đánh cá Hồng Kông đang neo và chúng tôi đến để xin tiếp tế. Mấy cục piles phải ưu tiên dùng cho hải bàn và thỉnh thoảng cho radio để nghe tin tức khí tượng, nên mỗi khi gặp tàu, vì không có đèn làm hiệu, mấy cậu trai thường lột áo nhúng dầu buộc vào cây sào rồi đốt lửa làm hiệu cầu cứu, do đó thường các cậu chỉ còn có cái quần sọt, mình trần, còn đầu thì quấn chiếc khăn trông giống như hải tặc. 

2 chiếc tàu cá Hồng Kông ít người, có lẽ sợ bị cướp nên lúc đầu ra dấu không cho chúng tôi đến gần. May thay trên ghe có 1 phụ nữ gốc Hoa, trao đổi tiếng Hoa với họ. Khi hiểu rõ, họ cho phép ghe tôi cặp vào để cho nước, nhớt, bánh ngọt, tạp chí. Riêng tôi còn được vào phòng lái để xem vị trí nơi tàu đang neo và có lẽ nhờ ơn trên, dù chỉ lái bằng sự phỏng định, nhưng vị trí ghe tôi cũng không sai lắm so với ước tính. Với vị trí nầy, nếu không có gì bất thường thì khoảng 24 giờ sau chúng tôi có thể đến được Mã Lai hoặc Nam Dương.


Chúng tôi từ giã thủy thủ đoàn của 2 chiếc tàu Hồng Kông với niềm biết ơn sâu xa. Mọi người trên ghe tôi chia nhau bánh, tạp chí, uống nước thỏa thích và vì sắp được đến đích nên ai cũng đều lên tinh thần. Riêng tôi, miên man nghĩ về việc trong khi hàng chục chiếc tàu đủ quốc tịch đã làm ngơ trước sự kêu cứu của chúng tôi, thì tại sao 2 chiếc tàu Hồng Kông nầy lại thật tốt giúp đỡ chúng tôi. Nhớ hồi năm 1974, có 2 chiếc tàu đánh cá Hồng Kông vi phạm lãnh hải VN, bị chiến Hạm HQ/VNCH bắt giải giao về BTL/HQ/V1/DH. Lúc đó tôi phụ trách về việc nầy trước khi giao lại cho Quan Thuế Đà Nẵng lo về thủ tục pháp lý và liên lạc với chính phủ Hồng Kông. Thủy thủ đoàn của 2 tàu đánh cá nầy rất lo sợ, họ đã tìm cách hối lộ tôi, nhưng chẳng những tôi không động đến tôm cá hay tiền bạc của họ, mà còn giúp cho họ trong khả năng. Không biết có phải là luật nhân quả đã ứng hiện cho trường hợp nầy chăng? Nhưng rồi niềm vui của mọi người sớm vụt tan, anh thợ máy dỏm không rõ vụng về thế nào, làm rơi chiếc áo tee-shirt quấn vào trục láp làm chết cả 2 máy tàu và không sao khởi động lại được. Ông phụ lái của tôi lúc nầy xuất hiện, đề nghị cắt miếng bạt mui ghe làm buồm và nhiều phụ nữ tiếp tay thực hiện được chiếc buồm con, nhưng không may hôm đó gió rất yếu lại thổi ngược hướng chúng tôi muốn đi, nên buồm cũng không có công dụng lắm, ghe chúng tôi trôi lênh đênh như con tàu ma. Không rõ ông phụ lái thuyết phục thế nào mà hầu hết mọi người nhất là mấy bà yêu cầu tôi quay mũi ghe đi Phi Luật Tân. Tôi giải thích rằng mình đang gần Nam Dương, Mã Lai, Singapore, ghe hiện trên hải đạo quốc tế có nhiều tàu bè qua lại, hy vọng chúng ta sẽ được cứu vớt, còn đi Phi Luật Tân thì rất xa mà ghe mình chỉ có chiếc buồm con lại thiếu lương thực và nước uống. Tôi đề nghị là nếu qua 2 ngày mà không có tàu cứu sẽ quyết định sau. Mọi người đồng ý, nhưng chỉ sau 24 tiếng đồng hồ họ lại nghe ông phụ lái yêu cầu tôi phải đi Phi Luật Tân lập tức. Tôi thật nản, định buông xuôi, nhưng trên bầu trời bỗng xuất hiện 1 chiếc máy bay cánh quạt của US NAVY bay thật thấp gần ghe chúng tôi. Mọi người la hét kêu cứu, nhưng máy bay tiếp tục bay thẳng vào Mã Lai. Thật ra thì người trên máy bay đã thấy chúng tôi và họ cũng đã liên lạc với tàu trong khu vực đến cứu chúng tôi. Lúc đó thì không xa chúng tôi có 2 chiếc tàu; chiếc thương thuyền chạy thật nhanh thì xa hơn, còn chiếc tàu gần thì chạy thật chậm. Trời lúc đó mưa lất phất, trần mây thì thấp và u ám. Lợi dụng lúc mặt trời vừa thoát ra khỏi cụm mây, tôi dùng đáy của hộp bánh sơn màu trắng inox lắc lắc như đánh đèn hiệu về hướng chiếc tàu chạy gần và liền đó chiếc nầy chuyển hướng đi về phía chúng tôi. Khoảng nửa tiếng sau thì chiếc CHINON tàu dầu của hãng BP ( British Pétroleum ) chỉ còn cách ghe tôi vài chục mét. Họ ném dây xuống cho chúng tôi. Vài cậu trai trẻ nhảy ùm xuống biển để vớt dây. Tôi lo lắng vì sợ họ bị cá mập tấn công, nhưng may thay có một đàn cá heo vài chục con nổi lên nhào lộn gần mấy cậu đã cất đi niềm lo của tôi, vì thường đâu có cá heo là không có cá mập.


Khi ghe tôi đã áp vào tàu lớn thì họ thả thang dây xuống để chúng tôi leo lên tàu. Tôi là người sau cùng đặt chân lên tàu và được yêu cầu lên gặp ngay vị Thuyền Trưởng. Ông cho biết là chính phủ ông không thuận để cứu ghe vượt biển, nhưng vì lý do nhân đạo mà ông đã linh động, do đó yêu cầu tôi phải đánh đắm chiếc ghe, ông cũng ngỏ ý xin cái hải bàn và tấm hải đồ để làm kỷ niệm. Tôi cho thi hành mọi việc, đồng thời dặn dò mọi người nên giữ tư cách, kỹ luật và tuyệt đối tôn trọng về an ninh phòng hỏa hoạn cho chiếc tàu dầu. Có lẽ do vui mừng vì sắp được bến bờ nên mọi người đã răm rắp nghe tôi và lấy được cảm tình của thủy thủ đoàn của chiếc tàu dầu. Lúc đầu họ nấu thức ăn rồi đem ra boong tàu phát cho chúng tôi. Sau thấy chúng tôi không tệ nên đến giờ ăn thì chúng tôi cũng được vào phòng ăn chung với họ. Vì quá mừng, khi leo thang lên tàu, một số người tỵ nạn đã vứt cả giày, dép nên ông Thuyền Trưởng đã ra lệnh cho thợ mộc trên tàu cưa ván ép, đóng cho những người nầy những đôi guốc đi lốc cốc trên tàu trông thật ngộ nghĩnh; ngoài ra ông còn cho tổ chức văn nghệ, ca múa để mọi người giải trí. Tối hôm đó tôi được viên Sĩ Quan đi phiên mời lên phòng lái. Tàu dầu dài hơn 300 mét, trọng tải vài trăm ngàn tấn, nhưng thủy thủ đoàn chỉ 32 người và ngoài giờ hành chánh, để đi quart trên đài chỉ huy chỉ có 2 người và dưới phòng máy 1 người. Ông SQ trưởng phiên cho người phụ tá đi lấy 1 chai rượu chát và rót mời tôi một ly. Khi nghe tôi trình bày, ông rất chú ý lắng nghe và cho biết là nếu ghe tôi phải quay về Phi Luật Tân thì có thể sẽ gặp 2 cơn bão nhiệt đới. Ông còn cho biết là khoảng thời gian nầy năm trước, tàu ông có cứu 1 ghe vượt biển gần 30 người, nhưng khi lên tàu họ phá phách quá và còn cắp vặt. Rút kinh nghiệm lần trước, ngoài ra vì chính phủ Pháp không cho phép nên ông Thuyền Trưởng đã nói với thủy thủ đoàn là ghe tôi chắc đã chết hết rồi. Mãi đến khi thấy vài ánh chớp, tức còn người sống, thủy thủ đoàn nài nỉ quá nên ông phải chiều theo và cứu chúng tôi. Đang nói chuyện với nhau, thì có âm thanh và đèn hiệu báo động, ông SQ.TP giải thích là có chướng ngại vật trên hướng đi của tàu, tuy nhiên tàu sẽ tự động giải quyết mà không cần đến sự can thiệp của ông. Làm việc trên con tàu tối tân sướng thiệt.


Sau hơn một ngày thì chiếc CHINON đến Singapore. Cơ quan tỵ nạn LHQ ở nước nầy cho 1 chiếc tàu nhỏ ra đón chúng tôi, thủy thủ đoàn của chiếc tàu dầu thật tử tế, họ quyên tiền tặng chúng tôi, nhưng tôi đại diện cám ơn rằng các ông đã cứu mạng chúng tôi, điều đó thật cao quý và xin khước từ số tiền, ngoài ra khi tiễn chúng tôi, thủy thủ đoàn chiếc tàu CHINON có nhiều người đã rơm rớm nước mắt.

Bà Mười – Vợ của DS La Thành Nghệ, đại diện HCR thật ân cần thăm hỏi chúng tôi và đưa thẳng chúng tôi vào trại tỵ nạn Sembawang – Singapore. Trại trước kia là khu gia binh của các Sĩ Quan người Anh, thật khang trang, sạch sẽ. Trại không có các vòng rào kẽm gai, không có gác sách. Những người làm việc cho HCR thì thật lịch sự và tử tế. Tuy chúng tôi chỉ ở trại 3 tháng, nhưng họ cũng tổ chức dạy cơ bản về tiếng Anh, tiếng Pháp cho người tỵ nạn, chăm sóc tốt sức khỏe và mỗi tuần phát cho chúng tôi mỗi người 10 đô la Singapore tức 5 dollars Mỹ để sống và cuối tuần chúng tôi còn được phép đi phố chơi. Những người vượt biển hầu hết đều có mang theo tiền bạc và nữ trang, giá sinh hoạt ở Singapore cũng không đắt đỏ lắm, nên tha hồ mua sắm. Phần tôi không có xu teng nào nhưng nhờ được cấp 10 đô la mỗi tuần nên cũng thong dong. Còn cậu em vợ theo mấy cậu trai khác lén ra phố khuân vác lặt vặt cũng kiếm được chút đỉnh để mua sắm. Người Singapore thật văn minh, lịch sự và tử tế... hàng tuần họ còn chở thịt cá, rau cải vào giúp cho chúng tôi. Công tâm mà nói thì Singapore quả là thiên đường của người tỵ nạn. Những người cùng trên chiếc ghe tôi tỵ nạn ở Singapore, trừ những ai được thân nhân ở Mỹ, Canada, Úc bảo lãnh, số còn lại vài người vì do tàu Pháp vớt, nên được đi định cư ở Pháp. Phần tôi, do trước kia đã cứu mạng 3 quân nhân Mỹ và được thưởng huy chương Hải Quân Mỹ, nên tôi được xếp loại ưu tiên đi Hoa Kỳ, nhưng cay cú về việc người Mỹ đã vô nhân đạo trước nỗi hiểm nguy của thủy thủ đoàn chiếc HQ10 đào thoát trong trận hải chiến Hoàng Sa chống Trung Cộng xâm lược năm 1974, trong đó có bạn tôi là HP chiếc HQ10, ngoài ra "nực" về việc Mỹ đã phản bội VNCH, nên tôi đã khước từ đi Mỹ. Tháng 11/1983, tôi sang Pháp định cư đúng vào thời mà Đảng Cộng Sản Pháp cực thịnh, nên không được thuận lợi và tôi đã phải vô cùng khó khăn, vất vả để thích nghi với cuộc sống mới.


Tôi sinh ra đã sớm nếm mùi tân khổ, cuộc đời lại trải qua không ít nghịch cảnh, ngoài ra còn biết thế nào là địa ngục trần gian ở các trại tù VC; chính những kinh nghiệm quý báu đó đã giúp tôi vượt qua tất cả mọi khó khăn. Rồi nhờ ơn trên, sớm ngộ được thiền mà tôi có được cuộc sống thong dong, thanh thản. Hiện tôi có sức khỏe tốt, vật chất đủ, nhiều tự do, so với hàng triệu người trên thế giới, tôi thật may mắn. Ơn đời thật chứa chan, xin cám ơn Cha-Mẹ và những người đã giúp tôi có cuộc sống hôm nay./.

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21951
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 16/Mar/2024 lúc 7:46am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 21951
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Ngày hôm qua lúc 8:58am

Tháng Ba Ngậm Ngùi


Chàng%20Từ%20Khi%20Vào%20Nơi%20Gió%20Cát%20-%20Truyện%20-%20Hồi%20Ký%20-%20Tùy%20Bút%20-%20Tạp%20Ghi%20-%20Hưng%20%20Việt

Những ngày của tháng 03/75 khởi đầu là cuộc triệt thoái theo liên tỉnh lộ 7 của quân đội từ Pleiku xuống Tuy Hòa đầy máu và nước mắt. Nhìn đoàn người dân chạy giặc từ ngoài Trung vô trên quốc lộ 1 ngang thị trấn Bình Định nơi tôi đang đứng, tôi biết rằng Bình Định đang trong cơn hấp hối.

6 năm sau đó cũng vào tháng 03/81 có một chiếc xe đò hiệu Khánh Hòa với thùng than to tổ bố đèo theo phía sau rùng rùng ngừng lại tại ngã ba cải lộ tuyến Ninh Hòa nơi quốc lộ 1 kéo dài từ Nam ra Bắc (trong hình). Chiếc xe thả xuống lòng đường một tên ốm nhách nặng chưa tới 42 ký. Tên này áo quần bèo nhèo nhăn nhúm với bọc đồ được gói trong một miếng ni lông ôm trong bụng. Tên đó là tôi sau 6 năm ở tù từ Trại A30 vừa được thả ra.

Nơi này có một tấm bảng chỉ đường. Mũi tên phía phải chỉ hướng Tuy Hòa. Mũi tên còn lại chỉ hướng Ban Mê Thuột. Đó cũng là con đường đi vào phố chợ Ninh Hòa nơi có nhà tôi ở, cũng là nơi tôi được sinh ra và lớn lên. Khuất sau chòm cây bên phải của tấm hình là Hòn Sầm, có mộ má tôi nằm yên giấc. Lội theo con đường phía bên trái tôi đi bộ về nhà.

Đi ngang qua Trường Trần Bình Trọng nơi tôi theo học thời niên thiếu, nhìn lại cảnh cũ âm thầm nuốt lệ. Tôi vào tù năm 25 tuổi và được thả ra năm 31 tuổi. Cái giá 6 năm không nhiều lắm nhưng cũng đủ chuyển tôi từ 1 thanh niên phơi phới tuổi thanh xuân biến thành 1 gã đàn ông lếch thếch giống như đang mắc bệnh nghiện xì ke.

Hàng cây khuynh diệp trước cổng tự tay chúng tôi trồng kỷ niệm khi cây còn bé tí đo chưa tới 2 gang tay nay đã cao lớn và cũng sắp già. Hàng cây này chúng tôi trồng vào năm 1967 là năm tôi học lớp đệ nhị (lớp 11 bây giờ). Nơi này cũng là nơi tôi và các bạn cùng lớp quây quần bên nhau từ giã tuổi niên thiếu trước khi bước chân vào cuộc chiến. Đang vào mùa đông trốn trong nách phía trên cao của dãy khuynh diệp là những vệt nắng chiều thả màu vàng yếu ớt lên những chiếc lá èo ọt.

Ngang trường cũ tôi đứng lại với bộ đồ tù vá đùm đụp nhiều chỗ. Tôi lặng lẽ buồn. Tại nơi này mới hôm nào tôi còn là một cậu học trò đồng phục quần xanh áo trắng giờ là người tù đang bước vào tuổi trung niên. Cũng chỉ là một người nhưng tôi có cảm tưởng bị tách làm hai. Tôi nhớ bạn bè cùng lớp, những đứa con trai bị dòng chiến tranh cuốn hút tản lạc muôn phương. Những đứa tử trận, những đứa còn sống đang vất vưởng tại một nơi nào của một trại khổ sai nào đó. Những người con gái sợ lỡ xuân thì cũng vội vã lấy chồng là lính giờ cũng đang mòn mõi đợi.

Tôi lủi thủi đi vào con phố với biết bao nỗi ngậm ngùi. Không ai nhận ra tôi đang trên con đường. Sau khi miền Nam bị đoạt mạng tất cả đều tan nát...


Ngậm Ngùi

Chiếc xe đò rùng mình nín thở

Quẳng xuống đường một nhúm xương khô

Gã lính ngụy lưu đày ngơ ngác

Chưa dám tin mình đã trở về

Gã băng qua mùa đông vào phố

Nắng loe hoe đọng ngã ba đường

Chiều ngủ vùi trên manh áo vá

Có con chim cất tiếng chào buồn

Dãy bạc hà hiên trường thuở nhỏ

Gió thều thào lúc gã đi qua

Vàng thiêm thiếp thẫn thờ lá đợi

Chút mong manh xuân ấm chợt về

Chiếc cầu nơi tuổi thơ đánh rớt

Đám lục bình khóc ướt dòng sông

Gã lục lọi tìm trong ký ức

Bạn bè xưa ai mất ai còn

Cây trụ điện đứng nơi góc chợ

Gánh cặp loa ruột thắt gan bầm

Hát ra rả ngàn lời mị ngữ

Còn riêng mình mòn mỏi tháng năm

Gã tha thẩn mò vào xóm cũ

Người quen xưa tản lạc muôn phương

Trời lồng lộng cao không vói tới

Giẫm cuộc đời nát vụn dưới chân

Con chó già ngồi chơi trước cửa

Ngửi hơi xưa lúc lắt đuôi chào

Chiếc áo mặc tróc bươm từng mảng

Con ruồi bay quanh mũi lao đao

Tên công an trông coi khu vực

Biết gã về mang súng tới hăm

Con chó nản nhắm nghiền mắt đói

Chuyện thường ngày lâu thét thành quen.


Quan Dương



Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - Ngày hôm qua lúc 9:14am
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 90
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.344 seconds.