![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 111 |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23930 |
![]() ![]() ![]() |
![]() Tưởng mới hôm qua đỏ lửa Hè, Ai ngờ, đã mấy chục mùa ve! Chưa quên phi đạn bay vi vút, Còn nhớ hỏa châu bắn sáng lòe. Nó thắng, bởi hung tàn tột đỉnh! Mình thua, vì viện trợ loe hoe. Nỗi đau lịch sử chưa từng có !!! Đại lộ Kinh hoàng, dạ sắt se! Trần Quốc Bảo Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Aug/2025 lúc 3:49pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23930 |
![]() ![]() ![]() |
Bản Tình Ca Của Người Tị Nạn![]() (Lời giới thiệu: Tôi không dám tự cho mình đã đọc nhiều sách và lại càng không dám phê bình một cây bút nào...nhưng qua bài tự truyện này, tôi phải thảng thốt lên rằng Ồ giọng văn gãy gọn, ngắn mà súc tích biết bao, ngắn gọn như là tác giả tiết kiệm từng lời từng chữ...để không dẫn dắt độc giả vào những chi tiết quanh co nhưng vẫn làm rung động trái tim tình người... không như nhiều cây bút khác tôi đã từng đoc. Mời các bạn theo dấu chân di vào đoãn buồn một đời lưu lạc...) ----- Hai năm sau ngày đất nước chia đôi, từ miền Bắc hoang tàn, tôi lặn lội tới vùng giới tuyến mong vượt thoát vào miền Nam tự do. Lần tới gần sông Bến Hải, đêm tối âm u bờ Bắc, tôi đã nhìn thấy cầu Hiền Lương vì bờ Nam rực sáng ánh đèn. Trên cột cờ cao vút, bóng cờ vàng sọc đỏ lung linh. Giọng ca ngọt ngào từ loa treo vọng về miền Bắc: "...sông Bến Hải là nơi chia cắt đôi đường... hỡi ai... lạc lối... mau quay... về đây ...!" Tôi đứng đó chơi vơi định hướng, đăm đăm nhìn cờ vàng bên kia bờ sông lịch sử, uống từng lời ca trong cơn đói khát, rồi bừng tỉnh, lao lên phía trước. Từ đâu đó, mấy cái nón cối xông ra. Tôi bị trói hai tay bằng sợi thừng oan nghiệt, theo nón cối về lại địa ngục trần gian. Mười chín tuổi, lao tù đầy đọa, tôi đã mất mẹ, mất cha, bị qui là tư sản, xa vắng họ hàng vì chia rẽ giai cấp. Tôi mất Hà nội là nơi tôi sinh ra làm người Việt Nam. Không có tang cha khi cha gục xuống, không có tang mẹ khi mẹ xuôi tay, không hy vọng có đám cưới đời mình. Bạo quyền cộng sản Việt Nam bắn giết hàng trăm ngàn người, bị qui là địa chủ. Nhiều trăm ngàn người bị tập trung lên rừng, để lại vợ con không nhà không đất. Thời gian làm ngưng nước mắt, oán than cũng vô ích, chỉ còn tiếng kêu vang vọng khắp miền: "Chúng tôi muốn sống!" Hai mươi lăm năm sau (1981) tôi vượt biển, thoát tới Hong Kong. Bốn mươi tư năm từ lúc chào đời, tôi thành người tị nạn cộng sản. Ngày tiếp kiến phái đoàn Mỹ xin đi định cư, một ông Mỹ dáng nghiêm trang, nghe tôi trả lời, đột nhiên hỏi "Anh có biết nói tiếng Pháp?". Tôi nhìn ông, giọng run run: "L'exilé partout est seul!" (Kẻ lưu đày nơi đâu cũng cô độc). Ông gật đầu hiểu cả tiếng Tây, hiểu lòng tôi đau xót. Xưa tôi học trường Albert Sarraut, Hà Nội. Đứng bên rào kẽm gai, sau dãy nhà tôn của trại tị nạn Hong Kong, một mình, suy tư thân phận. Tôi sẽ đến nơi xứ lạ là nước Mỹ xa xôi, tìm quê hương mới, chỉ trở về khi đất nước Việt Nam tự do, không còn cộng sản. Đứa bé chừng 5, 6 tuổi, tung trái banh, toan bắt thì trượt chân trên sân trại. Tôi đã kịp giang tay đỡ cháu khỏi ngã thì người đàn bà chạy tới, đứng im, lặng lẽ nhìn tôi. Tiếng trẻ thơ kêu "Má", tôi nhìn nàng... Sự thầm lặng và ánh mắt trao nhau là chân tình của người tị nạn Việt Nam nhẫn nhục, khổ đau, nói được nhiều hơn lời nói. Rồi những ngày sau đó, tâm sự, nỗi niềm, tôi đã cùng Mai kết thành bạn đường và bạn đời, đi Mỹ định cư. Chồng Mai là người lính Cộng Hòa hiên ngang dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, quyết bảo vệ quê hương. Anh tử trận, mang thân đền nợ nước, để lại con thơ. Mai trở thành góa phụ, miền quê Đà Nẵng, cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại. Sau năm 1975, mất nước. Mẹ già khuất núi, con chậm lớn vì cháo loãng, bo bo thay cho sữa mẹ và cơm. Một đêm mưa bão, Mai bị tên Việt cộng trưởng công an xã cưỡng hiếp, du kích xã canh gác quanh nhà. Mai phải sống vì con mới lên ba, mất cha còn mẹ. Người dân Đà Nẵng ra đi, đã mang theo vợ con người lính chiến tới Hong Kong năm 1981. Đứa con lên sáu không biết tiếng gọi "Ba"! Tôi mang nặng tủi nhục, đọa đày triền miên từ đất Bắc đi tìm tự do. Mai gánh những thương đau, mất mát, cơ cực của miền Nam, bồng con đi tị nạn. Lấy dĩ vãng chia xẻ cùng nhau, chúng tôi sắp xếp lại hành trang cho bớt gánh đoạn trường, đi Mỹ. Con đã có Má, có Ba. Má bồng con, Ba xách túi. Con có đồ chơi, cầm chiếc máy bay vẫy chào các chú, hai người lính chiến Quảng Nam đưa tiễn. Tôi nhìn con tự nhủ: "Ba sẽ dạy con tiếng "Cha", chỉ cho con hình người lính Cộng Hòa, ở bất cứ nơi đâu đều là Cha con đó!". Mai đã nhất định không đi kinh tế mới. Tôi đã trốn công trường, vào tù chịu đựng, bây giờ dù bỏ lại quê hương nhưng còn Tổ quốc Việt Nam. Bốn ngàn năm lịch sử, thăng trầm, người dân nước Việt sẽ không trở thành Cộng sản. Quê hương mới của chúng tôi là vùng đông bắc nước Mỹ. Căn apartment hai phòng, hai chiếc giường nệm, một chiếc bàn con, đã cho tôi ấn tượng đẹp những ngày đầu tới Mỹ. Lúc tôi khôn lớn, không có chiếc giường làm nơi cư trú, vì đã thành vô sản. Rồi tôi hiểu, vô sản cũng vẫn còn giai cấp. Phải lên rừng, một miếng nylon bọc vài manh vải gọi là quần áo, thì mới thành "người vô sản chân chính"! Nhìn con ngon giấc ngủ thần tiên, vợ chồng tôi thao thức, không phải lo âu mà thì thầm những dự định tương lai. 18 tháng welfare trợ cấp, đủ thời gian cho mình đi học tiếng Anh. Đọc dòng thư hội M&RS nhắc trả nửa tiền nợ vé máy bay sang Mỹ "Xin bạn trả dần 12 tháng, giúp cho người sau bạn định cư", theo ý Mai, ý nghĩ nhân hậu của người đàn bà làm mẹ, "mình trả ngay từ tháng thứ hai". Việc đơn giản là tại sao người ta không khấu trừ vào trợ cấp, lại đòi riêng. Mai chỉ nhẹ nhàng "nợ thì mình trả, ở hiền sẽ gặp lành", nhưng tôi lại suy nghĩ mung lung. Đây là bước đầu thử thách, cái thước đo lòng người tị nạn. 72 đô tiền nợ một tháng, có thể không trả và quên đi. Một lần để lòng vẩn đục sẽ trở thành bất lương. Cha mẹ bất lương con cái sẽ chẳng nên người. Một sáng mùa Xuân, "bé Nam" gọi Má, gọi Ba, chỉ bông hoa mầu vàng mầu đỏ đung đưa bên vườn hàng xóm, kêu lên "hoa tu-líp". Bà già người Mỹ đứng trên thềm, giơ tay vẫy vẫy. Mai đã nói "Thank you", ngọt ngào, mạnh dạn, tay chỉ trỏ, diễn tả được những gì muốn nói. Bà Jenny hiểu chút ít về "chiến tranh Việt Nam" qua tivi, sách báo hồi bà còn dạy học. Bà đã thấy "Boat people", những thuyền nhân tị nạn, nhưng lần đầu bà thấy một gia đình người Việt đến vùng này, lại là hàng xóm nên bà có cảm tình. Đây là ứng nghiệm "Ở hiền gặp lành" hay là sự may mắn cho gia đình tôi? Nói thế nào thì cũng đúng vì vài nơi trên đất Mỹ vẫn còn kỳ thị chủng tộc. Thời gian trôi đi nhưng hai tiếng "lần đầu" lặp lại: lần đầu ra nhà Bank, lần đầu tới Post Office. Có những lần đầu chưa biết, nhưng có hai lần đầu quan trọng: "bé Nam" đi học, chúng tôi xin được việc làm. Bà Jenny cùng chúng tôi đưa "cháu" tới trường, bà cho chiếc mũ baseball và đôi giầy sneaker trắng muốt, khen "Cháu cute." Vợ chồng nhìn nhau, không hiểu, lát nữa về tra tự điển. "Từ nay chúng mình có Má, bé Nam có Bà...!" Mai thốt lên khi chúng tôi đồng lòng nhận "Má Nuôi". Bà Jenny thành "Má Jen". Chuyện xảy ra vào ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), 17 năm về trước. Sống một mình trong căn nhà rộng rãi, bà Jenny vốn là cô giáo nên rất yêu trẻ. Bà mời "cả nhà" sang ăn Turkey. Bé Nam lên bảy, đi học, hiểu nhiều về Thanksgiving hơn Má và Ba. Ăn uống vui vẻ, vợ chồng tôi nói chuyện với bà, có lúc ngồi im lặng hơi lâu vì vốn tiếng Anh ít ỏi. Bỗng bé Nam kêu "Má...!", bà Jenny toan đứng dậy thì Mai buột miệng nói: "Má... let me do it!". Nghe tiếng "Má" lỡ lời của Mai, tiếng Việt, vừa lạ, vừa thích, bà bâng khuâng giây lát. Mai kể chuyện xưa, miền Đà Nẵng cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại... Tôi góp phần thông dịch, bớt thêm: Người Việt Nam coi việc chăm sóc cha mẹ già là bổn phận, dù chịu nhiều cơ cực cũng cố gắng đền ơn sinh thành, dưỡng dục. Bà suy nghĩ mấy ngày, bỏ dự định chuyển về Florida, tỏ ý muốn nhận gia đình tôi làm Con, làm Cháu. Chúng tôi dọn nhà sang ở chung với "Má Jen", điều này ít thấy trong các gia đình người Mỹ có con trưởng thành. Các con nhờ Má, nói được tiếng Anh. Cháu quấn quít bên Bà, xem chú chuột Mickey. Mùa đông buốt giá nhưng trong nhà nồng ấm tình người. Má vui tươi hơn trước, thích ăn bánh xèo và phở Việt Nam. Mai vẫn cặm cụi hàng ngày, làm những chiếc ví tay của phụ nữ. Mấy người bạn Việt Nam đặt cho Mai biệt danh "Bà đầm hãng bóp" vì "giỏi việc, lại biết tiếng Anh," nhiệt tình giúp đỡ bà con. Cũng như Má Jen, Mai không thích sa hoa, theo Má vào tiệm sách trong Mall nhiều hơn vào tiệm bán phấn son, make up. Việc từ thiện đã thành sở thích, Mai gửi 200 đôla, mỗi lần, giúp đồng bào bão lụt miền Trung, miền Bắc, vì lương tâm, đạo lý. Kẻ cầm quyền ăn chặn của dân, như đám cướp, có bao giờ được mãn kiếp yên thân. Đức Phật từ bi dạy Mai lòng độ lượng. Tôi làm technician, ngành điện tử. Nhớ xưa, học sửa radio bị nghi làm gián điệp. Bộ công an Hà nội lấy công nông lãnh đạo, coi "điện tử" là CIA. Mười bẩy năm trong ngành điện tử, nay chắc tôi thành CIA ngoại hạng! Bây giờ, ngồi trước máy computer, nối vào mạng Net, đọc Website tiếng Anh, tiếng Việt, thông tin thế giới bằng email, việc hãng, việc nhà, công tư hòa vào nhau từng ngày làm việc, tôi đã có cuộc sống an hòa, hạnh phúc, một gia đình thật sự yêu thương. "Ngày mai, chúng mình đi New York thăm con". Mai nắm tay tôi, hân hoan về ngày mai. Ngày mai là tương lai của bé Nam ngày trước, giờ là một thanh niên cao 6 feet, đầy nghị lực bước vào đời. Xong đại học, Nam Nguyen trở thành chuyên viên tài chánh, làm việc trong văn phòng, tầng thứ 32 của một nhà "chọc trời" New York. Ngày con ra trường là ngày vui trọn vẹn, ngày con nhận việc mới là niềm sung sướng của Má, của Ba, của Gia Đình tị nạn, mong ước từng ngày cho Con thành Người. Lâu lắm rồi, tôi mới có một đêm không ngủ để nhìn lại đời mình. Tháng chín, trời sang Thu se lạnh vùng đông bắc nước Mỹ. Tôi đã sống nơi đây 18 năm tị nạn, không thất vọng mà tin tưởng vào tương lai. Người cộng sản muốn làm hung thần cai quản địa cầu, dựng lên Địa Ngục. Dựng được vài phần thì sụp đổ, sót lại từng mảnh vỡ điêu tàn. Hung thần đã chết. Thoát kiếp lưu đày làm người tự do, tôi kính cẩn tri ân người phá ngục: người lính Cộng Hòa, giương cao lá cờ vàng ba sọc đỏ, chính nghĩa Quốc Gia. Việt Nam, từ tinh thần đến lãnh thổ. Người lính chiến Cộng Hòa hiên ngang đi làm Lịch Sử. Không có Anh, tôi đã không có niềm tin để sống sót, đã thành nấm mộ hoang trên rừng xơ xác. 21 năm kiên cường giữ vững miền Nam, Anh đối mặt hung thần, cứu sống thêm hàng triệu người vô tội. Người lính của miền Nam tự do tử trận. Anh để lại người Vợ hiền, cuốc đất trồng khoai, chúng vẫn không tha, chà đạp nhân phẩm. Tôi lê bước chân vô định, gặp Mai làm Bạn Đường, nhìn mắt con thơ thấy hình người lính chiến. Anh đã để lại Con Thơ cho tôi được làm "Ba" mang tròn trách nhiệm. Con đã trưởng thành, mai này sẽ góp phần xây dựng lại Quê Hương. Tôi muốn níu lại thời gian để được thương vợ, thương con nhiều hơn nữa. Đã quá nửa đêm về sáng. Nhìn Mai ngon giấc ngủ thần tiên như "bé Nam" ngày đầu tới Mỹ, tôi ngồi im lặng bên bàn viết, đợi chờ sớm mai để được nhìn bình minh bừng sáng Phương Đông, được nhìn Mai thức dậy, mỉm cười, âu yếm nhìn chồng. Cuộc sống an vui. Ngót 20 năm rồi, không biết khóc, đêm nay tôi nhỏ từng dòng lệ, xúc động, bùi ngùi. Tôi đang sống và đang viết Bài Tình Ca của Một Người Tị Nạn. Nguyễn Văn LuậnChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Aug/2025 lúc 3:12pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23930 |
![]() ![]() ![]() |
Bên Sông Thạch HãnSông Thạch Hãn - Trao trả tù binh (1973) Sau khi nghiệm ra, chiến tranh không những đã hủy hoại một phần thân xác của chàng mà chiến tranh còn khiến cho tâm hồn nhạy cảm của chàng trở nên yếu đuối lạ lùng, Mạnh thường “chìm” vào cơn say để quên đi nỗi đau thầm kín của chàng! Nỗi đau của Mạnh khơi nguồn từ ngày mà những người trai miền Nam miệt mài trong cuộc chiến do Bắc quân chủ xướng đều mong đợi. Đó là ngày đình chiến 27-01-1973. Mạnh và đồng đội đều hiểu hiệp định ngưng bắn “da beo” là phi lý, đầy áp lực đối với quân nhân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và chỉ có lợi cho “phía bên kia”; nhưng dù sao, trong một thời gian, giảm thiểu số thương vong cho cả hai phía, cũng là một điều tốt. Đối với đa số quân nhân miền Nam khi xung trận, tâm trạng của họ như thế nào Mạnh không thể hiểu được. Nhưng riêng Mạnh, chàng xã thân ngoài trận địa do bổn phận và trách nhiệm thôi thúc chứ không phải được hun đúc bằng lòng thù hận như Bắc quân, khắc vào người “sinh Bắc tử Nam” hay là “gào” lên mỗi khi chào cờ “thề phanh thây uống máu quân thù”! Sở dĩ Mạnh không nuôi lòng thù hận những người bên kia chiến tuyến vì, trong đoàn quân xâm lăng từ phương Bắc thế nào cũng có Tuất – đứa em duy nhất mà Mạnh đã lìa xa khi Mạnh còn mang “tên cúng cơm” là Mùi. Mạnh nhớ rõ, năm 1954, Mùi đã khóc sưng cả mắt nhưng Mẹ vẫn quyết định ở lại vì Mẹ ngại ông bà Nội và ông bà Ngoại không biết nương tựa vào ai lúc tuổi già! Lý do Thân – Bố của Mùi và Tuất – để Tuất ở lại vì ông bà Nội sợ sau khi ông bà Nội qua đời không ai để tang, không ai nhang khói!
Từ
ngày rời Hải-Phòng đến ngày hưu chiến cũng gần 20 năm, Mạnh không biết ông bà Nội,
ông bà Ngoại còn sống hay đã về tiên cảnh và Tuất có được dịp chít vành khăn
tang cho Ông Bà hay không; nhưng Mạnh biết chắc chắn một điều là không thể nào
Tuất được ở lại làng để lo nhang khói cho Ông Bà; vì ngoài Bắc không có đạo luật
như miền Nam: Miễn dịch cho những người con trai duy nhất còn lại trong gia
đình. Mạnh nghĩ, Tuất, hoặc đã chết trên đường mòn Hồ-Chí-Minh, hoặc đang có mặt
trong đoàn quân vượt vùng phi quân sự để vào đến bờ sông Thạch-Hãn này. Vì nghĩ
như vậy, cho nên, mỗi khi lính bắt được tù binh, Mạnh thầm mong tù binh là Tuất
để Mạnh biết Tuất còn sống và có ngày Tuất sẽ được trao đổi tù binh chiến
tranh. Cũng có khi Mạnh mong tù binh không phải là Tuất để Mạnh tránh được cảnh
đau lòng khi thấy em vào tù mà chàng không thể can thiệp. Nghĩ quanh quẩn một
lúc, Mạnh cười lớn; bởi vì, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, làm thế nào Mạnh có
thể nhận diện được Tuất khi mà anh em xa nhau đến gần 20 năm! Lệnh
ngưng bắn chỉ vừa truyền đi trên đài phát thanh được vài phút, Mạnh nghe nhiều
tiếng reo hò, rồi một giọng Bắc nghe rất rõ: “Ngưng bắn
dzồi, anh em ơi!” Câu ấy được lập lại từ nhiều hướng khác nhau khiến Mạnh
nhận định được rằng đơn vị của chàng đang ở vào thế “cài răng lược” với đơn vị
địch. Mạnh rất yên lòng, vì “con cái” của chàng đều im lặng, giữ nguyên vị trí. Không
gian quanh bờ sông Thạch-Hãn trở nên tịch mịch, căn thẳng đến...rợn người! Bỗng
một giọng Bắc lại vang lên: “Các anh Quốc-Gia ơi!
Ngưng bắn d…z…ồ…i… Thích quá!” Đơn vị của Mạnh cũng vẫn im lặng. Một
lúc sau lại có tiếng từ hướng khác: “Các anh Quốc-Gia
ơi! Thèm thuốc quá! Cho một điếu.” Sau nhiều lần lập đi lập lại những
câu ấy mà cũng vẫn không được đơn vị lính Cộng Hòa đáp ứng, Bắc quân im lặng. Khi
ánh nắng mai vừa tỏa sáng cuối chân trời, những lời kêu gọi như lúc khuya lại
vang lên. Bất ngờ Mạnh nghe giọng Nam, sắc và gọn: “Đứng
lại!” Mạnh chụp ống liên hợp, chưa kịp bấm nút để liên lạc kiểm soát
tình hình thì đã thấy – cao khỏi những đọt tranh còn lóng lánh sương mai – lố
nhố nhiều nón cối! Ngay tức khắc, Mạnh và hiệu thính viên chụp vũ khí cá nhân.
Vừa khi ấy Mạnh nghe nhiều tiếng “đứng lại!” vang
lên từ nhiều phía. Mạnh đứng bật dậy. Thấy
Mạnh đứng lên, cả đơn vị của Mạnh cũng đứng lên, sẵn sàng trong tư thế cận chiến.
Nhưng, đồng loạt, Bắc quân đưa cao tay vẫy vẫy: “Ngưng
bắn dzồi. Anh em cả. Chúng tôi đâu có khí giới đâu. Đói và thèm thuốc quá, các
anh ủng hộ tý.” Những người lính miền Nam chất phát, đưa mắt nhìn
nhau, khó xử. Bắc quân vừa từ từ bước đến gần vừa cười cười: “Các anh biết không? Mấy hôm nay đói meo, mỗi ‘nần’ các
anh ăn, mùi đồ hộp thơm ‘nừng’, tụi này thèm quá!” Thấy quả thật địch
quân không mang súng, người lính miền Nam cả tin, hạ nòng súng, ùa đến bắt tay
Bắc quân. Sau vài phút vui mừng, lính miền Nam lấy thức ăn và thuốc hút trong ba-lô tặng lính miền Bắc. Lính miền Bắc cười, “khoe” hàm răng hô, rồi “hồ hởi” khui, ăn ngay tại chỗ. Có người hút hết điếu quân tiếp vụ do lính miền Nam tặng rồi mới thong thả khui thức ăn, ăn. Vừa ăn lính miền Bắc vừa nhìn từng đôi giày “sô” sờn gót, từng chiếc đồng hồ cũ kỷ hoặc cặp kính mát được dắt hờ vào túi áo rằn ri của người lính Thủy-Quân Lục-Chiến rồi trầm trồ một cách thèm thuồng: “Ôi Giời! Đồ đạc của các anh hiện đại quá! Cho sờ tý.” Lúc này người lính miền Bắc trông ngây ngô, vui thích và hiền lành như đàn cừu vừa tìm được cánh đồng cỏ non. Bất ngờ một tiếng “sát!” vang lên! Nhanh và “ăn khớp” nhau như đã được thực tập
nhuần nhuyển, những con cừu hiền lành ấy bỗng biến thành đàn hổ đói vừa ngửi được
mùi thịt tươi! Bắc quân phùng mang, trợn mắt, vung dao găm, đâm túi bụi vào
chính những người vừa cho chúng ăn! Nhiều thây người gục xuống. Mũ xanh, nón sắt
rơi ơ hờ cạnh gốc tranh câm nín. Máu đỏ vẽ thêm những đường kỷ hà trên quân phục
rằn ri!
Vài
tiếng súng rời rạc vang lên trước khi Mạnh đủ sức quay sang hiệu thính viên, có
ý dùng ống liên hợp ra lệnh đừng bắn. Một tay ôm vết thương nơi lồng ngực bên
trái, một tay Mạnh cố sức hất thân người của hiệu thính viên – đã bị tử thương
do đạn của Bắc quân – sang một bên để Mạnh xử dụng máy truyền tin. Vừa khi ấy,
một “anh nón cối” chạy ngang qua. Nghe tiếng máy truyền tin “rè rè, rẹt rẹt”,
“anh nón cối” dừng lại. Thấy Mạnh nằm nghiêng, đang áp tai vào ống liên hợp
trong tư thế liên lạc, “anh nón cối” hươi dao găm lên, tính đâm vào lưng của Mạnh.
Nhưng, bất ngờ Mạnh quay ra sau, ánh mắt đầy thảng thốt. Khi ấy “anh nón cối”
cũng vừa thấy trên vai của Mạnh mỗi bên hai gạch trắng lớn dính sát vào một
vòng tròn nhỏ cũng màu trắng và một vùng máu
đỏ đang nhuộm thắm phần trên của túi áo, nơi có bảng tên Nguyễn Văn Mạnh. Lần
đầu tiên trực diện với sĩ quan quân đội miền Nam, “anh nón cối” hơi lúng túng.
Nhưng thấy Mạnh bị thương, “anh nón cối” lấy lại bình tĩnh ngay. “Anh nón cối”
đá ngược vào mặt Mạnh làm Mạnh bật ngửa ra. Ngay lúc đó “anh nón cối” đâm vào
vùng bụng dưới của Mạnh và tiện tay, hắn xoay lưỡi dao! Mạnh quặn người, nghiến
răng, dồn hết tàn lực vào đôi tay, chụp cánh tay của “anh nón cối”, bóp chặt.
“Anh nón cối” bậm bờ môi thâm sì, dùng tay trái trợ lực, ấn dao găm sâu xuống,
sâu xuống nữa! Trong nỗi đau tột cùng, Mạnh nhìn “anh nón cối” bằng ánh mắt ngỡ
ngàng đến khó hiểu rồi buông tay, khép mắt! Mạnh
tỉnh lại khi chiếc trựa thăng mang dấu hồng thập tự “là đà”, sắp đáp xuống. Mạnh
cảm thấy ươn ướt nơi bờ môi. Mở mắt, Mạnh thấy y-tá đang dùng bông gòn thấm nước,
“rà” quanh bờ môi khô nứt của chàng. Thấy Mạnh tỉnh lại, y-tá dừng tay, giọng
reo vui: “Ông Thầy! Ráng đi ông Thầy! Trực thăng
tản thương tới rồi, ông Thầy.” Mạnh thều thào: “Con cái của tao bị nặng không?” Y-tá lắc đầu, tỏ
vẻ thiểu não: “Tơi bời hoa lá, ông Thầy!” Mạnh
thở dài. Trước khi chìm lại vào hôn mê, Mạnh còn nghe giọng bực tức của Cao, một
hạ sĩ rất gan lỳ của đơn vị – cũng bị thương – hỏi một tên thương binh cộng sản: “Đã có lệnh ngưng bắn, tại sao các anh còn tấn công chúng
tôi?” Vì thấy có sự hiện diện của vài tên Tiệp-Khắc trong ủy ban liên
hợp bốn bên, tên Việt cộng biết tính mạng của anh ta sẽ không đến nỗi nào và
cũng vì bản chất gian manh của người cộng sản, anh ta phát ngôn không ngượng miệng: “Chúng tối tấn công các anh bao giờ? Vết thương nơi
chân tôi ‘nà’ do đạn M16 của các anh bắn chứ có ai nghe hoặc thấy súng của
chúng tôi nổ chưa? Các anh bắt tôi ‘nà’ các anh vi phạm hiệp định ‘Ba-Nê’.
Chúng tôi sẽ ‘chanh’ đấu để đưa sự kiện này ‘nên’ ủy ban ‘niên’ hợp bốn bên.” Một
quân nhân thều thào: “Cao! Đang không, đ.
m., sao mày dở nắp ống cống lên chi vậy?” Bao
nhiêu năm rồi, nhưng mỗi khi nhớ lại câu nói đầy ý nghĩa của một thuộc cấp, Mạnh
cũng vẫn phải cười vì sự thâm thúy của chàng “lính thủy đánh bộ”. ****** Chiếc
phản lực của hãng hàng không Northwest càng bay xa lục địa Hoa-Kỳ bao nhiêu Mạnh
càng cảm thấy bồi hồi bấy nhiêu. Mối tình cảm này tương tự như tâm trạng của Mạnh,
năm 1982, khi Mạnh được phóng thích khỏi trại cải tạo, ngoài Bắc, đáp xe lửa về
Nam. Khi
chuyến xe lửa vừa qua khỏi cầu Bến-Hải, nỗi buồn sâu kín không biết từ đâu “ùa”
đến, phủ ngập cả hồn chàng! Nghĩ ngợi một lúc Mạnh mới tìm ra nguyên nhân gợi
buồn là chiếc cầu Hiền-Lương! Ranh giới phân chia đất nước đã được xóa trên bản
đồ, cũng như hai vết sẹo nhăn nhúm trên cơ thể của Mạnh đã lành lặn; nhưng biết
đến bao giờ dòng sông đẩm máu này mới thoát khỏi tính chất oan nghiệt của nó;
cũng như biết đến khi nào những tế bào nơi hai vết sẹo của Mạnh mới trở lại trạng
thái bình thường! Khi
xe lửa qua khỏi ga Tuy-Hòa một chốc, Mạnh khóc lúc nào Mạnh cũng không hay! Nước
mắt của Mạnh bây giờ chỉ âm thầm lăn dài trên hai gò má trũng sâu chứ không
tuôn trào cùng tiếng thét gào điên loạn của thằng Mùi trong một đêm hãi hùng
cách nay xa lắm. Đêm
hãi hùng đó, trên chuyến tàu từ Tuy-Hòa về Nha-Trang, Mùi ngồi cạnh Bố, nhớ lại
hương vị của biển và những món ăn tuyệt vời mà người bạn gái của Bố ở Tuy-Hòa nấu
đãi hai Bố con nhân dịp Mùi thi đậu trung học đệ nhất cấp. Tội nghiệp Bố và người
đàn bà đang muốn chiếm vị thế của Mẹ! Bao nhiêu tiền dành giụm Bố và bà ấy đều
vui thích và hãnh diện đưa Mùi đi may áo quần, mua sách vở, dày dép, chuẩn bị
cho Mùi làm “cậu tú”, vì Mùi quyết định “học nhảy” lớp đệ tam. Nghĩ đến sách vở
và quần áo mới, Mùi cảm thấy thương Bố quá, vỗ nhẹ vào vai Bố: “Bố! Mai mốt học xong con cũng đi Biệt-Động-Quân giống Bố,
nha, Bố!” Thân giật mình: “Bố mày!
Cho mày ăn học để mày làm ông kia ông nọ chứ bộ để đi lính giống tao à?” Mùi
ngây thơ: “Thế Bố muốn sau này con làm gì?” Có
lẽ đã “nuôi” ước vọng này từ lâu, Thân đáp ngay: “Làm
bác sĩ, kỹ sư, luật sư, thiếu gì nghề danh giá, con.” Mùi lắc đầu: “Nhưng con muốn đi lính cơ! Đi lính như Bố oai
thấy mồ, ai thấy cũng phải chào.” Thân chấm dứt ước mơ của Mùi: “Thôi, về lo học hành, đừng nói nhảm!” Hai
Bố con im lặng được một chốc, bỗng xe lửa hãm nhanh tốc lực. Nhiều tiếng “lao
xao” từ nhóm người đi buôn: “Rồi! Tụi nó chận đường
nữa rồi!” Thấy vẻ hốt hoảng hiện lên mặt mọi người nhưng Mùi chẳng biết
chuyện gì đang xảy ra. Bỗng Thân chụp cái xắc có bộ quân phục giấu kín trong ấy,
liệng qua cửa sổ toa xe, trước đôi mắt ngơ ngác của Mùi. Thân nắm chặt tay Mùi,
giọng lo âu, nói vào tai Mùi: “Coi chừng chúng nó
bắt thanh niên đi theo chúng nó. Có gì con cố chạy thoát, đừng để chúng nó bắt,
nghe chưa?” Lúc này Mùi mới lờ mờ hiểu và sợ. Xe
lửa dừng hẳn. Những người ngồi gần cửa bắt đầu rời xe với thái độ rất sợ hãi.
Những người ngồi bên trong cũng tuần tự đi ra. Tất cả đứng gom lại nơi thửa ruộng
khô. Mấy người mặc đồ bà ba đen, tay xách đèn lồng – không biết xuất hiện từ
đâu – bắt đàn bà, người già và trẻ con đứng riêng; đàn ông đứng riêng, rồi “đồng
chí chính trị viên” bắt đầu tuyên truyền. Giữa
lúc tinh thần mọi người bị chi phối và căng thẳng đến tột độ, một tiếng hô
“nghi…ê…m…” vang lên. Phản ứng tự nhiên của những người lính chuyên nghiệp,
Thân – cũng như những quân nhân khác đang mặc thường phục – vội đứng thẳng, cụp
hai chân vào nhau trong thế nghiêm thì nhóm Việt-Cộng nhận ra ngay ai là lính
miền Nam. Việt-Cộng nhào đến, bắt ngay những người lính không vũ khí ấy đứng
riêng ra! Trong
khi Mùi run sợ, chỉ biết nhìn Thân lủi thủi tuân lệnh Việt-Cộng thì “đồng chí
chính trị viên” điểm điểm ngón tay trỏ vào toán lính V.N.C.H., mặt hắn xoay về
nhóm thường dân, lên án: “Đồng bào thấy rõ, đây
là những tên phản động, tay sai của đế quốc Mỹ, mang tâm liếm gót giày bọn
‘sen đầm’ quốc tế, phản lại dân tộc. Chúng nó đáng tội chết! Chúng nó phải đền
tội trước nhân dân!” Nghe
“chính trị viên” phát biểu, toán lính V.N.C.H. đưa mắt nhìn nhau, ngầm hiểu rằng
cuộc đời của họ chắn chắn sẽ kết liểu tại đây! Đã vậy thì liều! Thân hô lớn “Biệt-Động-Quân! Sát!” Như nghe một mệnh lệnh
khi xuất quân, những người lính V.N.C.H. vừa chồm tới, chưa kịp thực hiện chiến
thuật cận chiến với toán Việt-Cộng thì khẩu đại liên – không ai biết Việt-Cộng
đặt trên mui xe lửa từ lúc nào – quạt từng loạt đạn vào toán lính V.N.C.H.
không khí giới, trước sự kinh hoàng của mọi người! Mùi
hét lên “Bố! Bố ơi! Bố!” và dợm người muốn
chạy đến ôm xác của Thân; nhưng một phụ nữ kéo Mùi lại: “Im! Mày muốn tụi nó giết mày luôn hả?” Mùi hãi
quá, nín thinh. Đến khi mấy người mặc đồ bà ba đen thổi tắt mấy ngọn đèn lồng
và biến vào bóng đêm, mọi người mới ùa đến bên các nạn nhân. Mùi gục đầu lên
xác của Thân và kêu khóc thảm thiết. Người phụ nữ lúc nãy lại đến, ai ủi, dỗ
dành Mùi. Nhưng Mùi vẫn cứ khóc cho đến khi khan cả tiếng mới chịu lặng yên.
Mùi ngồi giậy, khoanh tay vòng hai đầu gối rồi gục đầu lên, thút thít. Thỉnh
thoảng Mùi nhìn xác thân bê bết máu của Bố rồi quẹt nước mắt! Sau
bao nhiêu biến thiên của cuộc sống, Mùi tưởng Mùi đã quên được đêm kinh hoàng
đó, nhưng không! Mỗi khi nhớ lại Mùi vẫn còn xúc động, lặng lẽ lau nước mắt.
Mùi thở dài! Từ một thằng Mùi côi cút, Mùi lăn xả vào đời với tên mới – Mạnh –
như ngầm nhắc nhở mình luôn luôn hướng về tương lai với tinh thần cứng rắn và
niềm tự tin trong một cơ thể tráng kiện. Nhưng,
sau lần bị thương vào ngày ngưng chiến để người vợ trẻ của chàng lặng lẻ ra đi
– vì hình hài của Mạnh đã mất khả năng thiên bẩm của người đàn ông – Mạnh tự biết
rằng lòng tự tin trong chàng không còn nữa! Và giờ đây, sau bao nhiêu năm tù đầy
ngoài Bắc-Việt, cơ thể chàng còm cỏi, tâm hồn chàng rã rời, mất hết sức phấn đấu,
Mạnh không hiểu chàng còn lý do gì để hướng vế ngày mai! Vì nghĩ như vậy, Mạnh
nhận biết rằng, lẫn trong những dòng nước mắt khóc Cha lần này còn có những giọt
lệ Mạnh khóc cho chính cuộc đời của chàng! Để
lòng bớt ngậm ngùi với quá khứ, Mạnh đứng lên, chồm ra cửa sổ, hít vào buồng phổi
luồng gió trong lành của Vịnh Đại-Lãnh im lìm. Xe càng xa xứ “nẫu” bao nhiêu
thì nỗi buồn càng lui xa trong lòng Mạnh bấy nhiêu. Và cuối cùng là khối tình cảm
bồi hồi, xúc động âm ỷ nổi lên trong lòng Mạnh. Đến khi xe lửa dừng tại ga
Nha-Trang, khối tình cảm ấy mới biến thành sự lạc lõng, sự cô đơn như dạo nào
chàng và Bố vừa rời tàu “há mồm” sau nhiều ngày rời bến Hải-Phòng! Ra khỏi ga xe lửa, Mạnh ngơ ngác, không biết về đâu; vì Mạnh lớn lên và khởi sự binh nghiệp từ trường Thiếu-Sinh-Quân! Thấy nhiều kẻ ăn xin bám theo hành khách, Mạnh chạnh lòng, nhưng chợt nhớ số tiền quá ít trong túi, Mạnh lắc đầu, nhìn lơ chỗ khác. Bất ngờ Mạnh chú ý đến tấm thẻ nhựa nhỏ được gắn nơi ngực của một hành khất mù đang ngồi im lặng cạnh mấy chiếc xích-lô, tay đưa gáo dừa ra xin. Nhìn kỷ, Mạnh giật mình. Tấm thẻ nhựa ấy là thẻ căn cước quân nhân V.N.C.H! Mạnh bước đến, hỏi nhỏ: “Sao anh dám đeo căn cước quân nhân? Anh không sợ à?” Người hành khất đáp: “Tôi còn gì để họ đầy ải nữa đâu mà sợ!” Mạnh lấy trong túi quần ít tiền, khom người, nhét nhanh vào tay người ăn xin: “Anh cầm tạm. Tôi không có nhiều.” Ngay lúc đó, một người ngồi trên Honda hỏi Mạnh: “Mới được thả về hả? Muốn về đâu?” Mạnh ngạc nhiên, đứng lên: “Anh hỏi tôi, phải không?” Người ngồi trên Honda cười: “Chứ hỏi ai nữa bây giờ! Anh nhìn quanh đây xem ai giống anh không thì biết hà!” Mạnh ngần ngừ: “Tôi không có nơi nào để về cả. Số tiền còn lại trong túi tôi chắc chắn không thể nào đủ trả cho cuốc xe từ đây ra nghĩa trang Phật-Giáo.” Người ngồi trên Honda cười lớn: “Bộ không có chỗ nào về rồi ra nghĩa trang ngủ nhờ sao, cha nội?” Mạnh cũng cười: “Tôi muốn thăm mộ của Bố tôi.” Người ngồi trên Honda cho xe nổ máy, thúc: “Trời đất! Thôi, lên lẹ đi, cha.” Trong khi cho xe chạy ra cầu Hà-Ra, người lái tự giới thiệu là Vũ, cựu Mũ Nâu. Sau những chuyến xe thồ thường nhật, trước khi về nghỉ, Vũ thích ghé ga xe lửa đón tù cải tạo mới được tha, đưa họ về với gia đình mà không nhận thù lao. Trường hợp của Mạnh, vì thấy nghĩa cử của Mạnh đối với người hành khất và hiểu hoàn cảnh của Mạnh, Vũ xúc động, đề nghị Mạnh về ở tạm nhà Vũ, Vũ sẽ tìm người cho Mạnh dạy kèm Anh văn, kiếm tiền… Dòng
ý tưởng của Mạnh vừa đến đây, bất chợt giọng nhỏ nhẹ của cô tiếp viên hàng
không đưa Mạnh trở về thực tại: -
Thưa ông, ông dùng loại nước giải khát nào ạ? Mạnh
cười và xin một ly Sprite. Vị ngòn ngọt, chua chua và cảm giác mát lạnh của vài
ngụm Sprite đem đến cho Mạnh sự dễ chịu và thoải mái. Nhìn ra cửa sổ phi cơ, thấy
từng áng mây trắng xóa, Mạnh có cảm tưởng như chiếc phi cơ bay rất chậm. Đôi
lúc Mạnh tưởng như phi cơ đứng yên và mây trôi lặng lờ. Mạnh nhận ra rằng, thân
phi cơ, cũng như thân xác của chàng, so ra rất nhỏ bé trong không gian bao la
này. Phi
cơ lên cao, lên cao nữa và vượt khỏi nhiều tầng mây để Mạnh thấy, phía trên phi
cơ, bầu trời trong xanh như biển của những ngày sóng lặng; và dưới lườn phi cơ,
mây trắng kết liền nhau, trông như cánh đồng tuyết. Cuối tầm mắt, bầu trời xanh
và “cánh đồng tuyết” tiếp giáp nhau trông như vòng chân trời mà Mạnh thường thấy
vào những chiều lang thang trên bờ biển ở trại tỵ nạn Ga-Lăng. Thời
gian ở trại Ga-Lăng, tuy thiếu thốn, cô đơn, buồn nản nhưng Mạnh không phải lo
bị mất việc, không tiền trả bills; Mạnh
cũng không phải làm quần quật như từ ngày đến Mỹ. Ở
Việt-Nam, trình độ Anh ngữ của Mạnh được kể là khá, dạy kèm học sinh để kiếm sống
và để dành tiền vượt biên. Vì vậy, Mạnh cứ hy vọng khi đến Mỹ, Mạnh sẽ tìm được
việc làm tương đối nhẹ nhàng và lương khá. Không ngờ, khi đến Mỹ, Mạnh chỉ tìm
được việc làm ở một body shop. Khi
một người bạn về Bắc thăm nhà, Mạnh nhờ người ấy tìm cách liên lạc về làng xưa,
tìm Mẹ và Tuất; vì năm 1954 ra đi, Mạnh còn quá nhỏ, không thể nhớ địa chỉ.
Cũng vì lý do đó, khi bị cộng-sản Việt-Nam (csVN) giải ra Bắc, Mạnh không thể
liên lạc về gia đình. Sau
khi người bạn giúp liên lạc được với bà Thân và Tuất, Mạnh phải làm thêm việc
giữ an ninh cho một nhà kho, vào cuối tuần, để có phương tiện giúp Mẹ và Tuất.
Lúc này Tuất đã có ba người con trai; đứa lớn tử trận khi bị csVN đưa sang
Cao-Miên làm “nghĩa vụ quân sự”. Suốt
thời gian liên lạc được với Mạnh, bà Thân và Tuất chưa bao giờ cho Mạnh biết sự
thật về những cái chết đau thương của ông bà Nội/Ngọai. Và Mạnh cũng chưa dám
cho bà Thân và Tuất biết csVN đã dùng thủ đoạn đê hèn để giết ông Thân – vì ngại
thơ bị kiểm duyệt và “nhà nước” sẽ gây khổ nạn cho bà Thân. Đến
khi Mạnh về làng xưa, lần đầu tiên chỉ có ba Mẹ con ăn cơm với nhau, tại nhà Tuất,
bà Thân mới bùi ngùi kể lại cho Mạnh nghe về sự “ra đi” của ông bà Nội/Ngoại và
Mạnh cũng có cơ hội thuật lại cái chết đầy bi thương của ông Thân! Cái
chết của ông Thân đã khắc sâu vào tâm khảm của Mạnh. Giờ đây lại biết sự thật về
bốn đại tang, Mạnh bàng hoàng, đau xót vô cùng! Giữa khi gia đình đang đau buồn,
bất ngờ một công an phường xuất hiện, đưa giấy, bảo Mạnh sáng mai phải đến phường
“làm việc”. Mạnh sững sờ nhìn anh công an bằng đôi mắt mở lớn, đầy ngỡ
ngàng/hoảng hốt... Thấy
ánh mắt của Mạnh, Tuất giật mình. Ánh mắt ấy như dội vào tâm thức để Tuất phải
bận tâm, phải nghĩ ngợi! Đêm
đó, sau khi anh em nằm bên nhau trên chiếc phản, hàn huyên cho đến gần sáng, Mạnh
rơi vào giấc ngủ một cách dễ dàng. Riêng Tuất cứ trằn trọc mãi, không ngủ được,
vì bị ánh mắt khó hiểu của Mạnh lúc chiều ám ảnh. Tuất cố vận dụng trí nhớ để
xem Tuất đã thấy ánh mắt ấy ở đâu, vào dịp nào, nhưng đành chịu! Rồi Tuất hồi
tưởng lại những cuộc đụng độ dữ dội với quân miền Nam xem những nạn nhân của
nòng súng, lựu đạn và mũi dao/mã tấu của Tuất chết như thế nào và động tác của
mỗi nạn nhân trước khi chết ra làm sao! Nhưng vì giết nhiều “kẻ thù” quá, Tuất
không thể nhớ được “kẻ thù” nào có ánh mắt lạ lùng đó! Khi
Tuất thiu thiu ngủ, ánh mắt ấy lại hiện về. Tuất không dám mở mắt, cố tập trung
tư tưởng vì ngại ánh mắt ấy sẽ biến đi. Tuất thấy sau đôi mắt dường như thấp
thoáng loại quân phục có tích cách ngụy trang của lính miền Nam. Tuất vận dụng
tâm trí nhiều hơn nữa và từ từ nhận ra những đường kỷ hà màu xanh, nâu, đen và
trắng chen lẫn nhau. Đúng rồi! Quân phục của Lính Thủy Đánh Bộ! Ô, lạ không! Tại
sao lại có vết máu tươi nơi ngực trái và ống liên hợp kêu “rè rè, rẹt rẹt”…Người
Tuất toát mồ hôi. Đúng là ánh mắt hoảng hốt/ngỡ ngàng của “tên” sĩ quan “Ngụy”
bị Tuất đâm chết cạnh máy truyền tin, bên kia bờ sông Thạch-Hãn, vào hôm có lệnh
hưu chiến!... Vừa
khi ấy, Mạnh thức giấc, than nóng và đèn sáng Mạnh khó ngủ. Tuất tăng tốc độ quạt
máy và khuyên Mạnh nên cởi áo thun để ngủ cho mát. Tuất đến công tắc điện, có ý
đợi Mạnh cởi áo thun xong rồi mới tắt đèn. Nhưng, khi chiếc áo thun trắng vừa
vuột qua khỏi vai của Mạnh, Tuất nhíu mày vì thấy vết sẹo nơi ngực trái của Mạnh.
Tuất hỏi: -
Anh “nàm” gì mà có vết sẹo dài thế? Như
suốt mấy ngày qua, với dụng ý không muốn nhắc đến quá khứ, Mạnh đùa: -
Anh có cả…ngàn vết sẹo chứ phải một đâu, chú! Biết
Mạnh đùa, Tuất cũng đùa theo: -
Người có cả ngàn vết sẹo thì… “cái ấy” cũng mang sẹo rồi! Hai
anh em cười vang. Trong phút giây vui với đứa em mấy mươi năm xa cách, Mạnh cảm
thấy trẻ lại như ngày nào hai anh em ở truồng tắm sông, cho nên quên giữ ý: -
Không phải ngay “cái ấy” mà gần gần thôi. Tuất
cũng vô tình, muốn kéo dài niềm vui: -
Đâu, đưa em xem nào! Mạnh
trật lưng quần đùi ra. Thấy vết sẹo màu nâu nổi cộm ở vùng bụng dưới của Mạnh,
Tuất hoảng kinh, đứng sững! Đầu óc của Tuất xoay vòng, muốn nổ tung! Ánh mắt
lúc chiều, vết sẹo bên trái của lồng ngực và vết sẹo ở bụng dưới…Lẽ nào! Tuất
khổ sở, lắc đầu nhiều lần rồi nghiêm giọng: -Anh
Mùi! (Tuy biết Mùi đã đổi tên, nhưng bà Thân cũng như Tuất, đều muốn gọi Mạnh
là Mùi; vì tên Mùi nghe gần gủi, thân thiết hơn.) Hồi trước anh là Lính Thủy
Đánh Bộ, đúng không? -
Anh đã dặn chú hoài. Tìm hiểu làm chi những chuyện ấy? -
Thôi được. Em chỉ yêu cầu anh trả lời cho em một chữ “có” hay “không” mà thôi.
Chịu không? Mạnh
quen miệng “Okay”. Tuất hỏi: -
Ngày đình chiến, đơn vị của anh có đóng ở bên kia sông Thạch-Hãn hay không? Mạnh
hơi hoang mang về sự tò mò của Tuất, đành đáp “hàng hai”: -
Nếu chú cho anh biết lý do gì chú hỏi anh câu ấy thì anh sẽ trả lời. Tuất
không trả lời, vội tắt đèn và hấp tấp mở cửa trước: -
Thôi, gần sáng rồi. Anh nằm nghỉ. Em đi có tý việc. Em sẽ về ngay. ****** Sau
khi nghe Tuất kể rõ câu chuyện, bà Thân lặng người một lúc rồi thở dài: -
Tuất à! Bất cứ điều gì xảy ra trên đời đều do “duyên” và “nghiệp” cả. Trường hợp
của con và anh Mùi cũng chỉ là một trong muôn vàn cảnh oái ăm trên đất nước
điêu linh này. Con biết hối và biết thương anh Mùi, thế là đủ. -
Nhưng làm thế nào con có thể sống với sự ray rức này, Mợ? -
Ý con muốn như thế nào? -
Con muốn nói thật với anh Mùi. -
Không nên, con à! Có bao giờ anh Mùi muốn nhắc chuyện cũ đâu. Vả lại, bây giờ
chỉ con và Mợ biết chuyện, Mẹ con mình đau lòng; nếu anh Mùi biết nữa, chỉ thêm
một người nữa đau lòng chứ có giải quyết được gì đâu, con! -
Nhưng con cũng có nhiều chuyện ấm ức, con muốn nói với anh Mùi. Nhờ
những lá thư ngày trườc Tuất thường gửi tay từ trong Nam về cho Bà, bà Thân hiểu
tâm trạng của Tuất. Bà đáp: -
Con có thể nói với anh Mùi những chuyện ấm ức đó. Nhưng, Mợ nghĩ, con không
cần phải nói với anh Mùi về lỗi lầm của con ở bên kia sông Thạch-Hãn, vào hôm
ngưng chiến! -
Vâng. Con hiểu. ****** Trên
chuyến xe lửa Thống Nhất, Mạnh và Tuất ngồi uống bia nơi toa hàng ăn vào lúc xế
trưa, vắng khách. Nhìn quanh không thấy ai khác, ngoài người ngồi xa xa sau
quày tính tiền, Tuất tiếp, giọng vẫn nhỏ và đều: -
Trong hàng ngũ bộ đội, biết bao nhiêu thằng như em, nhưng chỉ sợ gia đình bị trả
thù cho nên ít đứa dám ra hồi chánh; bởi thế, anh đừng tưởng ai ở ngoài Bắc
cũng đều là cộng-sản cả đâu. -
Nếu anh nghĩ như thế, anh đã không về. Ngưng
một chốc, Mạnh tiếp: -
Dù sao thì họ cũng là kẻ đã thắng. -
Thắng mẹ gì! Hồi đó nếu Mỹ cho B52 “rải thảm” thêm một hai trận nữa là bọn
chúng đầu hàng vô điều kiện, cũng giống như Nhật hồi thế chiến thứ hai rồi! -
Thế Tuất không hãnh diện được có mặt trong đoàn quân chiến thắng à? -
Hãnh diện gì! Thời chiến, ngoại trừ con cháu bọn “chóp bu”, thằng thanh niên miền
Bắc nào khỏi vào bộ đội? Khi đã xung trận thì giết hoặc bị giết chứ có ai muốn
thế đâu, anh! Mạnh
cười cười, liếc chỗ xâm bốn chữ “sinh Bắc tử Nam” trên tay Tuất. Hiểu Mạnh nghĩ
gì, Tuất xòe bàn tay, nhìn vào rồi bưng chai bia, “tu” một hơi, tiếp: -
Anh đã thấy những thằng bộ đội bị xích chân vào xe tăng, vào thân cây hoặc vào
trọng pháo chưa? Đấy, vô nhân đạo thế ấy mà tụi bộ đội vẫn phải để cho xích, huống
chi xâm bốn chữ định mệnh này! Mạnh
bóp nhẹ tay Tuất. Tuất xoay ngược bàn tay, nắm tay Mạnh rất lâu. Hai anh em đều
yên lặng. Không phải đến bây giờ Tuất mới cảm nhận được tình anh em ruột thịt
nơi Mạnh; nhưng quả thật bây giờ Tuất mới cảm thấy nhẹ nơi lồng ngực, vì Tuất
đã nói ra được phần nào những điều ray rức trong lòng chàng! Tuất
đứng lên, đến bên cửa sổ, nhìn mong ra vùng không gian bát ngát. Cánh đồng xa
xa lúa đã chín vàng. Từ lúc đó, trên chuyến tàu Thống-Nhất theo Mạnh về Nam để
cải táng hài cốt của ông Thân, lòng Tuất thanh thản như những áng mây cuối trời./. ĐIỆP MỸ LINH |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: OffLine Số bài: 23930 |
![]() ![]() ![]() |
Quả Đạn 130 Ly Và Chiếc Hố Cá Nhân![]() Quốc lộ 14 nối liền thành phố Pleiku đi ngang qua Kontum và cuối cùng là Tân Cảnh thuộc quân Dakto. Từ Tân Cảnh có một ngả ba, một hướng đi về Quận Dakto, một hướng về căn cứ Benhet, căn cứ của lực lượng Biệt Động Quân Biên phòng trú đóng ngay sát ngả ba biên giới Việt – Miên - Lào. Con đường từ ngả ba quốc Lộ 14 nối liền với căn cứ Benhet không còn là con đường trải nhựa nữa, mà là con đường đất lẫn đá gồ ghề dằn sốc, chiều ngang nhỏ hẹp chỉ vừa đủ cho hai xe chạy ngược chiều tránh nhau khó khăn lắm. Nó chạy ngang qua Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 42 Bộ Binh, trực thuộc Sư Đoàn 22, đang có nhiệm vụ hành quân, an ninh lãnh thổ, tiếp đến là căn cứ Phượng Hoàng, một căn cứ không lớn lắm, nhưng có một sân bay đủ để máy bay C-130 đáp xuống tiếp tế lương thực và quân trang vũ khí cho cả vùng. Con đường được tiếp nối đến căn cứ Hỏa Lực Dakmot và sau cùng là căn cứ Benhet. Căn cứ Dakmot nằm ngay trên một đỉnh đồi nhỏ, vì diện tích ngọn đồi hẹp cho nên buộc lòng phải để con đường chạy ngang chính giữa căn cứ và chia đôi pháo đội 105 ly của tôi ra làm hai, ba khẩu đại bác bên này đường và ba khẩu bên kia đường. Một cây cầu sắt bắc ngang con sông dưới chân đồi, hai bên bờ sông vách núi đá cao và dòng nước chảy siết vào mùa mưa. Tuy ngọn đồi nhỏ nhưng vách núi thẳng dốc, con đường phải quanh co hai vòng mới lên tới đỉnh đồi. Từng ba tháng một, các pháo đội trong Tiểu Đoàn của tôi phải luân phiên di chuyển từ Bồng Sơn, Tam Quan đến đây để tăng phái cho mặt trận phía bắc Kontum. Vì điạ thế hiểm trở và vị trí súng trên cao cho nên tôi cũng yên tâm địch khó có thể tấn công bằng chiến thuật biển người. Bên ngoài vòng đai căn cứ hỏa lực Pháo Binh này còn có một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng giữ an ninh. Cứ mỗi chu kỳ ba tháng tăng phái một lần và rời căn cứ sau khi có Pháo Đội khác đến thay thế, ba tháng luôn mãi bên núi rừng buồn hiu quạnh với những tác xạ bất kể đêm ngày khi có yêu cầu của quân bạn. Ở đây cũng đúng nghĩa của “tiền đồn biên giới” vì không còn bao xa nữa là vùng Tam Biên ngả ba biên giới Việt Miên Lào. Những buổi chiều xuống mau, mây phủ ngay trên đỉnh đầu lòng thấy thấm thía chi lạ cho nên chợt thấy: “Núi sông ôm kín đời chinh chiến. Tiền đồn heo hút nặng gánh vai. Mây giăng trắng xoá mờ nhân ảo. Se sắt bên lòng một chí trai….” Đêm nay có những dấu hiệu khác thường hơn mọi đêm, các đơn vị Địa Phương Quân xung quanh Quận Dakto nhiều lần chạm địch, hay có nhiều lần báo cáo nghe tiếng xe tăng chạy trong vùng, nhiều hướng khác các điểm phục kích của lính Bộ Binh Trung Đoàn 42, cũng như của Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù xin tác xạ nhiều lần, tôi đã liên tưởng tới một trận chiến ác liệt hơn. Từ 10 giờ đêm Pháo Đội tôi đã phải tác xạ liên tục yểm trợ cho nhiều cánh quân một lúc, bao nhiêu lần đóng ở đây, tôi chưa bao giờ chứng kiến một sự yểm trợ liên tục nhiều giờ như thế này, các cánh quân đều chạm địch và cũng thấy lo âu khi nghe báo cáo có tiếng xe tank chạy. Chừng quá nửa khuya, được nghỉ ngơi một chút thì đã sang ngày mới. Một ngày lịch sử và cũng là ngày cuối cùng trên vùng đất này cho đến hôm nay. Bốn giờ sáng ngày 24 tháng 4 năm 1972 tất cả các khẩu đại bác đều nhã đạn liên tục không phải do yêu cầu tác xạ của Bộ chỉ Huy Trung Đoàn 42 mà là của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn 22. Vì tình hình chiến sự tại đây nên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Tiền Phương được di chuyển từ Quy Nhơn đến đặt ngay trong Trung Tâm Hành Quân của Trung Đoàn 42 sát ngay tại thị trấn Tân Cảnh. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn bị tấn công trực tiếp mà trong đó có đơn vị cấp cao của tôi cũng bị tấn công theo, đó là Pháo Binh Sư Đoàn, thế thì làm sao mà tôi không dồn hết sức mình để yểm trợ cho được. Căn cứ Hoả Lực Dakmot của tôi nằm cách Tân Cảnh 11 cây số, bắn yểm trợ xem như mút tầm, xử dụng thuốc nạp hết cỡ, và mỗi viên đạn rời khỏi nòng súng là mỗi sự gầm thét tung trời chát chúa, cả khẩu đại bác nhấc tung lên rồi rớt xuống do sự giật lùi của nòng súng. Bất cứ giá nào và bất cứ yêu cầu nào tôi cũng cố gắng thỏa mãn, tôi trưng dụng tất cả mọi người lính trong Pháo Đội dù họ không có nhiệm vụ tác xạ vẫn phải vác đạn tháo đạn tiếp tế cho từng khẩu đội. Các đường khương tuyến của các khẩu đại bác chắc cũng đã mòn đi khá nhiều, vì toàn là xử dụng thuốc nạp 7 là loại thuốc nạp tối đa. Người lính khá mệt mỏi, cả căn cứ được bao trùm bầu khói súng màu trắng đục rất khó thở. Các cánh quân bộ binh bên ngoài lần lượt không liên lạc được qua các Tiền Sát Viên Pháo Binh mà tôi yểm trợ trực tiếp, tuy nhiên cũng nhờ sự liên lạc chung trong cùng một hệ thống truyền tin cho nên tôi vẫn còn biết được giờ này tình hình ra sao, ai đang ở đâu trong căn cứ, ai đã bung được ra khỏi căn hầm chỉ huy của Trung Tâm Hành Quân. Tôi bắt được liên lạc với một người Sĩ Quan liên lạc Pháo Binh Nhảy Dù, và tôi được lệnh bắn yểm trợ cho Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù đang trong vùng, mà trước đây họ có súng đại bác riêng của họ, nhưng giờ thì không biết tại sao tôi phải quay qua yểm trợ cho Nhảy Dù, tôi đoán bên Sư Đoàn của tôi vì đã mất liên lạc cho nên phải dồn hỏa lực cho Nhảy Dù. Người Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh Nhảy Dù này sau khi nói chuyện trên hệ thống vô tuyến thì cả hai nhận ra nhau là cùng khóa 22 Pháo Binh. Sáu năm sau khi ra trường bây giờ mới được gặp lại trên hệ thống truyền tin, và nhất là đang trên trận chiến tối tăm mặt mày như thế này cho nên chỉ biết trong xúc động mừng mừng tủi tủi chưa kịp nói gì với nhau thì phải nhận điện văn xin tác xạ từ một Sĩ Quan Tiền Sát Viên (thông thường gọi là Sĩ Quan Đề Lô) Pháo Binh Nhảy Dù khác do anh ta điều hợp chuyển cho tôi. Tiếng người Sĩ Quan Đề Lô oang oang trong máy với vẻ khẩn cấp hối hả lắm, tôi kiểm soát vị trí đứng của anh ta (toạ độ điểm đứng của Đề Lô), tôi thấy rất gần với toạ độ xin tác xạ, tuy nhiên vẫn còn có thể bắn được và tôi đang tin tưởng toạ độ xin tác xạ và toạ độ điểm đứng do anh ta chấm là chính xác. Sau khi nhiều loạt đạn điều chỉnh, đến lúc bắn hiệu quả thì tôi cho ngưng tác xạ vì nó chỉ cách quân bạn không đầy 50 mét mà tầm sát hại của đạn 105 ly đã đủ để làm chết người. Tôi đích thân cầm máy liên lạc với Đề Lô “tôi không thể bắn cho anh được nữa vì đã quá gần quân bạn”. Người Sĩ Quan Đề Lô trả lời trực tiếp trên hệ thống vô tuyến một cách rất dõng dạc và cương quyết: “Anh cứ bắn đi, bắn cho đến khi nào không còn nghe tôi nói nữa thì coi như tôi đã chết”. Tôi tưởng chừng như là chuyện huyền thoại trong phim xinê hay tôi nghe lầm; nhưng không, tôi đã thực sự xúc động và nghẹn lại trong vài giây! Tôi nhắm hai mắt và như trước mặt tôi cảnh tượng khủng khiếp sẽ phải xảy ra… Câu nói rất khí tiết và anh hùng của một Sĩ Quan Pháo Binh Nhảy Dù dù phải hy sinh để cứu đơn vị, và tôi tin chắc tình thế đang bị một đại đơn vị địch tràn ngập. Tôi không còn một sự chọn lựa nào khác với những loạt đạn bắn hiệu quả này và hy vọng sẽ cứu được quân bạn; và cũng cầu xin thật an toàn cho sinh mạng của người Sĩ Quan Đề Lô này. Sau khi chấm dứt tác xạ, đích thân tôi cầm máy gọi danh xưng truyền tin của người Đề Lô, nhưng gọi bao nhiêu lần cũng không thấy trả lời. Tôi lặng người đi trong đôi phút và biết rằng anh đã gục xuống bởi chính những quả đạn đại bác của tôi mà do chính anh yêu cầu. TÔI ĐÃ GIẾT BẠN TÔI MẤT RỒI… Cũng vào giờ phút này thì tôi không còn liên lạc được với bất cứ Tiền Sát Viên nào trên vùng cũng như các Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực của Trung Đoàn và Sư Đoàn. Tôi cảm thấy bơ vơ như “rắn mất đầu”. Không biết trông cậy vào ai, đâu còn ai chỉ huy đơn vị tôi, ra lệnh cho tôi bắn yểm trợ nữa đây? Trước đây chừng nửa giờ, tôi vẫn còn biết Vị Tư Lệnh Sư Đoàn Đại Tá Lê Đức Đạt, và cả vị Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn của tôi, Trung Tá Trịnh Lê Triễn, một ông thày của tôi từ ngày mới ra trường về Ban Mê Thuột trình diện ông ta năm 1966, hai người đã thoát được ra ngoài căn hầm chìm dưới đất được gọi là Trung Tâm Hành Quân Tiền Phương Sư Đoàn trước khi chiếc xe tăng T54 của địch tràn vào. Bây giờ im lặng và không còn bắn yểm trợ được nữa, tôi quay sang tần số của chiếc L19 đang quần quần trên bầu trời Tân Cảnh mà ở đây nhìn thấy được, họ báo động cho tôi biết những chiếc tank đang chỉa hướng về Căn cứ Phượng Hoàng và cũng cùng hướng với căn cứ của tôi. Tôi nghĩ đến những khẩu M-72 đã trang bị sẵn cho Pháo Đội từ lâu. Trên trời có hai chiếc phản lực đang trút những loạt bom xuống trong căn cứ Tân Cảnh, tôi nhìn thấy rõ những viên đạn phòng không bắn theo khi chiếc máy bay ngóc đầu bay vút lên. Một cuộn khói đen bay theo với chiếc máy bay, dường như đã trúng hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 thì phải? Cái không khí tang thương sẵn có càng thê lương hơn khi cuộn khói đen uốn lượn nhiều vòng trên bầu trời trước khi một cột lửa bùng phát kèm với tiếng nổ lớn, may mắn thay chiếc dù của người phi công cũng bung ra đúng lúc trước khi chiếc phi cơ rơi xuống đất. Có một điều thông thường rằng bao giờ Cộng Quân tấn công một vị trí nào đó, chúng cũng pháo kích tới tấp vào căn cứ Pháo Binh trong tầm yểm trợ để khống chế làm vô hiệu hoá sự yểm trợ cho vị trí đang bị tấn công. Nhưng hôm nay rất đặc biệt, họ không pháo kích đơn vị Pháo Binh của tôi đang yểm trợ trực tiếp cho Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 22 trong suốt thời gian họ tấn công. Có lẽ họ khinh địch và cho rằng sự can thiệp của đơn vị tôi không làm chùn bước tiến chăng? Nhưng không, bây giờ họ bắt đầu quay sang tôi, cái gai phải nhổ tiếp trước khi thống lãnh một vùng đất. Đại bác 130 ly có tầm xa 18 cây số, họ đặt bên triền núi trước mặt tôi nghe rất rõ tiếng đạn rời khỏi nòng súng ngay sau khi nhìn thấy tia lửa chớp lên tại vị trí đặt súng, có nghĩa rằng thấy tia lửa phát ra từ chỗ đặt súng trước khi nghe tiếng đạn depart vì tốc độ ánh sáng đi nhanh hơn tốc độ tiếng động. Nhìn thấy rõ vị trí đặt súng của địch qua ánh chớp lửa, biết được hướng đặt súng của địch, dân Pháo binh chúng tôi đã xác định được toạ độ của địch nhờ phương giác và khoảng cách, thế mà đành bó tay chỉ núp dưới mỗi hố cá nhân và nhìn cho vui. Địch quân đã sử dụng đại pháo 130 ly là cố tình vượt lên tầm xa của đại bác 105 và 155 ly của Quân Lực VNCH. Súng của chúng tôi chỉ bắn tối đa 11 mét 100 thước mà thôi. Thấy mà không làm gì được nó, thế mới ức cành hông. Chỉ trông cậy vào máy bay oanh kích vị trí đặt pháo, nhưng giờ không có máy bay nào nữa, tôi lo cho số phận của 150 mạng người giờ đây biết phải làm gì khi hỏa lực của mình ngoài tầm tay. Trong vòng một giờ đồng hồ, căn cứ hoả lực Dakmot của tôi trở thành một đống bầy nhầy hỗn độn, hai cây anten 292 bị gãy xuống hoàn toàn tê liệt không liên lạc được với ai, các căn hầm bị bung mái tung lên cao, Đài Tác Xạ là nơi xem như trung tâm hành quân của căn cứ cũng bị sập xuống trước sức công phá của đạn 130 ly. Tiền sát viên của địch chắc chắn áp rất sát căn cứ của tôi để quan sát và điều chỉnh mỗi loạt đạn rất chính xác nhất là mỗi khi thấy có người di chuyển trên mặt đất. Cả một căn cứ thành bình địa, nhưng không có một pháo thủ nào bị thương hay bị chết vì nhờ tất cả đứng dưới hố cá nhân. Ai ai cũng phải đào một cái hố sâu tới cổ của mình khi đứng để còn tác xạ được khi địch tràn vào, chiều rộng vừa với mỗi một cơ thể đứng và xoay trở được, trên miệng hố một cây súng M16 và một cây M72 chống chiến xa là bửu bối tự vệ lúc bấy giờ. Tôi len lỏi trong một đường giao thông hào từ căn cứ của tôi đến chỗ đặt bản doanh Tiểu Đoàn Biệt Động Quân bảo vệ Căn Cứ. Đến nơi tôi mới biết ông Đại Uý Tiểu Đoàn Trưởng đã bị thương nơi cánh tay phải bởi một mảnh đạn pháo kích, người lính phụ tá còn đang băng vết thương. Đơn vị ông ta còn liên lạc được với Đại Đơn Vị của Ông là Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Căn cứ Benhet bằng máy PRC 25. Ở đây vẫn chưa có lệnh lạc gì cho ông. Tôi trở về căn cứ của tôi, vì thấy tình hình im lặng và cũng do đã đói bụng vì đã quá 4 giờ chiều mà từ sáng tới giờ chưa có ăn gì; tôi nhảy lên khỏi chiếc hố cá nhân được đào gần Đài Tác Xạ sau lưng chiếc xe GMC (xe kéo súng) đậu tại đây để chạy bình điện cho máy truyền tin đánh morse. Tôi lên khỏi miệng hố và cất tiếng gọi lớn “nhà bếp” đem lương khô lên ăn tạm. Trong khi anh Binh Nhất Nguyễn Văn An, nhân viên Hỏa Đầu Vụ, mang những bịch cơm sấy đến chỗ tôi thì tôi đã rời xa rồi vì phải đi kiểm soát lại các cộng sự phòng thủ và từng hố cá nhân của nhân viên. Chỉ có bóng dáng hai người đang hiện diện trên mặt đất, tức thì đạn 130 ly bắt đầu rơi trở lại trên căn cứ. Từ khi nghe tiếng depart cho tới lúc đạn rơi trên mục tiêu cũng có thể ước chừng được bao nhiêu lâu nữa đạn sẽ nổ nên có đủ thời gian để nhảy xuống hố cá nhân khác, vì tôi đang xa lìa chỗ của tôi. Anh Binh Nhứt Nguyễn Văn An khi vừa đến ngay hố cá nhân của tôi thì nghe tiếng đạn của địch depart nên một phản xạ tự nhiên nhảy ngay xuống hố cá nhân của tôi dưới chân mình. Loạt pháo kích vừa rồi cũng chỉ chừng 10 quả rớt lung tung trên mặt đất của Căn cứ Hỏa Lực, tất cả pháo thủ vẫn còn đứng yên dưới hố, và tôi cũng hy vọng và tin tưởng tuyệt đối rằng không ai bị chuyện gì về nhân mạng. Theo kinh nghiệm chiến trận và theo trong nhà trường thì quả đạn pháo kích nổ trước miệng hố hay sau miệng hố theo chiều đạn đạo hình Parabol cũng sẽ tạt về phía trước và sẽ không làm chết hay bị thương người đứng dưới hố. Tôi vội vàng trở lại hố cá nhân của tôi thì thấy máu thịt xương như bị bằm nhỏ giống như bằm tiết canh vịt, văng cả nắm lên vách thành xe GMC ngay đó (chiếc xe nằm ngay phía sau hố và là hướng tạt của lực theo chiều của đạn đạo). Tôi cúi xuống nhìn vào trong hố, chỉ còn là một đống thịt bầy nhầy bằm nhỏ cùng với đôi giày trận còn nguyên. Anh Binh Nhứt An đã chết rồi và chết không toàn thây, tim tôi đập mạnh, xúc động vô vàn. Nguyễn Văn An đã vì tôi mà chết rồi, tôi ngẩn ngơ như người không hồn, tôi kêu “An ơi, An ơi!” Lặng người đi và tưởng như trong mơ, tôi thực sự xúc động trước cái chết của người lính thuộc cấp thế cho mình. Cái số của tôi chưa tới số? Điều gì đã khiến cho tôi rời cái hố? Một sự tình cờ xảy ra hay có sự “sắp xếp của bàn tay vô hình nào đó?” Tránh pháo kích địch một cách hiệu quả nhứt không gì bằng ẩn người trong hố cá nhân. Đạn rớt trước mặt hay sau lưng hố không bao giờ gây thiệt mạng. Chưa bao giờ tôi gặp một trường hợp đạn pháo kích rớt chính xác xuống miệng hố. Điều gì đã khiến tôi rời khỏi cái hố cá nhân của riêng tôi? Tim tôi đập mạnh hơn, tôi lặng người và TIẾC THƯƠNG CHO AN. Người đi trong cuộc chiến thường hay tin tưởng vào SỐ MẠNG, hay là TRỜI KÊU AI NGƯỜI ẤY DẠ, hoặc ĐẠN TRÁNH MÌNH CHỨ MÌNH KHÔNG THỂ TRÁNH ĐẠN. Tâm tư tôi bị giao động mạnh khi nhìn xuống hố, không còn một thứ gì có thể nhận ra là con người, vì nó nát bấy như băm nhỏ, một viên đạn đại bác 130 ly làm sao có thể rớt ngay phóc vô một cái hố đường kính chỉ chừng năm mươi centimet. Nếu như lúc đạn đang bay trong không trung, tốc độ gió mạnh hơn, hay gió đổi chiều chỉ một chút cũng làm viên đạn lệch đi, hay người xạ thủ địch quân giật cò chậm hơn 1/50 giây cũng sẽ làm viên đạn lệch qua chỗ khác vì sự quay của trái đất sẽ đổi chỗ viên đạn rơi. Nhiều yếu tố để khiến một viên đại bác rơi trúng đích, nhưng có điều gì đã khiến tôi bồn chồn đói bụng mà phải rời hố, để rồi một binh sĩ thuộc cấp chết thế mình. Tôi nhắm mắt lại và lặng người không dám nhìn vào đáy hố, nó chỉ còn rõ nhất đôi giày trận của Binh Nhứt Nguyễn Văn An. Trong nỗi hụt hẫng kèm theo lo âu, chưa biết phải làm gì, từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn Biệt Động Quân bảo vệ Căn cứ chuyển cho tôi một cái lệnh. Hệ thống truyền tin gần và xa của đơn vị tôi coi như hoàn toàn tê liệt; chỉ còn duy nhứt đơn vị bảo vệ căn cứ của tôi là chỗ dựa trong lúc này. Lệnh của Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn cho tôi “triệt thoái khỏi căn cứ đi về Trại BENHET ngay bây giờ”. Thì ra vẫn còn có người nghĩ đến tôi, thực ra không phải nghĩ đến tôi mà nghĩ đến sáu khẩu đại bác cần được xử dụng. Tôi không liên lạc trực tiếp với Quân Đoàn, mà chỉ thi hành lệnh qua trung gian là Biệt Động Quân Quân Khu 2. Pháo Binh của tôi mất tiêu hết đâu rồi, đâu còn xếp lớn xếp nhỏ gì để liên lạc. Tôi trở lại Pháo đội và ra lệnh “cấp tốc di chuyển khỏi nơi này”. Khi người Đề Lô địch thấy lố nhố người xuất hiện chạy đi chạy lại trên mặt đất thì họ bắt đầu khai hỏa trở lại, làm cho công việc chuẩn bị trở nên phức tạp hơn. Chỉ móc được 5 khẩu đại bác vào những chiếc GMC nào còn chạy được dù là bể bánh xe, hay bể két nước. Phải bỏ lại một khẩu vì không còn kịp. Nếu cố gắng kéo cho được 6 khẩu và đầy đủ phụ tùng thì tôi e sẽ có quân nhân trúng đạn pháo kích. Tôi quyết định tự tay tôi rút khối kích hỏa của khẩu bỏ lại và ném ra xa, giấu đi làm vô hiệu không cho địch quân xử dụng khẩu đại bác này khi họ tràn vào. Tôi cất chiếc nón sắt ra khỏi đầu và cúi xuống nhìn cái hố, nơi có xác bầy nhầy bị băm nhỏ như chào vĩnh biệt Binh Nhứt Nguyễn Văn An. Đạn pháo kích địch vẫn tiếp tục rơi. Tôi chạy thiệt nhanh lại đoàn xe đang chờ và phóng hết ga về hướng căn cứ Ben Hét, một căn cứ đầu não của Biệt Động Quân Biên Phòng của vùng rừng núi Tam Biên. Đi về hướng BENHET tức là không về hướng đồng bằng mà càng tiến gần với ngả ba biên giới Việt Miên Lào. Khi đến BENHET xong, tôi gặp người Trung Tá Biệt Động Quân, Căn cứ Trưởng, ông ta bảo tự bố trí phòng thủ tạm và chờ sẽ có lệnh sau. Khi mặt trời khuất sau rặng núi, tôi quyết định dùng một chiếc GMC và lựa một toán lính gan dạ, lanh lẹ cùng tôi chạy trở lại Căn cứ Dakmot để lấy khẩu đại bác bị bỏ lại. Vì tôi là người giấu khối kích hỏa, biết chỗ nên tôi phải đi, và tôi cùng đi thì binh sĩ sẽ lên tinh thần. Địch quân không ngờ rằng có người trở lại nên không phản ứng kịp và chúng tôi đã hoàn thành công tác lấy được khẩu đại bác trở về Ben Het. Ở đây pháo đội không gióng hướng súng để tác xạ yểm trợ nữa, mà chỉ bắn trực xạ phòng thủ vị trí, vì đêm nào cũng nghe tiếng xích của xe tăng địch rú gầm xung quanh, cả Pháo đội thức bét con mắt để trông chừng mà trực xạ phải tới ngày thứ tư mới có trực thăng câu đại bác và nhân viên pháo đội tôi từ Benhet về Kon Tum. Không phải Quân Đoàn thương tiếc đơn vị tôi mà cho trực thăng hai cánh quạt đến bốc chúng tôi, mà vì cả Sư Đoàn vừa bị tan hàng không còn một khẩu đại bác nào để tử thủ KonTum. Khi trực thăng đáp xuống là lúc đạn pháo kích bắt đầu rơi tới tấp, trực thăng không thể chờ mình được nên cũng liều mạng móc súng, đạn 105 ly và dụng cụ. Coi như chơi trò ú tim hên xui may rủi, nếu lỡ trúng đạn thì đành chịu. Mỗi lần chỉ đáp được một trực thăng vì xuống một lúc dễ trúng đạn pháo kích. Có tất cả 10 chuyến thì xong hết đơn vị. Chỉ khi nào trực thăng lên đến độ cao an toàn thì mới biết mình thoát nạn. Thời điểm này là lúc Cộng Quân Bắc Việt đang vây KonTum chỉ còn có cái lỏm, trực thăng vừa đáp xuống thành Dapla là có dàn chào đạn của VC ngay. Bọn nó ở đâu sẵn và pháo kích liên tục. Cái số của tôi may mắn nên không phải làm sao cả. Những ngày gian khổ và nhiều nguy hiểm tại KonTum cũng qua đi khi có các đơn vị Pháo Binh của Sư Đoàn 23 đến được, mà chỉ đến bằng người, không thể mang theo đại bác vì trực thăng không thể câu súng qua đèo ChuPao. Không biết do cái số còn hên có người thương nghĩ tới, đã truyền lệnh cho tôi từ Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn 23, ra lệnh tôi bàn giao tất cả súng đại bác lại cho nhân viên Pháo Binh Sư Đoàn 23 để chuẩn bị trực thăng vận về Pleiku nhận súng ở đó và tái phối trí. (Tôi là dân Pháo Binh Sư Đoàn 22) Gia đình tôi từ quê cha sanh mẹ đẻ cho tới quê vợ không biết tin tức tôi ra sao trong hai tháng. Ba tôi chạy ngược chạy xuôi hết đi coi bói ông thầy này tới bà nọ để mong tin con. Cả một sư đoàn 22 và cả một Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn của tôi tan nát, cũng không còn biết tôi thì làm sao từ Nhatrang và Sài Gòn biết được. Khi về đến Pleiku, đơn vị đã ổn định, tôi được đi phép đặc biệt về thăm nhà. Tất cả“ gia tài“ quân ngũ của tôi để lại tại căn cứ Đệ Đức Bồng Sơn, cũng bị tràn ngập. Căn cứ mất , tôi cũng mất hết tất cả, nơi này có hai ông Tiểu Đoàn Trưởng và Tiểu Đoàn Phó tiểu đoàn của tôi cũng mất tích và chết sau đó. Tôi không còn đồ đạt gì nên cứ mặc quần áo trận lên xe đò về Nhatrang. Vừa ngồi lên xe đò nhỏ từ Qui Nhơn đi Nhatrang, một cô ngồì sát bên bảo: “Anh anh, anh mặc đồ này khi vô tới Hảo Sơn, Vũng Rô, tuị nó chận và bắt anh đó“. Cô nói tiếp: “Để em đưa cái áo này cho anh mặc đỡ”. Tôi nghĩ bụng “về tới đây còn gặp rắc rối”! Thế là tôi cũng phải nghe lời cô ấy. Vừa mặc xong, một bàn tay của một người đàn ông đứng tuổi ngồi cạnh cô gái cho mượn áo cầm tay tôi mà không cần hỏi han giáo đầu chi hết: “Có phải anh vừa thoát một đại nạn lớn lắm phải không? Tôi thấy anh thoát chết là do một người nào đó khuất mặt họ cứu anh“. Tôi thấy đúng ở chỗ thoát đại nạn, nhưng do ai cứu thì tôi không biết, tôi nghĩ thầm mà không trả lời. Không lẽ ông này thấy tôi mặc đồ lính rồi đoán vậy? hay ông ta có bùa ngải gì đây? Tôi tự hỏi mà không dám thố lộ. Ông ta tiếp: “Tôi nói thực cái mạng anh rất lớn, có một vong linh người Nữ theo cứu anh, chứ không thì anh không có ngồi đây.“ Tôi thấy đúng như trúng tim đen ở chỗ may mắn thoát chết, nhưng mà ai đã cứu mạng tôi thì không biết. Và rồi tôi lẩm bẩm: “cũng có thể lắm….” Tôi về được tới nhà trong bất ngờ mà Ba Má tôi không hề biết. Mọi người đều khóc, khóc vì sung sướng tôi đã về bằng xương bằng thịt, mà có ông thầy bói nào nói với Ba tôi là “tôi không còn nữa, tan xác hết rồi“. Cái cảnh xum họp này coi thật là cảm động, cả nhà vui mừng hẳn lên. Tối hôm đó sau khi cơm nước xong Ba Má tôi kể chuyện cho tôi nghe trong lúc có các cô chú cũng có mặt cùng nghe. Ba tôi kể rằng: “năm nào nhà mình cũng mướn mấy ông ngoài Bình Định cứ vào sau mùa gặt thì đào đất ruộng xung quanh nhà dùng xe cút kít đẩy đất lên bồi đất xung quanh nhà cho cao để trồng cây ăn trái. Họ ăn ngủ tại nhà mình và trả lương khoán. Khi nào làm xong hết việc thì họ đi nơi khác, làm bảy ngày một tuần tối ngủ ở đây”, Ba tôi vừa nói vừa chỉ chỗ ngủ của ông ấy. Có một buổi tối nọ sau khi ăn xong như thường lệ, cũng đang ngồi nói chuyện bâng quơ thì bỗng nhiên ông ta bụm hai bàn tay rồi vuốt mặt, thả tay ra thì thấy mặt đỏ rần như Trương Phi. Ông ta rung người lắc lắc đầu mấy cái rồi nhìn thẳng vào mặt Ba tôi mà nói: “Sao nhà Ngươi đẻ ta ra mà bỏ, không ngó ngàng gì tới? Nhà ngươi có còn nhớ vào một buổi sáng chừng tám chín giờ đẻ ta ở gốc keo rồi chôn ở đó không? Nhà Ngươi không có đặt tên, không có bàn thờ cho ta. Nhưng giờ ta không còn ở đây nữa, ta ở trên cao lắm. Ta có hai người anh đang trong nguy hiểm, và chính ta đã cứu một người anh đó.“ Ba Má tôi rợn tóc gáy rất là sợ, vì sao ông này nói trúng y chang sự việc mà ông ta không là người trong gia đình, ông ta không thể nào biết được chuyện riêng tư này đã xảy ra mấy chục năm trước (chuyện cái bào thai bị sẩy). Ba Má tôi nhớ lại, vào một buổi sáng, Má tôi đi tiểu ngoài hàng rào keo cách xa nhà chừng vài chục thước sát bờ ruộng; trong lúc bà mang thai ba tháng. Bà đã để lọt cái thai ra ngoài, coi như sẩy thai. Ba tôi vội lấy cái nồi gọ bằng đất, một loại nồi nhỏ chỉ nấu cơm cho một người ăn, bỏ cái thai trong đó và đem chôn cũng ngay gốc cây keo bà vừa tiểu. Vì Ba tôi nghĩ rằng cái thai mới có ba tháng, còn quá nhỏ nên không quan tâm, và không hề quan tâm đến nữa. Đó là đứa em gái kế tôi, chuyện đã mấy chục năm, nay được một ông lạ hoắc kể ra, làm sao không làm kinh ngạc mọi người. Sau đó Ba Má tôi làm một cái “trang” để thờ đứa nhỏ mà không để chung với bàn thờ chính giữa nhà thờ Ông Bà và đặt tên cho nó. Em Gái tôi nói lúc nào cũng theo sát tôi để phù hộ độ mạng khi xảy ra nguy hiểm. Tôi nghe kể lại cũng thấy rợn da gà và liên tưởng tới Căn Cứ Dakmot. Tôi nhớ đến chuyện Binh Nhứt Nguyễn Văn An đã thế chỗ trong hố cá nhân của tôi để rồi thịt xương bị nổ tung và bằm như tiết canh. Tôi thở ra và nghĩ không ngờ vẫn còn có thế giới vô hình đâu đây. Tôi không biết phải làm gì với em gái tôi để gọi rằng đền ơn cứu mạng tôi. Và từ đó tôi rất tin tưởng CON NGƯỜI TA CHẾT ĐI VẪN CÒN LINH HỒN, cũng như tôi tin CON NGƯỜI TA SỐNG CHẾT ĐỀU CÓ SỐ. Nguyễn Trãi Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - Hôm nay lúc 1:02pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 111 |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |