Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Chuyện Linh Tinh
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Đời Sống - Xã Hội :Chuyện Linh Tinh  
Message Icon Chủ đề: THÁNG TƯ ĐEN...... VÀ TẤT CẢ.. Gởi trả lời Gởi bài mới
<< phần trước Trang  of 109
Người gởi Nội dung
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23726
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 02/Jun/2025 lúc 7:52am



Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước Việt Nam bước vào một chương bi kịch mới – không phải của đoàn tụ, hòa hợp, hay hòa bình, mà là bản án tử hình tập thể. Những trại “học tập cải tạo” ngập mùi chết chóc mọc như nấm - hàng triệu thân phận bị đày đọa trong chính quê hương mình. Từ trong tận cùng tuyệt vọng, người dân miền Nam đã lựa chọn một con đường không có lối về: vượt biển, vượt biên – đánh đổi tất cả để tìm lại tự do.

Chưa từng có một quốc gia nào trong thời đại hiện đại chứng kiến hàng triệu công dân liều chết ra đi như thế. Từ năm 1975 đến giữa thập niên 1990, theo các báo cáo của Liên Hiệp Quốc và các tổ chức nhân đạo, có hơn 2 triệu người Việt Nam tìm cách vượt biển. Và trong số đó, ít nhất 250.000 người đã chết – chết vì đói khát, vì bão tố, vì máy tàu chết máy, vì bị hải tặc giết hại, hoặc vì trôi dạt vô vọng giữa đại dương không bến bờ. Họ là những người dân vô tội, là học sinh, sinh viên, là thầy cô, bác sĩ, binh lính, công chức, những con người từng sống giữa phố xá văn minh của Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng… Giờ đây chui rúc dưới khoang tàu đánh cá chật hẹp, hôi hám, rỉ nước, không một bảo đảm, không một cứu hộ, chỉ mang theo một niềm hy vọng mong manh: thoát khỏi bóng tối cộng sản.


Trên những chuyến tàu định mệnh, thảm kịch không chỉ đến từ thiên nhiên mà còn từ lòng người. Hải tặc Thái Lan và Mã Lai đã trở thành ác quỷ đội lốt người. Nhiều tàu người Việt bị chúng đuổi theo, giết đàn ông, bắt cóc hoặc hãm hiếp phụ nữ ngay trước mắt cha mẹ, chồng con. Có em bé mới 12 tuổi bị cưỡng hiếp đến chết. Có bà mẹ bị đánh gãy tay khi van xin tha mạng cho con gái. Có người phụ nữ sau khi bị làm nhục đã nhảy xuống biển tự vẫn.

Một số câu chuyện vẫn còn khắc sâu vào trí nhớ cộng đồng người Việt hải ngoại. Gia đình anh Lê Văn P. ở Vũng Tàu – gồm 6 người – lên ghe nhỏ vượt biển năm 1979. Khi tàu chết máy giữa biển Đông, không còn lương thực, mẹ anh đã cắt cổ tay mình pha với nước biển cho con uống đỡ khát. Cả 6 người chết vì mất nước, xác dạt vào bờ Mã Lai 12 ngày sau.

Hay chuyến tàu tại Rạch Giá năm 1980, bị hải tặc cướp ba lần. Toàn bộ đàn ông bị ném xuống biển. Những cô gái từ 10 đến 20 tuổi bị hãm hiếp, sau đó bị giết hoặc mất tích. Duy chỉ một cô bé tên My sống sót nhờ trốn được trong hầm máy suốt 5 ngày, đến khi được tàu buôn Đức cứu. Có người lính Biệt Động Quân, sau khi ra tù cải tạo, cùng vợ con vượt biển năm 1982. Ông sống sót nhưng mất vợ và hai con gái khi tàu lật gần đảo Palawan. Mỗi năm, ông vẫn đến bờ biển San Diego đốt nhang cho “nấm mộ vô hình” của người thân.

“Tôi không bao giờ nghĩ là" Nhưng ông không hiểuchính ông và những trò chơi địa chính trị lạnh lùng đã ném hàng triệu người vào địa ngục.

Ngày nay, hàng triệu người Việt tị nạn cộng sản đã xây dựng lại đời mình trên đất mới – từ Mỹ, Úc, Pháp, Canada đến Đức, Na Uy… Họ là bác sĩ, giáo sư, doanh nhân, nghệ sĩ, là thế hệ thứ hai vươn lên từ đau thương. Nhưng vết sẹo trong tâm hồn cha ông họ vẫn còn đó – như nỗi nhức nhối không bao giờ lành. Bia mộ không tên dưới đáy biển Đông. Những đứa trẻ chết đói trong tay mẹ. Người vợ ôm xác chồng giữa mênh mông sóng nước. Những bóng người trong đêm tối bơi qua sông biên giới Campuchia, bị lính cộng sản bắn gục trong im lặng.

Đó là lịch sử – không ai được quyền lãng quên. Cuộc vượt biên vĩ đại sau 1975 không chỉ là một cuộc di cư – đó là bản cáo trạng hùng hồn nhất đối với một chế độ đã khiến hàng triệu người dân phải trốn chạy chính quê hương mình. Và dù những con tàu đã chìm, những xác người đã mục, những tiếng kêu cứu đã tắt – ký ức ấy vẫn sống mãi. Trong lòng biển. Trong trái tim những người còn sống. Và trong lời nguyền lịch sử chưa bao giờ nguôi.

*************

April 30 – The Great Exodus by Sea: A Nation’s Journey Through Blood and Tears.

After April 30, 1975, Vietnam entered a new and harrowing chapter of its history – not one of reunion, reconciliation, or peace, but of m*** death sentences, of “reeducation camps” reeking of despair and death, and of millions cast into exile in their own homeland. From the depths of hopelessness, the people of South Vietnam chose a path with no return: fleeing by land and sea-sacrificing everything for one desperate hope: freedom.

Never before in modern history had a nation witnessed millions of its own citizens risking death to escape their country. From 1975 to the mid-1990s, according to reports by the United Nations and humanitarian organizations, over 2 million Vietnamese attempted to flee by sea. At least 250,000 perished – lost to hunger, thirst, storms, engine failure, pirate attacks, or simply vanishing into the vast, indifferent ocean. These were not criminals or deserters – they were students, doctors, teachers, civil servants, soldiers, mothers and fathers – people who once walked the civilized streets of Saigon, Huế, and Đà Nẵng. Now they huddled below deck in leaking fishing boats, suffocating in stench and fear, with no guarantees, no rescues – only the faint glimmer of escaping the communist abyss.

On these ill-fated voyages, the tragedy came not only from nature, but from the cruelty of mankind. Thai and Malaysian pirates became devils in human form. Countless Vietnamese boats were chased, their men slaughtered, their women kidnapped or raped before the helpless eyes of fathers, husbands, and children. A 12-year-old girl was raped to death. A mother had her arms broken begging for mercy for her daughter. One woman, after being brutalized, leapt into the sea to end her torment.

These horrors are carved into the memory of the overseas Vietnamese diaspora. One such story: The Lê Văn P. family from Vũng Tàu – six people – set off in a small boat in 1979. When the engine died and food ran out in the South China Sea, the mother slit her own wrist, mixing blood with seawater to quench her children’s thirst. All six perished. Their bodies washed ashore in Malaysia twelve days later.

In another, a boat from Rạch Giá in 1980 was attacked three times by pirates. All the men were thrown overboard. Girls aged 10 to 20 were raped and then murdered or vanished. Only one survivor – a girl named My – hid in the engine hold for five days before being rescued by a German merchant ship.

Or the Airborne Ranger veteran who, after years in a reeducation camp, escaped by sea with his wife and two daughters in 1982. He survived. They did not. The boat capsized near Palawan. Every year, he burns incense on the shores of San Diego – for the “nameless grave” that is now the sea.

What’s even more heartbreaking: while the victors beat their chests and proclaimed “liberation,” the vanquished were erased from the land of their birth. No household registration. No jobs. No education. Only surveillance, discrimination, and prison. From the cities to the countryside, the fear of “background checks,” of “blacklists” haunted every former soldier and public servant. Fleeing became the final scream of a people cornered into silence.

Even Henry Kissinger – the architect of the 1973 Paris Accords – coldly admitted: “I never thought the Vietnamese would want to leave their country so badly.” But he didn’t understand – it was he, and the cold-hearted games of geopolitics, who condemned millions to hell.

Today, those who survived the communist exodus have rebuilt their lives across the globe – from America, Australia, France, and Canada to Germany and Norway. They are now doctors, professors, entrepreneurs, artists. A second generation rises from the ashes. But the wounds in the souls of their parents remain – raw and unhealed. Tombstones without names lie at the bottom of the South China Sea. Starving infants died in the arms of their mothers. Wives clutched the bodies of their husbands in the endless, silent waves. Shadows of fugitives swam across the Cambodian border at night, only to be gunned down by communist guards with no witness.

This is history – not a tale to be forgotten.

The great exodus after 1975 was not merely a migration. It was a damning indictment of a regime that drove its people to flee the very soil they once called home. And though the boats have sunk, the bodies have rotted, and the screams for help have faded into silence – the memory lives on.

In the ocean’s depths.

In the hearts of the living.

And in the eternal curse of history that will never be silenced.

── ● ──

THUY TRANG Nguyen
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23726
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: 18/Jun/2025 lúc 3:08pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23726
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 2:13pm

Lính Trận

 
Hình minh họa 

Phi trường trực thăng Bình Liên nằm gần sát quốc lộ 1. Đây là một phi trường dã chiến để chuyển quân hay tiếp tế cho các đơn vị hành quân trực thuộc sư đoàn 2 bộ binh. Thường thường bất cứ lúc nào, sáng, trưa, chiều, tối, hay trong đêm khuya khoắc, khi có lệnh ''bốc'' hay ''súp lay'', là y chang chỉ 5-10 phút sau là có tiếng cánh quạt trực thăng vù vù xé gió. Trong chớp nhoáng, những chiếc trực thăng, tùy theo mỗi công tác, hoặc UH1B chuyển quân hay Gunship tấn công, sẽ có mặt ngay tại chỗ ''bốc''.

Hoán được xe tiếp tế của tiểu đoàn chở anh đến đây để đợi có chuyến bay là lên vùng hành quân. Anh ra trường mới được hơn 20 ngày, nghỉ phép được 10 ngày về thăm nhà, thăm vợ con, xong anh đến trình diện sư đoàn, được bổ sung về trung đoàn 6 bộ binh, rồi xuống tiểu đoàn tác chiến, tiểu đoàn đang hành quân trên miệt núi Tròn, Sơn Tịnh.

Buổi sáng nay, anh đã thức dậy sớm để vào hậu cứ, ba lô súng đạn trên vai, anh theo xe tiếp tế vào phi trường Bình Liên để lên vùng chiến trận.

2 năm học tập ở một quân trường hiện dịch, đến ngày ra trường, bạn bè anh ai cũng nhốn nháo tìm những đơn vị lẫy lừng như dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân để về, đến phiên anh lên chọn đơn vị, chỉ còn lại các sư đoàn và tiểu khu, anh đành chọn sư đoàn 2, trong lòng anh ít ra cũng có một chủ đích, là được gần nhà, mỗi lần hành quân về dưỡng quân, anh có thể về thăm mẹ và vợ con anh, sống với mẹ, trên căn nhà cũ bị chiến tranh cày xới, đổ nát, nhưng ít ra, anh cũng tìm được một chỗ nương tựa êm đềm.

Ngày ra trường, ông tướng chỉ huy trưởng nói: 

- Các anh là sĩ quan hiện dịch, các anh phải tỏ rõ khí phách của mình, chỉ có đơn vị tác chiến mới là nơi tôi luyện cho một sĩ quan chỉ huy đầy đủ năng lực. Máu, nước mắt và sự cực khổ ở chiến trường sẽ làm giàu thêm kinh nghiệm của các anh. Muốn làm sĩ quan chỉ huy các anh hãy tự thắng mình và hãy bắt đầu từ một người lính tác chiến'. 

Lời của ông tướng nghe ra cũng đúng. Chiến trường là nơi tôi luyện tốt nhất cho các sĩ quan chỉ huy,anh không thể là người chỉ huy giỏi khi anh chỉ là một sĩ quan ở văn phòng hay tiếp vận. Không có khổ cực nào hơn khổ cực của một người lính tác chiến, ngày đêm luôn luôn đối diện với địch quân, băng rừng, vượt suối, phục kích, trinh sát, viễn thám, gài mìn, đào hầm, canh gác, tất cả công việc của một người lính tác chiến đầy ứ,thở không ra hơi, ăn không đúng bữa, có nhiều lúc ăn chỉ toàn đồ hộp, cơm sấy, không có một chút chất tươi nào và cái bi thảm nhất là sự cận kề với nổi chết, cái chết rình rập đến không biết lúc nào.


Quảng Ngãi, một nơi không hấp dẫn gì mấy với đám lính sư đoàn, Quảng Ngãi với các địa danh: Sơn Hà, Trà Bồng, Sơn Tịnh, Nghĩa Hành, Minh Long, Ba Tơ, đâu đâu cũng đầy ắp những đe dọa, hiểm nguy. Ba Gia, Đồng Ké, nơi anh đã nghe các trận ác chiến giữa hai bên, khi anh còn là chú bé con mài đủng quần trên ghế nhà trường, bây giờ thì anh thực sự đối diện với chiến trường nơi đây.

Trước khi lên xe để lên vùng hành quân, người hạ sĩ quan chỉ huy hậu cứ đã nói:

 - Tiểu đoàn ta đang hành quân ở núi Tròn, bây giờ thiếu úy vào sân bay Bình Liên để theo chuyến tiếp tế lên đó.

Thật ra, dù đi lính, và đã được tôi luyện tại một trường hiện dịch sừng sỏ nhất nhì quân lực, với những lần tập sự hành quân dã ngoại vô cùng cơ cực như hành quân thật vậy, nhưng nó vẫn là giả, vì dù sao trong đầu óc anh cũng có những ý nghĩ về sự an toàn. Anh chưa nghĩ được đến một vùng hành quân sẽ ra sao, hiểm nguy đến mức độ nào. Anh cũng vẫn có những tư tưởng lãng mạn về một người lính tác chiến với bao nhiêu nét đẹp của sự oai hùng, hào hoa, như những bài hát ca tụng tình anh lính chiến của các nhạc sĩ đương thời. Anh vẫn nghĩ anh là sĩ quan, sẽ được phát súng colt, được phát ống dòm chỉ huy, không mang ba lô, đạn dược gì ngoài cái bản đồ và máy truyền tin có người “tà lọt” mang. Nhưng khi lãnh vũ khí, quân trang, người hạ sĩ quan tiếp liệu nói:

- Đại úy tiểu đoàn trưởng không cho phát súng colt cho các sĩ quan đại đội lẻ, đã ra đơn vị đại đội ai cũng phải mang M16 hết, mà cũng đúng vậy thiếu úy, cầm M16 và đủ cấp số đạn thì yên tâm lắm, có địch là xử dụng ngay, M16 và lựu đạn mới là công dụng thiết thực của chiến trường, thiếu úy tin tôi đi.


Phi trường Bình Liên buổi sáng thật đìu hiu, chỉ có tốp lính đứng ngồi la liệt ở bãi đáp và những người lính tiếp tế lo khuân vác những bao hàng được mua từ hậu cứ. Những ration C, những thùng mì ăn liền... Hoán thấy lòng nao nao khôn tả, ngày hành quân đầu tiên là một ngày đáng nhớ, dù là sĩ quan, với chiến trường, anh cũng vẫn chỉ là chú lính mới tò te. 

Đúng 10 giờ thì máy bay tới, những chiếc trực thăng nhìn đàng xa như một chấm đen bỗng xuất hiện thật ồn ào, cánh quạt bay vù vù lướt gió, mọi người đều xoay lưng lại để tránh gió và khi trực thăng vừa chạm đất thì đám lính xô nhau chạy leo lên. Súng ống được đưa lên trước rồi từng người nhảy lên sau, gió ào ạt theo cánh quạt xoay vòng, tiếng gọi nhau ơi ới như từ xa vọng lại. Khi người lính cuối cùng vừa nhảy lên thì trực cũng rùng mình cất cánh, Hoán ngồi lọt thỏm vào trong giữa sàn máy bay, còn tụi lính, như đã quen cảnh này, chúng ngồi ra sát ngoài và chỉa súng xuống đất. Trực thăng bốc lên cao, nhìn từ trong ra, thật là hàng hàng lớp lớp những mái nhà, đường sá cầu cống, và giòng sông Trà Khúc êm đềm trôi phía dưới như không có cuộc chiến tranh nào đang xảy ra hàng giờ, hàng ngày trên mảnh đất nầy. Hoán từ lòng máy bay trực thăng nhìn ra cảnh núi đồi bạt ngàn. Trường Sơn, Trường Sơn là đây, là dãy núi dài của quê hương, như cái đòn gánh oằn lên vai mẹ. Những đám khói tỏa ra từ những rặng núi xa, đến những đám khói gần của các đơn vị quân đội dưới đất thả lên làm ám hiệu, đánh dấu chỗ cho trực thăng đổ quân. Chiếc trực thăng chao nghiêng, lượn vòng vèo sát bên sườn núi. Những trực thăng gunship bay theo hộ tống bắt đầu nã đạn xuống hai bên triền núi. Tiếng rốc kết nổ ì ầm phá vỡ một khoảng không gian im lặng, làm bùng lên trong lòng Hoán một sự thực là anh đang đi vào vùng lửa đạn, bắt đầu từ bây giờ, khi những trái đạn rốc kết bùng lên, anh như thấy mình đã nhập cuộc, vào một cuộc chơi, dấn thân tàn khốc, bi thảm hay hào hùng đang sẳn sàng đợi chờ anh, cửa ngõ tương lai của một người lính trận.

Chiếc trực thăng bay lướt theo hai triền núi thoai thoải, đảo một vòng và bay là là đến chỗ có dấu hiệu đám khói. Hoán nhìn rõ trên núi. Những đám lính nón sắt, balô, cầm M16 đang lố nhố, trực thăng quay tít lại và đậu ngay ở một đám đất trống đã khai quang. Chỉ trong nháy mắt, đám lính nhảy ra từ cao độ khoảng 3m, đồ tiếp tế được hất xuống, xong chiếc trực thăng bay vù lên thì cùng lúc những loạt đạn pháo kích của địch quân ì ầm xô tới, toán lính chạy vào sườn núi trú ẩn, đạn pháo ta bắt đầu bắn trả.


Hoán được phân chia về đại đội 3. Đại đội 3 đang hành quân dưới chân núiTròn. Đại úy Châu,tiểu đoàn trưởng, xuất thân khóa 22A trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, ra trường đâu mới 2 năm mà Nguyễn Long Châu đã lên 2 cấp và được đề bạt giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng. Người gầy đét, cao lênh khênh, mang đôi kính cận dầy, trông Châu như một nhà thơ hơn là một sĩ quan tác chiến, tưởng vậy nhưng không phải vậy, khi đụng trận mới thấy rõ được sự bình tĩnh của Châu, vừa cầm ống liên hợp để điều động “con cái”, vừa coi bản đồ để xác định tọa độ của ta, bạn và địch, vừa báo cáo về bộ chỉ huy trung đoàn,Châu rất bình tỉnh, gan dạ và sáng suốt.

Hoán được 1 người lính dẫn đường về đại đội 3, toán lính về bộ chỉ huy tiểu đoàn nhận tiếp tế và đưa Hoán đi. Hoán thật bỡ ngỡ với đám lính,không biết phải xưng hô thế nào, khi nhìn những người lính người nào cũng lớn hơn anh, nhưng đã là quân đội, thì cấp bậc và chức vụ là trên hết. Người lính được lệnh tới dẫn Hoán đi, tới trước mặt chàng chào và lễ phép nói:

- Trình thiếu úy, em ở đại đội 3, được lệnh của trung úy đại đội trưởng, em lên đưa thiếu úy về đại đội.

Hoán mang ba lô, cầm súng, đạn lên nòng và bắt đầu đi theo người lính. Bộ chỉ huy tiểu đoàn đóng trên một ngọn đồi cao, ở đây có thể nhìn xuống khu Ba Gia Đồng Ké, nơi nổi tiếng với những trận đánh của sư đoàn 25 bộ binh, những trận đánh được ghi vào quân sử và địch quân chết để lại không biết bao nhiêu là xác cùng quân trang, quân dụng.

Núi Tròn là một ngọn núi nằm lẻ loi, tách ra khỏi dãy Trường Sơn, ngọn núi không cao, như một quả đồi trọc, địch quân lợi dụng địa thế nầy, chúng đào hầm trên núi và đêm đêm mò xuống khu dân cư phía dưới hoạt động. Ở một vùng đất mà địch và dân không phân biệt được, đó là lợi điểm của địch, chúng len lỏi, cải trang, dùng đủ mọi kế sách để đánh quân ta, nên nhìn bề ngoài, những người dân thấy quân ta thì đon đả mời chào, nhưng quay đi, quay lại, họ sẽ cầm mã tấu, rựa hay dao mác chém vào ta lúc nào không hay.


Mấy ngày đầu, Hoán nhớ Uyên dễ sợ. Hôm anh về phép ra trường chỉ được 10 ngày thôi, anh sống với Uyên và con trọn vẹn 10 ngày. Đứa con gái Uyên mới sinh được đâu 3 tháng. Hoán và Uyên yêu nhau đã lâu, ngày anh ở quân trường, Uyên từ miền Trung vào thăm, những ngày phép anh ra với Uyên, hai người sống với nhau thật hạnh phúc, nhưng thời gian ngắn ngủi quá, sau chuyến về Uyên viết thư lên nói: “Em mất kinh đã một tháng nay, chắc là dính bầu quá anh ơi!” Anh viết thư trả lời: “Em đừng lo, con của anh, anh sẽ về cưới em.” Nhưng anh chưa ra trường thì Uyên đã sinh cho anh một đứa con gái, gia đình hai bên đều thương nên cũng chẳng la rầy gì, như vậy đó, anh đã có con, thương Uyên và con quá, nhưng lính tác chiến thì có thời giờ đâu nhiều để gần nhau.

Về đại đội tác chiến là phải đương đầu với địch quân, Ba Gia Đồng Ké nầy là vùng xôi đậu, dân là dân thường, ban đêm khi lính rút vào đồn thì bọn nằm vùng lò dò về hoạt động nên dân không dám ngã về phe nào. Có cảnh buổi sáng khi lính vô làng hỏi những thiếu nữ, những thiếu phụ: “Chồng chị đâu?” thì được trả lời: “Chồng đi lính quốc gia, trung đoàn 5, đóng tuốt ngoài Tuần Dưỡng hai ba tháng mới về một lần”. Đám lính biết là nói xạo nhưng cũng chỉ nghe cho qua. Có đứa đi hành quân ba bốn tháng, lội suối, băng rừng nên thèm đàn bà rỏ dải, bọn lính mon men đến những nhà có đàn bà sồn sồn gạ gẫm, thừa lúc những buổi trưa nắng chói chan ngoài vườn, tiếng chim cu gáy trong lùm tre kêu cúc cù cu, xóm làng yên ả, người đàn bà nằm trên võng ru con ngủ, đứa con nhai vú mẹ và ngủ say, người lính bước vào nhà nói mấy câu xã giao, rồi sấn lại ôm chầm người đàn bà hôn hít. Người đàn bà không chống cự nhưng cũng làm ra ta đây, đừng anh, đừng anh, kỳ quá! Nhưng đến khi người đàn bà bị kích thích đến độ, làm bộ nói với người lính: Đồ quỷ nà, làm như chết thèm bảy mươi đời vương không bằng, để tui đặt con xuống vỏng đã. Khi người đàn bà vừa đặt con xuống võng, thì người lính lôi ngay lại chiếc giường tre gần đó, và nằm đè lên ngay. Ba bốn tháng không có đàn bà khiến nó ứ lên tận cổ, còn người đàn bà ở vùng xôi đậu thì chuyện nầy là “chuyện thường ngày”,hết lính sư đoàn ban ngày thì ban đêm mấy “trự” du kích trên núi về cũng kéo vào hầm “làm” ngay dưới đất. Cái bất chợt như vậy mà sướng điên người, cảm giác không thể nào tả nổi, nên phần đông con cái được sinh ra ở đây không biết cha là ai, nên được gọi là “con tự túc”.


Đã 2 tháng, Hoán bắt đầu quen với không khí hành quân, quen ăn cơm gạo sấy và thức ngủ không chừng. Anh được phân làm đại đội phó, nên thường chỉ huy một cánh quân,đại đội trưởng chỉ huy một cánh. Đại đội trưởng nhận lệnh từ tiểu đoàn, anh nhận lệnh lại của đại đội trưởng. Anh có một thằng tà lọt lo đào hầm, treo võng, căng poncho mỗi tối đi ngủ, một thằng truyền tin nằm ngủ sát bên luôn luôn trực máy, có gì là báo anh ngay. Anh quen chuyện cùng lính đi “phục” buổi tối, cho gài mìn claymore phòng thủ, quen chửi thề và đánh mấy thằng lính ba gai, trễ phép. Thật ra trong tâm anh không bao giờ muốn hành hạ lính nhưng ở một đơn vị tác chiến mà hiền quá thì tụi lính qua mặt vù vù.

Nửa đêm, anh đang ngủ ngon giấc thì thằng lính truyền tin đập vào võng anh:

- Thiếu úy, thiếu úy, có lệnh của thẩm quyền.

Hoán vụt dậy và cầm lấy ống liên hợp:

- Trình thẩm quyền, đích thân nghe 5/5.

Tiếng trung úy đại đội trưởng bên kia ra lệnh:

- Có lệnh của Bạch Long, cho con cái gọn gàng trong 10 phút, có trực thăng tới bốc nhảy diều hâu vào làng, có tin bọn nằm vùng về họp, phải thi hành gấp và có chi tiết gì sẽ báo sau.

Hoán đáp:

- Trình thẩm quyền, đích thân nghe rõ.

Hoán đưa ống nghe cho thằng lính truyền tin và gọi mấy người hạ sĩ quan tiểu đội trưởng dậy, ra lệnh, phân công. Đám lính tất cả đều thức và xếp gọn gàng đồ ngủ cũng như lương thực. 10 phút sau, tất cả sẳn sàng, ba lô, nón sắt, súng đã lên nòng ngồi im trong bóng tối của núi rừng Sơn Tịnh chờ đợi, chờ đợi trực thăng đến bốc.

Khoảng 20 phút sau, hàng đàn trực thăng vù vù bay đến. Tiếng gầm rú xé trời. Tất cả đại đội ra tập trung ở bãi đất trống đã được chọn trước.Trực thăng đáp xuống nhanh và bốc đi từng trung đội một, Hoán lên chiếc trực thăng đầu tiên cùng trung đội viễn thám, đại đội trưởng sẽ theo trung đội 3, đi chuyến chót. Lệnh hành quân được ban ra là cả tiểu đoàn được chia làm 4 mũi, nhảy thẳng vào làng phía dưới núi Tròn. Có tin của phòng 2 sư đoàn cho biết là ban bí thư huyện ủy Sơn Tịnh đang về họp trong một nhà dân, chiến thuật diều hâu là đánh chớp nhoáng, như con diều hâu từ trên không nhào xuống bắt gà con vậy. Tất cả tiểu đoàn sẽ áp sát 4 mặt và xung phong vào nhà dân, tất cả thanh niên, đàn ông chạy ra đều bắt hết, không tuân lệnh đứng lại sẽ bị bắn chết ngay tại chỗ. 

Đêm mù tối mịt mùng, tiếng cánh quạt trực thăng ì ầm, trực thăng lượn sát vào những xóm nhà và ngừng lại đổ quân. Hoán nhảy xuống với toán viễn thám đầu tiên và tấn công thẳng vào những căn nhà âm u trong đêm tối. Toán quân của anh không gặp sức kháng cự nào, tất cả thanh niên đàn ông chạy ra đều bị bắt, toán lính lục soát căn nhà có địch nằm vùng về hội họp. Bọn địch thường dùng hầm bí mật để lủi xuống trốn mỗi khi có nguy ngập. Đêm tối mịt mùng, từng đám lính cầm cái chỉa đi xoi hầm. Lính tác chiến đã quen với cảnh nầy, xoi những chỗ nghe nhẹ tay hay gỏ trên nền đất nghe vang âm âm là biết phía dưới làm gì cũng có hầm bí mật. Một người lính cầm đèn pin và cây chỉa xoi vào khoảng đất trống trong căn nhà và nói lớn:

- Trình thiếu úy, chắc hầm bí mật chỗ nầy quá.

Hoán ra lệnh:

- Tất cả dang ra.

Hoán đi tới cùng người truyền tin, vừa đưa đèn pin quét một vòng khoảng tối mờ thì bất chợt từ một khoảng đất trống như vỡ ra, một bóng người từ dưới đất vọt lên, mấy người lính nói cùng một lúc:

- Coi chừng Việt cộng, thiếu úy.

Hoán chưa nghe hết câu thì một loạt súng nổ, anh bị nhói một bên hông và thấy trời đất trước mặt tối sầm lại, anh ngất đi, không còn biết gì nữa cả.

Đó là lần bị thương đầu tiên trong cuộc đời lính trận của anh. Hôm đó, tên Việt cộng bị bắn gục ngay tại chỗ. Sau lần bị thương, anh trở về đơn vị cũ, về đại đội cũ, lên làm đại đội trưởng, thay thế cho đại đội trưởng trước về làm tiểu đoàn phó. Cuộc chiến bắt đầu ác liệt, và anh cũng bị thương mấy lần nữa. Hằng đêm, nằm trên võng, mở radio bỏ túi nghe chương trình Dạ Lan, giới thiệu những ca khúc hát cho lính ở miền xa, rồi giọng Hùng Cường cất lên: “Lạy Chúa con là lính trận ngoài biên, vì xa thành phố, xa quá nên quên...” 

Hoán nghe mà nhớ Uyên và con quá đổi. 

 

TRẦN YÊN HÒA

Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
Lan Huynh
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 05/Aug/2009
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 23726
Quote Lan Huynh Replybullet Gởi ngày: Hôm nay lúc 2:38pm
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ
tình yêu thương chẳng ghen tị
chẳng khoe mình, chẳng lên mình
kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph
IP IP Logged
<< phần trước Trang  of 109
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.320 seconds.