![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 110 |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23836 |
![]() ![]() ![]() |
Tưởng Chừng Đã QuênTình đồng đội ngàn năm vẫn nhớ Nghĩa đồng bào vạn thuở khó quên. ------ Chỉ còn 2 ngày nữa là Tết, hôm nay đã 28 rồi, Hải ngồi sau cái sạp bán vé số, lơ đãng nhìn những chiếc xe đò tấp nập ngừng trước mấy quán cơm đã ăn chia với đám tài xế và bọn công an khu vực, mọi người dường như hối hả vào ăn cho nhanh, để còn kịp về dọn dẹp nhà cửa đón Tết. Đã mấy năm nay, kể từ ngày tạm gọi là "mở cửa" thì sinh hoạt ở cái quận Định Quán này trở nên tấp nập vì đây là trung tâm của tuyến đường Sàigòn - Đà lạt, dù là lên hay xuống thì cũng là lúc phải dừng lại, để khách ăn uống và xả hơi cho thư giãn gân cốt. Sạp vé số của Hải mấy năm trước đây còn được đặt ngay trước cửa mấy quán cơm đó, thì cuộc sống cũng tạm xoay sở qua ngày, ngờ đâu một tên bộ đội "phục viên", khi thấy địa điểm có vẻ khấm khá, nên nó đã móc nối với mấy thằng công an khu vực áp lực với chủ quán, đuổi chàng đi để nó chiếm chỗ, cho dù bà chủ quán không muốn, nhưng vì việc làm ăn, nên bà đành phải ngậm ngùi nói với Hải: - Chú Hải à! Thật tình tôi không muốn, nhưng hoàn cảnh làm ăn, mong chú thông cảm, trong thâm tâm tôi lúc nào cũng nghĩ đến mấy chú. Khi nào khó khăn quá chú cứ đến, giúp được chú cái gì, tôi sẽ giúp. Riêng thím thì lúc nào khỏe, cứ đến làm giúp tôi, thôi chú cầm đỡ 20 ngàn này, sang hỏi thuê cái hiên nhà phía bên kia đường xem sao. Hải biết bà nói với chàng bằng cả tấm lòng, nên chàng tỏ lời cám ơn, nhưng kiên quyết không nhận 20 ngàn đồng của bà. Chàng hiểu hoàn cảnh làm ăn của bà, gió chiều nào che chiều nấy. Chàng chỉ giận bọn chó bất lương, lợi dụng thế của kẻ mạnh để hà hiếp kẻ thế cô, loại công dân hạng bét như chàng trong cái xã hội chó má này. Chàng xin được đặt sạp vé số xế bên kia đường, cách mấy quán ăn chừng hơn trăm mét, nhưng chỉ còn bán được cho những người quen ở địa phương, còn khách vãng lai thì mất hẳn. Họa hoằn có vài người biết chàng trước đây tạt sang thăm hỏi và mua giúp vài tờ, nhưng cũng không tránh khỏi sự hầm hè, soi mói của bọn công an hay đảo qua, đảo lại. Trước sự lộng hành của bọn này, nhiều lúc chàng ước ao có được trái lựu đạn để cưa đôi với chúng cho đỡ tức. Với tấm thân tàn phế sau cuộc chiến, chàng không ân hận gì vì đã hy sinh một phần thân thể cho mảnh đất miền Nam này, mà chỉ hận tên Tổng Thống 3 ngày, cam tâm đầu hàng giặc, để cả nước thống khổ điêu linh. Cách đây hơn nửa năm, Đồng, vợ chàng bịnh nặng, chàng đưa vợ lên Sàigòn khám bệnh, cũng may bác sĩ cho biết là nàng vì làm việc quá vất vả, ăn uống thiếu thốn nên bị kiệt sức, cần phải được nghỉ ngơi và ăn uống cho lại sức. Trên đường ra bến xe miền Đông, tình cờ Hải gặp một Thương Phế Binh VNCH, anh cho Hải một địa chỉ ở nước ngoài của một cộng đồng có chương trình yểm trợ anh em TPB. Về đến nhà, anh liền mở chiếc rương gỗ đóng bằng thùng đạn pháo binh, lục lọi tìm lại mớ giấy tờ, hình ảnh cũ, cẩn thận kín đáo đi nhờ photocopy, chàng nhờ địa chỉ nơi chàng đặt sạp bán vé số rồi gởi đi. Kể từ hôm đó chàng sống trong hy vọng, Hải thầm van vái tiếng kêu cứu của chàng sẽ được đồng bào hải ngoại tiếp cứu. Cứ mỗi lần có một khách lạ ghé xe Honda vào là tim chàng lại đập nhanh hơn, chàng sống trong nỗi khắc khoải mong chờ. Rồi cách đây hơn 1 tháng, Hải nhận được 50 đô của cộng đồng người Việt ở New Mexico gửi tặng, cái tên nghe quá lạ đối với anh, với lời nhắn: "Đã chuyển hồ sơ của anh cho ông chủ hãng nước tương Con Mèo, chắc sẽ được giúp thêm". Đọc xong chàng mừng thầm và hy vọng sẽ được ông chủ nào đó đoái thương đến. Buổi chiều Hải vội dọn dẹp rồi chống nạng khập khiễng về, hối hả khoe với Đồng: - Em ơi! Chiều nay có người đến giao cho anh 50 đô, mừng quá. Ngày mai anh sẽ đi đổi, rồi em mua ít thịt cá tẩm bổ cho khoẻ. Hải cũng không quên cho vợ biết về lời nhắn chàng đã đọc. Nghe xong, Đồng nước mắt lưng tròng nhìn chồng nói: - Ngộ quá anh hé,ở bên Mỹ,người mình cũng làm nước tương bán nữa ta. Mà sao cái tiếng này em nghe quen quen, nước tương Con Mèo hay Con Mèo nước tương. Hải ngắt lời vợ: - Cả hai đứa mình đều tứ cố vô thân, làm gì có ai mà quen với biết, nhưng họ là người mình, chứ đâu có phải cái bọn khỉ lên thành người này. Hai chữ "người mình" đã gần 30 năm nay Đồng mới được nghe chồng nói lại, nó thân thương làm sao, gần gũi làm sao, nàng quay sang hỏi chồng: - Anh còn nhớ hôm mình gặp nhau không? Sao mà nhanh quá há! Đã gần 30 năm rồi. Hải âu yếm vỗ vai vợ: - Làm sao anh quên được. Chuyện chúng mình thì như mới xảy ra hôm nào, nhưng 30 năm phải sống đọa đày trong tủi nhục đắng cay, anh tưởng như đã phải sống mấy mươi kiếp rồi. Hải nhắm mắt lại, hai dòng nước mắt lăn dài trên má, cả quãng đời như một cuốn phim lại hiện ra. ****** Ngày ấy, gia đình Hải có 3 anh em, bố Hải mất sớm khi anh em Hải còn quá nhỏ, bà Hậu mẹ chàng đã ở vậy nuôi nấng, chăm sóc con . Năm 1966, Hoàng, anh của Hải nhập ngũ khóa 23 Thủ Đức, rồi về phục vụ tại Sư Đoàn 23 Bộ Binh, ở miền cao nguyên. Còn Hải, sau khi rớt liền hai kỳ Tú tài, thì Mậu Thân nổ ra, nên chàng được động viên theo học khóa Hạ Sĩ Quan ở Đồng Đế, rồi về phục vụ ở Tiểu đoàn 52 BĐQ, chỉ còn Thủy, đứa em gái út, đang học lớp đệ tứ, ở nhà chăm sóc mẹ. Mùa hè đỏ lửa năm 1972, anh Hoàng hy sinh ở chiến trường Tây Nguyên, trong lúc Hải đang tử thủ ở An Lộc, tin anh Hoàng chết chỉ đến với Hải sau khi An Lộc được giải tỏa, nên Hải không có dịp để tiễn anh lần cuối. Cái chết của anh khiến cho mẹ chàng xọp hẳn đi, phần quá thương con, phần lo cho Hải, đã đôi lần bà nói với Hải: - Anh con chết rồi, giờ mẹ chỉ còn mình con là trai, hay con liệu xin về phục vụ ở gần nhà để mẹ yên tâm, rồi con liệu lập gia đình, để cho mẹ có đứa cháu nội an ủi tuổi già.... Thương mẹ nhưng Hải cứ ậm ừ khất lần cho qua chuyện, chứ thực ra chàng không muốn rời đơn vị. Đã hơn 4 năm dạn dày trận mạc, đã quen rồi xem chuyện sống chết như chuyện thường tình, và tình đồng đội keo sơn gắn bó, chia sẻ gian nguy, những cái đó khiến chàng không thể dứt bỏ để ra đi được. Sau hiệp định Paris, đơn vị chàng đồn trú ở Bình Long, rồi đầu năm 74 chuyển xuống Chơn Thành. Cuối tháng 3/75, sau những trận chiến long trời lở đất, giữa hai TĐ31 và 52 BĐQ, với cả 1 sư đoàn quân Bắc Việt, có chiến xa yểm trợ, đơn vị chàng phải bỏ Chơn Thành để triệt thoái về Lai Khê và chỉ sau 3 ngày chưa kịp bổ sung, thì cả Liên đoàn lại được bốc ra mặt trận Phan Rang, không may khi vừa xuống tới phi trường Phan Rang, thì 1 trái pháo đã rơi xuống ngay Trung đội của chàng, Hải bị thương và được đi thẳng về Tổng Y Viện Cộng Hòa, sau khi tỉnh dậy, chàng thấy mình đã mất đi chân trái, qua khỏi đầu gối, đồng thời xương bả vai bên trái cũng bị bể, khiến cánh tay không cử động được. Các vết thương vẫn còn rỉ máu thì ngày 30/4/1975 xảy đến. Sáng mồng 1/5/75, bọn chúng đuổi hết mọi người ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa, anh em dìu nhau bò lết, bò càng, hoang mang lo sợ, Hải tìm được một chiếc nạng, cố lết, nhưng giữa đường thì bị khụy xuống, cũng may, nhờ có bà con phía bên kia đường, cũng như một số "chị em ta" giúp đỡ. Các anh em nhẹ thì được giúp tiền tàu, xe để về quê, một số anh em nặng, được băng bó, săn sóc lại vết thương, nghỉ đỡ một vài ngày, trong số anh em này có Hải, chàng được khiêng về nghỉ trong một căn nhà tôn, ở sâu trong hẻm, một cô gái trạc ngoài 20 chăm sóc cho Hải. Băng bó lại vết thương và giúp chàng ăn vài muỗng cơm lót dạ, rồi vì vết thương đau quá, nên chàng mệt thiếp đi, đến lúc tỉnh dậy đã quá nửa đêm. Chợt thấy cô gái đang nằm co quắp trên chiếc chiếu trải dưới nền nhà, tiếng cựa mình của Hải khiến cô gái thức giấc ngồi dậy: - Thấy anh mệt thiếp đi nên em để anh nghỉ, anh có đói để em lấy cơm cho, còn ít cơm hồi chiều để phần cho anh, em đi hâm lại cho nóng. Nói rồi nàng ra phía sau, một lát quay trở lại với tô cơm, trên có vài miếng thịt, vài miếng đậu hũ chiên, ngồi ghé xuống giường, nàng dành lấy việc đút cơm cho chàng, khiến Hải vừa áy náy, vừa cảm động, chàng nói mấy lời cám ơn thật chân tình, khiến cho nàng vô cùng xúc động: - Ơn nghĩa gì anh ơi! Cùng cảnh khổ thì giúp nhau chứ có gì đâu. Cuộc đời em nào cũng có sung sướng gì, giờ hoàn cảnh này, cũng không biết ngày mai sẽ ra sao. Rồi như gặp được người tâm sự, nàng kể hết những gì xảy đến trong cuộc đời của nàng cho Hải nghe. ****** Gia đình nàng quê quán ở Đồng Hới. Năm 1954 di cư vào lập nghiệp tại Lộc Ninh, nàng và đứa em trai đã ra đời tại đây, nhưng để luôn nhớ về quê nhà, nên ông bà đã đặt tên cho nàng là Đồng và thằng em là Hới, bố nàng làm cảnh sát, còn mẹ nàng mở một tiệm bán chạp phô tại chợ Lộc Ninh. Cuộc sống đang yên ổn thì mùa hè đỏ lửa 1972,Việt cộng chiếm quận, cha nàng hy sinh trong lúc giao tranh. Nàng cùng mẹ và em cố chạy về An Lộc, nhưng không may giữa đường mẹ và em nàng bị trúng đạn pháo chết, còn nàng bị chúng bắt lại đem về Lộc Ninh. Tại đây nàng đã bị mấy tên sĩ quan bộ đội hiếp, sau đó chúng bắt nàng lấy một tên thương binh trong một đám cưới tập thể. Cô dâu hầu hết là những cô gái hay các bà vợ lính không chạy thoát được, còn chú rể là những tên thương binh cộng sản Bắc Việt, cho nên vừa là vợ bất đắc dĩ, họ còn phải đóng luôn vai y tá. Đã mấy lần nàng định tự tử chết cho xong, nhưng rồi cứ lưỡng lự, sau cùng ý nghĩ chạy trốn lại đến. Nàng cất giấu ít củ khoai lang và một đôi giày vải bata, của mấy người đi cạo mủ cao su hay mang. Một đêm sau khi tên VC dày vò thân xác nàng, quá thỏa mãn, nó lăn quay ra, há hốc miệng ngủ. Nàng yên lặng lén ra khỏi nhà, băng về phía làng 2, rồi cứ nhắm hướng súng nổ ở An Lộc mà đi. Sau hơn 2 ngày đêm vừa đi vừa lẩn tránh, nàng đã đến được An Lộc, khi thành phố cũng vừa mới được giải tỏa ít hôm. Nàng được anh em BĐQ tiếp nhận, sau đó được trực thăng đưa về Lai Khê. Nhưng rồi vì tứ cố vô thân, cuộc sống đưa đẩy, đã xô nàng vào cái nghề buôn hương bán phấn tại khu bệnh viện Cộng Hòa này. Nàng kết luận: - Số em sao đó anh ơi, chạy trời không khỏi nắng. Nhìn thấy bọn chúng là em nổi da gà rồi, em giờ không biết tính sao nữa. Nãy giờ, Hải chăm chú nghe nàng nói, chàng cũng thấy ái ngại và thương cảm, nhưng quả thật, chàng cũng không biết phải góp ý thế nào với nàng, bỗng Đồng nói với chàng bằng một giọng thật tha thiết: - Em nói điều này thiệt tình anh đừng cười, em khổ quá rồi, chẳng còn ai thân thích, lại chẳng còn một chỗ để về, hay là anh nghỉ đây ít bữa cho khỏe, rồi anh cho em theo về quê anh, tạm thời ở đó ít tháng, rồi em sẽ liệu sau. Trước thái độ chân thành của Đồng, Hải vô cùng lúng túng. Hơn nữa hoàn cảnh của chàng hiện nay lại càng bi đát hơn, nên chàng không dám nhận lời, nhưng cũng không muốn làm nàng phật ý, nên anh chỉ nói: - Anh sợ vùng quê anh chỉ làm nương rẫy cực khổ, nên anh e em không kham nổi thôi. - Anh quên em là gái Lộc Ninh, đã từng quen rẫy bái đã từng băng rừng lội suối chạy cộng sản sao? Cho nên việc làm rẫy cực khổ thì em dư sức qua cầu. Em quyết bỏ cái nghề này rồi anh à, thấy cái nón cối là em muốn băm vằm ra làm trăm mảnh để trả thù cho cha mẹ và em của em. Hay anh cho rằng em là một con đĩ. Em có xin anh cho em sống với anh đâu. Em chỉ xin anh có một chỗ để về, có vài người thân, dù chỉ tạm thời trong lúc này. Thấy nàng có vẻ cay đắng, Hải cũng có một chút ân hận, chàng vội phân trần: - Đồng hiểu sai ý anh rồi, anh không có ý như em vừa nói. Em là người đã cứu giúp anh, chăm sóc anh, em là bạn và là ân nhân của anh. Đồng cảm thấy được an ủi, nàng vui hẳn lên: - Cám ơn anh đã coi em như bạn. Em đề nghị anh bỏ tiếng ân nhân đi, vậy thì bạn có đồng ý cho tôi về quê với bạn không? Vừa nói nàng vừa cười nũng nịu. Hải cảm động xoa nhẹ vai Đồng nói khẽ: - Ngày mai mình về! Ngày hôm sau, Đồng từ giã vài người quen, rồi cùng Hải ra bến xe miền Đông. Mấy hôm nay vẫn còn vắng vẻ, nên rất khó có xe, sau nhiều lần chuyển đổi xe, gần tối hai người mới về đến Định Quán. Đồng dìu Hải chậm rãi từng bước dọc theo con hẻm nhỏ. Bà Hậu và Thủy đã nghe lũ trẻ con chạy về báo, nên hớt hải chạy ra, gặp Hải bà quá xót xa, òa khóc nức nở: - Sao con ra nông nỗi này mà không cho mẹ hay. Tôi có làm gì nên tội đâu, mà trời bắt các con tôi phải chịu thế này!!! Nói xong bà tiếp dìu Hải, còn Thủy xách cái giỏ cói đựng ít quần áo của Đồng. Sau khi đã vào trong nhà, bà Hậu mới chợt nhận ra có một người con gái lạ, mà nãy giờ vì xót con, bà không để ý. Bà đưa mắt nhìn Đồng rồi lại nhìn Hải. Hiểu ý mẹ, chàng nói: - Mẹ! Đây là Đồng bạn con. Quay sang Đồng chàng bảo: - Em chào mẹ đi. Còn đây là Thủy, em gái anh. Dường như cùng trong hoàn cảnh khổ đau, con người dễ cảm thông và gần gũi nhau hơn, chỉ sau vài phút, đã như người một nhà. Hải nói với mẹ nguyên do nào chàng gặp Đồng, cũng như cảnh ngộ của nàng. Chỉ một điều duy nhất chàng không cho mẹ biết Đồng là gái mãi dâm thôi. Về nhà được hơn một tháng thì ủy ban nhân dân huyện ra thông cáo trình diện "học tập cải tạo", Hải cũng phải đi hết 10 ngày và để tránh sự theo dõi, cả nhà phải tỏ ra giác ngộ cách mạng, nên Hải, Đồng và Thủy đã vào khai phá rừng để làm rẫy trồng ngô, khoai, sắn, cách nhà gần chục cây số. Chàng dựng một cái chòi ở luôn ngoài rẫy, còn bà mẹ Hải vì tuổi già nên ở luôn ngoài phố, vài ba ngày lại thay phiên về thăm mẹ. Công việc thật quá vất vả, phần thì Hải cũng không làm được những công việc nặng như chặt cây, cuốc đất, vì vết thương chưa lành hẳn, hơn nữa, chàng chỉ còn có một chân và một cánh tay xử dụng được, còn chiếc tay kia bị ảnh hưởng của vết thương trên bả vai, thì hầu như đã bị liệt, nên chàng đảm nhiệm việc cơm nước, cũng như vùi mấy cái hom sắn, gieo mấy hạt ngô. Sống gần nhau một thời gian, tình cảm giữa Đồng và Hải ngày càng nảy nở. Một hôm nhân lúc Thủy về thăm mẹ, chỉ còn hai người ở ngoài rẫy, Hải đã nói với Đồng: - Anh muốn em ở lại đây vĩnh viễn, nếu em không ngại anh là người tàn tật, thì hãy nhận lời làm vợ anh. Mình sẽ nương tựa nhau, dìu nhau đi hết đoạn đường đầy chông gai cơ cực này. Nghe Hải nói, Đồng rướm nước mắt: - Như anh đã biết, em đã coi gia đình này là của em. Em chờ đợi câu nói này của em từ khi em xin theo anh về đây. Em đã gắn bó với gia đình này rồi. Giờ đây em đã có anh, để cùng yêu thương săn sóc cho nhau. Sau đó Hải đem việc này nói với mẹ, bà Hậu thật mừng, bà nói với Đồng: - Mẹ rất sung sướng khi con nhận lời làm vợ nó. Từ hôm con về đây, mẹ chỉ ước chi con là con dâu của mẹ, giờ thì mẹ thật an tâm. Rồi bà nắm tay Đồng và Hải lại chỗ bàn thờ ông Hậu và Hoàng, thầm thì nói: - Tôi dắt hai đứa lại đây để ông và thằng Hoàng chứng dám. Ngày hôm nay, chúng thành vợ, thành chồng. Ông và thằng Hoàng có linh thiêng thì phù hộ cho vợ chồng nó. Bà cúi đầu, chắp tay vái ba lạy, Hải và Đồng cũng làm theo. Thế là Hải và Đồng thành vợ chồng. Thật đơn giản đến tội nghiệp! Bà Hậu nhìn hai con mà nước mắt cứ lăn dài trên đôi má nhăn nheo, bà suy nghĩ miên man. Giá ông Hậu đừng mất sớm thì mẹ con bà đâu đến nỗi khổ, giá đừng có loài quỷ đỏ thì thằng Hoàng đâu có chết, thằng Hải đâu có phải què cụt, con Thủy đâu có phải chai da, cháy mặt, đổ mồ hôi nước mắt mới được vài ba củ khoai, củ sắn. Những năm 78-79, cảnh nhà càng khó khăn hơn, quanh năm ăn độn khoai, sắn. Bà Hậu đã cho bán hết những tấm tôn trên mái nhà và lợp vào đó bằng những phên tranh, do mấy mẹ con bà cắt, tự đan và lợp lấy. Vì quá buồn rầu, lam lũ, cực khổ, bà Hậu ngã bệnh nằm liệt giường, khiến cho cả nhà càng thêm cơ quẫn. Bà chịu đựng đến giữa năm 80 thì qua đời. Hôm chôn bà chỉ có vài ba người hàng xóm đến phụ đưa ra nghĩa địa, vì hầu hết trai tráng đều ở sâu trong rẫy. Từ ngày bà Hậu mất, Thủy ở ngoài này buôn bán chui lủi đủ thứ, thượng vàng hạ cảm, từ ít cân đậu đến vài hũ đường, mật, đôi bánh thuốc rê, sau đó nàng đi buôn hàng chuyến về Sàigòn và ngược lại, cứ thoát được một hai chuyến thì lại bị đám quản lý thị trường vồ mất một chuyến, mất cả vốn lẫn lời. Còn vợ chồng Hải thì ở luôn trong rẫy, chỉ ra ngoài phố khi có việc cần. Cuộc sống cơ cực quá nên cũng chẳng ai nghĩ đến việc nên có một đứa con. Có một lần, gia đình của người làm rẫy bên cạnh anh có thêm một đứa con, Hải đã ngao ngán nói với vợ: - Nếu có con mà nó phải sống trong cái xã hội như mình đang sống thì không nên có. Còn mình thì chỉ vì không đủ can đảm để tự kết liễu đời mình, nên phải gắng gượng mà đi cho trọn đường trần. Nghe Hải nói vậy nên Đồng cũng chẳng bao giờ gợi ý điều đó với chàng. Nàng thấy mấy đứa bé ở trong rẫy, sống lam lũ, mới 7, 8 tuổi đã phải vác cuốc ra đồng, chẳng được học hành, nên nàng cũng rất ngao ngán. Đôi khi nàng tự hỏi, trên trái đất này có người dân ở đâu sống khốn khổ như ở đây không? Năm 83, Thủy quen với một thanh niên. Họ yêu nhau và rủ nhau đi vượt biên, rồi chẳng có tin tức gì, còn vợ chồng Hải không kham nổi công việc ruộng rẫy nên đã bỏ về. Lúc này các tỉnh đang thi nhau mở các trò xổ số, nên Hải bèn chống nạng đi bán vé số dạo, còn Đồng vào làm công cho một quán ăn, vừa phụ bếp, vừa rửa chén, cuộc sống cũng tạm đắp đỗi qua ngày.Đầu những năm 90, khi tạm gọi là mở cửa, lưu thông trên tuyến đường trở nên nhộn nhịp hơn, Hải được bà chủ quán ăn nơi Đồng làm thuê, cho đặt 1 sạp vé số trước cửa, cuộc sống đã tạm ổn định, nhưng cũng chỉ được vài năm thì lại bị chúng cấu kết với nhau để đẩy chàng ra. ****** Đang chuẩn bị dọn dẹp để ra về thì một chiếc Honda lao đến ngừng ngay trước mặt, Hải nhận ra đây cũng chính là người đã đến giao cho chàng 50 đô lần trước, hắn ta nhanh nhẩu nói: - May quá chú còn đây, cháu mang tiền đến giao chú này. Nhờ chú ký vào đã nhận đủ 100 đô la giúp cháu. Kể ra mấy người bên Mỹ họ tốt thiệt đó chú. Cháu chuyên đi giao tiền nên biết được rất nhiều thương phế binh chế độ cũ đã nhận được giúp đỡ. Hải liếc vội sang chỗ ghi tên người gởi, anh đọc thấy hàng chữ "Nguyễn Minh Chánh, BĐQ?", anh liền ký nhận và lấy miếng giấy ghi tên và địa chỉ người gởi để còn thư sang cám ơn. Khi người giao tiền đi khỏi, Hải cũng xếp vội cái bàn và cái dù vào góc hiên nhà, rồi vội vã đi về. Trên đường đi, chàng vừa ngẫm nghĩ vừa cười một mình: "Như vậy là anh em Biệt Động Quân đã gởi về giúp mình. Thảo nào lần trước họ bảo là đã chuyển hồ sơ cho ông chủ hãng nước tương Con Mèo.Mình nghĩ không ra, nhưng Đồng lại bảo nghe quen quen. Mình cũng quên khuấy đi là ngày xưa anh em thường gọi đùa huy hiệu BĐQ là con mèo nước tương, vậy mà không nghĩ ra." Hải thầm cám ơn Trời, Phật, cám ơn anh em đồng đội, cám ơn người mình vẫn còn nghĩ đến những anh em bất hạnh, khốn khó nơi quê nhà, anh vừa đi vừa hát nhỏ đủ cho mình nghe và lập đi, lập lại câu hát mà thỉnh thoảng anh vẫn nghe lén trên đài Á Châu Tự Do: "Hãy hát cho mọi người cùng nghe, người đã cứu người"...
BĐQ Đoàn Trọng Hiếu |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23836 |
![]() ![]() ![]() |
![]() Hôm nay đọc “NỬA HỒN XUÂN LỘC” Nước mắt từ lâu tưởng cạn rồi Ta khóc Như chưa từng được khóc Như nhìn chiến trận mới đây thôi Mây Xuân Lộc đỏ như màu lửa Đã dịu trong màn nước mắt rơi Người đi không nở câu chia biệt “Em giữ dùm ta nửa cuộc đời!” “Cổ lai chinh chiến!..Ừ! Ta biết… Lính trận…thì ai cũng vậy thôi!” Cắn răng bỏ lại hồn Xuân Lộc Ghìm súng Trông theo bốn hướng trời “Lỡ mai…ta có không về được Em hãy quên…từng mơ lứa đôi!” * Hôm nay gặp lại trời Xuân Lộc Một nửa trăm năm vẫn có người Nhớ màu áo chiến mùi sương gió Ký ức vẹn nguyên của một thời SÀI GÒN chết điếng nhìn Xuân Lộc Nghẹn ngào… đành phải phụ em thôi! * Bao năm gặp lại hồn Xuân Lộc Nghe nhịp tim xưa lạc mấy lần Nghe gió SÀI GÒN như tức tưởi Thương đời kiêu bạc nhớ chinh nhân. Một nửa trăm năm đầu bạc trắng Nhắc thời binh lửa vẫn còn đau! Nhiều đêm mơ thấy về Xuân Lộc. Pháo sáng chia đường… lạc mất nhau… * Người ơi! có nhớ về Xuân Lộc Nhớ màu mây lửa đốt quê hương Đốt tim người Lính đi ngày ấy Gởi hẹn thề trong khúc đoạn trường… Người ơi! có nhớ về Xuân Lộc Trận đánh đầu tiên đến cuối cùng. Rút quân! chỉ muốn quay đầu súng Máu nóng tuôn trào… muốn vỡ tung…! * Hôm nay đọc “NỬA HỒN XUÂN LỘC. Người Lính năm xưa biết có còn? Đã nghe Người hận vì buông súng “Lẽ ra phải chết giữa Sài Gòn!” Người mang theo nửa hồn Xuân Lộc Trên bước ly hương cuối dốc đời Còn ta giữ nửa hồn Xuân Lộc Trong trái tim từng mơ lứa đôi… LÝ THỤY Ý Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/Jul/2025 lúc 9:50am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23836 |
![]() ![]() ![]() |
NHỮNG NGƯỜI LÍNH QUÈN Thông
thường khi nói về quân ngũ ngày xưa, các tác giả hay ca ngợi những vị
sỹ quan tài ba và gan dạ đã đành, bên cạnh đó người ta cũng ca ngợi
những anh lính tác chiến trực tiếp khi họ lập được chiến công oanh liệt ở
mặt trận, nhưng có những người lính quèn trong các đơn vị, tuy họ không
trực tiếp ra chiến trường, nhưng họ đã âm thầm góp sức vào những chiến
tích kia một cách thầm lặng, mà xưa nay hiếm khi họ được phóng viên
chiến trường, hay báo chí ở hậu phương đề cập đến. Nay tui kể ra các việc các anh lính quèn trong đơn vị tui ngày xưa, để coi như an ủi tinh thần phần nào cho họ nhé . Chiếc GMC của ban quân xa chuyên lo việc chuyên chở hàng hóa cho ban Hỏa Đầu vụ của Liên Đoàn 6 Biệt Động Quân tụi tui nó trở chứng mấy ngày qua, anh Hạ sỹ nhất Lập và anh Binh nhì Võ Thành Quế cùng tài xế Hạ Sỹ Nghé " Vật lộn" với nó đến nay vẫn chưa xong. Trên ngọn đèo Phù Cũ này những ngày mưa gió bão bùng thì mọi sinh hoạt trong đơn vị tui đều gặp khó khăn, do đó khi chiếc GMC của "Nhà bếp" do ông Thượng sỹ Nghiệp làm sếp nằm vạ tại ban Quân xa, tui thấy anh Quế, anh Lập lui cui dưới tấm bạt để sửa chữa lại cái máy xe này, hai anh quần áo lấm lem dầu mỡ, tuy trời mưa lất phất mà tui thấy quần áo hai anh và gương mặt họ đều ướt đẫm mồ hôi, tui đem cái ca inox cà phê mua ở câu lạc bộ do hạ sỹ Đắc mới vợt xong, tui mời hai anh: -Anh Lập anh Quế ngưng tay chút đi, làm miếng cà phê cho tỉnh táo rồi mần tiếp. Lấy giẻ lau tay cho sạch dầu mỡ ,anh Lập đón lấy ca cà Phê còn nóng hổi hớp một ngụm rồi anh khen. - Cha chả thằng Đắc pha cà phê nay ngon ác luôn, anh Quế làm miếng đi. Anh Quế cũng hớp một ngụm rồi anh hỏi tui : - Ủa hôm nay không trực máy mà xuống đây vậy "anh Hai". Nghe cái giọng kêu mình một cách thân thương như vậy khiến tui vui lắm, tui đáp lời: - Nay thằng Bùi Đức Kết nó trực máy trả nợ cho em, vì mấy ngày trước nó vù xuống chợ Bồng Sơn hẹn hò với em Nhi bồ nó, nên nó kêu em trực giùm . Anh Lập nghe vậy anh liền lên tiếng: - Đám truyền tin của mấy đứa, anh thấy sướng thấy mồ, ngồi trong mát không hà , chỉ cái tội ít tiền thôi chứ nói về sướng thì không thua công tử Bạc Liêu chút nào. Nghe anh lập đề cao cái nghề trong lính của mình làm trong bụng tui khoái chí tử, chưa kịp đáp lời anh Lập "tố" thêm. - Hùng thấy ban quân xa anh cực khỗ ghê chưa, bình thường xe cộ ngon lành thì không nói gì, một khi nó "Trở quẻ" thì mệt mỏi vô cùng. Thật vậy , không chỉ chiếc GMC này không, mà còn những chiếc xe khác như chiếc Jeep lùn M151 A2 của Sếp lớn 639 (Ám danh đàm thoại của Trung tá,Tống Viết Lạc), mỗi khi nó trục trặc nho nhỏ thì Tài xế Hổ còn sửa được, nhưng một khi máy móc có vấn đề thì anh Lập và anh Quế phải đích thân ra tay, do xe của sếp lớp phải di chuyển liên tục, lúc thì ông đi họp ở Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 22, lúc thì ông chạy ra tận Đèo Bình Đê giáp Sa huỳnh để cùng tiểu đoàn 35 điều nghiên các mục tiêu hành quân, do tính chất quan trọng như vậy nên một khi "con chiến mã" của sếp kiếm chuyện thì hai anh phải tức tốc sửa chữa cho kịp thời bất chấp ngày đêm. Sửa xe cộ cho mấy sếp ngoài hành quân tuy có cực nhọc do thời gian thúc ép dữ lắm, bù lại sau khi con "Chiến mã" nọ hết "nhức đầu sổ mũi" thì mấy sếp hay "Boa" cho hai ông Lính quèn này một ít tiền "cà phê cà pháo", những lúc này tui đều được hai anh Thợ máy cho đi theo để ăn ké khi thì chai (Larue con cọp) hoặc ly chè đậu xanh ngọt ngào ở tiệm cà phê của em Hồng ở gần Chi khu Tam Quan. Chẳng những chỉ sửa chữa quân xa mà còn làm thêm những việc linh tinh khác, một hôm nó khi hoàng hôn buông xuống, cã vùng đèo Phù cũ chìm trong bóng đêm, chỉ có một vài căn hầm có được ánh điện chiếu sáng từ cái máy phát điện dã chiến ba klowatt nằm trong hầm ở lưng đèo, ưu tiên nhất là Trung Tâm Hành Quân của tụi tui, vì nó là nơi chứa trái tim của một đơn vị, mọi điều kiện tốt nhất đều ưu ái dành cho nơi này, hầm sếp trưởng ,sếp phó, hầm quân y... Cái máy phát điện đang chạy ngon lành , tự nhiên nó " ho gục gặc" mấy tiếng rồi im re, cái đèn "Sơ cua" xài bằng mấy cục pin tép của máy PRC 25 bỏ ra được thấp sáng lên, mọi việc cũng tạm yên ổn cho sinh hoạt về đêm nơi đồn vắng , lúc này thì hai " Ông Thần nước mặn" Dương văn Lập, Võ Thành Quế" đang làm bất cứ cái giống gì, hai ông phải quơ tua vít, mõ lết, kềm. V.v.. chạy u đến cái máy đèn liền, vì nếu chậm trể các đơn vị trực thuộc có xãy ra giao chiến thì việc yểm trợ phi pháo cũng có phần bị hạn chế, vì ánh sáng đèn xài pin cũ của máy PRC 25 bỏ ra nó tù mù không sáng lắm, nên khi cần chấm tọa độ hoặc giải mật mã thì khó khăn vô cùng. Với nghề nghiệp vững chắc không đầy năm phút sau, hai anh đã buộc cái máy phát điện đem lại ánh sáng như cũ, thành thật mà nói nếu đơn vị tui không có hai anh sửa chữa máy móc quân dụng thì cũng mệt cầm canh chứ chẳng chơi, về tình cảm thì các sỹ quan trong đơn vị cũng như các anh em binh sỹ đều quý mến hai anh này, nhưng về quân bạ thì hai anh có phần thiệt thòi, vì qua bao năm dài phục vụ trong liên đoàn mà hai anh chẳng được chiếc huy chương nào tặng thưởng cho hai anh, ngày tui được chiếc Huy chương Anh Dũng Bội Tinh kèm ngôi sao đồng do Chuẩn tướng Phan Đình niệm Tư Lệnh Sư đoàn 22 ấn ký, tui đem xuống ban quân xa khoe với hai anh, khi coi xong chiếc huy chương này anh Lập lập lại câu nói: - Đó thấy anh nói có trật đâu, Truyền tin mấy bây sướng như Công tử Bạc liêu là đây nè, thôi ngày mai dẫn anh em Quân xa tụi anh xuống Bồng Sơn rửa Huy chương này nghe Hùng. Vậy là đứt nửa tháng lương cái tội khoe của, phải chi giấu nhẹm nó đi thì tui đâu phải tốn xu nào phải không các bạn, nói vậy thôi chứ ông bà mình có câu " Tốt khoe, xấu che", việc khoe này là niềm vui chung của mấy anh em tụi tui cùng đơn vị chơi chung thì cũng đâu có gì quá đáng. Không chỉ riêng anh Quế anh Lập, còn những người lính quèn khác như tài xế Bùi Tuyền, Tài xế Huỳnh, hạ sỹ Nghé, Hạ sỹ Tâm tài xế của ban ba hành Quân. Các anh em này ngày đêm cũng dốc lòng với nhiệm vụ, các anh vững tay lái những khi đạn pháo của bên kia rót xuống, nếu không có tinh thần thép của lò luyện thép Dục Mỹ thì có thể các anh không đủ can đảm cầm lái trong vùng lửa đạn nơi đèo heo hút gió này. Rồi thì những anh em quân y, dưới sự chỉ huy của Y Sỹ Vân một Trung úy trẻ nhiệt huyết thật nhiều nên các bạn Trung sỹ Hồng, hạ sỹ Giỏi, hạ sỹ nhất Ngô Thành chăm sóc thương bịnh binh kịp thời, có lúc lao vào trời mưa gió hoặc đạn pháo đang vang rền, các chàng lính quân y Biệt Động Quân đã giành giật từ tay thần chết để anh em bịnh binh về tới quân y viện kịp thời. Còn mấy ông lo cho cái bao tử đơn vị cũng không kém phần quan trọng, những người lính trong bếp của thượng sỹ Nghiệp như ông Giáp (Bắc) , anh Thà ( Lao công đào binh) V.v.. họ vác từ bao gạo , lặt từng cọng rau, làm từng con cá, nấu những nồi cơm to tướng để cho ba quân tướng sỹ cùng ăn, đó là những đóng góp thầm lặng vào chiến công chung của Liên đoàn, việc họ để có một huy chương Anh Dũng bội tinh thì khó bao giờ có được. Nhưng với tui mặc dù về binh nghiệp họ chưa có dịp được tưởng thưởng những huy chương cao quý của quân đội, nhưng họ xứng đáng được huy chương danh dự qua những việc làm hàng ngày nơi đơn vi tui ngày xưa. Cuộc chiến đã tàn đúng nửa thế kỷ, thời gian này cũng đủ làm phôi phai những năm tháng quân hành của những người lính quèn, ngồi đây trong hiện tại, tôi vẫn còn khắc ghi những gương mặt của những anh em trong đơn vị ngày xưa, cho dù bụi thời gian sẽ lấp đầy che đi những dấu tích của một thời, nhưng nó vẫn còn ghi mãi trong miền ký ức của những người một thời khoác chinh y đi vào vùng lửa đạn. Nhớ những anh bạn lính quèn của tui ngày xưa. Hai Hùng SG ![]() Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 23/Jul/2025 lúc 10:00am |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23836 |
![]() ![]() ![]() |
Người Bên Thua CuộcHình minh họa Trời chưa tắt nắng, những tia sáng màu vàng ối còn chiếu dọi qua hàng cây cao trên con đường mùa Hè làm thành một vũng ánh sáng chói lòa đan xen vào nhau, soi rõ từng đám bụi mù chen lẫn với khói xe lãng đãng trên con đường chật cứng xe cộ đang di chuyển vào một chiều thứ Bảy ở thành phố Westminster. Tôi đi đến Nhà hàng The Villa nằm trên đường Beach để dự đám cưới của một đứa cháu gái kêu vợ chồng tôi bằng Dì Dượng. Đây là một nhà hàng rất quen thuộc với người Việt Nam lúc gần đây, nơi nầy thường được người địa phương đến đặt tiệc cưới vì giá cả tương đối trung bình với thức ăn Việt hoàn toàn và đặc biệt hơn nữa là nhà hàng tọa lạc trong một khu vườn cây cao bóng mát, bãi đậu xe rộng rãi, nhất là nhà hàng thiết kế nhiều chỗ chụp hình được trang hoàng cây cảnh rất đẹp. Vì là người thân trong gia đình họ nhà gái nên chúng tôi đến rất sớm, khi bên trong khu nhà tiếp tân chỉ có một ít nhân viên đang sửa soạn quầy rượu cùng với các cô phụ dâu đang sắp xếp bàn ghế trưng bày ảnh của cô dâu, chú rễ cũug như kê bàn đặt phiếu dành cho khách mời đến lấy dễ dàng và dò biết mình thuộc bàn sổ mấy, tất cả đều rất ngay ngắn, ngăn nắp sao cho mọi người đều có thể thấy rõ. Đúng 6:00 PM quầy rượu bắt đầu hoạt động, nhân viên nhà hàng bưng từng khay đựng thức ăn nhẹ đi quanh khu nhà tiếp tân để mời mọi người thưởng thức những món ăn được ghim sẵn để trên khay như chạo tôm, bánh bao nhỏ nhưn mặn, tôm chiên dòn, bánh nướng .... Mọi người đứng quanh từng nhóm năm, ba người tụm nhau trò chuyện râm ran chật kín cả khu tiếp tân. Âm thanh ồn ào, mọi người đi đi, lại lại thật là uyên náo. Ở đầu cửa ra vào một số người đang xếp hàng để đến lượt ra đứng bên cạnh cô dâu chú rễ chụp hình kỷ niệm lấy liền sau chừng nửa tiếng đồng hồ, hình được đặt trên bàn ở gần chỗ chụp hình cho chủ nhân hình ai nấy tìm. Đang còn đang loay quay trò chuyện với nhiều người quen thân, bất ngờ có một người đàn ông chen chân bước tới nhìn sững ngay trước mặt khiến tôi hơi ngờ ngợ, nhưng rồi sau đó hai người chợt bùng lên một tràng cười như bể rạp. Người đàn ông ấy vẫn gương mặt thật hiền lành, tuy có vài nếp nhăn nhưng không thể nào lầm lẫn vào đâu được qua cặp mắt u uất, buồn rười rượi dài hơn thế kỷ. Anh Hòa! Tôi ôm chầm lấy anh mà nước mắt muốn ứa ra. Gần 40 năm trời chưa một lần gặp mặt. Biết bao nhiêu câu chuyện đời tưởng chừng như đã đi vào quên lãng, nay bất chợt hiện về, rõ mồn một như một khúc phim quay chậm. * * * Hồi ấy tôi mới lên Kontum nhận nhiệm sở về quận, anh là Tỉnh đoàn trưởng Xây Dựng Nông Thôn nhiều năm trước đó, anh có gương mặt thật hiền như “thầy tu.” Tôi gặp anh qua những lần họp hàng tháng ở Tòa hành chánh tỉnh. Trong buổi họp anh ngồi im, ít nói nhưng khi trình bày công việc ở Ty sở thì anh lại nói năng rất mạch lạc hấp dẫn. Tôi rất thích kiểu cách nầy nên bắt đầu làm quen thân với anh từ đó. Cứ một vài hôm, chiều ở quận về sớm là tôi đến rủ anh ra quán bún thịt nướng uống bia. Lâu dần tôi biết anh là người chăm sóc gia đình, một vợ 4 con, ba gái một trai rất chu đáo đầy trách nhiệm với tình thương yêu hết mực. Trong xứ đạo Tân Hương (Kontum) gia đình anh là một gia đình công giáo thuần thành. Lúc bấy giờ có chương trình “ngủ ấp”, các viên chức và cán bộ tối về sinh hoạt ở nông thôn theo lịch định kỳ cho nên tất cả đều mặc bộ đồ “bà ba” đen, xây dựng nông thôn, vải ka ki dày cho tiện lợi. Anh tặng cho tôi hai bộ đồ để thay đổi, ngoài ra anh còn tặng thêm một cái áo jacket hai lớp màu xanh trây dzi “mặc cho ấm” trên đường đi xuống quận. Anh em gần gũi nhau qua những lần đi công tác chung, tiếp nhận các dự án xây dựng đường xá, cầu cống hay trạm xá, trường học ở các xã, ấp. Có khi ngủ lại ở nơi đây, sáng cùng lên trực thăng về lại tỉnh. Vui buồn đời công vụ ở tỉnh lẻ, thật thắm tình đồng đội. Mãi cho đến tháng Ba năm 1975, tôi di tản về Sài Gòn an toàn, anh cùng vợ con chạy giặc tới sông Ba, Phú Bổn bị địch pháo kích dữ dội nên cùng đường, hết lương thực cả gia đình bèn trở về lại Kontum. Khi về tới nơi thì cộng sản đã chiếm được thị xã, anh và vợ con phải trốn ngược lên phía Đakto ở nhờ nhà người bà con để rồi từ từ sẽ tìm đường vượt thoát vào Nam. Chưa được bao lâu thì nhận được tin Sài Gòn thất thủ, tướng Dương Văn Minh đầu hàng, chiến tranh kết thúc, anh đành thúc thủ tại quê nhà. Ở địa phương Kontum, một vài viên chức VNCH trở cờ, tham gia hăng hái vào hàng ngũ bộ đội cộng sản làm kẻ chỉ điểm, ruồng bố vào từng nhà bắt giữ đồng đội cũ của mình. Anh bị bắt trong đợt truy quét nầy do một viên chức trước đây từng là Chánh văn phòng Tòa hành chánh tỉnh chỉ điểm. Anh bị bắt đưa đi nhốt ở Trung Tâm Cải Huấn cũ của VNCH. Đến khoảng trung tuần tháng Năm năm 1975 thì anh bị đưa ra Sân Vận Động tỉnh xét xử công khai cùng với hơn 20 người khác được cho là có nợ máu với nhân dân. Hôm ấy, dân chúng tụ tập rất đông theo lệnh của cán bộ cộng sản. Chủ trì phiên tòa xét xử là một cán bộ nằm vùng, tục gọi là chị Ba ngồi trên chiếc ghế sa lon màu đỏ huyết dụ đặt ở giữa sân, phía sau lưng là 2 cái bàn dài dành cho 3 cán bộ miền Bắc đầu đội mũ cối, bên hông giắt súng ngắn cùng với 4 nam, nữ dân quân du kích mặc đồ bà ba đen đội mũ xanh tai bèo. Mở đầu phiên xét xử, chủ tọa gọi tên từng người ra đứng đối diện với chủ tọa đoàn khai tên họ và chức vụ trong bộ máy chính quyền cũ, sau đó chỉ một mình chị Ba đứng lên nêu tội ác của các đương sự một cách chung chung. Rồi cũng chính chị ấy tuyên án mà không có tranh cải. Đến phiên anh, sau khi khai rõ họ tên chức vụ, chủ tọa buổi xét xử đột nhiên rời ghế bước tới tát vào mặt anh liên tiếp và gầm lên, mắng như mưa: - Mày là đồ ngụy gian ác mang nợ máu với nhân dân, chống phá cách mạng triệt để. Sau đó trở về chỗ cũ, chị đứng thẳng người lên dõng dạc đề nghị xử tử hình tên tỉnh đoàn trưởng ngụy. Đám đông dân chúng im phăng phắc, không có một ai lên tiếng, rồi cũng giống như các trường hợp vừa xử trước vì không có ai lên tiếng nên chị Ba giãm án dần xuống còn 20 năm, 15 năm, 10 năm ... và khi đến mức 5 năm thì cán bộ ra hiệu cho mọi người giơ tay lên đồng ý. Lúc bấy giờ chị Ba mới ra lệnh cho tội nhân phải quỳ xuống chấp nhận bản án và cúi đầu nói lời xin lỗi nhân dân. Tiếp theo sau đó, hai cán binh đến kè xốc nách dẫn tội nhân đi nhanh để phiên tòa còn tiếp tục xử người khác... Kể từ sau ngày đó, anh bị chuyển đi khắp các trại cải tạo từ Nam ra Bắc, thời gian kéo dài hơn 6 năm rồi mà vẫn chưa được thả, mặc dù đã có án 5 năm cải tạo như phiên tòa xét xử năm 1975. Cho đến khi được chuyển về trại Gia Trung ở Plei ku anh mới có hy vọng là sẽ được thả trong một thời gian ngắn chừng một, hai năm nữa, theo như lời kể của các bạn tù ở đây, nhiều năm kinh nghiệm. Trong tù anh thuộc diện “mồ côi” không có thăm nuôi, họa hoằn lắm đôi ba lần anh mới được người nhà gởi theo thân nhân đi thăm tù cải tạo một gói quà chừng 5 kí lô, gồm một ít đường tán và muối đậu. Khi về tới Gia Trung, tình hình cải tạo bớt căng thẳng, không còn hà khắc như ở miền Bắc, tù cải tạo được sinh hoạt thoải mái trong trại, nấu ăn và tụ tập từng tụm 5,7 người trong những ngày nghỉ lao động. Lúc bấy giờ các Cha, Thầy cũng được xả ra nhốt chung với ngụy quân, ngụy quyền. Đặc biệt là các Cha còn bí mật làm lễ trong trại cải tạo, hình thức cũng đơn giản và kín đáo, cũng có đọc kinh ban phép lành và cho rước bánh Thánh (Mình Thánh Chúa) được lén lút đưa từ bên ngoài vào trại. Không biết cán bộ biết tin từ đâu, có thể là do “ăng ten” mật báo không chừng mà có một hôm toàn trại được lệnh tập trung mang hết đồ đạc cá nhân ra sân thật khẩn trương, ban đầu mọi người tưởng là chuẩn bị chuyển trại vì đã quen rồi với việc tập họp đột biến như vậy, nhưng hôm nay khác, sau khi tập họp xong cán bộ quản giáo cho biết trong trại có một số trại viên phản động đã cử hành bí mật lễ nghi tôn giáo là điều cấm kỵ, vi phạm nội quy của trại và ra lệnh ai đã tham gia thì phải khai ra để được khoan hồng còn bằng không thì sẽ bị thi hành kỷ luật tùy theo mức độ nặng nhẹ. Mọi người im lặng không có một ai lên tiếng tự giác hay tự thú về sự vi phạm vừa nêu nên cán bộ ra lệnh bắt đầu lục soát tất cả tư trang của tù nhân. Lúc bấy giờ anh em đều kín đáo liếc nhìn về phía anh Hòa để xem anh phản ứng như thế nào. Tuyệt nhiên không thấy có dấu hiệu gì lo sợ từ phía anh. Thình lình loa trại phát thanh “Trâu xảy chuồng! Trâu xảy chuồng!” và cán bộ trại yêu cầu anh Hòa là người tù tự giác chăn đàn trâu hơn 40 con phải xuất trại gấp để lùa trâu vô chuồng, vì không nói ra nhưng mọi người đều thừa biết rằng hơn 40 con trâu mà lạc vào khu rẫy đang trồng hoa màu thì thiệt hại chắc chắn là không nhỏ. Một số anh em tù nhân trong trại thở phào nhẹ nhỏm vì chính anh Hòa là người cất giữ bánh Thánh. Nếu không có bàn tay của Chúa phù trợ thì sự thể xảy ra không biết sẽ tồi tệ đến mức nào khi mà cán bộ phát hiện ra chứng cứ. Hơn nữa bản chất con người của anh là rất tận tâm trong công việc được giao phó, làm đến nơi đến chốn “từ khởi sự cho đến lúc hoàn thành”, biết kính trên nhường dưới nên rất được mọi người kính mến từ xưa đến nay dù ở bất cứ nơi đâu trong mọi hoàn cảnh Thật ra anh Hòa là một người công giáo thuần thành được nhiều người tin cẩn thì sẽ không dễ gì anh tự mình tiêu hủy Mình Thánh Chúa. Chưa biết ra sao, nhưng rồi trong khoảnh khắc linh thiêng ấy anh đã cầu nguyện và xin phó thác. Chúa đã nhậm lời cho anh thời cơ có một không hai để giữ gìn được bánh Thánh và sau đó anh cầu nguyện xin được giấu Mình Thánh Chúa trên trần nhà chuồng trâu. Tất cả mọi việc đều êm xuôi và anh em sau đó vẫn tiếp tục kín đáo cử hành thánh lễ ngay trong trại cải tạo, duy chỉ có một điều là từ nay anh Hòa sẽ cất giấu Chúa ở ngoài chuồng trâu. Câu chuyện “Võ Hòa giấu Chúa” được loan truyền rộng rải trong mọi người như là một phép mầu khiến cho nhiều người tin vào quyền năng Thiên chúa nhiều hơn và có không ít người đã xin rửa tội theo đạo công giáo ngay trong trại cải tạo Gia Trung kể từ sau đó. Sau gần 7 năm cải tạo, anh được thả ra cho về nguyên quán tỉnh Kontum, ngày anh ra tù, nguyên Chánh văn phòng Tòa hành chánh tỉnh theo cách mạng ngày 30 vẫn còn ở lại trong tù, vẫn tiếp tục được ưu đãi “đoái công chuộc tội” là hàng ngày xách tông đơ đi hớt tóc cho tù nhân, khỏi phải đi lao động ngoài ruộng rẫy. Có lẽ đến giờ nầy ông ấy mới thấm thía câu nói của Tổng Thống Thiệu “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm.” Đã trải qua muôn vàn khó khăn, ngày về của anh Hòa còn thãm thương hơn nhều, nhà cửa ở thị xã bị cộng sản tịch thu, cả gia đình bị bắt đi vùng kinh tế mới tận trên Ngô Trang (Đakto). Khi anh đi mấy đứa con còn nhỏ dại chưa quen đời sống kham khổ nay đối diện với cuộc sống khó khăn, thiếu thốn vật chất đã đành giờ còn thêm chấn thương về tinh thần. Cha đi tù, mẹ bỏ đi biệt xứ từ rất sớm, bốn anh chị em thì đứa con gái thứ hai mất vì bệnh tật, đứa con trai kế đi chăn bò bị điện giật chết, chỉ còn 2 đứa sống nhờ vào người bà con bên Nội ở khu kinh tế mới xã Ngô Trang. Không còn gì để nói thêm nữa, tình cảnh thật vô cùng bi đát. Nhưng trong mọi hoàn cảnh anh đều tin có Chúa quan phòng nên rất vững tâm, phấn đấu xây dựng lại cuộc sống. Trong những năm còn ở trong trại cải tạo, thỉnh thoảng anh có nhận được những gói quà 5kg, giờ mới biết đó là do một phụ nữ láng giềng ở khu kinh tế mới giúp đỡ gởi cho. Đồng thời chị cùng hết lòng trợ giúp 2 đứa con của anh, kể từ khi vợ anh bỏ đi biệt không về. Người đàn bà tốt bụng nầy biết anh Hòa trước đây, thời chế độ cũ. Nay thấy hoàn cảnh khó khăn của gia đình nên chị tự nguyện đứng ra giúp đỡ vậy thôi. Riêng anh Hòa, không thể không nói lời mang ơn nặng đối với người đàn bà có lòng từ tâm nầy khi anh trở về. Chỉ có một cách để đền ơn là ngỏ lời cầu hôn với chị. Ba tháng sau, đám cưới của hai người đã diễn ra ở khu kinh tế mới Ngô Trang dưới sự chủ tế của Cha sở tại cùng với đông đảo bà con, chòm xóm xung quanh. Kể từ sau đó vợ chồng anh bắt đầu xây dựng lại một mái ấm gia đình thật hạnh phúc, sinh sống bằng nghề nông, trồng lúa, làm rẫy ở nông trường Ngô Trang. Đến năm 1989 anh nộp đơn xin đi Mỹ định cư theo diện HO, hồ sơ gia đình gồm hai vợ chồng bốn đứa con, hai đứa đời vợ trước, hai đứa đời vợ sau, lại thêm một cháu trai, con của đứa con gái lớn. Thật cũng hơi rắc rối. Trong khoảng thời gian anh còn ở trại cải tạo, hai đứa con anh sống côi cút ở khu kinh tế mới Ngô Trang, có một anh bộ đội còn trẻ đóng quân ở Đakto thấy hoàn cảnh đáng thương của hai chị em, ngày ngày ra đồng làm thuê, làm mướn sống qua ngày, cô chị tuy đen đúa nhưng không giấu được nét trâm anh và duyên dáng của người thiếu nữ mới lớn nên anh bộ đội ban đầu động lòng trắc ẩn chỉ muốn giúp đỡ thôi, nhưng dần dần theo thời gian thấy vừa hợp nhãn lại vừa lòng nên hai người đã yêu nhau và có với nhau được một đứa con trai. Sau đó anh bộ đội ra quân về sinh sống luôn ở Ngô Trang với gia đình hai chị em trước khi anh Hòa về. Đến khi có chương trình đi Mỹ theo diện HO, anh Hòa quyết định là hai mẹ con cô con gái lớn được liệt kê trong danh sách gia đình đi định cư với sự đồng ý ở lại của anh con rễ. Khi lên phỏng vấn anh trả lời thật về hoàn cảnh gia đình riêng của mình và được phái đoàn phỏng vấn chấp thuận. Năm 1992 cả gia đình lên máy bay đi Mỹ còn anh bộ đội năm xưa đành trở về quê cũ, một làng quê xa xôi ở tận ngoài miền Bắc. Trời Ngô Trang hôm ấy mưa bão sụt sùi .... * * * Sau khi tàn tiệc cưới, gia đình tôi mời hết gia đình anh 6 người gồm cả con cháu hẹn nhau về Long Beach chơi một bữa ba-bi-cue sườn bò Đại Hàn trước khi anh trở về thành phố Baton Rouge, Louisiana. Bữa ấy vui lắm, rượu vào lời ra biết bao nhiêu câu chuyện đời của nhau được kể ra, nhưng cảm động nhất là câu chuyện đứa con gái lớn của anh, sau khi đến Mỹ được hai năm, có nhiều mai mối đàng hoàng đứng đắn, con nhà tử tế ở đây muốn kết tình sui gia với anh nhưng anh để tùy con quyết định. Một buổi tối, sau khi cơm nước xong xuôi, cô con gái lớn quyết định dứt khoát xin phép Ba Má cho về quê anh bộ đội năm xưa để làm đám cưới, mặc dù lúc bấy giờ liên lạc về Việt Nam, nhất là ngoài miền Bắc còn rất hạn chế. Anh đồng ý... Và hôm nay trong bữa tiệc tại nhà tôi có sự hiện diện của anh con rể ấy, rất hiền lành, ăn nói thật lễ phép. Tôi nói đùa: - Thế thì em Trang làm sao quên được. Nói chung gia đình anh rất an vui hạnh phúc. À mà quên nữa, em Trang sau nầy còn bảo lãnh cho mẹ ruột của mình sang Mỹ sum họp, ở với gia đình em. Thế mới biết con lúc nào cũng thương Mẹ nên không bao giờ lên án mẹ. Tôi hỏi, còn riêng anh thì sao, có gì lấn cấn không. Anh nói: - Bây giờ mọi chuyện xem như nước chảy qua cầu, tất cả mọi sự trên đời đều do Chúa xếp đặt. Mình có biết đâu mà lấn cấn, còn chuyện vợ chồng còn duyên phận thì ở với nhau, hết duyên thì xa nhau. Chỉ có vậy thôi. Hiện nay tất cả các con anh đều có gia đình nhà cửa riêng và công ăn việc làm tốt, ổn định. Hai đứa con với người vợ sau, một đứa trai là Bác sĩ Y Khoa, một đứa gái là Tiến sỹ Vật Lý cùng làm việc ở Louisiana, Hoa Kỳ. Anh nói thêm, sau nầy khi gia đình có đám tiệc mọi người đều cùng họp mặt chung với nhau rất vui vẻ. Tôi hơi liếc khéo nhìn về phía anh vì tôi biết người vợ trước của anh ... cũng một thời sắc nước hương trời. Biết ý nhau anh nói nho nhỏ cho tôi vừa đủ nghe: - Già rồi tình nghĩa là chính, sự đời đã tắt lửa lòng lâu rồi bạn ơi! Nghe xong tôi chợt nhận ra năm nay anh cũng đã U90 rồi, quỹ thời gian chắc không còn nhiều. Bất giác tôi nhìn lên cổ áo, anh đang đeo một sợi dây chuyền vàng mặt cây thánh giá to quá khổ. Tôi biết anh thường có trang sức dây chuyền mặt cây thánh giá lâu lắm rồi kể từ thời trước nhưng sợi dây chuyền ngày xưa nhuyển hơn nhiều chứ không to bản như bây giờ. Thấy lạ tôi hỏi như đùa - Chắc bây giờ ở Mỹ anh được ơn Chúa nhiều hơn chăng? - Đúng vậy, sinh hoạt chính hiện nay của tôi là tham dự các công tác thiện nguyện ở nhà thờ giáo xứ nơi tôi cư ngụ. - Anh có về Việt Nam không? - Có. Cách đây vài năm tôi có về Việt Nam lo mồ mã cho cha mẹ, ông bà ở Bình Định. Anh kể cũng là một chuyện lạ. Anh rời Qui Nhơn (Bình Định) lúc còn nhỏ nên chỉ nhớ lờ mờ khu nghĩa trang địa phương, sau nầy chính quyền giải tỏa biến thành khu đất canh tác, phân lô cho dân chúng trồng trọt. Khi đến nơi quê xưa chốn cũ anh còn nhận ra được khu mộ, một dãy 5 ngôi mộ gần liền nhau của cha mẹ ông bà, trong khi chung quanh mọi người đã san bằng tất cả. Anh hỏi người chủ miếng đất có 5 ngôi mộ sao vẫn còn y nguyên, chị kể Khi được chia đất về đây đã có sẵn 5 ngôi mộ nầy, thay vì để thành mã lạn, tôi giữ lại bằng cách bồi đắp mỗi năm vì tin rằng sống trên đời có âm có dương có người sống cũng có người khuất nên lòng thành tôn kính, biết đâu sẽ được người khuất phò hộ. Nghe qua rất cảm động, anh đề nghị mua riêng khu đất có 5 ngôi mộ này, chị trả lời là không cần thiết, nhưng anh cũng xin một tờ giấy viết tay ghi rõ chu vi khu đất nhỏ nấy dành riêng cho gia đình anh, người em của anh ở Sài Gòn sẽ giữ tờ giấy nầy. Anh tặng cho chị chủ nhân miếng đất 5 ngàn đô la và xin được xây sửa lại căn nhà của chị cho khang trang hơn, đồng thời hằng năm anh sẽ gởi về cho chị chút đỉnh tiền coi như tiền trông nôm mã mồ cho gia đình anh. Thế mới biết sống hiền lành tử tế, biết giữ gìn nhân cách không có ác tâm, biết thờ kính người đã khuất dù thân hay sơ, rồi ra sẽ được ơn trên phù trợ, giúp tai qua nạn khỏi, chưa kể là sẽ được phúc lộc trời ban. Chuyện đời của anh đến đây xem như đã nhẹ, giờ đây anh chỉ còn sống theo câu châm ngôn thuộc nằm lòng “kính Chúa yêu người” kể cả người cộng sản. Trời càng lúc càng khuya, tôi tiễn gia đình anh ra về mà lòng bâng khuâng khó tả, biết còn có ngày gặp lại nữa không. Đời là vô thường mà.
Trần Bạch Thu |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23836 |
![]() ![]() ![]() |
Nỗi Nhớ Khôn NguôiĐã hơn 37 năm rồi mà tôi vẫn không quên được những kỷ niệm êm đẹp của tôi và đứa em “cột chèo” ở miền Trung, nơi quê hương có núi Ấn, sông Trà. Tôi là người Nam ở miền biển mặn gần VũngTàu, đến tuổi lớn khôn, đi lính, phiêu bạt ra miền Trung và cưới vợ ở “xứ kẹo mạch nha” Quảng ngãi. Vợ tôi vào Nha Trang để đi học. Lúc tôi còn là Sinh Viên Sĩ Quan ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân đã vướng phải lưới tình của cô gái Quảng “pha” Nha Trang và đã yêu nàng tha thiết! Lúc ra trường, tôi được ưu tiên chọn nơi phục vụ tại xứ biển nầy. Sau 2 năm ở Nha Trang, trời xui khiến tôi đổi ra trấn “Ải Địa Đầu”của lính tàu bay là Không Đoàn 41, Đà Nẳng. Nàng theo tôi trở về quê cũ, thật đúng là duyên nợ! Đứa em “cột chèo” của tôi tên là Châu Đình Phúc, sĩ quan phòng 3 của Sư Đoàn 2 Bộ Binh ở trại Hoa Lư, Quảng ngãi. Phúc cưới cô em vợ của tôi tên Ái Phương lúc cô nầy mới đúng độ “trăng tròn lẻ”, xinh đẹp, dễ thương và còn đang đi học. Sau Ái Phương, còn 2 nàng nữa tên Thủy và Liễu. Lúc tôi cưới vợ tôi thì Phúc và Phương đã có 2 đứa con gái tên Lệ và Tuyền. (Hai tên nầy ghép lại thành Lệ Tuyền có nghĩa là suối lệ)!! Phúc có tầm vóc trung bình, cao khoảng 1m65, tóc hớt cao, khuôn mặt rắn rỏi, kiên nghị, nhưng Phúc rất vui tính. Điểm đặc biệt là Phúc có một cái răng vàng. Tôi nhớ lại trong Nam ở thập niên 60, trai gái miền quê hay bịt một cái răng vàng để làm tăng thêm sự duyên dáng cho nụ cười. Bởi vậy nhạc bản “Khúc ca ngày mùa” của nhạc sĩ Lam Phương bị các cô, các cậu sửa lại câu đầu để ca, chọc quê nhau: “Cười lên đi cho răng vàng sáng chói!” Điểm đặc biệt thứ hai là tôi chưa bao giờ thấy Phúc mặc đồ “civil”, hầu như nó mặc quân phục suốt ngày. Phúc cùng tuổi với tôi, nhưng luôn xưng hô bằng em với tôi rất ngọt. Vì gốc người Quảng Trị và hay nói nhanh, nhiều khi tôi ngơ ngẩn sau câu nói của Phúc và bảo nó lập lại. Nhớ lúc từ Phi Đoàn 114 ở Nha Trang đổi ra Phi Đoàn 110, Đà Nẳng, hôm nọ bay yểm trợ cho cuộc Hành Quân Lam Sơn 54 ở vùng hỏa tuyến, khi liên lạc máy vô tuyến với cánh quân thuộc đơn vị Nhảy Dù, anh hiệu thính viên người QuảngTrị “gởi công điện” mà tôi nghe không được, yêu cầu anh ta lập lại nhiều lần. Cuối cùng đơn vị bạn phải tìm 1 anh hiệu thính viên khác thuộc dân “nam cờ” chánh tông liên lạc với tôi. Trước khi bàn giao nhiệm vụ, anh hiệu thính viên Quảng Trị nói với tôi: – Bạn ơi! Tôi đã tìm ra người xứ bạn để nói chuyện với bạn cho dễ hiểu! Phi Đoàn 110 có 1 biệt đội ở Quảng Ngãi gồm 3 phi cơ L19 để bay yểm trợ hành quân cho Sư Đoàn 2 Bộ Binh và Tiểu Khu Quảng Ngãi. Nhân Viên Phi Hành của Phi Đoàn luân phiên nhau đi biệt phái, mỗi kỳ là 15 ngày. Lần nào tới phiên tôi đi Quảng Ngãi, tôi cũng xin phép ở lại cả tháng, có khi 2, 3 tháng. Sau một ngày làm việc, chiều nào tôi cũng cùng Phúc và người anh bà con chú bác của vợ tôi, tên Bích đi uống bia ở những quán nem nướng trên đường Võ Tánh hay những quán nhậu gần đầu cầu sông Trà Khúc. Thỉnh thoảng, 3 anh em lái xe “jeep” xuống tận sông Vệ ăn mì Quảng. Có khi tôi đi nhậu với anh em đồng đội của Phúc ở Trại Hoa Lư. Khi “tửu nhập tâm như hổ nhập lâm”,họ thường thách nhau cụng đầu để tranh chức vô địch (chơi trò gì kỳ cục quá)! Phúc luôn giữ chức vô địch vì đầu nó quá cứng. Tôi ngồi nhìn họ cụng đầu nhau mà cười chớ không nhập cuộc. Có khi tôi và Phúc đối ẩm với nhau, không có bạn bè nào khác ngồi chung, Phúc thường tâm sự với tôi là nó muốn xin ra tác chiến. Tôi hỏi nó có chuyện gì buồn không? Nó trả lời: – Em không có chuyện gì buồn cả, nhưng em thấy bạn bè em gian khổ ngoài chiến trường mà mình ngồi văn phòng hoài em cảm thấy mình hèn quá! Tôi khuyên Phúc: – Chiến đấu thì ở vị trí nào cũng là chiến đấu, miễn sao tinh thần của mình luôn tích cực với nhiệm vụ. Cấp chỉ huy đã cắt đặt Phúc ngồi ở phòng 3 chớ đâu phải mình cầu xin hay mua chỗ ấy đâu mà hèn. Em hãy bỏ ý định mạo hiểm ấy đi, vợ trẻ, con thơ đang cần Phúc ở gần chúng nó. Phúc không nói thêm nữa, mắt nhìn xa xăm nghĩ ngợi. Trong ánh mắt ấy, tôi đọc được niềm ước mơ tung hoành nơi chiến địa cho thỏa chí tang bồng. Tôi thương Phúc như tình đệ huynh ruột thịt vì tánh tình của nó cương trực, biết lo cho gia đình, đối xử với bạn bè chân thật, đậm đà tình nghĩa. Tôi thương Ái Phương như đứa em gái của tôi vì nó rất đoan trang, phúc hậu. Trong thời chinh chiến, có biết bao thiếu phụ chít khăn tang, khóc chồng trước cảnh tử biệt sinh ly, duyên tình gãy đổ nửa chừng xuân. Tôi không muốn nhìn đứa em vợ của tôi và đàn cháu thơ dại, tóc xanh chưa vướng bụi đời phải sớm chuốc lấy nỗi khổ hận, đau thương khi Phúc xông pha ra chiến trận và không bao giờ trở lại. Nhưng, Phúc xem thường chuyện tử sanh. Nhiều lần nó nói với tôi: – Nếu một mai em bị lọt vào tay Cộng Sản, em sẽ tự sát hoặc là kháng cự cho chúng nó bắn em chết chớ không để chúng nó dẫn em đi! Tôi trấn “Ải Địa Đầu” của Không Quân được 2 năm thì về miền Nam đầu quân vào Phi Đoàn tân lập 122 theo đà phát triển của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa từ cấp lớn nhất là Không Đoàn tăng lên cấp Sư Đoàn. Kể từ đó, tôi xa đứa em cột chèo và miệt mài với nhiệm vụ bay yểm trợ hành quân khắp miền đồng bằng sôngCửu Long và chiến trường ngoại biên Campuchia. 3 năm sau, tôi xin phép đặc biệt, đưa vợ con về thăm cha mẹ vợ tôi ở Quảng Ngãi. Tôi vui mừng gặp lại Phúc. Nó đã được thăng cấp Đại úy như tôi và đã ra đơn vị tác chiến là Tiểu Đoàn 1/5 thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh, với chức vụ Tiểu Đoàn Phó. Mừng ngày tái ngộ, Phúc lái xe chở tôi cùng 5 anh em đồng đội của nó đi ăn nhậu, hết quán nọ, sang quán kia. Sau đó, Phúc chở tôi ra thăm hậu cứ Trung Đoàn của nó ở Tuần Dưỡng. Phúc lấy cái nanh heo rừng bọc trong túi vãi đỏ, có dây để đeo vào cổ cũng màu đỏ, đặt trên cái trang thờ trong phòng của nó, trao cho tôi và nói: – Em “chuộc” cái nanh heo rừng nầy với giá 2 chỉ vàng để dành tặng anh vì em đi hành quân, thấy phi cơ L19 mỗi lần bay thấp xuống, bị Việt Cộng bắn dữ lắm, không biết phi công có nghe súng nổ hay không chớ tụi em dưới đất thường nghe loại súng phòng không 12ly7 nó bắn rát lắm! Anh đeo cái nanh nầy để làm bùa hộ mạng vì đạn và lửa sẽ tránh anh! Tôi cầm cái nanh heo rừng ngắm nghía và nhớ lại huyền thoại của nó do một bậc chú, bác của tôi kể: “Cái nanh heo rừng chỉ linh nghiệm khi nào con heo già nua sắp chết, nó đánh vào gốc cây khô cho đôi nanh ghim sâu và gãy trong đó để giấu báu vật của nó. Sau đám cháy rừng, người nào (biết rõ chuyện linh nghiệm của nanh heo rừng) thấy 1 gốc cây và cỏ chung quanh không bị cháy thì sẽ lấy được cái nanh quý. Những cái nanh khác thì không có sự linh nghiệm”. Tôi nghĩ đến Phúc phải xông pha ngoài mặt trận, trước lằn đạn của quân thù, cần có một chiếc nanh quý để hộ thân nên trao chiếc nanh lại cho Phúc: – Phúc cần cái nanh heo rừng nầy hơn anh vì em cận kề với sự hiểm nguy ngoài chiến tuyến, còn anh thì bay ở trên trời dù sao cũng an toàn hơn, VC bắn khó trúng phi cơ lắm! Cám ơn em đã yêu thương và lo cho anh. Có điều anh khuyên em là đừng quá tin tưởng vào cái nanh nầy mà không ẩn núp trước hỏa lực của đối phương! Phúc năn nỉ mãi, nhưng tôi vẫn không chịu nhận cái nanh. Sau đó, Phúc chở tôi ra Tam Kỳ, ngồi quán cà phê, nghe nhạc lính tới chiều mới trở vô Quảng Ngãi. Hết phép, tôi phải trở về đơn vị, nhưng vợ con tôi còn ở lại Quảng Ngãi. Tôi hẹn tháng sau sẽ trở ra Trung, đón vợ con tôi về Cần Thơ. Tôi đi biệt phái ra Đặc Khu Phú Quốc, mua đặc sản cá khô thiều, tôm khô với dự định làm quà tặng Phúc và anh em đồng đội của nó khi tái ngộ với họ. Tôi có ngờ đâu, ngày tôi trở lại quê hương núi Ấn,sông Trà thì được tin Phúc bị mất tích khi căn cứ “West Quế Sơn” của nó bị thất thủ. Ái Phương, vợ Phúc vẫn tin tưởng rằng Phúc còn sống và bị bắt làm tù binh. Riêng tôi cảm thấy buồn muốn khóc như đã mất một người thân và theo linh cảm của tôi thì Phúc khó mà sống sót được. Tôi chỉ biết an ủi em vợ tôi hãy nén đau thương và can đảm vượt qua sóng gió cuộc đời để lo nuôi dưỡng 3 đứa cháu thơ cho khôn lớn nên người. Năm 1973, tôi được về Sài Gòn dự đại lễ mừng Ngày Quân Lực 19/6. Trong bữa tiệc do Tổng Thống khoản đãi 211 chiến sĩ xuất sắc tại Dinh Độc Lập, tôi nhìn sang bàn bên cạnh, thấy một quân nhân mang phù hiệu “Con cá hóa long” của Trung Đoàn 5 (tức là Trung Đoàn của Phúc). Tôi vội đến hỏi thăm tin tức của Phúc thì được anh lính ấy cho biết: “Căn cứ West Quế Sơn bị Cộng quân tràn ngập, nó bắt Đại úy Phúc dẫn đi. Đại úy Phúc kháng cự lại nên bị chúng nó bắn ổng chết tại chỗ”. Tôi không có thì giờ hỏi người lính nầy thêm nữa. Giữa tiệc vui đầy cao lương mỹ vị mà tôi bỗng nghe tê đắng cả vị giác và cõi lòng mang nặng nỗi đớn đau, thương tiếc một đứa em “cột chèo” dũng cảm, bất khuất trước kẻ thù. Những lời nó nói với tôi trước kia như một lời nguyền. Nó đã giữ đúng lời nguyền ấy như đinh đóng vào cột! Trong lần về phép ở Quảng Ngãi, tôi đã thuật lại tin tức tôi biết được về Phúc cho em vợ tôi nghe. Ái Phương trả lời: – Không phải vậy đâu anh! Anh Phúc vẫn còn sống mà! Tôi nhìn vào đôi mắt của Ái Phương, tuy em không khóc, nhưng tôi cảm nhận được ánh mắt ấy sâu thăm thẳm và chắc là em đang khóc trong lòng. Tôi hối hận vì mình đã gieo thêm nỗi buồn đau cho Ái Phương. Đáng lẻ tôi không nên khuấy động tâm tư của Ái Phương bằng những tin buồn mà tôi đã nhận được để cho đứa em đáng thương kia nuôi niềm hy vọng mà sống với đàn con thơ dại cho đoạn tháng, qua ngày. Trong ngày trao trả tù binh sau Hiệp định Paris, tôi đã dò danh sách tù binh VNCH trên những tờ nhựt báo, được Cộng sản trao trả, nhưng không thấy tên Châu Đình Phúc đâu cả. Tôi nghĩ Ái Phương chắc cũng đã chăm chú, hồi hộp dò từng tên tù binh được thả về từ ngục tù Cộng sản và thất vọng não nề khi chẳng thấy tên chồng. Hơn 16 năm sống trên đất Mỹ, vợ tôi vẫn còn liên lạc với Ái Phương và được biết em vẫn ở vậy thờ chồng, nuôi đàn con 2 gái, 1 trai, bây giờ đứa nào cũng lớn khôn, lập gia đình, làm ăn phát đạt. Đứa con gái tên Tuyền đã cùng chồng vượt biển tìm tự do, hiện đang định cư ở Canada. Vì muốn biết rõ ràng sự hy sinh dũng cảm của đứa em “cột chèo” Châu Đình Phúc, tôi đã nhờ Đài Truyền Hình VHN nhắn tin cùng chiến hữu đồng đội của Phúc, yêu cầu họ cho tôi biết tin tức về Phúc. Tôi được Cựu Trung Tá C. của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Quảng Tín trước kia, hiện định cư ở Texas, thuật lại rành mạch biến cố của “Mùa Hè Đỏ Lửa” mà căn cứ West Quế Sơn, còn gọi là Đồn Liệt Kiểm là mục tiêu của địch quân: Trung Tá C. ra căn cứ West Quế Sơn nằm giữa Việt An và Hiệp Đức để bàn định kế hoạch phòng thủ vì có tin địch sẽ tấn công căn cứ nầy. Bỗng 5 giờ sáng ngày 12 tháng 3 năm 1972, Đặc công Việt cộng tấn công căn cứ. Chúng đột nhập và làm chủ tình hình, kêu gọi lực lượng ta đang ẩn núp trong công sự phòng thủ, hầm truyền tin hãy ra đầu hàng. Trung tá C. bị thương, trốn trong một lô-cốt cùng với một người lính truyền tin. Ông hoàn toàn bị mất liên lạc với Thiếu tá Nguyễn văn Bê, Tiểu đoàn trưởng và Đại úy Châu Đình Phúc, Tiểu đoàn phó. Những ngày ấy, mây mù bao phủ vùng trời, phi cơ không bay đến oanh kích, yểm trợ được. Pháo Binh ta bắn liên tục chung quanh căn cứ nên Trung tá C. không thể nào ra khỏi nơi ẩn trốn được. Đến ngày hôm sau,Việt Cộng đem công binh đến kêu gọi sĩ quan và lính còn ẩn trốn hãy ra hàng, nếu không, chúng sẽ đặt chất nổ phá hủy căn cứ. Trung tá C. cùng 5 sĩ quan ra đầu hàng, bị chúng bắt, dẫn đi. Trên đường đi, ông gặp Thiếu tá Bê, Tiểu đoàn trưởng cũng bị bắt làm tù binh.Thiếu tá Bê cho Trung tá C. biết, Đại úy Châu Đình Phúc và một sĩ quan Đại đội trưởng bị chết trong tiếng nổ đầu tiên khi đặc công VC đột nhập và khai hỏa. Tất cả tù binh bị đưa về trại tù ở ranh tỉnh Kontum và Quảng ngãi. Bị giam cầm một thời gian, Thiếu tá Bê kết hợp vượt thoát cùng 5 sĩ quan của Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Thừa lúc đi làm lao động khổ sai, 2 tên cán bộ võ trang sơ ý, Thiếu tá Bê chém chết chúng nó, đoạt vũ khí rồi chạy vô rừng.Chẳng may trên đường tẩu thoát, Thiếu tá Bê cùng anh em gặp 1 đơn vị của Việt cộng. 2 bên bắn nhau, Thiếu tá Bê cùng 2 sĩ quan bị tử thương còn 3 người kia bị bắt sống. Sau đó chúng hành hạ tù binh trong trại đủ mọi cách để trả thù. Năm 1973, Trung tá C. được trao trả tù binh khi ông đã kiệt lực, đi không nổi phải nhờ Đại úy N.D.A, Pháo đội trưởng của căn cứ West Quế Sơn và một người nữa võng ông đi đến 7 ngày đường mới tới địa điểm trao trả tù binh. Qua lời tường thuật của Trung tá C., tôi nghĩ nếu Phúc bị bắt làm tù binh thì chắc thế nào nó cũng kết hợp với Thiếu tá Bê, tiểu đoàn trưởng để vượt ngục và chắc Phúc sẽ cùng chung số phận với Thiếu tá Bê khi chạm súng với Cộng quân trong rừng. Vùng ranh giới 2 tỉnh Kontum và Quảng ngãi núi non trùng điệp, chớn chở, rừng già rậm rạp, thâm u với ngọn Ngọc Lĩnh cao trên 9.000 feet. Ngày trước biệt phái cho Trại Biệt Kích B.15 ở bên kia đầu cầu DakPla của tỉnh Kontum, tôi thường bay qua vùng nầy và nghĩ rằng nếu bị hạ cánh ép buộc xuống nơi đây, may mắn được sống còn thì cũng khó mà mưu sinh thoát hiểm. Thiếu tá Bê thật là một sĩ quan của QLVNCH dũng cảm, can trường đã quyết không đội trời chung với quân thù. Việt cộng nắm vững địa thế vùng nầy vì là địa bàn hoạt động của chúng (“Rừng nào, cọp nấy”)! Thiếu tá Bê và 5 sĩ quan kia với hỏa lực ít ỏi làm sao chống nổi với đơn vị đầy đủ đạn dược của Cộng quân, như “mãnh hổ nan địch quần hồ”! Anh đã chết đi nhưng đã nêu cao tấm gương anh hùng bất khuất muôn đời, theo truyền thống của nòi giống Rồng Tiên. Tôi nhận được tin tức chính xác về Phúc trong vòng một tháng thì Ái Phương được đứa con gái bảo lãnh sang Canada. Tôi gọi điện thoại thăm em ấy và kể lại chuyện đồn Liệt Kiểm bị thất thủ theo lời Trung tá C. tường thuật. Lần nầy, Ái Phương không chống chế lời tôi nói nữa, nhưng chắc em cũng buồn nhớ, tiếc thương người bạn tình chung đã ra đi không bao giờ trở lại. Vợ chồng tôi hứa sẽ qua Canada thăm em nhưng chưa đi được. Mùa Xuân năm nay, ở miền lạnh giá, chắc em sẽ nhớ quê nhà và nhớ thương chồng em đã hy sinh vì chính nghĩa quốc gia, noi gương vị anh hùng dân tộc Hoàng Diệu, thành mất thì chết theo thành. Thân xác của Phúc không biết bị vùi dập nơi đâu!? Nó không được nằm trong cổ quan tài phủ cờ Tổ Quốc và không được an táng dưới “nấm mồ danh dự”. Theo quan niệm sống của tôi, người nào an ủi tôi lúc hoạn nạn, đau buồn, cũng đủ cho tôi mang ơn người ấy. Do đó, tôi không thể nào quên được ân tình của Phúc đối với tôi khi Phúc mua cái nanh heo rừng mà nó cho là bùa hộ mạng, nhưng không dùng báu vật ấy để che thân mà tặng cho tôi để tôi được an toàn trong những phi vụ bay yểm trợ hành quân. Nó chỉ nghĩ tới sinh mạng của tôi mà quên cả bản thân của nó! Riêng Ái Phương thật xứng đáng nêu gương một người vợ thủy chung, thủ tiết thờ chồng, nuôi con đến tuổi khôn lớn, thành nhân, vượt qua bao sóng gió của cuộc đời. Có lẽ dưới suối vàng, Phúc cũng đẹp lòng vì có được một người vợ hiền giữ tròn thệ ước và vẹn vẽ câu “tứ đức, tam tùng”. Kha Lăng Đa |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 110 |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |