![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Chuyện Linh Tinh | |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
<< phần trước Trang of 111 |
Người gởi | Nội dung |
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23945 |
![]() ![]() ![]() |
![]() Tưởng mới hôm qua đỏ lửa Hè, Ai ngờ, đã mấy chục mùa ve! Chưa quên phi đạn bay vi vút, Còn nhớ hỏa châu bắn sáng lòe. Nó thắng, bởi hung tàn tột đỉnh! Mình thua, vì viện trợ loe hoe. Nỗi đau lịch sử chưa từng có !!! Đại lộ Kinh hoàng, dạ sắt se! Trần Quốc Bảo Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 20/Aug/2025 lúc 3:49pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23945 |
![]() ![]() ![]() |
Bản Tình Ca Của Người Tị Nạn![]() (Lời giới thiệu: Tôi không dám tự cho mình đã đọc nhiều sách và lại càng không dám phê bình một cây bút nào...nhưng qua bài tự truyện này, tôi phải thảng thốt lên rằng Ồ giọng văn gãy gọn, ngắn mà súc tích biết bao, ngắn gọn như là tác giả tiết kiệm từng lời từng chữ...để không dẫn dắt độc giả vào những chi tiết quanh co nhưng vẫn làm rung động trái tim tình người... không như nhiều cây bút khác tôi đã từng đoc. Mời các bạn theo dấu chân di vào đoãn buồn một đời lưu lạc...) ----- Hai năm sau ngày đất nước chia đôi, từ miền Bắc hoang tàn, tôi lặn lội tới vùng giới tuyến mong vượt thoát vào miền Nam tự do. Lần tới gần sông Bến Hải, đêm tối âm u bờ Bắc, tôi đã nhìn thấy cầu Hiền Lương vì bờ Nam rực sáng ánh đèn. Trên cột cờ cao vút, bóng cờ vàng sọc đỏ lung linh. Giọng ca ngọt ngào từ loa treo vọng về miền Bắc: "...sông Bến Hải là nơi chia cắt đôi đường... hỡi ai... lạc lối... mau quay... về đây ...!" Tôi đứng đó chơi vơi định hướng, đăm đăm nhìn cờ vàng bên kia bờ sông lịch sử, uống từng lời ca trong cơn đói khát, rồi bừng tỉnh, lao lên phía trước. Từ đâu đó, mấy cái nón cối xông ra. Tôi bị trói hai tay bằng sợi thừng oan nghiệt, theo nón cối về lại địa ngục trần gian. Mười chín tuổi, lao tù đầy đọa, tôi đã mất mẹ, mất cha, bị qui là tư sản, xa vắng họ hàng vì chia rẽ giai cấp. Tôi mất Hà nội là nơi tôi sinh ra làm người Việt Nam. Không có tang cha khi cha gục xuống, không có tang mẹ khi mẹ xuôi tay, không hy vọng có đám cưới đời mình. Bạo quyền cộng sản Việt Nam bắn giết hàng trăm ngàn người, bị qui là địa chủ. Nhiều trăm ngàn người bị tập trung lên rừng, để lại vợ con không nhà không đất. Thời gian làm ngưng nước mắt, oán than cũng vô ích, chỉ còn tiếng kêu vang vọng khắp miền: "Chúng tôi muốn sống!" Hai mươi lăm năm sau (1981) tôi vượt biển, thoát tới Hong Kong. Bốn mươi tư năm từ lúc chào đời, tôi thành người tị nạn cộng sản. Ngày tiếp kiến phái đoàn Mỹ xin đi định cư, một ông Mỹ dáng nghiêm trang, nghe tôi trả lời, đột nhiên hỏi "Anh có biết nói tiếng Pháp?". Tôi nhìn ông, giọng run run: "L'exilé partout est seul!" (Kẻ lưu đày nơi đâu cũng cô độc). Ông gật đầu hiểu cả tiếng Tây, hiểu lòng tôi đau xót. Xưa tôi học trường Albert Sarraut, Hà Nội. Đứng bên rào kẽm gai, sau dãy nhà tôn của trại tị nạn Hong Kong, một mình, suy tư thân phận. Tôi sẽ đến nơi xứ lạ là nước Mỹ xa xôi, tìm quê hương mới, chỉ trở về khi đất nước Việt Nam tự do, không còn cộng sản. Đứa bé chừng 5, 6 tuổi, tung trái banh, toan bắt thì trượt chân trên sân trại. Tôi đã kịp giang tay đỡ cháu khỏi ngã thì người đàn bà chạy tới, đứng im, lặng lẽ nhìn tôi. Tiếng trẻ thơ kêu "Má", tôi nhìn nàng... Sự thầm lặng và ánh mắt trao nhau là chân tình của người tị nạn Việt Nam nhẫn nhục, khổ đau, nói được nhiều hơn lời nói. Rồi những ngày sau đó, tâm sự, nỗi niềm, tôi đã cùng Mai kết thành bạn đường và bạn đời, đi Mỹ định cư. Chồng Mai là người lính Cộng Hòa hiên ngang dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, quyết bảo vệ quê hương. Anh tử trận, mang thân đền nợ nước, để lại con thơ. Mai trở thành góa phụ, miền quê Đà Nẵng, cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại. Sau năm 1975, mất nước. Mẹ già khuất núi, con chậm lớn vì cháo loãng, bo bo thay cho sữa mẹ và cơm. Một đêm mưa bão, Mai bị tên Việt cộng trưởng công an xã cưỡng hiếp, du kích xã canh gác quanh nhà. Mai phải sống vì con mới lên ba, mất cha còn mẹ. Người dân Đà Nẵng ra đi, đã mang theo vợ con người lính chiến tới Hong Kong năm 1981. Đứa con lên sáu không biết tiếng gọi "Ba"! Tôi mang nặng tủi nhục, đọa đày triền miên từ đất Bắc đi tìm tự do. Mai gánh những thương đau, mất mát, cơ cực của miền Nam, bồng con đi tị nạn. Lấy dĩ vãng chia xẻ cùng nhau, chúng tôi sắp xếp lại hành trang cho bớt gánh đoạn trường, đi Mỹ. Con đã có Má, có Ba. Má bồng con, Ba xách túi. Con có đồ chơi, cầm chiếc máy bay vẫy chào các chú, hai người lính chiến Quảng Nam đưa tiễn. Tôi nhìn con tự nhủ: "Ba sẽ dạy con tiếng "Cha", chỉ cho con hình người lính Cộng Hòa, ở bất cứ nơi đâu đều là Cha con đó!". Mai đã nhất định không đi kinh tế mới. Tôi đã trốn công trường, vào tù chịu đựng, bây giờ dù bỏ lại quê hương nhưng còn Tổ quốc Việt Nam. Bốn ngàn năm lịch sử, thăng trầm, người dân nước Việt sẽ không trở thành Cộng sản. Quê hương mới của chúng tôi là vùng đông bắc nước Mỹ. Căn apartment hai phòng, hai chiếc giường nệm, một chiếc bàn con, đã cho tôi ấn tượng đẹp những ngày đầu tới Mỹ. Lúc tôi khôn lớn, không có chiếc giường làm nơi cư trú, vì đã thành vô sản. Rồi tôi hiểu, vô sản cũng vẫn còn giai cấp. Phải lên rừng, một miếng nylon bọc vài manh vải gọi là quần áo, thì mới thành "người vô sản chân chính"! Nhìn con ngon giấc ngủ thần tiên, vợ chồng tôi thao thức, không phải lo âu mà thì thầm những dự định tương lai. 18 tháng welfare trợ cấp, đủ thời gian cho mình đi học tiếng Anh. Đọc dòng thư hội M&RS nhắc trả nửa tiền nợ vé máy bay sang Mỹ "Xin bạn trả dần 12 tháng, giúp cho người sau bạn định cư", theo ý Mai, ý nghĩ nhân hậu của người đàn bà làm mẹ, "mình trả ngay từ tháng thứ hai". Việc đơn giản là tại sao người ta không khấu trừ vào trợ cấp, lại đòi riêng. Mai chỉ nhẹ nhàng "nợ thì mình trả, ở hiền sẽ gặp lành", nhưng tôi lại suy nghĩ mung lung. Đây là bước đầu thử thách, cái thước đo lòng người tị nạn. 72 đô tiền nợ một tháng, có thể không trả và quên đi. Một lần để lòng vẩn đục sẽ trở thành bất lương. Cha mẹ bất lương con cái sẽ chẳng nên người. Một sáng mùa Xuân, "bé Nam" gọi Má, gọi Ba, chỉ bông hoa mầu vàng mầu đỏ đung đưa bên vườn hàng xóm, kêu lên "hoa tu-líp". Bà già người Mỹ đứng trên thềm, giơ tay vẫy vẫy. Mai đã nói "Thank you", ngọt ngào, mạnh dạn, tay chỉ trỏ, diễn tả được những gì muốn nói. Bà Jenny hiểu chút ít về "chiến tranh Việt Nam" qua tivi, sách báo hồi bà còn dạy học. Bà đã thấy "Boat people", những thuyền nhân tị nạn, nhưng lần đầu bà thấy một gia đình người Việt đến vùng này, lại là hàng xóm nên bà có cảm tình. Đây là ứng nghiệm "Ở hiền gặp lành" hay là sự may mắn cho gia đình tôi? Nói thế nào thì cũng đúng vì vài nơi trên đất Mỹ vẫn còn kỳ thị chủng tộc. Thời gian trôi đi nhưng hai tiếng "lần đầu" lặp lại: lần đầu ra nhà Bank, lần đầu tới Post Office. Có những lần đầu chưa biết, nhưng có hai lần đầu quan trọng: "bé Nam" đi học, chúng tôi xin được việc làm. Bà Jenny cùng chúng tôi đưa "cháu" tới trường, bà cho chiếc mũ baseball và đôi giầy sneaker trắng muốt, khen "Cháu cute." Vợ chồng nhìn nhau, không hiểu, lát nữa về tra tự điển. "Từ nay chúng mình có Má, bé Nam có Bà...!" Mai thốt lên khi chúng tôi đồng lòng nhận "Má Nuôi". Bà Jenny thành "Má Jen". Chuyện xảy ra vào ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), 17 năm về trước. Sống một mình trong căn nhà rộng rãi, bà Jenny vốn là cô giáo nên rất yêu trẻ. Bà mời "cả nhà" sang ăn Turkey. Bé Nam lên bảy, đi học, hiểu nhiều về Thanksgiving hơn Má và Ba. Ăn uống vui vẻ, vợ chồng tôi nói chuyện với bà, có lúc ngồi im lặng hơi lâu vì vốn tiếng Anh ít ỏi. Bỗng bé Nam kêu "Má...!", bà Jenny toan đứng dậy thì Mai buột miệng nói: "Má... let me do it!". Nghe tiếng "Má" lỡ lời của Mai, tiếng Việt, vừa lạ, vừa thích, bà bâng khuâng giây lát. Mai kể chuyện xưa, miền Đà Nẵng cuốc đất trồng khoai, nuôi mẹ già con dại... Tôi góp phần thông dịch, bớt thêm: Người Việt Nam coi việc chăm sóc cha mẹ già là bổn phận, dù chịu nhiều cơ cực cũng cố gắng đền ơn sinh thành, dưỡng dục. Bà suy nghĩ mấy ngày, bỏ dự định chuyển về Florida, tỏ ý muốn nhận gia đình tôi làm Con, làm Cháu. Chúng tôi dọn nhà sang ở chung với "Má Jen", điều này ít thấy trong các gia đình người Mỹ có con trưởng thành. Các con nhờ Má, nói được tiếng Anh. Cháu quấn quít bên Bà, xem chú chuột Mickey. Mùa đông buốt giá nhưng trong nhà nồng ấm tình người. Má vui tươi hơn trước, thích ăn bánh xèo và phở Việt Nam. Mai vẫn cặm cụi hàng ngày, làm những chiếc ví tay của phụ nữ. Mấy người bạn Việt Nam đặt cho Mai biệt danh "Bà đầm hãng bóp" vì "giỏi việc, lại biết tiếng Anh," nhiệt tình giúp đỡ bà con. Cũng như Má Jen, Mai không thích sa hoa, theo Má vào tiệm sách trong Mall nhiều hơn vào tiệm bán phấn son, make up. Việc từ thiện đã thành sở thích, Mai gửi 200 đôla, mỗi lần, giúp đồng bào bão lụt miền Trung, miền Bắc, vì lương tâm, đạo lý. Kẻ cầm quyền ăn chặn của dân, như đám cướp, có bao giờ được mãn kiếp yên thân. Đức Phật từ bi dạy Mai lòng độ lượng. Tôi làm technician, ngành điện tử. Nhớ xưa, học sửa radio bị nghi làm gián điệp. Bộ công an Hà nội lấy công nông lãnh đạo, coi "điện tử" là CIA. Mười bẩy năm trong ngành điện tử, nay chắc tôi thành CIA ngoại hạng! Bây giờ, ngồi trước máy computer, nối vào mạng Net, đọc Website tiếng Anh, tiếng Việt, thông tin thế giới bằng email, việc hãng, việc nhà, công tư hòa vào nhau từng ngày làm việc, tôi đã có cuộc sống an hòa, hạnh phúc, một gia đình thật sự yêu thương. "Ngày mai, chúng mình đi New York thăm con". Mai nắm tay tôi, hân hoan về ngày mai. Ngày mai là tương lai của bé Nam ngày trước, giờ là một thanh niên cao 6 feet, đầy nghị lực bước vào đời. Xong đại học, Nam Nguyen trở thành chuyên viên tài chánh, làm việc trong văn phòng, tầng thứ 32 của một nhà "chọc trời" New York. Ngày con ra trường là ngày vui trọn vẹn, ngày con nhận việc mới là niềm sung sướng của Má, của Ba, của Gia Đình tị nạn, mong ước từng ngày cho Con thành Người. Lâu lắm rồi, tôi mới có một đêm không ngủ để nhìn lại đời mình. Tháng chín, trời sang Thu se lạnh vùng đông bắc nước Mỹ. Tôi đã sống nơi đây 18 năm tị nạn, không thất vọng mà tin tưởng vào tương lai. Người cộng sản muốn làm hung thần cai quản địa cầu, dựng lên Địa Ngục. Dựng được vài phần thì sụp đổ, sót lại từng mảnh vỡ điêu tàn. Hung thần đã chết. Thoát kiếp lưu đày làm người tự do, tôi kính cẩn tri ân người phá ngục: người lính Cộng Hòa, giương cao lá cờ vàng ba sọc đỏ, chính nghĩa Quốc Gia. Việt Nam, từ tinh thần đến lãnh thổ. Người lính chiến Cộng Hòa hiên ngang đi làm Lịch Sử. Không có Anh, tôi đã không có niềm tin để sống sót, đã thành nấm mộ hoang trên rừng xơ xác. 21 năm kiên cường giữ vững miền Nam, Anh đối mặt hung thần, cứu sống thêm hàng triệu người vô tội. Người lính của miền Nam tự do tử trận. Anh để lại người Vợ hiền, cuốc đất trồng khoai, chúng vẫn không tha, chà đạp nhân phẩm. Tôi lê bước chân vô định, gặp Mai làm Bạn Đường, nhìn mắt con thơ thấy hình người lính chiến. Anh đã để lại Con Thơ cho tôi được làm "Ba" mang tròn trách nhiệm. Con đã trưởng thành, mai này sẽ góp phần xây dựng lại Quê Hương. Tôi muốn níu lại thời gian để được thương vợ, thương con nhiều hơn nữa. Đã quá nửa đêm về sáng. Nhìn Mai ngon giấc ngủ thần tiên như "bé Nam" ngày đầu tới Mỹ, tôi ngồi im lặng bên bàn viết, đợi chờ sớm mai để được nhìn bình minh bừng sáng Phương Đông, được nhìn Mai thức dậy, mỉm cười, âu yếm nhìn chồng. Cuộc sống an vui. Ngót 20 năm rồi, không biết khóc, đêm nay tôi nhỏ từng dòng lệ, xúc động, bùi ngùi. Tôi đang sống và đang viết Bài Tình Ca của Một Người Tị Nạn. Nguyễn Văn LuậnChỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 21/Aug/2025 lúc 3:12pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23945 |
![]() ![]() ![]() |
Bên Sông Thạch HãnSông Thạch Hãn - Trao trả tù binh (1973) Sau khi nghiệm ra, chiến tranh không những đã hủy hoại một phần thân xác của chàng mà chiến tranh còn khiến cho tâm hồn nhạy cảm của chàng trở nên yếu đuối lạ lùng, Mạnh thường “chìm” vào cơn say để quên đi nỗi đau thầm kín của chàng! Nỗi đau của Mạnh khơi nguồn từ ngày mà những người trai miền Nam miệt mài trong cuộc chiến do Bắc quân chủ xướng đều mong đợi. Đó là ngày đình chiến 27-01-1973. Mạnh và đồng đội đều hiểu hiệp định ngưng bắn “da beo” là phi lý, đầy áp lực đối với quân nhân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và chỉ có lợi cho “phía bên kia”; nhưng dù sao, trong một thời gian, giảm thiểu số thương vong cho cả hai phía, cũng là một điều tốt. Đối với đa số quân nhân miền Nam khi xung trận, tâm trạng của họ như thế nào Mạnh không thể hiểu được. Nhưng riêng Mạnh, chàng xã thân ngoài trận địa do bổn phận và trách nhiệm thôi thúc chứ không phải được hun đúc bằng lòng thù hận như Bắc quân, khắc vào người “sinh Bắc tử Nam” hay là “gào” lên mỗi khi chào cờ “thề phanh thây uống máu quân thù”! Sở dĩ Mạnh không nuôi lòng thù hận những người bên kia chiến tuyến vì, trong đoàn quân xâm lăng từ phương Bắc thế nào cũng có Tuất – đứa em duy nhất mà Mạnh đã lìa xa khi Mạnh còn mang “tên cúng cơm” là Mùi. Mạnh nhớ rõ, năm 1954, Mùi đã khóc sưng cả mắt nhưng Mẹ vẫn quyết định ở lại vì Mẹ ngại ông bà Nội và ông bà Ngoại không biết nương tựa vào ai lúc tuổi già! Lý do Thân – Bố của Mùi và Tuất – để Tuất ở lại vì ông bà Nội sợ sau khi ông bà Nội qua đời không ai để tang, không ai nhang khói!
Từ
ngày rời Hải-Phòng đến ngày hưu chiến cũng gần 20 năm, Mạnh không biết ông bà Nội,
ông bà Ngoại còn sống hay đã về tiên cảnh và Tuất có được dịp chít vành khăn
tang cho Ông Bà hay không; nhưng Mạnh biết chắc chắn một điều là không thể nào
Tuất được ở lại làng để lo nhang khói cho Ông Bà; vì ngoài Bắc không có đạo luật
như miền Nam: Miễn dịch cho những người con trai duy nhất còn lại trong gia
đình. Mạnh nghĩ, Tuất, hoặc đã chết trên đường mòn Hồ-Chí-Minh, hoặc đang có mặt
trong đoàn quân vượt vùng phi quân sự để vào đến bờ sông Thạch-Hãn này. Vì nghĩ
như vậy, cho nên, mỗi khi lính bắt được tù binh, Mạnh thầm mong tù binh là Tuất
để Mạnh biết Tuất còn sống và có ngày Tuất sẽ được trao đổi tù binh chiến
tranh. Cũng có khi Mạnh mong tù binh không phải là Tuất để Mạnh tránh được cảnh
đau lòng khi thấy em vào tù mà chàng không thể can thiệp. Nghĩ quanh quẩn một
lúc, Mạnh cười lớn; bởi vì, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, làm thế nào Mạnh có
thể nhận diện được Tuất khi mà anh em xa nhau đến gần 20 năm! Lệnh
ngưng bắn chỉ vừa truyền đi trên đài phát thanh được vài phút, Mạnh nghe nhiều
tiếng reo hò, rồi một giọng Bắc nghe rất rõ: “Ngưng bắn
dzồi, anh em ơi!” Câu ấy được lập lại từ nhiều hướng khác nhau khiến Mạnh
nhận định được rằng đơn vị của chàng đang ở vào thế “cài răng lược” với đơn vị
địch. Mạnh rất yên lòng, vì “con cái” của chàng đều im lặng, giữ nguyên vị trí. Không
gian quanh bờ sông Thạch-Hãn trở nên tịch mịch, căn thẳng đến...rợn người! Bỗng
một giọng Bắc lại vang lên: “Các anh Quốc-Gia ơi!
Ngưng bắn d…z…ồ…i… Thích quá!” Đơn vị của Mạnh cũng vẫn im lặng. Một
lúc sau lại có tiếng từ hướng khác: “Các anh Quốc-Gia
ơi! Thèm thuốc quá! Cho một điếu.” Sau nhiều lần lập đi lập lại những
câu ấy mà cũng vẫn không được đơn vị lính Cộng Hòa đáp ứng, Bắc quân im lặng. Khi
ánh nắng mai vừa tỏa sáng cuối chân trời, những lời kêu gọi như lúc khuya lại
vang lên. Bất ngờ Mạnh nghe giọng Nam, sắc và gọn: “Đứng
lại!” Mạnh chụp ống liên hợp, chưa kịp bấm nút để liên lạc kiểm soát
tình hình thì đã thấy – cao khỏi những đọt tranh còn lóng lánh sương mai – lố
nhố nhiều nón cối! Ngay tức khắc, Mạnh và hiệu thính viên chụp vũ khí cá nhân.
Vừa khi ấy Mạnh nghe nhiều tiếng “đứng lại!” vang
lên từ nhiều phía. Mạnh đứng bật dậy. Thấy
Mạnh đứng lên, cả đơn vị của Mạnh cũng đứng lên, sẵn sàng trong tư thế cận chiến.
Nhưng, đồng loạt, Bắc quân đưa cao tay vẫy vẫy: “Ngưng
bắn dzồi. Anh em cả. Chúng tôi đâu có khí giới đâu. Đói và thèm thuốc quá, các
anh ủng hộ tý.” Những người lính miền Nam chất phát, đưa mắt nhìn
nhau, khó xử. Bắc quân vừa từ từ bước đến gần vừa cười cười: “Các anh biết không? Mấy hôm nay đói meo, mỗi ‘nần’ các
anh ăn, mùi đồ hộp thơm ‘nừng’, tụi này thèm quá!” Thấy quả thật địch
quân không mang súng, người lính miền Nam cả tin, hạ nòng súng, ùa đến bắt tay
Bắc quân. Sau vài phút vui mừng, lính miền Nam lấy thức ăn và thuốc hút trong ba-lô tặng lính miền Bắc. Lính miền Bắc cười, “khoe” hàm răng hô, rồi “hồ hởi” khui, ăn ngay tại chỗ. Có người hút hết điếu quân tiếp vụ do lính miền Nam tặng rồi mới thong thả khui thức ăn, ăn. Vừa ăn lính miền Bắc vừa nhìn từng đôi giày “sô” sờn gót, từng chiếc đồng hồ cũ kỷ hoặc cặp kính mát được dắt hờ vào túi áo rằn ri của người lính Thủy-Quân Lục-Chiến rồi trầm trồ một cách thèm thuồng: “Ôi Giời! Đồ đạc của các anh hiện đại quá! Cho sờ tý.” Lúc này người lính miền Bắc trông ngây ngô, vui thích và hiền lành như đàn cừu vừa tìm được cánh đồng cỏ non. Bất ngờ một tiếng “sát!” vang lên! Nhanh và “ăn khớp” nhau như đã được thực tập
nhuần nhuyển, những con cừu hiền lành ấy bỗng biến thành đàn hổ đói vừa ngửi được
mùi thịt tươi! Bắc quân phùng mang, trợn mắt, vung dao găm, đâm túi bụi vào
chính những người vừa cho chúng ăn! Nhiều thây người gục xuống. Mũ xanh, nón sắt
rơi ơ hờ cạnh gốc tranh câm nín. Máu đỏ vẽ thêm những đường kỷ hà trên quân phục
rằn ri!
Vài
tiếng súng rời rạc vang lên trước khi Mạnh đủ sức quay sang hiệu thính viên, có
ý dùng ống liên hợp ra lệnh đừng bắn. Một tay ôm vết thương nơi lồng ngực bên
trái, một tay Mạnh cố sức hất thân người của hiệu thính viên – đã bị tử thương
do đạn của Bắc quân – sang một bên để Mạnh xử dụng máy truyền tin. Vừa khi ấy,
một “anh nón cối” chạy ngang qua. Nghe tiếng máy truyền tin “rè rè, rẹt rẹt”,
“anh nón cối” dừng lại. Thấy Mạnh nằm nghiêng, đang áp tai vào ống liên hợp
trong tư thế liên lạc, “anh nón cối” hươi dao găm lên, tính đâm vào lưng của Mạnh.
Nhưng, bất ngờ Mạnh quay ra sau, ánh mắt đầy thảng thốt. Khi ấy “anh nón cối”
cũng vừa thấy trên vai của Mạnh mỗi bên hai gạch trắng lớn dính sát vào một
vòng tròn nhỏ cũng màu trắng và một vùng máu
đỏ đang nhuộm thắm phần trên của túi áo, nơi có bảng tên Nguyễn Văn Mạnh. Lần
đầu tiên trực diện với sĩ quan quân đội miền Nam, “anh nón cối” hơi lúng túng.
Nhưng thấy Mạnh bị thương, “anh nón cối” lấy lại bình tĩnh ngay. “Anh nón cối”
đá ngược vào mặt Mạnh làm Mạnh bật ngửa ra. Ngay lúc đó “anh nón cối” đâm vào
vùng bụng dưới của Mạnh và tiện tay, hắn xoay lưỡi dao! Mạnh quặn người, nghiến
răng, dồn hết tàn lực vào đôi tay, chụp cánh tay của “anh nón cối”, bóp chặt.
“Anh nón cối” bậm bờ môi thâm sì, dùng tay trái trợ lực, ấn dao găm sâu xuống,
sâu xuống nữa! Trong nỗi đau tột cùng, Mạnh nhìn “anh nón cối” bằng ánh mắt ngỡ
ngàng đến khó hiểu rồi buông tay, khép mắt! Mạnh
tỉnh lại khi chiếc trựa thăng mang dấu hồng thập tự “là đà”, sắp đáp xuống. Mạnh
cảm thấy ươn ướt nơi bờ môi. Mở mắt, Mạnh thấy y-tá đang dùng bông gòn thấm nước,
“rà” quanh bờ môi khô nứt của chàng. Thấy Mạnh tỉnh lại, y-tá dừng tay, giọng
reo vui: “Ông Thầy! Ráng đi ông Thầy! Trực thăng
tản thương tới rồi, ông Thầy.” Mạnh thều thào: “Con cái của tao bị nặng không?” Y-tá lắc đầu, tỏ
vẻ thiểu não: “Tơi bời hoa lá, ông Thầy!” Mạnh
thở dài. Trước khi chìm lại vào hôn mê, Mạnh còn nghe giọng bực tức của Cao, một
hạ sĩ rất gan lỳ của đơn vị – cũng bị thương – hỏi một tên thương binh cộng sản: “Đã có lệnh ngưng bắn, tại sao các anh còn tấn công chúng
tôi?” Vì thấy có sự hiện diện của vài tên Tiệp-Khắc trong ủy ban liên
hợp bốn bên, tên Việt cộng biết tính mạng của anh ta sẽ không đến nỗi nào và
cũng vì bản chất gian manh của người cộng sản, anh ta phát ngôn không ngượng miệng: “Chúng tối tấn công các anh bao giờ? Vết thương nơi
chân tôi ‘nà’ do đạn M16 của các anh bắn chứ có ai nghe hoặc thấy súng của
chúng tôi nổ chưa? Các anh bắt tôi ‘nà’ các anh vi phạm hiệp định ‘Ba-Nê’.
Chúng tôi sẽ ‘chanh’ đấu để đưa sự kiện này ‘nên’ ủy ban ‘niên’ hợp bốn bên.” Một
quân nhân thều thào: “Cao! Đang không, đ.
m., sao mày dở nắp ống cống lên chi vậy?” Bao
nhiêu năm rồi, nhưng mỗi khi nhớ lại câu nói đầy ý nghĩa của một thuộc cấp, Mạnh
cũng vẫn phải cười vì sự thâm thúy của chàng “lính thủy đánh bộ”. ****** Chiếc
phản lực của hãng hàng không Northwest càng bay xa lục địa Hoa-Kỳ bao nhiêu Mạnh
càng cảm thấy bồi hồi bấy nhiêu. Mối tình cảm này tương tự như tâm trạng của Mạnh,
năm 1982, khi Mạnh được phóng thích khỏi trại cải tạo, ngoài Bắc, đáp xe lửa về
Nam. Khi
chuyến xe lửa vừa qua khỏi cầu Bến-Hải, nỗi buồn sâu kín không biết từ đâu “ùa”
đến, phủ ngập cả hồn chàng! Nghĩ ngợi một lúc Mạnh mới tìm ra nguyên nhân gợi
buồn là chiếc cầu Hiền-Lương! Ranh giới phân chia đất nước đã được xóa trên bản
đồ, cũng như hai vết sẹo nhăn nhúm trên cơ thể của Mạnh đã lành lặn; nhưng biết
đến bao giờ dòng sông đẩm máu này mới thoát khỏi tính chất oan nghiệt của nó;
cũng như biết đến khi nào những tế bào nơi hai vết sẹo của Mạnh mới trở lại trạng
thái bình thường! Khi
xe lửa qua khỏi ga Tuy-Hòa một chốc, Mạnh khóc lúc nào Mạnh cũng không hay! Nước
mắt của Mạnh bây giờ chỉ âm thầm lăn dài trên hai gò má trũng sâu chứ không
tuôn trào cùng tiếng thét gào điên loạn của thằng Mùi trong một đêm hãi hùng
cách nay xa lắm. Đêm
hãi hùng đó, trên chuyến tàu từ Tuy-Hòa về Nha-Trang, Mùi ngồi cạnh Bố, nhớ lại
hương vị của biển và những món ăn tuyệt vời mà người bạn gái của Bố ở Tuy-Hòa nấu
đãi hai Bố con nhân dịp Mùi thi đậu trung học đệ nhất cấp. Tội nghiệp Bố và người
đàn bà đang muốn chiếm vị thế của Mẹ! Bao nhiêu tiền dành giụm Bố và bà ấy đều
vui thích và hãnh diện đưa Mùi đi may áo quần, mua sách vở, dày dép, chuẩn bị
cho Mùi làm “cậu tú”, vì Mùi quyết định “học nhảy” lớp đệ tam. Nghĩ đến sách vở
và quần áo mới, Mùi cảm thấy thương Bố quá, vỗ nhẹ vào vai Bố: “Bố! Mai mốt học xong con cũng đi Biệt-Động-Quân giống Bố,
nha, Bố!” Thân giật mình: “Bố mày!
Cho mày ăn học để mày làm ông kia ông nọ chứ bộ để đi lính giống tao à?” Mùi
ngây thơ: “Thế Bố muốn sau này con làm gì?” Có
lẽ đã “nuôi” ước vọng này từ lâu, Thân đáp ngay: “Làm
bác sĩ, kỹ sư, luật sư, thiếu gì nghề danh giá, con.” Mùi lắc đầu: “Nhưng con muốn đi lính cơ! Đi lính như Bố oai
thấy mồ, ai thấy cũng phải chào.” Thân chấm dứt ước mơ của Mùi: “Thôi, về lo học hành, đừng nói nhảm!” Hai
Bố con im lặng được một chốc, bỗng xe lửa hãm nhanh tốc lực. Nhiều tiếng “lao
xao” từ nhóm người đi buôn: “Rồi! Tụi nó chận đường
nữa rồi!” Thấy vẻ hốt hoảng hiện lên mặt mọi người nhưng Mùi chẳng biết
chuyện gì đang xảy ra. Bỗng Thân chụp cái xắc có bộ quân phục giấu kín trong ấy,
liệng qua cửa sổ toa xe, trước đôi mắt ngơ ngác của Mùi. Thân nắm chặt tay Mùi,
giọng lo âu, nói vào tai Mùi: “Coi chừng chúng nó
bắt thanh niên đi theo chúng nó. Có gì con cố chạy thoát, đừng để chúng nó bắt,
nghe chưa?” Lúc này Mùi mới lờ mờ hiểu và sợ. Xe
lửa dừng hẳn. Những người ngồi gần cửa bắt đầu rời xe với thái độ rất sợ hãi.
Những người ngồi bên trong cũng tuần tự đi ra. Tất cả đứng gom lại nơi thửa ruộng
khô. Mấy người mặc đồ bà ba đen, tay xách đèn lồng – không biết xuất hiện từ
đâu – bắt đàn bà, người già và trẻ con đứng riêng; đàn ông đứng riêng, rồi “đồng
chí chính trị viên” bắt đầu tuyên truyền. Giữa
lúc tinh thần mọi người bị chi phối và căng thẳng đến tột độ, một tiếng hô
“nghi…ê…m…” vang lên. Phản ứng tự nhiên của những người lính chuyên nghiệp,
Thân – cũng như những quân nhân khác đang mặc thường phục – vội đứng thẳng, cụp
hai chân vào nhau trong thế nghiêm thì nhóm Việt-Cộng nhận ra ngay ai là lính
miền Nam. Việt-Cộng nhào đến, bắt ngay những người lính không vũ khí ấy đứng
riêng ra! Trong
khi Mùi run sợ, chỉ biết nhìn Thân lủi thủi tuân lệnh Việt-Cộng thì “đồng chí
chính trị viên” điểm điểm ngón tay trỏ vào toán lính V.N.C.H., mặt hắn xoay về
nhóm thường dân, lên án: “Đồng bào thấy rõ, đây
là những tên phản động, tay sai của đế quốc Mỹ, mang tâm liếm gót giày bọn
‘sen đầm’ quốc tế, phản lại dân tộc. Chúng nó đáng tội chết! Chúng nó phải đền
tội trước nhân dân!” Nghe
“chính trị viên” phát biểu, toán lính V.N.C.H. đưa mắt nhìn nhau, ngầm hiểu rằng
cuộc đời của họ chắn chắn sẽ kết liểu tại đây! Đã vậy thì liều! Thân hô lớn “Biệt-Động-Quân! Sát!” Như nghe một mệnh lệnh
khi xuất quân, những người lính V.N.C.H. vừa chồm tới, chưa kịp thực hiện chiến
thuật cận chiến với toán Việt-Cộng thì khẩu đại liên – không ai biết Việt-Cộng
đặt trên mui xe lửa từ lúc nào – quạt từng loạt đạn vào toán lính V.N.C.H.
không khí giới, trước sự kinh hoàng của mọi người! Mùi
hét lên “Bố! Bố ơi! Bố!” và dợm người muốn
chạy đến ôm xác của Thân; nhưng một phụ nữ kéo Mùi lại: “Im! Mày muốn tụi nó giết mày luôn hả?” Mùi hãi
quá, nín thinh. Đến khi mấy người mặc đồ bà ba đen thổi tắt mấy ngọn đèn lồng
và biến vào bóng đêm, mọi người mới ùa đến bên các nạn nhân. Mùi gục đầu lên
xác của Thân và kêu khóc thảm thiết. Người phụ nữ lúc nãy lại đến, ai ủi, dỗ
dành Mùi. Nhưng Mùi vẫn cứ khóc cho đến khi khan cả tiếng mới chịu lặng yên.
Mùi ngồi giậy, khoanh tay vòng hai đầu gối rồi gục đầu lên, thút thít. Thỉnh
thoảng Mùi nhìn xác thân bê bết máu của Bố rồi quẹt nước mắt! Sau
bao nhiêu biến thiên của cuộc sống, Mùi tưởng Mùi đã quên được đêm kinh hoàng
đó, nhưng không! Mỗi khi nhớ lại Mùi vẫn còn xúc động, lặng lẽ lau nước mắt.
Mùi thở dài! Từ một thằng Mùi côi cút, Mùi lăn xả vào đời với tên mới – Mạnh –
như ngầm nhắc nhở mình luôn luôn hướng về tương lai với tinh thần cứng rắn và
niềm tự tin trong một cơ thể tráng kiện. Nhưng,
sau lần bị thương vào ngày ngưng chiến để người vợ trẻ của chàng lặng lẻ ra đi
– vì hình hài của Mạnh đã mất khả năng thiên bẩm của người đàn ông – Mạnh tự biết
rằng lòng tự tin trong chàng không còn nữa! Và giờ đây, sau bao nhiêu năm tù đầy
ngoài Bắc-Việt, cơ thể chàng còm cỏi, tâm hồn chàng rã rời, mất hết sức phấn đấu,
Mạnh không hiểu chàng còn lý do gì để hướng vế ngày mai! Vì nghĩ như vậy, Mạnh
nhận biết rằng, lẫn trong những dòng nước mắt khóc Cha lần này còn có những giọt
lệ Mạnh khóc cho chính cuộc đời của chàng! Để
lòng bớt ngậm ngùi với quá khứ, Mạnh đứng lên, chồm ra cửa sổ, hít vào buồng phổi
luồng gió trong lành của Vịnh Đại-Lãnh im lìm. Xe càng xa xứ “nẫu” bao nhiêu
thì nỗi buồn càng lui xa trong lòng Mạnh bấy nhiêu. Và cuối cùng là khối tình cảm
bồi hồi, xúc động âm ỷ nổi lên trong lòng Mạnh. Đến khi xe lửa dừng tại ga
Nha-Trang, khối tình cảm ấy mới biến thành sự lạc lõng, sự cô đơn như dạo nào
chàng và Bố vừa rời tàu “há mồm” sau nhiều ngày rời bến Hải-Phòng! Ra khỏi ga xe lửa, Mạnh ngơ ngác, không biết về đâu; vì Mạnh lớn lên và khởi sự binh nghiệp từ trường Thiếu-Sinh-Quân! Thấy nhiều kẻ ăn xin bám theo hành khách, Mạnh chạnh lòng, nhưng chợt nhớ số tiền quá ít trong túi, Mạnh lắc đầu, nhìn lơ chỗ khác. Bất ngờ Mạnh chú ý đến tấm thẻ nhựa nhỏ được gắn nơi ngực của một hành khất mù đang ngồi im lặng cạnh mấy chiếc xích-lô, tay đưa gáo dừa ra xin. Nhìn kỷ, Mạnh giật mình. Tấm thẻ nhựa ấy là thẻ căn cước quân nhân V.N.C.H! Mạnh bước đến, hỏi nhỏ: “Sao anh dám đeo căn cước quân nhân? Anh không sợ à?” Người hành khất đáp: “Tôi còn gì để họ đầy ải nữa đâu mà sợ!” Mạnh lấy trong túi quần ít tiền, khom người, nhét nhanh vào tay người ăn xin: “Anh cầm tạm. Tôi không có nhiều.” Ngay lúc đó, một người ngồi trên Honda hỏi Mạnh: “Mới được thả về hả? Muốn về đâu?” Mạnh ngạc nhiên, đứng lên: “Anh hỏi tôi, phải không?” Người ngồi trên Honda cười: “Chứ hỏi ai nữa bây giờ! Anh nhìn quanh đây xem ai giống anh không thì biết hà!” Mạnh ngần ngừ: “Tôi không có nơi nào để về cả. Số tiền còn lại trong túi tôi chắc chắn không thể nào đủ trả cho cuốc xe từ đây ra nghĩa trang Phật-Giáo.” Người ngồi trên Honda cười lớn: “Bộ không có chỗ nào về rồi ra nghĩa trang ngủ nhờ sao, cha nội?” Mạnh cũng cười: “Tôi muốn thăm mộ của Bố tôi.” Người ngồi trên Honda cho xe nổ máy, thúc: “Trời đất! Thôi, lên lẹ đi, cha.” Trong khi cho xe chạy ra cầu Hà-Ra, người lái tự giới thiệu là Vũ, cựu Mũ Nâu. Sau những chuyến xe thồ thường nhật, trước khi về nghỉ, Vũ thích ghé ga xe lửa đón tù cải tạo mới được tha, đưa họ về với gia đình mà không nhận thù lao. Trường hợp của Mạnh, vì thấy nghĩa cử của Mạnh đối với người hành khất và hiểu hoàn cảnh của Mạnh, Vũ xúc động, đề nghị Mạnh về ở tạm nhà Vũ, Vũ sẽ tìm người cho Mạnh dạy kèm Anh văn, kiếm tiền… Dòng
ý tưởng của Mạnh vừa đến đây, bất chợt giọng nhỏ nhẹ của cô tiếp viên hàng
không đưa Mạnh trở về thực tại: -
Thưa ông, ông dùng loại nước giải khát nào ạ? Mạnh
cười và xin một ly Sprite. Vị ngòn ngọt, chua chua và cảm giác mát lạnh của vài
ngụm Sprite đem đến cho Mạnh sự dễ chịu và thoải mái. Nhìn ra cửa sổ phi cơ, thấy
từng áng mây trắng xóa, Mạnh có cảm tưởng như chiếc phi cơ bay rất chậm. Đôi
lúc Mạnh tưởng như phi cơ đứng yên và mây trôi lặng lờ. Mạnh nhận ra rằng, thân
phi cơ, cũng như thân xác của chàng, so ra rất nhỏ bé trong không gian bao la
này. Phi
cơ lên cao, lên cao nữa và vượt khỏi nhiều tầng mây để Mạnh thấy, phía trên phi
cơ, bầu trời trong xanh như biển của những ngày sóng lặng; và dưới lườn phi cơ,
mây trắng kết liền nhau, trông như cánh đồng tuyết. Cuối tầm mắt, bầu trời xanh
và “cánh đồng tuyết” tiếp giáp nhau trông như vòng chân trời mà Mạnh thường thấy
vào những chiều lang thang trên bờ biển ở trại tỵ nạn Ga-Lăng. Thời
gian ở trại Ga-Lăng, tuy thiếu thốn, cô đơn, buồn nản nhưng Mạnh không phải lo
bị mất việc, không tiền trả bills; Mạnh
cũng không phải làm quần quật như từ ngày đến Mỹ. Ở
Việt-Nam, trình độ Anh ngữ của Mạnh được kể là khá, dạy kèm học sinh để kiếm sống
và để dành tiền vượt biên. Vì vậy, Mạnh cứ hy vọng khi đến Mỹ, Mạnh sẽ tìm được
việc làm tương đối nhẹ nhàng và lương khá. Không ngờ, khi đến Mỹ, Mạnh chỉ tìm
được việc làm ở một body shop. Khi
một người bạn về Bắc thăm nhà, Mạnh nhờ người ấy tìm cách liên lạc về làng xưa,
tìm Mẹ và Tuất; vì năm 1954 ra đi, Mạnh còn quá nhỏ, không thể nhớ địa chỉ.
Cũng vì lý do đó, khi bị cộng-sản Việt-Nam (csVN) giải ra Bắc, Mạnh không thể
liên lạc về gia đình. Sau
khi người bạn giúp liên lạc được với bà Thân và Tuất, Mạnh phải làm thêm việc
giữ an ninh cho một nhà kho, vào cuối tuần, để có phương tiện giúp Mẹ và Tuất.
Lúc này Tuất đã có ba người con trai; đứa lớn tử trận khi bị csVN đưa sang
Cao-Miên làm “nghĩa vụ quân sự”. Suốt
thời gian liên lạc được với Mạnh, bà Thân và Tuất chưa bao giờ cho Mạnh biết sự
thật về những cái chết đau thương của ông bà Nội/Ngọai. Và Mạnh cũng chưa dám
cho bà Thân và Tuất biết csVN đã dùng thủ đoạn đê hèn để giết ông Thân – vì ngại
thơ bị kiểm duyệt và “nhà nước” sẽ gây khổ nạn cho bà Thân. Đến
khi Mạnh về làng xưa, lần đầu tiên chỉ có ba Mẹ con ăn cơm với nhau, tại nhà Tuất,
bà Thân mới bùi ngùi kể lại cho Mạnh nghe về sự “ra đi” của ông bà Nội/Ngoại và
Mạnh cũng có cơ hội thuật lại cái chết đầy bi thương của ông Thân! Cái
chết của ông Thân đã khắc sâu vào tâm khảm của Mạnh. Giờ đây lại biết sự thật về
bốn đại tang, Mạnh bàng hoàng, đau xót vô cùng! Giữa khi gia đình đang đau buồn,
bất ngờ một công an phường xuất hiện, đưa giấy, bảo Mạnh sáng mai phải đến phường
“làm việc”. Mạnh sững sờ nhìn anh công an bằng đôi mắt mở lớn, đầy ngỡ
ngàng/hoảng hốt... Thấy
ánh mắt của Mạnh, Tuất giật mình. Ánh mắt ấy như dội vào tâm thức để Tuất phải
bận tâm, phải nghĩ ngợi! Đêm
đó, sau khi anh em nằm bên nhau trên chiếc phản, hàn huyên cho đến gần sáng, Mạnh
rơi vào giấc ngủ một cách dễ dàng. Riêng Tuất cứ trằn trọc mãi, không ngủ được,
vì bị ánh mắt khó hiểu của Mạnh lúc chiều ám ảnh. Tuất cố vận dụng trí nhớ để
xem Tuất đã thấy ánh mắt ấy ở đâu, vào dịp nào, nhưng đành chịu! Rồi Tuất hồi
tưởng lại những cuộc đụng độ dữ dội với quân miền Nam xem những nạn nhân của
nòng súng, lựu đạn và mũi dao/mã tấu của Tuất chết như thế nào và động tác của
mỗi nạn nhân trước khi chết ra làm sao! Nhưng vì giết nhiều “kẻ thù” quá, Tuất
không thể nhớ được “kẻ thù” nào có ánh mắt lạ lùng đó! Khi
Tuất thiu thiu ngủ, ánh mắt ấy lại hiện về. Tuất không dám mở mắt, cố tập trung
tư tưởng vì ngại ánh mắt ấy sẽ biến đi. Tuất thấy sau đôi mắt dường như thấp
thoáng loại quân phục có tích cách ngụy trang của lính miền Nam. Tuất vận dụng
tâm trí nhiều hơn nữa và từ từ nhận ra những đường kỷ hà màu xanh, nâu, đen và
trắng chen lẫn nhau. Đúng rồi! Quân phục của Lính Thủy Đánh Bộ! Ô, lạ không! Tại
sao lại có vết máu tươi nơi ngực trái và ống liên hợp kêu “rè rè, rẹt rẹt”…Người
Tuất toát mồ hôi. Đúng là ánh mắt hoảng hốt/ngỡ ngàng của “tên” sĩ quan “Ngụy”
bị Tuất đâm chết cạnh máy truyền tin, bên kia bờ sông Thạch-Hãn, vào hôm có lệnh
hưu chiến!... Vừa
khi ấy, Mạnh thức giấc, than nóng và đèn sáng Mạnh khó ngủ. Tuất tăng tốc độ quạt
máy và khuyên Mạnh nên cởi áo thun để ngủ cho mát. Tuất đến công tắc điện, có ý
đợi Mạnh cởi áo thun xong rồi mới tắt đèn. Nhưng, khi chiếc áo thun trắng vừa
vuột qua khỏi vai của Mạnh, Tuất nhíu mày vì thấy vết sẹo nơi ngực trái của Mạnh.
Tuất hỏi: -
Anh “nàm” gì mà có vết sẹo dài thế? Như
suốt mấy ngày qua, với dụng ý không muốn nhắc đến quá khứ, Mạnh đùa: -
Anh có cả…ngàn vết sẹo chứ phải một đâu, chú! Biết
Mạnh đùa, Tuất cũng đùa theo: -
Người có cả ngàn vết sẹo thì… “cái ấy” cũng mang sẹo rồi! Hai
anh em cười vang. Trong phút giây vui với đứa em mấy mươi năm xa cách, Mạnh cảm
thấy trẻ lại như ngày nào hai anh em ở truồng tắm sông, cho nên quên giữ ý: -
Không phải ngay “cái ấy” mà gần gần thôi. Tuất
cũng vô tình, muốn kéo dài niềm vui: -
Đâu, đưa em xem nào! Mạnh
trật lưng quần đùi ra. Thấy vết sẹo màu nâu nổi cộm ở vùng bụng dưới của Mạnh,
Tuất hoảng kinh, đứng sững! Đầu óc của Tuất xoay vòng, muốn nổ tung! Ánh mắt
lúc chiều, vết sẹo bên trái của lồng ngực và vết sẹo ở bụng dưới…Lẽ nào! Tuất
khổ sở, lắc đầu nhiều lần rồi nghiêm giọng: -Anh
Mùi! (Tuy biết Mùi đã đổi tên, nhưng bà Thân cũng như Tuất, đều muốn gọi Mạnh
là Mùi; vì tên Mùi nghe gần gủi, thân thiết hơn.) Hồi trước anh là Lính Thủy
Đánh Bộ, đúng không? -
Anh đã dặn chú hoài. Tìm hiểu làm chi những chuyện ấy? -
Thôi được. Em chỉ yêu cầu anh trả lời cho em một chữ “có” hay “không” mà thôi.
Chịu không? Mạnh
quen miệng “Okay”. Tuất hỏi: -
Ngày đình chiến, đơn vị của anh có đóng ở bên kia sông Thạch-Hãn hay không? Mạnh
hơi hoang mang về sự tò mò của Tuất, đành đáp “hàng hai”: -
Nếu chú cho anh biết lý do gì chú hỏi anh câu ấy thì anh sẽ trả lời. Tuất
không trả lời, vội tắt đèn và hấp tấp mở cửa trước: -
Thôi, gần sáng rồi. Anh nằm nghỉ. Em đi có tý việc. Em sẽ về ngay. ****** Sau
khi nghe Tuất kể rõ câu chuyện, bà Thân lặng người một lúc rồi thở dài: -
Tuất à! Bất cứ điều gì xảy ra trên đời đều do “duyên” và “nghiệp” cả. Trường hợp
của con và anh Mùi cũng chỉ là một trong muôn vàn cảnh oái ăm trên đất nước
điêu linh này. Con biết hối và biết thương anh Mùi, thế là đủ. -
Nhưng làm thế nào con có thể sống với sự ray rức này, Mợ? -
Ý con muốn như thế nào? -
Con muốn nói thật với anh Mùi. -
Không nên, con à! Có bao giờ anh Mùi muốn nhắc chuyện cũ đâu. Vả lại, bây giờ
chỉ con và Mợ biết chuyện, Mẹ con mình đau lòng; nếu anh Mùi biết nữa, chỉ thêm
một người nữa đau lòng chứ có giải quyết được gì đâu, con! -
Nhưng con cũng có nhiều chuyện ấm ức, con muốn nói với anh Mùi. Nhờ
những lá thư ngày trườc Tuất thường gửi tay từ trong Nam về cho Bà, bà Thân hiểu
tâm trạng của Tuất. Bà đáp: -
Con có thể nói với anh Mùi những chuyện ấm ức đó. Nhưng, Mợ nghĩ, con không
cần phải nói với anh Mùi về lỗi lầm của con ở bên kia sông Thạch-Hãn, vào hôm
ngưng chiến! -
Vâng. Con hiểu. ****** Trên
chuyến xe lửa Thống Nhất, Mạnh và Tuất ngồi uống bia nơi toa hàng ăn vào lúc xế
trưa, vắng khách. Nhìn quanh không thấy ai khác, ngoài người ngồi xa xa sau
quày tính tiền, Tuất tiếp, giọng vẫn nhỏ và đều: -
Trong hàng ngũ bộ đội, biết bao nhiêu thằng như em, nhưng chỉ sợ gia đình bị trả
thù cho nên ít đứa dám ra hồi chánh; bởi thế, anh đừng tưởng ai ở ngoài Bắc
cũng đều là cộng-sản cả đâu. -
Nếu anh nghĩ như thế, anh đã không về. Ngưng
một chốc, Mạnh tiếp: -
Dù sao thì họ cũng là kẻ đã thắng. -
Thắng mẹ gì! Hồi đó nếu Mỹ cho B52 “rải thảm” thêm một hai trận nữa là bọn
chúng đầu hàng vô điều kiện, cũng giống như Nhật hồi thế chiến thứ hai rồi! -
Thế Tuất không hãnh diện được có mặt trong đoàn quân chiến thắng à? -
Hãnh diện gì! Thời chiến, ngoại trừ con cháu bọn “chóp bu”, thằng thanh niên miền
Bắc nào khỏi vào bộ đội? Khi đã xung trận thì giết hoặc bị giết chứ có ai muốn
thế đâu, anh! Mạnh
cười cười, liếc chỗ xâm bốn chữ “sinh Bắc tử Nam” trên tay Tuất. Hiểu Mạnh nghĩ
gì, Tuất xòe bàn tay, nhìn vào rồi bưng chai bia, “tu” một hơi, tiếp: -
Anh đã thấy những thằng bộ đội bị xích chân vào xe tăng, vào thân cây hoặc vào
trọng pháo chưa? Đấy, vô nhân đạo thế ấy mà tụi bộ đội vẫn phải để cho xích, huống
chi xâm bốn chữ định mệnh này! Mạnh
bóp nhẹ tay Tuất. Tuất xoay ngược bàn tay, nắm tay Mạnh rất lâu. Hai anh em đều
yên lặng. Không phải đến bây giờ Tuất mới cảm nhận được tình anh em ruột thịt
nơi Mạnh; nhưng quả thật bây giờ Tuất mới cảm thấy nhẹ nơi lồng ngực, vì Tuất
đã nói ra được phần nào những điều ray rức trong lòng chàng! Tuất
đứng lên, đến bên cửa sổ, nhìn mong ra vùng không gian bát ngát. Cánh đồng xa
xa lúa đã chín vàng. Từ lúc đó, trên chuyến tàu Thống-Nhất theo Mạnh về Nam để
cải táng hài cốt của ông Thân, lòng Tuất thanh thản như những áng mây cuối trời./. ĐIỆP MỸ LINH |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23945 |
![]() ![]() ![]() |
Quả Đạn 130 Ly Và Chiếc Hố Cá Nhân![]() Quốc lộ 14 nối liền thành phố Pleiku đi ngang qua Kontum và cuối cùng là Tân Cảnh thuộc quân Dakto. Từ Tân Cảnh có một ngả ba, một hướng đi về Quận Dakto, một hướng về căn cứ Benhet, căn cứ của lực lượng Biệt Động Quân Biên phòng trú đóng ngay sát ngả ba biên giới Việt – Miên - Lào. Con đường từ ngả ba quốc Lộ 14 nối liền với căn cứ Benhet không còn là con đường trải nhựa nữa, mà là con đường đất lẫn đá gồ ghề dằn sốc, chiều ngang nhỏ hẹp chỉ vừa đủ cho hai xe chạy ngược chiều tránh nhau khó khăn lắm. Nó chạy ngang qua Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 42 Bộ Binh, trực thuộc Sư Đoàn 22, đang có nhiệm vụ hành quân, an ninh lãnh thổ, tiếp đến là căn cứ Phượng Hoàng, một căn cứ không lớn lắm, nhưng có một sân bay đủ để máy bay C-130 đáp xuống tiếp tế lương thực và quân trang vũ khí cho cả vùng. Con đường được tiếp nối đến căn cứ Hỏa Lực Dakmot và sau cùng là căn cứ Benhet. Căn cứ Dakmot nằm ngay trên một đỉnh đồi nhỏ, vì diện tích ngọn đồi hẹp cho nên buộc lòng phải để con đường chạy ngang chính giữa căn cứ và chia đôi pháo đội 105 ly của tôi ra làm hai, ba khẩu đại bác bên này đường và ba khẩu bên kia đường. Một cây cầu sắt bắc ngang con sông dưới chân đồi, hai bên bờ sông vách núi đá cao và dòng nước chảy siết vào mùa mưa. Tuy ngọn đồi nhỏ nhưng vách núi thẳng dốc, con đường phải quanh co hai vòng mới lên tới đỉnh đồi. Từng ba tháng một, các pháo đội trong Tiểu Đoàn của tôi phải luân phiên di chuyển từ Bồng Sơn, Tam Quan đến đây để tăng phái cho mặt trận phía bắc Kontum. Vì điạ thế hiểm trở và vị trí súng trên cao cho nên tôi cũng yên tâm địch khó có thể tấn công bằng chiến thuật biển người. Bên ngoài vòng đai căn cứ hỏa lực Pháo Binh này còn có một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng giữ an ninh. Cứ mỗi chu kỳ ba tháng tăng phái một lần và rời căn cứ sau khi có Pháo Đội khác đến thay thế, ba tháng luôn mãi bên núi rừng buồn hiu quạnh với những tác xạ bất kể đêm ngày khi có yêu cầu của quân bạn. Ở đây cũng đúng nghĩa của “tiền đồn biên giới” vì không còn bao xa nữa là vùng Tam Biên ngả ba biên giới Việt Miên Lào. Những buổi chiều xuống mau, mây phủ ngay trên đỉnh đầu lòng thấy thấm thía chi lạ cho nên chợt thấy: “Núi sông ôm kín đời chinh chiến. Tiền đồn heo hút nặng gánh vai. Mây giăng trắng xoá mờ nhân ảo. Se sắt bên lòng một chí trai….” Đêm nay có những dấu hiệu khác thường hơn mọi đêm, các đơn vị Địa Phương Quân xung quanh Quận Dakto nhiều lần chạm địch, hay có nhiều lần báo cáo nghe tiếng xe tăng chạy trong vùng, nhiều hướng khác các điểm phục kích của lính Bộ Binh Trung Đoàn 42, cũng như của Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù xin tác xạ nhiều lần, tôi đã liên tưởng tới một trận chiến ác liệt hơn. Từ 10 giờ đêm Pháo Đội tôi đã phải tác xạ liên tục yểm trợ cho nhiều cánh quân một lúc, bao nhiêu lần đóng ở đây, tôi chưa bao giờ chứng kiến một sự yểm trợ liên tục nhiều giờ như thế này, các cánh quân đều chạm địch và cũng thấy lo âu khi nghe báo cáo có tiếng xe tank chạy. Chừng quá nửa khuya, được nghỉ ngơi một chút thì đã sang ngày mới. Một ngày lịch sử và cũng là ngày cuối cùng trên vùng đất này cho đến hôm nay. Bốn giờ sáng ngày 24 tháng 4 năm 1972 tất cả các khẩu đại bác đều nhã đạn liên tục không phải do yêu cầu tác xạ của Bộ chỉ Huy Trung Đoàn 42 mà là của Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn 22. Vì tình hình chiến sự tại đây nên Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Tiền Phương được di chuyển từ Quy Nhơn đến đặt ngay trong Trung Tâm Hành Quân của Trung Đoàn 42 sát ngay tại thị trấn Tân Cảnh. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn bị tấn công trực tiếp mà trong đó có đơn vị cấp cao của tôi cũng bị tấn công theo, đó là Pháo Binh Sư Đoàn, thế thì làm sao mà tôi không dồn hết sức mình để yểm trợ cho được. Căn cứ Hoả Lực Dakmot của tôi nằm cách Tân Cảnh 11 cây số, bắn yểm trợ xem như mút tầm, xử dụng thuốc nạp hết cỡ, và mỗi viên đạn rời khỏi nòng súng là mỗi sự gầm thét tung trời chát chúa, cả khẩu đại bác nhấc tung lên rồi rớt xuống do sự giật lùi của nòng súng. Bất cứ giá nào và bất cứ yêu cầu nào tôi cũng cố gắng thỏa mãn, tôi trưng dụng tất cả mọi người lính trong Pháo Đội dù họ không có nhiệm vụ tác xạ vẫn phải vác đạn tháo đạn tiếp tế cho từng khẩu đội. Các đường khương tuyến của các khẩu đại bác chắc cũng đã mòn đi khá nhiều, vì toàn là xử dụng thuốc nạp 7 là loại thuốc nạp tối đa. Người lính khá mệt mỏi, cả căn cứ được bao trùm bầu khói súng màu trắng đục rất khó thở. Các cánh quân bộ binh bên ngoài lần lượt không liên lạc được qua các Tiền Sát Viên Pháo Binh mà tôi yểm trợ trực tiếp, tuy nhiên cũng nhờ sự liên lạc chung trong cùng một hệ thống truyền tin cho nên tôi vẫn còn biết được giờ này tình hình ra sao, ai đang ở đâu trong căn cứ, ai đã bung được ra khỏi căn hầm chỉ huy của Trung Tâm Hành Quân. Tôi bắt được liên lạc với một người Sĩ Quan liên lạc Pháo Binh Nhảy Dù, và tôi được lệnh bắn yểm trợ cho Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù đang trong vùng, mà trước đây họ có súng đại bác riêng của họ, nhưng giờ thì không biết tại sao tôi phải quay qua yểm trợ cho Nhảy Dù, tôi đoán bên Sư Đoàn của tôi vì đã mất liên lạc cho nên phải dồn hỏa lực cho Nhảy Dù. Người Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh Nhảy Dù này sau khi nói chuyện trên hệ thống vô tuyến thì cả hai nhận ra nhau là cùng khóa 22 Pháo Binh. Sáu năm sau khi ra trường bây giờ mới được gặp lại trên hệ thống truyền tin, và nhất là đang trên trận chiến tối tăm mặt mày như thế này cho nên chỉ biết trong xúc động mừng mừng tủi tủi chưa kịp nói gì với nhau thì phải nhận điện văn xin tác xạ từ một Sĩ Quan Tiền Sát Viên (thông thường gọi là Sĩ Quan Đề Lô) Pháo Binh Nhảy Dù khác do anh ta điều hợp chuyển cho tôi. Tiếng người Sĩ Quan Đề Lô oang oang trong máy với vẻ khẩn cấp hối hả lắm, tôi kiểm soát vị trí đứng của anh ta (toạ độ điểm đứng của Đề Lô), tôi thấy rất gần với toạ độ xin tác xạ, tuy nhiên vẫn còn có thể bắn được và tôi đang tin tưởng toạ độ xin tác xạ và toạ độ điểm đứng do anh ta chấm là chính xác. Sau khi nhiều loạt đạn điều chỉnh, đến lúc bắn hiệu quả thì tôi cho ngưng tác xạ vì nó chỉ cách quân bạn không đầy 50 mét mà tầm sát hại của đạn 105 ly đã đủ để làm chết người. Tôi đích thân cầm máy liên lạc với Đề Lô “tôi không thể bắn cho anh được nữa vì đã quá gần quân bạn”. Người Sĩ Quan Đề Lô trả lời trực tiếp trên hệ thống vô tuyến một cách rất dõng dạc và cương quyết: “Anh cứ bắn đi, bắn cho đến khi nào không còn nghe tôi nói nữa thì coi như tôi đã chết”. Tôi tưởng chừng như là chuyện huyền thoại trong phim xinê hay tôi nghe lầm; nhưng không, tôi đã thực sự xúc động và nghẹn lại trong vài giây! Tôi nhắm hai mắt và như trước mặt tôi cảnh tượng khủng khiếp sẽ phải xảy ra… Câu nói rất khí tiết và anh hùng của một Sĩ Quan Pháo Binh Nhảy Dù dù phải hy sinh để cứu đơn vị, và tôi tin chắc tình thế đang bị một đại đơn vị địch tràn ngập. Tôi không còn một sự chọn lựa nào khác với những loạt đạn bắn hiệu quả này và hy vọng sẽ cứu được quân bạn; và cũng cầu xin thật an toàn cho sinh mạng của người Sĩ Quan Đề Lô này. Sau khi chấm dứt tác xạ, đích thân tôi cầm máy gọi danh xưng truyền tin của người Đề Lô, nhưng gọi bao nhiêu lần cũng không thấy trả lời. Tôi lặng người đi trong đôi phút và biết rằng anh đã gục xuống bởi chính những quả đạn đại bác của tôi mà do chính anh yêu cầu. TÔI ĐÃ GIẾT BẠN TÔI MẤT RỒI… Cũng vào giờ phút này thì tôi không còn liên lạc được với bất cứ Tiền Sát Viên nào trên vùng cũng như các Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực của Trung Đoàn và Sư Đoàn. Tôi cảm thấy bơ vơ như “rắn mất đầu”. Không biết trông cậy vào ai, đâu còn ai chỉ huy đơn vị tôi, ra lệnh cho tôi bắn yểm trợ nữa đây? Trước đây chừng nửa giờ, tôi vẫn còn biết Vị Tư Lệnh Sư Đoàn Đại Tá Lê Đức Đạt, và cả vị Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn của tôi, Trung Tá Trịnh Lê Triễn, một ông thày của tôi từ ngày mới ra trường về Ban Mê Thuột trình diện ông ta năm 1966, hai người đã thoát được ra ngoài căn hầm chìm dưới đất được gọi là Trung Tâm Hành Quân Tiền Phương Sư Đoàn trước khi chiếc xe tăng T54 của địch tràn vào. Bây giờ im lặng và không còn bắn yểm trợ được nữa, tôi quay sang tần số của chiếc L19 đang quần quần trên bầu trời Tân Cảnh mà ở đây nhìn thấy được, họ báo động cho tôi biết những chiếc tank đang chỉa hướng về Căn cứ Phượng Hoàng và cũng cùng hướng với căn cứ của tôi. Tôi nghĩ đến những khẩu M-72 đã trang bị sẵn cho Pháo Đội từ lâu. Trên trời có hai chiếc phản lực đang trút những loạt bom xuống trong căn cứ Tân Cảnh, tôi nhìn thấy rõ những viên đạn phòng không bắn theo khi chiếc máy bay ngóc đầu bay vút lên. Một cuộn khói đen bay theo với chiếc máy bay, dường như đã trúng hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 thì phải? Cái không khí tang thương sẵn có càng thê lương hơn khi cuộn khói đen uốn lượn nhiều vòng trên bầu trời trước khi một cột lửa bùng phát kèm với tiếng nổ lớn, may mắn thay chiếc dù của người phi công cũng bung ra đúng lúc trước khi chiếc phi cơ rơi xuống đất. Có một điều thông thường rằng bao giờ Cộng Quân tấn công một vị trí nào đó, chúng cũng pháo kích tới tấp vào căn cứ Pháo Binh trong tầm yểm trợ để khống chế làm vô hiệu hoá sự yểm trợ cho vị trí đang bị tấn công. Nhưng hôm nay rất đặc biệt, họ không pháo kích đơn vị Pháo Binh của tôi đang yểm trợ trực tiếp cho Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 22 trong suốt thời gian họ tấn công. Có lẽ họ khinh địch và cho rằng sự can thiệp của đơn vị tôi không làm chùn bước tiến chăng? Nhưng không, bây giờ họ bắt đầu quay sang tôi, cái gai phải nhổ tiếp trước khi thống lãnh một vùng đất. Đại bác 130 ly có tầm xa 18 cây số, họ đặt bên triền núi trước mặt tôi nghe rất rõ tiếng đạn rời khỏi nòng súng ngay sau khi nhìn thấy tia lửa chớp lên tại vị trí đặt súng, có nghĩa rằng thấy tia lửa phát ra từ chỗ đặt súng trước khi nghe tiếng đạn depart vì tốc độ ánh sáng đi nhanh hơn tốc độ tiếng động. Nhìn thấy rõ vị trí đặt súng của địch qua ánh chớp lửa, biết được hướng đặt súng của địch, dân Pháo binh chúng tôi đã xác định được toạ độ của địch nhờ phương giác và khoảng cách, thế mà đành bó tay chỉ núp dưới mỗi hố cá nhân và nhìn cho vui. Địch quân đã sử dụng đại pháo 130 ly là cố tình vượt lên tầm xa của đại bác 105 và 155 ly của Quân Lực VNCH. Súng của chúng tôi chỉ bắn tối đa 11 mét 100 thước mà thôi. Thấy mà không làm gì được nó, thế mới ức cành hông. Chỉ trông cậy vào máy bay oanh kích vị trí đặt pháo, nhưng giờ không có máy bay nào nữa, tôi lo cho số phận của 150 mạng người giờ đây biết phải làm gì khi hỏa lực của mình ngoài tầm tay. Trong vòng một giờ đồng hồ, căn cứ hoả lực Dakmot của tôi trở thành một đống bầy nhầy hỗn độn, hai cây anten 292 bị gãy xuống hoàn toàn tê liệt không liên lạc được với ai, các căn hầm bị bung mái tung lên cao, Đài Tác Xạ là nơi xem như trung tâm hành quân của căn cứ cũng bị sập xuống trước sức công phá của đạn 130 ly. Tiền sát viên của địch chắc chắn áp rất sát căn cứ của tôi để quan sát và điều chỉnh mỗi loạt đạn rất chính xác nhất là mỗi khi thấy có người di chuyển trên mặt đất. Cả một căn cứ thành bình địa, nhưng không có một pháo thủ nào bị thương hay bị chết vì nhờ tất cả đứng dưới hố cá nhân. Ai ai cũng phải đào một cái hố sâu tới cổ của mình khi đứng để còn tác xạ được khi địch tràn vào, chiều rộng vừa với mỗi một cơ thể đứng và xoay trở được, trên miệng hố một cây súng M16 và một cây M72 chống chiến xa là bửu bối tự vệ lúc bấy giờ. Tôi len lỏi trong một đường giao thông hào từ căn cứ của tôi đến chỗ đặt bản doanh Tiểu Đoàn Biệt Động Quân bảo vệ Căn Cứ. Đến nơi tôi mới biết ông Đại Uý Tiểu Đoàn Trưởng đã bị thương nơi cánh tay phải bởi một mảnh đạn pháo kích, người lính phụ tá còn đang băng vết thương. Đơn vị ông ta còn liên lạc được với Đại Đơn Vị của Ông là Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Căn cứ Benhet bằng máy PRC 25. Ở đây vẫn chưa có lệnh lạc gì cho ông. Tôi trở về căn cứ của tôi, vì thấy tình hình im lặng và cũng do đã đói bụng vì đã quá 4 giờ chiều mà từ sáng tới giờ chưa có ăn gì; tôi nhảy lên khỏi chiếc hố cá nhân được đào gần Đài Tác Xạ sau lưng chiếc xe GMC (xe kéo súng) đậu tại đây để chạy bình điện cho máy truyền tin đánh morse. Tôi lên khỏi miệng hố và cất tiếng gọi lớn “nhà bếp” đem lương khô lên ăn tạm. Trong khi anh Binh Nhất Nguyễn Văn An, nhân viên Hỏa Đầu Vụ, mang những bịch cơm sấy đến chỗ tôi thì tôi đã rời xa rồi vì phải đi kiểm soát lại các cộng sự phòng thủ và từng hố cá nhân của nhân viên. Chỉ có bóng dáng hai người đang hiện diện trên mặt đất, tức thì đạn 130 ly bắt đầu rơi trở lại trên căn cứ. Từ khi nghe tiếng depart cho tới lúc đạn rơi trên mục tiêu cũng có thể ước chừng được bao nhiêu lâu nữa đạn sẽ nổ nên có đủ thời gian để nhảy xuống hố cá nhân khác, vì tôi đang xa lìa chỗ của tôi. Anh Binh Nhứt Nguyễn Văn An khi vừa đến ngay hố cá nhân của tôi thì nghe tiếng đạn của địch depart nên một phản xạ tự nhiên nhảy ngay xuống hố cá nhân của tôi dưới chân mình. Loạt pháo kích vừa rồi cũng chỉ chừng 10 quả rớt lung tung trên mặt đất của Căn cứ Hỏa Lực, tất cả pháo thủ vẫn còn đứng yên dưới hố, và tôi cũng hy vọng và tin tưởng tuyệt đối rằng không ai bị chuyện gì về nhân mạng. Theo kinh nghiệm chiến trận và theo trong nhà trường thì quả đạn pháo kích nổ trước miệng hố hay sau miệng hố theo chiều đạn đạo hình Parabol cũng sẽ tạt về phía trước và sẽ không làm chết hay bị thương người đứng dưới hố. Tôi vội vàng trở lại hố cá nhân của tôi thì thấy máu thịt xương như bị bằm nhỏ giống như bằm tiết canh vịt, văng cả nắm lên vách thành xe GMC ngay đó (chiếc xe nằm ngay phía sau hố và là hướng tạt của lực theo chiều của đạn đạo). Tôi cúi xuống nhìn vào trong hố, chỉ còn là một đống thịt bầy nhầy bằm nhỏ cùng với đôi giày trận còn nguyên. Anh Binh Nhứt An đã chết rồi và chết không toàn thây, tim tôi đập mạnh, xúc động vô vàn. Nguyễn Văn An đã vì tôi mà chết rồi, tôi ngẩn ngơ như người không hồn, tôi kêu “An ơi, An ơi!” Lặng người đi và tưởng như trong mơ, tôi thực sự xúc động trước cái chết của người lính thuộc cấp thế cho mình. Cái số của tôi chưa tới số? Điều gì đã khiến cho tôi rời cái hố? Một sự tình cờ xảy ra hay có sự “sắp xếp của bàn tay vô hình nào đó?” Tránh pháo kích địch một cách hiệu quả nhứt không gì bằng ẩn người trong hố cá nhân. Đạn rớt trước mặt hay sau lưng hố không bao giờ gây thiệt mạng. Chưa bao giờ tôi gặp một trường hợp đạn pháo kích rớt chính xác xuống miệng hố. Điều gì đã khiến tôi rời khỏi cái hố cá nhân của riêng tôi? Tim tôi đập mạnh hơn, tôi lặng người và TIẾC THƯƠNG CHO AN. Người đi trong cuộc chiến thường hay tin tưởng vào SỐ MẠNG, hay là TRỜI KÊU AI NGƯỜI ẤY DẠ, hoặc ĐẠN TRÁNH MÌNH CHỨ MÌNH KHÔNG THỂ TRÁNH ĐẠN. Tâm tư tôi bị giao động mạnh khi nhìn xuống hố, không còn một thứ gì có thể nhận ra là con người, vì nó nát bấy như băm nhỏ, một viên đạn đại bác 130 ly làm sao có thể rớt ngay phóc vô một cái hố đường kính chỉ chừng năm mươi centimet. Nếu như lúc đạn đang bay trong không trung, tốc độ gió mạnh hơn, hay gió đổi chiều chỉ một chút cũng làm viên đạn lệch đi, hay người xạ thủ địch quân giật cò chậm hơn 1/50 giây cũng sẽ làm viên đạn lệch qua chỗ khác vì sự quay của trái đất sẽ đổi chỗ viên đạn rơi. Nhiều yếu tố để khiến một viên đại bác rơi trúng đích, nhưng có điều gì đã khiến tôi bồn chồn đói bụng mà phải rời hố, để rồi một binh sĩ thuộc cấp chết thế mình. Tôi nhắm mắt lại và lặng người không dám nhìn vào đáy hố, nó chỉ còn rõ nhất đôi giày trận của Binh Nhứt Nguyễn Văn An. Trong nỗi hụt hẫng kèm theo lo âu, chưa biết phải làm gì, từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn Biệt Động Quân bảo vệ Căn cứ chuyển cho tôi một cái lệnh. Hệ thống truyền tin gần và xa của đơn vị tôi coi như hoàn toàn tê liệt; chỉ còn duy nhứt đơn vị bảo vệ căn cứ của tôi là chỗ dựa trong lúc này. Lệnh của Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn cho tôi “triệt thoái khỏi căn cứ đi về Trại BENHET ngay bây giờ”. Thì ra vẫn còn có người nghĩ đến tôi, thực ra không phải nghĩ đến tôi mà nghĩ đến sáu khẩu đại bác cần được xử dụng. Tôi không liên lạc trực tiếp với Quân Đoàn, mà chỉ thi hành lệnh qua trung gian là Biệt Động Quân Quân Khu 2. Pháo Binh của tôi mất tiêu hết đâu rồi, đâu còn xếp lớn xếp nhỏ gì để liên lạc. Tôi trở lại Pháo đội và ra lệnh “cấp tốc di chuyển khỏi nơi này”. Khi người Đề Lô địch thấy lố nhố người xuất hiện chạy đi chạy lại trên mặt đất thì họ bắt đầu khai hỏa trở lại, làm cho công việc chuẩn bị trở nên phức tạp hơn. Chỉ móc được 5 khẩu đại bác vào những chiếc GMC nào còn chạy được dù là bể bánh xe, hay bể két nước. Phải bỏ lại một khẩu vì không còn kịp. Nếu cố gắng kéo cho được 6 khẩu và đầy đủ phụ tùng thì tôi e sẽ có quân nhân trúng đạn pháo kích. Tôi quyết định tự tay tôi rút khối kích hỏa của khẩu bỏ lại và ném ra xa, giấu đi làm vô hiệu không cho địch quân xử dụng khẩu đại bác này khi họ tràn vào. Tôi cất chiếc nón sắt ra khỏi đầu và cúi xuống nhìn cái hố, nơi có xác bầy nhầy bị băm nhỏ như chào vĩnh biệt Binh Nhứt Nguyễn Văn An. Đạn pháo kích địch vẫn tiếp tục rơi. Tôi chạy thiệt nhanh lại đoàn xe đang chờ và phóng hết ga về hướng căn cứ Ben Hét, một căn cứ đầu não của Biệt Động Quân Biên Phòng của vùng rừng núi Tam Biên. Đi về hướng BENHET tức là không về hướng đồng bằng mà càng tiến gần với ngả ba biên giới Việt Miên Lào. Khi đến BENHET xong, tôi gặp người Trung Tá Biệt Động Quân, Căn cứ Trưởng, ông ta bảo tự bố trí phòng thủ tạm và chờ sẽ có lệnh sau. Khi mặt trời khuất sau rặng núi, tôi quyết định dùng một chiếc GMC và lựa một toán lính gan dạ, lanh lẹ cùng tôi chạy trở lại Căn cứ Dakmot để lấy khẩu đại bác bị bỏ lại. Vì tôi là người giấu khối kích hỏa, biết chỗ nên tôi phải đi, và tôi cùng đi thì binh sĩ sẽ lên tinh thần. Địch quân không ngờ rằng có người trở lại nên không phản ứng kịp và chúng tôi đã hoàn thành công tác lấy được khẩu đại bác trở về Ben Het. Ở đây pháo đội không gióng hướng súng để tác xạ yểm trợ nữa, mà chỉ bắn trực xạ phòng thủ vị trí, vì đêm nào cũng nghe tiếng xích của xe tăng địch rú gầm xung quanh, cả Pháo đội thức bét con mắt để trông chừng mà trực xạ phải tới ngày thứ tư mới có trực thăng câu đại bác và nhân viên pháo đội tôi từ Benhet về Kon Tum. Không phải Quân Đoàn thương tiếc đơn vị tôi mà cho trực thăng hai cánh quạt đến bốc chúng tôi, mà vì cả Sư Đoàn vừa bị tan hàng không còn một khẩu đại bác nào để tử thủ KonTum. Khi trực thăng đáp xuống là lúc đạn pháo kích bắt đầu rơi tới tấp, trực thăng không thể chờ mình được nên cũng liều mạng móc súng, đạn 105 ly và dụng cụ. Coi như chơi trò ú tim hên xui may rủi, nếu lỡ trúng đạn thì đành chịu. Mỗi lần chỉ đáp được một trực thăng vì xuống một lúc dễ trúng đạn pháo kích. Có tất cả 10 chuyến thì xong hết đơn vị. Chỉ khi nào trực thăng lên đến độ cao an toàn thì mới biết mình thoát nạn. Thời điểm này là lúc Cộng Quân Bắc Việt đang vây KonTum chỉ còn có cái lỏm, trực thăng vừa đáp xuống thành Dapla là có dàn chào đạn của VC ngay. Bọn nó ở đâu sẵn và pháo kích liên tục. Cái số của tôi may mắn nên không phải làm sao cả. Những ngày gian khổ và nhiều nguy hiểm tại KonTum cũng qua đi khi có các đơn vị Pháo Binh của Sư Đoàn 23 đến được, mà chỉ đến bằng người, không thể mang theo đại bác vì trực thăng không thể câu súng qua đèo ChuPao. Không biết do cái số còn hên có người thương nghĩ tới, đã truyền lệnh cho tôi từ Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn 23, ra lệnh tôi bàn giao tất cả súng đại bác lại cho nhân viên Pháo Binh Sư Đoàn 23 để chuẩn bị trực thăng vận về Pleiku nhận súng ở đó và tái phối trí. (Tôi là dân Pháo Binh Sư Đoàn 22) Gia đình tôi từ quê cha sanh mẹ đẻ cho tới quê vợ không biết tin tức tôi ra sao trong hai tháng. Ba tôi chạy ngược chạy xuôi hết đi coi bói ông thầy này tới bà nọ để mong tin con. Cả một sư đoàn 22 và cả một Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn của tôi tan nát, cũng không còn biết tôi thì làm sao từ Nhatrang và Sài Gòn biết được. Khi về đến Pleiku, đơn vị đã ổn định, tôi được đi phép đặc biệt về thăm nhà. Tất cả“ gia tài“ quân ngũ của tôi để lại tại căn cứ Đệ Đức Bồng Sơn, cũng bị tràn ngập. Căn cứ mất , tôi cũng mất hết tất cả, nơi này có hai ông Tiểu Đoàn Trưởng và Tiểu Đoàn Phó tiểu đoàn của tôi cũng mất tích và chết sau đó. Tôi không còn đồ đạt gì nên cứ mặc quần áo trận lên xe đò về Nhatrang. Vừa ngồi lên xe đò nhỏ từ Qui Nhơn đi Nhatrang, một cô ngồì sát bên bảo: “Anh anh, anh mặc đồ này khi vô tới Hảo Sơn, Vũng Rô, tuị nó chận và bắt anh đó“. Cô nói tiếp: “Để em đưa cái áo này cho anh mặc đỡ”. Tôi nghĩ bụng “về tới đây còn gặp rắc rối”! Thế là tôi cũng phải nghe lời cô ấy. Vừa mặc xong, một bàn tay của một người đàn ông đứng tuổi ngồi cạnh cô gái cho mượn áo cầm tay tôi mà không cần hỏi han giáo đầu chi hết: “Có phải anh vừa thoát một đại nạn lớn lắm phải không? Tôi thấy anh thoát chết là do một người nào đó khuất mặt họ cứu anh“. Tôi thấy đúng ở chỗ thoát đại nạn, nhưng do ai cứu thì tôi không biết, tôi nghĩ thầm mà không trả lời. Không lẽ ông này thấy tôi mặc đồ lính rồi đoán vậy? hay ông ta có bùa ngải gì đây? Tôi tự hỏi mà không dám thố lộ. Ông ta tiếp: “Tôi nói thực cái mạng anh rất lớn, có một vong linh người Nữ theo cứu anh, chứ không thì anh không có ngồi đây.“ Tôi thấy đúng như trúng tim đen ở chỗ may mắn thoát chết, nhưng mà ai đã cứu mạng tôi thì không biết. Và rồi tôi lẩm bẩm: “cũng có thể lắm….” Tôi về được tới nhà trong bất ngờ mà Ba Má tôi không hề biết. Mọi người đều khóc, khóc vì sung sướng tôi đã về bằng xương bằng thịt, mà có ông thầy bói nào nói với Ba tôi là “tôi không còn nữa, tan xác hết rồi“. Cái cảnh xum họp này coi thật là cảm động, cả nhà vui mừng hẳn lên. Tối hôm đó sau khi cơm nước xong Ba Má tôi kể chuyện cho tôi nghe trong lúc có các cô chú cũng có mặt cùng nghe. Ba tôi kể rằng: “năm nào nhà mình cũng mướn mấy ông ngoài Bình Định cứ vào sau mùa gặt thì đào đất ruộng xung quanh nhà dùng xe cút kít đẩy đất lên bồi đất xung quanh nhà cho cao để trồng cây ăn trái. Họ ăn ngủ tại nhà mình và trả lương khoán. Khi nào làm xong hết việc thì họ đi nơi khác, làm bảy ngày một tuần tối ngủ ở đây”, Ba tôi vừa nói vừa chỉ chỗ ngủ của ông ấy. Có một buổi tối nọ sau khi ăn xong như thường lệ, cũng đang ngồi nói chuyện bâng quơ thì bỗng nhiên ông ta bụm hai bàn tay rồi vuốt mặt, thả tay ra thì thấy mặt đỏ rần như Trương Phi. Ông ta rung người lắc lắc đầu mấy cái rồi nhìn thẳng vào mặt Ba tôi mà nói: “Sao nhà Ngươi đẻ ta ra mà bỏ, không ngó ngàng gì tới? Nhà ngươi có còn nhớ vào một buổi sáng chừng tám chín giờ đẻ ta ở gốc keo rồi chôn ở đó không? Nhà Ngươi không có đặt tên, không có bàn thờ cho ta. Nhưng giờ ta không còn ở đây nữa, ta ở trên cao lắm. Ta có hai người anh đang trong nguy hiểm, và chính ta đã cứu một người anh đó.“ Ba Má tôi rợn tóc gáy rất là sợ, vì sao ông này nói trúng y chang sự việc mà ông ta không là người trong gia đình, ông ta không thể nào biết được chuyện riêng tư này đã xảy ra mấy chục năm trước (chuyện cái bào thai bị sẩy). Ba Má tôi nhớ lại, vào một buổi sáng, Má tôi đi tiểu ngoài hàng rào keo cách xa nhà chừng vài chục thước sát bờ ruộng; trong lúc bà mang thai ba tháng. Bà đã để lọt cái thai ra ngoài, coi như sẩy thai. Ba tôi vội lấy cái nồi gọ bằng đất, một loại nồi nhỏ chỉ nấu cơm cho một người ăn, bỏ cái thai trong đó và đem chôn cũng ngay gốc cây keo bà vừa tiểu. Vì Ba tôi nghĩ rằng cái thai mới có ba tháng, còn quá nhỏ nên không quan tâm, và không hề quan tâm đến nữa. Đó là đứa em gái kế tôi, chuyện đã mấy chục năm, nay được một ông lạ hoắc kể ra, làm sao không làm kinh ngạc mọi người. Sau đó Ba Má tôi làm một cái “trang” để thờ đứa nhỏ mà không để chung với bàn thờ chính giữa nhà thờ Ông Bà và đặt tên cho nó. Em Gái tôi nói lúc nào cũng theo sát tôi để phù hộ độ mạng khi xảy ra nguy hiểm. Tôi nghe kể lại cũng thấy rợn da gà và liên tưởng tới Căn Cứ Dakmot. Tôi nhớ đến chuyện Binh Nhứt Nguyễn Văn An đã thế chỗ trong hố cá nhân của tôi để rồi thịt xương bị nổ tung và bằm như tiết canh. Tôi thở ra và nghĩ không ngờ vẫn còn có thế giới vô hình đâu đây. Tôi không biết phải làm gì với em gái tôi để gọi rằng đền ơn cứu mạng tôi. Và từ đó tôi rất tin tưởng CON NGƯỜI TA CHẾT ĐI VẪN CÒN LINH HỒN, cũng như tôi tin CON NGƯỜI TA SỐNG CHẾT ĐỀU CÓ SỐ. Nguyễn Trãi Chỉnh sửa lại bởi Lan Huynh - 25/Aug/2025 lúc 1:02pm |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23945 |
![]() ![]() ![]() |
Hồi Ức 50 Năm: Những Ngày Đầu ở ÚcPhi cơ của hãng Qantas chở chúng tôi từ Bangkok (Thái Lan) và đáp xuống Sydney đúng vào ngày 26/1/1982. Đó là ngày Quốc Khánh Úc. Mới ra khỏi phi trường và qua hải quan, tôi đã thấy choáng với cái nóng. Phải nói là nóng hừng hực. Hoá ra, Úc đang vào mùa hè. Những người đứng đón thân nhân ở phi trường ai cũng mặc đồ mát mẻ, nam thì quần short áo thun, nữ cũng vậy. Trông phi trường và quang cảnh chung quanh chẳng có gì là ‘hoa lệ’ cả, thậm chí có phần kém sang trọng hơn phi trường Bangkok. Thôi thì: Chào mừng bạn đến Sydney! Đứng xếp hàng một hồi thì được nhân viên di trú ‘lùa’ lên một cái xe bus (lúc đó là rất lớn với tôi). Nhóm chúng tôi chẳng biết mình đi đâu, nhưng chỉ biết là từ này mình hưởng tự do sau những ngày tháng cực khổ và đắng cay ở Thái Lan. Xe chạy bon bon trên đường, chẳng thấy thành phố hay nhà cao tầng đâu cả, mà chỉ toàn là nhà cửa bằng gạch đỏ. Nhà nào cũng có vẻ rộng rãi, tươm tất, và hầu như tất cả đều có sân cỏ phía trước. Tôi còn nhớ xe chạy dọc theo một con lộ rất đẹp, hai bên là cây cối um tùm, xanh tươi, sạch sẽ. Sau này tôi mới biết đó là con lộ Henry Lawson Drive (tên của một nhà thơ nổi tiếng người Úc). Một lần nữa, không hề thầy Sydney tráng lệ gì cả. Thật ra, nhìn có vẻ đồng quê hơn, nhưng là đồng quê quá đẹp. Sau độ 30 phút thì đến một khu nhà rất rộng tên là Cabramatta Hostel. Lúc đó, tôi còn chưa biết hostel là gì, vì hồi nào đến đó tôi chỉ nghe đến hotel, chứ có biết hostel là gì đâu. Cabramatta Hostel nằm trên một cái đồi thuộc vùng Cabramatta, nơi mà sau này trở thành “thủ đô” của người Việt ở Sydney. Từ Hostel đi bộ ra khu phố Cabramatta chừng 15 phút. Cabramatta nằm ở vùng Tây Nam Sydney, là nơi mà dân địa phương gọi là ngoại ô lao động, ý nói người nghèo. Thời đó (tức ~40 năm trước) Cabramatta là một nơi bán nông thôn. Đường xá rất ít xe qua lại, các dãy phố tương đối cũ kỹ im lìm, người đi phố chẳng bao nhiêu. Năm 1982, Cabramatta chỉ có 1 quán ăn Việt Nam và 1 tiệm thực phẩm Á châu duy nhất nằm trên đường John. Chúng tôi là khách hàng trung thành của tiệm thực phẩm này, còn quán phở kia thì … chưa đủ tiền để phung phí. Visa đi Úc được cấp trong trại tị nạn cuối năm 1981 (hết hạn 11/4/1982), nhưng với thời gian lưu trú vô hạn định (indefinite). Cabramatta Hostel là nơi tạm trú của nhiều người tị nạn và di dân Á châu và Âu châu. Ngoài người Việt, Khmer, Lào ra, còn có người Nga, Ba Lan, Tiệp, Hungary, Hồng Kông, Trung Quốc, v.v. Nhưng có lẽ đông nhất vẫn là người Việt. Họ ở đây để làm thủ tục định cư, học tiếng Anh và làm quen với văn hoá Úc. Bất đồng văn hóa xảy ra ngay từ những ngày đầu tiên ở hostel này. Nói chính xác hơn là văn hóa ẩm thực. Ở đây, người ta có nhà bếp rất lớn và đầu bếp hẳn hoi. Nhìn cái nhà bếp rộng y như một căn nhà 3 phòng! Nhà bếp phục vụ 3 bữa ăn: điểm tâm, trưa, chiều. Sáng nào cũng có những món thuần Tây, như bánh mì nướng, trứng chiên, bacon, khoai tây, cà nướng, v.v. Những món mà tôi hay thấy trên phim thời còn ở Việt Nam, và nghĩ rằng chắc sang và ngon lắm. Nhưng thử rồi mới thấy hỡi ơi! Hồi nào đến giờ chỉ quen mì, hủ tíu, phở, chứ đâu quen mấy món này. Tuy nhiên, phải cả năm sau tôi mới làm quen với các món ăn sáng như thế này, và khi đã quen thì lại thấy … ghiền Ngày đầu tiên, sau khi làm thủ tục định cư, tôi được cấp cho 30 đôla Úc. Đó không phải là tiền của chánh phủ, mà tiền của Hội từ thiện St Vincent de Paul. Ngoài ra, tôi còn cho một cái phiếu để lãnh quần áo. Tôi đến Úc với 0 cent trong túi và đúng 2 bộ đồ, nên được ai đó cho quần áo mới thì quý hoá rồi. Xin nói thêm rằng cuộc đời tôi ở Úc, một cách tình cờ, gắn liền với cái tên “St Vincent.” Ngay từ đầu được hưởng lợi từ hội từ thiện St Vincent de Paul, đến khi sau này thì sự nghiệp của tôi gắn liền với Bệnh viện St Vincent’s hơn 30 năm trời! Những ngày đầu tôi cũng ghi danh học tiếng Anh, nhưng cũng là thời điểm nếm mùi tự do. Lớp học có rất nhiều di dân từ khắp nơi, nhưng đông nhứt vẫn là Việt Nam. Khi cô giáo đề nghị mỗi học viên nói sơ qua về lí lịch cá nhân và đến Úc trong hoàn cảnh nào, thì đa số học viên đều e dè. Những người tị nạn từ Đông Âu cũng có những nỗi lo giống như người Việt Nam. Dù ở Úc, họ vẫn bị ám ảnh bởi công an và mật vụ. Họ có vẻ không tin ai cả. Cô giáo cùng từng là một người tị nạn từ Đông Âu nên rất am hiểu tâm lý của người mới nhập cư từ các nước công an trị. Bà tuyên bố rằng Úc là nước tôn trọng tự do ngôn luận, người dân có quyền phát biểu chánh kiến. Bà khuyên rằng ở đây có luật pháp đàng hoàng, chẳng sợ ai cả, và ở đây không có ‘công an’, chỉ có police (cảnh sát) thôi. Để minh hoạ, bà lấy vài tờ báo ra và chỉ những cái tít chỉ trích chánh phủ hàng ngày, rồi tươi cười chỉ vào hình ông đương kim thủ tướng và nói đại khái rằng ‘Mai mốt tôi không bầu cho thằng cha này.’ Tôi kinh ngạc: Trời ơi, sao bà dám oang oang chỉ trích ông thủ tướng như vậy! Cách dạy tiếng Anh ở đây chủ yếu là để học viên có đủ kiến thức và chữ nghĩa để đi xin việc, chứ không để học lên cao. Cô giáo là một người rất tuyệt vời về kỹ năng sư phạm và hết sức vui tính. Cách dạy chủ yếu là đàm thọai, hơn là viết. Mục tiêu là giúp học viên sớm hội nhập và có thể đi xin việc. Bà giáo có vẻ thích tôi, một phần có lẽ là học nghiêm túc, một phần là hỏi hoài. Nhớ có lần bà ra đề là viết một lá thư cám ơn cô giáo mà mình nghĩ trong tâm tưởng; tôi viết lá thư và chữ cuối là “As always, with affection” vì tôi học từ một cách viết trên tạp chí Reader’s Digest trong trại tị nạn. Bà giáo đọc lá thư, rồi đến giờ giải lao kêu tôi ra ngoài nói riêng rằng không nên viết như vậy, vì cái chữ đó chỉ dành cho … tình nhân! Thế là học bài học về cách viết thư. Nhưng tôi chỉ học được một thời gian ngắn thì bỏ lớp học. Ngày nào cũng “How are you”, “I am fine, thank you”, “How long have youbeen here”, “I am looking for a job”, v.v. Lớp học có những học viên với trình độ rất khác nhau, nên cách dạy cũng rất chậm. Tôi nghĩ trong bụng với cách học này thì mình tự học còn hay hơn. Nên, chỉ vài tuần sau thì nghỉ học. Ngày tôi quyết định nghỉ học, tôi báo cho cô giáo biết. Cô giáo, lúc đó đã gần 50 tuổi, nói rằng vài năm nữa sẽ có lễ kỷ niệm 200 năm ngày thành lập nước Úc, và bà nói sẽ hẹn tôi ở cầu Harbour Bridge. Tuy nhiên, hẹn cho vui thôi, chứ đến ngày lễ thì làm sao tìm lại cô giáo đầu tiên. Nhưng hình ảnh về một cô giáo người Úc nhanh nhẹn, hoạt bát, vui tánh, và nhất là rất thương người tị nạn không hề phai nhòa trong ký ức tôi. Việc làm đầu tiên: phụ bếp Sau vài tuần ở trong hostel, tôi bắt đầu tìm việc làm. Mỗi ngày tôi dò đọc mục Employment trong báo để tìm việc. Có lúc đi theo nhóm, có lúc đi một mình. Dạo đó, hễ có việc gì là lao vào làm, chứ không có lựa chọn. Người khá tiếng Anh thì xin đi làm lựa thư trong bưu điện, người kém tiếng Anh thì xin việc làm ở mấy hãng xưởng (thời đó Úc còn nhiều hãng lắm). Nhưng không may cho tôi, mỗi lần đi phỏng vấn là mỗi lần bị thất bại, vì tôi nói là chưa có kinh nghiệm làm hãng xưởng bao giờ. Ở xứ này, không có kinh nghiệm thì người ta không muốn nhận mình vào làm, có lẽ vì ngại mất thì giờ và tiền bạc để huấn luyện. Một hôm, tôi may mắn tìm được một công việc phụ bếp trong nhà bếp (kitchen hand) của Bệnh viện St Vincent’s. Ngày đầu tiên nhận việc là một ngày đầy ấp kỷ niệm vui buồn. Công việc tôi được giao phó là rửa nồi niêu, chén bát, và đặc biệt là xắt củ hành Tây. Chao ôi, lần đầu tiên trong đời tôi thấy cái gì cũng lớn và cũng nhiều. Số lượng nồi và chén bát nhiều đến nổi không đếm hết. Nói là “rửa chén”, nhưng thật ra là tất cả đều làm bằng máy. Cái máy rửa chén dài khoảng 6 mét, máy có ba đường băng để chén và nồi niêu xoong chảo trên đó, và có một bộ phận tự động chuyển những chén và nồi niêu xoong chảo sang một khu nước nóng để rửa. Đến đầu bên kia, có người chất đồ sạch xuống. Do đó, trên thực tế, suốt ngày tôi chỉ sắp xếp nồi chén chứ chẳng đụng tay rửa gì cả. Ngoài việc đó, tôi phải lột củ hành tây và xắt rau cải cho phụ bếp. Khi hết việc thì phải tìm việc khác làm, như lau chùi nhà bếp cho sạch, nhìn cái gì thấy không vừa mắt là phải sửa. Nói chung là không có nghỉ. Không đợi người ta bảo phải làm gì, mà phải chủ động đi tìm việc để làm. Không có chuyện đứng xớ rớ. Mỗi ngày có 3 lần nghỉ giải lao: lần thứ nhứt là khoảng 10 giờ sáng, được nghỉ 15 phút để uống cà phê; lần thứ hai là 1 giờ trưa, được 30 phút để ăn trưa; và lần sau cùng là 3 giờ chiều, 15 phút uống cà phê. Mỗi lần nghỉ là phải bấm card để quản lý xem mình có nghỉ quá giờ hay không; nếu nghỉ quá giờ, cho dù 5 phút quá giờ, thì sẽ bị trừ lương. Con người ở đây như là cái máy. Tuy nhiên, tôi thấy rất vui, vì trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế mà có việc làm là may mắn lắm rồi. Vả lại còn có tiền gởi về Việt Nam để giúp nhà. Kỷ niệm đáng nhớ nhứt là ngày đầu tiên khi tôi thấy quá nhiều hành tây (trong hai bao bố rất lớn, loại bao mà thời dưới quê tôi thấy họ dùng làm bao gạo trong mấy nhà máy xay lúa), tôi hơi nao núng và hỏi anh chàng giám thị (tức sếp tôi): – Tôi phải lột hết hai bao này à? Anh chàng giám thị người Tân Tây Lan tên là Gerry nhún vai nói: – Dĩ nhiên, đó là công việc của anh mà! Tôi cảm thấy mình ngây ngô làm sao! Dĩ nhiên, người ta mướn mình vào làm việc đó, chứ còn việc nào khác! Chỉ lột được hai ba củ hành, là nước mắt tôi dàn dụa. Gerry lại thấy tôi ‘khóc’ tưởng tôi nhớ nhà, bèn đến hỏi: ‘Anh có sao không?’ Tôi trả lời ‘Không’ và dần dần làm xong công việc một cách tốt đẹp. Nhưng chỉ hai ngày sau, sau vài lần thử nghiệm, tôi đã tìm được ‘quy luật’ lột củ hành mà không rơi nước mắt. Mặc dù đó là một công việc khá nặng nhọc, nhưng tôi vẫn làm việc một cách vui vẻ, và qua đó tôi học được tính tập trung trong khi làm việc cho dù là việc lớn hay nhỏ. Làm ở nhà bếp Bệnh viện St Vincent mà tôi vẫn thấy mình còn dư thì giờ. Thời đó, bên nhà cũng cần tiền (vì cả nhà lâm vào cảnh gần như khốn đốn) dù ba má tôi chưa một lần hỏi tôi gởi tiền. Chúng tôi tự động gởi hàng hoá và tiền về cho gia đình và cả bà con khác cần tiền để trang trải khi mắc bệnh. Tôi nghĩ tôi có thể làm nhiều tiền hơn nữa, và thế là tìm chỗ làm ban đêm. Cơ hội đến với tôi khi Khách sạn Regent mới được khai trương ở Circular Quay (ngay [cầu] Harbour Bridge). Đây là khách sạn 5 sao, thời đó được xem là sang trọng nhứt nhì ở Sydney. Khách sạn Regent cần tuyển rất nhiều nhân viên nhà bếp. Lương mà khách sạn trả thì … khỏi chê. Gần gấp 2 lần lương của bệnh viện. Thế là tôi đệ đơn xin đi làm ở khách sạn. Tôi được phỏng vấn, và cách họ phỏng vấn cũng rất độc đáo. Họ hỏi đôi ba câu về cá nhân, rồi dẫn xuống nhà bếp, và xem mình làm ra sao. Họ muốn xem tôi có kinh nghiệm như thế nào trong nhà bếp, cách tôi cầm dụng cụ nhà bếp ra sao, cách tôi giữ an toàn vệ sinh thực phẩm, v.v. Đương nhiên, vì tôi có “kinh nghiệm đầy mình” ở bệnh viện St Vincent’s, nên được nhận ngay. Khi vào nhà bếp tôi gặp vài người quen từ trại tị nạn bên Thái Lan. Trong đó có thằng em tên Trạng, nó đi cùng ghe với tôi sang Thái Lan, được nhận làm trong khâu rửa chén. Hai anh em gặp lại ở đây, nó kinh ngạc nhìn tôi trong đồng phục phụ bếp và hỏi: Anh họcnghề này hồi nào vậy? Tôi mỉm cười bí hiểm nói: Từ 3 tháng trước chớtừ hồi nào, màmày làm gì ở đây? Nó nói: em làm bên kia kìa, và chỉ tay vềcái máy rửa chén thiệt lớn. Hai anh em ‘chiến đấu’ ở đây một thời gian, thì tôi quay về St Vincent’s vì chịu không nổi hai công việc, và lại làm việc ca đêm mà còn đi học. Việc làm thứ hai: làm phụ tá labo Khoảng hơn một năm rưỡi sau làm trong nhà bếp, tôi bắt đầu chán và nghĩ về tương lai. Tôi nhớ đến lời khuyên của bà giám đốc nhà bếp Georgina Ramsey và để ý tìm cơ hội mới tốt hơn. Tôi không thể làm ở đây 5 năm, chứ chưa nói đến 10 năm. Sau đó, tôi may mắn xin vào làm phụ tá trong labo sinh hóa của Bệnh viện Royal North Shore ở phía Bắc Sydney. Nhiệm vụ của tôi rất đơn giản: thu thập mô và mẫu máu từ các phòng ban khác nhau, sau đó sắp xếp chúng ở những nơi thích hợp. Tôi rất hứng thú học hỏi và được dạy cách xử lý mẫu máu cũng như cách trích plasma từ máu toàn phần. Một hôm, tôi thấy bác sĩ trưởng phòng labo (Tiến sĩ Ackerman) đang ‘vật lộn’ với một phép tính cho bài nghiên cứu của mình. Tôi đang lau chùi trong phòng thí nghiệm, nhưng lén nhìn qua vai ông ấy và nhận ra rằng ông ấy đang tính độ lệch chuẩn (standard deviation)! Tuy nhiên, phương pháp ông ấy sử dụng, thường được dạy trong sách giáo khoa, rất mất thì giờ và rườm rà, dành cho người không giỏi toán. Tôi ngõ lời muốn giúp ông ấy. Thế nhưng ông nhìn tôi và nói ‘Đây là một việc phức tạp, anh bạn trẻ ơi! Tốt hơn là anh hãy tập trung vào công việc của mình đi.’ Rõ ràng, ông ấy nghĩ rằng tôi không thể làm được công việc trí óc đó. Tôi nghĩ mình không đến độ ‘dốt’ như thế và cũng mang chút tự ái, nên tôi tuyên bố rằng: nếu tôi không thể tính độ lệch chuẩn cho ông ấy trong 2 phút, ông có thể sa thải tôi. Ông ấy ngước nhìn tôi lần nữa và nói: ‘OK, làm đi!’ Tất nhiên, đó là một bài tập đơn giản: tất cả những gì tôi làm là sử dụng những gì ông ấy đã làm và thêm một số biến đổi đơn giản, tôi có thể hoàn thành nó trong vòng một phút bằng tay (lúc đó không có máy tính cá nhân như ngày nay). Ông ấy nhìn tôi với sự kinh ngạc và hỏi ‘Anh học cái này từ đâu vậy?’ Tôi nói ‘Ở Việt Nam’. Ông ấy sau đó nói: ‘Những người thông minh như anh nên quay lại đại học để tiến thân’. Và, đó là điều tôi đã làm: đi học. Tôi đã trải qua 3 đại học lớn tại Sydney: Macquarie, Sydney và New South Wales (UNSW Sydney). Tôi đạt được 2 bằng tiến sĩ về y khoa và khoa học từ UNSW Sydney. Tôi là người Úc gốc Việt đầu tiên và là người thứ 35 của Khoa Y UNSW Sydney được trao bằng tiến sĩ khoa học (DSc). Năm 2008, tôi trở thành người Úc gốc Việt đầu tiên được bổ nhiệm làm Giáo sư thực thụ của Khoa Y, UNSW Sydney. Tôi cũng là người Úc gốc Việt đầu tiên nhận giải thưởng Hội đồng Nghiên cứu Y tế và Y khoa Quốc gia (NHMRC) về Học giả Nghiên cứu Cao cấp và sau này là Học giả Lãnh đạo (còn được biết đến là Học giả Úc – Australia Fellow).
Tuan V. Nguyen AM |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
Lan Huynh
Senior Member ![]() Tham gia ngày: 05/Aug/2009 Đến từ: United States Thành viên: Online Số bài: 23945 |
![]() ![]() ![]() |
Trại Giam Miệt ThứTôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày 20, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất giấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. 5 ký bột ngọt, 5 ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá. Gần một giờ khuya, chiếc xe công an bít bùng mới đến chở tôi cùng hai người phụ nữ khác bị bắt cùng trạm, rời huyện Tân Hiệp. Hầu như 90% bạn hàng các tuyến đường miền tây tôi gặp hoặc lấy mối, đều là đàn bà con gái. Điều chúng tôi lo ngại, là từ lúc bị bắt đến giờ, không ai còn thấy lại hàng hóa bị tịch thu của mình. Vả lại, cũng chưa thấy ai gọi tôi lên ký biên bản xác nhận mặt hàng như mấy lần trước. Lợi là chúng tôi có thể chạy chọt thêm để được thả vì chưa có chứng từ gì bị bắt hoặc tịch thu hàng lậu. Nhưng ngược lại, coi như tất cả hàng hóa, tài sản đó sẽ không bao giờ "châu về hiệp phố” với chủ nhân nữa. Mắt phải tôi giật mấy lần, nam tả nữ hữu, linh tính báo điềm không tốt. Mà đằng nào thì cũng mất, miễn đừng tật mang, là còn cơ hội làm lại bàn khác. Thời nầy biết đâu mà mò, nhằm nhò gì, thua me thì gở bài cào. Đầu óc căng thẳng, thân thể rã rời nhưng tôi cố quan sát tình hình chung quanh. Hai người đàn bà kia thì đã ngủ gà ngủ gật, trong xe chỉ còn tôi và một tên công an ngồi hút thuốc, canh hờ ở cuối xe. Chắc hắn cũng không hồ hởi gì giờ nầy, gần Tết trời lạnh phải giải “không công” mấy mụ con buôn về tỉnh thì chán mớ đời. Chợt nhớ ra, tôi vẫn còn sợi dây chuyền mặt cẩm thạch 2 chỉ rưỡi nhét trong quần lót mà từ chiều lu bu chúng chưa lột tới. Mấy món nầy sẽ là “quà cáp” các anh để tôi được về nhà cho kịp đưa ông táo. Hy vọng là vậy để chút yên lòng... Đôi mắt tôi khô cứng nặng chì và, không còn đủ ý thức cưỡng bức chính mình được nữa, tôi gục đầu thiếp đi. - Xuống..! Thức dậy, xuống xe! Tôi bừng tỉnh. Tấm bạt xe mở tung, gió đêm lùa vào lạnh căng. Tôi bước xuống, định thần nhìn quanh. Hình như là cuối dãy nhà lồng chợ, chắc chắn không phải là khám lớn của tỉnh. Tôi hỏi nhỏ chị đồng hành: - Đây là đâu vậy chị? - Chợ Rạch Sỏi. Không biết tụi nó làm gì mình đây. Nghe nói tôi cũng chột dạ. Đêm tối cuối năm, lạy trời đừng đúng theo những gì đang diễn ra trong đầu tôi. Hãm hiếp rồi giết liệng trôi sông, nào ai biết, lại hốt trọn đống hàng không chứng cớ. Thiệt là nhất cữ mà tam tứ tiện. - Mấy chị theo tui. Một thằng công an rọi đèn pin về phía trước, thằng khác phía sau hất mũi súng ra dấu. Chúng tôi yên lặng bước theo hướng vào trong chợ, lòng hoang mang. Đi một khoảng đường ngắn, vừa khỏi chợ là đến bến đò. Bây giờ chúng tôi chợt hiểu phần nào sự việc xảy ra. Thay vì đưa về khám lớn tỉnh, chúng tống thẳng chúng tôi về trại tù miệt thứ. - Mấy anh đưa chúng tôi đi đâu đây? - Tù, chớ đi đâu. Buôn hàng cấm tội như phản động, tù cải tạo cho biết. Chúng trả lời mỉa mai. Dưới bến, chiếc đò máy và hai thằng công an khác đang đợi sẵn. Thế là hết, tam thập lục kế đến nước nầy chỉ còn "nhắm mắt đưa chân", tới đâu xâu tới đó. Chiếc đò máy rời bến, thằng công an áp tải đứng trên vẫy tay: - Chúc mấy chị về thứ bảy ăn Tết vui vẻ. -------- Mình mẩy con nhỏ nóng như lửa đốt. Từ hôm qua đến nay, Bé Năm ăn gì ói nấy. Tôi đưa nó lên trạm xá xin thuốc, thằng y tá nói nó làm bộ để trốn lao động, đuổi ra. Tội nghiệp con nhỏ, mặt mày xanh lét chỉ biết khóc. Nhìn Bé Năm nằm run rập cập, trán đẫm mồ hôi, tôi chịu không nổi. Đằng nào cũng phải chờ ra giêng, đút lót tụi nó giờ nầy cũng vô ích. Mấy thằng cán bộ lãnh đạo trại đã về hết gia đình ăn tết với vợ con, còn lại là đám canh tù ‘đầu trâu mặt ngựa’, tép riu. Hầu hết phạm nhân của trại tù cải tạo nầy là gia đình chủ tàu tổ chức vượt biên, lươn lận thụt két quỹ nhà nước, sử dụng giấy tờ đi đường hay công lệnh giả và vượt biên bị bắt. Buôn gian bán lận hàng quốc cấm như tôi là trường hợp đầu tiên, đặc biệt. Bé Năm ở đây đã hơn 4 tháng, tội vượt biên, đến nay cũng chưa xét xử hay đá động gì tình trạng của nó. Còn như tôi nghe đâu một hai tháng là cùng, nếu biết cửa mà nhờ. Thì tái ông thất mã, bị bắt nhưng vào những ngày cận Tết nên cũng đở, lao động cầm chừng và chưa được đám quản giáo chăm sóc tận tình theo đúng lệ tù non. Chớ nghe đâu luật ‘tù non’ phải lao động tiên tiến ban ngày và học tập cách mạng cá nhân với quản giáo tới nửa đêm gà gáy. Tôi kéo cái mền của mình đắp thêm cho nó. Thôi thì đành, tôi vừa bán chiếc nhẫn chỉ rưỡi ‘giá cán bộ’, định để xài nhín nhín phòng thân, chờ liên lạc gia đình. Tôi cắm đầu đi lên trạm xá để gặp thằng cán bộ y tế lần nữa. Sau khi ngả giá, lục lọi một hồi nó đưa tôi được chục viên aspirin và một chai thuốc ‘thần dược’ dân tộc xuyên tâm liên. Tính ra hơn nửa chỉ vàng. Mà thà vậy, chớ ở tù miệt nầy có vàng chưa chắc gì mua được thuốc. Tôi rẽ vội xuống chái hậu cần ‘xin’ cán bộ Ánh, chị nuôi láng nữ, một chén nước cơm nóng và mấy miếng đường thẻ. Chị người ở Gò Quao, cha mẹ bị bom bừa chết sớm, làm giao liên cho cách mạng từ lúc 11, 12 tuổi. Đến năm 18, đảng gả chồng cho chị, du kích của huyện. Chưa được một năm, chị trở thành vợ liệt sĩ. Từ đó chị Ánh đi từ bếp lửa cách mạng nầy đến vùng tiếp vận lửa khói khác, người chị nuôi hậu cần bất khuất của vùng quê hương Rạch Giá. Hòa bình, không như bao nhiêu người khác, chị không có nơi nào để trở về mừng ngày đoàn tụ hay vinh quang công trạng của tổ chức. Chị Ánh tiếp tục cuộc đời còn lại của tuổi thanh xuân bên những bếp lửa cách mạng, chỉ khác không còn dưới tầm bom đạn mà dưới sự cắt chia từng khẩu phần của cơ quan. Cuối cùng với công trạng gia đình liệt sĩ, chị được tổ chức phân công về công tác hậu cần cho trại tù cải tạo ở thứ Bảy nầy. Mới ngoài 30, tôi đã thấy trán chị hằn những vết nhăn khốn khổ và đôi mắt chợt lắm khi vô hồn với những ánh lửa chung quanh. Nên chừng như trong đám đảng viên, cán bộ quản giáo ở đây chỉ có chị là còn sót lại chút thương cảm tình người... Trở lại láng tôi vẫn thấy Bé Năm còn thiêm thiếp. Đỡ dậy uống hai viên aspirin, tôi giục nó uống chén nước cơm nóng quậy đường thẻ, lấy sức. Nhìn khuôn mặt nhỏ nhắn, trẻ thơ của Bé Năm thật tội nghiệp. Tôi chỉ lớn hơn nó hai tuổi mà trông tôi già dạn hơn nhiều. Da tôi ngâm đen, tóc tai lùng bùng cháy nắng, ngược lại Bé Năm da dẻ trắng xanh, tóc đen óng mượt mà từng lọn. Nhớ lại đêm mới giải xuống, mình không, Bé Năm chia với tôi góc mền cái gối. Ở đây cái gì cũng tự túc. Chưa biết gì nhau mà nó đã không ngần ngại nhường tôi tất cả những đồ dùng cần thiết hằng ngày, nhất là phụ nữ. Khác với tánh lanh chanh, lợi ít hại nhiều của tôi, tánh Bé Năm lặng lẽ, ít nói nên tôi cũng không biết nhiều về nó. Nhưng nhìn tay chân, mặt mũi và dáng dấp ‘liễu yếu đào tơ’ của Bé Năm, tôi đoán chắc nó con nhà khá giả hay ít ra cũng chưa đến nổi, “vào trong kim chỉ ra ngoài mánh mung” như tôi. - Em mang ơn chị nhiều quá. Không có chị không biết ra sao... - Ơn nghĩa gì.Chị em cùng cảnh ngộ mà.Thôi ráng ngủ chút đi, Dinh lén để dành chút cháo, dậy ăn. - Cô Dinh à, vịt làm rồi nè. Tiếng của Ánh, chị nuôi hậu cần, tôi ra dấu cho Bé Năm nằm nghỉ, rồi bước vội về phía chái nhà bếp. Sở dĩ tôi được thong thả ở láng chăm sóc Bé Năm là nhờ tài nghệ làm tiết canh của tôi, nhất là món tiết canh vịt. Món mà ngày xưa cha tôi đánh nổi tiếng cả đơn vị và truyền lại cho tôi. Vừa đến trại giam hai ngày thì ban quản giáo lên kế hoạch mở tiệc liên hoan cho ban lãnh đạo trại và mời cả bên huyện ủy. Bí thư trưởng ban quản giáo, đồng chí Ba Thái, dân miệt Hòn rất thích nhậu đế trắng với món tiết canh vịt mà mấy năm nay chưa ai làm hài lòng tên nầy. Để lấy lòng đồng chí bí thư, ban quản giáo họp toàn trại để tìm "nhân tài" cho món tiết canh. Điều kiện thật khó lòng từ chối, miễn lao động cho tới hai tuần lễ sau tết. Nhưng nếu làm liều ‘đánh’ láo, hư dĩa tiết canh thì lao động gấp đôi và không được nhận đồ thăm nuôi một tháng. Vì vậy mà cả ba láng tù không một bàn tay nghĩa khí đưa lên! Tôi đứng lên tình nguyện, lãnh phần. Ngay hôm sau chúng giao tôi một con vịt xiêm làm thử. Dĩa tiết canh được đám quản giáo chiếu cố một cách tận tình, vét sạch đến không cần rửa. Đồng chí bí thư đích thân khen ngợi và ủy lạo tinh thần tôi, chuẩn bị cho bữa tiệc liên hoan với huyện ủy chiều 29 tết. Buổi chiều cuối năm trời lạnh hiu hiu, lay lắt gió. Bên trong hội trường, tiếng cười nói ồn ào của đám cán bộ và quản giáo. Tất cả là hai con chó mực và sáu con vịt xiêm lớn nên mùi thức ăn thơm lừng cả mấy láng trại. Rãnh tay chờ dọn dẹp, Bé Năm rủ tôi ra phía sau nương láng bếp ngồi nghe hương vị tết. Con nhỏ bảo tôi nó mê ca sĩ Duy Khánh là vì bài "Xuân Nầy Con Không Về" và khe khẻ hát từng đoạn rời rạc, câu nhớ câu không. Rồi tự nhiên Bé Năm yên lặng một hồi lâu, chợt quay qua hỏi tôi, quê chị Dinh ở đâu. Câu hỏi bất ngờ của nó làm tôi chưng hửng. Quê tôi ở đâu kìa? Trong khai sanh, tôi sinh ra ở một làng nhỏ thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long. Sau đó, tôi nhớ ngờ ngợ mình ở con hẻm nhỏ đường Phan Đình Phùng, gần chợ Bàn Cờ. Nhưng, thời thơ ấu đậm đà trong tôi là những ngày tháng sống ở căn nhà mướn trong cái xóm chuyên làm kẹo mạch nha, đường phổi bên lộ Quang Trung, thị xã Quãng Ngải. Cha tôi lúc đó là sĩ quan truyền tin của sư đoàn 25 bộ binh, đóng ở Mộ Đức. Tôi bắt đầu cắp sách đến lớp mẫu giáo ông giáo Thống được vài tháng thì vào trường nữ tiểu học, cạnh tiểu khu thị xã. Không hiểu sao cái xóm tôi ở không có con gái nên tôi chơi bạn toàn là con trai. Bắn đạn, tạt lon, hớt cá lia thia...đến tắm sông tôi đều rành rọt. Tôi biết lặn, lội sảy, lội chó cũng tại dòng sông tuổi thơ Trà Khúc. Được đâu vài năm, cha tôi lại theo đơn vị chuyển về miền nam, huyện Đức Hòa, Đức Huệ gì đó. Rồi cũng chẳng bao lâu, ông sang tiểu đoàn khác về thị xã Vị Thanh, tỉnh Chương Thiện cho đến ngày giải phóng. Dòng kinh xáng Sà-No chảy lững lờ dọc thời con gái của tôi... Nên tôi không biết trả lời Bé Năm thế nào, quê tôi ở đâu. Nghe tôi kể một hơi, con nhỏ cũng chẳng hiểu đâu vào đâu, thôi không thắc mắc nữa. Còn Bé Năm, tôi hỏi, quê ở đâu? Từ hồi mẹ đẻ đến giờ Bé Năm chỉ ở Vàm Răng, chưa lần nào ra khỏi tỉnh, nó trả lời nhát gừng rồi không trả lời gì thêm. Quen tánh ít nói của nó, tôi cũng yên lặng nhìn bâng quơ buổi chiều cuối năm đang chìm dần phía sau những rừng tràm thăm thẳm tầm mắt. Chợt Bé Năm buông tiếng thở dài, từng đợt, như cố ngăn nhưng không kiềm chế được. Nỗi im lặng đồng lõa với nỗi lòng trĩu nặng chung quanh. 29 tết, đêm chìm nhanh, lạnh đen trong hương đất trời trừ tịch. Không biết giờ nầy bên ngoài ra sao, mẹ tôi chắc đang ngồi buồn cho đứa con gái sinh ra nhằm tuổi ngọ ‘nên suốt đời cất vó chạy rong’. Có bàn tay mềm lạnh, xiết nhè nhẹ mấy ngón tay tôi. Khuôn mặt Bé Năm chỉ còn là một khung soan nhàn nhạt. Thân hình nhỏ rung từng đợt, gục hẳn vào vòng tay tôi, mềm mại. Trên đôi vai khô gầy, tôi nghe thấm âm ấm giòng nước mắt nấc nghẹn của Bé Năm. Con ngựa đầu non chừng như cũng nức nở, ngỡ ngàng. Khóc đi nhỏ, cho nhẹ mọi nỗi lòng. Nước mắt nhỏ, nước mắt tôi, dù lẻ loi cũng sẽ chảy mặn biển đời. - Chị Dinh, em có điều rất hệ trọng muốn nói với chị. Mà không, em muốn nhờ chị... - Nói đi Bé Năm. Lúc nào Dinh cũng sẵn lòng mà. Bé Năm nặng nề cố nuốt từng nỗi nghẹn ngào, khô khan. Thỉnh thoảng, những tràng cười nói vọng vào đêm tịch mịch, từ trong hội trường sáng rực đèn ‘măng-xông’, như giục giã giây phút còn lại. Bé Năm khẻ hắng giọng và lau mắt đôi lần. Giọng nó dứt khoát và tỉnh táo hơn: - Em tên thật là Tiên, Võ Thị Tiên. Bé Năm là tên ở nhà... Một năm trước đây, người bạn nối khố với ba em ghé thăm, thấy em, liền đánh tiếng hỏi mối mai cho con trai của chú. Anh ấy tên Trọng, trung úy pháo binh, sau 4 năm cải tạo giờ còn đang quản thúc ở địa phương. Chú có cho em và gia đình bức hình chụp đã lâu của anh ấy. Trong hình ảnh còn trẻ và hiền lắm. Gia đình đồng ý ngay. Phần em, lòng cũng không phản đối gì. Những ngày tháng hỗn loạn đó, làm thân con gái, chỉ mong có một nơi yên lấy bản thân... Thời gian sau, anh ấy bị chính quyền địa phương bắt đi lao động cải tạo trở lại. Gia đình quyết định tìm mối tổ chức đưa anh Trọng và em đi vượt biên. Bể ổ, cánh em bị bắt, cánh ảnh thoát được... Bắt giải về đây thì em bị thằng quản giáo cưỡng hiếp, chiếm mất đời con gái. Nghiệt ngã thay, em đã mất kinh và có dấu hiệu mang thai với thằng khốn nạn đó. Với anh Trọng, đời em đã chết. Em không còn xứng đáng với anh ấy nữa. Nhưng tấm lòng em, tình cảm em vẫn thuộc về ảnh. Em muốn nhờ chị thay em đáp lại mối nợ tình nầy. Tôi chưng hửng, cố giương mắt nhìn khuôn mặt trẻ con của Tiên, tên thật của Bé Năm, mờ nhạt trong đêm tối. Tiên nhờ tôi, bằng cách nào? Tại sao? Tôi rùng mình liên tục, từng cơn lạnh chạy dọc theo cơ thể. Nhớ lại những ngày qua, Tiên ói mửa liên miên, nóng lạnh từng hồi không phải bệnh hoạn gì, mà là triệu chứng cấn thai. Tôi chưa biết phải nói gì, phản ứng thế nào cho đúng, thì Tiên tiếp tục giọng thật rõ ràng, chậm rãi: - Chị có thể từ chối và quên đi những điều em chuẩn bị nói cho chị. Mới biết chị, nhưng thờI gian ngắn ngủi qua linh tính báo em chị là người tốt, có tình có chung. Gia đình anh Trọng vừa móc mối một chuyến đi nữa cho em, bây giờ là cho chị. Chị Dinh hiểu em nói gì, phải không chị? Trưa mai lúc 11 giờ, chị ra phía sau hội trường, có người đàn ông đợi ở đó. Câu tín hiệu, chị hỏi "anh là con chú Sáu Vĩnh ở chợ Vàm Răng", trả lời "dạ phải, em đây" và người đó sẽ giúp chị trốn trên chuyến đò cuối cùng về Rạch Sỏi lúc 4 giờ chiều. Tới bến đò Rạch Sỏi, chị sẽ chuyển qua vỏ lãi đi về Vàm Răng và xuống ghe lớn đợi sẵn ngoài đó... Nếu mọi chuyện trót lọt, xin chị thay em để đi chung với anh ấy. Chỉ có vậy. Thời gian còn lại quá ngắn mong chị cho em biết quyết định ngay... Mà dù thế nào, em cũng cảm ơn chị trước. Tai tôi vẫn chưa tin là sự thật. Cứ như giấc mơ, như trong tiểu thuyết mà tôi đọc đâu đó ngày xưa. Nhưng không, Tiên đang ngồi bên tôi bằng da bằng thịt và sương đã bắt đầu rơi thấm lạnh bờ vai. - Sương xuống nhiều cảm chết, mình vô trong đi em... - Chị Dinh nhận lời của Tiên? - Chị nhận lời. Nhưng còn chuyện anh Trọng, chị... - Chị nhận lời là được rồi. Mọi chuyện khác sẽ đến sau, chị đừng lo. Tiên cảm ơn chị và chúc chị nhiều may mắn. Nói xong Tiên đứng dậy, đi thẳng về láng. Tôi nán ngồi lại một mình bên bờ mương, lòng mộng du, chơi vơi như đi giữa sợi chỉ định mệnh mong manh của cuộc đời. Bên kia hội trường, bữa tiệc rượu vẫn chưa tàn trong đêm cuối năm trừ tịch. ...Tôi đã làm đúng theo lời chỉ dẫn nhưng không giữ đúng lời hứa ân tình với Tiên. Gặp nhau ở Vàm Răng, tôi đã nói thật hết lòng và nghịch cảnh của mình với Trọng. Thà là nhìn Trọng đớn đau trong sự thật còn hơn lừa dối tấm chân tình tha thiết một đời của anh. Mọi việc không ‘ghê gớm’ như tôi tưởng. Chừng như trong cơn sóng dữ của đất nước, vết thương của mỗi cá nhân như những hạt mưa bụi nhỏ nhoi cuốn hút theo dòng đời thác đổ chung quanh. "Cảm ơn Dinh đã cho anh biết thế nào là ý nghĩa của tình yêu, tình người và lòng chân thành của tình bạn", Trọng đã nói với tôi khi hai đứa ngồi nhìn những vạt nắng chiều, chìm tắt dần trên mặt biển. Xa xa là hòn Tre, nơi mà ngày mai là chuyến tàu định mệnh và tôi đáp khẻ, "lẽ ra Dinh mới là người nói cảm ơn anh và Tiên đã cho Dinh được ‘quá giang’ trong giòng duyên nghiệp nầy". Trọng chỉ cười buồn, nhìn xa xăm và không nói gì hơn. Đó là lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng. Trọng không thể của tôi, và ngược lại, tôi không thể nào của Trọng được. Đành lòng tôi phải lỗi hẹn với Tiên. Rồi nhỏ sẽ tha lỗi cho tôi, nghe nhỏ... Trọng đã tiễn tôi ra khơi cùng chuyến hải hành nhưng anh thì ở lại. Thái độ lựa chọn của Trọng thật rõ ràng, vì Tiên, vì trái tim anh mãi mãi thuộc về dòng kinh nước mặn của Vàm Răng. Làm sao tôi quên được cái vẫy tay của anh trên chiếc ghe nhỏ, khuất mờ dần trong màn sương lần tiễn biệt. - Tiên, nhỏ ơi, trong mọi nỗi tận cùng khổ đau hay tuyệt vọng, tình yêu vẫn luôn luôn có thật giữa đời nầy... ------- Định cư tại Hoa Kỳ tôi đã cố gắng tìm mọi cách liên lạc với Trọng và Tiên. Nhưng rồi thời gian cứ lặng lẽ trôi qua mà tin họ vẫn mù tăm, vô vọng. Cuộc sống của xã hội mới cuốn hút tôi vào như cơn lốc nhỏ. Hình ảnh của Tiên, của Trọng cũng mờ dần theo năm tháng. Nhiều lúc tôi thẫn thờ chợt nghĩ ra rằng, có những cuộc đời, những khuôn mặt người chỉ một lần thoáng qua rồi sẽ mãi mãi không bao giờ gặp lại. Họ đi về đâu, cuộc sống ra sao, câu hỏi chừng như thật đơn giản mà câu trả lời bí ẩn, to lớn biết chừng nào. Thỉnh thoảng trong giấc mơ, tôi vẫn thấy khuôn mặt trắng xanh với nụ cười thật trẻ thơ của Tiên và bàn tay vẫy khuất mờ của Trọng... Tôi trở lại Vàm Răng sau gần 20 năm xa cách. Tất cả cũng không có gì thay đổi nhiều. Lần mò hỏi thăm tôi mới biết gia đình Trọng Tiên không còn ở đây nữa. Nghe đâu họ đã dọn về hòn Tre (hay còn gọi là hòn Rùa) sinh sống. Tôi vội vã bao tàu máy đi ra hòn Tre... Và trước mặt tôi là người đàn ông tóc hoa râm, da sậm đen ngồi vá những mảnh lưới rách chung quanh. Qua ánh mắt, tôi biết đây là Trọng. Người đàn ông nhìn tôi rồi bừng lên nỗi vui mừng: " - Cô... Cô Dinh, phải hông? - Anh Trọng. Em là Dinh đây anh! Chỉ chừng ấy tôi nghẹn lời, không nói gì thêm được. Chính giữa căn nhà đơn sơ, bề bộn những tấm lưới dọc ngang là chiếc bàn thờ có hình người con gái trẻ nét mặt ngây thơ, quen thuộc. Tôi nhìn sững sờ rồi nhận ra ngay đó là Tiên, Võ Thị Tiên. Bao nhiêu xúc động kềm chế chợt vỡ òa, tôi gục đầu khóc nức nở. Trọng chậm rãi kể lại tôi nghe tất cả câu chuyện sau khi tôi rời trại giam miệt Thứ và ra đi... Bào thai đã bắt đầu đội bụng, Tiên hỏi thăm mấy cô bạn tù lớn tuổi để tống cái thai oan nghiệt trong bụng. Một bà hậu cần đã chỉ và tìm giúp Tiên loại cây thuốc phá thai rất phổ biến trong dân gian. Đó là loại lá cây cau trời hay còn gọi là cây chó đẻ. Lá cây chó đẻ vò nát, ăn sống ba lần là có tác dụng tống thai ngay. Tiên đã làm theo và kết quả là trúng độc, chết cả mẹ lẫn con. Đám cai tù trại giam giấu kín chuyện có thai chỉ báo gia đình Tiên bệnh nặng qua đời. Sau đó Trọng cùng người em họ dọn ra hòn Tre sinh sống bằng nghề vá và đan lưới qua ngày. Tuy chưa cưới hỏi nhưng Trọng mang theo di ảnh và lập bàn thờ cho Tiên, như vợ mình. Câu chuyện cứ tưởng chừng như một giấc mơ. Một giấc mơ có thật cho đời người trong xã hội đầy áp bức, bất công. Tôi không thể thay đổi được gì, chỉ nuốt từng giọt nhớ thương người bạn tù đã mất; cố gắng giúp Trọng xây lại ngôi nhà và một số vốn nhỏ để anh thay đổi phần nào cuộc sống. Mỗi người một số phận, có khi buột chặt vào nhau, có khi lặng lẽ trôi bên nhau trên cùng mặt phẳng cuộc đời. Nhưng trong tận cùng kiếp nhân sinh khổ ải, tôi vẫn còn nhìn thấy tấm lòng, tình yêu có thật. Tấm lòng cao quý của Tiên dành cho tôi. Tình yêu ngời sáng của Trọng dành trọn vẹn cho Tiên. Hình ảnh tối tăm của trại giam miệt Thứ không giết chết được tình người, không giết chết tính nhân bản của chúng ta. Tình yêu của tôi dành cho Tiên, cho Trọng và cho quê hương vẫn luôn mãi mãi rạng ngời trong tim.
Niệm Từ |
|
Tình yêu thương hay nhịn nhục
tình yêu thương hay nhơn từ tình yêu thương chẳng ghen tị chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,chẳng làm điều trái ph |
|
![]() |
|
<< phần trước Trang of 111 |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |