XỨ GÒ MÙA NẮNG HẠN
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Quê Hương Gò Công
Forum Discription: Những cảm xúc về quê hương Gò Công
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=8666
Ngày in: 30/Jul/2025 lúc 12:16am Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: XỨ GÒ MÙA NẮNG HẠN
Người gởi: Nhân Kiệt
Chủ đề: XỨ GÒ MÙA NẮNG HẠN
Ngày gởi: 28/Mar/2013 lúc 3:17am
Đi qua miền đất “khát”
Trời tháng ba, nắng như đổ lửa.
Trên các cánh đồng lúa trơ gốc rạ, đất khô nứt nẻ. Nước dưới kinh trục
xuống thấp, nước xanh lè. Khó khăn về nước sản xuất cho cây lúa vừa mới
đi qua, người dân xứ Gò tiếp tục đối mặt với cơn “khát” nước sinh hoạt.
THÁNG BA CÒN CHẮT CHIU
Chúng tôi về Gò Công Đông trong một ngày cuối tháng 3. Nguồn nước
sinh hoạt của người dân nơi vùng sâu, vùng xa của huyện biển đã và đang
cạn dần, chỉ còn lại ao tù, nước kinh ô nhiễm nặng. Chị Dương Thị Ngọc
Ny, cán bộ xã Tân Tây, than: “Nhà của tôi ở cách cơ quan vài cây số. Ao
nhà đã cạn nước cách nay hơn 1 tháng rồi. Kinh gần nhà cũng cạn. Mỗi
ngày đi làm, vợ chồng tôi phải mang theo 2 can nhựa vô cơ quan lấy nước
về xài”.
 |
Ông Cao Văn Hai, ấp
Kinh Nhiếm (Phú Thạnh, Tân Phú Đông) chở nước từ ao làng bỏ hoang ở xã
Tân Phú về tắm rửa, giặt giũ và cho vật nuôi uống. |
Đi qua các cánh đồng ngai ngái mùi rạ khô, trong cái nắng như “cháy
da, cháy thịt”, dưới những tán cây cằn cỗi vì thiếu nước, có ai không
cảm nhận được cuộc sống cơ cực của người dân nơi đây. Mỗi mùa khô đến,
lo “khát” là nỗi ám ảnh khôn nguôi của những người dân sống rải rác vùng
ven biển, những nơi mà nguồn nước máy chưa đến được. Mọi sinh hoạt của
người lớn, trẻ con trông chờ vào nguồn nước giếng đào, ao và kinh. Và
tất nhiên khi khô hạn kéo dài, nước trong các ao, kinh cũng không còn
trong và sạch như trước.
“Nước kinh đã nhiễm phèn rất nặng cộng thêm thuốc trừ sâu, phân, các
chất thải khác vứt xuống nên rất ô nhiễm và độc hại. Dù biết như thế
nhưng ai cũng phải lấy lên xài. Không biết có phải do nguồn nước ô nhiễm
hay không mà đứa con gái của tôi mấy ngày nay nổi ghẻ và ngứa quá
chừng”- ông Hồ Trường Nhân, ngụ ấp 6, than thở.
Chúng tôi đi tiếp về ấp 3, một trong những ấp khó khăn nhất về nước
sinh hoạt của xã Tân Tây. Khi thấy có người dừng xe trước nhà và hỏi
thăm về tình hình nước sinh hoạt, bà Nguyễn Thị Bạc buông câu: “Năm nào
cũng vậy chứ đâu chỉ có năm nay. Ráng chịu đựng thôi, chứ còn biết làm
gì bây giờ”.
Nhà bà Bạc có 5 nhân khẩu, mọi sinh hoạt tắm rửa, giặt giũ đều từ ao
nước ở sau nhà. Trước đó, gia đình bà có đào một cái giếng nhưng do nước
giếng lúc mặn, lúc ngọt nên chỉ khi nào khó khăn lắm mới dùng đến. “Mùa
khô ở đây ai cũng vậy, biết than ai. Không biết bao giờ mới hết cảnh
này”- bà Bạc nói như than thở.
Tìm hiểu thêm tình hình nguồn nước sinh hoạt của người dân trên địa
bàn xã Tân Tây, chúng tôi được anh Trần Văn Lâm, Phó Chủ tịch UBND xã
cho biết, xã có đến 59% hộ dân chưa kéo nước máy về nhà. Giải quyết nước
cho những hộ dân này, đơn vị cấp nước đã mở 10 vòi nước công cộng cho
người dân đến điểm gần nhất lấy về xài. Thế nhưng theo anh Lâm, hiện nay
nước máy đã bị hơi “cứng”. Chưa biết tình hình nước cấp thời gian tới
sẽ ra sao.
“Hiện nay, đường ống dẫn nước BOO kéo xuống xã Tân Phước đang triển
khai thi công. Đường ống này đi ngang qua địa bàn xã có thể nối với hệ
thống cấp nước của xã. Khi đó, hy vọng tình hình sẽ khá hơn”- anh Lâm hy
vọng.
Gò Công Đông hiện có khoảng 47% người dân sử dụng nước máy. Tỉnh
đã cho mở 57 vòi nước công cộng để những hộ dân chưa vào nước máy đến
lấy về sử dụng và kéo thêm 3 tuyến ống dẫn nước để tạo điều kiện cho các
hộ dân vào nước máy.
“Tuy nhiên, những nỗ lực này vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu
của người dân. Trước dự báo tình hình sắp tới sẽ rất khó khăn, các xã đã
đề nghị mở thêm trên 10 vòi nước công cộng nữa”- ông Võ Văn Hoàng
(Phòng NN&PTNT huyện Gò Công Đông) cho biết.
|
Chúng tôi đi tiếp về các ấp Xóm Mới, Giá Trên, Giá Dưới của xã Kiểng
Phước và một số khu vực xã Tân Phước. Hình ảnh người dân phải thuê xe
chở nước về xài với giá hàng chục ngàn đồng một mét khối nước của mùa
khô năm nào vẫn chưa qua đi.
Tôi còn nhớ mùa khô năm 2011, tại ngã tư Kiểng Phước, lãnh đạo tỉnh
và huyện đã đi khảo sát và lên kế hoạch kéo tuyến ống nước vào khu vực
này. Thế nhưng, đến mùa khô năm nay, người dân vẫn tất tả lo nước.
Anh Đoàn Công Trường, ấp Xóm Mới, xã Kiểng Phước bức xúc: “Tôi nghe
nói chủ trương kéo ống nước từ ngã tư Kiểng Phước vào khu vực phía trong
này đã có lâu rồi nhưng đến giờ vẫn chưa thấy đâu. Hàng ngày, người dân
phải thuê xe ra ngã tư Kiểng Phước chở nước về xài. Mà giá thuê đâu
phải rẻ”.
THÁNG 4 CÒN CĂNG THẲNG HƠN
Nhìn những chuyến phà chòng chành theo con sóng, ít ai nghĩ rằng,
phía bên kia dòng sông Cửa Tiểu thơ mộng và xanh trong kia - huyện Tân
Phú Đông - các tuyến kinh nội đồng đã trơ đáy; cả những tuyến kinh trục,
nước cũng đã chuyển màu từ lâu và đang cạn dần. Nhiều tháng qua, người
dân cù lao phải “oằn mình” chống chọi với tình trạng thiếu nước ngọt.
Căn nhà lọt thỏm giữa những cánh đồng xác xơ và trơ trọi, không có
lu, không có bể chứa nước ngọt, gia đình chị Nguyễn Thị Biết, ấp Lý Quàn
1, xã Phú Đông, đào một khu đất cạnh nhà để lót ni lông trữ nước, đưa 2
đứa con thường xuyên “tản cư” về nội, ngoại. Ao “dã chiến” này cũng
chẳng giữ nước được bao lâu, chị tiếp tục kéo ống bơm nước ngoài kinh về
trữ trong ao.
Rồi ao lại hết nước, chị kéo ống ra tận hộ có nước máy để mua về xài.
Và giờ chị càng lo hơn khi nghe tin nguồn nước máy cũng sắp hết. “Nếu
nguồn nước này hết, không biết từ đây đến khi mưa xuống, gia đình tôi
lấy nước đâu để xài”- chị Biết lo lắng.
 |
Nguồn nước sinh hoạt của gia đình bà Nguyễn Thị Bạc, ấp 3 (Tân Tây, Gò Công Đông) đều trông chờ vào ao sau nhà. |
Ngược về các xã phía Tây, thỉnh thoảng tôi bắt gặp những chiếc xe
thồ, xe máy chở các can nhựa chứa đầy nước xuôi ngược. Ao làng bỏ hoang ở
xã Tân Phú nằm cạnh Tỉnh lộ 877B nước xanh lè, nhưng mỗi ngày “tiếp
nhận” rất đông người đến lấy nước.
Dù trời còn đang đứng bóng, nắng rát cả mặt người, ông Cao Văn Hai,
ấp Kinh Nhiếm, xã Phú Thạnh, nhuễ nhại mồ hôi múc từng thùng nước từ ao
đổ vào các can nhựa (mỗi can 30 lít). Hàng tháng nay, ngày nào ông cũng
chở can nhựa đi lấy nước cách nhà trên cây số về tắm rửa, giặt giũ và
cho vật nuôi uống. “Trời đang trưa nên ít người đi chở nước, một tí nữa
nắng dịu xuống, người đến đây lấy nước nhiều lắm. Lúc đó, chú mặc sức mà
chụp hình”- ông Hai nói.
Men theo con đê trải đá xanh cặp sông Cửa Tiểu hướng về ấp Bà Lắm, xã
Phú Thạnh. Bên ngoài là những đầm tôm đang vào mùa với tiếng máy quạt
xập xình, nước văng tung tóe. Phía trong là những ruộng vườn khô nứt nẻ.
Ông Thành, ấp Bà Lắm trầm ngâm: “Người dân ở đây còn phải chịu như thế
này dài dài. Nằm trong vùng hẻo lánh, không biết bao giờ mới vào được
nước máy. Nếu vô được, chắc gì nước máy có đủ để xài”.
Theo thống kê, toàn xã Phú Thạnh còn 50% hộ chưa có nước máy sử dụng.
Hiện tại, các ao, kinh, mương bị ô nhiễm nặng hoặc đã cạn kiệt, khó
khăn về nước sinh hoạt là không thể tránh khỏi. “Mùa khô này, trên địa
bàn xã được kéo thêm một số tuyến ống nước và mở vòi nước công cộng cho
dân xài. Tuy nhiên, nước trong các ao trữ của trạm cấp nước tập trung
đang xuống rất thấp. Nếu mưa trễ, khả năng nước máy cũng bị thiếu và
thiếu nước gay gắt nhất khi bước vào tháng 4”- ông Lương Công Phú, Phó
Chủ tịch UBND xã Phú Thạnh cho biết.
Trao đổi với chúng tôi về nước sinh hoạt trên huyện cù lao, ông
Nguyễn Văn Hải, Trưởng Phòng NN&PTNT huyện, cho biết số hộ vào nước
máy trên địa bàn huyện còn rất thấp, khoảng 35%. Bên cạnh những hộ chưa
vào nước máy gặp khó khăn trong sinh hoạt, năm nay nguồn nước máy cũng
không “dễ thở”.
Hiện tại, mực nước ao trữ 6 ha ở Tân Thới cũng như các ao khác xuống
rất nhanh. Những ngày tới, nắng nóng còn gay gắt hơn dẫn đến nước bốc
hơi càng nhiều, người dân sử dụng nước tăng, nếu không có giải pháp, khả
năng ao 6 ha chỉ đảm bảo cung cấp đến giữa tháng 4. Giải pháp cho vấn
đề này, Sở NN&PTNT cho biết, đơn vị cấp nước sẽ tranh thủ những đợt
giảm mặn trên sông để lấy nước bổ cấp cho ao 6 ha ở Tân Thới.
Dẫu biết rằng đến hẹn lại “khát”, nhưng mỗi mùa khô qua, người dân xứ
Gò lại phải “oằn mình” với “khát”. Tình cảnh đó vốn có từ lâu ở vùng
đất giáp biển mà người dân nơi đây đời này qua đời khác đối mặt với
thiên nhiên. Nhiều thập niên qua các cấp, các ngành đã nỗ lực “giải
khát” cho miền đất “khát”. Song cứ đến hẹn lại lên tình cảnh “khát” vẫn
là vấn đề nan giải.
TÂN PHÚ
Hình ảnh quen thuộc của người dân xứ Gò khi mùa khô đến

( Trích đăng tứ báo baoapbac.vn ngày 27/3/2013 )
|
Trả lời:
Người gởi: Nhân Kiệt
Ngày gởi: 28/Mar/2013 lúc 6:55pm
Nơi đầu sóng ngọn gió Tân Phú Đông đối phó với hạn, mặn
Trời
tháng 3, mới vào đầu mùa khô chưa lâu nhưng những cơn gió mang theo hơi
nóng như rang thổi bất tận qua những cánh đồng cỏ úa vàng vọt, héo hon
của các xã Phú Thạnh, Phú Tân, Phú Đông (huyện Tân Phú Đông, Tiền
Giang). Kèm theo gió nóng và nắng oi bức thiêu đốt là nỗi lo về nước
sinh hoạt, nước sản xuất khi các lòng kênh trong nội đồng đã hồ cạn trơ
đáy và xung quanh bốn bề biển nước mặn vây quanh.
Ông Lưu Văn Hải, Chủ tịch xã Phú Tân cho biết, trong mấy ngày qua,
nhiều hộ dân của các ấp Cồn Cống, Phú Hữu không còn nguồn nước dự trữ
đang phải nhờ vào nguồn bổ cấp từ các sà lan chuyển nước ngọt tận Long
Uông (Gò Công Tây) bên đất liền qua với giá đắt đỏ: 85.000 đồng/m3.
Mùa mặn năm nay đến sớm và dự báo còn kéo dài hơn năm trước, có thể đến
tận tháng 5/2013, do vậy, chính quyền và nhân dân địa phương hết sức lo
lắng.
Ở huyện Tân Phú Đông năm nay mặn đến sớm hơn cùng kỳ năm trước gần cả
tháng. Đến giữa tháng 12/2012, tất cả các cống trong khuôn khổ dự án
thủy lợi Phú Thạnh, Phú Đông phải đóng ngăn mặn triệt để. Còn hiện tại,
nước mặn từ biển Đông theo vàm Cửa Tiểu và Cửa Đại (sông Tiền) lấn sâu
về thượng lưu từ 40 - 50 km, nghĩa là, huyện cù lao Tân Phú Đông đã bị
mặn bao vây bốn phía. Theo thống kê, về sản xuất đã có khoảng 60 ha lúa
vụ ba nông dân gieo sạ không tuân thủ lịch thời vụ khuyến cáo nên bị mất
trắng, chỉ có một ít diện tích thu hoạch với năng suất thấp 2 - 3 tấn/
ha, không đủ bù lại chi phí sản xuất tối thiểu. Do đây là diện tích
xuống giống tự phát, không theo qui hoạch và lịch thời vụ khoa học ngành
chức năng đưa ra nên đành "tự làm tự chịu (!)".
Lo lắng lớn nhất là nước sinh hoạt trong mùa khô 2013 dự đoán kéo dài
hơn bởi nhiều yếu tố mà rõ nét nhất là hậu quả của biến đổi khí hậu, sự
bất thường của thủy văn, quá trình xâm nhập mặn mỗi năm thêm phức
tạp... Huyện Tân Phú Đông có trên 11.200 hộ với 6 đơn vị hành chính: Tân
Thới, Tân Phú, Phú Thạnh, Phú Đông, Phú Tân và Tân Thạnh. Tất cả đều
nằm trên hệ cù lao, cồn bãi hạ lưu sông Tiền nổi tiếng là đò giang cách
trở, thiên nhiên khắc nghiệt, bão tố vào mùa mưa và hạn mặn vào mùa khô.
Theo khảo sát mới nhất, có khoảng 1.500 hộ dân Tân Phú Đông thiếu nước
sinh hoạt trong mùa khô hạn 2013. Được biết, hiện trạng cấp nước sinh
hoạt cho nhân dân nơi đây gồm 8 ao trữ nước có tổng dung lượng gần
210.000 m3, trên 24.000 m đường ống dẫn nước chính và trên
69.000 m đường ống nhánh đi vào phục vụ trực tiếp các khu dân cư. Trung
bình mỗi ngày bà con địa phương cần từ 2.000 - 2.500 m3 nước
sinh hoạt, lượng nước trữ trong các ao chứa kể trên chỉ đủ dùng đến đầu
tháng 5 tới. Nếu đến giữa tháng 5, tình hình chưa được cải thiện, không
có mưa trong khi trên các dòng sông mặn vẫn gay gắt, phải triển khai
phương án điều sà lan chở nước ngọt từ đất liền, phía thượng lưu sông
Tiền về cung cấp, giải quyết khẩn cấp cơn "khát" cho nhân dân huyện cù
lao.
Đó là phương án dự phòng khi diễn biến tình hình bất lợi có thể xảy
ra trong những ngày tới. Còn đối với tỉnh, ngay từ trước mùa khô đã có
những động thái tích cực trong việc giải cơn "khát" năm 2013. Cụ thể,
tại huyện Tân Phú Đông sẽ mở tổng cộng 20 vòi nước công cộng phục vụ bà
con nhân dân trong đó có 15 vòi nước cũ và thêm 5 vòi nước mới tại các
địa bàn đặc biệt khó khăn theo đề nghị của huyện, đồng thời lắp thêm 3
trạm tăng áp tại Tân Thạnh, Phú Thạnh và Phú Đông. Trong số vòi nước mở
theo dự kiến có 6 vòi ở Phú Tân, 7 vòi ở Phú Đông, 5 vòi ở Phú Thạnh, 2
vòi ở Tân Thạnh. Ngoài ra, để tăng diện phục vụ nhân dân, huyện Tân Phú
Đông đề nghị tỉnh hỗ trợ lắp đặt thêm 21 tuyến đường ống cấp nước sinh
hoạt, trong đó đã được phê duyệt 16 tuyến và thi công 10 tuyến.
Theo ghi nhận của chúng tôi, trong những ngày đầu tháng 3/2013, tình
hình khô hạn và xâm nhập mặn ở Tân Phú Đông mỗi lúc mỗi thêm gay gắt.
Trong khi đó, một số công trình cấp nước sinh hoạt cho nhân dân thực
hiện còn chậm nên chưa phát huy được tác dụng thiết thực đối với đời
sống. Ví dụ như các trạm tăng áp có thể phải đến cuối tháng 3 mới đưa
vào hoạt động toàn bộ. Trong khi đó, đường ống dẫn nước chính đưa nước
từ các ao trữ phía thượng lưu về các xã hạ lưu giáp biển Đông có khẩu độ
quá nhỏ không đủ tải lượng nước kịp thời phục vụ khi hạn mặn vào cao
điểm. Có những thời điểm trong ngày ở các khu dân cư, nước máy chỉ chảy
nhỏ giọt thậm chí lúc có lúc không (!). Đối với 20 vòi nước công cộng
theo kế hoạch đến giờ này vẫn chưa được mở phục vụ nhân dân.
Việc cấp nước cho nhân dân đến lúc cấp bách, khi hạn mặn mỗi lúc một
thêm gay gắt và nguồn nước trữ trong nhiều hộ dân ở xa nguồn cấp, xa hệ
thống ống nước đã vơi cạn. Thực tế cho thấy trong những ngày sắp tới,
nhiều hộ dân phải đổi nước ngọt dùng với giá đắt đỏ chắc chắn tăng
nhanh. Bà con đang mong mỏi các giải pháp cấp nước cho Tân Phú Đông
nhanh chóng được triển khai đồng bộ và hiệu quả, kịp thời giải cơn
"khát" nơi cù lao "đầu sóng, ngọn gió" này.
Minh Trí
( Đăng lai từ www.tiengiang.gov.vn )
|
Người gởi: Nhân Kiệt
Ngày gởi: 28/Mar/2013 lúc 6:57pm
Tân Phú Đông: Cây trồng "gồng mình" chịu hạn
Mùa
khô, sản xuất nông nghiệp ở Tân Phú Đông gần như chựng lại. Trên những
cánh đồng lúa trong vùng dự án Phú Thạnh - Phú Đông, mặt ruộng khô nứt
nẻ xé toạc gốc rạ. Các kinh, mương nội đồng đã khô cạn từ lâu. Những
vườn cây ăn trái, liếp màu đứng "trân mình" chờ mưa xuống.
 |
Vườn nhãn của ông Lê Văn Thành, ấp Bà Lắm, xã Phú Thạnh đã bị "khát" trên 1 tháng nay. |
Tại khu vực trồng nhãn tập trung ở ấp Bà Lắm, xã Phú Thạnh, tuyến
kinh dọc đường lộ dẫn vào ấp cạn sát đáy, phèn xịt lên vàng quánh. Trên
vườn nhãn, các mương đã phơi đáy từ lâu, đất khô trắng nứt ra từng vạt.
"Từ sau Tết Nguyên đán đến nay, vườn nhãn 2 ha của tôi không một lần
được tưới nước thì làm sao không xơ xác cho được" - ông Lê Văn Thành, ấp
Bà Lắm, xã Phú Thạnh vừa nói vừa chỉ tay về phía vườn nhãn cằn cỗi phía
bên nhà.
Trên đường hướng về vùng chuyên canh nhãn của xã Phú Thạnh trong
những ngày cao điểm mùa khô, đường đá xanh bụi bay mù mịt, cái nóng hừng
hực xông lên như muốn thiêu đốt người đi đường. Tuyến kinh dẫn, trữ
nước ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp cho vùng giờ chỉ còn đọng lại vài
vũng nước vàng như nghệ. Kinh không còn nước đồng nghĩa với việc 110 ha
nhãn trong vùng phải chịu "khát". Theo ông Thành, hàng năm, ăn Tết
Nguyên đán xong là mương, kinh dẫn nước ngọt cho khu vực này bắt đầu cạn
hết cho đến khi mưa trở lại. Chịu "khát" từ 3 đến 4 tháng, cây trồng
nào "cừ" đến mấy cũng phải xuống sức. "Mấy cây quýt, cam trồng xen trong
vườn không chịu nỗi đã rũ lá mấy ngày qua. Còn nhãn xuống thấy rõ, lá
xác xơ, ngưng ra hoa. Những cây đã ra hoa cũng rụng hết cho đến khi mưa
trở lại. Do ảnh hưởng khô, hạn, cây trồng ở đây chỉ cho trái 1 vụ trong
năm và vụ cho trái năng suất cũng không cao. Tuổi thọ của cây cũng ngắn
hơn những cây cùng loại trồng ở nơi khác. Chúng tôi suy nghĩ mãi vẫn
chưa biết trồng cây gì chịu hạn giỏi, hiệu quả cao ở vùng này" - ông
Thành bày tỏ.
Không riêng gì cây nhãn, những cây trồng vốn có khả năng chịu hạn rất
tốt như cây dừa, sả ở vùng dự án cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng.
Ông Lương Công Phú, Phó Chủ tịch UBND xã Phú Thạnh cho biết, mỗi mùa khô
đến, các cống trong vùng dự án Phú Thạnh - Phú Đông đóng ngăn mặn mấy
tháng trời. Nước trong kinh cạn hoặc bị nhiễm phèn nặng không thể dùng
cho tưới tiêu. Năm nay, mặn đến sớm, tình hình khô hạn nghiêm trọng hơn
mọi năm nên cây trồng cũng bị ảnh hưởng nhiều hơn. "Trên địa bàn xã hiện
còn chủ yếu nhãn, dừa và sả và chúng đang bị thiếu nước nghiêm trọng.
Biểu hiện tác động rõ nhất của thiếu nước đối với nhãn và dừa là không
thể đậu trái, cây suy rất nhanh. Còn cây sả thì bị teo thân, nhỏ bụi,
thậm chí bị cháy lá. Do nắng gay gắt hiện nay, một số diện tích sả đã bị
cháy lá"- ông Phú nói.
Rời vùng dự án trữ ngọt, ngăn mặn Phú Thạnh - Phú Đông, chúng tôi đến
các xã phía Tây, nơi chưa có hệ thống đê bao ngăn mặn. Tại đây, nước
mặn tràn ngập vào các kinh, mương, liếp vườn cây ăn trái. Tại khu vực
phía Nam Tỉnh lộ 877B của xã Tân Phú, nước mặn xâm nhập tận các mương,
liếp mãng cầu. Dù rằng giải pháp cây mãng cầu ghép gốc bình bát của
người dân cù lao đã giúp loại cây ăn trái có lợi thế cạnh tranh của
huyện cù lao tăng khả năng chống chịu với hạn, mặn, song trước tình hình
nắng nóng, mặn xâm nhập kéo dài đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
sinh trưởng, phát triển của cây.
Ông Nguyễn Văn Bo, ấp Tân Ninh (xã Tân Phú), cho biết mùa khô, cây
mãng cầu thường bị chựng lại không phát triển được, năng suất cho trái
giảm đáng kể, một số cây còn bị suy kiệt. "Cây suy thấy rõ, tỷ lệ đậu
hoa, cho trái rất thấp. Dù biết cây suy kiệt nhưng không ai dám bón phân
cho cây do không có nước tưới. Kết quả, khoảng từ tháng 3 đến tháng 5,
cây mãng cầu giảm khoảng 50-60% năng suất cho trái so với mùa mưa; trái
thu hoạch cũng nhỏ hơn rất nhiều so với mùa mưa. Riêng năm nay, cây mãng
cầu giảm năng suất cho trái khoảng 30-40% so với mọi năm. Với tinh hình
này, dự báo mùa khô năm nay, người dân trồng mãng cầy cầu giảm thu nhập
rất đáng kể." - ông Bo nói.
Còn anh Phạm Văn Dẫn cùng ấp Tân Ninh cho biết, không biết có phải do
nước mặn hay không, từ trong Tết đến nay, vườn mãng cầu của anh chết
khoảng 30% - 40%. Cây chết rất nhanh chỉ diễn ra trong khoảng 1 tuần.
Khi lật gốc lên, bộ rễ bị thối hết. "Không riêng gì vườn của tôi, nhiều
vườn mãng cầu nằm ngoài khu bao đê ở khu vực này cũng bị như thế. Trong
khi đó, những vườn phía Bắc tỉnh lộ (không bị nước mặn xâm nhập), cây
không bị chết" - anh Dẫn bày tỏ.
Nói về những tác động của hạn, mặn đối với cây trồng ở Tân Phú Đông,
ông Nguyễn Văn Hải, Trưởng Phòng NN&PTNT huyện cho biết, cũng như
mọi năm, hạn, mặn đã và đang tác động bất lợi đến đến quá trình sinh
trưởng và phát triển của cây trồng trên địa bàn huyện. Năm nay, hạn, mặn
đến sớm và gay gắt hơn mọi năm, cây trồng bị ảnh hưởng bất lợi nhiều
hơn. Mùa khô năm nay, huyện có 60 ha lúa sản xuất không tuân thủ lịch
thời vụ và phần lớn số diện tích lúa này bị giảm năng suất và thất
trắng. Hiện tại, trên địa bàn huyện có gần 3.000 ha dừa, trên 100 ha
nhãn, trên 500 ha mãng cầu đang bị thiếu nước tưới. Ngoài ra, huyện còn
có cây sả và một số diện tích cây trồng khác cũng trong tình trạng
"khát". Ảnh hưởng của thiếu nước ngọt trong thời gian dài do hạn, mặn là
cây trồng bị suy hoặc phát triển chậm; ngưng hoặc giảm năng suất cho
trái.
Trước diễn biến bất lợi của hạn, mặn, nhiều nông dân đã tranh thủ đào
mương lấy đất bồi cho cây vừa giữ ẩm cho gốc, tích tụ nước ngọt còn lại
trong mương.Tuy nhiên, giải pháp này chỉ "giải khát" nhất thời, không
thể cứu cây trong tình trạng hạn, mặn kéo dài. Và cứ mỗi mùa khô lại
đến, cây ăn trái nói riêng và cây trồng khác trên vùng cù lao nói chung
lại phải "gồng mình" chờ mưa xuống.
Tân Phú
( Đăng lại từwww.tiengiang.gov.vn )
|
|