Trần Thành Mỹ
Nội Trú Gia Long Niên Học 48-49
Kỷ niệm một thời nội trú ở trường Nữ Trung học xưa nhất miền Nam Việt nam
Kết
quả cuộc thi tuyển vào lớp một Trung học đệ nhất cấp vừa được niêm yết
là phụ huynh học sinh ở 21 tỉnh miền Nam bấy giờ vội vã nộp đơn xin cho
con vào nội trú. Thời kỳ nầy, quan niệm ‘nam nữ thụ thụ bất thân’, tên
còn nam Văn, nữ Thị, huống hồ trường đào tạo những mầm non trí thức
khoa bảng tất phải phân định rõ ràng theo truyền thống nước nhà. Trường
Việt dành riêng cho nữ sinh miền Nam nổi tiếng nhất dưới thời kỳ Pháp
thuộc nầy là ‘Collège Gialong’ dạy từ năm thứ nhất đến năm thứ tư,
trước kia còn gọi nôm na là trường Áo tím.
Nhớ
lại những năm củi quế gạo châu, Nhật thiếu chất đốt dùng lúa thay dầu,
than đước, cưởng bức dân ta trồng bông vải thay bắp khoai. Miền Bắc
trên một triệu người chết đói, ngay cả ở ‘’vựa lúa’’miền Nam, dân nghèo
phải dùng bao bố tời che thân. Niên học nầy, có lẻ ảnh hưởng sâu đậm
của hậu thế chiến thứ hai thắt lưng buộc bụng, đồng phục học sinh không
là áo dài mà áo ngắn trắng, quần dài có thể trắng hoặc đen. Hiệu trưởng
là bà Dubois, vị Hiệu trưởng Pháp cuối cùng của trường. Giám thị hầu
hết là Việt như cô ba Trí, cô ba Liễu, cô tư Hạnh, cô năm Hoằng,...và
độc nhất một cô Pháp chính cống mà học sinh gọi là ‘cô ba Chệt’. Ðây là
trường công lập, trúng tuyển vào học miễn phí hoăc được cấp học bổng
nên cuộc thi tuyển thật khó khăn.
Các tỉnh miền
Nam thời trước đâu có nhiều trung học như ngày nay, ngay cả trường dành
riêng cho nam sinh cũng ít, huống hồ cho các cô gái. Ông bà ta quan
niệm phái yếu ‘khuê môn bất xuất’, không thích cho con gái học cao, có
lẻ vì phải đi xa, bất trắc khó lường, không kiểm soát bảo vệ được nên
thường lập luận ‘‘con gái biết chút ít chữ nghĩa là đủ rồi, học nhiều
mà làm chi,...chỉ để viết thư cho mèo, nguy hiểm lắm’’. Óc ‘tang bồng
hồ thỉ’ xuôi ngược dọc ngang, đi học ‘’dài lưng tốn vải ăn no lại nằm’’
thường dành riêng cho nam nhi chi chí. Thời điểm nầy, dù có cởi mở chút
ít rồi, nhưng vẫn còn hạn chế, không phải thành phần xã hội nào cũng đủ
tài chánh để lo cho con cái đuợc.
Mừng là còn
được tiếp tục học nhưng nghĩ phải xa nhà, tôi cảm thấy vừa lo âu, nôn
nả, luyến tiếc vì lần đầu tiên rời gia đình, bạn bè quen thuộc. Nhìn mẹ
bận rộn sắm sửa theo chỉ dẫn qui định của trường, năm bộ đồng phục, mền
mùng chiếu gối, giày guốc,... tất cả đều mang số (tôi 36, Vỏ thị Mầu
35, Nguyễn thị Hạnh 34), tôi lửng thửng ra hành lang nằm chèo queo trên
võng chẳng buồn đưa. Nhìn ra vườn, cây sơ ri đơm bông tím nhỏ lốm đốm
vài chùm trái đỏ vàng xanh, cây táo sum suê, mỗi lần gió thổi lá vàng
bay rơi rơi cùng bao quả rụng. Trước đây, không bao giờ tôi bỏ lỡ cơ
hội nầy đâu, thế nào cũng vội chạy ra lượm nhanh trái táo chua chua dòn
rụm, chùi sơ sơ vào áo, rồi nhanh như cắt chạy tìm đĩa mắm tôm chà mẹ
phơi nắng trên nắp lu nước mưa ngoài trời, quệt lén một chút, ngon ơi
là ngon !
Ðêm đầu tiên nhập nội trú, tôi nhớ nhà quá khóc rưng rức làm cô tư Hạnh giám thị đến hỏi thăm : ’’ Bịnh hả ? Có chuyện gì vậy ?’’. Sợ quá mếu máo trả lời : ’’Em nhớ má em quá cô ơị’’ Cả
‘dortoir’ cười rộ và từ đó tôi nổi danh’’mít ướt’. Về y phục, má tôi
cẫn thận chuẩn bị trước thời kỳ ‘trổ mã’ của con gái nên mẹ tôi may ba
bộ thật vừa vặn, hai bộ phòng hờ. Ðến đây quả là ‘’mưu sự tại nhân
thành sự tại’’... nhân viên. Vì sau khi giặt ủi xong, phân phối lại, có
khi cũng bộ đồ nhưng quần nầy áo nọ. Có lần tôi mặc phải áo ‘tương lai’
của tôi rộng thùng thình, dài gần tới đầu gối, tay dài như ‘trò lễ’
xăng lên hai cuộn vẫn còn dài cùng với chiếc quần cao khỏi mắt cá.
Ngược lại, đôi khi quần quá dài, may là bấy giờ còn dùng giây lưng vải
nên lắm lúc không tài nào xắn ống cao được nữa, đành phải kéo lên đến
nách buộc thắt nút dễ dàng.
Trên 50 năm , tôi
vẫn còn nhớ hai chị nằm cạnh, chị Bùi thi Tuyết Mai, em gái Bùi thị
Tuyết Hồng (Cần thơ) cùng lớp và Huỳnh thị Ngà (Bến tre), Ngoài ra còn
có các chị Trần thị Kim Tiếng, Nguyễn thị Chính (Vĩnh long). Trần Mỹ
Dung (Gò dầu hạ, Tây ninh), Nguyễn thị Bạch Hồng (Cần giuộc), chị Ðông
Ba ( Huế ), chị Khương (Vĩnh long)... Niên khóa nầy còn có Quách Thanh
Tâm, Nguyễn thị Hạnh (Gò công), Phạm ngọc Diệp (Vĩnh long), Khưu thị
Ngọc Sang (Bạc Liêu), Nguyễn thị Yến (Bình Chánh), Vỏ thị Mầu(Gò
công)...
Kỷ luật lúc bấy giờ khá khắt khe, học
sinh thường cho là độc đoán, bất công. Sợ trực tiếp là các giám thị ,
đại diện quyền uy, phạt nhiều thưởng ít, nhất là phê hạnh kiểm,
‘consigne’, chúa nhật không cho phép giám hộ rước ra. Tuyệt đối cấm
không được mở cửa sổ lầu quay ra phía đường Legrand De La Liraye, người
đi rước không thể là cậu trai trẻ đại diện. Mỗi chiều, 5giờ có bán bánh
mì ‘baguette’, ai mua trước thì còn, chậm chân thì hết, nhịn chờ cơm
tối. Sau đó là phát thơ. Tin nhà thì nhận được, chứ tin khác thì khó
qua lọt sự kiểm duyệt gắt gao của văn phòng.
Có
sống chung nhau, cá tính mới dễ lộ rõ, tốt có xấu có. Câu ‘’nhất quỉ
nhì ma thứ ba học trò’’được thể hiện qua hỗn danh gán ghép ‘vô tội vạ’
vào khuyết tật của cô nào ít được lòng học sinh như cô ba Lép, cô ba
Chệt’. Thật sự, trên đời, không ai hoàn toàn cả, thế mà phê phán chê
bai, dù biết rằng vô căn cứ đi chăng nữa, vẫn có người thích nghe, phổ
biến.
Niên học nầy còn đánh dấu nhiều biến
chuyển quan trọng. Lần đầu tiên, nữ sinh nội trú đã làm reo, tuyệt
thực, khóa phòng ngủ, nhốt giám thị, đả đảo Ban Giám đốc, mặc tình cho
bà Dubois Hiệu trưởng đến từng nơi kêu gọi mở cửa, vô hiệu. Cũng năm
nầy, leo rào cổng chính đi biểu tình đến tận dinh Phó Thủ tướng Trần
văn Hữu đường Gia long, bị giải tán bằng ma-trắc dùi cui, lựu đạn cay
chạy rã hàng đến chợ Saigon. Hậu quả trường bị đóng cửa, học sinh nghỉ
học.Tiếp đến là Phong trào Sinh viên, Học sinh vùng lên, rồi cái chết
của anh Trần văn Ơn với đám táng đông đảo nhất qui tụ mọi thành phần
dân chúng làm chính quyền lung lay. Từ đấy, mấy năm liên tiếp, không
còn nội trú vì đấy là nơi tập trung lực lượng trẻ trí thức miền Nam dễ
gây bạo động chống chính phủ, chế độ.
‘Ðèn nhà
ai nấy sáng’, trường ai nấy bảo vệ uy danh. Thế nên, trong những lần
rảnh rang tán gẫu, nhiều ý kiến bàn về tên trường Gialong. Ðây là Nữ
Trung học, hơn thế nữa, trong quá trình lịch sử ta đâu thiếu anh thư,
mẫu nghi, thi sĩ, thế mà miền Nam có Gialong, miền Trung có Ðồng Khánh
! ! !
Nhớ thời kỳ ‘’tù có số’’ thích nhìn những
cây mít trong sân, thèm thuồng mong đợi’’dái mít’’ lố nhố đầy cành, rồi
đến quả tòn teng bám thân cành nồng thơm nặng trĩu. Làm sao quên được
hàng cây cao rợp lá dọc hai bên đường chính như hàng rào danh dự. Ngày
chúa nhật, vào trưa vắng học sinh, chờ chị phụ bếp đi về đội một vừng
cơm cháy chảo vàng khếu, thoa muối mỡ hành như chiếc nón bài thơ trở
ngược, nữ sinh bao quanh ‘xin’ miếng ngon dòn. Ai mua được, chia bạn bè
người một tí, ‘’của ít lòng nhiều’’, bầu bạn xẻ chia. Có lần mẹ gởi
mạch nha lên, dù không có bánh phồng, tay thắm nước, rao ‘kẹo kéo đây
’vừa mềm vừa ngọt. ‘’Sống lâu hơn ở sạch’’, mút tay cho thật kỹ, nước
miếng cũng là thứ sát trùng thôi.
Lưu bút phai
màu, album sờn bìa được lần giở lại, gương mặt ngày xưa sao mà lạ hoắc,
dễ thương. Có những bức ảnh buồn cười mình từng chê dấu kỹ, nay nhìn
lại sao mà nhắc gợi mình bao kỷ niệm khó quên. Chữ viết gò nắn nót lồng
trong khung trang trí trình bày bằng nét vẽ tim hoa cành lá, mỗi người
mỗi vẻ diễn tả ý tình riêng. Sâu đậm nhất là thời kỳ nội trú, sống cạnh
nhau, chia xẻ lo sợ vui buồn, rèn luyện như thép được tôi ròng. Bây
giờ, con đàn cháu đống, tóc bạc da nhăn hay còn son giá, dù ở hoàn cảnh
nào đi chăng nữa, lâu lâu, phim kỷ niệm bất chợt chớp hình phóng ảnh
bồng bềnh, chuỗi ngày nội trú vẫn là khoảng thời gian trui luyện tập
tành công hiệu nhất của một thời tươi trẻ hồn nhiên.
Trần Thành Mỹ
Hoa Hạ đem về từ VN Thư Quán
-------------
Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.
Hoa Hạ
|