Print Page | Close Window

Bảo Vật Hoàng Cung VN

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Lịch Sử - Nhân Văn
Forum Discription: Lịch sử và các phong tục Tập quán
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=3830
Ngày in: 04/Aug/2025 lúc 5:12am
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: Bảo Vật Hoàng Cung VN
Người gởi: lo cong
Chủ đề: Bảo Vật Hoàng Cung VN
Ngày gởi: 11/Dec/2010 lúc 3:46pm
http://tin180.com/wp-content/blogs.dir/3/files/2010/10/Anh-phong-canh-dep-nhat-2010_Tin180.com_0011.jpg - Bảo Vật Hoàng Cung


Sau hơn 50 năm được bảo quản tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, những bảo vật tượng trưng cho quyền lực của triều đại phong kiến như kim ấn, ngọc tỷ truyền quốc, bảo kiếm... lần đầu được giới thiệu tới công chúng sáng 9/10.






Hoàng cung vốn bí ẩn với với người dân và bảo vật trong hoàng cung lại càng bí ẩn. Hàng trăm năm qua, không nhiều người biết đến và được chiêm ngưỡng những bảo vật này. Chính vì vậy, những bảo vật từ hoàng cung các triều đại phong kiến Việt Nam luôn phủ một bức màn bí ẩn, thậm chí nhiều người cho rằng chúng đã không còn tồn tại hoặc đang nằm ở các bảo tàng, bộ sưu tập trên thế giới, hoặc ngộ nhận một số đồ dùng thông thường trong cung đình là bảo vật hoàng cung.




Qua nhiều thăng trầm của lịch sử, từ năm 1959 đến nay, hàng trăm bảo vật của triều đại Lê, Nguyễn như ấn vàng, kiếm vàng, sách vàng, đồ ngự dụng bằng vàng, ngọc... vẫn còn được bảo quản, gìn giữ nguyên vẹn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Đây là những bảo vật vô giá của nhân dân Việt Nam, không những chứa đựng giá trị lịch sử phong phú mà còn phản ánh tài nghệ khéo léo của các nghệ nhân cung đình qua từng thời đại.

Tại lần trưng bày đầu tiên, dù số lượng bảo vật không nhiều, nhưng để đảm bảo an ninh, Bảo tàng Lịch sử đã nhập tủ trưng bày bằng kính 2 lớp dày 12 ly, đóng mở bằng mật khẩu, bục bệ bằng thép 2 lớp. Phòng trưng bày cũng được lắp camera quan sát 24/24h.

Các vị quan khách tham quan tủ trưng bày

mũ vàng của vua triều Lê, Nguyễn.

Do lần đầu được chiêm ngưỡng những bảo vật này nên hàng trăm người dân đã chen cứng trong phòng trưng bày và đua nhau ghi lại những hình ảnh đáng nhớ.

Mũ vàng triều Nguyễn (thế kỷ 19) nặng hơn 700 gam.

Mũ vàng triều Nguyễn (thế kỷ 19), nặng 660 gam,

được gắn nhiều họa tiết bằng vàng.



Cận cảnh đỉnh mũ.

Phía sau mũ cũng được trang trí tinh xảo.


Ấn, kiếm vàng triều Nguyễn


Từ trái qua phải: Ấn vàng "Sắc mệnh chi bảo" bằng vàng ròng nặng 8,5 kg, đúc năm Minh Mạng 8 (1827); ấn ngọc "Đai Nam Thu thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ" của triều Nguyễn; ấn "Quốc gia tín bảo" đúc bằng vàng, nặng gần 5 kg vào niên hiệu Gia Long.




Ấn "Sắc mệnh chi bảo" gồm 2 cấp, có hình vuông, trên có hình rồng đầu ngẩng, 2 sừng dài, đuôi xòe 9 dải hình ngọn lửa, lưng ấn khắc hai dòng chữ Hán: “Thập tuế hoàng kim nhị bách nhị thập tam lạng lục tiền - Minh Mạng bát niên thập nguyệt cát nhật tạo”. (Nghĩa là: Vàng 10 tuổi nặng 223 lạng 6 tiền - đúc vào ngày lành tháng 10 năm Minh Mạng thứ 8, 1827).

Kiếm vàng triều Nguyễn thế kỷ 19 (bên trên)

và kiếm vàng "An dân bảo kiếm"

năm Khải Định (1916-1925) ở bên dưới.










Các họa tiết chạm khắc tinh xảo trên kiếm.

Chén ngọc, chậu vàng, sách vàng








Bộ chén ngọc khảm vàng triều Nguyễn.

Chậu vàng của triều Nguyễn, năm Duy Tân 5 (1911),

trọng lượng 1,4 kg.







Đài vàng cẩn ngọc triều Nguyễn thế kỷ 19.




Cuốn sách vàng chế tác năm Gia Long thứ 5 (1806)
có trọng lượng 2,1 kg












Hoàng cung vốn bí ẩn với với người dân và bảo vật trong hoàng cung lại càng bí ẩn. Hàng trăm năm qua, không nhiều người biết đến và được chiêm ngưỡng những bảo vật này. Chính vì vậy, những bảo vật từ hoàng cung các triều đại phong kiến Việt Nam luôn phủ một bức màn bí ẩn, thậm chí nhiều người cho rằng chúng đã không còn tồn tại hoặc đang nằm ở các bảo tàng, bộ sưu tập trên thế giới, hoặc ngộ nhận một số đồ dùng thông thường trong cung đình là bảo vật hoàng cung.




Qua nhiều thăng trầm của lịch sử, từ năm 1959 đến nay, hàng trăm bảo vật của triều đại Lê, Nguyễn như ấn vàng, kiếm vàng, sách vàng, đồ ngự dụng bằng vàng, ngọc... vẫn còn được bảo quản, gìn giữ nguyên vẹn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Đây là những bảo vật vô giá của nhân dân Việt Nam, không những chứa đựng giá trị lịch sử phong phú mà còn phản ánh tài nghệ khéo léo của các nghệ nhân cung đình qua từng thời đại.

Tại lần trưng bày đầu tiên, dù số lượng bảo vật không nhiều, nhưng để đảm bảo an ninh, Bảo tàng Lịch sử đã nhập tủ trưng bày bằng kính 2 lớp dày 12 ly, đóng mở bằng mật khẩu, bục bệ bằng thép 2 lớp. Phòng trưng bày cũng được lắp camera quan sát 24/24h.

Các vị quan khách tham quan tủ trưng bày

mũ vàng của vua triều Lê, Nguyễn.

Do lần đầu được chiêm ngưỡng những bảo vật này nên hàng trăm người dân đã chen cứng trong phòng trưng bày và đua nhau ghi lại những hình ảnh đáng nhớ.

Mũ vàng triều Nguyễn (thế kỷ 19) nặng hơn 700 gam.

Mũ vàng triều Nguyễn (thế kỷ 19), nặng 660 gam,

được gắn nhiều họa tiết bằng vàng.



Cận cảnh đỉnh mũ.

Phía sau mũ cũng được trang trí tinh xảo.


Ấn, kiếm vàng triều Nguyễn


Từ trái qua phải: Ấn vàng "Sắc mệnh chi bảo" bằng vàng ròng nặng 8,5 kg, đúc năm Minh Mạng 8 (1827); ấn ngọc "Đai Nam Thu thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ" của triều Nguyễn; ấn "Quốc gia tín bảo" đúc bằng vàng, nặng gần 5 kg vào niên hiệu Gia Long.




Ấn "Sắc mệnh chi bảo" gồm 2 cấp, có hình vuông, trên có hình rồng đầu ngẩng, 2 sừng dài, đuôi xòe 9 dải hình ngọn lửa, lưng ấn khắc hai dòng chữ Hán: “Thập tuế hoàng kim nhị bách nhị thập tam lạng lục tiền - Minh Mạng bát niên thập nguyệt cát nhật tạo”. (Nghĩa là: Vàng 10 tuổi nặng 223 lạng 6 tiền - đúc vào ngày lành tháng 10 năm Minh Mạng thứ 8, 1827).

Kiếm vàng triều Nguyễn thế kỷ 19 (bên trên)

và kiếm vàng "An dân bảo kiếm"

năm Khải Định (1916-1925) ở bên dưới.










Các họa tiết chạm khắc tinh xảo trên kiếm.

Chén ngọc, chậu vàng, sách vàng








Bộ chén ngọc khảm vàng triều Nguyễn.

Chậu vàng của triều Nguyễn, năm Duy Tân 5 (1911),

trọng lượng 1,4 kg.







Đài vàng cẩn ngọc triều Nguyễn thế kỷ 19.




Cuốn sách vàng chế tác năm Gia Long thứ 5 (1806)


-------------
Lộ Công Mười Lăm



Trả lời:
Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 03/Oct/2011 lúc 9:38am
Quốc ấn của vua Bảo Đại
lưu lạc ở Pháp?

Sau khi Hoàng hậu Nam Phương qua đời (1963), quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu nằm trong tay Hoàng thái tử Bảo Long. Khoảng năm 1982, sau ngày Bảo Đại làm giấy hôn thú với bà Monique Baudot (người Pháp), ông nhận lại chiếc ấn từ con trai mình. Từ đó, không còn thấy ai nhắc gì tới chiếc ấn này nữa.
    
Ông hoàng Bảo Đại tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, sinh ngày 22/10/1913 (ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu) tại Huế. Với chiếc ấn Hoàng đế Chi Bửu, vị hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyễn đã ban hành nhiều chiếu chỉ cải cách triều chính.
Quốc ấn Ấn Hoàng đế Chi Bửu.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, ngày 11 tháng 3 năm 1945, Bảo Đại ra đạo dụ Tuyên cáo Việt Nam độc lập, tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam…
Chiếc ấn đỏ từng hiện diện trên hàng ngàn văn bản thể hiện sức mạnh quyền uy của vị vua thứ 13 triều Nguyễn cũng như số phận của vị đế vương. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Bảo Đại thoái vị. Tự tay ông đã trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính phủ lâm thời. Hoàng đế Bảo Đại trở thành công dân Vĩnh Thụy và quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu từ đây cũng như trở thành “cổ vật”. 
Số phận long đong của Hoàng đế Chi Bửu 
Theo nhiều tài liệu ghi lại, năm 1952, khi Pháp tấn công Hà Nội, ấn Hoàng đế Chi Bửu và kiếm ngọc được chính phủ cách mạng lâm thời chôn ở Bắc Bộ phủ, không mang ra chiến khu. 
Vua Bảo Đại lúc còn nhỏ. (Ảnh tư liệu) 
  
Về sau, trong thời gian Hà Nội bị tạm chiếm, Pháp có đào thấy chiếc kiếm (đã bị gãy làm 3 đoạn). Pháp cho hàn lại nhưng vẫn phát hiện ra nếu nhìn kỹ. Sau này, người Pháp mang kiếm trao cho bà Từ Cung (mẹ Bảo Đại) và bà Mộng Điệp (người tình Bảo Đại). Về sau, không biết ai quản chiếc kiếm này tiếp theo.
Còn chiếc ấn của Bảo Đại, sau khi Hà Nội giải phóng, Chính phủ đào lên vẫn còn nguyên vẹn, giao cho Viện Bảo tàng lịch sử bảo quản. Không may đã bị trộm lấy mất! 
Cũng có thông tin cho rằng, cặp ấn kiếm này được mang ra Hà Nội. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, người Pháp tìm được trong một thùng thiếc và trả lại triều Nguyễn. Bà Bùi Mộng Điệp đã nhận ấn và kiếm từ tay người Pháp. Khi Bảo Đại từ Pháp về Đà Lạt, đã nhận lại những báu vật này. 
Năm 1953, chiến tranh chống Pháp diễn ra ác liệt, Bảo Đại giao cho bà Mộng Điệp mang sang Pháp. Tại Pháp, bà Mộng Điệp đã trao lại cho Hoàng hậu Nam Phương và Hoàng tử Bảo Long, trưởng nam của Bảo Đại và Nam Phương Hoàng hậu. Khoảng năm 1982, sau ngày Bảo Đại làm giấy hôn thú với bà Monique Baudot (người Pháp), ông nhận lại chiếc ấn từ con trai mình. Từ đó, không còn thấy ai nhắc gì tới chiếc ấn này nữa 
13 đời vua 46 ấn, tỷ
Theo nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Đắc Xuân, dấu của vua có hai loại là tỷ và ấn. Tỷ làm bằng ngọc nên gọi là ngọc tỷ, bửu ty. Ấn đúc bằng vàng gọi là ngự ấn, bửu ấn. Ấn, tỷ của nhà vua đều có hình vuông. 
Các vua Nguyễn có rất nhiều tỷ, ấn. 13 đời vua nhà Nguyễn có tổng cộng khoảng 46 tỷ ấn. Trong đó, triều Gia Long có 6 chiếc ấn bằng vàng; triều Minh Mạng, chế thêm 8 chiếc…  
Những chiếc ấn, tỷ đều có tên gọi và sử dụng riêng. Chẳng hạn, chiếc Hoàng đế chi bửu: đóng trên giấy tờ liên quan đến lễ khánh tiết, ghi ân, dụ thân huân, tuần du các địa phương, ban sắc thư cho nước ngoài; Hoàng đế tôn thân chi bửu: dùng trong dịp kính dâng huy hiệu; Quốc gia tín bửu: dụ chỉ gọi phát quân lính, tuyên gọi tướng soái… 
Các tỷ, ấn cùng với các loại kim sách, ngân sách, phù tín (hổ phù) bằng vàng, bạc được cất giữ trong các tráp, hòm tại điện Cần Chánh. Đến đời Khải Định và Bảo Đại, một số báu vật được lưu giữ tại điện Càn Thành và được bảo mật tuyệt đối. Nếu không có lệnh vua thì không một người nào được tự tiện mở ra xem. 
Hằng năm, trước khi nghỉ Tết, được lệnh vua, các quan làm lễ Phất thức mở các hòm, các tráp kiểm kê các báu vật rồi dùng nước thơm rửa từng chiếc. Tiếp đó dùng khăn vải điều lau khô và đặt vào chỗ cũ theo danh sách viết bằng chữ Hán.
(Theo Đất Việt)


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 03/Oct/2011 lúc 3:32pm
 
 

Ấn vàng, ấn ngọc triều Nguyễn


Ngày 24/4/1945, Bảo Đại vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ tổ chức lễ thoái vị, trao ấn kiếm cho cách mạng tại lầu Ngọ Môn, Huế. Sau đó kho tàng của triều Nguyễn được Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tiếp quản để chuyển ra thủ đô Hà Nội.    
Hơn 60 năm trôi qua, do hoàn cảnh đất nước chưa thuận tiện nên bảo vật quốc gia được cất giữ cẩn mật. Nhiều người quan tâm tìm hiểu nhưng không rõ tung tích nghĩ rằng chắc đã bị thất lạc, hủy hoại trong thời gian chiến tranh. Thật bất ngờ năm 2009,  Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (BTLSVN) công bố sách “Kim Ngọc Bảo Tỉ Của Hoàng Đế Và Vương Hậu Triều Nguyễn Việt Nam” (Hà Nội 2009). Tiếp theo BTLSVN tổ chức triển lãm hiện vật để quần chúng có dịp thưởng lãm. Đây là một sự kiện quan trọng gây ấn tượng mạnh mẽ trong giới quan tâm nghiên cứu văn hóa, lịch sử.    
Chúng tôi xin giới thiệu một vài ấn vàng (kim bảo), ấn ngọc (ngọc tỉ) đặc sắc nhất của triều Nguyễn đến độc giả:    
1. Mùa đông năm Kỷ Sửu (1709), Minh Vương Nguyễn Phước Chu (1675-1725) sai Lại Bộ Đồng Tri Qua Tuệ Thư chế tạo quả ấn vàng ghi “Đại Việt Quốc Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo” (ấn quý truyền quốc của Quốc chúa Đại Việt). Ấn hình vuông, núm cầm đúc hình kỳ lân vờn ngọc, cao 6,3 cm, cạnh 10,84 cm, dày 1,10cm, nặng 64,43 lượng vàng.
 
Vua Gia Long từng dạy Hoàng thái tử Đảm: “Ấn báu này các đời truyền nhau ngày xưa trải qua binh lửa thân người chẳng chắc còn mà ấn vẫn giữ được trọn vẹn trước sau. Chiếu lệnh dùng ấn này ban bố được mọi người hưởng ứng. Ấn này quan hệ với nước nhà mật thiết, từ nay về sau phải lấy ấn này làm vật báu truyền ngôi. Con cháu của ta đời đời phải gìn giữ trao quyền cho nhau đến ức muôn năm lâu dài”.    
2. Mùa hè năm Tân Dậu (1081), chúa Nguyễn Phước Ánh phản công tái chiếm đô thành Phú Xuân. Ngày 2 tháng 5 Nhâm Tuất (1802) chúa tế cáo trời đất lên ngôi vua công bố niên hiệu Gia Long (1802-1819). Để chuẩn bị đem đại quân thu phục Bắc Hà, vua cho đúc năm quả ấn vàng ghi các chữ:    
Thảo Tội An Dân Chi Bảo. Ấn này dùng vào việc trừng phạt kẻ có tội để dân chúng được yên ổn. Đã bị thất lạc.    
Sắc Chính Vạn Dân Chi Bảo. Ấn dùng răn cấm nhân dân. Hình vuông, núm cầm đúc hình rồng năm móng ngậm ngọc, cao 9,26cm, cạnh 11,6 cm, dày 1,28 cm.   
Sắc%20Chính%20vạn%20dân%20chi%20bảo%20%28mặt%20ấn%29
Sắc Chính vạn dân chi bảo (mặt ấn)
s
Sắc Chính vạn dân chi bảo
Quốc Gia Tín Bảo. Ấn dùng đóng vào các văn kiện hành chính quan trọng, tuyên triệu tướng sĩ. Hình vuông, núm cầm đúc hình rồng năm móng ngậm ngọc cao 9,5cm, cạnh 10,7cm, dày 1,65cm.    
 
Chế Cáo Chi Bảo: Dùng đóng vào chiếu sắc sai phái, thăng thưởng văn võ đại thần. Hình vuông, núm cầm đúc hình rồng năm móng ngậm ngọc, cao 8,97 cm, cạnh 11,68 cm, dày 1,60 cm.   
 
Mệnh Đức Chi Bảo. Ấn dùng vao sắc mệnh phong tặng các hoàng thân, đại thần có công lớn với nước. Hình vuông, núm cầm đúc hình rồng năm móng ngậm ngọc, cao 9,32cm, cạnh 13,45 cm, dày 1,81cm.  
 
 
3. Mùa xuân năm Mậu Tý (1828) vua Minh Mạng truyền dụ: “Trẫm kính nối ngôi báu gặp lúc thái bình, chỉ mong muốn làm sáng tỏ phép cũ để lại cho con cháu đời sau”, đã sai lấy vàng để đúc ấn:    
- Hoàng Đế Tôn Thân Chi Bảo. Dùng đóng các văn bản kính dâng tôn thụy hiệu các tiên đế, tiên hậu. Ấn hình vuông, hai cấp, núm cầm đúc hình rồng năm móng nhìn thẳng. Cao 11,1 cm, cạnh 13,77 cm, dày 2,08 cm. Nặng 234,43 lượng vàng tốt.   
 
Sắc Mệnh Chi Bảo. Dùng đóng vào các cáo sắc phong tặng các vị thần linh trong nước cùng văn võ đại thần triều đình. Ấn hình vuông, hai cấp, núm cầm đúc hình rồng năm móng ngồi nhìn thẳng. Cao 11 cm, nặng 14 cm, dày 2,5 cm, nặng 234, 43 lượng vàng tốt.    
Đại Nam Thiên Tử Chi Tỉ. Năm 1839 sau khi đổi quốc hiệu thành Đại Nam có người dâng viên ngọc vuông cao 10,5 cm, cạnh 12,4cm, dày 5,3 cm. Núm ấn chạm hai rồng đấu lưng. Ấn này dùng để đóng trên sắc thư ban cho người nước ngoài hoặc khi vua đi tuần thú ở các địa phương.   
 
4. Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) gặp tiết Vạn Thọ có người dâng một viên ngọc quý rất lớn, vua cho khắc thành quả ấn ghi:    
Đại Nam Thụ Thiên Vĩnh Mệnh Truyền Quốc Tỉ (Ấn truyền quốc của nước Đại Nam chịu mệnh trời lâu dài).   
 
Khắc ấn xong vua rất vui mừng, truyền bảo với nội các: “Quả ấn này có vẻ đẹp rực rỡ, nay khắc xong lại gặp lễ mừng sinh nhật của ta. Việc đánh dẹp phía Tây (Cao Miên) đã chiến thắng kéo quân trở về. Nhờ trời đất tổ tông giúp cho nước nhà ta, cái phúc thiêng liêng lâu dài báo điềm ở đấy. Vả lại báu của nước rất quý trọng, lúc bắt đầu chế tạo chính ta mật cáo với trời đất. Đến khi làm xong lại kính cáo tôn miếu chứng giám. Vậy sai quan Thái sử chọn ngày lành, bộ Lễ tra xét điển lệ để tâu trình”.    
Ấn hình vuông, hai cấp, núm cầm khắc rồng mây, cao 14,5 cm, cạnh 13 cm, dày 4,25 cm. Đây là ấn ngọc lớn và quý nhất của triều Nguyễn dùng đóng trên sắc mệnh ban cấp cho các chư hầu hoặc những việc trọng đại của triều đình. Được tôn quý như cái ấn vàng truyền quốc của Minh Vương Nguyễn Phước Chu truyền lại.    
Tham khảo:
Đại Nam thục lục tiền biên; Đai Nam thực lục chính biên đệ I,II,III kỷ; Hình ảnh trích nguồn sách “Kim Ngọc Bảo Tỉ” của bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Hà Nội 2009. (Theo Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần)    


-------------
Lộ Công Mười Lăm



Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info