Tháng 5 năm 1968..
Tôi có ghé quaTha La xóm đạo,
và ở lại đây mất 6 tuần lễ . . Mục đích dừng chân lâu
ngày như vậy, để phụ trách tái lập cây cầu sắt ở Tha
La đã bị Việt Cộng phá hoại. Mục đích tái thiết cầu
sắt Tha La để góp phần vào công cuộc hành quân bình định
và mở rộng an ninh cho khu vực thuộc quận Trảng Bàng, Củ
Chi., Hậu Nghĩa... Lúc đó, cũng là lần Tổng công kích đợt
2 của Việt cộng , vào khoảng giữa tháng 5, năm Mậu Thân
1968. Do đó đơn vị tôi rất bận rộn công tác yểm trợ
hành quân trong vùng đất này.
Trong những ngày ghé thăm Tha
La, làm tôi chợt nhớ lại bài thơ Tha La xóm đạo của Vũ
Anh Khanh. Những phút giây rảnh rổi ở chốn này, tôi chợt
nhớ lại bài thơ Tha La,một bài thơ kỷ niệm của tuổi học
trò mà tôi từng ưa thích. Do đó, hôm đặt chân đến vùng
đất Tha La, cũng gợi cho tôi nhớ lại bài thơ này. Nên tôi
đã đọc đi đọc lại bài thơ với hi vọng để tìm lại
những cảm hứng tuơng tự như tác giả. Tôi đã thuộc lòng
bài thơ này từ lâu mà mãi đến hôm nay vẫn còn nhớ. Giờ
này có cơ hội ghé qua Tha La, rất lấy làm vui thích, khi nhớ
lại kỷ niệm xưa và ngâm nga đọc lại bài thơ này với
một cảm giác đầy thi vị .
Khi viết bài kỷ niệm này,
tôi xin phép mượn trọn bài thơ của nhà thơ Vũ Anh Khanh,
để làm đề tài chính trong câu chuyện hôm nay. Ngày tôi đến
Tha La, nơi đó vẫn còn xóm đạo, nhưng có vẻ hơi khác, có
lẽ có một chút biến đổi do thời gian và thời cuộc, so
với mô tả trong thơ của tác giả , nên trong lòng cũng hoài
nghi tự hỏi : -Không biết có phải là Tha La này của Vũ Anh
Khanh đã viết trong thơ hay không? Mặc dù tôi có cái cảm
nghĩ như nữa nghi nữa thật , nhưng không hiểu sao tự trong
lòng vẫn có cảm giác lâng lâng khoan khoái vô hạn , nên tôi
cất giọng khe khẻ ngâm nga với đoạn đầu của bài thơ:
Ðây Tha La xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh....
Ngậm ngùi Tha La bảo:
Ðây rừng xanh, rừng xanh
Bụi đùn quanh ngõ vắng
Khói đùn quanh nóc tranh
Gió đùn quanh mây trắng
Và lữa loạn xây thành..
Viễn khách ơi, người hãy
dừng chân cho hỏi
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo
rưng rưng
Nhìn hoa rơi lòng khách vẫn
bâng khuâng
Tha La hỏi, khách buồn nơi
đây vắng
Không tôi buồn vì mây trời
đây trắng
Và khách buồn vì tiếng
gió đang hờn
Khách rùn mình nghe gió nổi
từng cơn
Gió vun vút gió rợn rùn
gió rít
Bổng đâu đây vẳng véo
von tiếng địch
Thôi hết rồi còn chi nữa
Tha La
Bao người đi thề chẳng
trở lại nhà
Nay đã chết giữa chiến
truờng ly loạn
Tiếng địch càng cao não
nùng ai oán
Buồn trưa trưa lây lất
buồn trưa trưa
( Tha La xóm đạo, thơ Vũ Anh
Khanh )
Bài thơ này Vũ Anh Khanh viết
rất dài , có 8 đoạn tất cả, tôi sẽ lần lượt nhắc lại
một số đoạn tiếp theo sau của bài thơ Tha La xóm đạo này.
Trong khi tôi kể lại những sự việc cùng những biến cố
đã xảy ra trên vùng đất Tha La, cùng những vùng sát cận
Tha La, mà ngày hôm nay, có những chuyện đã đi vào lịch sử
liên quan với cuộc chiến Việt Nam.
Nhắc tới Vũ Anh Khanh, tác
giả của bài thơ trên đây, khiến tôi nhớ lại bài viết
của Xuân Vũ trong một bài báo đã đăng trên tap chí Phương
Ðông ở Boston tiểu bang M***achusetts, vùng Ðông Bắc Hoa Kỳ,năm
2002, có kể qua về Vũ Anh Khanh, đã đi tập kết ra Bắc, nhưng
anh không sống nổi với chế độ Cộng sản Bắc Việt, nên
anh bỏ trốn về Nam. Anh vượt sông Bến Hải, nên bị lính
Cộng sản Bắc Việt bắn chết, mất tích trên sông Bến Hải.
Giờ này ngồi nhớ lại, trong
khi ghi chép những kỷ niệm của một thời đã qua , khiến
tôi hình dung lại trong những ngày tôi có dịp ghé qua Tha La.
Cũng một phần vì ngày hôm nay, nhơn lúc đọc những tin tức
trên mạng có liên hệ với những tin tức thời sự về chất
độc da cam, do CSVN đang thưa kiện Chánh phủ Mỹ, trong tháng
6 năm 2007 ở New York, Hoa Kỳ. Tính đến hôm nay cũng đã trải
qua gần 40 năm, khi đơn vị tôi từng có dịp xử dụng loại
thuốc khai quang trên những vùng đất sát cạnh xóm đạoTha
La năm xưa, như vùng Hố Bò, Bời Lời., Khiêm Hanh, Suối Ông
Hùng, Trị Tâm , Ka Tum, Xa Mát .hoặc vùng Trà Cú, Ba Thu, Mõ
Vẹt sát cận biên giới Việt Miên .v..v..
Qua những sự kiện này, khiến
tôi liên tưởng đến những ngày mà đơn vị tôi được lệnh
tái lập giao thông trên đoạn đường Liên Tỉnh lộ 10, từ
ngã ba Tân Mỹ (Ðức Huệ) đến xã An Ninh, Lộc Giang,qua cầu
sắt Tha La nối vào Quốc lộ 1,kế cận thị xã Trảng Bàng.Trên
đoạn đường này, cầu sắt Tha La là điễm trọng yếu. Cây
cầu này đã bị Việt Cộng phá hủy nặng nề . Ðơn vị
tôi có nhiệm vụ phải tái lập giao thông trên con đường
từ ngã ba Tân Mỹ, Ðức Huệ đi về khu Lộc Giang, Tha La,Trảng
Bàng. Ðó là cả một công trình xây dựng để tái thiết
rất khó khăn trong khu vực này, do cây cầu sắt Tha La đòi
hỏi tốn công sức và vật liệu cũng như thời gian tái thiết.
Vì con đường Tỉnh lộ số 10 này, đã trãi qua một thời
kỳ do Việt Cộng phá hoại theo kiểu tiêu thổ, ngăn sông
cấm chợ, như đào đường, đấp mô, gài mìn gài bẩy.. Việt
Cộng đã đào bới mặt lộ, gánh đá bỏ đi một nơi khác,
con đường không còn nền móng. Nền đường bị đào, bị
cắt ngang trông giống hình những phím đàn dương cầm ( touch
piano ). Do đó việc tái lập rất gian lao và rất là vất vả.
Thêm vào dọc theo khu vực sửa
đường, Việt cộng đã gài đầy mìn bẩy, hầm chông lẫn
bom đạn chưa nổ hết , đem gài lại...Ðã thế còn có Việt
Cộng ẩn núp bắn sẻ, rình mò bắn lén, gây khó khăn cho
người tái thiết.
Ðơn vị tôi đã ở lại Tha
La mất 6 tuần lễ. Tuy rất gian nan và vất vả, nhưng cũng
là một dip may cho tôi, được nhận thấy tận nơi, để nhớ
lại những hình ảnh mà nhà thơ Vũ Anh Khanh đã mô tả về
Tha La xóm đạo
Bao năm qua khói loạn phủ
mịt mù
Người nước Việt ra đi
vì nước Việt
Tha La vắng vì Tha La đã
biết
Thương giống nòi đau đất
nước lầm than
Ngày hiu quạnh, ờ ơ hơ
tiếng hát
Buồn như gió lướt
Lạnh dài như khúc nhạc
Tiếng hát rằng
Tha La giận mùa thu
Tha La hận quốc thù
Tha La hờn quốc biến
Tha La buồn tiếng kiếm
Não nùng chưa
Tha La nguyện hi sinh
O ơ hơ có một đám chiên
lành
Quỳ cạnh Chúa một chiều
xưa lữa dậy
Quỳ cạnh Chúa đám chiên
lành run rẩy
Lạy Ðức Thánh Cha
Lạy Ðức Thánh Mẹ
Lạy Ðức Thánh Thần
Chúng con về cõi tục để
làm dân
Rồi cởi trả áo tu
Rồi xếp kinh cầu nguyện
Rồi nhẹ bước về trần
Viễn khách ơi người hãy
dừng chân
Nghe Tha La kể, nhưng mà
thôi khách nhé
Ðất đã chuyển rung lòng
bao thế hệ
Trời Tha La vần vũ đám
mây tang
Vui gì đâu mà tâm sự
Buồn làm chi cho bẽ bàng
O ơ hơ tiếng hát
Rung lành lạnh ngâm trầm
đôi khúc nhạc
Buồn tênh tênh, não lòng
lắm khách ơi
Tha La thương người viễn
khách quá đi thôi
Khách ngoảnh mặt nghẹn
ngào trông nắng đổ
Nghe gió thổi như trùng
dương sóng vỗ
Ðây Tha La xóm đạo chốn
ven rừng
Có trái ngọt cây lành im
bóng lá
Con đường đỏ bụi phủ
mờ gót lạ
Ngày êm êm lòng viễn khách
bơ vơ
Về chi đây khách hởi có
ai chờ
Ai đưa đón ? Xin thưa tôi
lạc bước
Không là duyên, không là
bèo kiếp trước
Không ai chờ, ai đưa đón
tôi đâu
Rồi quạnh hiu khách lặng
lẽ cúi đầu
Tìm cánh hoa lạc loài bên
vệ cỏ
Ngàn cánh hoa bay ngẩn ngơ
trong gió
Gạo rưng rưng, nghìn hoa
máu rưng rưng
Buồn xưa xưa lây lất buồn
xưa xưa
Lòng viễn khách bổng dưng
tê tái lạnh
Khách rùng mình ngẩn ngơ
trời hiu quạnh
Thôi hết rồi còn chi nữa
Tha La
Ðây mong mênh xóm đạo
với rừng già
Nắng lổ đổ rụng trên
đầu viễn khách
Khách bước nhẹ trên con
đường đỏ hoạch
Gặp cụ già đang ngóng
gió bâng khuâng
Ðang đón mây xa khách bổng
ngại ngùng
Kính thưa cụ vì sao Tha
La vắng
Cụ ngạo nghể cười run
run râu trắng
Nhẹ bảo chàng em chẳng
biết gì ư?
O ơ hơ có một đám chiên
lành
Quỳ cạnh Chúa một chiều
xưa lữa dậy..
( Thơ Tha La xóm đạo, Vũ Anh
Khanh)
Tha La ngày tôi đến thăm, là
một làng theo đạo Công giáo. Ðám chiên lành rất nghèo, nhưng
vui sống trong những mái nhà tranh đạm bạc. Ðời sống có
lúc không yên. Thường khi gánh chịu giữa hai lằn đạn. Súng
đạn rất vô tình. Bên kia bờ sông cách một khoảng dài,
hướng về khu Ba Thu, cũng là mật khu của Việt Cộng, nằm
giáp ranh đất Miên, thuộc khu Mỏ Vẹt. Ðoạn sông Vàm Cỏ
Ðông từ Gò Dầu Hạ chảy về, ngang qua xóm đạo Tha La và
xã Gia Bình, rồi đến voi đất xã Lộc Giang, rồi đến Ðức
Huệ, Trà Cú, Ðức Hoà. Xuyên suốt hai bờ sông vùng này là
vùng bom đạn và mìn bẩy dẩy đầy. Thời đó, Tha La không
có đêm nào mà không thấy ánh hỏa châu soi sáng. Tha La tuy
sát cận thị xã Trảng Bàng, nhưng Tha La vẫn thấy buồn cô
đơn... Tha La nằm đó, một xóm đạo với rừng già.. Thị
xã Trảng Bàng ở phiá Nam, xã Gia Bình ở phiá Bắc. Phiá Tây
giáp tả ngạn sông Vàm Cỏ Ðông, phiá Ðông giáp Quốc lộ
1, đi từ Trảng Bàng đến Gò Dầu Hạ. Ngồi trên xe đò có
thể nhìn thấy Tha La xóm đạo nằm về phiá trái, ẩn khuất
sau một bià rừng chạy dài theo quốc lộ. Xa hơn hướng quốc
lộ, về hướng Ðông là mật khu Hố Bò, Bời Lời , mật
khu của Việt Cộng,và đồn điền cao su. Cầu sắt Tha La bắt
ngang qua con rạch chảy ra sông Vàm Cỏ Ðông. Con rạch này
chảy vào, nối liền với kinh Thầy Cai ở Củ Chi, để giúp
cho việc dẫn thủy nhập điền, và khai phèn sả mặn, giúp
cho các cánh đồng dọc theo kinh Thầy Cai và vùng Ðức Lập,
Bàu Trai, Tân Mỹ, Ðức Huệ..
Những ngày tạm trú ở Tha
La, ngoài công việc chính là tái lập giao thông trên Liên tỉnh
lộ 10, đơn vị tôi còn làm những công tác dân sự vụ. Như
anh em trong đơn vị có đạo Công Giáo vào giúp nhà thờ sở
tại, sửa chửa trạm y tế, sửa chửa các bàn ghế học trò
của trường học tại xã Tha La. Gửi biếu thực phẩm thuốc
men cho đồng bào thiếu thốn. Trong khu vực này hoặc các khu
kế cận với Tha La, đơn vị thường đóng góp công sức để
làm những công việc lợi ích cho đồng bào sở tại.
Thời đó, các đơn vị Công
binh Hoa Kỳ, như Tiểu đoàn 65 Công binh Hoa Kỳ thuộc Sư đoàn
25 Bộ binh Hoa kỳ, đóng tại căn cứ Củ Chi, thường hay làm
những công tác dân sự vụ, giúp cho các quận các xã và các
ấp, khi dân chúng địa phương cần đến. Trong thời gian đơn
vị tôi , Tiểu Ðoàn 25 Công Binh Sư Ðoàn trực thuộc Sư đoàn
25 Bộ Binh VNCH và Tiểu đoàn 65 Công Binh Hoa Kỳ giúp cho công
việc hành quân bình định tỉnh Hậu Nghĩa,lúc đó có Ðại
tá Mã sanh Nhơn là tỉnh trưởng Tỉnh Hậu Nghĩa, tỉnh này
gồm có 4 quận như Ðức Hòa, Ðức Huệ, Củ Chi và Trảng
Bàng.
Ngoài ra, trong thời gian ở
Tha La, đơn vị tôi cũng đã phối hợp với Tiểu đoàn 65
Công binh Hoa Kỳ hành quân khai hoang, vùng Hố Bò, Bời Lời,
Chà Rầy, Khiêm Hanh, và Trị Tâm. Việc khai hoang thường dùng
xe ủi đất loại "Rome Plow". Nhờ thời gian khai hoang này mà
các đơn vị hành quân đã tìm ra các đường hầm, điạ đạo
của Cộng sản trong vùng hành quân khai quang. Mà về sau này
Cộng sản đem ra khoe với cái tên là Ðịa đạo Củ Chi!
Tôi chưa có dịp xem qua địa
đạo Củ Chi do người Cộng Sản Việt Nam trình diễn sau ngày
30/4/75. Tôi tự nghĩ cái huyền thoại về hang động Củ Chi
, CSVN chằc hẳn phải cải trang, phải vẻ vời, tô son trét
phấn cho ra vẻ có hào quang, để tuyên truyền về người
du kích Cộng sản có tinh thần cao trong chiến đấu. Ðồng
thời cũng để đề cao cái đất Củ Chi là tường đồng
vách sắt ? Như vậy để đánh bóng cái địa đạo, hầu lôi
cuốn dể gạt du khách đến xem Mục đích để quảng cáo
cái hào quang chiến đấu " Chống Mỹ cứu nước" của người
du kích CSVN ở Củ Chi.?
Riêng tôi là người từng chứng
kiến tận chỗ, tận nơi tại vùng Hố Bò, Bời Lời, Khiêm
Hanh,Chà Rầy, Suối Ông Hùng, Trị Tâm, Phú Hòa Ðông, Paris
Tân Qui., Ðức Hòa, Ðức Huệ..v v.... Lần ấy đơn vị Hoa
Kỳ đã tìm ra một số địa đạo gần sát trung tâm huấn
luyện Trung Lập và khu Chà Rầy nằm phiá Bắc Củ Chi... Trong
suốt thời gian hành quân khai hoang, các địa đạo bị phát
hiện do đơn vị tôi và đơn vị Mỹ đã tìm thấy. Có những
đường hầm dài, cũng có tổ chức , có nơi chứa lương thực,
máy móc, tuy thế cũng chẳng có gì gọi là qui mô to tác đáng
kể, đáng nói.. Tương tự như các loại hang ổ, rất thô
sơ vì đào bằng tay, và đào lén lút để ngụy trang, che giấu,
để tránh phát hiện. Dĩ nhiên , chắc chắn làm sao đẹp như
loại đường hầm được tái tạo với tư tưởng của kẻ
tự cho là chiến thắng để trình diễn ? Nếu đem so sánh
các đường hầm và hang động của Bin Laden ở Tora Bora, Afghanistan,
thì địa đạo Củ Chi có thấm vào đâu?
Sau này, tôi có những người
bạn người Mỹ đã từng phục vụ đơn vị Công binh Hoa Kỳ,
có thời gian từng trú đóng tại Củ Chi và Trị Tâm năm 1968-
1969. Họ đã từng khám phá thấy qua tận mắt trước đây
những địa đạo của du kích Cộng sản ở trong vùng Củ
Chi, Hố Bò, Bời Lời., Chà Rầy .v..v. Về sau này vào năm
1986,họ có trở lại thăm Việt Nam ,như khách du lịch. Họ
đã có đi xem qua địa đạo Củ Chi,. để biết và so sánh
với sự thật năm xưa mà họ đã có dịp tận mắt khám phá
ra sao!
Khi trở về Mỹ , tôi có gặp
hai anh cùng làm chung một sở làm ở hảng Boston Scientific Corporation
ở Quincy và Boston thuộc tiểu bang M***achusetts với tôi. Trong
khi trao đổi qua câu chuyện về Việt Nam , anh ta có khoe là
có đi xem qua địa đạo ở Củ Chi, trong chuyến du lịch Việt
Nam. Tôi có hỏi :- anh có ý nghĩ và cảm tưởng gì sau khi
xem ở nơi đó ? Hai anh chỉ mĩm cười và nhún vai ,có vẻ
chê bai hơn là khen tặng. Vì nó không thật., như hai anh đã
từng thấy trước đây, trong thời gian đơn vị của hai anh
từng tham chiến trên các vùng đất Củ Chi. Hai anh còn trả
lời tôi một cách khôi hài:- Thật ra Củ Chi mà đã anh xem
qua , cũng như là Không Có Chi. Anh nói tiếng Việt rất rành
như người Việt , rất vui tính và hay thích pha trò...
Những ngày tôi ở Tha La là
những ngày tham gia hành quân phối hợp với đơn vị Công
binh Hoa Kỳ trong vùng này. Vì thời đó đơn vị tôi được
Tiểu đoàn 65 Công binh Hoa Kỳ huấn luyện thực tập tại
chỗ, tức huấn luyện tại nơi hành quân (OJT-On Job Training
). Nhờ những dịp này ,tôi có cơ hội ghé qua Tha La và nghe
thấy những gì xảy ra trong khu vực trách nhiệm của các đơn
vị hành quân phối hợp với các đơn vị Việt Mỹ.
Hồi tưởng lại những ngày
qua, liên tưởng với những gì đã xảy ra trong vùng sát cận
Tha La. Thực hư và hư thật của con người tạo ra, biết sao
mà đo lường lòng dạ con người. trong cuộc chiến và sau
cuộc chiến. Nhất là về phía của Việt Cộng đã tự biên
tự diễn những trò ma giáo, do đầu óc công thần ngạo mạn
của con người, tự xưng mình là kẻ chiến thắng, nhưng thực
chất chỉ là thời cơ? Xét ra cũng chẳng có gì gọi là mưu
trí sáng tạo ,là tài tình, nói theo kiểu khoa học kỷ thuật.của
Cộng sản cả. Còn những cái đã có đem ra trình diễn, chỉ
là trò ảo thuật, do những tiểu xảo mánh khoé của kẻ thất
phu, để gạt gẩm đánh lừa thiên hạ mà thôi. Nhưng những
người biết rõ sự thật , khi xem qua họ chỉ mĩm cười.bỏ
đi mà thôi.
Nhân cơ hội này, nghĩ ra cũng
nên nhắc lại những ngày tháng hành quân trong khu vực sát
cận Tha La, tôi cũng có dịp biết qua việc xử dụng chất
hóa học để khai hoang ( Orange Agent ) mà CSVN dịch ra gọi là
chất dộc hóa học màu da cam. Do tư tưởng lệch lạc, nên
CSVN dịch hai chữ Orange Agent theo dã tâm để kết án chứ
không đúng nghĩa của chữ. Vì đơn vị tôi cũng có dịp từng
xử dụng qua hóa chất này, trong công tác khai quang, khi hành
quân trong khu vưc Phú Hòa Ðông và Paris Tân Qui, Ðức Hoà,
Trà Cú, Ðức Huệ, Ba Thu, Trị Tâm ..v..v
Ngày xưa đơn vị tôi từng
xử dụng thuốc khai quang, là loại thuốc bột thường được
chứa trong loại thùng phuy 55 gallons, gần tượng đương 200
lít. . Khi đơn vị tôi đem xử dụng thuốc khai quang , phải
pha trộn với dầu hôi , có nơi gọi là dầu lữa, hoặc dùng
dầu cặn , dầu diesel. Ngày xưa chúng tôi trộn với tỷ lệ,1kílô
thuốc bột khai quang với 1 can ( Jerrican ) loạì thùng 20 lít,
chứa dầu hôi hay dầu cặn. Sau khi pha trộn đều,cho vào bình
xịt bằng tay , giống như loại bình xịt thuốc diệt muổi..Chúng
tôi xủ dụng hóa chất này như một loại thuốc diệt cỏ
( herbicide ) Khi thi hành công tác này phải có bao tay và khẩu
trang bảo vệ an toàn .Mục đích xử dụng làm cho cây cỏ
mất đi chất xanh , chất diệp lục tố trong lá, sẽ bị khô
héo đi , và đổi màu ,sau đó 72 giờ, dùng lữa đốt cho cháy.
Về hiệu quả diệt cỏ ,chỉ sau một mùa mưa, cây cỏ sẽ
xanh lại, và chất độc dioxin trong thuốc khai quang cũng tan
biến dần đi, do nước mưa của một mùa rửa sạch, vì tỷ
lệ dioxin chỉ có 1/100 trong thuốc khai quang không nhiều, như
kết quả do phân tích khoa học đã chứng minh..
Ðối với những vùng rừng
cây cao to lớn, hay vùng cỏ rậm rạp, mà việc xử dụng bình
xịt tay, không thỏa mản nổi yêu cầu, thường phải dùng
máy bay đi rải thuốc khai quang. Như tôi thường thấy đơn
vị khai quang của Mỹ ở Củ Chi , đã dùng máy bay loại C123
hoặc C130 đi rải thuốc khai quang. Sau thời gian rải thuốc
khai quang 72 giờ, thường dùng xăng đặc pha chế để đốt
cháy. Thường dùng cách tắm lữa ( Flame bath ) hoặc bom Napalm.đốt
cháy . Dùng Flame bath tôi thấy nhiều hơn là dùng bom Napalm,
Mỗt lần đi ném Flame bath thường dùng 30 thùng phuy loại 55
gallons,chứa đầy chất Thickerner -M1 ( xăng đặc ) pha với
dầu lữa hoặc đầu cặn hoặc dầu Diesel.. Mỗi thùng đều
có gắn một ngòi nổ ( VT fuse =Variable Time fuse ) có bộ phận
điều chỉnh thời nổ, khi xử dụng phải điều chỉnh thời
nổ truớc với việc xác định độ cao , tức còn cách mặt
đất từ 100 feet đến 150 feet, mới cho nổ . Mục đích làm
cho tung toé chất xăng dầu đã pha chế đổ ra, trải khắp
trên vùng khai hoang, đồng thời cũng đốt cháy lan rộng ra
luôn khu vực đã rải thuốc khai quang trước đó 72 giờ. Tại
Củ Chi, phần lớn do máy bay C130 đảm trách công việc này,
đã bay vào vùng đã rải thuốc khai quang, ném Flame Bath và
đốt cháy. Ðó là trường hợp những vùng rừng chồi cây
nhỏ và cỏ tranh, cỏ đế, hay lau, sậy...v ..v..
Nếu rừng rậm có nhiều cây
to, dùng thuốc khai quang không có kết quả tốt, thường đem
xử dụng xe ủi loại Rome Plow. Loại xe ủi đất gắn lưỡi
xẻng như lưỡi cày để cắt những cây to. Khi ủi quang xong
chờ một thời cây khô héo. Sau đó phải dùng Flame bath để
đốt cháy. Xe Rome Plow là một loại xe ủi đất loại lớn
( Bulldozer của hảng Caterpillar là loại D7 hay của hảng Allis
Chalmers loại HD16) được biến cải bằng cách thay lưỡi xẻng
,hình giống lưỡi cày kiểu La Mã ( Rome Plow Blade ) để ủi
cắt các cây to ở những vùng rừng rậm . Thân xe ủi còn
đưọc trang bị thêm khung sắt bao che buồng máy và buồng
tài xế. Mục đích tránh nguy hiểm cho tài xế, và hư hỏng
xe, khi cây cối bị ủi ngã đập vào xe...
Công tác khai quang (Defoliation)
hoặc (Land Clearing) trong vùng Hố Bò, Bời Lời , Chà Rầy,
Khiêm Hanh,Trị Tâm do Công Binh Hoa Kỳ đảm trách. Họ có môt
Ðại đội chuyên về khai quang (Land Clearing Company ) có đầy
đủ phương tiện tối tân hiện đại. Khi khai quang trong rừng
rậm có trực thăng ( LOH ) hướng dẫn và trực thăng võ trang
Cobra bảo vệ, cùng với lực lượng Bộ binh và Thiết giáp
yểm trợ sát cận
Về phía VNCH, có Liên Ðoàn
30 Công Binh Chiến đấu ( Combat Engineer Group) đồn trú tại
Hốc Môn, cũng có Ðại đội 318 Khai Quang, được trang bị
xe ủi đất loại Rome Plow do Hoa kỳ giao lại trong thời kỳ
Việt Nam hóa chiến tranh. Ðã từng khai quang vùng Thiên Ngôn
, Xa Mát, Ka Tum, Tây Ninh. Nhưng không có đủ phương tiên hiện
đại như dùng trực thăng để hướng dẫn lúc làm công tác
ủi quang, như đơn vị Mỹ từng làm ở Hố Bò, Bời Lời,
Củ Chi .
Các đơn vị khai quang dùng
thuốc khai quang không riêng gì Agent Orange mà còn có loại như
Agent Purple , màu tím,, Agent White, màu trắng,Agent Green, màu
xanh v..v..Thường được phân phối ra đơn vị xử dụng, chứa
trong thùng phuy 55 gallons, bên ngoài thùng sơn màu khác nhau tùy
theo mỗi loại để. dành cho các chuyên viên phân biệt khi
xử dụng.
Căn cứ vào tài liệu khoa học,
theo Tiến sĩ Mai Thanh Truyết , tiến sĩ Hóa học ở Ðại học
Besancon, Pháp, đã cho biết khi trả lời trong cuộc phỏng vấn
của Trường Giang:
"Cho đến nay nhiều người
vẫn lầm lẫn dioxin là Chất Ðộc Màu Da Cam. Tôi xin thưa,
cụ thể là dioxin có thành phần hóa học là 2, 3, 7, 8 tetrachlorodibenzo-
para - dioxin, hay gọi chung là 2, 3, 7, 8,TCDD . Trong thời gian
chiến tranh từ năm 1962 đến 1971, người Mỹ đã phun xịt
những Chất Ðộc Màu Da Cam và một số chất khác.
Trong chất độc màu da cam
đó, nó gồm có hổn hợp 50% của 2 loại hóa chất sau đây
2, 4-D hay là dichlorophenoxy- acetic và 2, 4. 5-T là trichlorophenơxyacetic.
Trong quá trình sản xuất chất 2, 4, 5-T, đó là môt chất thuốc
diệt cỏ dại đã xử dụng ở Hoa Kỳ, trong quá trình sản
xuất , dioxin là một phế phẩm và cái hàm lượng của dioxin
chỉ là 1/100 trong cái quá trình sản xuất đó." (Trích
theo bài phỏng vấn Tiến Sĩ Hóa Học Mai Thanh Truyết, của
Trường Giang, Tuesday, 17 September, 2002, ở Chương 39 , trang 381,
quyển Câu Chuyện Da Cam/ Dioxin Việt Nam , xuất bản do Hội
Khoa Học và Kỷ Thuật Việt Nam (VAST).
Theo kinh nghiệm xử dụng, tất
cả những chất hóa học khai quang đều có đặc tính chung
là diệt chất diệp lục tố trong lá cây hay cỏ, bị khô
héo đi, sau khi xịt thuốc khai quang vài ba ngày. Theo tôi được
biết qua căn cứ vào các tài liệu khoa học kỷ thuật , sách
vở và báo chí, khi nói về độc tố dioxin, không phải chỉ
có thuốc khai quang mới có nhiều Dioxin như thế, mà còn có
trong các môi trường khác, như cháy rừng , mùi khói xăng dầu
, mùi khói thuốc lá, đốt củi, đốt than cũng có Dioxin .Kể
cả trong thịt cá, sửa cũng vẫn có dioxin. Các loại thuốc
trừ sâu xủ dụng trong nông nghiệp cũng có dioxin., như DDT
và PCB.(Polychlorynatic byphenil) Như đã tìm thấy có dioxin trong
kỷ nghệ sản xuất ximăng, cụ thể như trường hợp nhà
máy ximăng Hà Tiên đã phóng thích ra trên 30 tấn PCB, hiện
chưa biết xử lý thế nào (theo Câu chuyện Da Cam/ Dioxin Việt
Nam, trang 383, xuất bản do VAST.)
Cũng do đọc tin tức trên mạng,
nhân khi đọc tin CSVN đòi tiền thiệt hại cho các nạn nhân
cho là bị nhiễm Dioxin gây bệnh do thuốc khai quang của Mỹ
cách đây gần 40 năm, để bắt chẹt phía Mỹ trách nhiệm
về hâu quả của thuốc khai quang có độc tố dioxin gây ra.Còn
về tác hại do Dioxin của các loại thuốc trừ sâu mà CSVN
đã sử dụng trong nông nghiệp sau thời gian chiến tranh thì
không kể vào ? Hoặc những thực phẩm hoặc trái cây nhập
từ Trung Quốc. ? Khi đọc tin về một nhà khoa học CSVN ,như
theo tin báo Lao Ðộng tại Việt Nam viết. Tiến sĩ Nguyễn
quốc Tuấn, trưởng phòng Môi Trường Bộ Khoa học -Công nghệ
của CSVN, cho biết cam trồng ở tỉnh Hà Giang , Bắc Việt
Nam,cũng có chứa chất 2,4-D, và trái cây nhập từ Trung Quốc
cũng có chất 2,4-D và thêm chất 2,4,5-T, như vậy ở đâu cũng
có chất dioxin bám vào..
Còn báo Thanh Niên cũng tại
Việt Nam, lại đăng bài giải thích của Cục An toàn Vệ sinh
Thực phẩm lại đính chính , rất buồn cười, khi nói chỉ
có chất 2,4-D chứ không có chất 2,4, 5-T, ngụ ý bảo là không
có chất 2,4,5-T là không có dioxin ? Báo Thanh Niên ở Việt
Nam không phân biệt rõ ràng,về vấn đề này ( Theo tài liệu
về Orange Agent trong http:// www. người viet .online. com )
Như vậy, dù trái cây ở Bắc
Việt Nam hay nhập từ Trung Quốc đều có phải do nhiễm chất
thuốc khai quang đem phun rãi tại miền Nam do quân đội Mỹ
xủ dụng cách đây hơn 40 năm hay không? Không chỉ riêng miền
Nam Việt Nam mới có chất dioxin do thuốc khai quang? Vì thực
tế ở đâu cũng có dioxin , chú không riêng gì ở miền Nam
Việt Nam mới có? Làm sao phân biệt dioxin nào do chất khai
quang của Mỹ rải ? Vì thời gian phun xịt thuốc khai quang
của Mỹ tính đến nay đã gần 40 năm qua. Khó mà hiểu được
xuất xứ chất dioxin này do lòng dạ con người ?
Trên thực tế, CSVN không có
một việc làm nào hay hành động nào mà không lồng vấn đề
chánh trị vào. để tuyên truyền hoặc bắt chẹt nhau? Tại
sao CSVN không nêu lên vấn đề để xin cứu trợ nhân đạo
cho các nạn nhân bị nhiễm dioxin, hơn là đi thưa kiện ồn
ào như thế? Chưa chắc đã thắng kiện, vì sự thật chứng
minh về tác hại của dioxin không rõ ràng xuất xứ.Nhưng trường
hợp thuốc khai quang mà tôi có dịp xử dụng qua ,cũng như
đã thấy xử dụng trong những ngày tháng hành quân trên vùng
đất ở Củ Chi Trảng Bàng ,Tha La, trong cuộc chiến tại Việt
Nam , theo tôi biết chỉ hoặc 2 hoặc 3 mùa mưa là dioxin đã
rửa sạch và cỏ dại vẫn lên xanh như lúc chưa xịt thuốc..
Ðiều này cũng chứng minh theo
suy luận của các khoa học gia, chẳng hạn theo TS Mai Thanh Truyết
đã cho biết :
Tôi nghĩ với hàm lượng
dioxin trên trong môi trường Việt Nam trong thời kỳ đó cho
đến hôm nay, nó không còn tác dụng gì. Thêm nữa, cái thời
gian bán hủy của dioxin là khoảng từ 7 năm tới 10 năm. Kể
từ năm 70 tới bây giờ, suốt hơn 30 năm, tôi nghĩ sự hiện
diện của dioxin trong đất chỉ là huyền thoại. Tôi nghĩ
thực chất của vấn đề này, nó nằm trên lảnh vực chính
trị nhiều hơn là khoa học..
(Trích câu trả lời phỏng vấn của TS Mai Thanh Truyết, trong
cuộc phỏng vấn do Trường Giang, ngày 17 tháng 9 năm 2002, trang
383 và 384, chương 39, sách Câu Chuyện Da Cam/Dioxin Việt Nam,
xuất bản do VAST, năm 2008 )
Chuyện tuy cũ, chuyện đã trãi
qua gần non nữa thế kỷ, mà hôm nay vẫn còn âm ỷ trong lòng
dạ con người, để làm rầm rộ lên do sự sách động do
tâm địa gian xảo của con người. Khó mà lường kết quả
của sự việc như vậy..
Cũng vì đó, mà tâm trạng
của tôi khi đọc bài nói về thuốc khai quang và sách Câu
Chuyện Da Cam/ Dioxin Việt Nam, làm tôi nhớ đến Tha La. Khiến
tôi hồi tưởng những ngày gian khổ đã qua trên vùng đất
này. Ðặc biệt trên vùng đất Củ Chi, Hố Bò, Bời Lời,Trị
Tâm, Suối Ðá, Thiện Ngôn, KaTum, Xa Mát và Tống Lê Chân..v..v
.. Những địa danh đó đã thu gọn vào đời lính của tôi
bằng những ngày tôi ghé qua vùng đất Tha La, làm tôi liên
tưởng đến một quá khứ đầy vinh nhục trong cuôc đời.
Ôi bao hình ảnh ngày xưa, giờ này như diễn lại trong tâm
trí tôi. khiến tôi vẫn còn nhớ từng nơi từng chỗ mà tôi
đã đi qua.Dù đến nay đã quá lâu, nhưng vẫn làm tôi nhớ
lại những kỷ niệm đó cũng gần 40 năm qua, vẫn chưa phai
mờ.mỗi khi nhắc lại vùng đất Tha La
Tất cả một chuổi dài hồi
tưởng về những ngày đã qua trong đời lính. Trong đó có
hình ảnh của vùng đất Tha La , Trảng Bàng Củ Chi, Hố Bò,
Bời Lời.. Tất cả là những kỷ niệm buồn đã đi vào đời.
Ðời của con người từng gánh chịu gian khổ và chứng kiến
biết bao chuyện xuyên suốt 20 năm đời lính. Rồi kế tiếp
10 năm do đời tù, bị CSVN giam giữ tại các trại cải tạo
tập trung trên rừng rú của đất Bắc Việt Nam. May mắn.
còn sống sót. ra tù , sống tiếp đến đời lưu vong xa xứ,
cùng với những ngày đầy trăn trở, bùi ngùi nơi xứ lạ
quê người.
Mọi chuyện tưởng đâu đã
đi vào quên lảng, vì những nổi đau của quá khứ đầy đen
tối bất hạnh đó. Nay nhơn lúc đọc những bản tin thời
sự, sách báo , khiến tôi nhớ lại quá khứ của một thời
, cũng là một hội chứng dai dẳng, khiến tôi nhớ lại những
hình ảnh trên vùng đất Tha La đầy tang tóc và máu lữa của
cuộc chiến năm xưa.Như vậy nỗi nhớ vẫn chưa nguôi ,vì
cơn đau chưa dứt.?
Kể từ ngày cởi bỏ áo lính
do thời cuộc gây nên , tôi không có dịp về thăm Tha La và
thăm lại Trảng Bàng, để có dịp thưởng thức những món
ăn đầy hương vị của vùng đất này, như bánh canh và cháo
lòng Trảng Bàng..mà tôi có dịp thưởng thức qua trong những
ngày tôi đến với Tha La. Cũng để nhớ lại những kỷ niệm
trong thời kỳ chiến tranh tàn khốc trên quê hương do Việt
Cộng gây ra..
Giờ viết ghi lại những ngày
tháng mà tôi đã ghé qua Tha La, bổng dưng những hình ảnh
năm xưa như gợi về . Ngẩm nghĩ lại trong cuộc đời con
người thường sống bằng những nguyện ước cho tương lai
khi còn trẻ tuổi, nhưng lúc về già, thường sống bằng những
kỷ niệm. Như những kỷ niệm của thời trai trẻ, đôi khi
cũng làm nhớ lại những hình ảnh của một thời, làm tâm
tư mình rung động hoặc xao xuyến, truớc những hư thực của
cuộc đời đầy man trá và lừa đảo, do bản chất hung bạo
của con người.. Những cảnh tượng, những hình ảnh đã
xảy ra năm xưa trên vùng đất Tha La, giờ này nhớ lại thấy
lòng quá xót xa như dao cắt và quá ngậm ngùi, ray rứt, như
những lời thơ của bài thơ Tha La Xóm Ðạo :
Ðất đã chuyển rung lòng
bao thế hệ
Trời Tha La vần vũ đám
mây tang
Vui gì đâu mà tâm sự
Buồn làm chi cho bẽ bàng..
O ơ hơ tiếng hát
Lá vàng cao, vàng rụng lá
rừng bay
Giờ khách đi Tha La nhắn
câu này
Khi hết giặc khách hãy
về thăm khách nhé
Hãy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tha La dâng ngàn hoa gạo
Về suối mát rừng xanh
Thăm đám chiên lành thương
áo trắng
Nghe trời nổi gió nhớ
quanh quanh
(Tha La xóm đạo, thơ Vũ Anh
Khanh )
Nhà thơ Vũ Anh Khanh đã một
lần ra đi, rồi đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại với
Tha La. Riêng viễn khách cũng đã từ giả vùng đất năm xưa
để ra đi . Dù đã hết giặc, nhưng vì lòng người vẫn còn
ngăn cách, nên khách không thể về thăm Tha La xớm đạo năm
xưa được. Ðành xin hẹn lại, sẽ về thăm Tha La khi một
ngày nào đó quê hương sớm có được thật sự hài hòa giữa
con người với con người.Con người biết thương con người.
Không còn cảnh con người hành hạ đánh đập con người do
lừa dối nhau.để thống trị. Không biết đến bao giờ quê
hương mình mới chấm dứt cảnh bạo tàn này ? Hi vọng khi
đó khách sẽ về thăm Tha La và Trảng Bàng như ngày nào./
Austin, mùa hè 2007
Phạm Thành Tính
|