TỰ TÌNH QUÊ HƯƠNG
Tôi biết có những người đủ điều kiện và được đi du lịch nhiều nơi ở mọi miền đất nước, thậm chí ra cả nước ngoài. Thế nhưng không ít người chẳng biết hoặc chẳng mảy may quan tâm chút gì về nguồn gốc địa danh, nét riêng lịch sử, văn hóa…nơi chôn nhau cắt rún của mình. Anh Đông, bạn tôi xa quê hơn 15 năm, khi trở về lại nhờ tôi đưa đi chơi nơi này nơi nọ khắp các vùng quê cứ như không phải người sinh trưởng đất này. Tôi độ chừng những tháng năm sống nơi đất khách, va chạm nhiều với con người cùng phong tục xa lạ, tới lúc nào đó anh mới thảng thốt nhận ra câu “không đâu đẹp bằng quê hương mình” được học từ nhỏ là đúng. Anh thật tình bảo :
- Có nhiều tên xóm, tên làng nghe rất gần gũi từ ngày còn bé, nhưng giờ sao vẫn còn mơ hồ về nguồn gốc, tôi cảm thấy như mình có lỗi…
Tôi cảm thông và đồng ý với suy nghĩ của anh :
- Tôi hiểu…Thỉnh thoảng đi miền Tây chơi đâu chừng mươi bữa, nửa tháng, ngồi xe đò về gần tới chợ tôi thường trông ngóng để thấy cái tháp nhà thờ quen thuộc mà lòng nôn nao lạ. Ngay xứ Gò Công mình đây, ví dụ người ta thường gọi địa danh Đập ông Chưởng, Xóm Thủ, Giồng Tháp, Bến Chùa…nhưng mấy ai chịu khó tìm hiểu ông Chưởng cơ, ông Thủ khoa đó lai lịch thế nào ? Và tại sao là Giồng Tháp, Bến Chùa…trong khi nơi ấy chẳng còn vết tích gì ? Rồi còn Ao Dinh, Mã Một, Pháo Đài…mang dấu ấn lịch sử xa xưa ?
Chuyện trò, bàn bạc một lúc, Đông hẹn tôi sớm mai cùng lên đường để nhìn lại một góc quê hương …
Con đường trải đá đỏ đưa chúng tôi vào Lăng Hoàng Gia thăm mộ Phạm Đăng Hưng tọa lạc trên gò cao, dân ở đây kính trọng gọi là Phạm Quốc Công, thân sinh bà Từ Dũ mẹ vua Tự Đức. Những năm chiến tranh hoang phế, giờ gian nhà thờ chung được trùng tu trông sáng sủa, trang nghiêm hơn. Chúng tôi thắp nhang cả thảy 8 bàn thờ đơn sơ, ngó quanh chẳng thấy bức hoành phi, câu đối xưa nào. Như hiểu ý, bà cụ thủ từ móm mém nói :
- Đồ thờ mất mát nhiều, chưa phục chế được…Kinh phí thì có hạn, sửa chữa được như vậy là mừng rồi mấy cậu ơi !
Nhìn mấy cây sứ sần sùi, già cỗi mà trổ đây bông thơm ngát, tôi kể cho Đông nghe câu chuyện truyền tụng về hai cây điệp đang sum suê tươi tốt bỗng dưng héo tàn sau khi bà Từ Dũ mất. Đông cùng tôi đi quanh khu mộ rộng lớn, bao bọc bởi những tảng đá xanh chạm trỗ hoa văn, cành lá, chim muông…Vẻ cô tịch với tấm bia chữ mờ nhạt ghi công đức tiền nhân khiến chúng tôi im lặng bồi hồi cho đến lúc ra về…
Trở lại thị xã, tôi đưa Đông ghé lăng Hoàng quốc công Võ Tánh, nhưng rất tiếc cổng đóng kín, gọi mãi không thấy ai. Nhìn mái ngói âm dương cũ kỹ cùng vẻ hoang vắng nơi đây, tôi không khỏi bùi ngùi nỗi niềm thăng trầm lịch sử. Đông cũng thở dài :
- Bao nhiêu năm nay, lăng vẫn như thế sao ?
Tôi nhẹ gật đầu, lòng thầm mặc niệm vị dũng tướng con rể vua Gia Long, thuở hàn vi đã cùng mẹ nuôi trú ngụ đất này. Một thời liệt oanh, cuối cùng đã tự thiêu mình tại lầu bát giác khi thất thủ thành Bình Định năm 1.801…
Ghé ao Trường Đua, tôi nhắc lại nguồn gốc hình thành ao đã được nghe kể. Cách đây độ trăm năm, để lấy đất lấp vũng lầy lập chợ, khai thông đường sá, bọn Tây bắt dân phu đào, gánh đất ròng rã gần một năm trời. Cực nhọc không kể xiết lại bị bọn cai Tây đánh đập liên miên, dân tình rất khổ nhục. Thời ấy, người ta truyền miệng bằng hình thức “nói thơ” chuyện cậu Hai Miên con lãnh binh Tấn là người cấu kết với Tây vây bắt giết Trương Định, lãnh tụ nghĩa binh ở Gò Công chống giặc. Được hưởng nhiều ân sủng, nhưng không giống tính cha nên cậu rất bất bình trước cảnh áp bức đó. Cậu sai bộ hạ là dân lục lâm tứ chiếng cướp súng, bắt bọn Tây tà phải gánh đất và bị đánh bằng roi da cho biết mùi cực khổ. Sau này có tổ chức đua xe đạp, xe ngựa vòng quanh ao, thành tên Ao Trường Đua cho tới nay. Hiện nay ao được chỉnh trang, xây bờ kè sạch đẹp, đặt băng đá cho mọi người nghỉ chân, hóng mát. Đông thích thú ngắm hoài mặt nước ao trong xanh với từng đàn cá bơi lội tìm mồi…
Dừng xe chỗ chùa Bình Nghị, trong khuôn viên có ngôi mộ bà huyện là người sáng lập chùa, chúng tôi bồi hồi nhìn ngọn tháp với những trụ đá chạm tỉ mỉ hình búp sen, điểu thú. Chùa chỉ còn cái nền điện phật bằng đá sạn , hai bên đông lan và tây lan…cây cỏ phủ đầy. Vào nhà gần đấy gặp Hậu, nghe tôi bảo Đông muốn tìm hiểu về các di tích địa phương, anh chỉ tay lên cây dầu cao khoảng trên 40 mét sau chùa và nói :
- Những cụ già kể lại rằng xưa kia vùng đất này còn trong tình trạng khai khần hoang sơ, người Khmer sinh sống khá nhiều mà cây dầu này là chứng tích do họ trồng, nghe nói gần 200 trăm năm tuổi. Sau đó, chẳng hiểu không hợp phong thổ hay bất đồng điều gì mà họ lần lượt về xứ hết…
Tôi và Đông chăm chú nghe anh nhắc lại những huyền thoại tự đời xửa đời xưa. Từ chuyện cặp rắn mồng đỏ, biết gáy và phát sáng trong đêm, sống trong hang cạnh cây dầu cho đến chuyện một nông dân thời ấy đào được pho tượng phật bằng đồng đen trong bọng cây da Giồng Nâu hơn 300 năm tuổi, nay rụi tàn, mất vết tích vì binh lửa. Để rồi 50 năm sau, cả gia đình bác nông dân bất hạnh đó bị thảm sát, pho tượng đồng đen mất tích, bí ẩn bao trùm. Đông vừa nghe vừa ngắm cây dầu sừng sững như hình người che lọng, thân to đến ba người vòng tay ôm chưa giáp. Những chuyện Hâu kể nhiều chi tiết ly kỳ, huyền hoặc tới mức tôi phải lấy giấy viết ghi lại mà không quan tâm tới vấn đề hư thực. Chuyện dân gian truyền khẩu đôi khi chẳng nên bóc trần hoặc tra cứu ngọn ngành…mất hay. Nhiệt tình mời chúng tôi ở lại không được, Hậu ân cần tiễn ra cửa và hẹn dịp khác gặp nhau lâu hơn…
---Trời đã về chiều, nhưng biết Đông vẫn còn muốn đi nữa, tôi chợt nhớ đến một nơi bèn gợi ý :
- Hay ta thuận đường về biển Tân Thành chơi một đêm, sáng về ? Mình quen thân một bác ngư dân cố cựu, mến khách lắm…
Đông háo hức gật đầu và nửa giờ sau chúng tôi đã đến ngã ba biển. Rẽ trái, qua trạm tôm giống bon xe chầm chậm trên đường đê lộng gió, dày đặc hàng đước xanh tươi chắn sóng. Bãi cát chạy dài mút mắt, thấp thoáng bóng những người đang cắm cúi nhặt lưới đứt, phao trôi…từ ngoài khơi đưa vào. Một mái nhà thấp lợp lá, không cửa, nằm sát chân đê hướng ra biển hứng no cơn gió chiều. Bác Năm đang đứng ngoài sân, tuổi tròm trèm 80 mà trông còn rất khỏe, tấm thân trần vồng những bắp thịt tiềm tàng săn chăc của người lăn lộn với biển từ thuở thiếu thời. Nhà chính bác ở xóm Cây Bàng, nhưng bác thích sống tại …trạm tiền tiêu này cho thoải mái. Tôi đẩy xe vào mái hiên, biếu bác ít bánh trà, giới thiệu Đông và xin phép ngủ lại một đêm. Bác cười đôn hậu, mừng rỡ vỗ mạnh vai tôi :
- Ờ…vậy mới vui ! Tao mới kéo lưới về có dư đồ biển đãi hai đứa bây, phải nhậu cho ngon một bữa nghen !
Thế là ba bác cháu xúm xít nhau bên bờ ao sau nhà chế biến các món ăn. Nhìn cổ tay bác Năm xăm chàm số 18, Đông tò mò rồi ngập ngừng hỏi :
- Chắc bác xăm kỷ niệm tuổi hồi còn trẻ ?
Ánh mắt bác như lắng đọng chút trầm tư :
- Lúc xưa theo ghe thương hồ đi đây đi đó, bác được dạy câu “thiệu” ghi nhớ bằng các chữ đầu các tỉnh miền Nam mình. Để nhớ coi…chà…lú lẫn quên mất hai câu đầu ..Hai câu sau là Thủ, Tây, Biên, Mỹ, Hà…Chợ, Vĩnh, Gò, Cần, Bạc.. Đúng rồi. theo thứ tự thì Gò Công đứng mười tám, dân mình xăm vào tay để không quên nguồn gốc, dễ nhận biết đồng hương nơi xứ lạ. Bây thấy…tình cảm chưa ?
Sụp tối, dưới ánh sáng dìu dịu của ngọn đèn bình ắc-quy và bếp lửa ấm áp, ba người quây quần trên chiếc đệm trải giữa nhà. Mâm rượu bày đủ thứ : mực luộc giấm, cá đuồi hấp lá nghệ, tôm cua…Bác chủ nhà luôn miệng bảo chúng tôi ăn mạnh vào, tôi với Đông nhâm nhi lai rai, còn bác thì uống từng ngụm lớn. Lúc đã ngà say, bác Năm trầm giọng :
- Tao dặn hờ thôi…Nếu tiện thì tới ngày 16 tháng 3 âm lịch bây về đây dự đám giỗ hội, tưởng nhớ ông bà mình mất trong trận bão kinh hồn năm Giáp Thìn 1.904. Nghe kể bữa đó gió thường thường, xế chiều mưa lớn, nước dâng đột ngột trở tay hổng kịp, người vật, nhà cửa bị cuốn phăng, chết nhiều lắm. Rồi cũng gầy dựng lại được, nhưng cháu con mình phải nhớ…
Vuốt mái tóc bạc như ôn lại ký ức, bác nhìn ra hướng biển rì rào tiếng sóng, miệng lẩm nhẫm đọc câu ca dao :
- Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc…Gió nào độc bằng gió Gò Công…Thổi ngọn đông phong cho lạc vợ xa chồng…Đêm nằm nghĩ lại…nước mắt hồng tuôn rơi !
Bác hứng thú nói lan man đủ chuyện miệt biển mới có cũ có thật lôi cuốn khiến chúng tôi quên cả buồn ngủ dù quá nửa đêm. Bác thuộc làu những tích xưa, từ chuyện anh hùng Trương Định quê tận Quảng Ngãi vào Gò Công lập đồn điền, chiêu mộ dân binh chống giặc Tây. Rồi vì thương dân mình mà từ bỏ quan tước triều đình, kiên trì đánh giặc, sa cơ tuẫn tiết ở rừng lá Gia Thuận. Các cận tướng của ngài vẫn tiếp tục kháng chiến mặc cho sức yếu thế cô. Như Phó đốc binh Tình và Phó đốc binh Chung bị Tây bắt xử bắn, nay còn miễu thờ tại Chợ Giồng. Như Phó đô đốc Trương Công Luận chiếm giữ vùng Rạch Bùn, sau thất trận bị chém ở bến sông chợ Gò Công. Dân làng Tăng Hòa cảm thương khí tiết trung nghĩa với dân với nước nên rước về chôn ở Xóm Gò, lập miễu thờ hương khói quanh năm…
Bác đặt ly rượu uống dở xuống, thở dài :
- Mỗi một vùng đất quê hương mình, đâu đâu cũng có mồ hôi, máu thịt tiền nhân đổ xuống bồi đắp cho ngày nay và tương lai rộng mở. Lớp hậu sinh bây phải gắng gìn giữ, đừng quên đi mà có lỗi nặng lắm ! Tao già rồi, nay mai cũng theo ông theo bà, giờ…chỉ biết nói khuyên vậy thôi !
…Nằm vào mùng rồi, anh em chúng tôi còn thao thức với tâm trạng riêng, mà có lẽ cùng chung nguồn suy nghĩ. Đêm quạnh vắng, chỉ nghe tiếng bác Năm ngáy đều đều. Đông trở mình nói khẽ :
- Đi một ngày mà mình như mở mắt ra để hiểu và thêm yêu thương quê mình. Nhà thơ Đỗ Trung Quân có những câu thơ rất thấm thía… “Quê hương mỗi người chỉ một…Như là chỉ một mẹ thôi…Quê hương nếu ai không nhớ..Sẽ không lớn nổi thành người…” !
Tôi lưỡng lự thì thầm :
- Nếu không bận bịu gì thì sớm mai mình ra cầu tàu khu du lịch ngắm cảnh biển rạng đông. Và sau đó đi theo con đê lớn qua các ấp Cây Bàng, Cầu Muống cho anh xem tận mắt các ruộng dưa hấu, bãi nuôi nghêu…phát triển sung túc cỡ nào. Tới Đèn Đỏ, anh dám xuống phà vượt sông Cửa Tiểu sang cù lao Phú Thạnh không ? Câu “Bánh giá chợ Giồng, mắm còng Phú Thạnh” là phát xuất từ đây…Mình sẽ viếng Lũy Pháo Đài là di tích nơi anh hùng Trương Định đặt súng thần công ngăn giặc, rồi đi dọc dài các ấp như Cây Duối, Bà Từ, Lý Quàn, Cả Thu…Bên ấy vừa thành lập huyện mới Tân Phú Đông, chắc chắn trong tương lai về các mặt kinh tế, văn hóa…không kém huyện đất liền đâu !
Đông chợt cười nhỏ :
- Anh hướng dẫn bằng sách vở hay thực tế đấy ? có khi nào hai đứa…lạc đường ?
Tôi cũng cười theo :
- Tất nhiên phải nhờ vào sách vở, tư liệu…Nhưng anh an tâm, trước kia tôi đã từng qua lại đất cù lao này rất nhiều lần, ở nhiều ngày, có điều …khoảng gần chục năm nay. May mắn được tháp tùng anh đi thực tế để biết thêm sự mới mẻ, thay đổi ra sao là tốt lắm rồi !
Đêm thanh vắng, biển cả đen ngòm mông mênh ẩn chứa bất trắc cùng sản vật, tài nguyên thiên nhiên cho con người. Xa xa thấp thoáng những ánh đèn ghe giăng câu, chòi đáy…vẫn thao thức chờ ánh bình minh sắp đến!
Sưu Tầm from Internet.
NGUYỄN – KIM
|