Print Page | Close Window

VÙNG 7 NÚI

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Đời Sống - Xã Hội
Tên Chủ Đề: Chuyện Linh Tinh
Forum Discription: Nói chuyện linh tinh về đủ mọi điều ...
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=1492
Ngày in: 04/Aug/2025 lúc 11:22pm
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: VÙNG 7 NÚI
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Chủ đề: VÙNG 7 NÚI
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 8:18am
Mr DraGon
THẤT SƠN- BẢY NÚI
I. Cái Nhìn Tổng Quan
Bảy Núi còn có tên là Thất Sơn, các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương tôn xưng là Bửu Sơn, gồm bảy ngọn núi không liên tục, đột khởi trên đồng bằng miền Tây Nam Bộ, thuộc hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, tỉnh An Giang, Việt Nam.


Hình do Mr DraGon thiết kế dựa trên những sự kiện văn hóa - xã hội của tỉnh

II. Nguồn gốc

Ngược dòng lịch sử khoảng một triệu năm trước, trong thời kỳ Pleistocene, hàng loạt các hoạt động tân kiến tạo đã làm vỏ trái đất ở khu vực Bảy Núi bị nức nẻ, lún sụt hoặc nhô cao nhiều nơi. Sau đó là những đợt biển tràn ngập cả vùng Nam Bộ khoảng 10.000 đến 11.000 năm thì chấm dứt. Dấu tích của những thời biển tiến này còn để lại các bậc thềm biển cổ ở những vùng quanh núi Cấm, núi Dài, núi Phú Cường... của huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.

Phần nhô cao tức đồi núi ở An Giang gồm nhiều đỉnh có hình dạng, độ cao và độ dốc khác nhau, phân bố theo vành đai cánh cung kéo dài gần 100km. Khởi đầu từ xã Phú Hữu (huyện An Phú) qua xã Vĩnh Tế (thị xã Châu Đốc), bao trùm lên gần hết hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, về tận xã Vọng Thê, Vọng Đông rồi dừng lại ở thị trấn Núi Sập của huyện Thoại Sơn.

Đứng trên góc độ địa hình, có thể chia đồi núi An Giang thành hai dạng chính:
* Dạng núi dốc: được hình thành trong thời kỳ tạo sơn mãnh liệt như đã nói trên, nên chúng thường cao và có độ dốc lớn trên 25 độ và phần lớn là đá cứng với nhiều pha tạp khác nhau (đá núi lửa và đá Granitoit có tuổi Jura thượng, đá Granite có tuổi Creta), như núi Cấm, núi Cô Tô, núi Dài...

* Dạng núi thấp và thoải: được hình thành từ các thành tạo trầm tích và phun trào có tuổi trias và Creta nên có độ dốc nhỏ dưới 15 độ, độ cao thấp, ít khe suối và bề mặt có khi là đất, như núi Nam Qui, núi Sà Lon, núi Đất...
Và vùng Bảy Núi khi xưa là đất của Chân Lạp. Rồi trong một cuộc tranh giành quyền lực, Nặc Tôn được chúa Nguyễn giúp đỡ đã trở lại ngôi vua. Để tạ ơn, Nặc Tôn hiến đất Tầm Phong Long, trong đó có Bảy Núi, vào năm 1757.



III. Giới thiệu

Bảy Núi là 7 ngọn núi tiêu biểu trong số 37 ngọn núi, ở hai huyện vừa kể trên. Tên Thất Sơn lần đầu được biên chép trong Đại Nam Nhất Thống Chí (phần An Giang tỉnh, mục Sơn Xuyên), và gồm các núi: Tượng, Tô, Cấm, Ốc Nhẫm, Nam Vi, Tà Biệt và Nhân Hòa. Sau đó, Hồ Biểu Chánh trong Thất Sơn huyền bí và Nguyễn Văn Hầu trong Thất Sơn mầu nhiệm, cho rằng đó là các núi: Tượng, Tô, Cấm, Trà Sư, Két, Dài, Bà Đội Ôm.

Còn theo Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1972; được Vương Hồng Sển dẫn lại trong Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam, thì đó là các núi: Tượng, Tô, Cấm, Sam, Két, Dài, Tà Béc...

Đến năm 1984, Trần Thanh Phương cho xuất bản Những Trang sử về An Giang, đã kể tên bảy Núi là:

QUOTE
* Núi Cấm (Thiên Cẩm Sơn),
* Núi Dài Năm Giếng (Ngũ Hồ Sơn)
* Núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn),
* Núi Dài (Ngọa Long Sơn),
* Núi Tượng (Liên Hoa Sơn)
* Núi Két (Anh Vũ Sơn)
* Núi Nước (Thủy Đài Sơn).


Theo Địa chí An giang...., ở hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên có 37 ngọn núi đã có tên, nhưng con số 7 (bảy núi) vẫn không hề thay đổi.

Mặc dù Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc sử quán nhà Nguyễn đã đề cập đến bảy điểm “linh huyệt” của vùng Thất Sơn, rồi chọn ra những núi đã nêu trên, nhưng so sánh lại những tên núi, vẫn có khác biệt.

Lý giải cho điều này, hiện nay vẫn chưa có lời giải thích nào ổn thỏa. Nhưng điều dễ thấy trong việc sắp xếp núi non này, đã chịu ảnh hưởng rất nhiều những yếu tố thần bí, siêu nhiên, phong thủy...

Tuy vẫn còn có những ý kiến khác, nhưng hiện nay những núi do Trần Thanh Phương liệt kê, được khá nhiều người đồng thuận.

IV. Tài Nguyên

A. Khoáng sản

Bảy Núi rất phong phú về khoáng sản, như:
* Nhóm vật liệu xây dựng: Đá granit ở núi Cô Tô, núi Ba Thê, núi Két, núi Tượng, núi Sập, núi Trà Sư...Cát xây dựng nằm theo triền hoặc nơi các trũng giữa núi Cấm và núi Dài.
* Nhóm vật liệu trang trí: Đá ốp lát ở núi Cấm, núi Dài Nhỏ...
Đá aplite, một thành phần quan trọng để sản xuất ra gạch ceramic, để làm hạ nhiệt nóng chảy của cát, trong các lò chế tạo thủy tinh, được tìm thấy nhiều nơi ở Bảy Núi.

Ngoài ra, còn có các khoáng sản khác, như: than bùn ở các xã Núi Tô, Châu Lăng, Lương Phi, Ba Chúc, An Tức...; mỏ vỏ sò ở núi Chóc; mỏ đất sét cao lanh, đá quý và ngọc ở Nam Qui, Tà Pạ; quặng kim loại molipden ở núi Sam, núi Két, núi Trà Sư; quặng mangan ở vùng Tà Lọt; nước khoáng thiên nhiên ở núi Dài, núi Cô Tô, núi Cấm và bột Diatomite ở núi Cấm, núi Dài...

B. Thực vật

Khi xưa, vùng Bảy Núi phần lớn là rừng rậm nguyên sinh với nhiều loại gỗ quý. Đến thế kỷ thứ 17, nơi đây hãy còn hoang vu. Thái Văn Trừng đã xếp các quần thể rừng của Bảy Núi trong kiểu rừng kín nửa rụng lá, ẩm nhiệt đới với cấu trúc 3 tầng rõ rệt: tầng cây gỗ như dầu, căm xe, lăng ổi, bời lời, quế, gõ mật, nính..., tầng cây bụi như sâm ngọt, sâm núi, mua lông, bưởi, chanh…, tầng thân thảo và quyết thực vật như sa nhân, gừng dại, giềng rừng…

C. Động vật tự nhiên

Trước đây, vùng Bảy Núi có nhiều loại chim muông và thú rừng. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí viết: Ở núi Nam Vi cây cối um tùm, khe sâu cỏ rậm, rất nhiều hươu, nai, hổ, báo...Còn ở núi Khe Săn (Khê Lạp) có cây tùng, cây trúc tốt tươi, hươu nai tụ tập…nhân dân thường đến núi này để tìm mối lợi.. Ngoài ra, Trịnh Hoài Đức còn cho biết về thú rừng có hổ, báo, nai, hươu, cáo, vượn, khỉ; về chim có phượng hoàng, quạ... Ngày nay, chỉ còn một số ít loài, như heo rừng, khỉ, nhím, rắn...còn phần nhiều những loài mà Trịnh Hoài Đức kể trên gần như không còn nữa.

V. Đặc điểm

Nói về mặt tự nhiên của vùng Bảy Núi, Gia Định thành thông chí mô tả:
QUOTE
Hang núi ngậm mây, suối cong nhả ngọc, lại có những cây giáng hương, tóc hương, cây cối xanh um, cầm thú béo mập. Phía đông có ruộng đồng bằng phẳng, phía tây có hồ nước... Ngoài ra, còn nghe gà gáy dưới bóng trăng, chó sủa trong hang động, cảnh huống yên hà ngoài thế giới vậy


Ở trong sách trên còn cho biết sự hiện diện của những người Việt đến sinh sống, hòa nhập với người Khmer, ở vùng Bảy núi vào mấy thế kỷ trước. Họ đến để khai thác nguồn lợi thiên nhiên, lập vườn cây ăn trái, trồng hoa màu, tìm dược thảo, làm ruộng ở chân núi, bắt cá vào mùa hạn ở các ao đìa...

Sau này, vùng Bảy Núi còn là nơi hội tụ của những sĩ phu yêu nước trong phong trào Cần Vương. Vì nơi đây vừa có đồng bằng thuận lợi cho việc canh tác, vừa có núi rừng trú ẩn, có lối trốn sang nước Campuchia, nếu bị đối phương lùng sục... Cho nên rất nhiều người đã tìm đến đây, mỗi người mang mỗi tâm trạng, đến để chuẩn bị chiến đấu, để chờ thời cơ hay chỉ để lãng quên thực tế.... Vì vậy, vùng đất này gắn liền tên tuổi của nhiều danh nhân như: Đoàn Minh Huyên, Thủ Khoa Huân, Trần Văn Thành, Ngô Lợi, Phan Xích Long, Trương Gia Mô v.v...

Đây cũng là nơi hội tụ nhiều ông đạo, bởi vậy có câu: Tu Phật Phú Yên, tu tiên Bảy Núi.

Vùng Bảy Núi còn là nơi có nhiều lễ hội, phong tục... đặc thù của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ, như lễ Chol Chnam Thmay, lễ Pisat bo chia, lễ Pha Chum Bênh (tức lễ Đôn Ta)...và đặc biệt hơn cả là lễ hội Đua bò Bảy Núi được diễn ra vào cuối tháng 9, đầu tháng 10 hằng năm...

Ngoài ra, Bảy Núi còn là phên dậu nơi chốn biên thùy. Vua Gia Long đã từng nói: Địa thế Châu Đốc, Hà Tiên cũng không kém Bắc Thành...

Và là nơi có vô số danh lam, thắng cảnh...

Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, có câu:
 
Thất Sơn, hòn dọc dãy ngang,
Nói sao cho hết cả ngàn phong cương.




-------------
hoangngochung@ymail.com



Trả lời:
Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 8:22am
(tiếp theo)
Núi Dài

Núi Dài còn có tên Ngọa Long Sơn (núi rồng nằm), là trái núi dài nhất trong Bảy Núi (khoảng 8.000m), cao 580 m, nằm dọc theo tỉnh lộ 955B thuộc bốn xã Châu Lăng, Lương Phi, Ba Chúc, Lê Trì của huyện Tri Tôn tỉnh An Giang.


A. Đặc điểm



Núi Dài thuộc dạng núi dốc, được hình thành trong thời kỳ tạo sơn mãnh liệt nên núi có độ cao và có độ dốc lớn trên 25 độ và phần lớn là đá cứng với nhiều pha tạp khác nhau (đá núi lửa và đá Granitoit có tuổi Jura thượng, đá Granite có tuổi Creta).

Núi Dài còn nhiều loại gỗ quý như dầu, căm xe, lăng ổi, bời lời, quế, gõ mật, nính...và còn một số loại chim muông và thú rừng.

Tài nguyên ở núi Dài gồm: đá xây dựng, cát núi, đất sét cao-lanh (dùng làm sứ cách điện cao cấp) và nước khoáng thiên nhiên. Đặc biệt, diatomite được phát hiện ở xã Lê Trì, nằm cách mặt đất từ 1,8m - 2,2m. Bề dày bình quân khoảng 1,7m - 2m, trữ lượng dự báo khoảng từ 800.000 đến 1.000.000 tấn. Các loại diatomite có ở đây đều lẫn sắt hoặc chất hữu cơ rất cao, nên thường có màu xám đen hoặc vàng. Do vậy, màu trắng và tính ròng của diatomite núi Dài có thể sử dụng rộng rãi trong công nghiệp lọc hoạt tính, đặc biệt là lọc bia, rượu, dầu ăn... Đất sét bentonite cũng được tìm thấy tại xã này với trữ lượng khá lớn. Đây là một loại đất chứa nhiều khoáng montmorillonite. Nên nguyên liệu này rất thông dụng trong công nghiệp, đặc biệt dùng làm chất tẩy rửa dầu nhớt và hút nhờn và làm dung dịch trong các giếng khoan dầu nhớt...

Ngoài ra, núi Dài còn có rất nhiều nương rẫy, vườn cây ăn trái và thắng cảnh. Nhưng đặc biệt hơn cả đó căn cứ Ô Tà Sóc, một di tích cách mạng đã được xếp hạng.

B. Căn cứ Ô Tà Sóc

Ô Tà Sóc có nghĩa suối ông Sóc, nằm trên điểm cao của núi Dài, thuộc ấp An Ninh, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, cách thị trấn Tri Tôn 11km. Đây là một vùng sơn lâm hiểm trở, cho nên từ năm 1962 đến năm 1967, nơi này là căn cứ của Tỉnh ủy An Giang với nhiều cơ quan trực thuộc...

Ngoài Điện Trời Gầm, nơi đặt cơ quan Tỉnh ủy, còn có Điện Huỳnh Liên, Vồ Cò, Vồ Cỏ Xã...là nơi những cứ điểm quang trọng. Đặc biệt trên đồi Ma Thiên Lãnh, có hang rộng có thể chứa hàng nghìn người.

Từ căn cứ này, Tỉnh ủy An Giang đã chỉ đạo quân và dân đánh đuổi nhiều nhóm thổ phỉ và nhiều lần kháng lại các cuộc càng quét của quân đội đối phương...

 


-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 8:29am
(tiếp theo).
Núi Dài Năm Giếng

Núi Dài năm Giếng còn được gọi là Núi Dài Nhỏ hay Ngũ Hồ Sơn. Với độ cao 265 m, chu vi 8.751 m, đây là ngọn núi cao đứng hàng thứ tư trong Bảy Núi. Núi thuộc thị trấn Nhà Bàng, riêng vách phía Tây và phía Đông thuộc địa phận xã An Phú, xã Văn Giáo. Tất cả đều thuộc huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang.



Đặc điểm

Sở dĩ có tên Núi Dài Năm Giếng vì trên núi có năm nơi mặt đất trũng sâu như giếng nước.

Núi tuy hiểm trở nhưng có nhiều cảnh đẹp, nhiều vườn cây trĩu trái quanh năm, như: ổi, xoài, bưởi, mận, sầu riêng, thanh long v.v...Cho nên có người mô tả nhìn theo hướng mỏ Két của núi Két, phía trước mặt là dãy Ngũ Hồ Sơn, có thể ví như một hòn non bộ khổng lồ tuyệt đẹp.

Ngoài ra, núi Dài Năm Giếng còn có nguồn tài nguyên là đá xây dựng thuộc nhóm sáng màu mịn hạt và đá ốp lát dùng để trang trí...


-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 8:39am

(tiếp).

Núi Cấm

Núi Cấm còn được gọi là Núi Ông Cấm hay Thiên Cấm sơn, Thiên Cẩm Sơn ; tên Khmer: Pnom ta piel hay Pnom po piêl; là một ngọn núi tại địa phận xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, Việt Nam.


Toàn cảnh Núi cấm nhìn từ xa
I. Vị trí, đặc điểm

Núi Cấm có độ cao 705 m, chiếm chu vi 28.600m, là một ngọn núi cao nhất trong Thất Sơn và cao nhất tỉnh. Núi nằm trên địa bàn xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, cách trung tâm TP Long Xuyên khoảng 90km theo Quốc lộ 91 rẽ qua tỉnh lộ 948, và cách thị xã Châu Đốc không xa.

 

Đường lên Núi Cấm

II. Tên núi

Núi Cấm hay Cấm Sơn là tên gọi chính thức bằng văn tự đầu tiên xuất hiện trong Đại Nam nhất thống chí được biên soạn vào cuối thế kỷ 19. Sách đã miêu tả: ...thế núi cao ngất, cây cối tươi tốt, là một trong Bảy Núi. Vì núi cao nên ít người lên đến chót.

Còn trước đó, theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, ngọn núi này được gọi là núi Đoài Tốn. Và tác giả cho biết núi cao 50 trượng, chu vi 20 dặm dư hình như cai đài cao, nghiễm nhiên ở về cung Thìn Tỵ nên gọi là núi Đài Tốn...Núi cao đột ngột, sinh sản các loài trầm hương, tốc hương, súc sa, cây sao, giáng hương, thông tre. Cây cối tốt tươi có đường cong queo thông trong núi sâu, dấu người qua lại, gần nơi đồng ruộng, xa có bến nước, kẻ cày cấy, người đánh cá chia từng loại ở nơi chân núi…

Có nhiều giả thuyết về cái tên núi Cấm :


Theo Nguyễn Văn Hầu, giả thuyết đáng tin cậy hơn cả là Đoàn Minh Huyên (tức Phật Thầy Tây An) đã cấm các tín đồ của mình lên đó cất nhà lập am, bởi sợ sẽ ô uế chốn núi thiêng.

Một giả thuyết khác, Nguyễn Phúc Ánh khi bị quân Tây Sơn truy nã, có lúc phải vào núi này nương thân. Muốn tông tích được giấu kín, các cận thần phao tin có ác thú, yêu quái, để cấm dân chúng vào núi.

Cũng có người cho rằng tướng cướp Đơn Hùng Tín (biệt danh của Lê Văn Tín, quê Cao Lãnh) có lúc dùng nơi này làm sào huyệt. Sợ lộ, Tín cấm dân lên núi.

III. Năm Vồ


Vồ Bồ Hong

Vồ (hoặc non), từ dùng chỉ một chỏm cao trên dãy núi.

Theo Nguyễn Văn Hầu , năm non trên núi Cấm bao gồm :

QUOTE
* Vồ Bồ Hong: cao 705 m, cao nhất. Tương truyền vồ có tên này, vì trước đây có nhiều côn trùng gọi là bồ hong sinh sống. Ở trên vồ cao này có tượng thờ Ngọc Hoàng, là nơi được nhiều người đến tham quan và lễ bái.
* Vồ Đầu: đỉnh cao đầu tiên của Núi Cấm tính từ phía Bắc, cao 584 m.
* Vồ Bà: cao 579 m, có điện thờ Bà Chúa Xứ.
* Vồ Ông Bướm: (hay Ông Voi) cao 480 m tương truyền xưa kia có hai người Khmer lưu lạc tên ông Bướm và ông Vôi đến cư trú, nên mới có tên như thế.
* Vồ Thiên Tuế: cao 541 m, nơi đây trước kia là rừng cây thiên tuế.


Thực tế, núi Cấm còn có nhiều vồ hơn nữa, như Vồ Chư Thần, Vồ Cây Quế, Vồ Mồ Côi, Vồ Đá Dựng, Vồ Pháo Binh v.v...


Chùa Vạn Linh trên đỉnh Thiên Cấm Sơn


IV. Danh thắng


Tượng phật Di Lặc

Núi Cấm nơi du lịch nổi tiếng của tỉnh An Giang: vì núi có dáng vẻ hùng vĩ, khí hậu mát mẻ, phong cảnh đẹp và cây cối luôn xanh tươi. Trên núi có: Chùa Vạn Linh, chùa Phật Lớn, tượng Phật Di Lặc, Cao Đài Tự...

Ngoài ra, dọc theo những lối mòn từ chân lên tới đỉnh núi có nhiều điểm tham quan như: suối Thanh Long, suối Tiên, điện Cây Quế, điện Mười Ba, điện Tam Thanh, điện Huỳnh Long, hang Ông Thẻ, hang Ông Hổ, hang Bác Vật Lang, động Thủy Liêm.


Tượng phật chùa Phật Lớn

Dưới chân núi Cấm, về phía Đông là khu du lịch Lâm Viên, với diện tích khoảng 100 ha, có cảnh quan đẹp, có đường tráng bê tông khá rộng lên đến đỉnh.


Bảo Tháp chùa Vạn Linh

Bên cạnh các nguồn lợi từ du lịch, hành hương, cây trái... núi Cấm còn có các nguồn lợi khác từ tài nguyên, như đá xây dựng, cát núi, đất sét cao-lanh và nước khoáng thiên nhiên...


-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 8:46am
(tiếp).
Núi Tượng

Núi Tượng còn được gọi là Liên Hoa Sơn, nằm tại thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, Việt Nam. Núi Tượng thấp nhỏ, chỉ cao 145 m và chu vi 3.825 m. Nhiều người cho đây là một trong Thất Sơn. Từ xa, hình núi trông giống hình dạng con voi nên có tên là Núi Tượng.


Chợ Ba Chúc, phía cuối con đường là Núi Tượng

I. Đặc điểm, sự kiện

Nhà văn Sơn Nam viết:

QUOTE
Vùng Ba Chúc (quanh núi Tượng), thung lũng nhỏ, cổ kính, có cảnh “trước miễu, sau chùa”, miễu (là đình làng độc đáo, thờ trăm quan đại thần) cất phía trước, chùa phía sau, kề sát nhau. Câu ca dao khá xưa, dễ gợi giây phút lâng lâng:
Dạo chơi trước miễu sau chùa.
Đụng người mua bán quê mùa thiếu chi.



Cây dầu hàng trăm năm tuổi bên chân núi Tượng, gợi nhớ
nơi này hãy còn rừng rậm, hoang vu


Ở miền đất này đã xảy ra một số sự kiện:

II. Đạo nạn

Trước năm 1870, vùng núi này hãy còn hoang vu, nhưng kể từ năm này, nhờ ông Ngô Lợi , người khai sáng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa (gọi tắt là đạo Hiếu Nghĩa), dẫn dắt một số đệ tử vào vùng núi Tượng khai hoang lập những thôn ấp, mà sau này trở thành làng An Định, An Hòa, An Thành, An Lập; dựng chùa Tam Bảo, chùa Phi Lai khiến nơi đây ngày một trở nên đông đúc.

Chỉ tính trong 12 năm (1876 - 1888), quân lính Pháp đã đến đốt phá, bắt bớ, tra tấn, tù dày những tín đồ ở làng An Ðịnh cả thảy bảy lần, tín đồ Hiếu Nghĩa gọi là “đạo nạn”. Đơn cử năm 1885, Ngô Lợi cùng với tín đồ đạo Hiếu Nghĩa kết hợp với nghĩa quân của Hoàng Thân Sivôtha (Campuchia) nổi dậy, nhưng bị Pháp nhanh chóng đưa quân vào trấn áp rồi còn cho đóng đồn dọc kênh Vĩnh Tế để dễ theo dõi, chế ngự. Lần đạo nạn này, Ngô Lợi phải cùng với nhiều tín đồ phải chạy sang Vườn Dầu, thuộc Campuchia để lánh nạn. Đến khi trở về, nhà cửa, chùa chiền chỉ còn lại những đống tro tàn.

Nhưng bi thảm nhất là vào năm 1887 khi lính Pháp xử bắn 8 người, đày ra Côn Đảo 13 người. Người Pháp giải tán làng An Định (sáp nhập vào làng Ba Chúc), thiêu hủy tất cả chùa chiền, nhà cửa và cưỡng bức 407 gia đình gồm gần hai ngàn người già trẻ xuống tàu về quê quán...

Nói đến đạo nạn, kệ giảng của đạo Hiếu Nghĩa có những câu:

Lập an chùa miễu vững xong,
Bước qua Ất Dậu, gió giông ai tường.

Mã tà, Mã kỵ rần rần
Phá làng, phá xóm vang rền tứ vi.

Kẻ chạy, người ở thêm thương,
Cám nổi đoạn trường chua xót đắng cay…
(trích Chánh Tăng Phật tích)


III. Thảm sát

Làng còn bị một đại nạn khác xảy ra vào ngày 18 tháng 4 năm 1978, khi quân Pôn Pốt từ Campuchia tràn vào xã Ba Chúc (nay là thị trấn Ba Chúc). Đông đảo người dân quanh vùng đã kéo nhau lên Núi Tượng, tìm các hang đá sâu và hẻo lánh để ẩn nấp.


Chùa Tam Bửu - một trong những nơi không thể quên của người dân Ba Chúc

Mười một ngày sau, khi quân Pôn Pốt bị đánh đuổi, tại nhiều nơi trong đó có chùa Tam Bửu, chùa Phi Lai và các hang của Núi Tượng như: Dồ Đá Dựng, Cây Da, Ba Lê, Tám Ất… và những nơi khác đã phát hiện nhiều xác dân thường bị quân Pôn Pốt lùng sục và thảm sát. Do một số xác người ở hang quá sâu, không thể mang lên, thân nhân phải lấp kín miệng hang. Theo Bia Căm thù Ba Chúc, số người bị thảm sát là 3.157 dân thường.


Chùa Phi Lai - nơi ghi lại tội ác lịch sử của Pôn Pốt

Hiện nay Nhà Mồ Ba Chúc trưng bày 1.159 bộ hài cốt nạn nhân cuộc thảm sát này


-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 8:49am
(tiếp).
Núi Két

Núi Két tức Anh Vũ Sơn, người hành hương thì gọi là Núi Ông Két, là một ngọn núi nhỏ trong Bảy Núi, thuộc xã Thới Sơn huyện Tịnh Biên tỉnh An Giang.



I. Đặc điểm

Núi Két có hình khối tròn, cao 225m, dài và rộng hơn 1.100m. Núi ở phía đông thị trấn Nhà Bàng, huyện Tịnh Biên, cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 70km về hướng tây theo Quốc lộ 91 rồi rẽ qua tỉnh lộ 948. Núi được bao bọc bởi những ngọn núi khác như núi Dài, núi Đất, núi Trà Sư, núi Bà Đắc.

Được gọi là Núi Két vì ở độ cao khoảng một trăm mét, tính từ chân núi, bên vách phía tây gần trên đỉnh có một tảng đá khổng lồ nằm nhô ra, theo sự mường tượng của nhiều người, nó gần giống mỏ chim Két (tức chim anh vũ).

Ở quanh núi có các di tích và thắng cảnh như: Bửu Sơn Linh Tự, Bửu Minh Tự, Đình Thới Sơn... Đường lên đỉnh núi Két dài khoảng 600 mét, được xây bậc thang và đều có hành lang an toàn. Đi dần lên núi có các địa điểm đáng tham quan như: Sân Tiên, Giếng Tiên, điện Chư Thần, điện Phật Thầy, điện Phật Mẫu, điện Ngọc Hoàng, điện Huỳnh Long, điện Ba Cô, điện U Minh, điện Chư Vị Năm Non Bảy Núi và tiêu biểu nhất là “mỏ ông Két” cùng với nhiều truyền thuyết dân gian... Ngoài ra, còn có một đường lên núi khác, đối diện với đình Thới Sơn...

Bên cạnh các nguồn lợi từ du lịch, hành hương, cây trái... núi Két còn có các nguồn lợi khác từ tài nguyên, như quặng kim loại molipden, đá granit sáng màu mịn hạt, đá quí (thạch anh ám khói, thạch anh tím) được tìm thấy trong các mạch pecmatic và nhiều mội nước khoáng...

II. Đình Thới Sơn

Đình Thới Sơn tọa lạc gần chân Núi Két, là nơi được nhiều người tìm đến để thăm viếng.



Đình do Phật Thầy Tây An tức Đoàn Minh Huyên (1807-1856), giáo chủ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương cùng với những tín đồ của ông xây dựng vào năm 1851, khi họ đến làng Xuân Sơn và Hưng Thới (nay là ấp Sơn Tây, xã Thới Sơn, Tịnh Biên, An Giang) khai hoang và canh tác.

Ban đầu đình được xây cất bằng cây rừng, mái tranh, vách lá, nền đất. Năm 1945 đình bị quân Pháp đốt phá. Năm 1956, đình được người dân dựng lại với khung sườn bằng gỗ, lợp ngói, nhưng lại bị bom đạn đánh sập.

Sau năm 1975, dân làng góp công, góp của xây dựng lại theo kiến trúc cổ lầu, ba bộ nóc, mái nhị cấp, lợp ngói Phú Hữu, tường xây, nền gạch men, bốn cột chính bằng bê tông cốt sắt có đường kính 60cm biểu trưng cho tứ chúng. Chung quanh đình còn có các công trình nhà khách, nhà bếp, bồn chứa nước...

Trước đình là cổng tam quan có mái che cổ kính. Sân đình có bàn thờ Tổ quốc, Thần Nông và các miếu thờ Sơn Quân, Bạch Mã, Chiến sĩ trận vong. Ngoài cổng là một hồ nước rộng chứa nước sinh hoạt cho cả vùng và cũng chính là nơi theo truyền thuyết, ông Đình Tây (đệ tử của Đoàn Minh Huyên) lén thả nuôi một con sấu hung dữ có tên Ông Năm Chèo.

Nội thất đình trang trí nhiều sắc màu, các khánh thờ chạm khắc công phu, sắc nét với các đề tài: Bát tiên, cuốn thư, hoa, điểu thú. Đình thờ Thành hoàng Bổn cảnh, trước hương án có cặp hạc đứng trên lưng qui chầu thần. Hai bên tả, hữu có các bàn đối xứng thờ Tiền hiền, Hậu hiền. Có võ ca làm chỗ diễn tuồng hát bội trình thần vào các ngày đại lễ Kỳ yên.

Trước đây, đình còn là nơi dung chứa nhiều cán bộ cách mạng thời kháng Mỹ . Đình Thới Sơn đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia năm 1999.

Ngoài đình Thới Sơn, chùa Thới Sơn, chùa Phước Điền (trại ruộng của Đoàn Minh Huyên ), mộ ông Bình Tây, mộ ông Bùi thiền sư (cũng là đệ tử của Đoàn Minh Huyên) đều được nhiều người viếng thăm, cúng bái khi đến tham quan núi Két.


-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 8:52am
(tiếp).
Núi Nước

Núi Nước còn có tên Thủy Đài Sơn, là một ngọn núi nhỏ nhất trong Thất Sơn.



I. Đặc điểm

Núi cao 54 mét, chu vi 1.070m, nằm giữa những cánh đồng rộng lớn, cách lộ nhựa 955b và núi Tượng khoảng 600m. Núi thuộc thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.

Nhiều người tin rằng, mặc dù ở vùng miền này có nhiều núi cao hơn, trải dài hơn nhưng núi Nước được người xưa đặt tên và đưa vào Thất Sơn, có thể do sự tác động bởi những quan niệm thần bí, siêu nhiên trong dân gian...



Khi chưa có đê bao chống lũ, vào mùa nước nổi (khoảng tháng 8 đến cuối tháng 10 âm lịch), chung quanh núi này là một biển nước mênh mông, đỏ quạch phù sa. Vì lẽ đó, núi có tên là núi Nước.

II. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa

Ngay chân núi có chùa Linh Bửu, do Ngô Lợi, giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa cho xây dựng vào ngày 9 tháng 6 năm Giáp Thân (1884).

Tương truyền trên đỉnh núi, thuở xa xưa ai đó đã chôn sâu một trụ đá khắc chữ Tàu, cốt để trấn ếm long mạch, nhưng sau này đã được Ngô Lợi cho đào lên phá hủy, và sau nữa người ta dựng lên ở đỉnh một con rùa bằng đá và xi măng.



Tuy nhỏ và có dáng dấp như một hòn non bộ lớn, nhưng núi cũng có một ít cây cổ thụ, một ít hang động nhỏ... Nhưng nói rằng núi Nước có một hệ thống hang động và nó là núi Trà Sư là sai.


-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 8:56am

(tiếp).

Núi Cô Tô


Núi Cô Tô, tên gọi tắt: núi Tô, tên chữ: Phụng Hoàng sơn, tên Khmer: Phnom - Ktô là một ngọn núi trong Thất Sơn. Núi cao 614 m, dài 5.800m, rộng 3.700m, tọa lạc tại xã Cô Tô, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.


Núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn)


I. Đặc điểm


Núi Cô Tô là một vùng bán sơn địa và do cấu tạo địa chất đặc biệt, nên nhiều nơi bên trong núi là một hệ thống hang động ngầm như tổ ong vĩ đại, rất kiên cố và vững chắc.

II. Đồi Tức Dụp



Đồi Tức Dụp hay Tức Chóp (tiếng Khmer) có nghĩa nước quanh năm. Đồi nằm ở sườn phía Tây núi Cô Tô, cách thị trấn Tri Tôn khoảng 18 km.

Trước năm 1975, ngọn đồi được nhiều báo chí gọi là ngọn đồi “Hai triệu đô la” do số bom đạn của Mỹ dội xuống đây được tính ra đồng đô la Mỹ.



Đây là căn cứ kháng chiến của một số quân dân An Giang. Nhờ nơi này, trập trùng đá với những lối đi quanh co lúc rộng, lúc hẹp, lúc cheo leo và bên trong là những hang động rộng lớn mà khi xưa dùng làm hang Tuyên Huấn của Tỉnh ủy An Giang, kho vũ khí, nơi ăn ở, trạm xá và hội trường có sức chứa lên đến khoảng 150 người.

III. Hồ Soài So



Nằm ở sườn phía Đông núi Cô Tô là một hồ nước có vẻ đẹp hoang sơ, nước lúc nào cũng xanh biếc và phẳng lặng. Hồ rộng chừng 5 ha, có dung tích khoảng 400.000 m3, được sử dụng tưới tiêu cho hàng trăm hecta ruộng rẫy và cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân vùng phụ cận.

Một số điểm trên núi đáng tham quan khác là Mũi Tàu, Mũi Hải, Vồ Hội lớn, Vồ Hội nhỏ, suối Cây giông, Pháo đài, Bàn chân tiên...

IV. Tài nguyên



Bên cạnh các nguồn lợi từ du lịch, hành hương, cây trái... núi Cô Tô còn có nhiều nguồn lợi khác từ tài nguyên như than bùn dạng vỉa, đá xây dựng (thuộc đá sậm màu hạt thô) đất sét cao-lanh và nhiều mội nước khoáng thiên nhiên...



-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 9:02am

(tiếp).

Núi Sập

Núi Sập tên chữ: Thoại Sơn là một trái núi nhỏ thuộc huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang.



I. Đặc điểm

Núi Sập là trái núi lớn nhất nằm trong cụm núi Sập bao gồm bốn núi: núi Sập, núi Nhỏ, núi Bà và núi Cậu. Tất cả đều nằm trên địa bàn huyện Thoại Sơn. Núi Sập có độ cao 85m với chu vi 3.800m, cách thành phố Long Xuyên 29 km theo đường tỉnh lộ 943.

Suốt một thời gian dài, núi này bị khai thác đá triệt để. Chỉ đến khi thấy nguy cơ ngọn núi gắn liền công lao của Thoại Ngọc Hầu sẽ không còn tồn tại, chính quyền tỉnh An Giang mới cho ngưng việc khai thác đá, nhưng hậu quả để lại là dưới chân và bao quanh núi là những vực sâu hàng chục mét, rộng thênh thang...

Ý tưởng làm du lịch liền nảy ra từ những vực sâu rộng này.

II. Hồ Ông Thoại


Hồ Ông Thoại.

Thế là nước được dẫn vào lòng những vực sâu. Và chúng được đặt tên là Hồ Ông Thoại. Du khách đến đây có thể chèo thuyền thưởng ngoạn cảnh đẹp của núi, của hang sâu, của hồ nước xanh thẳm với những đàn cá bơi lượn.

Mặt chính của Hồ Ông Thoại là một khu vui chơi - giải trí rộng. Nơi đây có tượng Thoại Ngọc Hầu cao lớn, do chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Nam (quê hương ông Thoại) gửi tặng. Quanh hồ và các đảo nhỏ là những tượng đá mang hình thần Siva, tháp Ponagar, hình tượng Linga và Yoni... Những tượng đá gợi về một nền văn hóa Óc Eo xa xưa đã tàn lụi ở chốn này. Tất cả đều do những nghệ nhân vùng núi Ngũ Hành Sơn (thuộc Quảng Nam) làm ra, được chính quyền quận Sơn Trà (TP Đà Nẵng), là quận kết nghĩa với huyện Thoại Sơn, gửi tặng...

Một hệ thống đường lên núi cũng đã được mở để du khách dễ dàng viếng thăm Hang Dơi, Pháo Đài cùng nhiều chùa chiền mang nhiều huyền thoại. Trèo lên tận đỉnh, du khách dễ dàng phóng tầm mắt bao quát cả thị trấn Núi Sập với phố xá khang trang cùng ngôi chợ xinh xắn nằm kề chân núi. Và xa hơn nữa là những cánh đồng lúa mênh mông của vùng tứ giác Long Xuyên, đồi núi trập trùng của vùng Thất Sơn...

III. Đình thờ Thoại Ngọc Hầu


Đình thờ Thoại Ngọc Hầu, bên triền núi Sập.

Để đánh dấu công trình đào kênh Thoại Hà vào năm 1818, Thoại Ngọc Hầu cho soạn một bài văn khắc vào bia đá. Năm Minh Mạng thứ ba (1822), ông long trọng làm lễ dựng bia và khánh thành miếu thờ Sơn thần, nay là ngôi Đình thần thờ Thoại Ngọc Hầu tại thị trấn núi Sập, huyện Thoại Sơn.

Vào các dịp rằm tháng Giêng, ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch, người dân khắp vùng tứ giác Long Xuyên và quận Sơn Trà, quê hương ông, tề tựu về lễ hội Thoại Ngọc Hầu, để tưởng nhớ ông Thoại và những người có công mở cõi...

IV. Tài nguyên

Bên cạnh nguồn lợi từ du lịch, từ cây trái, núi Sập còn có nhiều nguồn lợi khác từ tài nguyên như đá xây dựng thuộc nhóm sáng màu mịn hạt, đá aplite và những mạch pecmatic chứa tràn kali và natri rất quí cho công nghiệp gốm sứ, sành sứ...


-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 9:08am
(tiếp).
 
Núi Ba Thê

Núi Ba Thê còn được gọi là núi Vọng Thê, tên gốc là Hoa Thê Sơn, đời vua Minh Mạng vì kỵ húy tên Hoàng hậu Hồ Thị Hoa, nên đổi tên là núi Ba Thê.



I. Đặc điểm

Đây là một trái núi trong Cụm núi Ba Thê gồm 5 núi cũng thuộc huyện Thoại Sơn, đó là: Ba Thê, núi Nhỏ, núi Tượng, núi Trọi và núi Chóc. Núi Ba Thê lớn nhất với độ cao 221 m, chu vi khoảng 4.220 m, nằm lẻ loi giữa cánh đồng Tứ giác Long Xuyên, thuộc thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 40 cây số theo tỉnh lộ 943.

II. Mô tả

Vương Hồng Sển viết:
Núi Ba Thê cao 30 trượng, châu vi 30 dặm, cách phía tây bến Thoại Hà (xem kênh Thoại Hà) 18 dặm ngoài. Nơi đây có 3 ngọn núi trùng điệp xanh tươi, có nhiều cây cao bóng mát...Mặt trước ngó ra chằm lớn, cỏ rậm bùn lầy.
Thoại Ngọc Hầu nhân đó cho đào vét, rộng 20 tầm ghe thuyền lưu thông dễ dàng…
Vùng này trước đây còn con beo, còn voi tượng thì rút lần về rừng Cao Miên. Núi Sập và núi Ba Thê nay chỉ còn khỉ, còn chim rừng thằng bè, nhang sen, diệc mốc, le le, cu xanh, cu đất thì còn khá nhiều...
Về tên gọi, ông Sển giải thích:
Thê là cái thang, vì ngày trước vào thời đàng cựu nơi đây có bắc thang cao để trông hành động của phe Thổ...
III. Di tích Óc Eo



Vào thập niên 1920, nhà khảo cổ người Pháp tên là L.Malleret đã dùng không ảnh chụp miền Nam Việt Nam và phát hiện ra khu vực rất đáng để nghiên cứu rộng ước chừng 450 hécta. Nhưng mãi đến năm 1944, Malleret mới bắt đầu cho khai quật. Và từ đó cho đến nay, qua nhiều cuộc khai quật khác, người ta đã phát hiện được nhiều di vật, nhiều nền móng của các công trình xa xưa. Có cổ vật như khuôn chế tác vật dụng, nữ trang bằng gốm, đá, vàng, đồng. Có cổ vật mang đậm dấu ấn văn hóa Phật Giáo và Hindu giáo như tượng Phật, linh vật, nhóm tượng Ganesa với mình người đầu voi, Yoni, Linga có niên đại cách đây trên dưới một thiên niên kỷ rưỡi và rất nhiều xương thú hóa thạch...

Tất cả, chứng minh cho sự tồn tại của một địa điểm thương mại lớn mà các thư tịch của Trung Hoa đã từng miêu tả về vương quốc Phù Nam...

IV. Chùa Linh Sơn


Chùa Linh Sơn.

Chùa Linh Sơn được xây dựng vào năm 1913 và được trùng tu mấy năm gần đây, cách chợ Vọng Thê 2 km về hướng Đông theo triền núi Ba Thê. Chùa Linh Sơn nằm trên nền một gò đất cao, bên những đại thụ râm mát, dưới chân núi Ba Thê, trong Khu di tích Nam Linh Sơn

Chùa được xây dựng để tôn thờ pho tượng Phật bốn tay và hai bia đá cổ vô tình tìm được. Đây chỉ là phần rất nhỏ trong nhiều cổ vật chưa được phát hiện. Nói khác hơn, bên dưới gò núi này, còn ẩn chứa bao điều bí mật về một nền văn hóa của một vương triều đã biến mất: Phù Nam.

Năm 1988, tượng Phật bốn tay được Bộ Văn hóa quyết định công nhận di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.

V. Nơi danh thắng

Năm 2002, đường lên núi Ba Thê được tu sửa để phục vụ cho việc du lịch. Đường dài chừng 2 km, tráng xi măng, bên đường (phía vực) có lan can bảo hiểm. Con đường nầy có từ đời Pháp thuộc, đến thời Việt Nam cộng hòa được sửa sang lại ....

Trên đỉnh núi có ngôi chùa cổ tên Sơn Tiên Tự được dựng vào năm 1933. Trước sân chùa có tượng Phật Quan Thế Âm bồ tát cao chừng 8m. Ở sân chùa, có vết tích một Bàn chân Tiên.

Cách chùa Sơn Tiên chừng 10m, là Nhà trưng bày, dành trưng bày những cổ vật, hiện vật có liên quan đến lịch sử văn hóa của Ba Thê - Óc Eo. Công trình nầy có phong cách kiến trúc rất giống những đền đài của các nước vùng Nam Á và dấu ấn của Hindu giáo thể hiện rất rõ qua kiến trúc mái vòm. Các mặt vách chung quanh công trình đều có tượng thần Ganesa mình người, mặt đầu voi, ngồi với tư thế nghiêm trang, nửa như trầm mặc thiền định, nửa như răn đe. Lan can bao bọc sân trang trí tượng nhỏ. Khu nhà trưng bày có chu vi hình vuông chừng 40 m, tam cấp cửa chính ở phía mặt trời mọc, là nơi ngự trị của các thần linh theo quan niệm Ấn Độ giáo.

Phía Bắc của núi là các danh thắng khác như: hang Ông Hổ, Linh Sơn Tự, Thạch Đại Đao... Cao nhất của núi Ba Thê là Chót Ông Tà, nơi thờ phượng thần Núi.

Đứng trên đỉnh, nhìn bốn phía là những dãy núi thuộc Bảy Núi nhấp nhô, trên những cánh đồng rộng lớn của vùng tứ giác Long Xuyên...

Ngoài ra, nơi chân núi Ba Thê có ngôi đình thờ Phan Thanh Giản làm chính thần và một khu chợ mua bán suốt ngày khá nhộn nhịp.

VI. Tài Nguyên

Bên cạnh các nguồn lợi từ du lịch, hành hương, cây trái... núi Ba Thê còn có nhiều nguồn lợi khác từ tài nguyên, như đá xây dựng thuộc nhóm sậm màu hạt thô, một số đá quí thuộc loại thạch anh ám khói, thạch anh tím được tìm thấy trong các mạch pecmatic...


-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 9:11am
.(tiếp)
Núi Sam


Núi Sam có tên khác Vĩnh Tế Sơn hay Ngọc Lãnh Sơn cao 284m có chu vi 5.200m, là một núi nằm trong vùng Bảy Núi, thuộc xã Vĩnh Tế - nay là Phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang..


I. Tên gọi, vị trí

Vĩnh Tế Sơn:
Vua Minh Mạng cho đặt tên núi Sam là Vĩnh Tế Sơn, để ghi công của Thoại Ngọc Hầu đã hoàn thành việc đào kênh Vĩnh Tế (1819 – 1824).

Học Lãnh Sơn: Học nghĩa là con sam, lãnh nghĩa là núi. Giả thuyết cho rằng gọi là núi Sam vì hình thù của núi giống như con sam, mà đầu quay về hướng Tịnh Biên. Cũng có tài liệu khác cho rằng thuở xa xưa, khi quanh núi Sam hãy còn là biển cả, các loài sam biển tập trung sống ở nơi đây.


Vị trí núi: Phía Tây Bắc có tuyến kênh Vĩnh Tế chạy dọc biên giới Campuchia. Phía Tây Nam giáp xã Thới Sơn, Nhơn Hưng thuộc huyện Tịnh Biên. Phía Đông Bắc và Đông Nam giáp phường Châu Phú A, Châu Phú B của thị xã Châu Đốc.

II. Bia Vĩnh Tế Sơn

Giới thiệu


Bia Vĩnh Tế Sơn là một trong ba di tích lịch sử, loại bia ký nổi tiếng ở Việt Nam dưới chế độ phong kiến còn lưu lại đến ngày nay.

Bia Vĩnh Tế Sơn được tạc bằng đá, cao ngang đầu người, khắc 730 chữ, do Thoại Ngọc Hầu cho soạn, được dựng vào tháng 9 năm Minh Mạng thứ 9 (1828), tức sau khi kênh Vĩnh Tế đã đào được 4 năm.


Trước đây vì đứng trơ trọi giữa trời lâu năm, bia bị ngã đổ và bị lấy đi nơi khác. Có lẽ vì sợ hư hại thêm và thất lạc lần nữa, nên hiện nay bia bị gắn chặt vào bức tường dầy của Sơn lăng.

Khác với bia Thoại sơn còn khá tốt, bia Vĩnh Tế Sơn vì thời gian, vì mưa nắng nên đã bị rạn nứt và chữ khắc đã không còn đọc được. Toàn văn bia ký giờ đây có được là nhờ Trần Hữu Thường (1844 - 1921), đỗ tú tài thời Tự Đức, biên chép và dịch lại.

Và theo sách Đại Nam nhất thống chí, phần An Giang tỉnh, mục Sơn xuyên, thì thấy có câu: ...nhà vua sắc cho quan hữu tư địa phương dựng bia (Vĩnh Tế Hà) ở bờ sông. Nhưng đến nay vẫn chưa tìm được..

Ngày làm lễ dựng bia Vĩnh Tế Sơn, Vĩnh Tế Hà rất có thể cùng ngày với việc cải táng tập thể các binh, dân đã tử nạn trong việc đào kênh, và cũng là ngày Thoại Ngọc Hầu đã đứng ra chủ tế lễ cúng trọng thể, tuyên đọc một bài văn tế có tên: Thừa đế lịnh, tế cô hồn Vĩnh Tế tân kinh, còn được gọi là Tế nghĩa trủng văn cho những vong hồn này.

Trích văn bia

Địa giới Châu Đốc xưa kia là khu vực của Phiên man (Cao Miên). Nhờ triều đình khai thác cõi Nam, mới cho đất ấy nhập vào bản đồ. Nghiêm đặt đồn doanh để khống chế nước phiên. Phía sau đồn có núi, mà lời tục thường quen gọi núi Sam.

Nơi đây chầm ao, rừng rú mênh mông rậm rạp, cũng là chỗ Thổ dân, Khách trú, người Lào nương ngụ. Tuy có cảnh đẹp chuyện hay, nhưng cũng vẫn là một nơi rừng sâu, đá loạn, nổng gò mà thôi…
Từ ngày dẹp cỏ gai trở đi, rành rành chân núi trắng phau, trọi trọi ngọn tre xanh ngắt, cảnh núi trở nên tươi đẹp, sừng sững vọt lên. Ngắm dòng nước biếc bên bờ cao, ruộng vườn vây quanh chân núi, hơi lam tuôn cuốn lẫn khói nấu cơm, chùa chiền trên chót hương tỏa mây lồng, thật không kém gì phong cảnh trung châu vậy.

Năm trước đây, thần (Thoại Ngọc Hầu) phụng mạng xem sóc việc đào kênh Đông Xuyên, vua đã lấy danh tước thần nêu lên bên bờ kênh núi Sập mà đặt tên núi Thoại (tức Thoại Sơn). Đến nay, hoàng ân lại xét đến lòng thần, cho là biết tề gia hợp hòa khí, lại hạ cố đến vợ thần là Châu Thị Tế là Vĩnh Tế Sơn rằng có đức dày trong đường lễ giáo, bên trong biết giúp đở chồng, một lòng trung thành bền chặt, có chút công lao, nên xuống lệnh ban cho tên núi Sam là Vĩnh Tế Sơn...

Đến nay, ánh sáng sớm sương tan, bóng chiều tà ráng rọi, cây rậm rạp khoe xanh, cỏ là đà phô thắm. Bụi sạch trên đường, lên cao ngắm nghía, dòng sông trải lụa, khách đi qua buông chèo nhàn ngoạn, tay trỏ non xanh cùng nói với nhau: Đây là núi Vĩnh Tế, do vua ban tên đó!…

III. Thắng cảnh, di tích

Trước đây, núi Sam có nhiều cây phượng vĩ và huỳnh mai mọc từ các hốc núi. Vào mùa trổ bông, cảnh núi toàn một màu đỏ thắm rất tươi đẹp và rực rỡ.


Tượng bà ở chùa Bà Chúa Xứ

Trên đỉnh, còn dấu tích một bệ đá, nơi tượng Bà Chúa Xứ Núi Sam ngự, trước khi được đem về miếu.. Bệ đá có chiều ngang 1,60m; dài 0,3m, chính giữa có lỗ vuông cạnh 0,34m, loại trầm tích thạch màu xanh đen, hạt nhuyễn.

Gần tháp cao của Pháo Đài, cũng là nơi Trương Gia Mô (1866-1929), một nho sĩ của phong trào Duy Tân, đã gieo mình xuống vực sâu, tự kết liễu một cuộc đời bế tắc vào một đêm cuối năm 1929.


Lễ rước bà hằng năm


Chùa bà chúa xứ Núi Sam

Trên và quanh núi Sam có rất nhiều chùa miếu, trong đó nổi tiếng nhất là Miếu Bà chúa Xứ, Chùa Tây An, lăng Thoại Ngọc Hầu, Chùa Phước Điền (còn gọi Chùa Hang) là những hạng mục trong Khu di tích lịch sử - Văn hoá núi Sam dã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam công nhận là di tích cấp Quốc gia.

IV. Lợi ích khác

Đá ở núi Sam chủ yếu là đá hoa cương, nên từ năm 1890, Pháp đã cho khai thác để làm đường. Sau năm 1975, để bảo vệ môi trường và cảnh quan du lịch, chính quyền tỉnh đã cấm việc khai thác đá.


Khách sạn Bến Đá Núi Sam


Cảnh quan toàn khách sạn

Núi Sam là một điểm cao chiến lược. Ở đỉnh có thể quan sát, kiểm soát cả một vùng biên giới rộng lớn từ thị xã Châu Đốc đến tận tuyến Tịnh Biên, từ cánh đồng Bảy Núi qua huyện Châu Phú. Do vậy, trước 1975, trên đỉnh núi có một đồn lính, tên gọi là Pháo đài. Sau này, người ta đã cho xây dựng ở gần đó, một trạm tiếp sóng các đài thuộc Đài truyền hình Việt Nam.


Châu Đốc nhìn từ núi Sam

Hoàng hôn trên núi Sam

Ngoài ra, bên chân núi còn có tuyến quốc lộ 91 chạy qua dài 8 km, thuận lợi cho việc giao thông và phát triển kinh tế vùng.


-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 9:13am

Trân trọng cảm ơn tác giả Mr DraGon.



-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 9:54am
 
Thầy Hoàng Ngọc Hùng tìm tòi trên mạng hay trên sách vở chép lại các tài liệu quý giá mặc dầu không liên hệ đến Gò Công. Đọc thấy hay lắm.
Chuyến về VN vừa qua tôi cũng có đi thăm vùng đồng bằng sông Cửu Long. Rất đẹp! Có ý định sẽ đưa lên vài hình ảnh nhưng đã có các bài của Mr DraGon với hình ảnh chuyên nghiệp như vậy làm tôi ngại ngùng quá không dám "múa riều" trước những tài liệu, sách vở!
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 23/Feb/2009 lúc 11:09pm


Thiệt tình Lộ tiên sinh đã khêu trúng nỗi niềm tôi - bởi Hùng đã rất ngại ngùng khi giơí thiệu về Gò Công !.


 
Thầy nghĩ coi !


Ngại 1: Giới thiệu về Gò Công khi hồi đó trong nước chưa ai  mần vụ này (Bộ, Ty Du lịch, Văn hoá,…; thậm  chí Chính quyền hàng tỉnh, thịxã)

Ngại 2: Gò Công không là thị xã hay …huyện mà từng là một tỉnh hẵn hoi với truyền thống các mặt văn hoá xã hội  đang khuất lấp; vậy, sức riêng cá nhân có thể khơi gợi được không !? Làm gì để mình thấy và giúp thế gian thấy được “phần tảng băng truyền thống đang chìm” ở đây !?

Ngại 3: Nếu giới thiệu thiếu cẩn trọng thì không chỉ mang lỗi với đất và người Gò Công mà còn với người thầy cũ (cụ giáo Phạm Đăng Phùng, trưởng tộc Phạm Đăng, dạy Hùng thời tiểu học)…

Thiệt là…ngại ngùng hết xiết Lộ tiên sinh ạ ! Hơn nữa, khi chuyện trò (điện thoại) với đồng nghiệp là người bản địa Gò Công đang làm việc ở các nơi thuộc tỉnh Tiền Giang mới biết mỗi người là một pho tư liệu về Gò Công - trong khi chính mình thì chưa đặt chân tới đó .

Nghĩ tới cảnh múa rìu qua mắt thợ mà nổi da gà ! Và thế là tiếp tục …chờ coi trong nước coi có ai mần trang web về Gò Công đặng ghé vô xí phần. Trong thời gian chờ thì ra sức “tìm tòi trên mạng hay trên sách vở ” và từ đó lại bị “gió độc” (đáo) Gò Công (quốc nội và hải ngoại) thổi hút hồn luôn ! Bao nhiêu cảnh, bấy nhiêu tình, những nhân vật, sự kiện Gò Công xưa, Gò Công nay,… rần rần như vậy mà mấy ai hay biết. Tiếc ơi là tiếc.
Là người Huế, Hùng nhận ra cái duyên cổ kính Gò Công và việc gì đến sẽ đến - chuyện “thiên lý năng tương ngộ” với Gò Công cũng vậy. Nhưng vẫn phải chờ …phải đợi chứ không dám giới thiệu. Nào dè chờ hoài hỏng thấy mà nỗi sợ càng tăng vì càng tìm thì càng hiểu ra cái sâu rộng của vấn đề - vừa thích vừa ham vừa lo. 

Ngại 4: Việc đưa Gò Công lên website phải có website độc lập mới xứng tầm.  Gò Công với trăm ban vạn sự  xưa nay mà chỉ đặt lên forum ảo thì “bứt rứt” lắm . Ấy lại thêm cái ngại ngùng thứ 4 - về quy mô .

Ngại 5: Ngay cả khi chấp nhận kiểu post bài lên diễn đàn, Hùng cũng thấy không đơn giản về kỹ thuật. Lộ tiên sinh đã biết, người post chúng ta đâu chỉ mần mỗi việc copy nơi này và paste sang nơi khác mà phải chăm chút cho sáng sủa hơn; lắm khi post tấm ảnh phải chọn lại góc để có bố cục mới, chỉnh độ sáng tối để dễ nhìn, chọn câu chú thích dù chỉ dăm chữ thôi nhưng nhiều khi cũng lắm nỗi đắn đo .  .

Ngại 6: Sau khi chọn website của Bộ Giáo dục  là nơi “làm cái nhà ảo cho các bài giới thiệu Gò Công” http://edu.net.vn/forums/t/43481.aspx - - http://edu.net.vn/forums/t/43481.aspx    thì phải tính sao để không xảy ra vi phạm nội quy diễn đàn của Bộ Giáo dục  và từ đây ló ra cái ngại ngùng thứ 6 - đó là làm gì để giới thiệu được cái hay của đất và người GC mà không đụng các vấn đề nhạy cảm.  Xứ Gò lắm người tài nên có rất nhiều bài hay, càng đọc càng thấm nhưng chọn post vào website Bộ Giáo dục Việt hiện nay thì có vài chấm phá chưa hợp. Phần riêng thì khoái bài hay (không giới thiệu cho chúng sinh thì tiếc) phần lo “sao y chánh bản” thì vướng 1 (vài)  “hot word” !? Thế là phải lọ mọ nghĩ suy để tải được cái “tinh” mà không bị ai “tế” . Hơn nữa, cái tinh tế ở đây lắm khi đâu chỉ ở kĩ năng mà còn ở tấm lòng. Vì vậy, chẳng mấy khi hài lòng với việc mình làm Lộ tiên sinh ạ !. Stress lắm thầy ôi !

Rất may! Thật may mắn là các tác giả đã hiểu ra tình thế của Hùng khi mần vụ này. Về sau, khi  thăm Gò Công lần thứ nhất, được nghe những lời đồng cảm, Hùng cũng ít nhiều nguôi ngoai nhưng cái mặc cảm tự ti “người liều lĩnh” vẫn không xoá được Lộ tiên sinh ạ. Nhất là khi vấp vô cái nhầm to tướng khi cho rằng thị xã GC có 1 Xóm đạo (Hùng đã tới xóm đạo, Thiên Chúa, gần Trường Trương Định và cho rằng đây là xóm đạo duy nhất ở thị xã GC). Ngượng tái tê luôn !

Lục ngại (tức là 6 vấn đề ngại ngùng) hay nói tắt là “sáu mặt” đó thôi tưởng cũng đã “sặc máu”; không dè vẫn chưa hết. Vẫn còn nỗi ngại ngần sau đây…

Ngại 7: Số là do nhiễu tin do cái tên Phù Thuỷ Gò Công mắc cười quá nên nhiều bà con, kể cả các bạn trẻ vẫn tưởng Phù thuỷ Gò Công là dân GC thứ thiệt, thế là nhiều thư, email, điện thoại gửi về để “hỏi - kiểu giải đáp thắc mắc”. Thưa Lộ tiên sinh ! Tới mức này thì Hùng tôi coi như …chết chắc.

Chút hiểu biết GC ở Hùng là nhờ tìm tòi trên mạng hay trên sách vở chứ đã có thực tế tí gì đâu ! Vậy mà bà con gần xa vẫn trao cho Hùng những câu hỏi rất đáng quý, rất dễ thương, rất đáng được giải đáp. Hic ! .Có nhiều cú điện thoại không cần tự giới thiệu mà mần liền 1 băng: “Alô! Phù thuỷ Gò công ơi ! Em hỏi cái..” (về địa danh, nhân vật) làm Hùng tôi thật sự cảm động (thì ít) nhưng choáng váng thì …nhiều hơn!.

Tất nhiên Hùng cũng đá trái banh về một số người đang ở Gò Công để “giải đáp thắc mắc” nhưng nghe ra cái địa chỉ “Phù thuỷ Gò công” đã bị “chết tên” rồi thì phải, nick yahoo và số di động cũng vậy. Ngại nhất là những câu hỏi từ sinh viên các ngành Du lịch, Văn hoá, Lịch sử,...bởi những câu họ hỏi cũng là những thắc mắc của tôi thầy ạ.

Lại có lần điện thoại rung rất lâu lúc Hùng đang dạy,  khi ra hành lang bật máy thì nghe “Bác Phù thuỷ Gò Công ơi ! Tui thuê xe ôm nguyên ngày có bao cơm trưa để chạy quanh Gò Công chụp ảnh thì trả nhiêu là vừa hở bác ?”  - thế có chết không chứ !?

 

Tóm lại.

Địa danh thì có một: một Gò Công, một Thất Sơn, một Hà Tiên, một Sài Gòn, một Việt Nam…nhưng góc nhìn thì nhiều, thời điểm bấm máy cũng khác nhau, sớm trưa chiều tối, xuân hạ thu đông,……nên sẽ có những ảnh khác nhau và nhờ đó giúp người ngắm nhận thêm cái phong phú của cảnh quang. Vì vậy. Mong thầy sớm giơí thiệu kho ảnh thăm quê nhà tết Kỷ Sửu

Lộ tiên sinh là Tây thứ thiệt (Tây Nam Bộ và...Tây Phương) mà còn ngại ngùng khi giới thiệu ảnh Đồng Bằng Cửu Long thì Hùng tôi người Huế còn phải qua đến chín tầng sợ hãi. Mong thầy giới thiệu ảnh Đồng Bằng Cửu Long  để nêu gương cho tôi nữa nhé!

Với lại. Biết thầy có quà quê hương mà chưa tặng là bà con nóng ruột lắm ! Món quà tình quê của thầy có giá trị hơn so với  so với bài vở của chuyên gia !  Thật vậy đó !

.

Cuối tháng Giêng Kỷ Sửu 2009


-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 24/Feb/2009 lúc 8:24pm



-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: trankimbau
Ngày gởi: 24/Feb/2009 lúc 8:24pm
 
    Thưa Thầy Hoàng Ngọc Hùng,
 
    "Đã mang lấy nghiệp vào thân"
 Sao Thầy còn "trách trời gần, trời xa"
 
   Mừng Thầy Phù Thủy Hoàng Ngọc Hùng đi vào CÕI NGHIỆP.
 
   Kính,


-------------
kb


Người gởi: Hoang_Ngoc_Hung
Ngày gởi: 24/Feb/2009 lúc 8:27pm

Dạ !

 



-------------
hoangngochung@ymail.com



Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info