TÂM SỰ BÀI CA VỌNG CỔ
Lê Quốc
Tôi (*) chào đời trong nỗi buồn chia ly của cha mẹ tôi. Chia ly ép buộc. Giã từ miễn cưỡng ! Cha mẹ tôi gạt lệ chia tay nhau trong niềm đau khôn tả ... Thân gái dặm trường...mẹ tôi ngập ngừng cất bước ra đi... bỏ lại sau lưng ...người chồng cô đơn, sầu thảm... Chiều chiều nghe tiếng chim lẻ bạn kêu chiều - cha tôi nghe như lòng mình bị ai xát muối:
Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau ....
Đau khổ dồn ứ, tắt nghẹn, không thoát ra được. Nỗi buồn ướt đẫm sương khuya, ủ kín trong lòng, nhức nhối trong xương tủy. Nhớ thương đục mòn lá phổi, cay xé tâm hồn. Người muốn kêu la hò hét... phá bỏ, bứt tung tất cả những trói buộc gia đình. Nhưng vô vọng ! Bao quanh ông là một bức trường thành phong kiến - những hào lũy kiên cố của một quan niệm cỗ hủ, lỗi thời: ''Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại ''. (Không con nối dõi tông đường là một tội bất hiếu lớn nhứt). Bức tường cao vời vợi ấy đã đặt cha mẹ tôi vào cảnh ''Chàng Tương giang đầu, thiếp Tương giang vĩ '' ....
Cha tôi vừa tròn 30 tuổi, sống cô đơn vật vờ ... vì thương nhớ mẹ tôi. Cho đến một đêm trăng thượng tuần - ông thơ thẩn ngoài hàng ba trước nhà ... bên tai còn văng vẳng lời thống thiết của vợ lúc chia tay ... trên trời, vầng trăng lưỡi liềm treo lơ lửng ... bỗng có tiếng trống sang canh của một khám đường gần đó, từng hồi nện mạnh vào không gian vắng ngắt, khơi dậy niềm thương nhớ dồn ép lâu ngày... người nghệ sĩ bỗng thấy lòng rung động bồi hồi, tâm hồn trào dâng một niềm cảm xúc...ông vói lấy cây đờn nguyệt, tay rung rung nắn phím... rút ruột trút hết tâm sự mình qua tiếng đàn não nuột bi thương....:
Hò lìu xang xê cống...
Líu cổng... líu cổng.... xê xang
Xừ xang xê hò líu, cống xê xang hò
Líu xế xang xự, xế xang lìu hò ...
(Cao văn Lầu - Dạ cổ hoài lang. Trần văn Khải - Nghệ thuật sân khấu, trích dẫn)
Thanh âm phát ra từ chiếc nguyệt cầm chậm và buồn- như uất ức, như thở than - từng tiếng buông xuống như những giọt mưa rơi lưng chừng ... nửa như muốn trút xuống, nửa như còn vướng đọng trên mây... Năm ngón tay gầy guộc rung rung trên phím đàn - khi nhấn xuống, lúc buông lơi chùng lại - khi vuốt nhẹ kéo dài ... luyến láy qua nhiều âm vực, tạo nên một làn điệu nỉ non, áo não... thấm tận tim gan. Tiếng nguyệt cầm ngân lên, chìm xuống hay tắt lịm ...là những tiếng kêu bi ai của loài chim Đỗ quyên khóc bạn.... bi ai, khoắc khoải .... đến mòn hơi rồi tắt ngủm trong sương đêm... Điệu đàn như u uất, tức tưởi một niềm đau dội lại từ nỗi lòng quằn quại bi thương.... khi dồn dập như một cơn giông đầu mùa, rào rào trên giòng sông Hậu - khi lê thê rã rời như tiếng vạc ăn đêm về muộn...
Tiếng đàn bỗng buông trầm xuống ''hò'', âm thanh chùng lại, lan rộng như hơi gió của cơn giông vừa dứt ...mặt sông vẫn còn nhấp nhô sóng gợn... ngón tay ông dứt câu ở âm ''cống ư...ử ư...'' nhấn sâu xuống ở tận chỗ nào đó gần bát độ nốt đờn, rồi buông lơi nhẹ cho trở về chữ cống vừa tầm giọng ca... nghe xốn xang, thắt thẻo... Tiếng đàn từ hò lên cống... nức nở... bỗng hạ xuống xang theo tiếng ''cắt'' nhịp song lang dứt câu ... sắt như một nhát dao chém lên thềm đá ... âm thanh lạnh lùng xuyên thấu tim gan...
Sắt đá cũng ngậm ngùi ! Điệu đàn càng về khuya càng áo não... Thanh âm thoát ra từ 5 ngón tay rướm máu .... đã có linh hồn - lời ca xuất phát từ nỗi lòng quằn quại bi thương - đã thành máu huyết, thẩm thấu qua tim gan... Cha tôi bây giờ không còn biết mình là mình nữa... Tâm hồn ông bay bổng đến một vùng trời mênh mông, chập chờn hình ảnh của người vợ thương yêu ... Tiếng đờn không còn là tiếng đờn mà chỉ là những dư âm lan man thành một cảm giác bâng khuâng lơ lửng .... Lời ca không còn là lời ca ... chữ nghĩa hết còn là chữ nghĩa - mà chỉ nghe một sự rung động thấm tận tâm hồn...
Mảnh hình hài tôi là những nỗi nhớ nhung xao xuyến...những đau thương bi phẩn kết tinh thành những thanh âm tận cùng của nghệ thuật đờn nguyệt cầm. Tôi ra đời từ đêm ấy .... và mang tên DẠ CỔ HOÀI LANG. Sinh ra và lớn lên trong nỗi buồn... Cho nên đời tôi là một điệu nhạc buồn ! Từ đó...
LANG THANG KHẮP MIỀN NAM KỲ LỤC TỈNH
Tôi lang thang khắp miền sông nước phù sa. Lạ lùng thay ! Người ta say mê tôi. Khắp nơi - từ thành thị tới thôn quê - Già trẻ bé lớn - trí thức, bình dân - ai nấy đều mang tôi ra để mà đờn, mà hát ... Tôi là thượng khách trong mọi buổi hội hè đình đám, quan hôn tang tế ... - là tri kỷ của các đám đờn ca tài tử ... - là bầu bạn của đám nông dân chưn lấm tay bùn - là món ăn tinh thần thường trực của những dân quê - sau một ngày làm lụng vất vả - tụm năm, tụm ba bên vài xị rượu đế, mấy con khô cá lóc, vài trái xoài sống... nhậu sần sần rồi nổi hứng lên ca hát... Có đờn càng tốt - Ca trúng nhịp càng hay, trật nhịp cũng không sao. Miễn xuống hò mùi riệu, nói lối cho ngọt là ăn tiền.
Phải nhìn thấy cảnh một ông già trong bữa giỗ - sau khi nghe xuống HÒ câu vọng cổ - tay búng một cái chóc, đưa ly rượu đế lên miệng làm một cái ''trót'', khà một tiếng, gật gù khoan khoái...- bà lão ngồi khuất trên bộ ván đàng sau, ngừng tay ngoái trầu, mắt lim dim ... thở phào sung sướng như vừa có một điều gì mãn nguyện trong lòng - mấy cô gái lấp ló trong buồng đang say sưa nhìn trộm chàng thanh niên vừa dứt câu nói lối để vô câu vọng cổ: ''Rảo bước qua nhịp cầu tre, trở về nơi mái lá thì con mới hay là mẹ đã qua ...ờ...ớ... ơ... đời'' (1) chàng thanh niên rướng giọng lên cao vút ...ngân dài... mỏng và nhỏ rứt .... bỗng xuống trầm ngay chữ đời cùng một lúc với tiếng đờn kìm - như một tay đua về nhứt trước sự reo hò hoan hô của khán giả - mới hiểu được sức tác động tận tâm can của bài ca vọng cổ. Chàng thanh niên tiếp tục ca: ''Mẹ ơi ! Lòng con tan nát tơi bời. Trên bàn thờ cũ kỹ, con chỉ thấy lạnh lùng chiếc nhện giăng tơ. Mẹ ơi ! Tuổi già nua, mẹ chịu đói no, sau trước một mình, còn con thì trên bước lãng du, bốn phương trời làm thân viễn xứ ....ơ....ơ....ơ...'' (1) - bà già chắt lưởi xốn xang ! Mấy cô gái sau màn - đã có hơn một người quay mặt chỗ khác - rút khăn lau nước mắt....
Ông già cao hứng nói: ''Thằng Gia - Mầy ca mùi quá ! Mầy nói lối khúc Đơn phu nhân cản đầu ngựa Đơn hùng Tín - nghe chơi mầy. Con hai Lụa ờ đầu vàm, nó đang chờ nghe mầy ca đó ''! Ông già cầm ly rượu đưa cho chàng thanh niên: '' Nè làm một ly lấy hứng''. Thằng Gia - cảm thấy dường như có con Lụa sau màn - đưa tay lấy ly rượu, ực một cái cạn ly, khoa tay đứng dậy bắt chước giọng bi hùng trong vai Đơn hùng Tín: ''Này phu nhân - Dạ ! - Chữ tử sanh hữu mạng - câu vạn sự do thiên. Vậy thì thôi - chốn khuê phòng, phu nhân hãy thủ phận thuyền quyên- -i....ối ... còn nơi chiến địa là mồ chôn liệt sĩ - có chi mà phu nhân phải bận lòng đó a... phu nhân'' (2)
Thằng Gia - rượu đã ngà ngà - râu tóc dựng ngược - chỉ tay vào trong như để nói với con Lụa: ''Còn nơi chiến địa là mồ chôn liệt sĩ, có chi mà bận lòng đó a... phu nhân''. Phía sau màn, Con Lụa chớp chớp đôi mắt, cảm động ...và bao nhiêu con mắt dán vào thằng Gia ... chờ nó vô vọng cổ. Bữa nhậu biến thành buổi hát ''bỏ túi''. Thằng Gia nhờ có rượu, có con Lụa bên trong nên tưởng mình như kép hát đóng vai Đơn hùng Tín, mắt trợn trừng, tiếng nói rổn rảng... Nghe mà đã ...đến bừng bừng máu chạy trong cơ thể .... Bây giờ không cần ai mời, họ tự rót rượu uống đến mềm môi ! Khoái trá vô cùng !
Có khi tôi lang thang trên những chiếc ghe thương hồ, gạo chợ nước sông, trôi nổi bềnh bồng theo con nước ròng, nước lớn ...Những đêm trăng sáng vằn vặt ...thuyền trôi xuôi dòng - những điệu hát huê tình, những câu hò đối đáp của những cặp nam nữ buông lỏng tay chèo ...vang lên rộn rã cả giòng sông Hậu. Tôi say sưa nghe các đàn anh, đàn chị Tứ đại oán, Xàng xê, Hành vân, Kim tiền...được các tài tử đờn ca thả thuyền đi chơi, vừa ca hát, vừa thưởng thức món ốc gạo đầu mùa, mập ú, trắng phau chấm nước mắm chanh ớt hay những con tôm càng nhảy soi sói mua từ xuồng câu tôm gần đó, đem nướng trên lò lửa than hồng thơm phức, lột vỏ chấm mấm nêm, rau sống rồi đưa cay một ly nước mắt quê hương. Chao ơi! Vua chúa cũng ăn ngon đến thế là cùng !
Thưởng thức cái ngon - như đọc một bài thơ, nghe một khúc nhạc hay - không thể dùng lời mà lột tả được. Ăn xong mà cái dư vị còn đọng trong cổ họng, cái ngon thấm dần qua da thịt... Còn khi nghe một bản nhạc hay ... bài ca đã dứt mà cảm xúc còn lai láng... dư âm còn lan man mãi trong hồn...
Đêm trăng sáng - rượu đã sần sần - họ nổi hứng mang tôi ra mà đàn hát.... Họ thả hồn theo tôi, bay bổng ngang qua mấy ngọn bần lập lòe đom đóm... bay vút tận mấy vầng mây lấp loáng ánh trăng ...
Có lần tôi xuống tận miền Cà Mau - nơi vàm sông Cái Cau - nghe được tiếng hát của chị Bảy đưa đò. Chưa bao giờ tôi được nghe tiếng hò hay như vậy: Tiếng hò: ''Khi cất lên thì cao hơn tầm bay bổng của con cò, con vạc ... cao vút tận mấy vì sao lấp lánh; giọng ấy lúc buông trầm xuống thì như hơi gió xao động cả giòng sông, chuyển rung mặt nước, dẫu khi thuyền đã xa khuất ''. (3)
Tiếng hò hay như vậy - giọng Nam ai có buồn như lá đổ - các đàn chị Tứ đại oán, Hành vân - mấy anh Xàng xê, Bình bán - trước đây ăn khách bao nhiêu - giờ đây đều nhường bước cho tôi. Nơi đâu, tôi cũng chiếm một chỗ hàng đầu. Ở đâu tôi cũng chiếm được trái tim người thưởng thức...
NHỮNG GIỜ PHÚT VINH QUANG
Vinh quang đời tôi bắt đầu với thằng nhỏ Lê văn Cao, 7 tuổi, ở xóm Hàng Cóc, ca bài Dạ cổ hoài Lang. Tôi được mọi người say mê - thằng nhỏ 7 tuổi nổi tiếng khắp một vùng xóm công xi rượu Mậu thắng Hưng, xóm kinh Tư Muối. Nó giúp anh nó bán đuợc ghe muối kiếm lời bộn bàng nhờ sự say mê bài Dạ cổ và lòng hào hiệp của Chủ Sanh và Năm Học ở Bạc Liêu (4). Lớn lên, thầy giáo Lê văn Cao bỏ nghề để theo nghiệp cầm ca, tâm tiếng lẫy lừng và làm nên sự nghiệp với bài ca Vọng cổ... Một thời gian sau - tôi được nhiều nghệ sĩ nuôi dưỡng cho trưởng thành - tôi như con diều gặp gió - bay khắp vùng trời Nam Kỳ Lục Tỉnh và sau đó tạm dừng chưn tại Sàigòn hoa lệ.
Nơi đây - tôi gặp những danh tài thượng thặng của nền cổ nhạc miền Nam như Tư Chơi, Năm Châu, Lê hoài Nở, Trần hữu Trang, Phùng Há, cô Tư Sạng, cô Ba Đắc, những danh cầm như Văn Vĩ (độc huyền cầm), sáu Tửng (đờn kìm) chín Trích (Tranh), Bảy Bá (cò) v.v... Không sao kể hết....
Soạn giả Huỳnh thủ Trung (tức Tư Chơi) hà hơi thổi cho tôi dài ra thêm từ nhịp 2 lên nhịp 4 trong bài Tiếng nhạn kêu sương - nghệ sĩ Lư hoà Nghĩa chấp cho tôi đôi cánh - từ nhịp 4 lên nhịp 8 - bài Văng vẳng tiếng chuông chùa. Phải nhìn nhận rằng với nghệ sĩ Năm Nghĩa - tôi có thêm da thịt máu huyết, lông cánh, để bay cao và bay xa hơn. Chính cha tôi còn phải khen Lư hòa Nghĩa: ''Cái hay của thằng Nghĩa là nó biết nhồi thêm chữ đờn cho mùi hơn, réo rắt hơn, xôm hơn mà vẫn giữ được chữ đờn ở nhịp chánh'' (5). Rồi từ nhịp 8 biến thành nhịp 16 với Nguyễn thành Út (tức Út Trà Ôn) trong bài Tôn Tẩn giả điên, cô Tư Sạng- bài Xử tội Bàng quý Phi - nhịp 16 tăng đến nhịp 32 với tài danh Hữu Phước trong bản Đội gạo đường xa của Kiên Giang, Tình anh bán chiếu của Viễn Châu. Rồi sau nầy - nhịp 64 được áp dụng - cho dễ ca với các bản Tân cổ giao duyên.
Về sau... tôi như cá thêm vi, hùm thêm cánh ... với những danh tài thượng thặng như Thành Được, Thanh sang, Thanh Nga, Bạch Tuyết ca diễn trong nghệ thuật hát cải lương với những tuồng tích của những soạn giả tài danh Năm Châu, Hà Triều Hoa Phượng, Viễn Châu, Nguyễn Phương v.v.... Có thể nói không có tôi thì nghệ thuật cải lương không thể có những kỳ công như vậy - nhiều nghệ sĩ tên tuổi lẫy lừng, ký giao kèo với giá hàng triệu đồng trước 75 - chưa kể tiền mỗi xuất hát - là nhờ ca mấy câu vọng cổ.
NHỮNG BƯỚC CHƯN ĐI... KHÔNG NGỪNG
Điều kỳ diệu là người dân Nam Kỳ Lục Tỉnh say mê tôi ...rồi dần dần lây sang đến cả người bình dân miền Trung và miền Bắc sau nầy. Âm điệu buồn ướt đẫm nỗi niềm nhớ nhung hoài cảm, pha lẫn một chút than thở oán hờn - là tâm sự của những người xa xứ ...đi KHAI PHÁ vùng đất phương Nam ... mà lòng lúc nào cũng hoài vọng về nơi cố lý... - là tâm tư khoắc khoải của những người Tàu Minh hương mà ông cha là những người phản Thanh phục Minh lưu vong biệt xứ ... nhưng lúc nào cũng hướng vọng về cố quốc ... và hơi nhạc còn mang âm hưởng giọng oán than của một mối hờn vong quốc của dân tộc Chiêm Thành... Rồi trong sự cộng cư hoà bình của các dân tộc Việt, Minh hương, Chàm, Miên trên một vùng đất rộng người thưa .... tôi trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu và tôi đã mang trong thân thể những chất dân tộc tính của phần đất miền Nam.
Tôi còn thể hiện những bước đi hào hùng mang nhiều dấu vết của sự BÔC PHÁ đầy SÁNG TẠO của tiền nhân trên đường Nam tiến. Đâu có bài ca anh chị em nào mà biến thể lạ lùng và kỳ diệu như tôi. Tôi đã 6 lần thay hình đổi dạng. Thời lượng dãn ra, số nhịp chữ đờn tăng lên... tôi phải vươn mình đổi mới. Từ cách sử dụng thủ pháp diễn tấu các loại nhạc khí đến cung cách ca hát ... tất cả đều tiến triển không ngừng.
Người đờn mặc tình lui tới dạo chơi, tự do nhấn rung luyến láy... miễn sao giữ được chữ đờn ở nhịp chánh - xuống hò, xuồng xề, dứt song lang đúng nhịp...Còn người ca thì tự do ngân nga, kéo dài một chữ, ca nhanh hay chậm một đoạn ... thời lượng không hạn chế sít sao ...để có thể biểu lộ tận cùng cảm xúc của mình- mà vẫn giữ được nhịp chánh. Đó không phải tính bộc phá đầy sáng tạo và sự tự do, hào sảng, phóng khoáng - hình ảnh của những người tiên phong đốn cây phá rừng, chiến đấu với hùm beo rắn độc, sương lam chướng khí...để biến vùng đất hoang vu, rừng thiêng nước độc thành một miền mầu mỡ, trù phú hay sao ? Và tôi vô cùng hảnh diện mang dòng máu đó trong người.
Có người trách tôi là ca khúc buồn áo não quá ! Quả thật tôi mang một âm điệu buồn ! Mùi nữa ! Nhưng không phải là cái buồn ủy mị, yếu hèn - mà là một cái buồn KHƠI ĐỘÂNG NGUỒN CẢM XÚC để mà thắm thía hơn tình mẫu tử, nghĩa phu thê, lòng chung thủy....những gương Trung Hiếu, Tiết, Nghĩa... là những đức tính cao quý của con người muôn thuở ... Có những khi tôi còn khơi dậy nỗi thương nhớ quê nhà - nơi có bờ tre mái rạ, dòng sông con đò ... từ đó phát sinh ra lòng yêu mến quê hương, yêu quê cha đất tổ mình hơn và có nhiều khi tôi đã rung cảm được người nghe mà hướng tâm hồn họ về Chân, Thiện, Mỹ - về con đường tu dưỡng hướng về nẻo Phật từ bi, về Chúa cứu rổi. Có phải vậy không ? các bậc văn nhân tài tử trên đời ? Các nhà văn học hiện đại?
Người ta có thể thuyết phục con người bằng những lý luận đanh thép, nhưng đồng thời người ta cũng có thể chinh phục thiên hạ bằng sự thổn thức của con tim và sự rung cảm của tâm hồn...
Từ khi chào đời đến lúc trưởng thành, tôi đã làm rung động biết bao tâm hồn ... làm thổn thức hàng vạn vạn trái tim và làm rơi lệ hàng triệu, triệu con người ... và theo đó - tôi đã nuôi dưỡng đậm đà biết bao tình mẫu, hun đúc bao nhiêu tấm lòng yêu mến quê hương, biết bao tình nghĩa vợ chồng, cha con, bầu bạn... Rồi theo chưn các gánh hát cải lương Nam Bộ lưu diễn miền Bắc... tôi được đồng bào ở đây cũng hoan nghênh nhiệt liệt... Điều lạ lùng là tại vùng đất ngàn năm văn vật nầy: ''Hà nội lại là Thủ đô thứ hai đón tiếp cải lương nồng nhiệt nhất, sau Saigòn''. Ông Tô Ngọc - một người Bắc chính cống cũng nói: ''Cũng như dân Nam kỳ- dân Bắc Kỳ cũng khoái 6 câu vọng cổ mùi rệu'' (Chọn lọc số 51). Rồi chính người Bắc mê nó đến độ đòi hỏi các nghệ sĩ miền Bắc phải hát cải lương. Rồi những Huỳnh Thái, Sỹ Tiến, Ái Liên, Từ Vi, Bích Hợp, Bích Thuận, Kim chung... đứng ra thành lập gánh hát và nhứt định tôi - bài ca vọng cổ - phải được xem là hàng đầu trong việc trình diễn...
Nhưng có điều là tôi (bài ca vọng cổ) - theo nhà văn lão thành Nguyễn văn Xuân - thì: ''Vọng cổ của người Nam Kỳ thì phải dân Nam Kỳ hát nghe nó mới thấm thía. Chính vì lý do đó mà có ban hát Nam Kỳ ra Hà nội lưu diễn, thì y như tối nào vé cũng bán hết sạch.'' (Nguyễn văn Xuân - Khi những lưu dân trở lại).
Riêng tôi thì chỉ mong được nghệ sĩ miền Bắc mang ra ca hát, đồng bào Hà Nội ưa thích say mê là tôi vô cùng hảnh diện và sung sướng rồi ! Còn ca ra sao thì mỗi miền có cách phát âm riêng. Điều quan trọng là tôi đã phục vụ được hàng triệu triệu đồng bào tôi. Và qua sự gạn lọc của thời gian, tôi tồn tại đến ngày nay và ngay tại hải ngoại - tôi vẫn được mọi giới ưa thích ... kể cả những người trước đây xem thường tôi, mỉa mai tôi là ''văn chương cải lương'' và xem tôi như là một thứ nghệ thuật hạng nhì.
Văn chương mà khi hát làm vểnh râu dựng tóc người nghe - đi thẳng vào tâm hồn khán giả - không phải là văn chương sao ? Khúc nhạc, bài ca khi tấu lên làm thổn thức hàng vạn vạn con tim, làm rơi lệ hàng triệu triệu người - không phải nghệ thuật ? Ấy thế tôi và cải lương bị văn học bỏ rơi một cách phũ phàng.... trong khi các đàn anh, đàn chị hát tuồng, hát chèo lại có một chỗ đứng đàng hoàng trong văn học sử. Điều nầy làm tôi buồn bã ! Nhiều nhà văn, nhà thơ - trong đó có nhà văn Duyên Anh lên tiếng: ''Giá trị cải lương khôn cùng. Tôi buồn là văn học sử Việt Nam hơi tệ bạc với ngành cải lương. Những vở hát của Phạm ngọc Khôi và Năm Châu và gần đây Hà Triều Hoa Phượng, phải có một chỗ đứng xứng đáng trong văn học sử. Nhưng văn học sử vẫn làm ngơ. Công khai và công bình mà nói rằng ở Việt Nam chưa có một nghệ sĩ nào, trong tất cả mọi mặt làm xao xuyến lòng hàng triệu người bằng nghệ sĩ cải lương, bằng những Thành Được, Huỳnh Thái, Thanh Nga, Út Trà ôn v.v.'' (6)
Nghệ thuật không thể tách rời khỏi quần chúng. Nghệ thuật tách rời quần chúng là nghệ thuật tự giam mình trong ốc đảo cô đơn, nó sẽ khô héo, chết dần mòn trong sự kiêu hảnh của nó ... Albert Camus - trong buổi lãnh giải văn chương Nobel 1957 - cũng phát biểu: ''Người nghệ sĩ tự tôi luyện mình trong sự giao lưu giữa một bên là cái ĐẸP không thể thiếu và bên kia là cái CỘNG ĐỒNG mà anh ta không thể dứt bỏ. Nghệ thuật không cho phép người nghệ sĩ tự tách mình ra khỏi quần chúng'' (7)
Cho dù bây giờ tôi bị bỏ quên - cho dù hiện tại, văn học không ngó ngàng đến tôi ... sự thật vẫn là sự thật. Sự thật đó là tôi vẫn được đại đa số quần chúng - trong đó có những người trí thức - ưa thích, yêu thương. Có thể tôi và cải lương không có những tiêu chuẩn cứng ngắt, những quy luật trói buộc, những thể văn cầu kỳ, khó hiểu của kịch nghệ.
Ông Nguyễn Đông Châu - trong bài phỏng vấn ông Vũ khắc Khoan - bảo rằng ''ngành kịch bế tắc'' và nhà văn Võ Phiến ngờ rằng ''quần chúng không chịu bỏ tiền mua vé xem kịch'' (8). Kịch bản đã thành tác phẩm văn học thường không có quần chúng. Điều dễ hiểu là quần chúng không hiểu hoặc nếu có, thì chỉ một số rất ít oi. Không hiểu thì làm sao rung cảm được. Trong khi tôi (Vọng cổ cải lương) là một loại nghệ thuật đi thẳng vào lòng người bằng những cốt chuyện phổ thông và một ngôn ngữ dễ hiểu, một âm thanh và động tác làm rung cảm con tim. Có thể tôi được hiểu như là một loại nghệ thuật của người bình dân, của đại đa số quần chúng nông dân, thợ thuyền ít học.... Nếu vậy thì nghệ thuật phục vụ cho đại chúng không phải là nghệ thuật ? Nghệ thuật chỉ thuộc dộc quyền cho một số người phê phán nghệ thuật ?
Cho dù được phê phán ra sao - sự thật vẫn là sự thật. Và sự thật sẽ không bao giờ chết.
Chú thích:
(*) Bài Dạ cổ hoài lang
(1, 2): Không rõ tác giả.
(3, 5): Theo soạn giả Nguyễn Phương.
(6): Trần quang Hải - Âm nhạc Việt Nam
(7): Albert Camus - Nobel price of litterature 1957. Người dịch: Phạm Toàn
(8): Văn số 93&94 (tháng 9 và 10 - 2004)
------------- hoangngochung@ymail.com
|