Chuyên xảy ra đã lâu, nhưng đọc lại vẫn ... không cũ ! mk
PHẦN 2
Nhân kỷ niệm 56 năm “Tháng Hữu nghị Việt – Trung – Xô” (18/1/1954 – 18/1/2010): Các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Hoa đã phá hoại tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt – Trung Vũ Cao Đàm (Cựu Tiến tu Giáo sư Học viện Khoáng nghiệp Bắc Kinh) Gần
hết cuộc đời, tôi đã nuôi trong lòng tình hữu nghị cao cả với đất nước
quê hương của Đức Tổ họ Vũ của tôi. Tôi có lai lịch là người gốc Trung
Hoa. Đức Tổ khai sinh ra dòng họ Vũ của tôi là một người thuộc dòng họ
Vũ xã Long Khê, huyện Phúc Điền, tỉnh Phúc Kiến, bên Trung Hoa. Đức Tổ
của tôi là Vũ Hồn, được Vua Đường Vũ Tông cử làm An Nam Đô hộ sứ [1]
cai trị xứ An Nam trong khoảng thời gian 841-843 theo Tây lịch. Nhưng
rồi vì thất sủng với Nhà Đường, Vũ Hồn đã về sống ẩn dật với người vợ
An Nam ở làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay thuộc tỉnh tỉnh Hải Dương
sinh cơ lập nghiệp, dựng nên dòng họ Vũ ở Việt Nam ngày nay. Tôi
nuôi những tình cảm ấm áp với người Trung Hoa từ cuối những năm 1930,
khi tôi mới 3-4 tuổi, ở một vùng quê rất xa thành phố. Đó là châu Dực
Yên thuộc tỉnh Hải Ninh ngày xưa, mà hôm nay vẫn còn giữ nếp sống bằng
lặng, yên bình, ngay sát thành phố Móng Cái, ở đó, vẫn còn dấu ấn của
hàng xóm là những người Hoa chất phác, đôn hậu, tắt lửa tối đèn cùng
gia đình chúng tôi chia sẻ từng bát cháo hoa ăn với chao [2] và trứng muối. Tháng
10 năm 1950 sau Chiến thắng Đông Khê sát biên giới Việt – Trung, Việt
Nam kháng chiến được mở thông với nước Trung Hoa và Liên Xô anh em. Một
hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Pháp được mở rộng. Những vùng
đất bao la trải dài từ biên giới Việt –Trung đến miền đồng bằng quê tôi
được giải phóng từng mảng lớn, quân đội Pháp và quân đội của Chính phủ
Bảo Đại chỉ còn co cụm lại ở những thành phố lớn. Lớp thiếu niên như
chúng tôi hồ hởi hít thở những làn gió mới của cách mạng lan tỏa từ đất
nước của Lênin qua sa mạc Mông Cổ, Tân Cương,… đến những vùng đồng bằng
bát ngát của Hoàng Hà và Dương Tử… Tôi không bao giờ quên được những
đêm không ngủ từ sau ngày 18 tháng 1 năm 1954, ngày toàn quốc phát động
“Tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô”. Khắp các miền quê thuộc quyền kiểm
soát của Chính phủ kháng chiến, đâu đâu cũng rộn rã, điệu múa với lời
ca: “Thắm thiết tình Việt – Trung – Xô / Đế quốc càng nhiều mối lo
/ Đó là tình người lao động / Mối tình tràn ngập núi sông / Cố công xây
đắp tình Việt – Trung – Xô” Quả thật, những năm tháng xa
xưa ấy Chủ tịch ************ đã vun đắp cho lớp thanh thiếu niên thuộc
thế hệ chúng tôi tình cảm anh em thân thiết với hai “người anh lớn”
Trung Quốc và Liên Xô. Và thế hệ chúng tôi đã sống với niềm tin rằng,
“bốn phương vô sản đều là anh em”. Tình cảm ấy sẽ đưa thế giới đến đại
đồng và nhân loại khỏi khốn cùng và áp bức. Tôi đến tu nghiệp
giảng dạy và nghiên cứu khoa học theo chế độ “Tiến tu Giáo sư” tại Học
viện Khoáng nghiệp Bắc Kinh từ năm 1964 đến năm 1966. Đó là thời kỳ đất
nước Trung Hoa vẫn còn đang kiệt quệ về kinh tế sau sự thất bại của “Ba
ngọn cờ hồng” (Tổng lộ tuyến, Công xã nhân dân và Đại nhảy vọt ) do Mao
Trạch Đông chủ xướng. Mặc dầu còn đầy những khó khăn chồng chất của đất
nước, nhưng nhà trường và các bạn đồng nghiệp Trung Hoa vẫn dành cho
chúng tôi những mối quan tâm hết sức chu đáo, làm đám “tiến tu Giáo sư”
chúng tôi cảm động hết chỗ nói. Chúng tôi được ăn ở theo một chế độ đặc
đãi, trong khi các Giáo sư Trung Quốc mỗi bữa chỉ có một cái bánh bao,
một bát cháo kê và vài lát ca la thầu (củ cải muối trong nước xì dầu);
Khi ốm đau chúng tôi được chăm sóc thuốc men thậm chí quá mức cần
thiết; Những ngày nghỉ chúng tôi được đưa đi thăm đất nước Trung Hoa.
Chưa đầy hai năm ở Bắc Kinh, tôi được đi thăm và làm việc ở hàng chục
thành phố lớn. Sau này, tôi đã sống và làm việc ở nhiều quốc gia ở Châu
Âu và Châu Á, nhưng không ở đâu tôi được các đồng nghiệp chăm chút tận
tình và tỉ mỉ như ở Trung Quốc. Tôi không thể nào quên được những Giáo
sư của tôi, Giáo sư Vương Tỉnh Thân, Giáo sư Hoàng Nguyên Bình, và các
đồng nghiệp mà tôi có dịp được làm việc ở các viện khoa học và các
trường đại học ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Nam Kinh, Đường Sơn, Thẩm Dương,
Sơn Đông, Phủ Thuận, Hợp Phì. Họ để lại trong lòng chúng tôi những tình
cảm thân thiết, những tưởng không thể phai mờ. Với tất cả những
cảm nhận đó, tôi từng nghĩ rằng, đất nước Trung Hoa vĩ đại là Tổ quốc
thứ hai của mình, là nơi mình có thể gửi gắm tất cả niềm tin yêu và
tình cảm gắn bó “vạn cổ trường sinh”, như cách nói của người Trung Hoa.
Trong những bức thư gửi cho thầy học và các bạn bè Trung Quốc, tôi rất
thích trích câu thơ lưu truyền trong dân gian Trung Hoa: “Hữu duyên thiên lý lai tương hội / Vô duyên đối diện bất tương thức” (người Việt Nam có câu thơ tương tự: “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ / Vô duyên đối diện bất tương phùng”). Hai
mươi năm sau, năm 1985 tôi được dịp trở lại Bắc Kinh tham dự một hội
thảo khoa học của ESCAP (Economic and Social Commission for Asia and
Pacific). Đây là lần đầu tiên sau cuộc Chiến tranh biên giới Việt –
Trung do Đặng Tiểu Bình phát động năm 1979, tôi có cơ hội được tiếp xúc
với các đồng nghiệp Trung Quốc. Tôi rất ngạc nhiên thấy họ hồ hởi, thân
tình, dường như không hề quan tâm gì về cuộc chiến giữa hai nước Việt –
Trung vừa nổ ra trước đó chỉ mới dăm năm. Quanh bàn cà phê bên lề hội
thảo, một đồng nghiệp Trung Quốc nói với tôi rất nhiều điều day dứt về
chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Cuối cùng chị tặc lưỡi: “Chúng ta
là khoa học gia, chúng ta bàn chuyện khoa học. Chiến tranh là do các
chính trị gia gây ra. Lịch sử sẽ phán xét họ. Các nhà lãnh đạo của cả
hai nước đều phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh đẫm máu này. Tuy
nhiên, Trung Quốc là nước lớn. Nước lớn phải chịu trách nhiệm lớn hơn”. Tôi
hơi sững sờ về cách nghĩ đó của chính người bạn Trung Quốc này, bởi vì
sau hai năm ở Bắc Kinh, tôi hiểu được sở trường đưa tin của bộ máy
tuyên truyền của cộng sản Trung Quốc là luôn đổi trắng thay đen. Vậy mà
người dân vẫn có cách nhìn không hề méo mó về cuộc xung đột giữa hai
quốc gia. Điều lạ là, thời đó đâu đã có nối mạng toàn cầu. * Bẵng
đi nhiều năm sau, hai nước Việt – Trung nối lại các loại quan hệ cần có
giữa hai quốc gia láng giềng. Rồi hai đảng cộng sản nối lại quan hệ anh
em quốc tế vô sản trên tinh thần “đồng chí tốt”, “láng giềng tốt”, như
cách nói luôn gặp trên đầu lưỡi của các nhà lãnh đạo cộng sản ở Trung
Nam Hải. Tôi những tưởng từ đây, người Việt Nam lại sẽ tìm thấy
những tình cảm như trước kia, như chúng ta đã có thể đọc các tác phẩm
văn học của Việt Nam, chẳng hạn, trong bài thơ “Mẹ Việt Nam, Chị Trung
Quốc” mà tôi chép được từ các bạn học sinh thuộc thế hệ tôi, đã từng
học tập ở Khu Học xá Nam Ninh (thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) vào
đầu những năm 1950: “Mẹ tôi áo một manh / Ăn cơm gạo đỏ ăn canh rau dền / Mẹ thương tôi yếu tôi mềm / Gửi sang bên Chị bình yên hơn nhà / Chẳng giầu mớ bảy mớ ba / Chị cho áo ấm cho quà cho chăn…”. Rồi bài hát “Hoa Mộc Miên” mà thế hệ thanh niên thời chúng tôi đã hát một cách mê say: “… Ôi, những cánh hóa mộc miên, trong nắng bay theo gió triền miên…” Nhưng,…
Trên đời thường hay gặp chữ “nhưng” này… Nhưng những “đồng chí tốt” ở
cái nước “láng giềng tốt” bên kia biên giới chẳng hề tốt tí nào sau
ngày tái ngộ. Nó đã làm những tình cảm nồng ấm trong lòng lớp người như
tôi nguội lạnh, thậm chí phản cảm, và nghi ngờ rằng, tất cả những điều
tốt đẹp xưa kia phải chăng là để đưa những kẻ ngây thơ như tôi vào
tròng… để rồi, như một nhà thơ nào đó đã đưa ra những vần thơ ngô nghê:
“Bên ni biên giới là mình / Bên tê biên giới vẫn tình anh em”… và rồi trong số đó, biết đâu không xuất hiện những kẻ ngây thơ hơn,… cam tâm làm tôi đòi cho anh bạn “đồng chí tốt” kia? Tôi muốn điểm qua một vài sự kiện để các bạn đọc chia sẻ. Hành vi nhỏ… dã tâm lớn Lướt nhanh trên mạng những ngày này, chúng ta luôn tìm được nhiều thông tin đắt giá: Thương
lái Trung Quốc (dân thường nói ngắn gọn, là bọn Tàu) về các chợ nông
thôn Việt Nam thu mua móng trâu với giá rất cao, thậm chí những cái
móng từ 4 chân của một con trâu được bọn Tàu mua với giá hơn hẳn một
con trâu. Thế là nông dân Việt Nam và bọn “trâu tặc” ra sức chặt móng
trâu đem bán,… vẫn còn lãi một con trâu thịt mang bán ở chợ. Chỉ một
thời gian rất ngắn, bọn chúng đã triệt phá tan hoang sức kéo của nông
dân nghèo Việt Nam. Tiếp đó, dân loan tin cho nhau, hàng lũ lái trâu từ
bên Tàu tràn qua biên giới để “tiếp thị” bán trâu. Trong cái lũ thương
lái mới này còn có cả kẻ tiếp thị bán trâu sắt (máy kéo). Dân tình vỡ
lẽ: Thì ra chúng thu mua móng trâu là vì như thế! Ở
một nơi khác, thương lái Tàu đi các chợ thu mua rễ hồi, thế là những
bọn “hồi tặc” mở chiến dịch triệt phá rừng hồi, một dược liệu quý hiếm
của Việt Nam; chúng mua râu ngô non, xúi giục nông dân triệt phá nương
ngô mang bán, đánh vào trúng cái dạ dày của những người mà bọn Tàu gọi
là “đồng chí tốt” Việt Nam; chúng thu mua mèo nhằm triệt phá một nguồn
trừ chuột cắn lúa; rồi chúng mua ốc bươu vàng, xúi giục nông dân nuôi
ốc bươu vàng tràn ngập đồng ruộng phá hoại mùa màng, tấn công vào chiến
lược an ninh lương thực của quốc gia “láng giềng tốt” Việt Nam. Hàng
tốp thương lái Tàu xuất hiện từ Hà Giang cho đến Lâm Đồng để thu mua
chè vàng, là thứ chè chặt thô phơi tái, không cần chế biến. Thương lái
Tàu mua chè vàng với giá rất cao, kích thích nông dân chặt trụi đồi chè
mang bán. Thế là thương lái Tàu đã triệt hạ vùng nguyên liệu cho các
nhà máy chè Việt Nam. Không còn con đường nào khác, các doanh nghiệp
chè Việt Nam phải sang mua chè nguyên liệu từ Trung Quốc. Đến khi nông
dân Việt Nam cần trồng lại đồi chè, thì các “đồng chí tốt” từ bên kia
biên giới, vì tình quốc tế vô sản lại lọ mọ xuất hiện, “giúp” mua giống
chè từ Trung Quốc chở qua cho nông dân Việt Nam. Thâm
độc hơn, chúng mở chiến dịch thu mua dây đồng vụn với giá cao “trên
trời”, đẩy từng đoàn “đồng tặc” lùng sục chặt trộm dây đồng từ các
đường điện cao thế, băm nát mạng lưới điện quốc gia của nước “láng
giềng tốt” để nước này đốt đèn dầu đi theo họ “hướng tới tương lai”. Có
nơi, bọn “đồng tặc” lẻn vào kho ăn cắp từng cuộn dây đồng mới “coong”
mang bán, thì “các đồng chí tốt” lên mặt đạo đức: “Ấy chết, cái ngộ
không mua cái cuộn dây tôồng ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa của các
tôồng chí tâu lố!” (Chúng tôi không mua cái cuộn dây đồng ăn cắp tài
sản xã hội chủ nghĩa của các đồng chí đâu nhé). Cho
đến khi bọn thương lái Tàu đi thu mua cáp quang phế liệu, thì các nhà
đương cục của chúng ta mới được phen ngớ ra, không hiểu bọn chúng mua
cái “của nợ” này để làm gì. Vì mua dây đồng thì còn có thể hiểu là
chúng lấy nguyên liệu, nhưng cáp quang thì thật không thể hiểu được
chúng mua để làm gì? Đến khi dân nghèo lặn xuống biển chặt phá mạng cáp
quang viễn thông, thì mới “ngã ngửa” ra, là chúng đang phá hoại con
đường huyết mạch thông tin của Việt Nam… Chắc là các “đồng chí Việt
Nam” nghĩ mãi không biết xử thế nào với những người “đồng chí tốt” bên
nước vô sản Trung Hoa, đành phải đưa ra tòa vài thằng dân nghèo “trót
dại” lặn xuống biển chặt trộm cáp quang. “Láng giềng tốt” giúp… xây dựng các công trình thủy lợi Sau
1954, Việt Nam được Trung Quốc giúp xây dựng nhiều công trình thủy lợi.
Tôi đã tiến hành một cuộc phỏng vấn với Giáo sư TTA, Viện trưởng một
viện nghiên cứu thủy lợi ở Hà Nội về sự giúp đỡ thủy lợi của người
“đồng chí tốt”, vị Giáo sư kéo tôi vào phòng làm việc và cho xem một
video clip quay suốt dọc dòng sông biên giới Việt – Trung. Trời ơi, chúng ta không thể tưởng tượng được, người “đồng chí tốt” đã làm những trò gì đâu! Các
“đồng chí” xây 120 cái kè chắn chéo dòng nước trên các dòng sông biên
giới, tạo những luồng nước xoáy để làm sạt lở bờ phía Việt Nam, ăn cắp
đất mang về phía đất nước “láng giềng tốt” bên kia biên giới. Đất bồi
sang phía bắc đến đâu, các đồng chí xây nhà cao tầng và kéo giai cấp vô
sản quốc tế Trung Hoa đến đó. Xem xong clip của Giáo sư
TTA, tôi bàng hoàng… Tất cả các triều đại Đường, Nguyên, Tống, Minh,
Thanh, chưa có bất kỳ một triều đại nào trước Triều đại cộng sản Trung
Hoa sử dụng những biện pháp tồi tệ như vậy với Việt Nam. Việt
Nam đã đối đầu với những đế quốc lớn, đã đối mặt với đủ loại thủ đoạn
tàn bạo của nhiều loại đế quốc, nhưng có lẽ đây là ngón đòn xâm lược
thâm hiểm và bẩn thỉu nhất của một loại đế quốc mới nổi: Đế quốc Trung
Cộng. Tôi hỏi Giáo sư TTA: “Ông có thể cho biết, có công trình
thủy lợi nào mà Cộng sản Trung Hoa giúp Việt Nam không chứa đựng những
“yếu tố đểu” tương tự như vậy không?”. Ông chau mày trầm ngâm suy nghĩ
hồi lâu… “Tôi khó trả lời anh quá”, Giáo sư nói với tôi như vậy. Đến hành vi gây ô nhiễm môi trường “gien” Việt Nam
Trên đường phố và sân bay Việt Nam hôm nay tràn ngập người Trung Quốc.
Tôi vừa ngồi ở sân bay Đà Nẵng. Tôi đến hơi trễ, hỏi anh bạn ngồi bên
phải tôi: “Máy bay Hà Nội gọi vào chưa?”, thì nghe câu hỏi lại bằng
tiếng Tàu “Shen ma?” (Cái gì?). Tôi quay bên trái hỏi, thì lại nghe
“Shen ma?”. Tôi quay phía sau hỏi, lại thấy “Ni shuo shen ma?” (Ông nói
cái gì?)… Tôi ngỡ ngàng, tưởng mình lạc vào sân bay Bắc Kinh. Làng
sinh viên HACINKO (Phố Ngụy Như Kontum) không còn chỗ cho thuê vì hơn
500 người Trung Quốc đã “trấn” ở đó. Họ chen lấn trong thang máy và
trong nhà ăn, thậm chí chiếm đứt thang máy để chơi đùa leo lên leo
xuống, không cho bất kỳ ai sử dụng thang máy. Người Tàu đến đó mở hàng
ăn, hàng bán quần áo, mua bán tấp nập như một chợ Tàu. Tối tối
sinh viên Tàu trượt patin và la ó huyên náo một góc phố… Họ làm cho tôi
liên tưởng tới hai mươi vạn quân Tàu Tưởng tràn vào Việt Nam năm 1945,…
ghẻ lở, bẩn thỉu, ngông nghênh và láo xược. Sao mà người Trung
Quốc thắng thầu lắm thế? Chuyện bauxite Tây Nguyên đã có quá nhiều
người nói rồi. Tôi đơn cử vài chuyện vặt vãnh khác: Chỉ ở một tỉnh ở
rất gần Hà Nội thôi, Trung Quốc chưa làm xong Nhà máy điện HB, hàng
ngàn công nhân Tàu chưa kịp rút, thì Tàu đã thắng thầu làm Nhà máy điện
MK, và hàng ngàn công nhân Tàu lại xuất hiện. Những người Tàu từ các cơ
sở sản xuất này lan tỏa khắp nơi để gieo rắc “hạt giống đỏ” cho cách
mạng vô sản Trung Hoa, đỡ cho các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam
và các công ty môi giới hôn nhân khỏi phải xuất con gái qua Tàu… Tôi
có dịp trao đổi với các chị phụ trách hội phụ nữ ở mấy tỉnh Tây Nguyên,
thì được biết, các chị đang rất lo ngại, chưa biết xử lý thế nào với
nạn con gái Tây Nguyên có bầu với công nhân Tàu (!). Chúng ta nhìn thấy một cảnh tượng đang đến gần: Đội
quân thứ 5 của Trung Cộng đang ngày càng được mở rộng. Cần cảnh báo:
Khi Trung Cộng mới sáp nhập Tân Cương vào Trung Quốc, dân Hán ở đây chỉ
chiếm chừng 4-5%. Sau nửa thế kỷ, dân Hán đã lên tới 45%. Tôi
nhớ đã đọc ở đâu đó, chúng ta có thể rất cần đặt câu hỏi: “Bao giờ dân
tộc Việt Nam trở thành dân tộc thiểu số trên chính đất nước mình?”. Và rồi xoa dịu bằng mấy công trình văn hóa? Gần
đây chắc là Trung Nam Hải đã nhận ra sự phẫn nộ của dân chúng Việt Nam
trước những hành vi xâm lược của họ, họ đã “kỷ niệm” cho dân Việt Nam
mấy pha ngoạn mục: Trước hết là 30 triệu USD xây dựng ký túc xá cho Học
viện Chính trị Quốc gia ************ để đào tạo cán bộ cho Đảng. Tiếp đó
là Cung Văn hóa hữu nghị Việt – Trung, chắc rồi đến Viện Khổng Tử,… và
rồi không biết còn những thứ gì nữa. * Viết đến đây, tôi
chợt nhớ cái thời lớp thanh niên chúng tôi say mê theo các nghệ sỹ ca
ngợi,… những cánh hoa mộc miên bay tới đâu, tình hữu nghị của dân tộc
Trung Hoa lan tỏa đến đó… Sao mà lãng mạn. Ngẫu nhiên, tôi ngồi
để hồi tưởng tâm tình lãng mạn theo những “Cánh hoa mộc miên” với Giáo
sư Phạm Huy Tiến, một nhà địa chất, cũng có thời đi tu nghiệp “tiến tu
Giáo sư” ở Học viện Địa chất Bắc Kinh (đối diện Học viện Khoáng nghiệp
của tôi). Giáo sư Tiến cười rũ ngắt lời tôi: “Các bố nhầm hết rồi. Các
nghệ sỹ cũng nhầm rồi. Cánh rừng mộc miên khi xưa nằm trên đất Việt
Nam. Bọn địa chất chúng tôi lăn lộn ở đó quá nhiều. Cả đỉnh thác Bản
Giốc nữa, cánh địa chất chúng tôi từng lên đó nấu cơm ăn… Nhưng rồi
Trung Quốc lấn chiếm, nuốt toàn bộ cánh rừng mộc miên vào lòng Tổ quốc
Trung Hoa”… Và thế là những cánh hoa mộc miên lại hồn nhiên bay “từ đất
Trung Hoa”, lan tỏa tình hữu nghị “vạn cổ trường sinh” giữa hai dân tộc. Ấy
thế mà, trong khi tôi được nghe các bạn nghệ sỹ của chúng ta ca ngợi
“Hoa mộc miên mọc đến đâu, lan tỏa tình thữu nghị của dân tộc Trung Hoa
đến đó”, thì, trong một trang mạng nào đó, tôi lại nghe những người
cộng sản Bắc Kinh lập luận: “Hoa mộc miên bay đến đâu gieo hạt đến đó;
Cây mộc miên mọc ở đâu, đất trung Hoa ở đó. Việt Nam chỉ có cây tre,
làm gì có cây hoa mộc miên!”. * Trung Hoa là một đất nước
có một đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối. Như vậy có thể suy luận, mà
không sợ sai lầm: Tất cả những sự kiện nêu trong bài viết này đều do
các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đưa đường chỉ lối. Chính
những người cộng sản Trung Hoa đã làm tan vỡ hoàn toàn tình cảm nồng ấm
của những người thuộc thế hệ chúng tôi với một đất nước đã sinh ra Đức
Tổ Vũ Hồn của dòng tộc của tôi, một đất nước, mà có thời tôi đã coi là
Tổ quốc thứ hai của mình. VCĐ HC Mạng Bauxite Việt Nam biên tập
Chú thích: [1] Đại diện Triều đình nhà Đường cai trị nước ta, giống như Quan Toàn quyền thời Pháp thuộc. [2] Đậu phụ cho lên men và muối mặn, một món ăn khoái khẩu của người Trung Hoa.
http://tuxedo1985.multiply.com/journal/item/48/48
------------- mk
|