Print Page | Close Window

TRUYỆN NGẮN

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Đời Sống - Xã Hội
Tên Chủ Đề: Chuyện Linh Tinh
Forum Discription: Nói chuyện linh tinh về đủ mọi điều ...
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=2273
Ngày in: 25/Apr/2024 lúc 6:54pm
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: TRUYỆN NGẮN
Người gởi: Lan Huynh
Chủ đề: TRUYỆN NGẮN
Ngày gởi: 19/Jan/2010 lúc 11:42am

XUÂN NẦY MẸ Ở ĐÂU?


Bà Xuân vói tay kéo chốt cửa lầu, bước ra sân thượng. Hôm nay bà thấy trong người không khoẻ. Nhưng vẫn lên lầu để chăm chút mấy cây kiểng ông Dương giao. Mùa nắng tưới mỗi ngày hai lần. Mùa mưa thì ít hơn. Đôi ba ngày một lần. Có khi cả tuần lễ không tưới cũng không sao.
Bà nhìn cây lựu đã cao chừng bốn gang tay, trổ hoa thơm ngát. Tách một cánh hoa lựu vò nhẹ trong tay, mùi thơm quyến rũ. Tuy nhiên, bà chưa hề thấy ở đâu sản xuất nước hoa từ hoa lựu bao giờ. Chậu tần bì quá nhiều nhánh chìa ra giống như những chiếc đũa tre màu xanh nối kết theo hình bức tranh lập thể. Đồng thời cũng giống như hàng dễ vỡ. Đụng đến là gãy làm chảy những giọt nhựa như nhựa cây xương rồng trắng đục, đặc quánh. Những chậu xương rồng xanh tua tủa gai trắng. Mấy khóm bông giấy cũng có nhiều hoa, rụng đầy.
Bà thích nhất là chậu hồng màu đỏ thẫm.
Hồi trước, ngày đầu tiên Howard đến với bà trên tay là một bó hoa hồng thẫm có điểm mấy nhánh cúc baby. Đó là ngày hạnh phúc nhất của bà. Giở tập ảnh cũ bà không khỏi ứa nước mắt. Không hiểu sao cuộc đời bà là những chuỗi ngày vui buồn xen kẻ nhau. Không khác gì cảnh những ngọn đồi chập chùng, hết lên cao lại xuống thấp. Hết xuống thấp lại lên cao.
Năm 1971, bà sinh Christine, tên Việt Nam là Bảo Trân. Bà yêu con bé có mái tóc vàng và đôi mắt nâu nâu trong veo với hàng mi cong vút. Mỗi ngày từ chỗ làm về, Howard cứ ở suốt bên chiếc nôi của con. Hết sửa chăn lại thay tả. Hết đong đưa chiếc nôi lại hát khe khẻ một bản nhạc ru êm.
Bé Trân mới 8 tháng tuổi mà tủ lạnh đầy ắp thức ăn.
Howard bảo:
- Christtine không ăn được thì em ăn đi. Có sức khoẻ mà lo cho con.
Trong ngày về Mỹ lần thứ ba Howard chỉ kịp ghi cho bà mấy dòng:
- Anh sẽ trở lại đón em và con.Đừng quên anh. Đừng bỏ con.
Cái gì vậy? Chuyện gì vậy? Bà Xuân tự hỏi và không tìm được câu trẻ lời. Bà mất liên lạc với Howard từ đó.
***
Tháng 9 năm 1975.
Bà Xuân âm thầm làm một cuộc chia ly với con gái Christine khi cô Lan bạn bà chuẩn bị vượt biên. Vì không có đủ tiền nên bà để con đi một mình. Hành trang của con bé là giấy khai sinh, một bức ảnh Bảo Trân đứng trước sân nhà, một bức ảnh chụp chung với mẹ cha cùng địa chỉ của Howard. Vậy thôi!
Mãi đến 29 năm sau, những người biết chuyện còn thắc mắc: Sao bà gan vậy? Bà không sợ cảnh mất chồng lại mất cả con sao? Bà cười mà nước mắt nhạt nhoà. Đã 29 năm qua bà hoàn toàn không liên lạc được với chồng con. Bà chỉ biết một điều: Christine đã được Cô Lan giao tận tay cha.
Tính đến hôm nay, bà Xuân đã vào ở trong nhà ông bà Dương 25 năm rồi. Ôi! Nghĩa tình nói sao cho hết. Lúc cho Bảo Trân đi vượt biên xong bà như người mất hồn. Nhưng vẫn phải đi làm kiếm sống. Sáng sớm bà đến chợ chồm hổm ở Ngã ba Bà Quẹo Tân Bình mua rau cải tươi từ Hốc Môn chở đến. Đem về ngồi bán ở ven đường ngã tư Bảy Hiền. Ông Bà Dương tốt bụng, thương tình cho bà ngồi trước cửa. Tối đến về ngủ trong một căn gác trọ gần Nhà Thờ Ba Chuông. Vợ của một sĩ quan Mỹ sống như vậy trong hai năm. Một lần bị công an rượt , bà ù té chạy. Hàng bán bị hốt hết. Bà ngồi bệt xuống trước thềm nhà ông bà Dương khóc hoài. Thành thật mà nói, ông bà Dương rất có tình người. Biết bao ngày ông bà đã từng mua hộ những hàng ế của bà cho bà nhẹ gánh đi về.
Lúc nầy, bà Dương mang
http://thai3.software.informer.com/ - thai đứa con thứ ba. Cần một người chăm sóc em bé. Ông bà Dương vừa yên ủi bà Xuân vừa hỏi:
- Chị Xuân, bây giờ không còn người thân nào bên cạnh, chị có vui lòng về ở chung với chúng tôi không? Vợ tôi sắp sinh rồi. Được có chị một bên thì tôi cảm ơn Thượng Đế lắm.
Qua hai hàng nước mắt, bà Xuân gật đầu. Phải! Bà đâu còn người thân nào ở Sài Gòn. Cô em gái của bà đã qua Mỹ vào những ngày đầu của tháng 5 năm 1975 rồi. Vẫn chưa tin tức. Mà liên lạc làm sao khi bà đã thay chỗ ở mấy lần. Trong đời thường, hễ ở đâu có tình thương thì ở đó có sự êm ấm. Bà Xuân tá túc tại nhà ông bà Dương từ đấy cho đến khi ông bà có đứa con gái thứ năm.
Khi cô con út ấy đã là thiếu nữ tuổi đôi mươi. Nỗi nhớ thương Christine cũng chất ngất ở trong lòng bà. Bà Xuân cứ khóc thầm. Buồn lặng lẽ.
***
Đang thả hồn về quá khứ chợt bà nghe tiếng ông Dương gọi:
- Chị Xuân ơi. Chị đâu rồi?
- Tôi đây. Có gì vậy chú Dương?
- Xuống đây rồi biết.
Giọng ông như reo lên:
- Tin vui. Tin vui.
Bà Xuân bước xuống bậc
http://thang11.software.informer.com/ - thang cuối cùng, thấy lòng hồi hộp. Ông Dương ngồi ở ghế dài chìa tờ báo ra, nói:
- Chị lại đây mà xem nầy. Tên chị phải không? Tên con chị phải không?
Bà Xuân đỡ lấy tờ báo trên tay ông Dương. Đọc đến đâu nước mắt lăn dài theo đến đó.

Tìm Mẹ.
Tôi là Christine - Tên tiếng Việt là Bảo Trân.
Tìm Mẹ tên Nguyễn Thị Thanh Xuân. Trước năm 1975 nhà ở gần Nhà Thờ Ba Chuông. Gửi tôi đi Mỹ với Cô Lan. Ai biết Mẹ tôi hiện ở đâu làm ơn nhắn giùm. Xin hậu tạ.
Hai bức ảnh kèm theo khiến bà Xuân khuỵu xuống sàn nhà, khóc ngất. Đúng là con gái của bà . Bức ảnh thứ nhất Howard một tay bế con một tay quàng vai bà âu yếm. Bức ảnh thứ hai Bảo Trân mặc áo đầm xanh màu bích ngọc, tóc cột cao thắt nơ. Bà vẫn còn lưu giữ trong
http://album.software.informer.com/ - album một ảnh giống y như vậy. Tạ ơn trời đất. Thượng Đế còn thương. Bà lẩm nhẩm.
Một tháng sau nhờ toà soạn của tờ báo, Christine đã liên lạc được với bà. Việc đầu tiên, vợ chồng và hai con gái của Christine sẽ đi Việt Nam thăm mẹ.
Ngày gặp nhau, Bà Xuân không thể nào tưởng tượng nỗi: con gái Bảo Trân bé bỏng ngày nào giờ đã là thiếu phụ hai con. Với vóc dáng như vận động viên bơi bội: Da rám nắng, người thon thả, nhanh nhẹn. Đi bên cạnh người chồng nói nói, cười cười thật đẹp đôi và hạnh phúc. Còn người mẹ mà Christine hết lòng tìm kiếm giờ tuổi đã ngoài 60. Hơn thế nữa, những biến cố dập dồn trong cuộc đời khiến bà già đi trước tuổi: Ốm yếu, hom hem.Trong vòng tay sum họp hai mẹ con cứ ôm nhau khóc hoài. Chàng rể Mỹ thì đứng nghệch ra. Hình như xót xa cho vợ.
Christine về Việt Nam 3 lần, mọi thủ tục bảo lãnh đã hoàn tất. Năm sau, bà Xuân sang Mỹ.
Một ngày của tháng 4 năm
http://20053.software.informer.com/ - 2005 . Lại cũng tháng 4 định mệnh. Bà gặp Howard tháng 4. Tạm chia tay vào tháng 4 năm 1972. Tháng 4 năm http://20032.software.informer.com/ - 2003 bà gặp lại con. Rồi tháng 4 năm 2005 bà được định cư nơi quê hương của chồng.
Cuộc đời bà Xuân thêm một lần đi vào bước ngoặt.

* * *
Ngày đầu tiên đặt chân đến Mỹ, bước vào nhà đứa con gái yêu, bà thấy cái gì cũng lạ lẫm. James và Christine hoàn toàn không biết nói tiếng Việt. Cho nên khá vất vả cho bà Xuân. Mấy chục năm ở trong nhà ông bà Dương, nơi đó cũng nhà cao, cửa rộng. Nhưng căn nhà của Christine phải nói là quá đẹp. Nhà có sân trước nhiều cỏ mượt, cắt rất kỹ. Nhìn xa như một tấm thảm xanh mịn. Bên hiên trồng nhiều hoa: Hồng cam, hồng thẫm, cẩm tú cầu, cúc tím. Ở lối vào có hai cây hoàng điệp cao cũng quá đầu. Trước hai cửa sổ là hai cây táo sai trái. Căn nhà làm bà đứng tần ngần rất lâu. Bốn phòng ngủ. Phòng nào cũng có phòng tắm riêng. Phòng khách bày trí nhẹ nhàng và sang trọng. Dùng toàn màu trắng và màu cà phê sữa nhạt. Phòng ăn thì sang quá. Bà hỏi Christine:
- Nhà sắp có tiệc lớn phải không?
Con bà đáp:
- Chỉ là bữa ăn gia đình bình thường thôi mẹ .
Bà Xuân lúng túng trong khung cảnh sang giàu của con theo suy nghĩ của bà. Đêm đầu tiên trên đất Mỹ bà thức trắng. Đêm thứ hai, thứ ba và đến ngày thứ sáu thì Christine trách:
- Mẹ cứ ngủ ngày hoài . Sao mẹ không chịu đi ra đi vào gì cả.
Bà Xuân thấy buồn. Vừa mệt, vừa đói. Sao con bà không nấu cho bà cơm. Bắt bà phải ăn thức ăn của Mỹ. Trái cây trên bàn bà chỉ thích chuối thôi. Bà thấy nhớ cơm vô cùng.
Một tuần lễ trôi qua, thấy bà quá buồn Christine mua cho bà một nồi cơm điện theo yêu cầu của mẹ. Sợ mùi thức ăn ám vào nhà bà phải nấu bằng bếp ga nhỏ xíu ở sân sau. Một tô canh nấu bằng mì gói. Thôi cũng đủ cho cái bao tử của bà. Giấc ngủ bà tạm quen với giờ ở Mỹ rồi. Nhưng giặt giũ thì trở ngại vô cùng. Bà không biết dùng máy giặt máy sấy gì cả.
Thế rồi, đợi cho Christine đi làm bà giặt tay, đem phơi ở hàng rào bên hông nhà. Hàng giờ bà ngồi đợi cho khô, mong cho khô trước giờ con gái trở về nhà. Không ngờ hôm đó Christine về sớm. Cô gom hết mấy bộ quần áo vào nhà :
- Mẹ đừng có phơi như vậy mất đẹp cho cái nhà. Hàng xóm nhìn vào xấu lắm.
Bà Xuân cảm thấy buồn, thấy khó chịu. Bà bắt đầu thấy hối tiếc khi rời bỏ quê hương. Ôi ! Con của bà . Đứa con gái mà bà banh da xẻ thịt đẻ ra đã xử tệ với bà như thế. Người đâu mà vô tình. Bà bảo bà thèm nước mắm, Christine nói;
- Chồng con của con và cả con cũng không chịu nỗi mùi ấy đâu.
Bà bảo thèm thức ăn Việt Nam, cô trả lời:
- Mẹ hãy tập ăn thức ăn Mỹ. Cuộc đời còn lại của Mẹ ở Mỹ mà.
Hồi sống với ông bà Dương, bà có một phòng riêng đầy đủ tiện nghi. Tự do ăn uống. Tự do ngủ nghỉ. Còn bây giờ. Đúng 9 giờ bà phải vào phòng. Lý do hai đứa bé ngày mai đi học sớm. Chúng chỉ được phép nói chuyện với bà 10 phút mỗi ngày. Không khí trong nhà ngột ngạt từ cái hôm bà ăn một lúc hai trái bắp luộc mà bà tưởng tất cả cho bà. Christine đã nói với chồng vẻ giận dữ:
- Mẹ kỳ thật. Nhà có 5 người. Mẹ đã ăn mất phần của một người rồi.
Bà nghe và nói được tiếng Anh mà. Tủi thân. Bà khóc. Con cái ở Mỹ , sống theo kiểu Mỹ có khác. Bà nhớ câu chuyện đọc ở đâu đó lâu rồi. Ở một xứ xa, những cha mẹ đã già thường được các con đưa vào rừng. Không phải để ngắm cảnh hay săn bắn. Mà là bắt các cụ trèo lên cây. Các con đứng dưới đất mà rung. Người nào yếu sức té xuống chết thì khiêng đi chôn. Người nào còn khoẻ bám chặt vào cây rung mãi không rớt thì đem về nuôi tiếp.Phong tục gì mà kỳ cục! Bà nghĩ thân phận mình. Bà mới 68 tuổi. Tại khổ cực nên già. Sang đây ăn uống thất thường càng gầy đi thấy rõ. Sao con bà không thấy cho. Bỗng bà chợt nhớ ra, hồi đi đứa cháu họ ở Michigan có cho bà số phone. Phải rồi. Ngày mai bà sẽ gọi. Mặc dù Christine căn dặn nhiều lần:
- Mẹ đừng có bắt phone, cũng đừng gọi cho ai. Tốn tiền lắm.
***
Cầm cái thư trong tay, bà Xuân mở ra, run rẩy: Vé máy bay! Bà nói chuyện với Khoa mới hai tuần, cháu đã gửi vé cho bà sau khi nhiều lần hỏi:
- Bác đã nghĩ kỹ chưa? Mà không sao. Cứ sang ở với cháu. Khi nào muốn về với chị ấy cháu sẽ lo. Bác vui lên đi nhé.
Bà chìa tấm vé máy bay ra sau giờ ăn tối, Christine và
http://james14.software.informer.com/ - James nhìn sững. Thật lâu, Christine cầm lấy. Đọc vội ngày giờ bay. Cô hỏi:
- Sao mẹ không cho con biết trước?
Bà cố ngăn cơn khóc như sóng ở trong lòng bà, trồi lên, dồn dập.
- Mẹ muốn đi khỏi đây một ít lâu.
Ai về phòng nấy...
Hôm James chuẩn bị đưa bà Xuân ra phi trường, Christine đến bên bà, nhẹ giọng:
- Mẹ đi chơi vài tuần rồi về. Các cháu sẽ nhớ mẹ.
Không cầm tay, cũng không ôm hôn. Bà Xuân nuốt ngược nước mắt vào lòng:
- Mẹ chưa biết sẽ quay về lúc nào. Cảm ơn con.
Khi bà đã vào xe, Christine nói với:
- Mẹ! Con xin lỗi mẹ.
Rồi đóng cửa xe lại. Đi thắng vào nhà.
***
Xong phần kiểm tra hành lý, James ôm nhẹ vai bà Xuân:
- Mẹ đi bình an.
Và không hề nói con mong mẹ quay về.
Thắm thoát bà Xuân đã về ở với vợ chồng Khoa 9 tháng hơn. Nhiều lần Christine gọi. Khóc có. Xin lỗi có. Mời bà quay về có. Nhưng bà Xuân đã nguôi đi bao đắng cay. Đã quen với nơi ở mới trên vùng đất Tự Do.
Ngôn ngữ không đến nỗi quá bất đồng nhưng bà không thể nào sống yên cùng con cho được. Khi mà bà xa Christine gần 30 năm. Đứa con ấy là con của Mỹ. Sống và lớn lên trên đất Mỹ, ăn thức ăn Mỹ. Cảm tình và cách đối nhân xử thế cũng theo Mỹ nốt. Người Mẹ nào mà chẳng thương con. Bà khóc nhiều ngày mỗi lần nhớ câu hỏi của Christine qua
http://phone.software.informer.com/ - phone mấy ngày nay:
- Xuân nầy mẹ ở đâu?
Nhưng bà làm thế có gì quá đáng không? Bà đã gặp con. Đã tận mắt thấy cảnh đời giàu sang nệm ấm, chăn êm của con. Với tình thương yêu của người mẹ thật lòng bà mong gia đình con bà mãi mãi là một mái gia đình hạnh phúc. Còn bà giống như vệt màu rơi không thể nào tạo được màu sắc hài hoà trên một bức tranh mà hoạ sĩ thấy rằng đã đủ đẹp.

Hoàng Yến




Trả lời:
Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 20/Jan/2010 lúc 10:46am

http://honque.net/XemAudioVideo.aspx?BaiID=856 - http://honque.net/XemAudioVideo.aspx?BaiID=856

Truyện ngắn: Uyên Ương Gãy Cánh
Tác Giả: Miên Du Đà Lạt
Thúy Anh diễn đọc (Little Saigon Radio - CA)


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 22/Jan/2010 lúc 9:22am

Lá thư cuối cùng của người lái xe tải



Một lần trên xa lộ, tôi thấy một nhóm cảnh sát hoàng gia Canada và vài người công nhân đang tháo gỡ phần còn lại của một chiếc xe tải bị mắc kẹt bên vách đá. Tôi đậu xe lại, nhập vào nhóm tài xế xe tải đang lặng lẽ quan sát đội công nhân.

Một cảnh sát bước lại chỗ chúng tôi chậm rãi nói: "Rất tiếc, người tài xế đã chết khi chúng tôi phát hiện ra anh ta. Có lẽ anh ấy bị lạc tay lái trong lúc trời có bão tuyết hai ngày trước đây. Thật khó để nhận ra người bị nạn nếu chúng tôi không may mắn thấy ánh nắng phản chiếu từ kính chiếu hậu". Viên cảnh sát lắc đầu buồn bã, rút trong túi áo khoác một lá thư: "Đây này, các anh nên đọc cái này. Tôi đoán anh ấy đã sống được khoảng hai giờ trước khi chết vì lạnh".

Tôi chưa bao giờ thấy cảnh sát khóc. Tôi nghĩ họ đã thấy quá nhiều cái chết và chứng kiến nhiều cảnh tượng hãi hùng nên họ không còn cảm giác gì trước những việc tương tự. Nhưng viên cảnh sát ấy đã lau nước mắt và đưa tôi lá thư. Đọc thư, tôi cũng như những người tài xế khác, không nói lời nào, chỉ lặng lẽ giấu những giọt nước mắt, trở về xe của mình.

Những từ ngữ trong thư như nung cháy tôi. Và sau nhiều năm, nó vẫn còn khắc sâu trong trí nhớ, như thể tôi đang cầm nó trước mặt. Tôi muốn chia sẻ lá thư đó với bạn, bạn bè của bạn và gia đình của họ.


Thư của Bill, tháng 12 năm 2000

"Vợ yêu quý của anh,

Đây là lá thư mà không người đàn ông nào muốn viết. Nhưng anh cũng đủ may mắn khi có một ít thời gian nói lên những gì anh đã quên nói nhiều lần trước đây.

Anh yêu em, em yêu ạ. Em đã từng nói đùa rằng anh yêu chiếc xe tải còn hơn cả yêu em bởi vì anh dành nhiều thời gian cho nó quá! Anh yêu cái khối sắt này vì nó cần cho chúng ta. Nó chứng kiến anh vượt qua những nơi khó khăn, những giờ khó nhọc. Anh đã có thể luôn kỳ vọng vào nó trên những chuyến hàng xa và nó luôn mau chóng giúp anh hoàn thành công việc. Nó không bao giờ làm anh thất vọng. Nhưng em có biết rằng anh yêu em cũng bởi những lý do đó. Em cũng đã chứng kiến anh vượt qua những thời khắc khó khăn.

Anh nhớ anh đã than phiền về chiếc xe cũ kỹ vậy mà anh không nhớ em cũng từng than thở khi mệt mỏi trở về nhà. Anh quá lo nghĩ đến những rắc rối của mình đến nỗi không nghĩ gì đến em. Anh nghĩ về những thứ em đã phải từ bỏ vì anh: quần áo, du lịch, tiệc tùng, bạn bè... Em đã không bao giờ trách móc và vì lý do nào đó anh đã không bao giờ nhớ cám ơn em. Khi anh ngồi uống cà phê với bạn bè, anh luôn nói về chiếc xe và những khoảng tiền sửa chữa nó. Anh nghĩ anh đã quên mất em là người bạn đời của anh.

Sự hy sinh và phấn đấu của em cũng nhiều như việc anh cố gắng để có được một chiếc xe mới. Anh rất hãnh diện về chiếc xe này và anh cũng rất hãnh diện về em. Nhưng anh chưa bao giờ nói với em điều đó. Anh cho đó là điều dĩ nhiên em đã biết. Nhưng nếu anh dành nhiều thời gian với em thay vì để chùi rửa, lau bóng chiếc xe thì anh đã có thể nói những lời thật lòng mình với em.

Nhiều năm tháng qua, trong những lần rong ruổi trên đường, anh biết những lời cầu nguyện của em luôn theo anh. Nhưng lần này những lời đó không đủ. Anh đang đau quá. Anh đang trên chặng đường cuối cùng. Và anh muốn nói lên những điều mà lẽ ra anh phải nói nhiều lần trước đây. Những điều bị lãng quên vì anh quá quan tâm đến chiếc xe và công việc.

Anh đang nghĩ đến những ngày kỷ niệm của hai đứa hay ngày sinh nhật đã bỏ lỡ, cả những vở kịch, những trận đấu hockey của các con mà em phải tham dự một mình vì anh đang đâu đó trên đường. Anh đang nghĩ về những đêm em cô đơn và nghĩ đến anh đang ở đâu, công việc như thế nào. Anh đang nghĩ về những lúc anh muốn gọi cho em chỉ để nói lời chúc ngủ ngon nhưng vì lý do gì đó lại tiếp tục chạy xe. Anh nghĩ về những giây phút thanh thản, yên lành khi nghĩ đến em cùng các con. Những bữa cơm gia đình em dành nhiều thời gian để chuẩn bị và tìm nhiều lý do để giải thích với các con vì sao anh không ăn cùng. (Vì anh đang bận thay dầu cho xe, anh đang bận sửa xe, anh đang ngủ vì buổi sáng anh phải đi sớm,...). Luôn luôn có một lý do nào đó! Khi chúng ta lấy nhau, em không biết thay bóng đèn, nhưng chỉ hai năm sau em đã có thể sửa lò sưởi những khi trời bão trong khi anh đang chờ dở hàng ở Florida.

Anh đã phạm nhiều sai lầm trong đời nhưng nếu nói anh chỉ có một lần quyết định đúng, anh nghĩ đó là khi anh hỏi cưới em.

Cơ thể anh đang đau. Nhưng tim anh thì đau hơn nhiều. Em không có mặt lúc anh ra đi, lần đầu tiên từ khi chúng ta có nhau. Anh thật sự thấy cô đơn và sợ hãi. Anh cần em nhiều lắm và anh biết đã quá trễ rồi. Anh nghĩ thật là tức cười, bây giờ tình yêu của anh thì đang ở xa anh ngàn dặm còn khối sắt vô tri đã sai khiến cuộc sống của anh nhiều năm nay thì đang ở đây. Nhưng anh cảm thấy em đang ở cạnh. Anh có thể cảm nhận tình yêu của em, trông thấy khuôn mặt em. Em đẹp lắm, có biết không? Anh nghĩ gần đây anh không nói với em điều đó dù em vẫn rất xinh đẹp.

Hãy nói với các con rằng anh yêu chúng rất nhiều. Anh sợ phải ra đi quá nhưng giờ phút đó đã đến rồi em yêu ạ. Anh yêu em rất nhiều. Hãy nhớ chăm sóc bản thân và luôn nhớ rằng anh đã yêu em nhiều hơn bất cứ cái gì trên đời. Anh chỉ quên không nói với em điều đó mà thôi.

Anh yêu em!

Bill."

Lời ngỏ:

"...Nếu bạn đang chờ đến ngày mai, tại sao lại không thực hiện mọi thứ ngay trong ngày hôm nay ? Bởi nếu ngày mai không bao giờ tới, bạn sẽ phải hối tiếc rất nhiều vì đã không dành những giây phút hiếm hoi còn lại để sẻ chia một nụ cười, một cái ôm...

...Hãy giữ những người mà bạn thật sự yêu thương trong vòng tay của mình, thì thầm vào tai họ, nói với họ rằng bạn yêu thương họ nhiều như thế nào..."

- http://www.petalia.org/Inspiration/neutoibiet.htm -



Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 23/Jan/2010 lúc 9:29pm

Hai quả táo

 

Có hai người bạn, hoạn nạn có nhau, coi nhau như anh em ruột thịt. Thượng đế không tin nhân gian vẫn có những tình bạn chân chính như thế nên muốn thử hai người.

Một ngày, hai người bạn đó bị mất phương hướng trên sa mạc rộng lớn, tưởng như cái chết đang cận kề. Lúc đó, thượng đế mới xuất hiện: "Các con của ta, phía trước mặt có một cây táo lớn, trên cây có hai quả táo, ai ăn được quả to thì sẽ tránh được cái chết và thoát khỏi sa mạc, còn ai ăn quả nhỏ thì chỉ có thể giúp con kéo dài hơi tàn và cuối cùng cũng bị chết đau đớn".

Hai người bạn đi lên phía trước một đoạn quả nhiên phát hiện ra một cái cây và cùng phát hiện ra 2 quả táo trên cây. Tuy nhiên không ai trong số họ muốn lấy quả táo mang lại ánh sáng của sự sống.

Đêm đã dần khuya, hai người bạn vẫn ngồi nhìn nhau trìu mến, họ đều tin rằng đây là đêm cuối cùng của họ.

Khi mặt trời lại một lần nữa mọc lên từ phía Đông sa mạc, một trong hai người bạn tỉnh dậy, anh phát hiện ra người bạn kia không còn ở đó, trên cây lại chỉ còn lại một quả táo khô, nhỏ bé. Anh cảm thấy vô cùng thất vọng, không phải bởi chuyện sống chết mà là bởi vì người bạn kia đã phản bội anh.

 
Anh căm phẫn ăn quả táo kia và tiếp tục đi về phía trước. Đi được khoảng hơn nửa tiếng, anh nhìn thấy người bạn mình đang nằm dưới đất, anh ta đã hoàn toàn tắt thở nhưng bàn tay vẫn nắm chặt một quả táo còn nhỏ hơn quả táo kia rất nhiều.
 


-------------



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 26/Jan/2010 lúc 10:52pm
http://vietnamlibrary.informe.com/cu-i-hai-con-ng-ph-omtn-n-anninh-h-ots-ong-dt3997.html - Ở Cuối Hai Con Đường -PhạmTín AnNinh-HạtSương Khuya Đọc<<<XIN BẤM VÀO
Beautiful%20forest%20Royalty%20Free%20Stock%20Photo
 


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 28/Jan/2010 lúc 6:03pm
"Thằng Chó Đẻ" Của Má
hikers%20by%20small%20mountain%20tarn%20,%20north%20rams%20head%20,%20kosciuszko%20national%20park%20,%20snowy%20mountains%20,%20new%20south%20wales%20,%20australia%20stock%20photo





Má ơi ! Bữa nay là ngày 23 tháng chạp, ngày đưa ông Táo . Không biết những người Việt lưu vong như tụi con có còn giữ phong tục hằng năm cúng đưa ông Táo về Trời hay không, chớ vợ của con năm nào đến ngày này cũng mua hoa quả bánh ngọt cúng đưa ông Táo, cũng thành khẩn như ngày xưa, hồi còn ở bên nhà.

Năm nay, nhờ vợ của con lau dọn bàn thờ ông Táo để sửa soạn bày lễ vật ra cúng, nên con mới nhớ ra là ngày 23 tháng chạp. Ngày này cũng là ngày sanh của má. Hồi đó, má hay nói: « Ngày sanh của đứa nào còn khó nhớ, chớ ngày sanh của tao là ngày ông Táo về Trời, không dễ gì quên ! ». Và ngày này hồi đó, khi cúng vái, má hay cầu khẩn : « Ông về ở trển nhờ tâu lại bữa nay tôi lên thêm một tuổi, cầu xin Ngọc Hoàng bớt cho tôi chút đỉnh khổ cực … ». Hồi đó, nghe má cầu xin, con phì cười. Bây giờ, nhớ lại, con bỗng ứa nước mắt…Cuộc đời của má - theo lời tía kể - cũng lắm gian truân từ ngày má bỏ cái làng quê ở bờ sông Vàm Cỏ để đi theo tía dấn thân làm cách mạng vào những năm 1928/29. Gia đình giòng họ từ bỏ má cho nên hồi sanh con, tía bận đi xa, má nằm chèo queo một mình trong nhà bảo sanh, chẳng có người nào đi thăm hết. Vậy mà sau đó, má vẫn tiếp tục bôn ba …Mãi về sau, khi con lên sáu bảy tuổi, có lẽ chỉ vì sanh có một mình con nên tía má mới « trụ hình » - vẫn theo lời tía kể - với nhiều cực nhọc và khó khăn tiếp nối dài dài…Hỏi sao sau này mỗi lần đưa ông Táo má không có lời cầu khẩn nghe tội nghiệp như vậy ?

Nhớ lại, cách đây ba năm má thọ tròn trăm tuổi. Tính ra, từ ngày con đi chui theo ý má muốn - má nói : « Mầy đem vợ con mầy đi đi, để tao còn hy vọng mà sống thêm vài năm nữa » ! – cho đến năm đó, con xa má 25 năm. Con mới 72 tuổi mà cứ bịnh lên bịnh xuống nhưng năm đó con quyết định phải về. Và con đã về …

Thằng Bảy, con chị Hai Đầy ở Thị Nghè nghỉ chạy xe ôm một bữa để đưa con về cái làng quê nằm bên sông Vàm Cỏ. Nó nói : « Đi xe đò chi cho tốn tiền, để con đưa cậu Hai về, sẵn dịp con thăm bà Tám luôn ».

Hồi tụi con bước vào nhà, cả xóm chạy theo mừng. Con nhỏ giúp việc vội vã đỡ má lên rồi tấn gối để má ngồi dựa vào đầu giường : « Thưa bà cố, có khách ». Má nhướn mắt nhìn, hai mắt sâu hỏm nằm trên gương mặt gầy nhom đầy vết nám thâm thâm : « Đứa nào đó vậy ? ». Con nghẹn ngào : « Dạ, con… ». Chỉ có hai tiếng « Dạ, con » mà má đã nhận ra con ngay mặc dầu đã xa con từ 25 năm ! Má nói : « Mồ tổ cha mầy ! Trôi sông lạc chợ ở đâu mà bây giờ mới dìa ? Mà dìa sao không cho tao hay ?» Con ngồi xuống cạnh má: " Sợ cho hay rồi má trông" Má nói mà gương mặt của má nhăn nhúm lại: " Tao trông từ hai mươi mấy năm nay chớ phải đợi đâu tới bây giờ ! " Rồi má nhắm mắt một vài giây mới để lăn ra được hai giọt nước mắt. Cái tuổi một trăm của má chỉ còn đủ hai giọt nước mắt để cho má khóc mừng gặp lại thằng con ... Xúc động quá con gục đầu vào vai má khóc ngất, khóc lớn tiếng, khóc mà không cần biết cần nghe gì hết. Cái tuổi bảy mươi hai của con còn đầy nước mắt để thấm ướt cái khăn rằn má vắt trên vai...

Suốt ngày hôm đó, má con mình nói biết bao nhiêu chuyện, có sự tham dự của họ hàng chòm xóm. Nhớ gì nói nấy, đụng đâu nói đó ...vui như hội. Vậy mà cuối ngày, không thấy má mệt một chút nào hết. Con nhỏ giúp việc ngạc nhiên: "Bình thường, bà cố nói chuyện lâu một chút là thở ồ ồ. Bữa nay sao thấy nói hoài không ngừng ! Có ông Hai dìa chắc bà cố sống thêm năm bảy năm nữa à ông Hai !"

Đêm đó, má "đuổi" con vô mùng sớm sợ muỗi cắn. Con nằm trên bộ ván cạnh cái hòm dưỡng sinh của má. Con hỏi: "Bộ cái hòm hồi đó má sắm tới bây giờ đó hả ?" Má cười khịt khịt vài tiếng rồi mới nói: "Đâu có. Cái hòm mầy nói, tao cho cậu Tư rồi. Hồi Cao Miên pháo kích quá, tao đem cậu Tư về đây ở, rồi ổng bịnh ổng chết. Tao có sắm cái hòm khác, cái đó tao cho thằng Hai con cậu Tư. Tội nghiệp thằng làm ăn suy sụp nên rầu riết rồi chết !" Con nói chen vô: " Vậy, cái nầy má sắm sau đám của anh Hai" Má lại cười khịt: "Đâu có. Cái hòm sắm sau cái hòm cho thằng Hai, tao cho dì Sáu rồi. Hồi chỉ nằm xuống, nhà chỉ không có tiền mua hòm thì lấy gì làm đám ma ? "Ngừng lại một chút rồi má mới nói : " Còn cái hòm nầy chắc tao không cho ai nữa. Họ hàng quyến thuộc lần hồi chết hết, còn lại có mình tao thôi, có nó nằm gần tao cũng yên bụng !"

Nằm tơ lơ mơ một lúc bỗng nghe má hỏi: " Thằng chó đẻ ... ngủ chưa ?" Con trả lời : "Dạ chưa" Má tằng hắng: " Tao tụng kinh một chút nghen" Con : "Dạ" mà nghe tiếng "Dạ" nghẹn ngang trong cổ. Mấy tiếng "Thằng chó đẻ" của má kêu con đã làm cho con thật xúc động. Hồi đó – lâu lắm, cách đây sáu mươi mấy bảy chục năm, hồi con còn nhỏ lận – má hay gọi: "Thằng chó đẻ, lại hun cái coi !". Hồi đó, mổi lần cưng con, nựng con, ôm con vào lòng má luôn luôn gọi con bằng " thằng chó đẻ" ! Mà con thì chỉ biết sung sướng khi nghe má gọi như vậy. Rồi con lớn lần, má không còn gọi con bằng "thằng chó đẻ" nữa. Con không để ý và chắc má cũng không để ý đến chuyện đó. Mãi đến bây giờ má lại gọi con bằng "thằng chó đẻ", gọi tự nhiên như hồi còn nhỏ. Chỉ có mấy tiếng thật thô thiển bình dị, nghe khô khan như vậy mà sao con cảm nhận tình thương thật là tràn đầy. Và đối với má, dầu tuổi đời của con có cao bao nhiêu nữa, con vẫn là "thằng nhỏ","thằng chó đẻ cưng". Con bắt gặp lại sự sung sướng của hồi đó khi được má gọi như vậy. Rồi bao nhiêu hình ảnh thuở ấu thời hiện về trong đầu con, liên miên chớp tắt. Đêm đó, con trằn trọc tới khuya...

Sáng hôm sau, má biểu con đẩy xe lăn đưa má đến từng bàn thờ để má thắp nhang tạ ơn Trời Phật, Ông Bà. Cuối cùng, đến bàn thờ của tía, má nói: "Ông ơi, Có thằng nhỏ nó dìa đó. Ông độ cho nó được mạnh giỏi, độ cho vợ con nó ở bên tây được suông sẻ trong công việc làm ăn..." Đứng sau lưng má, con phải cắn môi thật mạnh để khỏi bật lên thành tiếng nấc !

Đẩy má ngang bàn viết cũ của tía, con thấy trên tường có
http://treo.software.informer.com/ - treo hai khuôn kiếng lọng văn bằng đỏ chói có đóng dấu cũng đỏ chói của Nhà Nước. Con ngừng lại đọc: một tấm là huân chương hạng nhứt và một tấm là huy chương hạng ba cấp cho Lê thị Ráng. Con hỏi: " Cái gì vậy, má ?" Má nói: " Mề-đai của tụi nó cho tao. Tụi nó bươi chuyện thời ông Nhạc nào đâu hồi mấy năm 1928-29 rồi chạy lại cho. Cái hạng nhứt đó cho năm ngoái, còn cái hạng ba mới cho đây" Con cười: " Vậy là họ hạ cấp má rồi" Má hỏi: "Sao mầy nói vậy ?" Con giải nghĩa: "Thì từ hạng nhứt tuột xuống hạng ba là bị hạ cấp chớ gì nữa ?" Má cười: "Mầy không biết. Cái đầu hạng nhứt đó, cho treo chơi chớ không có tiền. Cái hạng ba đó mới có cho tiền" Con đùa: "Vậy má chia cho con chút đỉnh lấy hên coi !" Má khoát tay: "Ối ...từ ngày nhận cái mề-đai đó tới nay đã ba tháng rồi mà có thấy tụi nó đưa tiền đâu. Nghe nói còn mấy khâu gì gì đó chưa thông nên có hơi trễ !" Thấy trên văn bằng đề "Lê Thị Ráng" con thắc mắc: "Ụa ! Mà Lê Thị Ráng đâu phải là tên của má. Trong khai sanh của con, má là Lê Thị Láng mà !" Má cười khục khục mấy tiếng rồi mới nói: "Để tao nói cho mầy nghe. Hồi đó tao sanh mầy ở gần nhà thờ Cha Tam, trong Chợ Lớn. Cô mụ người tàu, nói tiếng Việt còn lơ lớ. Cổ hỏi tao tên gì để làm khai sanh. Tao nói tao tên Ráng, mà R cổ nói không được, nên ra sở khai sanh, cổ nói Ráng thành Láng là như vậy" Mãi tới bảy mươi hai tuổi con mới biết tên đúng của má là "Ráng" !

Hôm đưa ông Táo, con có tổ chức một bữa tiệc để ăn mừng một trăm tuổi của má, có họ hàng tham dự đầy nhà. Vừa ngồi vào bàn, dì Bảy Giang nói: "Theo phong tục mình, con cái phải quì lạy để chúc thọ mẹ cha. Bây giờ, chị Tám được một trăm tuổi, hiếm lắm, quí lắm. Mầy phải lạy má mầy đi rồi ăn uống gì ăn" Mọi người vỗ tay tán thành. Má cũng cười, nói: "Ồ phải ! Hồi nẳm, đám cưới của mầy, mầy có đi học lạy với cậu Bảy Dinh, nhưng bên đàng gái miễn lễ chỉ bắt xá thôi, rồi về đây tía mầy cũng miễn luôn. Cho nên tao chưa thấy mầy lạy ra sao hết. Đâu ? Mầy lạy tao coi !" Mọi người lại vỗ tay nữa. Con đứng trước mặt má, chấp tay ấp úng: "Thưa má. Hôm nay là ngày sanh thứ một trăm của má, con xin lạy mừng thọ má" Rồi con lạy ba lạy, cũng đủ điệu bộ lên gối xuống gối như con đã học lạy cách đây gần năm chục năm. Con lạy mà nước mắt chảy quanh. Con biết rằng lần lạy đầu tiên này có thể là lần lạy cuối cùng, bởi vì qua Tết, con sẽ trở về Pháp với cái lạnh cắt da của mùa đông, rồi sau đó biết có còn về nữa hay không ? Sức khỏe của con càng ngày càng kém, bao nhiêu thứ thuốc uống vô hằng bữa liệu kéo dài sự sống của con được đến bao lâu ? Điều này, con đâu dám cho má biết. Mọi người lại vỗ tay khi con lạy xong. Rồi thì nhập tiệc. Bữa tiệc hôm đó thật là vui. Người vui nhứt là má.

* * *

Má ơi ! Bữa nay là ngày sanh thứ 103 của má, ngày đưa ông Táo về Trời. Vậy là ba năm qua rồi, con đã không về thăm má. "Thằng chó đẻ" của má vẫn còn « trôi sông lạc chợ », để cho má cứ phải trông nó về, trông hằng ngày, trông mòn con mắt, trông khô nước mắt !

Má thương con , xin má tha thứ cho con... tha thứ cho con ….



Tiểu Tử



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 31/Jan/2010 lúc 3:21am
 
TÌNH YÊU
 
 
Câu chuyện bắt đầu với một anh chàng tên Paul và một cô nàng tên Ella.

Cả hai đang là sinh viên đại học.

Một ngày hè, cả hai gặp nhau lần đầu tiên trên sân bóng rổ của trường. Ngẫu nhiên, họ được xếp chơi chung một đội. Hôm đó cả hai đều rất vui.

Lúc về, Ella giả vờ hỏi mượn điện thoại của Paul rồi gọi vào máy mình. Thế là cô có số của Paul. Sau đó, Ella gửi tin nhắn cho Paul, giả vờ như mình nhầm số. Paul trả lời lại. Ella lại gửi tiếp tin nhắn khác. Cứ thế, họ nhắn tin qua lại. Từ nhắn tin, họ chuyển qua gọi điện. Từ nói chuyện trên điện thoại, họ hẹn hò gặp nhau. Và rồi tình yêu đến với họ lúc nào không biết. Cả hai những tưởng, họ sẽ ở bên nhau cho đến cuối đời. Tình yêu của họ sẽ là vĩnh cửu.

Nhưng ba má Ella thì không nghĩ vậy. Họ phản đối. Họ cho rằng Paul không xứng với Ella và rằng chuyện yêu đương nhảm nhí hiện giờ sẽ phá hỏng tương lai tươi sáng của con gái họ.

Ella không đủ mạnh mẽ để chiến đấu với ba má mình. Ella muốn chia tay. Paul không đủ mạnh mẽ để chiến đấu với Ella hòng cứu lấy tình yêu của hai người. Anh chỉ có một lựa chọn duy nhất: để Ella bước khỏi cuộc đời mình. Ella bị buộc đi du học ở nước ngoài. Vậy là hai người mất luôn liên lạc.

Đau đớn thật đó. Nhưng rồi mọi chuyện cũng qua.

Năm năm sau, lúc này cả hai người đều đã trưởng thành và tự lập, Ella vẫn còn độc thân và Paul thì có người yêu khác, Mary. Nhưng sâu thẳm tâm hồn, Paul chỉ yêu duy nhất một mình Ella thôi. Chỉ là, anh không có cơ hội để nói với cô điều đó.

Một lần, đang cùng Mary dạo phố, Paul vô tình trông thấy Ella. Cô thật sự chỉ đứng phía bên kia đường thôi. Chỉ cách anh có một sải chân. Trái tim anh như ngừng đập. Thật sự không rõ bản thân đang làm gì nữa, anh vùng người chạy băng qua đường, bỏ mặc Mary ở lại phía sau. Bần thần và ngơ ngẩn, anh đã không nhìn thấy một chiếc xe tải đang chạy tới.

Lúc Mary hét lên kinh hoàng cũng là lúc Ella quay người nhìn lại. Cô nhận ra khuôn mặt ấy, ánh mắt ấy. Trái tim cô cũng như ngừng đập.

Ella nhào vào đám đông đang tụ tập. Paul vẫn còn thở. Bên cạnh anh lúc này là Mary, đang nói trong nghẹn ngào: "Paul, anh không được bỏ cuộc... hãy gọi tên em, hãy gọi 100 lần, 1000 ngàn lần... được không anh? Đừng ngừng lại, gọi tên em... đừng nhắm mắt, anh... mở mắt ra nào và hãy gọi tên em..."

Paul được đưa đến bệnh viện. Cả Mary và Ella đều đi theo. Họ không biết nhau. Mỗi người đứng một góc, cúi đầu cầu nguyện.

Vị bác sĩ trở ra, đứng trước mặt Mary và nói: "Cô Ella, chúng tôi xin lỗi, anh ấy đã bỏ cuộc sau khi gọi tên cô được 157 lần. Chúng tôi đã tận hết sức."

Mary gục người khóc nức nở, cô không quan tâm đến chuyện vị bác sĩ ấy đã gọi nhầm tên.

Chỉ có Ella, người run rẩy quỵ ngã nơi góc phòng là thấu hiểu. Cô biết tại sao Paul ngừng lại ở lần thứ 157. Bởi vì đó là ngày họ chia tay nhau. Ngày 15 tháng 7. Năm năm, cô đã bỏ rơi tình yêu của mình đến 5 năm. Và bây giờ nỗi đau gấp ngàn lần ngày trước đang quật vào tim cô. Đau đớn.



Nếu bạn thực sự yêu một người, đừng rời bỏ anh/cô ấy. Không bao giờ rời bỏ. Bởi vì có thể bạn không biết được, tình yêu đó có ý nghĩa thế nào với người ấy đâu. Đôi khi nó có giá của cả một mạng người. Hãy trân trọng và giữ gìn tình yêu của mình. Chiến đấu vì nó. Và bạn sẽ không bao giờ hối hận.



-------------



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 01/Feb/2010 lúc 11:26pm
/main/vanhoc/truyenngan/15622-quan-nh.html - Quán nhớ http://saigonecho.com/main/vanhoc/truyenngan/15622-quan-nh.pdf">PDF http://saigonecho.com/main/vanhoc/truyenngan/15622-quan-nh.html?tmpl=component&print=1&page=">Print http://saigonecho.com/main/component/mailto/?tmpl=component&link=aHR0cDovL3NhaWdvbmVjaG8uY29tL21haW4vdmFuaG9jL3RydXllbm5nYW4vMTU2MjItcXVhbi1uaC5odG1s">E-mail
Tác Giả : Nguyễn Ngọc Tư   
Thứ Ba, 26 Tháng 1 Năm 2010 19:27

Trong đám bạn nhỏ cùng xóm, lớn lên tản mác, chỉ nó là người đi xa nhất,

cách núi sông đã đành, lại còn cách biển, bên nầy bên đó không thể cùng lúc ngắm mặt trời lên. Lâu lắm nó mới về, nó bảo, bây giờ xứ mình cái gì cũng khác, nhờ có tình bạn tụi mầy mà tao còn biết đường về, nhờ một thứ nữa là cái tiệm tạp hoá của dì Hai, may, cứ nhìn tiệm đó mà tao không lạc.

Lối sống văn minh không làm nó quên tiếng "tiệm" ngày xưa, ngày mà cả nó và tôi còn nhỏ xíu, ngày nào má nó cũng kêu thằng Út ơi, thằng Út à, chạy lại đằng tiệm mua giùm má ít đồ. Buổi sáng chạy ra mua tương mua củi về nấu bữa cơm sớm cho má nó lót lòng đi làm phụ hồ, ba đi đạp xích lô, trưa cả hai người về, cho đỡ mệt. Chiều xách chai mua dầu về thắp đèn, bữa nào ba nó vui, muốn nhâm nhi với mấy ông bạn, nó đong thêm xị rượu. Nó biết đi tiệm mua đồ từ lúc còn chưa biết mặt của mấy tờ giấy bạc, ở nhà đưa tiền, nó chạy lại xòe tay ra mấy tờ bạc bèo nhèo đưa dì Hai, "má con dặn mua hết bi nhiêu đồng muối". Dặn mua ít món còn nhớ, dặn nhiều nó phải vừa đi vừa nhẩm, gặp cái chạc cây, vấp ngã, quên mất, lại phải mếu máo chạy về hỏi lại. Ở nhà sai biểu cái gì còn mê chơi, dùng dằng chứ bảo đi tiệm là nó te tái đi ngay, mua món đồ còn dư một vài trăm, thể nào dì Hai cũng thối lại bằng mấy cục kẹo chanh, kẹo dừa xanh xanh đỏ đỏ, ngọt dai dẳng cả một tuổi thơ của đám con nhà nghèo.

Tiệm tạp hóa của dì Hai cất dựa mé sông, nhà nhỏ, hàng hoá chất đầy ra lối đi, treo lùm đùm líu đíu không thấy được đầu người. Nhỏ vậy, chật chội vậy mà dường như hỏi món gì cũng có, gạo củi mắm muối thì nói gì, tiệm có cả những thứ năm thì mười họa mới bán được một lần. Chen chúc nhau những kệ cao kệ thấp, thùng nhỏ, thùng to, hủ sành, hủ mủ... không có cái thứ tự nào cho món lớn nhất như sịa nia thúng mủng, nhỏ nhất như cục đá lửa, cái dao lam... Bạn tôi nói với tôi rằng, mười mấy năm qua, mỗi lần bước vào những siêu thị hàng hóa bày bán hào nhoáng, nó vẫn thường nhớ tới tiệm của dì Hai, nó nói có một cái gì đó đầy sự sống, ấm áp trong cái quán bề hộn, hỗn độn của dì. Nên nhớ nhiều lắm. Nhớ đùm cốm gạo treo trên vách, mấy cái keo đựng bánh kẹp, bánh men, cái diệm đựng củ cải muối để kế bên rổ hột vịt, ở góc nhà là thạp đường mía vàng ong óng, một lần nó lén lấy tay mút thử, dì Hai rầy, "cái thằng sao ở dơ ở dáy vậy con, sao không nói để dì lấy dao xắn cho". Nó còn nhớ nắp đậy trên cái lon đựng tiền lẻ của dì lúc nào cũng dính dâm dấp bột gạo, bội củ năng. Qua bao nhiêu năm rồi, nó vẫn thắc mắc, tự hỏi, làm sao dì nhớ rành vị trí từng thứ hàng hoá trong tiệm của mình, để người ta hỏi cái gì, dì lẹ làng, phăm phăm lôi ra ngay thứ ấy, mà từ cái chỗ đôi khi ta không ngờ tới. Tôi cười, với dì, cái tiệm đó có một trật tự riêng, tụi mình không biết được đâu.

Bởi dì đã mở tiệm hàng này từ lúc chúng tôi chưa được sinh ra. Có vài ba cái tiệm như thế cho xóm lao động nghèo nhưng không có cái nào lâu đời như tiệm của dì. Mỗi gia đình trong xóm nhỏ nầy, ai đi ai đến dì rành hết thảy. Buôn bán lâu năm dì còn thuộc nết ăn, xài từng nhà. Như cậu Ba chỉ thích ăn bí hầm dừa với đường mía, vừa ngọt dừa thanh, dì Chín mê món cháo trắng ăn với cải xá bấu, sáng nào cũng nấu, nhà mợ Bảy thích xài xà bông bột hơn loại kem... Với cư dân trong xóm, khi đã vượt qua được đận cơm ngày hai bữa thiếu trước hụt sau, ai cũng tự hỏi, hồi đó sống sao được nếu vắng những tiệm buôn bán lẻ trong xóm mình ha. Làm ngày nào đủ chi ngay ẩy, đủ hai ký gạo, hai trăm đồng muối, năm trăm đồng đường, với bột ngọt, tương, chao... lắt nhắt, vụn vặt, không người bán biết mua ở đâu. Rồi mấy đứa con gái đểnh đoảng như tôi vất vả biết chừng nào, đôi khi không lấy được chồng chứ hỏng phải chuyện chơi, vì lâu lâu vô bếp một lần, đang nấu canh, kho cá, tá hỏa lên trong nhà hết đường hết muối, sai đứa con nít chạy lẹ ra tiệm mua về nêm vẫn kịp, thiệt hú hồn, may quá. Lớn lên, xa nhà, đi rày đây mai đó, nhớ về xóm cũ, từng cái cây ngọn cỏ, còn đường dường như mỗi thứ đã trở thành một phần đời... Cả cái tiệm tạp hóa bình dị, mộc mạc của người đàn bà goá chồng hiền hậu mà cả đời chẳng đứa nào quên tên gọi: dì Hai.

Nó lại thăm, dì Hai than lúc nầy già cả rồi, con mắt ngó không thấy đường, đêm nào cũng nghe đau nhức mình mẩy. Dì nắn bóp tay nó (cái bàn tay chuyên môn lén quẹt đường mía ăn), khen lúc nầy con lớn quá, mập ra. Nó cười, thì mười mấy năm rồi còn gì, xóm xưa trở thành phố thị, hàng quán tíu tít mọc lên. Mọi thứ đã đổi rồi, sao dì với tiệm của dì không thay đổi gì hết vậy? Dì Hai cười, nếu cái gì cũng đổi hết thì bây biết đường đâu mà về.

Tôi thấy chút xíu nữa nó đã rơi nước mắt. Nó nén lòng, mếu máo cười, bảo, "Lâu quá, hỏng ăn kẹo của tiệm dì hai, dì bán cho con năm trăm kẹo đi, dì!". Dì cười, "Cái thằng, buôn bán gì, lâu lâu con mới về, dì đãi'", rồi dì lụm cụm lấy cho nó một vốc kẹo dừa.

Hồi xưa nó cũng mê chỉ mỗi món kẹo dừa, mê tới mức cả hàm răng sún hết trọi.

Trích trong quyển "Nước chảy mây trôi"



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 03/Feb/2010 lúc 10:22am

Vạn Lý Thăm Chồng

Bài của Thu Thuỷ
(Thương tặng các bạn gái đồng cảnh ngộ)


Ðã gần 19 năm sống tha hương, mỗi lần nhìn mưa phùn rả rích lất phất rơi đem theo cái lạnh cắt da, mình cảm thấy lòng se thắt lại, nhớ hoài kỷ niệm thật buồn khi cùng ba con nhỏ dại băng rừng vượt suối ra tận Thanh Hóa tiếp tế lương thực cho anh Trường.
Chuyến đi nhiều gian nan ấy hằn sâu trong tâm khảm mình mặc dầu đã 21 năm rồi từ ngày bốn mẹ con dắt díu khệ nệ khiêng từng thùng thiếc bao bị đệm cả hơn trăm ký lô đồ ăn lên tàu Thống Nhứt ra Thanh Hóa.


Mình còn nhớ rõ buổi chiều ấy thật ảm đạm, nắng đã tắt từ lâu như tia hy vọng mong chồng được thả về đã tiêu tan, lòng nặng trĩu âu lo, mình cùng cậu Thu em
http://trai.software.informer.com/ - trai của chị Tố Nga chuyển các thùng đồ ăn nặng trĩu lên tàu (chồng chị Tố Nga cùng ở chung trại Thanh Hóa, chị cảm thông mình đơn chiếc yếu đuối nên cho em trai ra ga Lê Lai phụ mình). Sau khi đã kiểm kỹ lại các thùng thiếc và chắc chắn không cái nào bị mất mát, cho các con ngồi vào toa xong, mình vội vã cám ơn cậu Thu, lúc ấy cũng hấp tấp nhảy mau ra khỏi toa vì một hồi còi tàu rú lên, báo hiệu tàu sắp rời ga.

Lần đàu tiên trong đời được đi xe lửa, ba con mình ngạc nhiên lạ lùng mở to mắt nhìn các trẻ nhỏ cùng lứa tuổi đang nô đùa trong các dãy nhà san sát cạnh đường rầy dọc theo xóm Bàn Cờ, Hòa Hưng, Phú Nhuận, Bình Triệu. Mặc dầu mình đã nói trước với các con là bốn mẹ con sẽ đi thật xa ra Bắc thăm Ba, đem đồ ăn tiếp tế cho Ba nhưng hai đứa con trai còn quá nhỏ, trí óc non nớt không mường tượng nổi rằng đây là cuộc hành trình gian nan dài cả 1200 cây số. Chỉ có con gái đầu lòng Thủy Tiên khôn lanh và lớn hơn, mơ hồ cảm thấy không phải là một chuyến đi bình thường nhiều thú vị như khi xưa cùng đi với cả gia đình ra Vũng Tàu hoặc lên Ðà Lạt. Thủy Tiên thu mình lại, ngồi rúc vào một góc băng, cặp mắt xoe tròn, lo âu nhìn các hành khách xa lạ chung quanh. Sơn, Tùng vô tư lự và hiếu động, ngồi không yên, tò mò chạy lăng xăng trong toa. Mình xót xa nhìn các con thầm cầu nguyện cho bốn mẹ con được bình an suốt cuộc hành trình.

Ðêm đến bốn mẹ con co rút ngồi sát vào nhau, cố dỗ giấc ngủ một cách khó khăn. Ðùi mình tê cứng, sưng húp lên vì muốn cho các con được ngủ thoải mái, mình luân phiên kê đầu mỗi đứa trên đùi mình, để các con đỡ mệt. Lưng mình đau rả rời vì ngồi suốt mấy tiếng đồng hồ bất động. Ngồi kiểu nầy suốt ba ngày ba đêm chắc chết mất, mình nhủ thầm, ngao ngán và mệt mỏi. Liếc mắt thấy các người đồng hành mạnh ai nấy tìm một khoảng trống nhỏ dưới chân hoặc ngay cả lối đi chật hẹp để trải tấm nylon nằm cho đỡ mỏi lưng, mình cũng bấm gan trải đại các tờ báo dưới băng, kêu Sơn Tùng thu mình co chân lại nằm đỡ, nhờ vậy Thủy Tiên có thể tạm thời nằm dài ra trên băng cây (có đến ba người lớn ngồi chen chúc trên một băng). Mình thì chịu đựng hết nổi, lăn kềnh ra ở lối đi, đắp vội cái khăn quàng cổ lên mặt để bụi cát từ giày dép các hành khách qua lại không rơi vào mắt. Chưa bao giờ mình thấy thấm thía câu "buồn ngủ gặp chiếu manh" như lúc nầy. Bốn mẹ con nằm được "thoải mái" hơn, đỡ tê cóng chân tay, nên mệt mỏi ngủ thiếp đi, đến sáng lúc nào không hay, mặc dầu trong đêm bao nhiêu chân thản nhiên bước qua người và đầu cổ mình. Thiên hạ nằm la liệt : người lớn thì tràn ngập lối đi, trẻ con nhỏ người hơn cố chui rúc xuống gầm băng, các bộ đội quen ngủ võng trong rừng thì
http://treo.software.informer.com/ - treo võng nằm vắt vẻo như vượn, đong đưa qua lại tỉnh bơ trên đầu hành khách. Quang cảnh trong toa thật hỗn độn chưa từng thấy : tiếng ho, tiếng khạc nhổ, tằng hắng, tiếng trẻ nhỏ la hét khóc ban đêm, xen lẫn tiếng đập ruồi muỗi chát chúa, chưa kể lâu lâu nước tiểu trẻ con đái dầm ban đêm chảy dài loang ra sàn thối tha dơ bẩn.

Trời hừng sáng bốn mẹ con lồm cồm ngồi dậy, áo quần nhớp nhúa hôi hám, phờ phạc người, thấy ai nấy đều lấm lem, lấy lon hoặc ca súc miệng, phun ra cửa sổ toa, làm vệ sinh lau mặt ngay tại toa. Ban đầu còn ái ngại, sau đó mình cũng quen đi, thản nhiên cho các con súc miệng như mọi người. Tàu ngừng ở các ga lẻ ở miền Trung, cảnh buôn bán tấp nập vô trật tự : ai cũng hấp tấp mua bán vì sợ tàu chạy bất thình lình, không kịp đưa hoặc thối tiền.Thôi thì tiếng la ó cãi vả mắng chửi chí chóe nổi lên, đinh tai nhức óc. Thủy Tiên, Sơn, Tùng mừng rỡ vì được dịp ăn các món cháo lòng, miến gà, cơm tấm bì, cơm sườn, hột vịt lộn, bán dọc theo các ga. Ðã năm năm nay từ sau 75, quen ăn uống kham khổ, các con ngạc nhiên thấy lần nầy mình cứ mua tới tấp đồ ăn, đâu có ngờ rằng sở dĩ mình phung phí là mình lo các con mệt đói, ngả bệnh không đủ sức để tiếp tục băng rừng vô trại. Mình thì ngao ngán ăn uống qua loa cho có sức cầm cự, nôn nóng mong sao cho tàu mau đến Thanh Hóa, chán chường nhìn thắng cảnh qua cửa sổ mặc dầu dọc đường có biết bao bãi biển xanh biếc và núi non hùng vĩ của miền Trung.

Sau ba ngày trời ròng rã sống trong địa ngục hôi hám của toa xe chật chội dơ dáy, bốn mẹ con đến Thanh Hóa. Lại một phen chật vật, chen lấn, mồ hôi nhễ nhãi, bốn mẹ con mới khệ nệ khiêng đủ các thùng thiếc nặng cồng kềnh xuống ga. Thật là "trầy da tróc vảy" vì chỉ cần sơ hở một chút thì bị mất cắp đồ hoặc bị móc túi ngay. Sơn mới mười tuổi đầu hơn còn Tùng chưa đầy chín tuổi, nhưng đã tỏ ra bảo bọc che chở má và chị yếu ớt, giành xách các bao bị đệm to. Nhìn các con nhỏ bé khẳng khiu oằn vai dưới gánh nặng mình đau lòng tủi thân vô cùng. Vì đâu mà nên nỗi nầy? Mình cắn răng để khỏi bật khóc, mím môi nhìn lên trời xanh, thầm cám ơn ơn Trên đã phù hộ bốn mẹ con đi đường bình an vô sự.

Ðường vào trại xa cả năm chục cây số mà đã xế chiều hết xe đò đi ngang trại, nên bốn mẹ con đành phải vào tạm trú ở nhà trọ gần ga. Nói là nhà trọ, nhưng thật sự chỉ là những tấm phên tạm dựng lên sơ sài, trong có nhiều giường tre ọp ẹp cho khách mướn nghỉ đêm đỡ, đợi sáng sớm hôm sau lấy xe đò vô trại. Bốn mẹ con kinh hoàng chui rúc nằm trên chõng tre cũ kỹ xiêu vẹo. Mình lấy các thùng thiếc bao bị sắp xếp lại, và tấn xung quanh cái mùng rách nát vá víu cả trăm lỗ, vì nghe nói đồ ăn để ngoài mùng sẽ bị chuột cống chiếu cố. Ðêm đó mình phải đương đầu, dương Ðông kích Tây với lũ muỗi đói vo ve bay tới tấp, xuyên theo các lỗ rách của mùng. Nhưng hãi hùng nhứt là mục kích từng đoàn chuột cống kếch xù đánh hơi mùi đồ ăn, chạy lúc nhúc xung quanh các thùng thiếc y như những bóng ma trong các phim kinh dị. Nửa đêm, Sơn bị "Tào Tháo rượt", mình phải bấm gan rùng mình dẫn con ra nhà vệ sinh nhớp nhúa tận sau hè, tối om và thối tha. Hai mẹ con sợ hãi gớm ghiếc không dám nhìn cái thùng phẩn đầy dòi và ruồi nhặng, lại càng thêm rùng mình rợn xương sống khi trở về giường dưới bóng cây đa, với tàn lá âm u ma quái.

Tờ mờ sáng, mình giật mình vội đánh thức các con dậy để cùng nhau gom góp hành lý, khập khểnh khiêng lần ra bến xe đò gần đó, sắp hàng mua vé. Chen vai thích cánh với làn sóng người hỗn độn, nón lá rách bươm, mình mớỉ khổ sở giành giựt mua được vé xe đò vào gần trại. Sau khi chuyển được đồ đạc lên xe, mình thở phào ôm các con ngồi vào băng phía cuối xe. Mình tự phục thầm lấy mình là không hiểu có sức mạnh phi thường nào mà mình có đủ sức cùng các con khiêng lên xe cả trăm kí lô lương thực. Chiếc xe đò già nua sét rỉ, chậm chạp lăn bánh... Gió mát buổi sáng tinh sương hiu hiu thổi, Thủy Tiên, Sơn, Tùng lim dim ngủ gà ngủ gât, vì đêm qua không được ngon giấc bởi lũ chuột và muỗi. Nhìn các con ngủ thơ ngây như thiên thần, mình cảm thấy ruột gan se thắt lại. Một ông lão nông dân ngồi gần thấy cảnh bốn mẹ con lặng lẽ nắm tay nhau, thu mình trong góc xe, tỏ vẻ ái ngại hỏi thăm. Mình bâng quơ trả lời qua loa, lòng tự ái không muốn ai thương hại. Lâu lâu đi ngang các ổ gà, xe giằng mạnh, tung xốc các hành khách ruột gan như muốn lộn ra ngoài. Xe chạy độ một tiếng rưỡi thì ngừng trước một lều tranh được dựng bên đường, nơi điểm hẹn sẽ có xe trâu mỗi ngày từ trại ra đón các thân nhân trong Nam ra thăm nuôi trại viên. Bốn mẹ con tụt xuống xe, quần áo xốc xếch đầy bụi bặm, mặt bơ phờ thiểu não.

Mình vội kiểm lại đồ đạc, mừng rỡ thấy không bị mất mát hư hao vì trộm cắp và lũ chuột. Mình xoa đầu ba con khuyến khích khen "Các con giỏi lắm, đã phụ Má xách đồ ăn nặng cho Ba mà lại ngoan nữa. Ba sẽ rất mừng gặp lại các con và biết ơn Má con mình đã đem đồ ăn ra cho Ba". Thủy Tiên, Sơn, Tùng lặng lẽ không đáp, chỉ nắm chặt tay mình lại, lòng mình ấm lại, bao nhiêu nỗi nhọc mệt như tan biến, vì biết rằng bên mình còn có các con ngoan. Mình nhủ thầm : "Can đảm lên! Mình đã gần tới đích rồi! Ðường đi dầu có hiểm trở cách mấy, mình cũng không ngại. Chỉ còn một đoạn đường ngắn nữa thôi! Cố gắng lên!"

Ðúng như các chị bạn đi thăm nuôi trước đã nói : một lát sau tới giờ hẹn, một người đàn ông đánh xe trâu lù lù tiến ra lều tranh. Bốn mẹ con mừng rỡ, lại một phen vất vả, chất đồ đạc lỉnh kỉnh lên xe, sau đó lầm lũi theo sau xe trâu. Con trâu già chậm chạp kéo chiếc xe. Tiếng bánh xe khô nhớt cứ cót két vang lên, người đàn ông thì lầm lì ít nói. Trời nắng gắt nhưng lạnh vì lúc ấy đã vào tháng ba. Bốn mẹ con bỡ ngỡ rảo chân bước mau theo xe, ba con chạy lúc thúc sát theo mình, ngây ngô chỉ chỏ cảnh vật, hỏi han lăng xăng chừng nào sẽ gặp lại Ba. Như người không hồn, mình im lặng nối gót theo các con, âm thầm thất thểu đi. Vô tư lự, Thủy Tiên, Sơn, Tùng hồn nhiên tung tăng chạy nhảy dọc theo đường mòn thích thú khi gặp các hoa dại tím mọc cạnh dòng suối con, ba đứa hái vài cành hoa buộc lại thành một bó nhỏ, nói với mình là để tặng Ba, làm mình càng xúc cảm, se thắt cả lòng.

Xa xa núi Lam Sơn mờ hiện ra và thấp thoáng kế bên là trại Lý Bá Sơ. Núi rừng tĩnh mịch âm u làm mình chợt rùng mình khi nghĩ đến các anh phải chôn vùi những ngày dài nơi sương lam chướng khí nầy, không biết ngày nào đoàn tụ với vợ con. Mình vội xua đuổi ý nghĩ hắc ám ấy, giựt mình khi nghe Tùng than mỏi chân quá. Mình vội bồng con lên, cố gắng lê bước theo xe trâu. Không hiểu nghĩ sao, người đàn ông lại lên tiếng ngắn ngủi "Chị cho cháu nhỏ ngồi đỡ một đoạn lên xe đi." Tùng mừng rỡ vội nhảy thót lên thùng thiếc ngồi trong lúc Thủy Tiên, Sơn lộ vẻ bất bình, trừng mắt nhìn Tùng. Mình thở dài chép miệng nói nhỏ với hai đứa lớn. "Thôi! Em nó còn nhỏ mà con!"

Gần xế chiều, con trâu già phì phèo nước bọt tiến vào trại, bốn me con thiểu não lê gót theo, dép cứ bị sình ướt nhầy nhụa trên đường bám chặt thật khó đi. Thấy Thủy Tiên, Sơn bực dọc giựt mạnh dép lên than thở trơn trợt khó đi, người đàn ông cười khẩy mỉa mai nói: "Ðất nầy nó như thế đấy, cứ thích bám chặt mãi lấy người đi". Mình nhếch mép ngoảnh mặt nhìn nơi khác, chả buồn đối đáp. Trút tất cả các thùng bao bị vào nhà tiếp tân, mình cảm thấy như trút đi một gánh nặng trĩu đè lên vai mình suốt mấy ngày nay.Ðầy đủ đồ ăn tiếp tế và thuốc men đã được an toàn vô tận trại. Mình mừng khấp khởi nghĩ nhờ cả trăm ký lương khô và thuốc men nầy mà chồng mình sẽ có sức khỏe để chống chọi với rừng thiêng nước độc.

Trong nhà tiếp tân mới xây cất xong (oái oăm thay sau nầy mình mới nghe nói lại là nhà nầy do đội Xây dựng của anh Trường vừa xây xong chưa kịp lắp cửa nữa), ngoài bốn mẹ con còn có chị Lang từ Gò Công và chị Cao từ Thủ Thiêm ra thăm chồng trước mình một ngày. Hai chị đã được nói chuyện với chồng lúc trưa, nhưng trễ quá không còn xe trâu đưa ra đường cái đón xe đò về Thanh Hoá nên hai chị nán ngủ qua đêm đợi mai sáng về cho đỡ nguy hiểm. Nhìn nét mặt dàu dàu buồn của hai chị, mình cảm thông sâu xa nỗi buồn nhớ mong ấy. Khắc khoải đợi chờ, hăm hở từ trong Nam xuôi ra Bắc vượt ngàn dặm, băng rừng vượt suối, bất chấp hiểm nguy đang chờ đợi mình, để rồi được hội ngộ ngắn ngủi với chồng chỉ trong nửa tiếng, không được một cái nắm tay vội vã, chớ đừng nói chi một nụ hôn thắm thiết, còn gì thảm não cho bằng.

Cho các con ăn qua loa xong, mình ra tận phía sau, dắt các con đại tiện trong nhà vệ sinh nhỏ tạm thời được cất lên thật thô sơ và như mọi hố xí ở miền Bắc có cái thùng phân đầy dòi lúc nhúc. Hai đứa lớn kinh tởm, nhắm mắt nhắm mũi vội "ị" cho xong, chỉ có Tùng sợ té vào thùng phân, nhứt định nín không chịu vô cầu đầy ruồi nhặng thối tha. Mình đành buộc lòng để Tùng "ị" trên bờ gần ao sen và múc thùng nước giếng kế bên dội mạnh xuống ao. Sau ba ngày trên tàu không tắm gội, ba đứa nhỏ mình mẩy nhớp nhúa được mình kỳ cọ rửa ráy thơm tho, nên vừa lên giường xong là lăn kềnh ra ngủ ngon lành. Mình cũng vội vàng tắm gội sau đó vì ba ngày trời trong toa xe như địa ngục trần gian, mình cảm thấy bứt rứt ngứa ngáy khó chịu không thể tả.
Ðêm xuống dần, tiếng chim bìm bịp kêu thật buồn bã, hoà lẫn với tiếng côn trùng nỉ non làm mình cảm thấy não nuột cả lòng. Ðưa mắt nhìn vào trại hẻo lánh phía xa xa, mình thầm nghĩ giờ nầy chắc anh Trường đã được báo có vợ con ra thăm nuôi, chắc anh cũng trằn trọc không ngủ được như mình. Mình kéo cao cổ áo len, định đi ngủ, chợt thấy cánh cửa chưa được gắn nên phòng cứ mở toạc ra, gió lạnh ngang nhiên lùa vào, mình vội bàn với hai chị bạn cùng nhau kéo cánh cửa nặng trĩu chận đỡ ngang qua cho chắn bớt gió lại và cũng để phòng ngừa cán bộ liều lĩnh đột nhập vào như đã có tiếng đồn ở các trại kế bên.

Trời vừa hừng đông, mình còn chập chờn mệt mỏi trong giấc ngủ đầy mộng mị thì bị đánh thức nhỏm phắt dậy vì tiếng tru tréo lanh lảnh chát chúa của một nữ cán bộ bên tai : "Thế lầy là thế lào? Ai mà dám cả gan ỉa trên bờ ao như thế lầy? Ðể cho ông già Ðào phải đi hốt đồ dơ như thế?" (Ông Ðào là một tù nhân tự quản hình sự đã già). Mình điếng người chợt nhớ đêm qua trời tối nên mình sơ ý không thấy rõ để dội kỹ phẩn của Tùng xuống ao vì vậy mà còn rơi rớt vài "cục" trên bờ. Mình và các con rán nín cười khi nghe nữ cán bộ tiếp tục hét ỏm tỏi ngoài sân để chửi bóng chửi gió.

Nghe tiếng chân nhiều người dừng lại trước nhà tiếp tân, mình và hai chị bạn vội kéo lê cánh cửa gỗ qua một bên. Hên phước làm sao, đúng ngày đội xây dựng đang tụ tập điểm danh trước khi rã hàng lao động trước nhà tiếp tân. Các bạn anh Trường nhìn mình xì xào nói nhỏ : "Anh Trường ở phía sau hàng đó chị, chị thấy ảnh chưa? Một lát nữa chị sẽ gặp ảnh". Mình hồi hộp khi thấy bóng anh Trường thấp thoáng phía sau. Mình an tâm thấy anh lành lặn mạnh dạn tiến vào phòng tiếp tân, nơi đó có cán bộ chễm chệ lạnh lùng ngồi sẵn ở đầu bàn. Bốn mẹ con lính quýnh ngồi phệch xuống ghế đối diện. Vợ chồng mình nghẹn ngào nói không ra lời, mắt nhìn mắt, cái nhìn thật sâu đậm thiết tha, nói lên sự chờ mong khắc khoải từ bao nhiêu năm dài. Ba con vội bíu lấy Ba hôn thật thắm thía. Anh cảm động xoa đầu ba đứa nhỏ, nghẹn lời. Anh chép miệng nhìn mình : "Sao Em ốm quá vậy? Em có sao không?" Mình ràn rụa nước mắt, chỉ biết siết bàn tay chai cứng vì lao động của anh.

Tùng nhõng nhẽo quen vòi vĩnh nên sáng sớm hôm đó chưa ăn sáng, bụng đói cồn cào, được dịp mè nheo với Ba như ở nhà : "Ba ơi! Con đói bụng quá!" Nhưng cán bộ dửng dưng, nhứt nhứt theo luật định không cho thân nhân ăn uống với trại viên, làm Tùng tiu nghỉu, phụng phịu oà lên khóc. Thủy Tiên, Sơn cũng oà lên khóc theo em như đưa đám ma, làm vợ chồng mình càng cảm thấy uất nghẹn. Anh Trường chỉ kịp hỏi thăm về sức khỏe, học hành của các con, còn mình thì lật đật hỏi anh về đời sống lao động ở trại, những câu hỏi thật nhạt nheo và rổng tuếch.

Sau đó thì cán bộ lạnh lùng dõng dạc tuyên bố : "Ðã nửa giờ qua rồi, cuộc thăm viếng đến đây chấm dứt! Nếu anh học tập lao động tốt thì sẽ được thăm viếng lâu hơn, có khi được cả ngày". Cả gia đình miễn cưỡng nói những lời tạm biệt, tha thiết dặn dò nhau giữ gìn sức khỏe và luyến tiếc bịn rịn chia tay, sau khi mình phụ chất các thùng ăm ắp đồ ăn lên xe "cải tiến" (xe cút kít có tay kéo như xe kéo trong Nam). Mình thẫn thờ nhìn anh còng lưng đẩy xe nặng trĩu các bao bị đồ ăn đầy bụi đường và mồ hôi nước mắt của vợ con. Bóng anh khuất dần... tiếng kẽo kẹt của bánh xe hòa lẫn với tiếng khóc thút thít hờn dỗi của Tùng cứ xoáy mạnh vào đầu mình nhức nhối. Mình ôm đầu lảo đảo ngồi phệch xuống thềm đá. Thủy Tiên, Sơn vội rầy Tùng : "Nín đi, Tùng đừng khóc nữa, đừng làm má buồn nữa!" Mình ôm choàng lấy ba con, nghẹn ngào nhìn Tùng tha thứ.

Chợt nhớ cả bốn mẹ con bụng đói meo, chưa ăn sáng, mình chạy vội ra sau bếp, hì hục nhóm lửa nấu nồi nước sôi, bỏ vào chút đỉnh bún Tàu còn sót lại trong bao hành lý, và nêm thêm chút muối tiêu bột ngọt. Bốn mẹ con đói quá, ăn ngấu nghiến ngon lành tô miến "thất nghiệp" nhớ đời đó. (Tiếc công lặn lội cả mấy ngàn cây số, nên mình dồn gởi tất cả cho anh Trường, chỉ để lại cho bốn mẹ con chút đỉnh bún Tàu và vài bịch mì gói ăn đỡ dạ thôi). Ăn xong, bốn mẹ con tom góp đầy đủ hành lý để kịp theo xe trâu trở lại đường cái đón xe đò trở về Thanh Hóa. Lúc đó anh Trường đã trở ra để kịp tiễn đưa vợ con về. Giây phút biệt ly thật não nùng. Cả nhà bịn rịn, lưu luyến không muốn xa rời. Các anh bạn đang lao động chung quanh cũng ứa nước mắt ái ngại nhìn mình cùng ba con mọn thất thểu leo lên xe trâu. Anh Trường mấp máy môi nói : "Em và các con về bình yên!" Mình lí nhí ngậm ngùi run giọng : "Anh ở lại rán được mau về".Mình vốn ghét ba chữ "lao động tốt", tránh không nhắc đến. Ba con vẫy tay luyến tiếc chào ba.

Mưa phùn lại lất phất rơi, cái lạnh xé da cắt thịt : đúng là rét tháng Ba ở miền Bắc!! Cái lạnh lẽo ngoài trời không ghê gớm da diết đeo đẳng bằng cái lạnh cô đơn trong tâm hồn. Ngồi co gối trầm ngâm trên xe trâu, mình thẫn thờ như người mất hồn. Ðồ ăn, hành lý đã được chuyển đầy đủ vào trại, bận về thật nhẹ gánh, nhưng sao lòng cứ canh cánh nặng trĩu ưu tư. "Chàng ở đầu sông Tương, Thiếp ở cuối sông Tương!" Mình bất giác rùng mình nhớ lại khi xưa có người quở trách bảo tại sao đám cưới hai đứa lại làm vào tháng bảy mưa ngâu, dễ bị chia lìa ngăn cách như Ngưu Lang Chức Nữ.

Ðường về xa dịu vợi, xe trâu lắc lư trên đường mòn gập ghềnh thả bốn mẹ con mệt nhoài xuống đường cái để lấy chuyến xe đò chót về Thanh Hóa. Tới đây mới vỡ lẽ : không thể nào mua vé tàu về Nam được, mà phải trở lộn ra Hà Nội mới hy vọng có vé về Sài Gòn. Mình thất sắc ngao ngán lo âu nhìn các con nhỏ dại lại phải cực nhọc một phen lặn lội nữa ra tận Hà Nội. Vé đi Hà Nội hiếm như vàng, muốn mua vé chợ đen cũng không có. Mình thất vọng bối rối, hoang mang không biết tính sao thì thời may có người mách bảo cứ năn nỉ ở quày vé nói có con mọn bịnh cần mua gấp vé về Hà Nội thì họa may mua được vé. May mắn thay thấy mình chạy thất thểu với ba con mọn đùm đề lôi thôi lếch thếch, người bán vé thương tình "nhín" được bốn vé cho bốn mẹ con. Như bắt được vàng, mình hăm hở kéo các con lên toa dành cho các người có con mọn liều lĩnh đi Hà Nội vì không còn cách nào khác.

Tới Hà Nội, mình mừng rỡ gặp lại hai chị Cao và chị
http://lang1.software.informer.com/ - Lang cũng đang chờ mua vé về Sài Gòn.Ba chị em hỏi thăm nhau tíu tít và chen lấn rách cả áo, tóc tai bù xù mới mua được vé về Sài Gòn tối hôm đó. Không biết làm gì cho qua thì giờ vì sân ga chật hẹp tràn đầy người, sợ lưu manh cướp giựt móc túi nên mình dẫn các con đi một vòng hồ Hoàn Kiếm và lấy xe điện "leng keng" xuống chợ Ðồng Xuân mua vài món lặt vặt, đem theo đi đường. Khí hậu Hà Nội lạnh hơn Thanh Hóa nhiều nên Thủy Tiên, con gái yếu đuối hơn, than lạnh và vì đi bộ nhiều nên cũng than mỏi chân. Mình vội kêu một xích lô đạp chở bốn mẹ con về ga trở lại sau khi sắp hàng dẫn các con vào ăn phở ở một tiệm nổi danh phố Nam Ngư cho ấm bụng và lấy sức lại vì ban sáng chỉ ăn một tô miến lõng bõng nước và muối tiêu.

Tối hôm đó bốn mẹ và hai chị bạn mừng rỡ nhảy lên toa tàu Thống Nhứt trực chỉ về Sài Gòn. Hành lý thì gọn ghẽ nhẹ nhàng, nhưng mỗi người mang nặng một tâm tư. Lần nầy thì các con đã quen cảnh hỗn độn và dơ dáy trên tàu nên ba đứa biết thân phận, mỗi đứa tìm một góc kẹt dưới băng, chui rúc vào như đàn chó con, co ro khoanh tròn mình lại ngủ.

Một hồi còi tàu rú dài trong đêm tối... Tàu chuyển bánh nặng nề, chậm chạp và uể oải, uể oải như tâm hồn mình, trống rỗng và chán chường.. Tiếng còi tàu lại rít lên trong bóng tối dày đặc. Mình mệt mỏi nhắm nghiền mắt lại chập chờn thoáng thấy xa xa bóng anh Trường âm thầm mất hút vào trại, đâu đây như còn văng vẳng tiếng ba con thơ dại ú ớ trong mơ : "Ba ơi! Ba ơi!" Mình thiếp dần, thiếp dần... Chân tay rã rời. Con tàu vẫn lạnh lùng tiến trong màn đêm âm u như một bóng ma...

Thu Thủy



Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 05/Feb/2010 lúc 12:00am

 

HẸN NHAU NGÀY 28

Hẹn%20nhau%20ngày%2028Lần đầu gặp mặt, Hân ngỡ ngàng khi "đối tượng" là một thanh niên mặt búng ra sữa. Thế nhưng, hắn luôn mồm xưng anh và gọi cô là em.

Hân quen Khương trên một trang web hò hẹn online. Tất cả khởi đầu từ một đoạn giới thiệu mang đầy tính khiêu khích: "Trần Lê Ngọc Hân, viết lách tự do, sinh năm 1974, tuổi Dần. Ai không sợ bị thịt thì cứ nhào vô".

Ba ngày sau khi đăng hai câu giới thiệu ấy. Hân nhận được rất nhiều thư nhưng cô khá ấn tượng trước một lá thư khiêu khích không kém trong hộp mail: "Nguyễn Đăng Khương, thiết kế nội thất, tuổi Mèo. Mèo là chú của cọp nên không sợ bị thịt, sẵn sàng nhào vô".

Đọc e-mail, Hân khinh khỉnh: "Nhỏ hơn một tuổi à? Cũng không đến nỗi".

Thế nhưng, Khương chỉ mới 20 xuân xanh, thua Hân 13 tuổi, vẫn đang học đại học. Cũng là Mèo nhưng đi sau Hân hơn một con giáp. Buổi hẹn hò offline đầu tiên ở Hands, quán cà phê yêu thích của Hân nhìn khuôn mặt búng ra sữa của Khương, Hân suýt té ghế. "Em trêu tôi đấy à?", Hân gằn giọng.

Khương tỉnh queo: "Ban đầu định là vậy nhưng bây giờ thì không. Chị đẹp hơn em nghĩ", Hân xô ghế đứng dậy, quay đi không thèm ngó lại.

Thế nhưng Khương không dễ bảo như Hân nghĩ. Một tháng sau buổi hẹn hò thất bại ấy, Khương xuất hiện trước mặt Hân, cũng tại Hands, với dáng vẻ hoàn toàn khác. Tóc húi cua, hàm râu quai nón gọn gàng, vóc dáng cao ráo, săn chắc nổi bật trong chiếc áo pull màu đỏ vang và quần bò bạc thếch. Trước ánh mắt sững sờ của Hân, Hương nhe răng: "Sao? Bây giờ tôi xưng anh với Hân được chưa?".

 

Hân tự rủa sả mình sao lại tiết lộ quán cà phê Hands và cả thói quen ngồi đồng ở đây để Khương biết đường mò đến. Cô đốp chát ngay: "Trừ khi em tẩy được cả giấy khai sinh".

"Giấy tờ không quan trọng, một người làm việc tự do, chẳng bao giờ ký hợp đồng như em hẳn phải hiểu điều đấy chứ", Khương đốp chát lại.

"Nhưng như vậy không có nghĩa em có thể lớn lên bằng tôi", Hân phản bác.

Khương gân cổ cãi: "Cũng không có nghĩa là anh nhỏ hơn em, phải không? Thôi thì em cứ xem anh như là một con mèo, còn em là một con cọp, bỏ qua chuyện tuổi tác, được không?". "Chị không rảnh để chơi với em, nhóc à!". "Vậy có rảnh để yêu không?". "Không, chỉ rảnh để cưới thôi".

Khương im lặng. Hân vẫn giữ gương mặt điềm tĩnh nhưng trong bụng hò reo chiến thắng . Đàn ông nào cũng vậy, nghe đám cưới là rụt vòi, huống chi Khương chỉ mới 20 tuổi, còn thích bay nhảy. Thật tình, Hân cũng thấy tiếc cậu chàng đẹp trai này nhưng giá 20 nhân thêm cho hai thì còn có cơ may...

Đột ngột, Khương lên tiếng: "Em hứa đấy nhé, rảnh để cưới, ghi cho anh địa chỉ nhà em, mai anh sang nhà hỏi cưới".

Hân sa sầm nét mặt: "Đùa đủ rồi đấy, cậu làm tôi bực rồi đấy!".

Khương vẫn kiên nhẫn: "Người ta bảo con gái tuổi Dần thường muộn chồng. Nếu lấy chồng sớm thế nào cũng goá bụa. Em bây giờ lấy chồng được rồi, anh cũng không sợ bị em khắc chết".

Hân bật cười, không thể nghĩ ra thêm lý do để xua đuổi con mèo si tình từ trên trời rơi xuống này. Vậy là yêu nhau!

Một ngày mưa, Hân nằm cuộn tròn tấm chăn mỏng, gối đầu lên ngực Khương, thì thầm: "Em muốn sinh con", Khương ngái ngủ: "Bao giờ?".

"Ngay bây giờ, em muốn làm tình không dùng bao cao su". Khương giật mình, tỉnh cả ngủ, mắt mở to: "Em đùa à?".

 

"Không, em nói thật. Em đã hơn 30 tuổi rồi, cũng đã đến lúc sinh con". Khương im lặng. Hân lại tiếp: "Anh không cần lo. Em tôn thờ chủ nghĩa độc thân nên chỉ muốn sinh con chứ chẳng ràng buộc trách nhiệm gì ở anh cả. Nếu thích, anh có thể đến thăm con, không thì thôi, em chẳng mang con đến mè nheo hay làm phiền anh đâu".

Khương vẫn im lặng.

"Chắc lại sắp vùng ra khỏi chăn và bỏ chạy. Rồng hay mèo hay ngựa thì cũng nhát như nhau cả, ôi đàn ông". Hân nghĩ một cách ca thán. Trải qua vài ba mối tình, Hân không còn ngạc nhiên hay đau lòng trước phản ứng hiện giờ của Khương. Những người tình trước của cô có say đắm đến mấy cũng bỏ chạy khi nghe đến chuyện sinh con.

Khương bước ra khỏi chăn thật nhưng không khoác áo và rời khỏi phòng như những anh chàng khác.

Anh lặng lẽ rít thuốc hồi lâu rồi bảo: "Mình cưới nhé!". Hân tưởng mình nghe lầm: "Sao?". Khương quay lại nhìn cô, cười dịu dàng: "Đám cưới, anh nói là mình làm đám cưới". Đến lượt Hân im lặng, cô chưa lường trước tình huống này.

Nhìn vẻ mặt của Khương, Hân biết anh không đùa. Hân khinh khỉnh: "Anh không cần vì đứa con mà cưới cả con vợ già đâu. Em nói rồi, em tôn thờ chủ nghĩa độc thân".

Khương bật cười, dụi đầu vào ngực Hân: "Anh không vì đứa con mà cưới em. Anh muốn dùng đám cưới để hợp thức hoá mong ước sinh con của em, không được sao? Bỏ quách cái chủ nghĩa độc thân của em đi, cũng đã đến lúc em cần một gia đình đúng nghĩa rồi đấy cưng" và anh hôn cô thật nồng nàn.

Khương nói là làm nên ngay tuần sau, anh đưa cô về ra mắt mẹ và xin cưới. Bố Khương mất từ khi anh còn nhỏ, nhà chỉ có hai mẹ con. Mẹ Khương đón Hân bằng ánh mắt sắc sảo pha chút lạnh lùng.

Khương chỉ mới hơn 21 tuổi, chưa đến lúc lập gia đình, bà tự hỏi ở cô gái này có điều gì khiến con trai mình say mê đến vậy. Hân rợn người khi mẹ Khương đưa mắt "chiếu tướng" cô từ đầu đến chân mình.

Cô chưa từng biết sợ ai hay điều gì nhưng giờ đây, tim cô đang đập mạnh. Rõ ràng, mẹ Khương không như những trở ngại mà Hân từng đối đầu.

Sau mấy phút căng thẳng, bà tằng hắng hỏi: "Cháu là người ở đâu?". "Dạ, cháu sinh ra ở Sài Gòn nhưng cả nhà cháu đã qua Mỹ định cư, chỉ còn mình cháu ở đây thôi ạ".

"Sao cháu không đi theo họ?".

"Dạ, tại vì cháu thích ở Việt Nam", Hân đáp hơi khiên cưỡng, không lý nào lại nói với mẹ chồng tương lai rằng mình ở lại Việt Nam lúc ấy chẳng qua vì mối tình đầu với một anh chàng kiến trúc sư.

"Cháu bao tuổi rồi?".

Hân lúng túng. Yêu Khương đã hơn năm nhưng cô vẫn ngại khi thú nhận với ai đó cô hơn anh 13 tuổi, dù sau khi Khương nỗ lực thay đổi ngoại hình, trông cô chẳng đến nỗi già hơn anh.

Ngay lập tức, Khương đỡ lời cho người yêu: "Dạ, cô ấy tuổi Dần ạ".

Gương mặt mẹ Khương bỗng biến sắc, bà gằn giọng: "Tuổi Dần thì không được, không cưới xin gì cả". Khương thảng thốt: "Sao vậy mẹ?".

"Sao trăng gì? Con gái tuổi Dần lấy chồng sớm có số sát phu, con thừa biết mà".

"Trời ơi, đó chỉ là chuyện vớ vẩn. Sao mẹ tin được".

"Không vớ vẩn, nếu muốn, hai đứa chờ mười năm sau, bước qua tuổi 30 rồi cưới". Mẹ Khương nói với giọng đắc thắng, bà thừa biết chẳng đứa con gái nào chịu điều kiện vô lý này.

Khương cũng đắc thắng đáp ngay mà quên mất điều mình đang cố giấu: "Cô ấy đã qua ba mươi rồi mẹ ơi". Nhìn đôi mắt mở to của mẹ Khương lúc ấy, Hân rên thầm trong bụng: "Thôi rồi".

Sau ngày hôm ấy, sóng gió phủ chụp lên mối tình của họ. Mẹ Khương kiên quyết phản đối, thậm chí lấy cái chết để doạ con. Khương cố gắng thuyết phục mẹ nhưng vô ích. Sợ Hân buồn, anh khuyên cô kiên nhẫn cho anh thêm thời gian.

Trước mặt Khương, Hân luôn tỏ ra điềm tĩnh nhưng đêm về, cô ôm gối khóc. Đã lâu lắm rồi từ sau mối tình đầu tan vỡ cũng bởi định kiến tuổi Dần, Hân mới khóc vì một người đàn ông.

Nửa năm sau, mẹ Khương tìm gặp Hân. Cô hẹn bà ở Hands vào ngày 28 Tết, ngày làm việc cuối cùng trước Tết Nguyên Đán của Hands. Năm nào cũng vậy, Hands luôn đóng cửa vào 28 Tết và khai trương lại vào mùng Bốn. Hân vẫn còn nhớ ngày đầu tiên mình lồng tay vào tay Khương cũng là 28 Tết.

Hands nằm cuối một con hẻm nhỏ yên tĩnh giữa trung tâm thành phố sầm uất. Người không biết khó có thể tìm ra Hands giữa những con đường ngoằn ngoèo và chi chít như bàn cờ. Hands nhỏ, có chưa đến năm cái bàn nhưng nhờ vậy mà tuyệt đối yên tĩnh. Hân vẫn thường một mình đến Hands với chiếc laptop, ngồi vào chiếc bàn kê sát ô cửa sổ trắng và gõ lóc cóc viết bài. Và giờ đây, cô cũng đang ngồi ở chiếc bàn ấy, đối diện với mẹ Khương.

Mẹ Khương mở đầu chuyện một cách nhẹ nhàng: "Cháu có thật sự muốn làm con dâu của bác không?".

Hân im lặng, cân nhắc hồi lâu và khẽ đáp: "Cháu thật sự muốn làm vợ Khương và cháu mong bác đồng ý".

Vẫn giữ vẻ tự nhiên, bà hỏi: "Cháu nghĩ Khương muốn cưới cháu vì điều gì?". Hân im lặng, cô muốn trả lời vì tình yêu nhưng không hiểu sao không thể thốt nên lời. Mẹ Khương mỉm cười ý nhị: "Cháu không đủ can đảm để trả lời vì tình yêu, đúng không?". Hân mím chặt môi: "Bác muốn nói gì?".

Mẹ Khương vẫn điềm tĩnh: "Bác muốn cháu chủ động rời xa Khương trong một năm, không liên lạc và không giải thích bất kỳ điều gì cả. Nếu nó thật sự yêu cháu, nó sẽ vượt qua khoảng thời gian ấy và sẵn lòng chờ cháu quay về. Khi ấy, bác sẽ không phản đối chuyện đám cưới nữa. còn ngược lại, tình cảm hiện giờ nó dành cho cháu chỉ là đam mê nhất thời và hai đứa nên kết thúc. Bác cũng đang thắc mắc liệu cháu có thật sự tin là Khương yêu mình không hay chỉ đang say mê một phụ nữ từng trải và có chút nhan sắc. Sao? Cháu có tự tin để thử không?".

Bằng những nhận xét tinh tế của mình, bà thừa hiểu Hân là cô gái ngang tàng và có lòng tự tôn rất cao. Bà biết mình đã đánh trúng đòn và chắc chắn Hân sẽ đồng ý. Một cách chậm chạp, Hân khẳng định lại điều bà đang nghĩ: "Quyết định như vậy, bác nhé!".

Một năm trôi qua, Hân đang ngồi trên taxi đến Hands. Cây kim giờ trên tay của cô đang nhích dần đến số 11. Đêm đã khuya nhưng Sài Gòn vẫn chưa muốn ngủ. Hôm nay là 28 Tết.  "Lại là ngày 28, không biết nên yêu thương hay nguyền rủa nó đây?", Hân vừa nghĩ vừa nhìn mông lung.

Không khí hội hè phủ khắp nơi nhưng lòng Hân trống rỗng. Cô vừa mong gặp lại Khương vừa sợ mình sẽ thất vọng.

Một năm qua, giữ đúng lời hứa vời mẹ Khương, Hân bẻ sim điện thoại, thay đổi chỗ ở, đóng cửa Facebook, không đến Hands và bất cứ nơi nào khác mà Khương có thể tìm đến. Cô vác ba lô đi khắp nơi, từ Đà Lạt, Nha Trang đến Hà Nội, Sa Pa... Cô đi vừa để viết bài vừa để quên đi nỗi cô đơn đang giày vò mình.

Hân biết ở Sài Gòn, Khương đang điên cuồng tìm cô. Hân đau lòng khi nghĩ đến gương mặt hốc hác và đôi mắt trũng sâu của anh. Ngày nào, Khương cũng gửi e-mail cho Hân và giăng trên Facebook lời van xin tha thiết: "Hân, em đang ở đâu? Đừng tránh mặt anh nữa!". Hân đọc hết, biết hết nhưng im lặng. Cô chỉ biết động viên chính mình và đánh dấu chéo vào quyển lịch cầm tay khi mỗi ngày trôi qua.

Đã có lúc Hân tưởng mình bỏ cuộc khi những lá e-mail của Khương thưa dần rồi mất hẳn. Dòng chữ tha thiết trên Facebook đã được thay bằng những câu cập nhật cuộc sống thường ngày của anh.

Thỉnh thoảng, Khương lại khoe những tấm ảnh anh chụp khi đi du lịch đâu đó, vây quanh anh luôn có những cô gái xinh đẹp và trẻ trung. Hình ảnh đó làm Hân vừa ghen vừa có cảm tưởng mình như bị xóa sổ khỏi cuộc đời của Khương.

Những lúc ấy, Hân ngồi lặng câm trước laptop và nhếch mép: "Đàn ông..." nhưng nước mắt lại rơi trên má cô nóng hổi. Hân quệt đi ngay, dù gì, đây cũng không phải lần đầu tiên cô không được lựa chọn.

Là con gái tuổi Dần, Hân đã khá quen với điều này. Người tình đầu của Hân cũng đã không thể vượt qua định kiến của gia đình và bỏ rơi cô chỉ vì hai chữ "tuổi Dần". Với những người tình sau, Hân chẳng bao giờ đặt quá nhiều hy vọng vào họ. Rồi cũng như nhau cả thôi!

Thế nhưng lần này khác, Hân biết mình yêu Khương, yêu thật sự kể từ sau mối tình đầu nên cô không thể dễ dàng bỏ cuộc. Máy bay bà già thì đã sao? Tuổi Dần thì đã sao? Chẳng lẽ cô không được quyền yêu như bao người phụ nữ khác? Và Hân vẫn ôm ấp một hy vọng nhỏ nhoi, vẫn đánh dấu chéo vào quyển lịch cầm tay khi mỗi ngày trôi qua. Cô chờ ngày được gặp lại Khương.

Chiếc taxi đỗ xịch trước con hẻm nhỏ cắt ngang những dòng suy nghĩ của Hân. Cô thanh toán cước phí rồi lặng lẽ gõ chân trên con đường lồi lõm quen thuộc. Bây giờ là 11 giờ rưỡi đêm 28 Tết và cô đang đến Hands. Nếu thật sự yêu và còn nhớ Hân, Khương chắc chắn đang đợi cô ở Hands, ít nhất là qua 12 giờ đêm nay.

Hands không khác một năm trước là mấy. Vẫn một mảng tường trắng in đầy những dấu tay bằng sơn đủ màu của các vị khách, vẫn những chiếc bàn gỗ mộc mạc được lau chùi sạch sẽ đến bóng loáng, vân những cây mai giả nhỏ xíu đặt trên bàn và những phong bao lì xì đỏ đính lục lạc đong đưa reo vui bên ô cửa sổ...

Hân đưa mắt tìm kiếm chiếc bàn kê sát ô cửa sổ trắng. Tim cô như rơi tõm xuống. Chiếc bàn trống không. Hân đưa mắt nhìn quanh. Hands vẫn còn lác đác dăm vị khách nhưng tuyệt nhiên không có người cô muốn tìm.

Hân tưởng như mình không đứng vững. Một cơn khó thở dâng lên khiến tim Hân đau thắt. Cô ôm lấy lồng ngực, lê chân khó nhọc về phía chiếc bàn quen thuộc và gọi một ly cappuchino. Mọi vật trước mắt cô nhoè đi. Hân biết mình đang khóc. Cô quệt nước mắt và cố gượng cười với cô phục vụ, nhưng nụ cười của cô phản chiếu xuống vệt nước trên mặt bàn trông méo mó và thảm hại như nụ cười của anh hề vào ngày rạp xiếc vắng khách.

Cô phục vụ ái ngại hỏi: "Chị không sao chứ?". Hân lắc đầu, cố pha trò: "Không, chỉ là tôi có hẹn một người quan trọng nhưng lại bị cho leo cây".

Cô phục vụ cợt vỗ tay lên trán: "à, thì ra là chị" rồi quày quả đi về phía quầy bar. Cô gái trở lại với một chiếc máy MP3 và bảo: "Sáng nay, có một anh chàng cũng nói câu tương tự như chị vậy. Anh ấy nhờ tôi trao lại thứ này cho cô gái nào ngồi ở chiếc bàn kê sát cửa sổ và cũng bị người ta cho leo cây".

Hân đón chiếc máy từ tay cô phục vụ, tim cô đập mạnh liên hồi. Tay run run, cô gắn tai nghe và nhấn nút play. Giọng Khương vang lên trầm ấm như đang ở thật gần: "Em đang khóc vì anh đã không đến, có phải không? Anh đã chờ em suốt một năm qua ở Hands và lần nào, anh cũng thất vọng ra về. Anh liên lạc với em bằng mọi cách nhưng vô ích. Anh biết em vẫn quan sát anh từng ngày, anh van xin em rồi khiêu khích em trên Facebook để em xuất hiện nhưng tất cả đều công cốc".

"Anh tự hỏi mình đã làm gì sai để em phải xa lánh anh như vậy? Sáng nay, anh đến Hands từ rất sớm và chờ em đến tận trưa. Em vẫn mất hút. Anh thật sự không đủ kiên nhẫn nữa. Khi em nghe được những lời này, anh đã ngồi trên máy bay sang Pháp. Anh sẽ làm việc ở đó trong ba năm và có thể lâu hơn. Có lẽ chúng ta không còn gặp lại nhau. Chúc em mạnh khoẻ và hạnh phúc".

Những lời cuối của Khương như nhoè đi. Hai tai Hân lùng bùng, cô ngồi phỗng như tượng rồi đột ngột đứng bật dậy.

"Không thể như thế! Mình phải ra sân bay", Hân hốt hoảng vùng chạy. Cô va mạnh vào chiếc bàn và đánh đổ ly cappuchino. Dòng cà phê nóng rẫy đổ trên tay cô nhức buốt nhưng Hân không quan tâm.

Cô luýnh quýnh chạy đi nhưng vấp phải chiếc ghế và ngã sõng soài. "Mình và Khương không thể kết thúc như vậy, không thể", Hân bật khóc ngon lành như một đứa trẻ.

Chợt một đôi tay mạnh mẽ nâng cô dậy và ôm siết cô vào lòng. Mùi da thịt quen thuộc khiến Hân như bừng tỉnh. Trước khi Hân kịp nhận biết điều gì đang xảy ra, một nụ hôn nồng nàn gắn chặt lên môi cô và giọng Khương thầm thì: "Em là cọp mà sao mít ướt thế? Anh mới trêu một tí đã khóc, vậy mà nỡ bỏ anh đi suốt một năm trời?".

Hân lắp bắp:"Anh... anh... không phải là anh...". Khương mỉm cười dịu dàng: "Anh chẳng đi đâu cả, có đi cũng phải tha con cọp này cùng đi. Anh chờ em ở đây suốt một năm qua. Em ác lắm, thoả thuận với mẹ mà chẳng nói với anh câu nào".

"Anh biết hết rồi sao?".

"Sáng nay, mẹ đã kể hết cho anh nghe và dặn anh phải đến đây đón em. Mẹ biết chúng ta yêu thương nhau thật lòng nên không phản đối nữa. Về nhà thôi em, mẹ đã làm thức ăn khuya, chờ con dâu tương lai về đó".

Hân cứ tưởng như mình đang mơ. Cô khẽ dụi đầu vào ngực Khương, miệng cười mà mắt đỏ hoe. Những bao lì xì đỏ đính lục lạc đang đong đưa reo vui như chia sẻ niềm hạnh phúc cùng họ. Mùa xuân đã ở khắp mọi nơi



-------------



Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 06/Feb/2010 lúc 12:16pm
 
Chuyện tình cô gái thích ngủ đứng
 
 
Đây là một trong ba truyện ngắn - buồn hay nhất mà tôi từng được đọc. Nó có thể quá dài so với sự kiên nhẫn của một số người, nhưng nếu bạn thử bỏ thời gian ra đọc, thì mình xin hứa bạn sẽ không bao giờ phải hối tiếc vì việc đó...





...Câu chuyện lúc thì nhẹ nhàng như một cơn gió trong đêm khuya tĩnh mịch, lúc lại như 1 cơn lốc đang cuốn lấy những con sóng đang điên cuồng trong đau đớn....hãy đọc và cảm nhận.........1 câu chuyện...Buồn và Hay

Bạn gái tôi có một thói quen kỳ quặc: thích ngủ đứng...

Tôi thường xuyên thấy cô ấy, đứng dựa vào một góc để ngủ. Và mỗi khi đang ngồi, mà cô ấy đứng dậy... ắt hẳn là tìm 1 góc để... đứng ngủ.

Thật buồn cười, tôi chưa bao giờ gặp một người có thói quen kỳ lạ đến vậy...

Có lần, chúng tôi vào cửa hàng bán đồ ăn nhanh, lúc tôi đang cố gắng chen chúc xếp hàng đợi đến lượt mua gà rán, quay ra đã thấy cô ấy... dựa vào cửa toilet để ngủ.

Một vài lần tôi góp ý, cô ấy chỉ cười và lè lưỡi rất đáng yêu... nói: "xấu hổ thế!" Nhìn đáng yêu tợn... đến mức mà, dường như, nếu tôi có nhắc nhở hay góp ý về thói quen đó của cô ấy, thì cũng chỉ là để mong cô ấy cười và lè lưỡi đáng yêu như vậy.

Tôi chưa bao giờ hỏi lý do vì sao cô ấy có thói quen ấy, cũng chưa bao giờ có ý định hỏi về điều đó... dù biết rằng mọi thói quen đều có một nguyên do.

Bởi vì...

Ngày yêu cô ấy, cô ấy đã hỏi tôi rằng: "Anh có chắc anh sẽ yêu tất cả những gì em có, dù nó phi lý và làm anh phải suy nghĩ hay buồn rầu?" Tôi đã suy nghĩ rất nhiều và rất lâu, để có thể trả lời câu hỏi đó. Vì tôi là một người, có thể tự hào mà nói rằng... hiếm hoi, luôn có trách nhiệm với lời nói của mình.

Tôi đã đặt ra nhiều giả thuyết và tình huống cho câu trả lời của mình, liệu rằng tôi có thực hiện được nó ko? Nhưng rồi tôi cũng chỉ có một câu trả lời "có!" duy nhất cho tất cả những thắc mắc của mình... bởi vì bao trùm lên mọi lo toan và tính toán là tình cảm mà tôi dành cho cô ấy quá nhiều, nó quá lớn đủ để tôi đánh đổi mọi điều tôi có và chấp nhận mọi điều về cô ấy, dù cho nó có khó khăn....

Suốt 1 năm 3 tháng 21 ngày yêu nhau, đến tận khi chia tay, tôi và cô ấy vẫn chưa một lần làm chuyện ấy....

Nhiều khi tưởng 2 đứa đã quá gần nhau rồi, nhưng cô ấy luôn luôn từ chối và đẩy tôi về phía xa xôi... Tôi ko gượng ép, cũng chẳng bắt buộc gì ở cô ấy cả....

Chúng tôi yêu nhau yên bình và êm ả. Tất cả thoáng qua khiến cho tôi hài lòng và mãn nguyện, cho đến một ngày... Cô ấy đến, đặt lên bàn một tờ giấy và nói với tôi rằng: "Đơn xin chia tay!" ... Tôi ngỡ ngàng, phải nói là ngỡ ngàng và bàng hoàng chứ ko chỉ đơn giản là ngạc nhiên nữa. Cô ấy cười, nụ cười hiền dịu đáng yêu ấy... trôi tuột xa tầm tay tôi từ bao giờ, sao tôi ko hề hay biết.

Tôi im lặng rồi bỗng chợt điên lên, sau khi đọc cái đơn ngu xuẩn mà cô ấy viết... dường như cố gắng nắn nót đến không tưởng.

"Em điên thế đủ rồi đấy! Em làm sao vậy! Anh có thể chịu đựng mọi trò điên rồ của em từ trước đến nay! Nhưng thế này thì quá lắm! Em điên à?"

Mắt cô ấy mở to, ngạc nhiên là những gì tôi nhìn thấy trong đôi mắt và khuôn mặt ấy... nhưng chỉ trong 5 giây, yên ả lại trở về trên khoé môi gầy. Cô ấy lại mỉm cười....

"Bởi vì em điên thật mà!"

Và thế là chúng tôi chia tay nhau. Một lý do tôi cũng không sao hiểu nổi, một cái kết thúc chưa bao giờ có câu trả lời. Tôi đứng dậy và quay đi trong chiều hôm ấy, vẫn cứ nghĩ rằng chỉ là 1 trò của con gái để mong được người yêu quan tâm nhiều hơn thôi. Nhưng một điều nhỏ nhoi tôi quên đi mất, đó là... cô ấy khác tất cả mọi người. Chính vì vậy... sự kết thúc hôm đó, có nghĩa là... không gặp lại...

Tôi chờ mãi những tin nhắn, tôi chờ mãi nick cô ấy sáng trên list YM. Tôi chờ mãi những cuộc điện thoại chuông reo dồn dập... chờ mãi những dòng mail tấp nập yêu thương, nhưng nó không bao giờ đến suốt 2 tháng liền kể từ ngày chia tay hôm ấy...

Nỗi nhớ cắn xé tôi nhiều đêm và nỗi buồn thiếu vắng cô ấy làm cho tim tôi muốn tắt lịm.

Ác mộng vẫn luôn rình rập.

Những hình ảnh quá khứ va đập vào trong mắt tôi như dội lửa....

Rồi tôi lại tự vỗ về mình, ôi đã thay đổi rồi... Và tất cả chỉ là quá khứ thôi, cô ấy rời bỏ tôi, vì cái gì cơ chứ?

Ngày đầu tiên của tháng thứ 3 kể từ ngày chia tay nhau, tôi bấm số gọi cho cô ấy...

Đầu dây bên kia nhấc máy... giọng nhỏ nhẹ và yếu ớt như một giọt nước chỉ chực vỡ tan: "Anh à!"

Chúng tôi hẹn nhau đi uống cafe, vì tôi chẳng biết nói gì cả... cố gắng hẹn hò như mọt người bạn ở xa lâu ngày ko gặp lại.

Cô ấy ngồi đối diện tôi, vẫn nụ cười ấy nhưng khuôn mặt yếu ớt và trắng bệnh, môi bạc và làn da phờ phạc....

Nhưng có một điều dường như khác....

Cô ấy nói nhiều hơn...

Hồi chúng tôi yêu nhau, cô ấy không nói nhiều như vậy. Những buổi đi chơi chỉ đơn giản là những cái ôm và lướt môi nhẹ nhàng, là tôi tâm sự và cô ấy cười. Khi tôi kêu mệt mỏi, cô ấy kể cho tôi những chuyện vui nho nhỏ. Là những ngày mùa đông trời gió... cô ấy làm tôi bất ngờ với một chiếc khăn len tự đan. Là những ngày đại hàn, cô ấy gọi tôi vào giữa đêm và đưa tôi một... cái chăn to đùng, mà cái vỏ chăn thì là "em khâu bằng tay đấy!" Vì cô ấy cứ lừ lừ như vậy nên có sức hút với tôi... Ngày đó, nhiều người hỏi tôi tại sao lại thích cô ấy đến vậy... tôi đều cười. Một người con gái có thể khiến một thằng con trai thay đổi vì mình, thay đổi cuộc sống để được dung hoà với cuộc sống của mình, đâu thể tầm thường phải không? Để cưa cẩm cô ấy, tôi dần từ bỏ rất nhiều thói quen... như một đỉnh núi cao, người ta càng nói, không leo được đâu cao và nguy hiểm lắm... thì tôi lại càng cố trèo, cố trèo bởi vì nó quá cao... đã đi đến lưng chừng thì không có lý do gì để từ bỏ.

Phải mất gần 1 năm, tôi mới có được cuộc hẹn đầu tiên. Cảm giác như suốt 1 năm nỗ lực đó, tôi đã lột xác hoàn toàn. 1 năm chay tịnh để vươn tới một cuộc tình. 1 năm thầy tu để mơ về một người con gái. Nào là từ bỏ thói quen đi đêm, những cô người yêu dăm bữa nửa tháng rơi vào lãng quên trong chăn gối, những cuộc tụ tập chè chén vui vẻ, để biến thành những lần đánh lẻ để leo lên quán cafe chông chênh ở tầng thứ 8, nghe cô ấy chơi một vài giai điệu của Shubert... Những thay đổi mà giờ người ta ngỡ ngàng và tôi ngỡ ngàng nhìn lại... như một trò đùa.

Vô vàn những lý do để yêu... vô vàn những điều không thể nào giải thích nổi.

- Anh luôn nghĩ về em như một thiên thần... mà em thì chẳng bao giờ được làm thiên thần dù em rất muốn!

Câu nói ấy kéo tôi về thực tại.... giữa ly cafe nóng và ánh mắt cô ấy nồng nàn. Nhìn thấy tôi ngước lên, cô ấy cười. Cô ấy lại tiếp tục nói nhiều, lại tiếp tục độc thoại về những điều mà tôi không mấy hiểu...

Chúng tôi đứng dậy, bước ra khỏi quán cafe sơn màu đỏ úa nằm trên khu phố cổ. Cô ấy muốn đi bộ... dạo quanh phố cổ, và nói nhỏ điều gì đó với anh chàng giữ xe của quán cafe. Và sau đó, chúng tôi bước đi....

- Em luôn muốn ngủ với một ai....

Tôi ngạc nhiên:

- Ý em là gì vậy?

- À, em luôn muốn biết cảm giác bên một người con trai là như thế nào?

Cười...

- Anh à, muộn rồi, mình về đi...

Ngày hôm đó kết thúc như vậy!

Cô ấy khó hiểu hơn trước hay là từ trước đến giờ tôi chưa bao giờ hiểu cô ấy cả? Mấy ngày sau đó, cô ấy và tôi có nhắn tin qua lại như 2 người bạn. Vào một buổi chiều, tôi nhận được tin nhắn của cô ấy: "Anh à, em muốn đến khách sạn và ngủ với anh!" Tôi cảm thấy sợ, sợ cái sự thay đổi lạ lùng không báo trước của người con gái bí hiểm mà tôi yêu....

Chúng tôi gặp nhau ở quán cafe sơn màu đỏ úa. Tôi hỏi cô ấy, cô ấy chỉ cười, và... tôi từ chối lời mời của cô ấy... khách sạn và cái hình dung mênh mông, được nằm cạnh người mà mình yêu thương nhất.... nhưng không phải là bí mật và lạ lùng... phi lý và bỗng chốc như thế này. Chúng tôi quyết định không liên lạc với nhau nữa...

....

Một tháng sau, tôi nhận được một tin nhắn khác: "Anh à, vào bệnh viện thăm em!"

Tôi vội vã vào viện. Căn phòng đầy mùi thuốc sát trùng và những tấm ga màu trằng, cô ấy ngồi dựa lưng vào tường và nhìn ra cửa sổ, ánh mắt xa xăm.... không quay lại nhìn tôi khi tôi bước vào:

- Thế là em ko được ngủ đứng nữa rồi, vì em ko còn sức để mà đứng nữa....

Tôi lại gần, nắm tay cô ấy chặt lắm, cô ấy nhìn xuống đôi bàn tay tôi và cười, nhẹ nhàng... cô ấy nói:

- Em yêu anh lắm!

- Anh cũng thế, em biết điều đó mà...

Cô ấy, một tay nắm chặt bàn tay tôi. Một tay khẽ đưa lên che miệng tôi như muốn nói "Anh đừng nói nữa"

- Mai anh lại đến nhé!

- Uh, ngày nào anh cũng sẽ đến mà.

- Và đừng hỏi gì bác sĩ cả...

- Nhưng...

- Anh hứa đi.

- Uh, anh hứa.

Hôm sau tôi đến, lúc đó cô ấy đang đứng bên cửa sổ, dường như cố gắng lắm để đứng vững. Nhìn cô ấy yếu ớt mà tôi xót xa nhiều, tôi muốn hỏi bác sĩ rằng người tôi yêu bị làm sao vậy, nhưng tôi đã lỡ hứa mất rồi...

- Anh ko muốn hỏi nhưng anh lo lắm... em bị sao vậy, nhìn em yếu quá!

- Hì, em sắp khỏi rồi mà, em vừa mổ xong, nên yếu vậy đấy!

Câu trả lời ấy làm tôi yên tâm hơn đôi chút. Và nụ cười ấy làm tôi hạnh phúc hơn rất nhiều....

- Anh hay mắng em vì em ngủ đứng....

- Uh, nhưng nhìn em lúc đấy, rất đáng yêu!

- Em kể cho anh một câu chuyện... và anh chỉ được nghe thôi nhé!

- Uh, em kể đi!

- Hồi em học cấp 2, gần nhà em có một cô, hơn em mười mấy tuổi....

- Uh...

- Nào, anh đừng "uh" nữa, để em kể chứ!

- Được rồi, anh xin lỗi!

- Em với cô ấy, chơi rất thân và rất hợp nhau. Em hay tâm sự với cô ấy, cô ấy ko có chồng, sống 1 mình nữa. Và cô ấy cũng hay sang nhà em chơi lắm. Năm em học lớp 8, lần đầu tiên, em bị cái đó của con gái...

- Cái đó là cái gì?

- Kinh nguyệt ấy!

- Oh... uh!

- Nhà em chẳng có ai cả, mà em cũng chẳng biết làm thế nào. Em gọi cô ý sang, nhờ giúp em... vì lúc đó, mới lớp 8 mà, không hiểu chuyện gì cả... cô ấy nói em phải nằm xuống, cứ ngủ đi, thì máu sẽ ko chảy nữa.... Và...

Rồi nước mắt người yêu tôi bắt đầu chảy... cô ấy nghẹn lại chẳng nói ra lời... ôm chặt tôi... ôm chặt lắm....

- Cô ta cưỡng hiếp em anh ạ!

Tôi shock! Theo bản năng tôi đẩy vòng tay người tôi yêu ra.... trong vài giây định thần, tôi ôm cô ấy vào lòng và cùng khóc với cô ấy... Cảm giác kinh tởm cái người đàn bà kia vô cùng, nèn lên tận trí óc tôi. Còn người tôi yêu thì vẫn nức nở, nước mắt lăn dài trên áo tôi...

- Em có thói quen ngủ đứng vì em sợ.... Vì có lần cô ta nói rằng nhìn em nằm ngủ đẹp lắm. Mỗi lần nằm xuống em đều nhớ tới khuôn mặt đáng sợ ấy. Từ đó, lúc nào em cũng.... ngủ đứng... hoặc ngủ ngồi... ở nhà cũng vậy, vì em sợ...em nằm xuống...em sẽ lại....

Ôm tôi chặt hơn... nước mắt cô ấy tràn ra nhiều hơn....

- Em ko biết con gái có thể làm chuyện đáng sợ vậy. Rồi em nói với mẹ, rồi mẹ ko tin em.... mẹ nói em bị điên... Xấu hổ vì em điên, không ngờ em có thể bịa đặt ra điều kinh tởm đó... và tất cả... đều ghét em anh ạ.

Tại sao cuộc sống lại bất công như vậy? Tại sao cô ấy lại phải chịu ngần đó nỗi dầy vò khi còn quá bé nhỏ?

- Rồi em phải lén lút mỗi khi đi học, tránh cô ta, cho đến ngày... cô ta chuyển nhà đi vì lý do gì em cũng ko rõ và chẳng muốn biết nữa. Em đã phải chịu đựng 3 năm liền lớn lên với ánh nhìn như mình là người điên của bố mẹ....

-Nín đi, anh ở đây.... anh yêu em! Dù thế nào chăng nữa....

Cô ấy vẫn khóc.

- Em tưởng mọi việc đã kết thúc. Em đã cố quên... em đã cố yêu... cố ngủ nằm...

Cô ấy dừng lại 1 chút.

- Cho đến khi.... người yêu em... đến nhà. Bà giúp việc mở cửa. Anh ta lên phòng, lúc em đang nằm ngủ, và....ngủ với em. Em muốn cưỡng lại... nhưng... em nghĩ... phải làm quen.... với đàn ông.

Tôi cảm thấy như ngàn nhát dao đâm vào ngực.

- Rồi anh ta nói... sau khi đã xong xuôi... rằng "Không ngờ em đã mất trinh rồi! Anh không muốn yêu một người không đoan chính!" .... và.... anh ta bỏ em.

Thằng khốn nạn! Tôi kinh tởm loại đàn ông ấy! Tôi thề, xin thề rằng tôi chỉ muốn giết chết hắn ngay lúc ấy

- Em im lặng. Và thế là chia tay. Em lại... ngủ đứng, ngủ ngồi... vì em sợ... em không dám nằm nữa. Nằm.... em sẽ chẳng thể chống cự... em sợ....

Tôi vuốt nhẹ những giọt nước mắt lăn trên má cô ấy, và hôn vào đôi môi đang run rẩy vì sợ hãi. Những chuyện mà cô ấy phải trải qua, thật quá kinh khủng....

- Rồi, em đã gặp anh. Anh đã yêu em khác hắn yêu em. Anh đã chấp nhận em ... không giống người ta phủ nhận em...

Tôi muốn nói với cô ấy rằng, tôi cũng chỉ là một thằng tồi mà thôi, và nhờ cô ấy, tôi mới nên người, mới có thể thay đổi để làm người. Và tôi mới phải là người cần phải cám ơn chúa trời vì được gặp cô ấy trong đời, rằng tôi yêu cô ấy biết nhường nào Yêu và đau xót biết bao ... căm hận những kẻ reo nỗi sợ hãi và ám ảnh lên suốt cuộc đời cô ấy.

- Anh ko quan tâm những chuyện đó, anh căm ghét những kẻ đã làm em tổn thương. Anh yêu em, anh thề là anh yêu em, và anh sẽ ko để cho em phải buồn nữa đâu....

Cô ấy lấy tay gạt nước mắt ở 2 khoé mi, rồi cười nhẹ nhàng....

- Em biết mà...Nhưng anh có thể hứa với em một điều được ko?

- Uhm, em nói đi...

- Hai ngày tới, anh đừng vào bệnh viện nhé

- Tại sao?

- Đi mà, và đừng hỏi gì cả!

- Uh!_Chông chênh .....

....

Hai ngày sau, tôi quay lại bệnh viện....

Thế giới trước mắt tôi dường như sụp đổ. Cô ấy đã ra đi mà không để cho tôi nhìn lần cuối... Ra đi lặng lẽ, ra đi âm thầm... ra đi bất ngờ và ra đi đau đớn....

- Những người bị "Nhiễm trùng huyết " rất khó sống... cô ấy đã chiến đấu đến cùng, và cô ấy biết....

Bác sĩ nói với tôi như vậy. Cô ấy không có đám tang, không bạn bè... vì dường như chẳng ai biết cô ấy bệnh. Và cha mẹ cô ấy... cũng chẳng thấy xót thương gì. Cô ấy ra đi như vậy đấy, sống đau đớn và chết chua xót.

Một bầu trời đêm bao trùm tôi....

- Cô ấy đã tặng mắt cho một người. Cách đây 2 ngày, chúng tôi làm phẫu thuật....

Bệnh viện đã lo tang lễ cho cô ấy....

Tôi lặng lẽ đứng nhìn từ xa. Đôi mắt người con gái đã làm thay đổi cuộc đời tôi, Ánh nhìn xa xăm một thời vẫn còn nguyên vẹn đó....

Một bức thư với những dòng chữ mất nét run rẩy và ngắn ngủn:

"Anh là người duy nhất yêu em! Em đã nghĩ là em sẽ khỏi! Em đã nghĩ là em sẽ thắng! Em chỉ muốn chia tay cho đến ngày em chiến thắng bệnh tật và chiến thắng nỗi sợ hãi trong em. Em sẽ lại gặp anh.... Nhưng em nhận ra rằng, em ko thể... em chỉ có thể chiến thắng nỗi sợ hãi mà thôi.... em đã hết sợ rồi, vì em biết anh yêu em... Khát khao ấy đã cho em sức mạnh... để... gặp lại anh thêm lần nữa... Em muốn anh biết..... anh là người DUY NHẤT em yêu!"

"Ngủ ngoan nhé em, nước mắt mưa

Thương em đau xót, giấc mơ trưa...

Sống là cực nhọc...

Chết là anh khóc...

Phải làm gì... cho em bớt đau đây?"

Nếu 1 tình yêu đẹp luôn phải kết thúc như thế này, con người có còn đắm đuối vào chuyện tình ko có thực. Liệu 1 tình yêu thực sự đẹp có tồn tại ???



-------------



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 08/Feb/2010 lúc 10:23am
 
 
Lần vuốt ve thứ 100
Có một chàng trai và một cô gái, họ yêu nhau hết sức thắm thiết. Có một ngày, cô phải chuyển nhà tới một thành phố rất xa, anh vô cùng đau lòng, nhưng không dám giữ cô lại. Thành phố kia có cha mẹ của cô, họ có cuộc sống rất đầy đủ, còn anh thì cái gì cũng không có. Cho nên anh không dám giữ cô, vì anh sợ cô sẽ khổ. Anh cuối cùng chỉ im lặng. Còn cô thì cứ đợi anh mở miệng giữ mình lại, cô đợi và đợi, đợi cho đến lúc lên máy bay, anh cũng không hề nói.

Trước lúc lên máy bay, cô đưa cho anh một con lợn bông nhỏ, cô nói "Nhớ em, thì hãy xoa đầu nó một lần". Sau đó cô bước lên máy bay mà không hề quay đầu lại.
Trời đang trong xanh thì đột nhiên mưa, anh vừa khóc vừa nhìn chiếc máy bay cất cánh, chính lúc ấy, anh đột ngột phát hiện mình đã phạm một sai lầm đáng sợ, anh quên không hỏi cô địa chỉ và số điện thoại của cô ở nơi ở mới.

Thế là từ đó anh bắt đầu chờ đợi, ngày ngày ôm lấy chiếc điện thoại không dời, anh nghĩ cô nhất định sẽ gọi điện về. Nhưng không có, mãi mà không có.

Lúc anh nhớ cô, anh lại mang con lợn bông ra xoa đầu, anh xoa đầu nó hết lần này đến lần khác, nhưng chỉ càng làm cho mình nhớ thêm.

Anh đợi cô tròn ba tháng, sau đó chuyển thành tuyệt vọng. Anh cảm thấy cô hình như đã quên anh mất rồi, thậm chí anh bắt đầu hận cô.

Anh bước ra khỏi phòng, từ giây phút đó anh quyết định quên đi tình yêu này. Quan trọng với anh bây giờ là bắt đầu lại. Anh ôm lấy con lợn bông, nghĩ một lúc, rồi đành ném nó ra ngoài cửa sổ. Ném đi tất cả những ký ức về cô. Anh từ đây cũng không nhìn lại qua khứ nữa.

Sáng sớm ngày thứ hai, có một người làm công đến dưới lầu dọn dẹp vệ sinh. Bà ta nhìn thấy một con lợn bông, bà ta ôm lấy nó, vuốt ve, đột nhiên con lợn bông động đậy, miệng nó từ từ mở, rồi nhả ra một mảnh giấy. Trên mẩu giấy là địa chỉ và số điện thoại của cô gái.

Con lợn bông ấy là người trong xưởng đồ chơi phải mất rất nhiều tâm huyết mới làm ra món quà đặc biệt này cho cô . Nếu như xoa đầu nó một trăm lần, nó sẽ nhả ra mảnh giấy cô viết. Cô đã âm thầm quyết định, chỉ cần nhận được điện thoại của anh là sẽ từ bỏ tất cả để trở về, không chia tay anh nữa.

Nhưng anh cuối cùng chỉ vuốt ve nó 98 lần.

Người làm công nghĩ : Con lợn bông này thích như vậy, nên đem nó về cho con mình chơi. Bà ta ôm con lợn bông, quẳng đi mảnh giấy.

Anh và cô từ đây đã để tuột mất một nửa cuộc đời.


Trời đã cho duyên số

Nhưng se chi tình duyên

Mong manh sợi tơ trời

Qua không được sóng lòng

Trong những khi lạc điệu

Cung đàn lỡ tơ duyên

Hạnh phúc quá vô biên

Cõi đời mong tìm thấy ...



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 10/Feb/2010 lúc 10:47am
Ba chuyện về tình yêu
Marius Kriatkovski

 
1. Ông kế toán trưởng đến chơi nhà bạn bè và làm quen được với một cô gái trẻ trung xinh đẹp. "Kể ra mình đáng tuổi bố cô ta ấy chứ! - Ông tự tranh cãi với bản thân – Nhưng nhất định cô ta phải là vợ mình ".

Nói thật lòng, có khi ông còn ngang tuổi với ông nội ông ngoại của cô gái là khác. Do vậy ông càng sung sướng, khi trong buổi gặp gỡ riêng đầu tiên - nhân dịp này ông có tặng cô một chiếc nhẫn lớn có gắn kim cương - ông đã nhận thấy cả cô gái cũng không hề lãnh đạm với ông.

Chẳng bao lâu, họ chung sống với nhau. Ông kế toán trưởng làm việc nhiều hơn và hầu như ngày nào đi làm về cũng mang theo một thứ gì đó.

Ông đem về khi thì một chiếc ô tô nhãn hiệu “DKV – Junior”, khi thì một chiếc áo măng tô lông rái cá, khi thì một chuỗi hạt kim cương, khi thì một món đồ trang sức nhỏ.

- Tiền làm ngoài giờ của anh đấy! - Ông tuyên bố – Vì em, em yêu, anh luôn cố gắng.

Cô gái mừng rỡ như một đứa trẻ:

- Nhưng anh phải giữ gìn sức khỏe nhé! - Cô nói và áp chặt chiếc áo lông rái cá vào ngực -Tại vì em rất yêu anh, yêu anh lắm lắm!

Cô sắc cho ông uống các thứ thuốc thảo dược và đôi lúc trìu mến gọi ông là “bố”. Cứ thế, họ sống êm ả và hạnh phúc cho tới khi ông kế toán trưởng dốc các khoản tiền tiết kiệm kếch sù ra xây một tòa biệt thự tuyệt đẹp có vườn cây và bể bơi.

Vào một ngày không vui, gần tối vẫn không thấy ông về mà lại xuất hiện mấy viên cảnh sát. Họ niêm phong cả ô tô, cả áo măng tô lông, cả các thứ khác.

- Ông ta đã tham ô hơn một trăm triệu - Họ thông báo vắn tắt.

- Trời! - Cô gái đang yêu tội nghiệp bật khóc - Thế mà tôi chẳng nhận thấy gì cả!

Chả là tình yêu mù quáng mà lại.


2. Người đàn ông mà tôi sắp kể với các bạn đây có cô vợ rất xinh đẹp. Và rất yêu chồng.

Cô yêu chồng mãnh liệt tới mức dù ở đâu, dù đi đâu, cô cũng chỉ toàn nói về chồng.

Ngay cả khi hoàn toàn tình cờ quen biết với Nikodem (đáng lẽ đi taxi, cô lại lên chiếc xe “Fiat – 1100” của anh chàng này) cô vợ yêu chồng tha thiết ấy cũng luôn luôn nói về chồng.

- Anh chở tôi đi đâu thế này?! – Bỗng cô kêu lên – Tôi ở đầu đằng kia của thành phố cơ mà. Dudus chồng tôi sẽ lo lắng đấy. Anh ấy bao giờ cũng sốt ruột bồn chồn nếu tôi về muộn. Chà, giá mà anh biết tôi yêu Dudus đến mức nào và anh ấy dễ thương đến mức nào!…

Sau đó, khi đến nhà Nikodem để xem qua bộ sưu tập các tẩu thuốc của anh ta, cô nói:

- Không biết Dudus của tôi bây giờ đang làm gì nhỉ? Chắc anh ấy chờ đợi tôi lắm và lo lắng lắm. Chà Nikodem, nếu anh biết em yêu Dudus của em đến mức nào! Anh ấy tuyệt diệu lắm cơ.

Vài tuần sau, cô nói với Nikodem ở trong toa ngủ trên tàu hỏa:

- Chắc hẳn Dudus đã bắt đầu nhớ em rồi đấy. Dudus yêu quý! Này, Nikodem, anh thậm chí không thể hiểu nổi em yêu anh ấy đến mức nào đâu!…

Đoàn tàu chở họ chạy mỗi lúc một nhanh đưa họ vượt biên giới trong chuyến đi ra nước ngoài.

Chả là tình yêu không có giới hạn nào hết, không có biên giới nào hết mà lại.


3. Nữ nhân vật thứ ba của tôi cũng trẻ trung, xinh đẹp và rất yêu chồng. Ngày tháng của cô trôi đi êm ả và hạnh phúc.

Cô ngủ rất ngon (thường là đến tận giữa trưa), sau đó cô đến quán cà phê hoặc hiệu thời trang tóc, rồi cô đi dạo. Khi chồng đi làm về, cô ríu rít trò chuyện và âu yếm vuốt ve chồng mãi.

- Hôm nay anh mua gì cho em đấy? Anh có nhớ tới cô vợ bé bỏng của anh không?

Anh không bao giờ quên cô. Họ yêu nhau thắm thiết.

Một ngày nọ, anh bị đuổi việc. Thoạt tiên, anh buộc phải bán xe ôtô. Nhưng anh bông đùa:

- Bây giờ anh sẽ ghi tên tham gia khóa học để trở thành hành khách xe bus và tàu điện…

Sau đó, anh không đem quà cáp về nữa. Và anh nói đùa:

- Anh yêu em, vợ yêu quý của anh, nhưng tình yêu của anh là tình yêu tinh thần…

Còn cô, cô rất đau khổ về tất cả những chuyện đó. Cô yêu anh mãnh liệt đến mức cô không muốn mình là gánh nặng cho anh.

“Anh yêu - cô nghĩ với một tình cảm dịu dàng – Em sẽ không chịu đựng nổi khi trông thấy anh dằn vặt khổ sở đâu. Anh Leshek có ô tô, có biệt thự, mỗi năm đi nghỉ ở nước ngoài một lần… Hãy để anh ấy phải chịu dằn vặt khổ sở”.

Và cô đến với Leshek.

Chả là tình yêu có thể khiến người ta sẵn sàng hy sinh những thứ cực kỳ lớn lao mà lại.
 
 
Vũ Đình Bình dịch


-------------



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Feb/2010 lúc 11:45am

Bảy ngày xa nhau

Phan nén hết tất cả sự bực tức trong người để có thể mở cửa bước ra khỏi quán cà phê.

Nhiên vẫn ngồi trong quán, chống cằm nhìn những bước chân của Phan đang giẫm thật mạnh lên từng chiếc lá khô, như giẫm nát sự kiên quyết đến bất ngờ của Nhiên một phút trước. Phan muốn Nhiên vẫn là Nhiên ngày nào, đưa tay giữ lấy Phan bên mình, chứ không phải tôi rèn thành một đứa con gái sắt đá và để lòng kiêu hãnh khiến bàn tay hai đứa chẳng thể nắm chặt vào nhau như trước.

Ngày thứ nhất

Hôm qua nhìn Phan, nỗi buồn len vào mắt Nhiên, không sao tả xiết. Nỗi buồn day dứt từ một tháng trở lại đây. Khi những tin nhắn của Phan bỗng dưng thưa thớt và cụt ngủn lạ thường. Phan không có những vướng bận gì trong công việc hay học tập, đơn giản là anh chàng mãi hòa vào cuộc vui của hội bạn và quên mất nỗi nhớ của một người con gái dành cho mình những khi cách xa.

Rồi thành thông lệ, Phan xin lỗi, Nhiên sẽ cười và bỏ qua. Sau đó, Phan tiếp tục gây ra những lỗi lầm y chang thế, cho đến khi, Nhiên không cho Phan xin lại nữa. Đơn giản, Nhiên thấy Phan đứng trên sự yếu ớt và nhu mì của Nhiên để quăng một mớ vô tâm vào đó. Những gì người ta nghĩ rằng đã chắc mẩm trong tay thì thường người ta không học được cách giữ gìn cho đến khi nó mất đi. Nhiên cũng không có ý giúp Phan nghiệm ra bài học gì, Nhiên chỉ muốn tự giải thoát cho chính mình. Nhiên ghét những tình cảm mập mờ như sương khói, Nhiên thổi mạnh, thà để nó tan đi.

Ngày thứ hai

- Ai là người nói chia tay?

- Thì.. Nhiên! - Phan ấp úng, rồi sĩ diện như luồng điện xet qua khiến Phan lại tiếp tục - Nhưng đó là ý muốn của tao. Tao chỉ chờ có thế.

Phan cười hả hê với hội bạn cùng với đôi mắt vô hồn. Không! Có bao giờ Phan muốn như thế đâu. Đành rằng rất nhiều lần Phan thốt ra hai chữ “chia tay” trong cơn nóng giận. Nhưng đối với Phan, hai chữ ấy nó nhẹ như mây, chẳng mang một ý nghĩa nào cả vì sau khi Phan dứt lời, Nhiên sẽ là người níu kéo. Và hai đứa lại vui vẻ với nhau như trước. Nhiên giống như một con diều mà Phan đang kéo thả, Phan nghĩ rằng dù có thả Nhiên ra xa, dù có hù dọa Nhiên bằng hằng trăm câu nói chia tay, thì sợi dây nối Nhiên và Phan vẫn nằm gọn trong bàn tay Phan đang nắm chặt. Chẳng thể rời xa. Rồi một hôm gió lớn, gió cuốn Nhiên đi xa mãi, Phan chới với chẳng biết sợi dây nối trái tim hai đứa đã bay đâu mất, chỉ trong một phút Phan nắm hờ bàn tay..

Phan nhìn vào màn hình di động trên tay. Cả ngày hôm nay, không có tin nhắn. “Phan, anh đang làm gì đấy?”. Phan lắc mạnh đâu, không chỉ ngày hôm nay đâu, thôi thì tập mà quen đi chứ! Tức mình, Phan nghĩ, ”Nếu Nhiên có nhắn tin, dứt khoát mình cũng không thèm trả lời, nhất định thế…”

Ngoài kia diều ai thả mà bay cao quá, có khi nào nó đã chẳng còn sợi dây..

Ngày thứ ba

Nhiên khoác tay nhỏ bạn thân và lê tiếp vào quán chè thứ...tư trong ngày. Nhiên giỏi giấu cảm xúc hơn Phan, Nhiên cười giòn tan và ríu rít suốt ngày. Chẳng ai biết Nhiên buồn, nhưng nếu để ý kỹ, những khi vòng eo của Nhiên có dấu hiệu biến mất để chêm vào một mớ thịt mỡ căng phồng như bong bóng thì là lúc nỗi đau trong tim Nhiên không thốt được thành lời. Dường như trái tim và dạ dày của con gái có một sự liên kết nào đó. Khi trái tim Nhiên cạn queo tình cảm thì Nhiên chỉ còn biết cách bồi bổ cho cái dạ dày, hy vọng bù đắp được phần nào những ray rứt, nhớ mong...

Chấp nhận việc đã đẩy Phan ra khỏi cuộc sống của mình là khó khăn vô cùng. Dù đã chuẩn bị sẵn tâm lý cho ngày chia ly, nhưng khi Phan quay lưng bước những bước xa dần, Nhiên chực muốn chạy theo nhưng lại không thể. Giới hạn của sự chịu đựng đã không cho phép Nhiên được mềm yếu một phút giây nào nữa.

Ngày thứ tư

Phan phóng xe như bay trên con đường quốc lộ rộng thênh thang. Nghe từng hạt cát bụi nhắm thẳng vào mắt mình đau buốt. Trống rỗng. Phan không biết những gì mình đang làm có mang đến cái kết cục nào tốt đẹp hơn không? Phan không biết con đường này sẽ dẫn về đâu, và cuối con đường có ai đó đợi mình không? Ừ nhỉ! Giá đâu đó có người đợi Phan. Như Nhiên ngày trước.

Lại Nhiên! Phan lắc mạnh đầu. Tiếng xe máy xé tan màn đêm tĩnh mịch.

Ngày thứ năm

Nhiên không đến giảng đường mấy ngày nay để tránh mặt Phan. Nhiên biết, chỉ cần nụ cười của Phan vút qua trước mắt, Nhiên sẽ trở về làm cô bé yếu lòng như xưa. Nhiên vùi đầu vào những công việc part-time thời vụ, gặp nhiều người, cười nhiều hơn và khi trở về nhà mỗi tối, Nhiên vẫn thấy vô vị quá đỗi. Nhớ đến Phan mà chẳng dám nhắn một tin hỏi Phan đang làm gì.. Cứ nhìn tên Phan trong danh bạ, muốn ấn nút gọi nhưng ngón tay lại không nghe lời của con tim, bởi lý trí bảo, mạnh mẽ mà quên người ta đi chứ!

Nhiên bước vào nhà, đóng cửa. Tiếng xe máy chạy vụt qua nhói buốt cả tai rồi nhỏ dần trong bóng đêm. Hình như là Phan?

Ngày thứ sáu

Phan vẫn ngái ngủ trên giường khi những tia nắng đầu tiên bắt đầu rọi vào phòng mà nhảy nhót tưng bừng. Có một tin nhắn trong điện thoại di động, là Nhiên. Nhiên đã nhắn tin cho mình! Phan mừng quýnh! Mở tin nhắn ra đọc..Nhưng Phan không hiểu, những con chữ cứ lộn tùng phèo, không ra một hình thù gì...Nhiên muốn nói gì?

Phan giật mình tỉnh giấc. Hóa ra là mơ! Phan ném chiếc gối vào tường, thật mạnh! Trách sao giấc mơ không thành sự thật. Rồi chiếc điện thoại kế bên rung lên ba nhịp báo có tin nhắn. Sẽ là Nhiên, Nhiên nhắn cho mình đấy mà! Không ai khác...Hy vọng dâng cao kéo theo nỗi thất vọng ngập tràn khi tên người gửi không phải là Nhiên mà là một thằng bạn chung lớp. Mấy ngày nay, cứ thấy điện thoại báo có tin nhắn, Phan lại mong mỏi sẽ được nhìn thấy tên Nhiên trong mục người gửi. Dù Nhiên có nhắn bằng những con chữ lộn tùng phèo như tiếng…La tinh trong giấc mơ của Phan cũng được. Và Phan sẽ trả lời tin nhắn, Phan không vô tâm nữa, Nhiên ơi..

Phan vẫn đến trường và vận hết lòng kiêu hãnh bao bên ngoài để không ai biết rằng, ánh mắt Phan luôn dáo dác và trông ngóng bóng dáng của môt người. Chiều về, nỗi nhớ thương đánh gục sĩ diện, Phan ngồi thừ trên băng ghế đá, nhìn bầy chim lũ lượt quay về tổ, hoàng hôn tím ngắt, tím cả tình yêu. Không, Phan chắc chắn một điều, Phan vẫn còn yêu Nhiên lắm, yêu thật lòng..

Ngày thứ bảy

Đêm qua có một cơn mưa thật lớn đổ xuống thành phố này. Cơn mưa như muốn rửa sạch những chất chứa, nhớ mong, rửa sạch đường đi để hai kẻ yêu nhau tìm được lối về.

Sáng nay, mây ích kỷ che cả mặt trời, mưa vẫn tí tách lay động nhưng chiếc lá xanh mơn man. Phan đứng tựa trước hiên nhà Nhiên, giống như lần đầu tiên Phan cưa cẩm Nhiên cách đây hai năm về trước. Chỉ khác là lần này, Phan không có bất cứ một câu nói văn vẻ nào được soạn sẵn, Phan chỉ biết rằng khi nhìn thấy Nhiên, trái tim Phan sẽ thốt lên bất cứ điều gì nó nghĩ trong bảy ngày qua...

Nhiên mở cửa, giật nảy mình khi thấy Phan đứng đó, vừa hồi hộp vừa vui mừng không tả xiết. Muốn bay lại bên Phan và nhõng nhẽo như một chú mèo con rằng, sấm chớp đêm qua khiến Nhiên co ro trong chăn và không sao ngủ được. Nhưng Nhiên vẫn cứ- tỏ-ra bình tĩnh và hỏi :

- Anh đến đây làm gì?

- Anh vẫn yêu em - Phan trả lời tỉnh rụi - Nói cho anh biết cảm giác của em những ngày qua đi?

Nhiên đứng bất động như thể đã bị sét đánh thành một cây cột. Phan cười, quay lưng bỏ đi với đôi mắt buồn như cơn mưa tối qua..

- Anh chỉ muốn nói vậy thôi...Những ngày qua thật sự anh không bình yên. Nhưng nếu em vẫn cảm thấy xa nhau là tốt, thì thôi, anh đi..

- Chưa bao giờ em hết yêu anh... - Câu nói đầu tiên của Nhiên trong ngày mới, bắt đầu một buổi sáng ngọt ngào và êm đẹp.

Lời nói đôi khi thốt ra thật dễ, nhưng lòng dứt khoát mới khó. Và có đôi khi, con người ta chia tay để lại...yêu nhau. Cầu vồng ngũ sắc hiện lên ở cuối chân trời. Cuối con đường, hai tâm hồn đang chờ đợi nhau..

Kết thúc bảy ngày xa nhau.

 


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 14/Feb/2010 lúc 3:47am
 
 

Sao anh không ở bên em ..?

 



Cô gửi cho anh một tin nhắn : Nếu như trong nhà nghèo túng chán nản đến mức chỉ có một bát cháo cho hai chúng ta. Anh sẽ đem chút cháo trong bát ấy cho em ăn chứ ?. Anh trả lời : Vậy mà cũng phải nói sao? Nhưng anh cho rằng một người con trai yêu một người con gái một cách chân chính thì sẽ không để cho người con gái mình yêu phải sống như thế. Cô trả lời : Nhưng có một người trả lời thế này. Anh ta nói, không ! anh sẽ đem hết phần cháo cho cô ấy ăn. Đoạn đối thoại ấy có phải sẽ cảm động được mọi cô gái.

Em không biết, nhưng em bị nó tác động rất sâu sắc. Anh trả lời : Nói như thế, nếu đến bát cháo kia cũng không có, thì anh ta sẽ làm thế nào. Hoặc là nghĩ đến việc bát cháo ấy cô kia ăn rồi, nhỡ vẫn cảm thấy đói thì sao. Cô vẫn cho rằng anh nên trả lời giống như chàng trai kia : Không ! anh sẽ nhường bát cháo ấy cho em ăn, đó mới là thực sự hoàn mỹ, mẫu mực, mới là đáp án duy nhất. Nhưng vì anh không trả lời vấn đề theo phương án ấy, anh và cô lưng dựa lưng suốt một đêm, anh mấy lần muốn ôm cô ngủ đều bị cô cự tuyệt.



Trời có lúc không thuận theo lòng người

Sau này, đến một thời điểm, do nhiều nguyên nhân, anh và cô lâm vào tình cảnh giống như thế, hai người khó khăn đến mức chỉ có một bát cháo. Hôm đó, anh nhẹ nhàng để lại một lời nhắn : Em yêu, em ăn đi, bát cháo trên bàn là dành phần em, anh ăn xong rồi. Cô ăn hết bát cháo, rồi nghỉ ngơi . Anh từ bên ngoài trở vào, mang cho cô xiên thịt dê mà cô thích ăn, hoa quả, trà sữa.

Anh nói với cô : Anh đã tìm được một công việc tạm thời, số tiền này, là ông chủ ứng trước tiền lương cho anh. Nói xong còn đưa túi tiền sáng choang ra trước mặt cô. "Em yêu cứ ăn tự nhiên, anh đã ăn ở bên ngoài rồi". Xong rồi anh làm điệu bộ tinh nghịch. Trong những ngày khốn khó nhất ấy, cô vẫn có được hạnh phúc vui vẻ, còn thì anh dường như làm việc vất vả nên sức khoẻ có phần giảm sút. Thời gian sau, anh ổn định được công tác, họ tràn đầy hạnh phúc khát khao hướng về một tương lai tốt đẹp.


Cô thích xem tivi, bản tin trên tivi nhiều năm trước đã từng phát đi một sự kiện chấn động, một người mẹ và con trai bị chôn dưới lớp đất đá, lúc sữa người mẹ bị đứa con uống cạn, người mẹ đã tự cắn mách máu trên tay, dùng máu tuơi của chính mình nuôi con trai, vài ngày sau, mọi người cuối cùng cũng dọn được đống đất đá cứu hai mẹ con, người mẹ đã cạn máu mà lìa xa cõi đời, trên khoé miệng đứa trẻ vẫn còn đọng lại máu tươi của người mẹ cùng với nụ cười hồn nhiên, hai má đỏ hồng như có được một cuộc sống mới .

Cô hỏi anh : nếu như hai chúng ta cùng bị đè dưới đống đất đá ấy, anh có giống như người mẹ kia dùng máu cứu sống em không ?Anh sau câu nói của cô có một chút xúc động. Anh nói với cô : Em chưa già mà đã có cái ý nghĩ như thế sao? Em là người phụ nữ của anh, anh sẽ làm tất cả để cho em được hạnh phúc, bất luận là lúc cuộc sống và an toàn của em bị đe doạ, anh sẽ làm tất cả để bảo vệ cho em. Em là người anh yêu nhất, anh cũng sẽ không cho phép em có thứ suy nghĩ như thế, em yêu ạ.

Cuối tuần, một buổi sáng đẹp trời, trên con đường về nhà sau khi mua thật nhiều đồ ăn, quần áo mà cô thích, anh dắt tay cô vui vẻ dạo phố. Hai con người nhỏ bé hạnh phúc ấy chỉ cần băng qua một ngã tư nữa thì có thể đến được tổ ấm tình yêu mà mình xây đắp, là thiên đường nhỏ hạnh phúc của họ . Anh một tay nắm tay cô, một tay xách đồ vừa mua, anh đi trước, cô đi sau, hai người đang ở vạch sơn chuẩn bị qua đường, đột nhiên có một chiếc xe lao đến từ phía sau cô - cô chỉ cách anh một bước chân.

Chớp mắt nữa thôi, chiếc xe sẽ tông vào cô. "Ầm" cái tiếng chát chúa ấy là tiếng tông của chiếc xe ô tô. Tất cả đều đột ngột, người bị đâm đã văng cách xa hai mét, máu lênh láng trên đường. "Không! không phải" tiếng kêu kinh hãi đến từ phía cô, tiếng gào thét thê lương đập vào màng nhĩ của những người xung quanh. Cô biết rằng người bị chiếc xe đâm đáng ra sẽ là cô, chỉ chớp mắt như thế người bình thường sao có thể thể kịp phản ứng, anh vội vàng đẩy cô ra, chính mình ngã trong vũng máu.

Cô bổ nhào xuống bên anh mà khóc, trên người anh toàn là máu, cô hét to gọi tên anh, mọi người xung quanh nói không thể làm gì được nữa rồi, họ đã thử nhưng anh không còn thở nữa. Cô không tin, tiếp tục gọi tên anh, điều kỳ diệu sảy ra khi đôi mắt anh hé mở, nhìn cô, bình thản mỉm cười, rồi vĩnh viễn nhắm mắt. Anh đang ở tận cùng của sự sống, dù vẫn đang đau đơn giãy giụa, vẫn cố gắng dùng chút khí lực cuối cùng chứng kiến người mình yêu nhất được bình yên vô sự, rồi mới yên tâm ra đi. Đó là ngày mưa nhiều, bên ngoài tràn ngập hơi ẩm, nước mưa kết thành một đám sương mù giày đặc đất trời.

Trong lúc thu xếp lại những kỷ vật của anh cô phát hiện ra một tờ giấy chứng nhận bán máu, trên đó viết tên của anh. Điều kỳ lạ là từ trước tới nay điều này cô chưa bao giờ biết. Anh trong một tháng liên tiếp bán máu đến 3 lần, cô vẫn nhớ rõ những ngày tháng gian khó nhất của hai người họ, cô đã hiểu ra tại sao sức khoẻ anh trong khoảng thời gian ấy suy kiệt đến vậy, cô hiểu hàm ý trong câu anh nói "tiền lương ứng trước", cô hiểu ra rằng anh đã dùng máu để đổi lấy tiền mua cho cô những đồ ăn cô thích.

Trong lúc tiếp tục thu xếp kỷ vật cô phát hiện ra một mẩu báo, phát hiện bất ngờ này lập tức làm cô kinh ngạc, người mẹ vĩ đại chính là mẹ của anh, đứa trẻ may mắn giành lại được cuộc sống chính là anh. Nhưng anh đã đem cái may mắn ấy cho cô. Cô nước mắt dàn dụa....


Anh Thân Yêu Sao Anh Không Ở Bên Em

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Anh từng nói khuôn mặt em đẹp nhất trên đời

Sao anh nỡ để em cô đơn trong héo hắt mà không nhìn em đến một lần

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Anh nói rằng đem em đi du ngoạn một vòng quanh quả đất

Lời anh hứa vẫn chưa kịp làm, hay đổi thành yêu em một vạn năm đi?

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Anh nói rằng mãi mãi không bao giờ để em đau khổ

Anh đi rồi còn mình em trong thành phố hoang tàn.

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Anh nói rằng chiều chuộng em, em đau, em cười, em hôn, em yêu, yêu em vô hạn

Anh có phải đã bị câu nói đẹp đẽ của thiên đường phồn hoa kia lừa dối

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Em đã bởi người thương mà tiều tuỵ mất đi tiếng nói

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Em đã đợi anh đến quên cả thứ gọi là giấc ngủ

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Em nước mắt nhạt nhoà vì anh không trả lời tin em

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Em đã mặc chiếc váy cưới màu trắng đợi anh đến dắt tay.
 


-------------



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Feb/2010 lúc 6:02am
Tôi là Ai? Việt hay Mỹ?
 
Một bài viết hay dành cho những người Việt tại Hoa Kỳ...
 



Có phải nếu mình ở một nơi nào trên dưới ba mươi năm thì mình là người thuộc địa phương đó, đúng không? Đã biết bao nhiêu lần tôi đặt ra câu hỏi đó sau một ngày nhìn vào lịch thấy con số ghi năm đã bước vào năm thứ ba mươi của một người tị nạn.

Bây giờ có ai mới quen gặp tôi, hỏi: Bà ở đâu đến vậy? Thì chắc tôi sẽ trả lời rất tự nhiên, tôi ở San Jose, hay khi đang đi du lịch thì sẽ trả lời, tôi ở Mỹ đến. Tôi sẽ không trả lời là tôi ở Việt Nam đến nữa, chỉ trừ người ta hỏi, bà là người nước nào? Thì lúc đó tôi chắc chắn nói, tôi là người Việt Nam, để cho họ không nhầm với người Trung Hoa, Nhật, hay Phi.

Đúng, tôi ở Mỹ trên dưới ba mươi năm rồi, tôi là một người Mỹ. Bây giờ thử xem lại con người Mỹ của tôi.

Trước tiên mặt mũi, chân tay tôi chẳng có gì thay đổi cả. Vẫn khuôn mặt cấu trúc ít góc cạnh của người Á Đông và cái mũi tẹt khiêm tốn, tóc sợi to và đen, khi có tóc bạc thì nhìn thấy ngay, muốn giấu thì phải nhuộm.

Đối với người Á Đông thì tôi được gọi là người có nước da trắng, nhưng mầu trắng này thực ra là mầu ngà, và đứng cạnh một ông Tây, bà Mỹ nào thì nó vẫn cho cái căn cước da vàng rất rõ rệt. Khi tôi nói tiếng Anh thì cách phát âm vẫn có vấn đề, đôi khi nói nhanh quá thì sẽ vấp phải lỗi nói tiếng Anh theo cách dịch tiếng Việt trong đầu. Như thế bị chê là nói tiếng Anh bể (broken English). Về cách phục sức, nhà ở, xe cộ bên ngoài, tôi có thể không kém một người Mỹ chính gốc.

Nhưng khi bước vào nhà tôi, từ những bức tranh
http://treo.software.informer.com/ - treo ở phòng khách, bát đũa bầy ở bàn ăn, chai nước mắm, hũ dưa cải trong bếp và nhất là sách, báo tiếng Việt ở khắp nơi trong nhà, thì chắc ai cũng sẽ nhận ra ngay đó là một gia đình Việt Nam. Như thế thì tôi là người San Jose hay người Hà Nội, người Mỹ hay người Việt? Tôi ở đất này đến ba mươi năm rồi cơ mà.

Người ở Lạng Sơn, Thanh Hóa ra Hà Nội ở trên dưới ba mươi năm thì tự nhận mình là người Hà Nội; người ở Hải Phòng, Hải Dương vào Sài Gòn lập nghiệp từ năm 75, 76 tự nhận mình là người trong Nam.

Tôi ở Mỹ tìm về Việt Nam không ai chịu nhận tôi là người Việt nữa, dù tôi có yêu quê hương đến quặn thắt cả ruột gan, có gặp lại họ hàng nước mắt khôn cầm thì khi thăm viếng, hỏi han, họ vẫn thỉnh thoảng nói rất tự nhiên: chị đâu có phải là người Việt nữa, bây giờ chị là người Mỹ rồi, chắc cái này không hạp với chị, cái kia chị không ăn được, cái nọ chị không biết đâu.

Những lúc đó tôi chẳng biết mình phải phản ứng thế nào cho đúng. Cứ cãi tôi vẫn Việt, hay nhận đúng rồi tôi là Mỹ? Không, cả hai cùng sai cả. Những khi cần quyên tiền đóng góp vào việc công ích nào ở Việt Nam thì ai ai cũng nhắc lại cho tôi đến ngàn lần tôi là một người Việt Nam chính gốc. Rằng tôi phải có bổn phận và tình thương với đất nước, đồng bào. Tình thương thì nhất định lúc nào tôi cũng đầy ắp trong ngực rồi, tôi chẳng cần ai nhắc nữa, nhưng bổn phận thì cho tôi... nghĩ lại.

Tôi đã đóng góp bổn phận của tôi cho đất nước đó rồi. Một mối tình chết tức tưởi trong chiến tranh hơn ba mươi năm về trước, xương thịt của người tôi yêu nằm trong lòng đất, rồi lại phải đào lên, đốt thành tro than, bị đuổi mộ như đuổi nhà, đã trả bổn phận đó thay tôi rồi. Không đủ hay sao?

Bây giờ tôi phải có bổn phận đóng thuế hàng năm ở đất nước tôi đang sống để phụ với chính phủ sửa đường, xây trường học và nuôi những người ở khắp nơi mới tới, như trước kia đất nước này đã nuôi người Việt, vì giấy tờ cá nhân hiện tại xác định tôi là người Mỹ. Tôi phải làm bổn phận công dân.

Có những ngày tôi lái xe bị kẹt ở xa lộ vào một buổi chiều mưa mùa thu; hay một buổi sáng mùa xuân vắng lặng, êm ả, đứng trong nhà nhìn ra mặt hồ, tôi cảm nhận được nơi mình đang hiện diện không phải là quê mình, không phải nước mình.

Chẳng có một lý do gì cụ thể, chỉ là những giọt mưa đập vào kính xe, chỉ là mặt nước hồ gờn gợn sóng. Mưa trên xa lộ Mỹ nhắc nhớ đến những cơn mưa tháng Năm ở Thị Nghè, nhà mình ở Trần Quý Cáp, nhà anh ở trước rạp ciné Eden đứng trú mưa với nhau.

Nước ở hồ San Jose trước nhà nhắc đến nước sông ở bến Bạch Đằng mỗi lần qua phà sang bên kia Thủ Thiêm chơi với bạn, hay sóng nước ở bắc Mỹ Thuận những lần qua phà đi thăm họ hàng ở tận Bạc Liêu. Những lúc đó tôi bất chợt bắt gặp mình Việt Nam quá, vì những cái bóng Việt Nam thật mờ, thật xa lại chồng lên hình ảnh rõ rệt ngay trước mặt mình. Và kỳ diệu làm sao, những cái bóng đó nó mạnh đến nỗi mình quên mất là mình đang ở Mỹ. Chắc tại tôi là người Việt Nam.

Lại có những lần ở Việt Nam, tôi bị muỗi đốt kín cả hai ống chân, bị đau bụng liên miên cả tuần lễ. Đi đâu cũng phải hỏi đường, ai nhìn mình cũng biết mình từ đâu đến và đang đi lạc. Tiền bạc tính hoài vẫn sai. Nhiều khi đứng chênh vênh trên đường phố Sài Gòn, biết đất nước này vẫn là quê hương mình, những người đi lại chung quanh là đồng bào mình, nhưng sao không giống Việt Nam của mình, hình như đã có điều gì rất lạ.

Ngôn ngữ Việt thì thay đổi quá nhiều, pha trộn nửa Hán nửa Ta, chắp đầu của chữ này với cuối chữ của chữ kia, làm nên một chữ mới thật là "ấn tượng". Cách phát âm của người Hà Nội bây giờ không giống cách phát âm cũ của ông bà, cha mẹ tôi ngày trước, và họ nói nhanh quá, tôi nghe không kịp. Cái tiếng nói trầm bổng, thanh lịch, chậm rãi, rõ ràng từng chữ của thời xa xưa bây giờ chỉ còn là cổ tích.

Ngửng mặt lên nhìn bầu trời, vẫn bầu trời xanh biếc của thời tuổi trẻ, cúi xuống nhìn mặt đất, vẫn mặt đất thân quen, nhưng sao lòng hoang mang quá đỗi, và thấy đã có một khoảng cách nghìn trùng vô hình giữa mình và quê hương đất Việt. Chắc tôi là người Mỹ!

So sánh thời gian tôi sinh ra, sống ở Việt Nam và thời gian tôi bỏ Việt Nam ra đi, sống ở Mỹ, hai con số đó đã gần ngang nhau. Tôi được học từ nhỏ quê hương là nơi tổ tiên lập nghiệp, là nơi chôn nhau cắt rốn. Ở trong nước có bài hát nổi tiếng “Quê hương mỗi người có một”, như là chỉ một mẹ thôi. Nhưng có người lại nói: Nơi nào mình sống ở đó suốt một quãng đời dài, có những người thân chung quanh mình, hưởng những ân huệ của phần đất cưu mang mình, thì nơi đó cũng được gọi là quê hương mình. Như vậy thì tôi có một hay hai quê?

Tôi sống ở Mỹ thì bạn bè gặp nhau thường nói: Cái này người Việt mình không hạp, hoặc người Mỹ họ mới thích nghi được việc này, người Việt mình không quen.

Khi đi dự buổi tiệc cuối năm của một công ty lớn ở Mỹ, toàn là những người Mỹ sang trọng thì thấy rõ ngay mình là người Việt đi lạc, dù mình có sang trọng, lịch sự như họ. Hóa ra ở Mỹ hay về Việt Nam mình đều lạc chỗ cả.

Tôi nhớ mấy năm trước có lần trò chuyện với mẹ của một người bạn, lúc đó cụ ngoài 80 hãy còn minh mẫn, cụ theo đạo Phật. Trưởng nam của cụ và con dâu cụ tự nhiên rủ nhau theo đạo Công giáo. Găp tôi, cụ hỏi: Không biết anh Bình nhà tôi khi chết thì đi đâu? Phật giận anh ấy, vì anh ấy bỏ đi, Chúa chắc gì cho anh ấy vào, vì anh ấy mới quá! Năm nay cụ ngoài 90 tuổi rồi và không may, cụ bị Alzheimer. Vậy là cụ không còn minh mẫn để lo con mình không có chỗ dung thân cho phần hồn. Bây giờ thỉnh thoảng nghĩ lại những lời cụ nói, thấy mình ngay ở đời sống này cũng đã là một vạt nắng phất phơ bay. Quê nhà, quê người, quê Mỹ, quê Việt. Chao ôi! Cái thân cỏ bồng.

Nhưng lạ lắm, tôi biết chắc mình là người Việt, nhất là khi tôi nằm mơ. Trong giấc ngủ tôi thường gặp cha mẹ, gặp ngay trong những ngôi nhà cũ ở Việt Nam, gặp bạn bè cũng gặp trên đường phố Việt Nam từ ngày rất xa xưa, và bao giờ trong mơ cũng đối thoại bằng tiếng Việt. Tỉnh dậy đôi khi vẫn ứa nước mắt, dù là một giấc mơ vui. Thấy nhớ quê nhà quá đỗi!

Tôi nhớ lại trong những truyện ngắn, những bài thơ Đường tôi đọc thời rất xa xưa về người bỏ làng đi xa lâu năm trở về không ai nhận ra nữa. Hồi đó sao mà mình thương những ông già trong thơ đó thế! Bây giờ nghĩ lại thì người trong sách đó còn may mắn hơn mình, họ đâu có đi đến tận một nước khác như mình. Họ chỉ bỏ làng, chứ không bỏ nước. Thế mà khi về còn ngơ ngác, bùi ngùi, tủi thân vì lạc chỗ ngay trong làng mình.

So sánh tôi với người bỏ làng ra đi trong những trang sách đó thì hoàn cảnh của tôi đáng buồn hơn nhiều. Không những đã bỏ làng, bỏ nước đi, còn nhận quốc tịch của một nước khác.

Khi về đổi họ thay tên. Núi chùng bóng tủi, sông ghen cạn dòng. (tmt)

Kim Thu tùy bút



Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 24/Feb/2010 lúc 7:16am
 
Chậm lại một nhịp để không thấy mình cô đơn
 
 
Một tháng nữa lại sắp sửa qua nhanh. Bước chân của thu đã thấp thoáng bên thềm. Những ngày hè nắng cháy da vui có buồn có đã nhạt nhoà dần và lùi vào trí nhớ. Mới nhận ra quỹ thời gian của ta trong một năm đang co dần. Cuộc sống vẫn mải mê chảy trôi theo một quy luật ngàn đời vẫn thế.

Chạy đua với thời gian, cuộc sống dường như hối hả, mau lẹ hơn. Có phải ta đã đủ lớn để nhận ra những việc cần làm, và cuộc đời - bắt ta phải giải quyết cả núi công việc có tên và không tên một khi đã bước vào guồng quay của nó. So với cái thời vụng dại, ta thấy mình già dặn và chín chắn hơn nhiều khi nhìn thấy quỹ thời gian đang trôi chảy dần. Muốn níu giữ thời gian nhưng thật khó. Ta không thể dừng lại để ngẫm nghĩ đúng sai, để cân nhắc điều gì có thể đến nếu như làm việc này việc khác. Nếu vậy, sẽ không có sự ưu ái nào dành cho chúng ta cả.  

http://images.vietnamnet.vn/dataimages/200809/original/images1631228_images1630024_boconganh.jpg">Bấm%20xem%20ảnh%20ở%20cửa%20sổ%20mới



Chạy đua cùng với nó, thành những con người năng động trong cuộc sống hôm nay, hẳn là không dưới một lần ta vẫn có cảm giác ngậm ngùi, một sự chạnh lòng nho nhỏ nếu không muốn nói là sự day dứt...

Có bao giờ bạn nghĩ đến ánh mắt buồn và trũng sâu của mẹ khi chờ đứa con yêu về quây quần, tíu tít bên mâm cơm gia đình. Có khi nào bạn dành khoảng thời gian, dù là ngắn ngủi ngồi trò chuyện với mẹ về những chuyện riêng tư, những mối quan hệ hằng ngày. Thói quen ấy dường như ta đang mất dần có thể vì bận rộn hay một sự ngại ngùng, không hợp thời với cuộc sống hôm nay.

Hằng ngày, ta vẫn dành một khoảng thời gian ngắn để gửi mail, tin nhắn cho bạn bè. Điều đó là rất cần thiết nhưng rõ ràng lạm dụng quá những phương tiện như thế để mong cầu một tình cảm mãi ấm nóng, vẹn nguyên thì thật không dễ. Vẫn giọng nói quen thuộc, vẫn những dòng comment trả về nhưng sẽ có sợ dây vô hình làm nhạt nhoà tình cảm. Dẫu không nhiều nhưng nếu ta dành lấy một khoảng thời gian dành tặng bạn bè, hâm nóng những chân thành và sự cảm thông, chỉ một cái bắt tay, một ánh mắt nhìn hay nụ cười gửi vội ta sẽ thấy ấm áp và gần gũi hơn.

Trải mình với sự hối hả của cuộc sống này, có lúc nào bạn thấy mình cô đơn?

Vì bận rộn hay thói quen cuộc cuộc bận rộn tạo ra mà đôi khi ta vô tâm, không để ý đến một ai đó, đang cần lắm cánh tay ta chìa ra giúp đỡ.... Một người ôm con, đứng vẫy xe ở đường. Khuôn mặt cầu cứu và hy vọng, nhưng những người đi đường đã lãnh cảm qua mà không hề suy nghĩ, vô tình và nhẫn tâm. Có ai biết rằng, người phụ nữ và đứa trẻ ấy đang cần lắm tình đồng loại, và lòng trắc ẩn của những người dưng. Những bước chân hờ hững đi qua chắc chắn không phải ai cũng “máu lạnh” nhưng rõ ràng có sự vô tâm và thờ ơ. Không thể nói rằng họ quá bận rộn và không có thời gian để dừng lại và lắng nghe. Có lẽ, chỉ là một thói quen, thói quen đáng sợ trong cuộc sống hôm nay.

Cuộc sống cần sự bận rộn, năng động và nhiệt huyết. Nhưng trong sự hối hả ấy, ta biết chậm lại một nhịp (chậm lại chứ không phải trì hoãn), cuộc sống này sẽ trở nên ý nghĩa thật nhiều. Một sự thoải mái và thanh thoát cõi lòng luôn ngự trị.

Chậm lại một nhịp, tại sao không?
 
 


-------------



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 27/Feb/2010 lúc 8:14am
Nghĩa Tình Khó Kiếm
7735.gif%20beautiful%20image%20by%20terrorann

tka23


Bảo Thúc là hiền sĩ của nước Tề. Một hôm xin vào yết kiến vua Hoàn Công để bàn chuyện quốc gia. Bảo Thúc nói:
- Quản Trọng là người ở nước ta, làu thông kinh sử. Bảy tuổi biết làm thơ, lên chín đã nổi danh về cờ thế, đến tuổi hai mươi thì địa lý thiên văn đều rành sáu câu vọng cổ, đến nỗi mai mối tranh nhau tới làm lễ vu quy cho thân chủ của mình, phải đánh đập nhau. Quản Trọng thấy vậy, lắc đầu nói:
"Chí làm
http://trai.software.informer.com/ - trai da ngựa bọc thây. Há lại dễ dàng chôn mình nơi chân giường xó bếp? Ta nhờ gặp được đấng minh quân, sống trong một nước thái bình thạnh trị, nên mới có thời gian rảnh rỗi để nghiên cứu thâm sâu, tăng cường trí viễn. Nay lộc vua chưa trả, nợ nước chưa đền - mà dính chuyện thê nhi - thì lỗi đạo vua tôi không biết chừng mô đây nữa!".
Thần nghe vậy, biết là Quản Trọng như cây tùng cây bách, có thể chống chọi được với bão tố phong ba, nên hết sức tiến dẫn lên hoàng thượng, để trước là tài năng khỏi phí, sau thêm người coi sóc trị an, thì dẫu nhắm mắt cũng yên lòng yên trí.
Hoàn Công đang lè phè là vậy, bỗng nghe có người ca tụng mình, bèn nhộn nhạo tim gan. Cao hứng nói:
- Giỏi! Giỏi! Có điều Quản Trọng tuổi đang còn nhỏ, chợt nhảy ra nắm đầu chư tướng. Chắc hổng được đâu!
Bảo Thúc sợ chuyện không thành, liền thở ra một cái. Vội vã thưa:
- Hạ thần chỉ sợ bệ hạ chần chừ, rồi Thục sang Tấn đón. E dzớt mẹ đi chăng?
Hoàn Công ngẫm nghĩ một chút, rồi cương quyết đáp:
- Tài năng chứng minh bằng hành động chớ không phải bằng lời nói. Được. Ta thâu nhận Quản Trọng. Nếu mọi sự hạnh thông, thì ba năm sau sẽ cất nhắc lên hàng khanh tướng.
Bảo Thúc mừng mừng trong dạ. Lúc được về, vội chạy đến nhà Quản Trọng báo tin, gặp lúc Quản Trọng đang ngả nghiêng uống rượu với mấy nàng hầu, bèn hốt hoảng nói:
- Sắc đẹp là liều thuốc mê. Nó có thể làm dừng bước chân anh hùng, mần tiêu tan dũng khí, và đẩy chí dọc ngang vào
http://hang1.software.informer.com/ - hang cùng ngõ hẹp. Nay đệ mãi ngụp lặn thế này, thì chẳng những mang hại cho bản thân, mà hậu vận tương lai cũng tiêu tùng bay láng.
Quản Trọng cười cười đáp:
- Đệ nghĩ ra rồi: Đời người có khác nào bóng câu qua cửa sổ. Dẫu có dọc ngang trời đất, phơi sương trải mật, rồi cuối cùng cũng phải vùi thân trong đất. Chớ lẽ nào khác đặng? Nay đệ hưởng được cảnh an nhàn như thế này, thì so với đám bạn nhậu chung quanh. Ước ao gì hơn nữa?
Bảo Thúc thấy lời tâm huyết của mình chẳng ép phê, lòng buồn vô hạn, nhưng khi nghĩ tới Quản Trọng chết chìm nơi đáy ly, thì mọi chán nản cơ hồ bay mất, liền nắm đôi bàn tay lại. Khẳng khái nói:
- Cõi trăm năm của con người, chỉ hơn nhau ở chỗ biết dùng cái thân mình làm lợi cho nhân quần xã hội. Dầu biết rằng đời người ai cũng chết, nhưng có kẻ chết đi để lại cho đời những công đức không làm sao quên được. Còn có kẻ chết đi chỉ là… tốn thêm rượu thịt mà thôi. Huynh nghĩ: Đệ cơ trí hơn người, mà lại đem cái hơn đó đổ ngay vào ly rượu. Chẳng uổng lắm ư?
Sáng ngày mai, lúc Quản Trọng đang ngồi ăn điểm tâm, chợt có mẹ là Lã thị đến bên. Nói:
- Nếu nhìn nhận mình có điều sai trái, thì thiên hạ sẽ nhận ra cái tốt nơi chính mình. Con có người tri kỷ thương con là vậy, mà hổng biết quý yêu, thì mốt nữa mai kia mần răng mà kiếm được?
Trọng nghe mẹ phán vậy. Sửng sốt đáp:
- Mẹ nói vậy nghĩa là làm sao?
Lã thị từ tốn nói:
- Tối qua mẹ ở thư phòng, tình cờ nghe được mẫu đối thoại giữa con và Bảo Thúc. Mẹ nghĩ: Kẻ trí bao giờ cũng thấy cái hại xa mà tránh cái lợi gần, mà con mần ngược lại, là cớ làm sao?
Quản Trọng đưa tay gãi đầu, rồi ấp úng nói:
- Mẹ nhận xét về Bảo Thúc thế nào? Có thể đôi lời cho con rõ được chăng?
Lã thị chậm rãi đáp:
- Bạn không phải là người sống gần bên cạnh, càng không thể ăn nhậu chung mỗi ngày, cũng không phải đem những lời mật ngọt hầu mua lợi về sau - mà bạn - là những kẻ cùng chung hoài bão, cùng chung chí hướng, cùng tâm tâm niệm niệm làm đẹp cho đời.
Trong mắt của mẹ, Bảo Thúc không phải là bạn - mà là tri kỷ - là người mà suốt cuộc đời. Chưa chắc con gặp được lần thứ hai.
Quản Trọng ngẫm nghĩ một chút, rồi nhỏ giọng nói:
- Vậy theo ý của mẹ, thì con phải làm sao?
Lã thị đảo mắt một vòng. Khi chắc chắn là chẳng có ai, bèn ghé miệng vào tai. Lè lẹ đáp:
- Tối qua mẹ ở thư phòng để cầu cơ, xin Cậu Bà chỉ dạy, đặng làm sao con được hoan lộ bước
http://thang11.software.informer.com/ - thang mây, công thành danh tới. Cậu dạy rằng: "Có hai điều con phải làm. Thứ nhất là nghe bạn. Khi được chuyện rồi thì phải từ nghe bạn chuyển sang nghe… vợ. Giữ được hai điều ấy, thì chẳng những muôn sự êm xuôi, mà ở tuổi hưu cũng bình tâm vui sướng.".
Trọng trố mắt nói:
- Con chưa có vợ, thì lấy gì mà nghe? Chẳng lẽ Cậu cũng… thua nhiều hơn thắng?
Lã thị vội đưa tay bịt miệng con. Thảng thốt nói:
- Chuyện thua thắng của Cậu. Làm sao con biết? Mà một khi không biết thì đừng bao giờ cố tỏ ra là mình biết, bởi sẽ đến lúc mình… không biết thật. Chuyện huyền diệu ở cõi trên, chỉ lòng thành mới thấu. Phần con. Rượu thịt ê hề. Hầu đẹp bao quanh, lại chơi bài tá lả, thì trước là chưa đủ lòng thành, sau chưa sạch bên trong, thì mơ ước chi đến chuyện Cậu Bà sẵn từ tâm khai sáng?
Rồi nhìn thẳng vào mắt con. Nghiêm mặt nói:
- Quân tử kiến cơ nhi bất tác. Thời hồ, thời hồ bất tái lai. Anh hùng gặp thời không hành động, về sau thời cơ không tới nữa. Chẳng uổng lắm ư?
Đoạn, quày lưng đi một nước. Trọng thấy vậy, mới thì thào tự nhủ lấy thân:
- Trước khi thành mẹ thì phải là vợ, mà vợ thì chẳng hề sai. Vậy mẹ làm sao mà sai được?
Rồi hăng hái ra làm việc. Chỉ ít năm đã thăng đến chức Tể tướng, khiến Lã thị mát cả mặt mày, nên đi đâu cũng đem chai dầu gió theo, sợ thình lình trúng… gió!
Ngày nọ, Bảo Thúc đang sơn nhà. Chợt nghe Quản Trọng được Hoàn Công tin dùng phong cho chức Tể tướng, bèn xúc động đến độ làm rớt cái cọ xuống nền nhà. Vợ là Uyển thị từ trong bếp ngó thấy chạy ra. Hơ hãi nói:
- Những tai họa xảy đến trong đời người, thường bắt đầu từ những việc nhỏ nhặt. Nay cọ rớt xuống nhà rồi. E chết mẹ đi chăng?
Bảo Thúc vội vàng đáp:
- Cọ rớt không nằm trong… dòng số phận. Xin nàng đừng quá buồn lo như thế!
Uyển thị lắc đầu nói:
- Nhện sa trước mặt còn có chuyện. Hà huống cọ bự thế này. Lẽ nào yên hàn mà tin được hay sao?
Bảo Thúc thấy vụ việc bỗng đâm ra quan trọng, liền xua tay nói:
- Nghe chồng một lần, thì tim gan sẽ bình yên chắc cú.
Uyển thị háy một cái, rồi bực bội gắt:
- Chuyện xui từ chồng mà ra. Do chồng mà có. Nay muốn yên ổn thì lại phải nhịn chồng. Thử nghĩ có nên chăng?
Rồi lớn giọng nói:
- Được lòng vợ thì hưng thịnh. Mất lòng vợ thì bại vong. Chuyện sinh tử đó lẽ nào chàng không biết?
Một hôm, Quản Trọng đang ngồi lai rai ở hậu cung, chợt có kỵ mã vào cấp báo. Tối qua, Bảo Thúc bị rắn cắn mà từ giã cõi đời, khiến Trọng nước mắt như mưa, ướt đầm ra cả áo. Tả hữu thấy vậy, mới thắc mắc hỏi rằng:
- Tể tướng với Bảo Thúc không phải họ hàng thân thích, lại càng không phải anh em cột chèo, mà khóc thương nhiều như vậy, là nghĩa làm sao?
Quản Trọng nghèn nghẹn đáp:
- Các ngươi không rõ, để ta kể cho mà nghe. Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường đi buôn với Bảo Thúc. Lúc lỗ thì Bảo Thúc chịu một mình, bởi cứ nghĩ tiền bạc là vật ngoại thân, cần chi… hai đứa. Còn lúc vô mánh đậm, lúc chia lãi, bao giờ ta cũng lấy phần hơn, mà Bảo Thúc không cho ta là người tham vét, bởi biết ta gặp cảnh quẩn bách nên bất đắc dĩ phải mần y như thế. Ta ở chỗ chợ búa thường bị lắm kẻ nạt dọa, làm tiền, mà ta chưa hề chống trả, nhưng Bảo Thúc không cho là ta nhát, bởi hiểu rằng ta có lượng bao dung. Ta bàn việc với Bảo Thúc, nhiều khi trớt quớt, nhưng Bảo Thúc không cho là ta ngu, bởi hiểu được thời cơ chưa tới.
Ta, ba lần ra làm quan, ba lần bị đuổi, nhưng Bảo Thúc không cho rằng ta vô dụng, mà chỉ vì chưa gặp được minh quân, tìm ra Chân lý. Ta ra trận ba lần thua đủ cả ba, mà Bảo Thúc không cho ta là bất tài, bởi biết ta còn mẹ già phải phụng dưỡng. Lỡ thác đi rồi thì hiếu đạo làm sao?
Ta tỏ tình ba lần bị chối bỏ cả ba, mà Bảo Thúc không cho ta là người dại dột, bởi hiểu được khi yêu thì sự khôn ngoan phải nằm nơi góc, xó. Ta bị vợ la, một đời không cãi lại, mà Bảo Thúc chẳng lấy đó làm phiền, bởi hiểu được hơn thua với vợ chỉ từ chết đến bị thương. Suốt đời húp cháo.
Ta mê bài mê bạc, đặt cá tận tình, thậm chí có lúc tanh bành cả tháng lương, nhưng Bảo Thúc không cho là nết xấu, bởi hiểu rằng chỉ là chưa… đỏ mà thôi. Ta nhẫn nhục làm quan, rồi nhẫn nhịn làm chồng, nhưng Bảo Thúc không cho ta là… mái, bởi hiểu rằng cái nhịn đó sẽ mang đến cái hậu đẹp mù khơi. Ta bảy lần muốn nàng hầu, nhưng vợ nhà không chịu, lại còn bắt ta phải bốn mươi chín ngày nhìn tường sám hối, đặng tỏ dạ ăn năn. Bảo Thúc biết chuyện, chẳng những không cho là ta sợ, mà còn nói: "Để vợ buồn thì ta ở với ai?".
Rồi nước mắt chảy dài. Nức nở nói:
- Sinh ra ta là cha mẹ. Biết ta là Bảo Thúc. Mà đối với người biết mình, có đem cả… két ra chơi còn chưa cho là quá. Huống chỉ chỉ ít giọt này. Nào đã thấm vào đâu?
Chợt trong đám tả hữu đứng chung quanh. Có người bước ra. Cung kính nói:
- Nếu vậy, Bảo Thúc là tri kỷ của đại nhân. Có phải vậy chăng?
Quản Trọng òa to khóc:
- Phải! Phải! Cả đời ta, giao thiệp với nhiều người, bè bạn tưởng chừng như vô số, nhưng đã được mấy ai bảo bọc và che chở lúc mình vấp phạm? Chẳng vậy mà cổ nhân có nói: Đắc nhất tri kỷ. Khả dĩ bất hận. Ở đời mà có một người hiểu mình, thì có lỡ thác đi, cũng chẳng lấy gì đáng tiếc.

Mõ saigon



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 02/Mar/2010 lúc 6:24am

Đến một lúc ...

beautiful.gif%20Beautiful%20Day%20Rose%20image%20by%20emiesmom




Ðến một lúc , chúng ta bỗng thông hiểu tất cả mọi quy luật của đất trời rằng không có gì là trường tồn bất biến , ngược lại chính nhờ sự biến đổi ấy mà chúng ta có những điều mới mẻ tinh khôi .

Ðến một lúc , mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần .

Chúng ta sống quá lâu trong thành kiến và định kiến hẹp hòi cùng với lòng kiêu mạn đứng chen chân trong một ngôi nhà bản ngã ; đến một lúc , chúng ta cần phải bước ra khỏi cửa để được ngắm nhìn toàn bộ sự mênh mông và bát ngát của đất trời .

Ðến một lúc , chúng ta cảm nhận được niềm vui khi tấm lòng rộng mở và trái tim thắp sáng lên niềm tin yêu cuộc sống .

Ðến một lúc , chúng ta nhìn lại và cười nhạo vào những trò hề do chính mình tạo ra và chúng ta trở nên lặng lẽ để thấy rõ sự cần thiết của tĩnh tại tâm hồn .

Chúng ta chợt nhận thấy quy luật sâu xa của cuộc sống hạnh phúc không chỉ là đón nhận mà còn phải là sự cho đi .

Ðến một lúc , cảm thấy ngập tràn hạnh phúc không phải vì chúng ta vớt lên được cái gì đó từ dòng nước mà chính là quăng bỏ bớt cho dòng nước cuốn trôi.

Ðến một lúc , chúng ta hiểu được sự thật của niềm vui không phải là ở đỉnh vinh quang hay ngọn núi ngập hoa vàng mà chính là từng bước chân thảnh thơi và được ngắm hoa cỏ dại trên đường .

Chúng ta chợt nhận ra rằng hạnh phúc không phải ở đâu xa mà chính là sự mãn nguyện trong từng phút giây hiện tại .

Khi đã trải qua bao nhiêu buồn vui thương ghét , bao hi vọng chán chường , bao thành công thất bại , đến một lúc chúng ta chợt nhận thấy rằng tất cả mọi sự đời đến và đi , có rồi không dường như chỉ là một tuồng ảo hóa .

Chúng ta cảm thấy mọi lý luận , ngôn từ đều thừa thãi , thay vào đó chỉ cần một nụ cười , một ánh mắt hoặc một tình thương nồng ấm dẫu chỉ là của người khách qua đường cũng đủ làm cho ta ấm lòng và tươi vui hơn trong cuộc sống .

Ðến một lúc , chúng ta thấy tuổi trẻ của mình chỉ toàn là ước mơ cùng với nỗ lực vào tương lai hun hút , và đến lúc già đi thì luôn hồi ức tiếc thương một dĩ vãng đã xa rồi . Trong một đời người ngắn ngủi chúng ta đã đánh lỡ đi bao sự sống nhiệm mầu trong thực tại giản đơn .

Ðến một lúc , chúng ta hiểu ra rằng duy chỉ có tình thương , chứ không phải có bất cứ thứ gì khác giúp con người thiết lập được trật tự mới và hòa bình cho nhân loại .

Mọi dòng sông đều chảy ra biển cả , mọi con đường chân lý đều hướng về nẻo đạo vô biên và mọi yêu thương chung cuộc đều đạt đến chân phúc ...

Ðến một lúc , chúng ta cần phải dọn đất trồng hoa trên mảnh vườn của mình còn hơn mỏi mòn chờ đợi ai đó mang hương sắc đến dâng cho .

Tất cả mọi hành động của ta chỉ là những đợt sóng lăn tăn trên mặt biển nhưng trong lòng đại dương sâu thẳm vẫn còn đó sự lặng lẽ bình yên .

Ðến một lúc , chúng ta cảm thấy những việc làm thường nhật phải là niềm vui cho sự sống hàng ngày chứ không phải là sự bắt buộc hay là một quán tính khô khan , máy móc của đời mình .

Hiểu ra rằng bản ngã ích kỷ thường khiến mình nhìn thấy lỗi lầm , sự xấu xa của người khác hơn là chính bản thân mình . Chúng ta thường che đậy và bảo vệ mình khỏi tổn thương nhưng vô tình điều ấy là tự ôm chất độc và giết chết bản thân mình .

Ðến một lúc , chúng ta cảm thấy sự tha thứ , bao dung là món quà tặng vô giá và cần thiết mà con người có thể trao tặng cho nhau không bao giờ cạn .

Khi chúng ta thấy mình tham vọng quá lớn trong khi đời người thật ngắn ngủi , đó là lúc mình hiểu ra hành trang cho lộ trình vạn dặm không phải là những gì có thể nắm bắt bên ngoài mà đó là yếu tố tâm linh bất diệt bên trong .

Ðến một lúc , chúng ta hiểu con đường tâm linh thì tuyệt đối đơn độc , không ai có thể đi theo dẫu đó là người thân yêu nhất .

Chúng ta cảm nhận những khoảnh khắc tĩnh lặng nhỏ bé của tâm hồn còn quý giá hơn cả những tài sản được cất chứa chung quanh là lúc chúng ta định lượng được giá trị chân thật của một kiếp người .

Chúng ta hiểu rằng cần phải thánh hóa đời sống hơn là chạy đi tìm thiên đường ở chốn xa xăm . Ðến một lúc, chúng ta cảm thấy không sợ hãi địa ngục hoặc một thế lực tối cao , nhưng bằng trí tuệ tuyệt vời , chúng ta thấy rằng vạn pháp vốn là không và số phận tùy thuộc vào khả năng giác ngộ của chính mình .

Chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng , thanh thản trước những mất mát , đau thương vì lòng nước thanh lương có thể cuốn trôi đi bao hệ lụy và có thể đưa chúng ta bến bờ rạng rỡ của ngày mai ...

 
sưu tầm


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 04/Mar/2010 lúc 1:35am

http://cafedao.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1499:s-ch-con-la-k-nim-em-nhe-&catid=172:cafe-khong-ng&Itemid=176 - Sẽ chỉ còn là kỉ niệm em nhé !

alt
Có ai nói cafe ngon chưa nhỉ ? chắc những người yêu cafe sẽ giơ tay lên, sẽ gật gù,......Nhưng với nó, cafe đắng lạ lùng.......thêm chút đường,....nhiều nữa, nhiều nữa......vẫn đắng nghét......nhưng vẫn thích  uống  và nhất định nó sẽ bụp 1 quả cho ai dám phản bác ý kiến rằng, cafe rất ngon .



Nó gặp em, tại nơi này, 1 quán cafe, không sang trọng, cũng không lãng mạn, không cầu kỳ, ngược lại, nó rất đơn giản, rất bình dị, rất ấm áp.....nhưng nó vào đây, không phải để uống cafe, nó ghét cafe nhất trên đời, nó vào đây, để trốn tránh cái thế giới ngột ngạt, ồn ào, và phức tạp......em cũng thế, nhưng em vào đây, có mục đích, là uống cafe, để thưởng thức cái j đó, của cuộc sống......nó quen em, như thế nào, thì không còn nhớ rõ nữa rồi, chỉ biết  rằng sau đó, nó thích cafe lạ lùng, uống vào, đắng lắm, nhưng vẫn thích .....
alt

Ai đó sẽ nói suy nghĩ của nó là một mớ hỗn độn phức tạp ... Nhưng nó là thế ...

Lần đầu tiên, nó được đến cái quán ấy với chức danh là người yêu của em, nó vui lắm, nhưg thật sự, đầu óc nó, mỗi lần ở bên em, là lại trống rỗng ….cũng vì thế mà khi gọi đồ uống, nó buộc miệng “ cho 2 café đá …” , rồi khi anh phục vụ mang ra, nó mới đơ cả người, ….ơ, nó có biết , café là j đâu >”< , từ trc đến giờ nó ghét nhất cái vị đắng của café, vậy mà …..Rồi nó làm 1 điều, mà nó cho là ngốc xít nhất từ trước đến giờ, …tu 1 hơi dài cái ly café ấy …..em nhìn nó, dịu dàng, cười, rùi mỉa mai

 
alt
- Anh coi kìa, có ai trên đời, uống café giống như anh không ?
- Nhưng anh thích  thế …. 
Rồi 2 đứa cười, vui lắm, nó cảm thấy hạnh phúc hơn bất kì lúc nào ….thế rồi , ngày qua ngày, dần dần, nó thích  ngồi nhìn em, và uống café vội vã như sợ, sợ đánh mất điều gì đó …..

Nhìn giọt café rơi xuống, nhẹ nhàng, nhẹ nhàng, nó chưa bao giờ để ý kĩ đến như thế, từng giọt café rơi xuống, như đang đong đầy nỗi nhớ của nó, về kỉ niệm, về con đường nó đã đi qua, về giọt đắng của cuộc sống ….nó thấy, cái j cũng mang cho mình, 1 ý nghĩa riêng cả, ngay cả ly café đắng, cũng chứa đựng trong nó, những ý nghĩa thật nhẹ nhàng ……
 
alt
 
Hôm nay, nó vào quán café một mình, vẫn như thế thôi, trốn tránh cái thế giới ấy, nó cảm thấy bơ vơ, trơ trọi wá, …..Nhìn con đường đã đi qua, nhớ lại từng người mà nó đã yêu, nó cảm thấy, tình yêu sao mong manh quá, tan rồi hợp, hợp rồi tan …..Có người nói rằng, nếu bik thưởng thức sẽ cảm nhận đc cái ngọt của vị café , nhưng, đã lâu lâu lắm rồi, nó không còn cảm nhận đc cái vị ngọt ấy, mà chỉ toàn là vị đắng, vị đắng ly cafe, vị đắng cuộc đời …..
Phạm Ngọc Giàu


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 04/Mar/2010 lúc 8:12pm
Mối Tình Việt Ấn
Một câu chuyện tình đầy thơ mộng và lý thú đã xảy ra tại vùng thung lũng Silicon cách nay gần mười năm …

Theresa Thiên Kim, tên của nàng – Thiên Kim đến Hoa Kỳ theo diện HO cùng cha mẹ và 6 anh chị em, nàng là người con áp út – Vào năm 1990 Thiên Kim vừa tròn 20 tuổị Ðến xứ lạ quê người trong hoàn cảnh gia đình khó khăn, chính phủ Hoa Kỳ chỉ cấp dưỡng trong vòng 8 tháng mà thôi, sau đó mỗi người lăn bổ đi tìm việc … Thời ấy công việc làm không thiếu, hãng xưởng tại vùng Silicon tràn ngập nên anh chị em nàng tìm việc rất dễ dàng.
Hàng ngày Thiên Kim đi đến hãng điện tử Solectron làm việc. nơi đây nàng gặp rất nhiều người Việt Nam cũng là nhân viên như nàng - Niềm vui tao ngộ đồng hương đã cho nàng thêm sức sống, cha nàng là Ðại Tá QLVNCH thời đệ nhị Cộng Hòa .- Qua chương trình HO 1 gia đình không rớt lại một ai nên cha mẹ nàng cũng có phần mãn nguyện. Nhưng tạo hóa trớ trêu gây cảnh đất bằng dậy sóng, một buổi cha nàng đi tập thể dục như hàng ngày cha vẫn đi bộ suốt hai giờ liền trong những dãy nhà song song với nhà nàng. Một người đàn bà từ đâu xuất hiện đi bộ sau lưng cha rồi bà kiếm chuyện làm quen, ba nàng tuy năm ấy cũng đã tròm trèm 70 nhưng trông vẫn còn tráng kiện, nhìn cứ tưởng khoảng 60 thôi - Thường thì mỗi ngày ba nàng chỉ đi bộ vài giờ vào buổi sáng là về nhà ăn điểm tâm, cà phê mẹ dọn sẵn để trên bàn cho cha – Hơn một tháng nay cha nàng đã thay đổi cách sống, sáng ra đường là cha đi một mạch tới tối mới về nhà, cha chưng diện chải chuốt bảnh bao một cách lạ thường, cha không còn thời giờ quan tâm các con hay là săn sóc mẹ nàng như xưa…Mẹ buồn rầu đâm bệnh nặng, cơn bệnh trầm tư từ trong óc não đã khiến mẹ nàng không nói được và nằm liệt suốt hai năm liền – Sau khi thấy bệnh tình của mẹ càng ngày càng nguy nan, cha hối hận quay về thì đã muộn, mẹ nàng từ giã cõi đời vào một đêm mưa bão bất ngờ từ đâu thổi tới bởi xứ thung lũng này ít khi được mưa bão đoái hoài, mưa thỉnh thoảng có thì như mưa phùn lác đác vậy thôi …

Mẹ nằm bất động trên giường sau khi anh chị em nàng đã chạy chữa qua nhiều Bác Sĩ Y Khoa và Ðông Y, tất cả đều bó tay chờ định mệnh an bài – Trên tay mẹ vẫn cầm một chiếc đồng hồ bằng vàng mà như Thiên Kim biết là quà sinh nhật cha đã tặng mẹ cách nay ba năm - Mẹ không đeo chiếc đồng hồ vào tay mà chỉ cất giữ trong chiếc hộp thủy tinh tuyệt đẹp, nhiều lúc chị gái nàng hỏi :
- Sao mẹ không đeo đồng hồ ba tặng, bàn tay mẹ thon thon, cổ tay đầy đặn, mẹ đeo vào sẽ đẹp và tăng thêm sự quý phái, hay mẹ để con lấy đồng hồ ra đeo hộ cho mẹ nhé ?
- Ðừng con, mẹ ôn tồn trả lời : Mẹ quý chiếc đồng hồ ba đã tặng như chính bản thân của mẹ, mẹ không muốn nó bị trầy hay bị cũ đi nên mẹ chỉ để dành ngắm nghía mà thôi, thấy nó là thấy hình ảnh ba con … Dạo nầy ba con sinh tật đam mê người đàn bà khác bỏ mẹ cô đơn, không có ba con bên cạnh thì có chiếc đồng hồ thay thế mẹ cũng thấy bớt đi phần nào niềm đau đớn tuy biết rằng mẹ đã phải ôm vào cuối cuộc đời niềm bất hạnh không ngờ !

Sau lần tậm sự đó mẹ nàng không nói được nữa và lâm bệnh trầm kha từ giã cuộc đời đau thương tủi phận, ngày tang lễ cha quỳ xuống ăn năn hối hận, nước mắt cha tuôn trào trên gương mặt héo hon khắc khổ… Cha bước đến bên mẹ tháo chiếc đồng hồ đã chặt cứng trong bàn tay giá lạnh của mẹ rồi mang vào cườm tay mẹ với cõi lòng nát tan .
Lá đã rụng đầy trên lối đi
Mùa thu vàng úa nỗi ai bi
Ðông về trong gió buồn se lạnh
Ai biết lòng ta trĩu nặng gì …
Chưa giã từ nhau sao vội đi
Nửa chừng lỗi nhịp khúc từ ly
Trăm năm một thoáng mơ hồ mộng
Người đã xa rồi, lệ ướt mi
Nhân thế đau buồn chuyện tử sinh
Bao nhiêu họa phúc giữa điêu linh
Phù du, tan hợp là thân phận
Biển khổ lênh đênh một chữ tình
Ai tiếc mùa thu, thương lá rụng
Ai về ấp ủ mộng xuân sang
Cho tôi gửi gấm niềm tâm sự
Ðến chốn vô cùng của nát tan …
Mùa thu Cali buồn và lạnh, những chiếc lá vàng thi nhau rơi lác đác ven đường làm lòng Thiên Kim chùng xuống, hai tuần vắng bóng người mẹ thân yêu vĩnh viễn, nàng biết làm gì để khỏa lấp nỗi trống vắng đến ghê sợ này, cha thì nằm li bì trong phòng riêng suốt ngày đêm, khi cần ăn uống cầm chừng cha ra ngoài bàn ngồi lặng lẽ và thường lẫn tránh cặp mắt anh chị em nàng - Mất người vợ hiền dường như cha cũng bỏ luôn người đàn bà hắc ám kia nên sau mấy tháng liền cha không đi tập thể dục và cũng không thấy cha đi ra khỏi nhà cũng không còn chưng diện như xưa .

Gió vẫn rít từng cơn não nuột, trên xa lộ mênh mông đơn độc Thiên Kim thấy buồn cho số phận mỏng manh, gần ba chục tuổi đầu không tìm được một tình yêu … Những hàng cây xanh đỏ tím vàng san sát bên nhau đẹp lạ lùng cũng không làm nàng vui được, những hình ảnh trước mắt mà hàng ngày nàng vẫn không quan tâm khi đi làm trên thành phố xa xôi này, hôm nay bất chợt nàng nhớ đến một bài thơ của một thi nhân đã tả về cảnh đẹp mùa thu, vì thích thú nàng đã thuộc lòng bài thơ tự khi nào không hay …Thiên Kim lẩm nhẩm :
Cho đến muôn đời thu vẫn đẹp
Lá vàng pha lá đỏ tươi xinh
Bên đường lặng lẽ hàng cây đứng
Những đóa hồng khoe sắc hữu tình
Phố Palo Alto êm đềm thơ mộng
Một buổi chiều lữ khách ghé thăm
Hoa lá reo vui theo gió lộng
Làm say lòng bao gã thi nhân ...
Ta cũng say sưa phố lạ chiều
Muôn trùng lá thắm đọng thương yêu
Dọc theo con lộ dài hun hút
Vàng, đỏ, nâu, hồng ... thoáng tịch liêu
Rừng lá mùa thu trải khắp miền
Ðiểm tô thêm đẹp phố bình yên
Ta ngơ ngẩn với ngàn hoa lá
Hồn bướm mơ tiên ... chẳng lụy phiền
Ta thấy quanh ta xác lá vàng
Quyện tròn trong gió buổi thu sang
Tưởng như ai đó đang vương vấn
Cho mộng thêm dài ... lạnh gối chăn !
Cảnh đẹp cho hồn ta ngất ngây
Tình thơ lai láng giữa trời mây
Nhìn thu ta bỗng lòng say đắm
Giấc mộng Hằng Nga ... giữa cõi này ...

Tâm hồn Thiên Kim bay bỗng như hòa nhập vào những câu thơ trữ tình kia, bỗng “ rầm” nàng đã tông vào xe phía trước, người lái xe mở cửa bước xuống tiến về phía Thiên Kim khi nàng vội vã tắt máy ngừng xe lại ngay sau xe người ấy - Một người đàn ông nước ngoài, có lẽ là người Iran Iraq hay Ấn Ðộ gì đây …Thiên Kim hạ kiếng xuống ngồi im chờ thái độ người kia để nàng hạ mình xin lỗị Ông ta nhìn nàng rồi nói nhỏ nhẹ một tràng tiếng Anh, tay chỉ vào chỗ xe bị đụng – Thiên Kim lính quýnh không biết phải làm sao, bởi nàng tiếng Anh không giỏi chỉ đủ để đi làm trong hãng xưởng mà thôi, nàng lấp bấp :
- I am sorry for this happening, but I have my insurance to cover for the damage of your car.
- That’s all right! Would you please give me your car insurance, and your driver licensẹ Ông ta trả lời nàng.

Ông lấy số phone của Thiên Kim và ghi số xe cùng số bằng lái và insurance của nàng xong chào nàng và tiếp tục lái xe đi mà không gọi 911 – Thiên Kim hoàn hồn, đưa tay đấm vào đầu thật mạnh “ từ nay quyết chừa tật mộng mơ khi lái xe nghe nhỏ khùng”

Ðã qua một tuần vẫn không thấy người bị nàng đụng xe làm gì cả, hay ông ta tốt bụng thương hại nàng mà không bắt nàng bồi thường. Nàng không tin vào điều mơ ước đó, dễ gì … “ Người Việt Nam còn hoạ may có tình đồng chủng, ông này người khác giống khác giòng đừng mơ mộng viễn vông nữa nhỏ khùng ơi” Thiên Kim hay tự nguyền rủa mình là nhỏ khùng mỗi khi làm điều sai trật hay lỡ lầm xử lý thiếu đạo đức và trung thực với lương tâm… bởi lẽ đó nhiều khi nàng tự nghĩ “ hay ta cứ mắng ta khùng rồi khùng thật rồi chăng, cũng nhan sắc, cũng khôn ngoan, lịch lãm mà chẳng thằng ma nào để mắt thương dùm, dù trong hãng ta làm khối người Việt đẹp trai bãnh chọe đếm không hết”…

Tiếng điện thoại reo vang cắt ngang dòng tư tưởng của Thiên Kim, lạ nhỉ, bây giờ là 10 giờ đêm, ai gọi mình vào giờ đi ngủ vậy ? Tin chắc cha đã ngủ, các anh chị dần dần lập gia thất ra riêng, thằng út cũng đã ra trường đi làm xa, Thiên Kim yên tâm nhấc phone lên và giật thót người “ chết cha rồi, thằng cha Iraq bị mình đụng xe hôm trước, chết cha rồi, mẹ ơi mẹ linh thiêng phù hộ cho con mọi việc êm xuôi tốt đẹp nha mẹ thương yêu của con”
Ông ta hẹn nàng ngày mai lúc 10 giờ sáng tại tiệm Tùng Auto Repair trên đường Senter để nàng trả tiền sửa xe cho ông – Nàng đồng ý nhận lời cái hẹn sáng mai tuy rằng cũng hơi lo ngại cho số tiền Repair không biết là bao nhiêu ?
Gặp lại lần thứ hai, người đàn ông rất tự nhiên và cởi mở trò chuyện thân mật với nàng, dù không giỏi tiếng Anh nhưng nàng cũng khá về từ ngữ nên đã hiểu được những gì ông ta vừa trao đổi và tìm hiểu về bản thân nàng… Thì ra ông ta là người Ấn Ðộ, với đôi mắt sáng tinh anh, nước da ngâm, thân hình bệ vệ có vẽ hơi phì … tướng thì cũng ngon cơm nhưng đi chiếc xe cũ kỹ thì chắc chắn cũng nghèo rớt mồng tơi như ta thôi, cái mộng ông ta thương tình mà không đền tan vào mây khói lãng du rồi nhỏ khùng ơi …

Một phép mầu từ đâu đưa đến, chắc hồn mẹ linh thiêng đã phù hộ cho nàng, sau một hồi nói chuyện ông mời nàng đi ăn trưa để thời gian cho tiệm Tùng định giá cả hư hại thế nàọ Khi trở về chỗ sửa xe ông nói với người chủ “I’m going to pay by my credit card.”

Một cảm mến tư cách người ngoại quốc lâng lâng trong hồn người con gái Việt Nam, nàng nhìn trăng đêm nay sao đẹp và thơ mộng hơn những đêm trước, Thiên Kim có tật thức khuya ngồi lặng lẽ một mình ôm vào lòng bao tâm sự rồi tự than vãn một mình và quyết định một mình, phải chăng cuộc đời nàng là cả một chuổi cô đơn và tự quyết, tự lập như chính bản thân nàng trong hiện tại - Từ tình cảm thân mến đó, người đàn ông Ấn Ðộ tên Kan đã đến thăm nàng tại nhà riêng của cha con nàng, cha không có phản ứng gì bởi thấy nàng cũng đã lớn, toàn quyền quyết định chuyện riêng tư – Ai dè chuyện đụng xe lại đem đến cho nàng một may mắn có được một tình thân bè bạn, chắc chắn là mẹ chớ không còn ai vào đây mà giúp nàng như thế cả - Mỗi lần đến nhà thăm nàng ông Kan thường đến bên bàn thờ Mẹ lấy một nén nhang đốt lên và cắm vào chiếc lư nhang, nàng để ý thấy điều đó không bao giờ ông Kan quên làm sau khi ngồi vài ba phút… Cảm động trước tình người cao đẹp có đạo đức như vậy, Thiên Kim dần dà yêu thương tuy biết rằng ông ta cũng nghèo khó cơ hàn không thể lo cho nàng một cuộc sống tốt đẹp và khấm khá hơn.

Thời gian dần trôi qua trong những bước thăng trầm, trong tình yêu chân thật của cả hai, một hôm Thiên Kim hỏi :
- Em không hiểu tại sao anh là người khác chủng tộc với em mà lại quá tốt, mỗi lần đến nhà em là y như rằng chỉ vài phút sau là anh đốt nhang cho Mẹ, em để ý chưa một lần nào anh quên, người Ấn Ðộ tâm hồn cao đẹp quá anh nhỉ !
- Kan cười “ không phải vậy đâu em cưng, người Ấn Ðộ không tốt như em tưởng đâu, chẳng qua nhà em nấu nướng thứ gì mà hôi quá anh không chịu nổi nên phải đốt nhang cho nó khử bớt mùi vậy thôi, thú thật mỗi lần anh đến thăm em là vì tình thương thật sự chứ mỗi lần đến là mỗi lần bị ngột ngạt cái mũi của anh em biết không ? Nói xong Kan ôm chặt lấy nàng vì sợ nàng giận, Thiên Kim ngượng chín cả người, ôi chao người Việt Nam chúng tôi ăn uống thứ gì mà để ông chê bai như thế, thì ra vì nguồn gốc tổ tông, nước mắm, xì dầu, mắm tôm, mắm cá … Rồi mà xem, cứ chê đi, mai mốt thành vợ thành chồng tớ sẽ cho nhà ngươi lãnh đủ các món ăn mà nhà ngươi sợ hãi … Nghĩ thế Thiên Kim cười một mình, đây là cách trả thù độc đáo của đàn bà Việt Nam chúng tôi mà …

Cuộc tình Ấn Ðộ Việt Nam kéo dài hơn hai năm, nàng không bao giờ hỏi Kan làm việc gì và làm việc ở đâu, chỉ biết chàng bằng tình yêu chân thật, mỗi ngày chàng mỗi vun quén đậm đà thêm lên, hàng ngày sau khi đi làm về Kan ghé nhà thăm cha nàng, mua cho ông vài hộp sâm, vài chai rượu vang ít tiền, chưa khi nào Kan mời nàng đi shopping mua sắm ngoại trừ chàng mua thức ăn mang đến cho nàng nấu nướng và chàng đã biết ăn chút chút những thức ăn mà trước đây nghe mùi Kan sợ hãi – Ðêm nay Kan xin phép cha nàng ở lại với Thiên Kim để bàn việc hôn nhân và được cha đồng ý . Nằm gọn trong vòng tay thương yêu của Kan, từ những chiếc hôn nồng nàn chàng trao gửi, Thiên Kim không mong ước gì hơn được sống mãi bên Kan với tình yêu tuyệt đẹp như đêm nay, ngày xưa nhà thơ Xuân Diệu đã có câu “ Yêu là chết ở trong lòng một ít vì mấy khi yêu mà chắc được yêu, cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu …” Ối chao, chỉ viễn vông thôi, đã yêu nhau thì cho nhiều cho ít có nghĩa gì đâu, như Kan và mình đây, Ấn Ðộ và Việt Nam nghèo bỏ xừ cái thân vẫn yêu nhau hết mình không thấy sao hỡi nhà thơ Xuân Diệu ?

Thắm thoát mùa xuân cũng sắp đến, Kan đã bàn tháng 12 tổ chức đám cưới, Thiên Kim dành phần chọn nhà hàng Việt Nam cho nhẹ tiền và quan khách tham dự của nàng toàn là người Việt Nam – Kan đồng ý cùng nàng chọn nhà hàng Phú Lâm thức ăn vừa ngon lại vừa rẻ có tiếng từ hơn hai chục năm qua - Cả hai hân hoan đến gặp anh Kim chủ nhân lấy ngày giờ đặt tiệc.

Sáng nay Kan gọi đến bảo Thiên Kim ở nhà nghỉ một bữa đi tham quan vài chỗ làm nơi thung lũng Silicon cùng anh, Kim thầm nghĩ chắc lại mất việc rồi đây, sợ nàng buồn không dám nói chăng bởi ngày cưới sắp đến mà không việc làm, không tiền bạc thì rõ khổ thân em và cả thân anh, cha mẹ anh thì ở bên Ấn Ðộ, cha em thì nghèo lấy ai giúp đỡ chúng ta khi đã đến nhà hàng đặt tiệc, đặt ngày và đặt cọc ? Nàng đi với chàng nhưng lòng buồn rười rượi chẳng thiết nói cười chỉ ậm ọe trả lời qua loa khi chàng hỏi – Kan dẫn nàng vào một tòa Building rộng lớn, một hãng điện tử tọa lạc trên vùng Fremont, theo Kim biết thì đây là một hãng điện tử lớn nhất nhì thành phố Silicon, nàng càng lạ lùng khi thấy Kan cứ dẫn nàng đi tuồn tuột vào bên trong mà không ai cản ngăn Kan và nàng cả, Kim không dám hé môi nửa lời khi thấy dáng vẻ nghiêm chỉnh của Kan và bộ Veston tươm tất của chàng, bụng Kim thầm nghĩ “Ði apply job mà ăn mặc giống như ông chủ, bộ xứ Hoa Kỳ này chuộng vẻ ngoài mới nhận làm việc hay sao, khéo vẽ vời chi dữ vậy Kan của em, anh hôm nay mà không nhận được job là sẽ bị nhỏ khùng này chọc quê cho mà biết”

Kan dẫn nàng vào phòng cuối cùng, nàng chưa biết phải ngồi đâu khi nhìn bàn ghế sa cừ lộng kiếng quá lộng lẫy sang trọng, nàng ké né đứng bên Kan thì thấy có mấy người vào gật đầu nghiêm chỉnh chào Kan với những ngôn từ Ấn Ðộ và tiếng Anh, Kan ngồi xuống chiếc ghế giữa bàn và nói với họ : This is my fiance’ rồi chàng chỉ chiếc ghế kế bên chàng cho Kim ngồi – Thiên Kim bừng tỉnh, thì ra Kan là ông chủ hãnh Ðiện Tử to lớn này, bấy lâu nay chàng đã thử thách con người Kim, thử thách tình yêu của Kim, mẹ ơi … mẹ ơi … Kim vui mừng nhắc đến mẹ thân yêu và nước mắt rưng rưng, nàng cố kềm hãm bởi trước mặt mọi người nàng nghiễm nhiên là bà chủ và mọi người đang một mực quý trọng nàng, nàng không vì xúc động riêng tư mà để lộ niềm hân hoan bất chợt với mọi người xung quanh.

Tuần sau Kan cho Kim biết là nàng sẽ không phải đi làm nữa, Kan đưa cha nàng và nàng về một ngôi nhà mới sang trọng trên đồi Los Altos Hill – Kan giao hãng cho phụ tá phó Giám Ðốc cai quản, chàng cùng Kim đi mua sắm nữ trang, quần áo cưới và mọi vật dụng cần thiết trang hoàng cho ngày cưới, chàng không quên đặt cho cha vợ hai bộ Veston và mua tặng ông một chiếc đồng hồ Rolex đắt giá của Thụy Sĩ.

Hạnh phúc là một thiên đàng tuyệt hảo dành cho Kim, nàng đã sống đã yêu với sự chân thành từ trái tim, nàng đã được đền bù xứng đáng. Sau ngày cưới Kan đưa nàng đi hưởng tuần trăng mật tại Paris nơi có những kỳ quan lịch sử và có những danh lam thắng cảnh tuyệt vời – Kan không quên mời cả người cha vợ tôn kính cùng đi cho ông có cơ hội du lịch Paris mà ông hằng ao ước.

Tình yêu hạnh phúc sự nghiệp đã chào đón người phụ nữ Việt Nam thân thương của chúng ta, trong trái tim người Ấn Ðộ đã khắc sâu hình ảnh người vợ Việt Nam trân quý, tác giả viết bài này với lòng cảm mến thật xâu sa tấm tình tốt đẹp hiếm có của hai nhân vật trong cốt truyện qua cuộc sống thật ngoài đời tại thung lũng Silicon hoa vàng muôn thuở - Có một vài hư cấu cho câu chuyện súc tích lãng mạn hơn và thấm thía hơn trong cuộc sống ly hương - Kan và Kim đã sống hạnh phúc gần 10 năm qua và có với nhau 4 mặt con, ba gái, một trai, những đứa con lai hai dòng máu Ấn Việt xinh đẹp và khôn ngoan vô cùng .
 
kt.


-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 06/Mar/2010 lúc 4:35am
 

Sống trên đời cần có một tấm lòng!





Còn nhớ Trịnh Công Sơn đã có câu hát: “Sống trên đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì em có biết không? Để gió cuốn đi...” và cũng chính ông đã ngụ ý rằng, chỉ với một tấm lòng nhỏ nhoi ấy thôi, mà con người vượt rất xa những loài vật khác. Nếu mà cũng nhìn đời bằng con mắt ấy, cũng sống theo tôn chỉ ấy, thì xin được trả lời rằng: Người với người sống trong Tình và Nghĩa


Tôi hỏi đất:
-Ðất sống với đất như thế nào?
- Chúng tôi tôn cao nhau.

Tôi hỏi nước:
-Nước sống với nước như thế nào?
- Chúng tôi làm đầy nhau.

Tôi hỏi cỏ:
-Cỏ sống với cỏ như thế nào?
- Chúng tôi đan vào nhau
Làm nên những chân trời.

Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?.

Ba dòng thơ cuối với sự lặp tuyệt đối như một lời trách giận hay là lối hỏi chua chát? Người sống với người như thế nào?

Ừ nhỉ, người sống với người như thế nào? Mình sống với người như thế nào? Người sống với mình như thế nào? Câu trả lời nằm ngay trong chính dòng đời miết mải.

Chẳng hiểu sao ngay từ đầu, cái câu hỏi đầy ám ảnh kia lại tạo cho mình ấn tượng sâu đến thế. Để đến lúc đọc lại cả bài thơ rồi, thì lại bật cười, có lẽ ... ừ có lẽ cả bài thơ đã là lời giải đáp. Người với người sống với nhau để làm cuộc sống của nhau đầy đặn hơn, tô màu thêm sắc để cuộc đời trở nên xanh tươi hơn, và chúng ta tôn nhau lên, để cho những cái riêng của từng cái tôi nổi trội lên, nhưng đồng thời cũng hòa vào nhau, đan vào nhau trong một cái sắc chung - CUỘC ĐỜI.




Và cứ thế, đất, nước và cỏ còn thua chúng ta nhiều lắm. Chúng chỉ tạo được cho nhau, chỉ cho được cho nhau một điều nổi bật, trong khi chúng ta, CON NGƯỜI làm được rất nhiều, nhiều hơn thế.

Không phải là tôi ngây thơ đến mức hiểu nhầm dụng ý của tác giả, nhưng vần thơ là để người tán tụng, để người suy diễn. Nhà văn, nhà thơ có nhìn thấy, có chỉ ra được một khía cạnh, thì tâm hồn người đọc vẫn có thể lần tìm những ngóc ngách khác. Chỉ xin hãy nhìn đời bằng một con mắt lạc quan, để cả ba lần hỏi nhức nhối được trở thành ba lần nhấn mạnh, điểm nhấn cho lòng yêu thương, sự bao dung và tình đồng loại.

Còn nhớ Trịnh Công Sơn đã có câu hát: “Sống trên đời sống, cần có một tấm lòng. Để làm gì em có biết không? Để gió cuốn đi...” và cũng chính ông đã ngụ ý rằng, chỉ với một tấm lòng nhỏ nhoi ấy thôi, mà con người vượt rất xa những loài vật khác. Nếu mà cũng nhìn đời bằng con mắt ấy, cũng sống theo tôn chỉ ấy, thì xin được trả lời rằng: Người với người sống với trong Tình và Nghĩa

Lời bình luận của ai đó làm người ta giật mình ... cái dụng ý hiển nhiên của tác giả bỗng chốc bị lật ngược, bị thay bằng một cách hiểu mới hoàn toàn khác. Quả thật, có lẽ hầu hết ai đọc bài thơ đều thấy khâm phục tác giả, bài thơ ý nhị, giàu ẩn ý nếu không nói là giàu ẩn ý một cách xót xa.

Người sống với nhau như thế nào?
Người sống với nhau như thế nào?
Người sống với nhau như thế nào?

Ba câu hỏi giống nhau về câu chữ, nhưng khác nhau nhiều về cách đọc nó. Người bộc trực dễ lên giọng ở hai câu cuối, cái cảm xúc ấy nó cứ trào ra như sự uất hận bấy lâu bị dồn nén, như một lời quát thẳng vào mặt ai đó, một ai đó hư vô - cuộc đời. Người điềm đạm thì cứ xuống giọng, nhỏ dần, tưởng chừng như bất lực. Cái nín nhịn thắt chặt, sự bức bối ngậm ngùi giữ chặt trái tim, đã biết câu trả lời, đã hứng chịu đủ cuộc đời và giờ đây thì im lặng ...

Đúng, giá trị của bài thơ chính là ở ba câu hỏi cuối, nó không những giá trị ở chỗ tác giả đã gửi vào đó tâm sự sâu kín không chỉ của riêng mình, mà còn là cơ hội để người ta nhìn lại chính mình _ những cái gì bên trong được gọi là TìnhNghĩa? ...

Sưu tầm.



-------------



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 06/Mar/2010 lúc 8:37pm
 
 
 
Tâm tình của 1 người Việt tại Mỹ


 Có phải nếu mình ở một nơi nào trên dưới ba mươi năm thì mình là người thuộc địa phương đó, đúng không? Đã biết bao nhiêu lần tôi đặt ra câu hỏi đó sau một ngày nhìn vào lịch thấy con số ghi năm đã bước vào năm thứ ba mươi của một người tị nạn.

 Bây giờ có ai mới quen gặp tôi hỏi: Bà ở đâu đến vậy? Thì chắc tôi sẽ trả lời rất tự nhiên, tôi ở San Jose, hay khi đang đi du lịch thì sẽ trả lời, tôi ở Mỹ đến. Tôi sẽ không trả lời là tôi ở Việt Nam đến nữa, chỉ trừ người ta hỏi, bà là người nước nào? Thì lúc đó tôi chắc chắn nói, tôi là người Việt Nam, để cho họ không nhầm với người Trung Hoa, Nhật, hay Phi.

Đúng, tôi ở Mỹ trên dưới ba mươi năm rồi, tôi là một người Mỹ. Bây giờ thử xem lại con người Mỹ của tôi. Trước tiên mặt mũi, chân tay tôi chẳng có gì thay đổi cả, vẫn khuôn mặt cấu trúc ít góc cạnh của người Á Đông và cái mũi tẹt khiêm tốn, tóc sợi to và đen, khi có tóc bạc thì nhìn thấy ngay, muốn giấu thì phải nhuộm.
 
 Đối với người Á Đông thì tôi được gọi là người có nước da trắng, nhưng mầu trắng này thực ra là mầu ngà, và đứng cạnh một ông Tây, bà Mỹ nào thì nó vẫn cho cái căn cước da vàng rất rõ rệt. Khi tôi nói tiếng Anh thì cách phát âm vẫn có vấn đề, đôi khi nói nhanh quá thì sẽ vấp phải lỗi nói tiếng Anh theo cách dịch tiếng Việt trong đầu. Như thế bị chê là nói tiếng Anh bể (broken English). Về cách phục sức, nhà ở, xe cộ bên ngoài, tôi có thể không kém một người Mỹ chính gốc. Nhưng khi bước vào nhà tôi, từ những bức tranh treo ở phòng khách, bát đũa bầy ở bàn ăn, chai nước mắm, hũ dưa cải trong  bếp và nhất là sách, báo tiếng Việt ở khắp nơi trong nhà, thì chắc ai cũng sẽ nhận ra ngay đó là một gia đình Việt Nam. Như thế thì tôi là người San Jose hay người Hà Nội, người Mỹ hay người Việt? Tôi ở đất này đến 30 năm rồi cơ mà. Người ở Lạng Sơn, Thanh Hóa ra Hà Nội ở trên dưới ba mươi năm thì tự nhận mình là người Hà Nội; người ở Hải Phòng, Hải Dương vào Sài Gòn lập nghiệp từ năm 75, 76 tự nhận mình là người trong Nam.

  Tôi ở Mỹ tìm về Việt Nam không ai chịu nhận tôi là người Việt nữa, dù tôi có yêu quê hương đến quặn thắt cả ruột gan, có gặp lại họ hàng nước mắt khôn cầm thì khi thăm viếng, hỏi han, họ vẫn thỉnh thoảng nói rất tự nhiên: chị đâu có phải là người Việt nữa, bây giờ chị là người Mỹ rồi, chắc cái này không hạp với chị, cái kia chị không ăn được, cái nọ chị không biết đâu. Những lúc đó tôi chẳng biết mình phải phản ứng thế nào cho đúng. Cứ cãi tôi vẫn Việt, hay nhận đúng rồi tôi là Mỹ? Không, cả hai cùng sai cả. Những khi cần quyên tiền đóng góp vào việc công ích nào ở Việt Nam thì ai ai  cũng nhắc lại cho tôi đến ngàn lần tôi là một người Việt Nam chính gốc. Rằng tôi phải có bổn phận và tình thương với đất nước, đồng bào. Tình thương thì nhất định lúc nào tôi cũng đầy ắp trong ngực rồi, tôi chẳng cần ai nhắc nữa, nhưng bổn phận thì cho tôi... nghĩ lại.
 
  Tôi đã đóng góp bổn phận của tôi cho đất nước đó rồi. Một mối tình chết tức tưởi trong chiến tranh hơn ba mươi năm về trước, xương thịt của người tôi yêu nằm trong lòng đất, rồi lại phải đào lên, đốt thành tro than, bị đuổi mộ như đuổi nhà, đã trả bổn phận đó thay tôi rồi. Không đủ hay sao?
 
  Bây giờ tôi phải có bổn phận đóng thuế hàng năm ở đất nước tôi đang sống để phụ với chính phủ sửa đường, xây trường học và nuôi những người ở khắp nơi mới tới, như trước kia đất nước này đã nuôi người Việt, vì giấy tờ cá nhân hiện tại xác định tôi là người Mỹ. Tôi phải làm bổn phận công dân. Có những ngày tôi lái xe bị kẹt ở xa lộ vào một buổi chiều mưa mùa thu; hay một buổi sáng mùa xuân vắng lặng, êm ả, đứng trong nhà nhìn ra mặt hồ, tôi cảm nhận được nơi mình đang hiện diện không phải là quê mình, không phải nước mình.
 
  Chẳng có một lý do gì cụ thể, chỉ là những giọt mưa đập vào kính xe, chỉ là mặt nước hồ gờn gợn sóng. Mưa trên xa lộ Mỹ nhắc nhớ đến những cơn mưa tháng Năm ở Thị Nghè, nhà mình ở Trần Quý Cáp, nhà anh ở trước rạp ciné Eden đứng trú mưa với nhau.
 
  Nước ở hồ San Jose trước nhà nhắc đến nước sông ở bến Bạch Đằng mỗi lần qua phà sang bên kia Thủ Thiêm chơi với bạn, hay sóng nước ở bắc Mỹ Thuận những lần qua phà đi thăm họ hàng ở tận Bạc Liêu. Những lúc đó tôi bất chợt bắt gặp mình Việt Nam quá, vì những cái bóng Việt Nam thật mờ, thật xa lại chồng lên hình ảnh rõ rệt ngay trước mặt mình, và kỳ diệu làm sao, những cái bóng đó nó mạnh đến nỗi mình quên mất là mình đang ở Mỹ. Chắc tại tôi là người Việt Nam.

 Lại có những lần ở Việt Nam, tôi bị muỗi đốt kín cả hai ống chân, bị đau bụng liên miên cả tuần lễ. Đi đâu cũng phải hỏi đường, ai nhìn mình cũng biết mình từ đâu đến và đang đi lạc. Tiền bạc tính hoài vẫn sai. Nhiều khi đứng chênh vênh trên đường phố Sài Gòn, biết đất nước này vẫn là quê hương mình, những người đi lại chung quanh là đồng bào mình, nhưng sao không giống Việt Nam của mình, hình như đã có điều gì rất lạ.
 
  Ngôn ngữ Việt thì thay đổi quá nhiều, pha trộn nửa Hán nửa Ta, chắp đầu của chữ này với cuối chữ của chữ kia, làm nên một chữ mới thật là "ấn tượng". Cách phát âm của người Hà Nội bây giờ không giống cách phát âm cũ của ông bà, cha mẹ tôi ngày trước, và họ nói nhanh quá, tôi nghe không kịp. Cái tiếng nói trầm bổng, thanh lịch, chậm rãi, rõ ràng từng chữ của thời xa xưa bây giờ chỉ còn là cổ tích.
     
  Ngửng mặt lên nhìn bầu trời, vẫn bầu trời xanh biếc của thời tuổi trẻ, cúi xuống nhìn mặt đất, vẫn mặt đất thân quen, nhưng sao lòng hoang mang quá đỗi, và thấy đã có một khoảng cách nghìn trùng vô hình giữa mình và quê hương đất Việt. Chắc tôi là người Mỹ! So sánh thời gian tôi sinh ra, sống ở Việt Nam và thời gian tôi bỏ Việt Nam ra đi, sống ở Mỹ, hai con số đó đã gần ngang nhau. Tôi được học từ nhỏ quê hương là nơi tổ tiên lập nghiệp, là nơi chôn nhau cắt rốn. Ở trong nước có bài hát nổi tiếng “Quê hương mỗi người có một”, như là chỉ một mẹ thôi. Nhưng có người lại nói:”Nơi  nào mình sống ở đó suốt một quãng đời dài, có những người thân chung quanh mình, hưởng những ân huệ của phần đất cưu mang mình, thì nơi đó cũng được gọi là quê hương mình”. Như vậy thì tôi có một hay hai quê?
 
  Tôi sống ở Mỹ thì bạn bè gặp nhau thường nói: Cái này người Việt mình không hạp, hoặc người Mỹ họ mới thích nghi được việc này, người Việt mình không quen.

  Khi đi dự buổi tiệc cuối năm của một công ty lớn ở Mỹ, toàn là những người Mỹ sang trọng thì thấy rõ ngay mình là người Việt đi lạc, dù mình có sang trọng, lịch sự như họ. Hóa ra ở Mỹ hay về Việt Nam mình đều lạc chỗ cả. Tôi nhớ mấy năm trước có lần trò chuyện với mẹ của một người bạn, lúc đó cụ ngoài 80 hãy còn minh mẫn, cụ theo đạo Phật. Trưởng nam của cụ và con dâu cụ tự nhiên rủ nhau theo đạo Công giáo. Găp tôi, cụ hỏi: Không biết anh Bình nhà tôi khi chết thì đi đâu? Phật giận anh ấy, vì anh ấy bỏ đi, Chúa chắc gì cho anh ấy vào, vì anh ấy mới quá! Năm nay cụ ngoài 90 tuổi rồi và không  may, cụ bị Alzheimer. Vậy là cụ không còn minh mẫn để lo con mình không có chỗ dung thân cho phần hồn. Bây giờ thỉnh thoảng nghĩ lại những lời cụ nói, thấy mình ngay ở đời sống này cũng đã là một vạt nắng phất phơ bay. Quê nhà, quê người, quê Mỹ, quê Việt. Chao ôi! Cái thân cỏ bồng.
 
  Nhưng lạ lắm, tôi biết chắc mình là người Việt, nhất là khi tôi nằm mơ. Trong giấc ngủ tôi thường gặp cha mẹ, gặp ngay trong những ngôi nhà cũ ở Việt Nam, gặp bạn bè cũng gặp trên đường phố Việt Nam từ ngày rất xa xưa, và bao giờ trong mơ cũng đối thoại bằng tiếng Việt. Tỉnh dậy đôi khi vẫn ứa nước mắt, dù là một giấc mơ vui. Thấy nhớ quê nhà quá đỗi!
 
  Tôi nhớ lại trong những truyện ngắn, những bài thơ Đường tôi đọc thời rất xa xưa về người bỏ làng đi xa lâu năm trở về không ai nhận ra nữa. Hồi đó sao mà mình thương những ông già trong thơ đó thế! Bây giờ nghĩ lại thì người trong sách đó còn may mắn hơn mình, họ đâu có đi đến tận một nước khác như mình.
 
  Họ chỉ bỏ làng, chứ không bỏ nước. Thế mà khi về còn ngơ ngác, bùi ngùi, tủi thân vì lạc chỗ ngay trong làng mình.So sánh tôi với người bỏ làng ra đi trong những trang sách đó thì hoàn cảnh của tôi đáng buồn hơn nhiều. Không những đã bỏ làng, bỏ nước đi, còn nhận quốc tịch của một nước khác.
 
  Khi về đổi họ thay tên. Núi chùng bóng tủi, sông ghen cạn dòng.
 
  KBT
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 08/Mar/2010 lúc 11:38am
 
Nghĩ về suy nghĩ
 
 
Nghĩ về những điều mình đang có thì sẽ thấy mình đang có tất cả.
Nghĩ về điều mình chưa có thì sẽ thấy mình chưa có gì cả
 
Nghĩ về những điều mình đã mất thì sẽ thấy mình đã mất tất cả
Nghĩ về những điều mình chưa mất thì sẽ thấy mình còn rất nhiều

Nghĩ về những điều bất hạnh thì sẽ thấy cuộc đời mình thật bất hạnh
Nghĩ về những điều hạnh phúc thì sẽ thấy cuộc đời mình thật hạnh phúc

Nghĩ về những điều mình muốn có sẽ làm cho mình quên đi những điều mình đang có
Nghĩ về những điều có thể sẽ mất sẽ thấy nâng niu, quý trọng những gì mình đang có

Nghĩ về những điều mình không hài lòng sẽ thấy bực bội trong lòng
Nghĩ về những điều mình cần phải biết ơn sẽ thấy tràn ngập lòng biết ơn trong lòng

Nói thì dễ nhưng để nghĩ được như vậy khá khó. Nhưng khó không có nghĩa là không làm được. Điều quan trọng là mình có muốn nghĩ như vậy hay không.

Tất cả đều nằm trong chính suy nghĩ của bản thân. Ta lựa chọn suy nghĩ, suy nghĩ đó dẫn ta đến hành động, hành động đó dẫn đến ta đến hạnh phúc hay đau khổ cho cuộc đời mình.

Như vậy hạnh phúc hay đau khổ, hài lòng hay không hài lòng, tất cả đều do chính suy nghĩ
 


-------------



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 08/Mar/2010 lúc 8:13pm
 
Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân
Phạm Tín An Ninh


Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư tại Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những
mùa đông dài băng gía, nhưng lại rất đẹp vào ngày hè và lãng mạng vào thu, tôi vẫn giữ thói
quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy
lòng mình trăn trở.  Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong "Rừng Na-Uy", cuốn
tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe
những tiếng khóc.  Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng.  Tiếng khóc có mãnh lực
quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời.

http://lnx.web-burning.it/wp-content/plugins/wp-o-matic/cache/85239_447.jpg 

Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà theo cha tôi
vào đây nhận nhiệm sở mới.  Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá xinh.  Ngay từ năm tôi học
lớp đệ lục trường nữ trung học Huyền Trân, cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình,
đạp xe theo sau tôi những buổi học tan trường.  Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng SVSQ
Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh.  Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ
rung động trước một người.  Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng
lớp thời còn ở trường Võ Tánh.  Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc
tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạng, cũng chẳng có điều gì trắc trở.  Ông xã
tôi là lính Biệt Động Quân.  Hậu cứ đóng ở Pleiku.  Ngày về làm đám cưới, đôi giầy saut của
anh còn bám đầy đất đỏ hành quân.  Đám cưới của chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng
nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa trải qua khói lửa Mậu Thân.

Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi phải trở về sống ở nhà
chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi tôi phải sống một mình.  Chỉ khi nào
tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.

Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng.  Một đứa con trai bụ bẫm.  Có lẽ
vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là Cao Nguyên.  Lê Cao Nguyên. 
Anh về thăm con khi cháu vừa đầy tháng.  Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha.  Đôi mắt  to,
sóng mũi cao, đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một "lỗ tai nhỏ" như ba nó.

Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về với đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn vị
hành quân giải vây căn cứ Pleime.  Tôi bồng con lên Pleiku.  Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn
chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh mỗi ngày trong quân y viện.
 Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên
Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ.  Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với Anh kể từ
ngày ấy.  Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một
người giúp việc.  Cuối năm 1973, trong một lần pháo kích vào trại gia binh làm một số đàn bà
con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên.  Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá
lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương.  Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên
ngoài doanh trại để ở.  Năm sau khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì. 
Lần này là con gái.  Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố
biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và yêu nhau.

Animated%20Nature%20-%20Scenic

Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố "đi dăm phút trở về chốn cũ" ấy, những ngày nắng chỉ
thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân.  Pleiku đúng là một thành phố
lính.  Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ để chờ chồng trở về sau những cuộc
hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong quân y viện.  Với họ thì
đúng là "may mà có anh đời còn dễ thương".  Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa
phụ!

Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc.  Một buổi sáng, từ bản
doanh Liên Đoàn về, hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ,
chỉ mang những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.

Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã ngồi sẵn trên xe. 
Chúng tôi rời khỏi doanh trại.  Thành phố Pleiku như đang ngơ ngác trước những người từng
bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi không một tiếng gĩa từ.  Đang giữa mùa xuân
mà cả một bầu trời u ám.  Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa
ra khỏi thành phố.  Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại.  Phía trước chúng tôi dày đặc xe
và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chủng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy.  Tôi nghe
chồng tôi và bạn bè nói là ngoài lực lượng xung kích mở đường, một số đơn vị Biệt Động
Quân còn được chỉ định đi sau, ngăn chặn địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di
tản!  Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một hành quân triệt thoái.

Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào lúc trời sắp tối.  Vừa
dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp nơi.  Xe và người dẫm lên nhau
trong cơn hốt hoảng.  Địch đã bao vây.  Các đơn vị BĐQ chống trả kiên cường, nhưng địch
qúa đông, mà bên ta thì vừa quân vừa dân chen chúc nhau hỗn độn.  Trong lúc nguy nan này
trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất hạnh.  Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm
vào quân bạn.  Đoàn xe vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đến gần Phú Túc thì lại bị địch tấn
công từ khắp hướng.  Nhiều xe bốc cháy và nhiều người chết hoặc bị thương.  Cả đoàn xe
không nhúc nhích được.  Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về Củng
Sơn.



Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ con.  Tôi dắt theo
Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương.  Chúng tôi lầm lũi trong rừng.  Tiếng
súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn đêm.  Khi chúng tôi mệt lả cũng là
lúc đến bờ một con sông nhỏ.  Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng
một số đồng đội chia nhau canh gác.  Mệt qúa, tôi ngủ vùi một giấc, thức giấc thì trời vừa
sáng.  Chúng tôi lại tiếp tục lên đường.  Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên
chồng tôi phải dùng cái võng nilong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp.
  Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi cùng
hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương, mình đầy máu.  Tôi nghĩ họ cũng là
những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự sống.  Hình như họ không còn mang
theo bất cứ thứ gì.  Nhìn nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng.  Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn
trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự
phát hiện của địch.

Vừa rời đoàn người chừng vài phút thì đạn pháo thi nhau rớt xuống.  Tiếng la khóc thất thanh
cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. 
Trong nhóm chúng tôi cũng đã có một số người đã chết.  Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm
đường sống.  Gia đình tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi
không nghe tiếng súng.  Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn
dùng để mong cứu được vợ con mình.  Địch quân tràn ngập.  Một số đơn vị tan rã.  Đồng đội
kẻ chết người bị thương.  Có thể một số đã bị bắt.  Tôi không thể tưởng tượng được số mệnh
bi thảm của những người lính Biệt Động một thời oanh liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại
tan tác trong bất ngờ, tức tưởi!  Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ
ông tướng tư lệnh Quân Đoàn: "Đạp lên mà đi!"  Trong cả đời binh nghiệp, chắc những người
lính không còn nhận được cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa.
 
 
Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán lính hơn 20 người
thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi.  Thầy trò chưa kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ.  Địch quân
phía trước mặt.  Trở lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, chồng tôi lưng mang con,
điều động anh em xông vào trận mạc.  Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt. 
Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi tiếp.

Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh.  Cái bóng tối bây giờ thật rợn người.  Tôi hình dung
cái bóng của tử thần.  Chúng tôi dừng lại trên một ngọn đồi thấp.  Tôi nghiệp cho những
người lính trung thành.  Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ,
nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời chồng
tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm.  Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ
nằm cho mẹ con tôi.  Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được.  Chồng
tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây.  Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên
môi, trên tóc.  Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu thương,
nhưng có lẽ anh đã tội nghiệp cho một người con gái đã trót chọn chồng là lính chiến.  Và
cũng không ngờ đó là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi.

Animated%20Nature%20-%20Scenic

Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch.  Cũng là lần cuối tôi
chứng kiến những người lính Biệt Động can trường.  Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông
vào lòng địch mà đánh, tiếng thét "Biệt Động Quân Sát" vang dội cả một vùng.  Nghe súng nổ,
tôi đoán lực lượng địch đông lắm.  Một anh trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận đánh hôm
qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến.  Đã vậy
anh còn phải dìu theo một người lính bị thương khác.  Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút
ấy.  Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả những
khi lâm trận.  Không biết chiếc áo giáp có đủ để che chắn hình hài bé nhỏ của con tôi.  Hình
ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi đã đọc.

Tiếp tục di chuyển từng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn, chúng tôi lại nghe
súng nổ.  Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo chúng tôi nằm
rạp xuống.  Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường mòn, chạy về bên hướng rừng
bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn.  Khi đến bìa rừng, tôi thấy mấy người lính
BĐQ nằm chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng.  Sau này tôi được biết những người
lính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc.

 
http://lnx.web-burning.it/wp-content/plugins/wp-o-matic/cache/ecb35_Sun_ray_in_the_woods.jpg

Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nửa thì chúng tôi bị đám khá đông VC chặn lại. 
Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí.  Tất cả chúng tôi bị lùa vào bên bờ suối nhỏ.  Ở đây tôi gặp
một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọc
quay lưng ra suối, trước họng súng sẵn sàng nhả đạn của kẻ thù.  Tôi cố ý tìm xem, nhưng
không thấy chồng tôi trong số người bị bắt.  Lòng tôi lo âu vô hạn.  Từ lúc ấy, tiếng súng tạm
im, chỉ còn tiếng quát thoát và tiếng nói rất khó nghe của đám người thắng trận.  Tất cả chúng
tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa).

Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn.  Chị giúp việc rất tốt bụng và
trung thành.  Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi.  Chị đi đâu đó
xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát.  Nhìn
đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này
không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc.

Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng vừa lọt vào tay giặc.
 Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa.  Tôi không đủ can đảm để mang tin
buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà,
chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang mất tích.  Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng
cháu Thùy Dương về nhà chăm sóc.  Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được
tin này.  Nằm nhà hơn một tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi
xin được trở lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên.  Cả nhà tôi và cha mẹ chồng đều ái
ngại, âu lo.  Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của
chồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7.

 

Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi
thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy,
những bộ xương người còn vương vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ bị lấp vội bên đường.  Cả
một vùng xông mùi tử khí.  Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và
cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số.  Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân,
được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn.  Chúng tôi đến đó,
trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản mới được cho vào trại.  Sau khi tên VC
trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ sĩ
quan nào cùng đơn vị với chồng tôi.  Rất may, tôi gặp được anh đại đội phó lúc chồng tôi còn
ở tiểu đoàn.  Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi
gần đèo Tu Na.  Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên
đến một nơi nào đó.  Tôi sáng lên niềm hy vọng.  Ngay hôm ấy tôi thuê năm người thượng,
theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi
tìm.  Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số mộ vô danh,
nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi.  Tôi trở về mang theo niềm tuyệt vọng, không chỉ
cho tôi, mà cho cả nhà chồng.

Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích tôn của ông bà.
 Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.

Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm đến chân đồi, dưới
gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng
niệm anh và cháu Cao Nguyên.  Tôi đã dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyê vào
thân cây.  Lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ
gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ
nằm vương vãi do bom đạn hôm nào, tạo thành những âm thanh não nùng, xé ruột.

 

Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định cư sau chuyến
vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt.  Thánh 5 năm 1985, cha mẹ
chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển.  Tôi,
cháu Thùy Dương, và một đứa em trai của tôi đi cùng với gia đình chồng.  Tôi cũng xin được
một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đã về quê trên vùng quê Diên Khánh, sau ngày cùng
tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ.  Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của
tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.

Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng cháu về lại
Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn
sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình.  Chúng tôi đến đây vào
giữa mùa xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai.

Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành Quốc Lộ 25.
 Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi.  Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương ,
còn có vợ chồng cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa.  Chúng tôi đến
Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai.  Tất cả không còn gì dấu vết
của chiến tranh.  Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng dấp
của thời kỳ đổi mới.  Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi
nhà sàn "cải biên" thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng
nghèo nàn mang tên "thị xã".  Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây
mù, lòng tôi chùng xuống.  Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn
vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương.  Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự
chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng gắn huy chương lên
ngực áo khi ban nhạc trổi khúc quân hành.  Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.



Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường đến tháp Yang Mun
và tháp Drang Lai.  Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh
thiêng ghê lắm.  Tôi khấn vái và xin xâm.  Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xâm tôi bốc trúng lại là
bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:

Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây
Rõ ràng hoa rụng hương bay
Kiếp sau hoạ thấy kiếp này hẳn thôi.

Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng bái, mê tín dị đoan,
bây giờ là một business.  Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều.  Nghĩ như
vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường hợp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô
hạn.  Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa
đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia cầm với gía rất rẻ.  Tôi cũng muốn mua mấy
con gà, để cúng chồng tôi.  Khi còn sống anh thích ăn gà luộc.  Bà còn cho biết thêm dân
chúng ở vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M'dhur. 
Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới 20 cây số.

Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã nghe tiếng người réo
gọi nhau.  Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói gì.  Chợ phiên nhóm rất sớm.

Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà trọ.  Tôi có cảm
giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ phiên của người sắc tộc.  Đã vậy vợ
chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ.  Khi đang cố giải thích về nguồn
gốc người Thượng, chúng tôi đến một quày gà.  Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong
những trong mấy cái lồng đan bằng tre.  Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người
chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng.  Người chủ là anh đàn ông người Thượng vừa đen
vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi...Khi Anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật
mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái.  Vết sẹo có hình dáng đầu một con cọp.  Tôi nhớ
tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi, bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh
ở Biển Hồ.  Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình
ảnh đầu một con cọp.  Biểu tượng binh chủng BĐQ mà chồng tôi luôn mang trên vai áo.
 
Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta.  Cũng hai con
mắt khá to, cũng cái sống mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc mầu nâu sậm như
mầu đất đỏ Pleiku.  Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày trước.  Anh người Thượng
ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại.  Nhưng tôi chợt nhớ ra trên vành tai của Cao
Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba của nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người
thượng.  Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên hai vành tai.  Bất giác, tôi ôm chầm
lấy anh và nước mắt trào ra.  Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra và nói một tràng tiếng
Thượng.  Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì.  Nghĩ tới
chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi báo cháu Thùy Dương đi
gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước. 
Tôi kéo chị ra xa và nói vào tai chị:

-  Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?

Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình:

-  Thằng Nguyên?  Chả lẽ là thằng cu Nguyên?

Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:

-  Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?

Anh người Thượng lắc đầu.

-  Tao là thằng Ksor Tlang.

Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và và đưa cho anh một nắm tiền.  Sau khi đếm xong anh
trả lại cho tôi hơn một nửa, rồi buột miệng:

-  Mày bắt cái con gà nhiều tiền qúa!

Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi chạy vào phòng trọ tìm
 bà chủ nhà.  Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người có tai mắt ờ đây,
nhưng là một người tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an.  Chưa đầy ba phút hai gã công an
chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ.  Chưa kịp nói gì, bà
chủ kéo tay hai gã công an ra chợ.  Vừa đi bà vừa giải thích.  Đến nơi, gã công an nói một
tràng tiếng Thượng.  Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại.  Cuối cùng hai
người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại.  Chúng tôi đi theo phía sau trở về
phòng trọ.

Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại các điều trao đổi giữa
tôi và anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông tích của anh ta.  Tôọ hai nhét vào tay
bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.

-  Em có cha mẹ không?  Tên ông bà là gì?
-  Tôi có cha mẹ.  Cha tôi tên Ksor H'lum, mẹ tôi tên H'Nu
-  Có anh em không?
-  Không.
-  Anh có nhớ ngày sinh không?
-  Không. 
(Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ đi tìm khai sinh sau)
-  Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không?
-  Không!  Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.
-  Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?
(Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)
-  Không!  Chắc là bị cành cây đâm trúng.

Tôi thở ra thất vọng.  Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi:

-  Cha mẹ anh đang ở đâu?
-  Buôn Ban Ma Dek.
(Gã công an nhìn tôi, bảo buôn Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)
-  Anh ở chung với cha mẹ anh?
-  Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.
-  Đã có vợ con rồi à!  Tôi buột miệng.

Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban Ma Dek.  Sau khi
hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu.  Nhưng bảo chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về
buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được.  Bà chủ nhà trọ gọi dùm
chúng tôi bảy cái xe ôm.

animated%20gifs

Cha mẹ của anh bán gà đã khá gìa, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được
tiếng Việt.  Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của lão công an người Thượng.  Vợ và hai
con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn.

Ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà.  Nhưng thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và
nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự thực.

-  Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá
to trước nhà để tránh đạn.  Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng
lắm, nhưng cố lết vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé. 
Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.
-  Rồi xác của người lính đó ở đâu?  Tôi hỏi.

Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:

-  Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.

Chúng tôi theo sau hai người công an dìu ông gìa đi về phía khu rừng.

Tôi khóc ngất khi nhìn thấy ngôi mộ lè tè nằm dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ
nhỏ.  Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng qùy xuống ôm vai tôi mà khóc.  Tôi ngước lên dáo
dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi.  Nó đang
đứng bất động, hai tay đang nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa.  Tôi chạy lại ôm
hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.

Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông gìa mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà
trọ với tôi.  Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch.  Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương
và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksot Tlang
và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang
Na Uy.  Cả hai ông bà gìa, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp cho
ông bà sống gần Ksor Tlang.  Nhưng cả Ksor Tlang và ông gìa một mực chối từ, bảo là họ
không thể nào bỏ bản mà đi.  Núi rừng mãi mãi là nhà của họ.  Họ không thể nào sống xa
rừng cũng như loài cá không thể nào sống mà không có nước.

http://www.simplevietnam.com/uploads/Dak%20Nong/Tong%20Quan/nhasan-1.jpg

Dự trù lên đây ba ngày.  Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi.  Ban đầu tôi tính xin
phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng ở
nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý.  Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh
đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng
và chắc không biết gì về anh.  Và chắc có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao đồng đội, một
thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảnh phất quanh đây.  Tôi mướn
thợ xây lại ngôi mộ.  Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp
chung với tôi và hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao
Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất.  Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo.

Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã cưu mang nó. 
Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó đã vận vào cuộc đời của
nó.  Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ
của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ
nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một
số quần áo mới.  Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. 
Bằng đúng số tiền mà tôi trả công cho hai gã công an!

Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà sàn mới.  Buổi
chiều tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy
  Dương ra thắp hương trước mộ ba nó.  Nó qùy bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm
trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe.  Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình.  Tôi
nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi.  Tôi sinh ra Cao Nguyên,
nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày nó mới lên bốn
tuổi.

Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh Lộ 7 ngày xưa, mang theo trong
lòng nỗi đau đứt ruột.  Đang giữa mùa xuân nhưng giữa bầu trời nhuộm màu ảm đạm.  Nhìn
núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa, mà tất
cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau, trùng điệp.  Tai tôi nghe
trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió.  Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng
khóc của cây?

Phạm Tín An Ninh
Phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ

 

__._,_.___

 



-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 09/Mar/2010 lúc 9:49am

 

 
Mẹ tôi
 
Con nấu hơi nhạt một tí thì mẹ bảo sao nhạt như nước ốc, bây giờ hơi mặn thì mẹ lại bảo nuốt không vô.Thế mẹ muốn như thế nào?"-Con dâu cằn nhằn.

Thấy con trai vừa đi làm về người mẹ vội vàng và cơm, thức ăn vào miệng cố nuốt.
Cô con dâu giận dữ nhìn chồng.Anh bèn đi lại thử ăn một miếng, vừa đưa vào miệng thì nhổ ra ngay, và nói:

"Anh đã bảo bao nhiêu lần rồi, mẹ bị bệnh không ăn được mặn cơ mà!"
-"Thôi được rồi!Mẹ là mẹ anh, giỏi thì sau này tự mà nấu đi!"Cô vợ giận dữ trở về phòng.

Người chồng chỉ biết than dài buồn bã, ngậm ngùi nói với mẹ rằng:"Mẹ ạ, thôi đừng ăn nữa, để con đi chế bát mì cho mẹ."

-"Tể, có phải con có chuyện gì muốn nói với mẹ phải không?Có thì con cứ nói đừng để trong lòng!"
-"Thưa mẹ, tháng sau công ty con thăng chức cho con rồi, có lẽ công việc sẽ rất bận, với lại vợ con nó muốn đi làm, cho nên..."

Người mẹ liền hiểu ngay ý của con, mẹ bảo:"Tể, đừng đưa mẹ vào Viện Dưỡng Lão nghe con" giọng mẹ như đang van xin.

Người con trai trầm tư một lúc, đang tìm một lý do khác thích hợp hơn.

-"Mẹ ạ, Viện Dưỡng Lão cũng có gì không tốt đâu, con sợ vợ con nó đi làm rồi sẽ không có thời gian chăm sóc mẹ được.Ở Viện Dưỡng Lão có cái ăn, cái ở lại còn có cả người chăm sóc, như vậy không tốt hơn ở nhà bao nhiêu sao?"
"Nhưng chú A Tài chú ấy..."

Tắm xong, ăn vội bát mì, người con trai liền đi vào phòng đọc sách.Đứng đăm chiêu bên cửa sổ, lòng anh ta lại suy nghĩ miên man.Mẹ từ lúc còn trẻ đã đành cam chịu cảnh góa bụa, ngậm đắng nuốt cay, chèo chống nuôi con khôn lớn, rồi lo cho con ra nước ngoài ăn học.Nhưng mẹ không bao giờ vì vậy mà đặt điều bắt con phải hiếu thảo lại, thế mà ngược lại người vợ lại lấy chuyện hôn nhân ra đặt điều này nọ với chồng! Nên đưa mẹ vào Viện Dưỡng Lão hay không?Người con trai tự hỏi lòng minh và thấy có điếu gì đó hơi bất nhẫn.

-"Sống với anh nửa quãng đời còn lại là vợ anh chứ chẳng lẽ là mẹ anh sao?"-Con trai chú A Tài cứ luôn nhắc anh ta như thế.

-"Mẹ mày già rồi, sống thọ lắm thì cũng chỉ được vài năm nữa thôi, sao không lo mà phụng dưỡng mẹ đi.Đừng để đợi đến lúc cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, con muôn nuôi mà song thân đã vãng"-Những người thân thích đều khuyên anh ta như vậy.

Người con trai không dám suy nghĩ tiếp nữa vì sợ sẽ thay đổi quyết định ban đầu.

Trời đã về chiều, những tia nắng cuối ngày hắt hiu vàng vọt, mặt trời đã sắp lặn về phía bên kia chân núi.Xa xa bên sườn núi là Viện Dưỡng Lão của hàng quý tộc.

"Đúng vậy, tốn càng nhiều tiền thì càng tốt, người con trai kia mới thấy yên tâm hơn, an ủi hơn.Khi đưa mẹ đến Viện Dưỡng Lão vừa bước vào đại sảnh đập vào mắt đầu tiên là chiếc Ti Vi to tướng 42 in đang chiếu một bộ phim vui nhộn, nhưng trên môi mọi người nụ cười dường như đã chết lịm.

Nhìn những cụ già áo quần giống nhau, kiểu tóc giống nhau đang gật gù trên những chiếc ghế so-fa, dáng vẻ buồn bã, hiu quạnh.Có cụ đang lẩm nhẩm điều gì, có cụ đang khó khăn trong động tác cúi mình nhặt những mẩu bánh rơi trên mặt đất lên ăn.Người con trai biết mẹ thích ánh sáng, nên đã chọn cho mẹ một căn phòng có đầy đủ ánh sáng.Từ cửa sổ căn phòng nhìn ra dưới bóng cây là những thảm cỏ xanh tươi.Những y tá đẩy những chiếc xe lăn đưa những người già đi dạo bộ, bốn bề không gian tĩnh lặng đến nao lòng.Nhưng dù cho hoàng hôn có đẹp đến đâu đi chăng nữa thì cũng vẫn là hôn hoàng, anh ta thở dài lòng buồn trĩu u uất.

-"Mẹ, con...con về đây". Mẹ chỉ biết gật đầu.Lúc anh ta ra về mẹ vẫy vẫy tay, mồm mếu máo không còn một chiếc răng, làn môi trắng nhợt nhạt khô khan run rấy như muốn nói điều gì nhưng rồi lại thôi .Đến lúc này người con trai mới chú ý đến mái tóc đã bạc của mẹ khoé mắt hằn lên những nép nhăn theo năm tháng.Mẹ đã già rồi!

Ngay lúc đó trong đầu anh lại hiện về một cảnh tượng hồi còn thơ bé.Lúc đó anh ta chỉ mới 6 tuổi, mẹ có chuyện phải về quê không tiện mang theo con, nên gởi anh ta lại cho chú A Tài vài hôm.Lúc ra đi, anh ta hốt hoảng ôm chầm lấy chân mẹ không chịu buông ra, và khóc nức nở van xin mẹ:"Mẹ đừng bỏ con!Mẹ đừng đi"Cuối cùng thì mẹ đành phải mang theo anh ta đi.Anh ta ra khỏi phòng đóng cửa xong mà không dám quay đầu nhìn lại, vì sợ cái ký ức quái ác đó lại trở về.

Vừa về đến nhà đã thấy cảnh tượng vợ và mẹ vợ đang hăm hở vứt những đồ trong phòng mẹ một cách không thương tiếc.Chiếc cúp cao gần 1tấc-giải nhất cuộc thi viết văn hồi cấp 1 giành được với bài 《Mẹ tôi》, cuốn từ điển Hoa-Anh- phần quà sinh nhật đầu tiên mà mẹ dành cái ăn cái tiêu trong một tháng mua cho, và cả chai dầu phong thấp mà mẹ thường hay thoa trước khi đi ngủ nữa, không có con thoa cho mẹ, mang vào Viện Dưỡng Lão thì có ích gì.

-"Đủ rồi, không được vứt nữa" -Người con trai giận dữ quát lớn.

-"Toàn đồ phế liệu rác rưởi này không vứt đi để lại làm gì chiếm chỗ, làm sao để đồ của tao được"-Người mẹ vợ nói không chút ngại ngùng.

-"Đúng đó, anh dọn luôn cái giường cũ kỹ, ọp ẹp kia của mẹ anh ra đi, mai em mua cho mẹ em chiếc mới khác."- Người vợ hùa theo mẹ mình

Trước mắt anh ta là một đống hình chụp hồi anh ta còn nhỏ, những tấm chụp lúc mẹ dẫn anh đi chơi ở sở thú, công viên.

-"Tất cả đều là tài sản của mẹ con không được vứt đi"

-"Thái độ của anh như vậy nghĩa là sao?Nói với mẹ em sao lớn tiếng vậy, anh phải xin lỗi mẹ em ngay!"
-"Vì sao anh cưới em thì phải yêu cả mẹ em, còn em gả cho anh lại không thể yêu được mẹ anh chứ?"

Sau cơn mưa đêm càng lạnh lẽo hơn, không gian càng yên lặng hơn, trên những con đường xơ xác lại càng thêm vắng bóng người và xe cộ lại qua.Chiếc BMW lướt đi như gió, vượt luôn đèn đỏ, băng cả làn đường vùn vụt lao như tên bay về phía sườn núi của Viện Dưỡng Lão.Dừng xe, chạy thẳng lên lầu, mở cửa phòng ra.Anh ta lịm đi một lúc, mẹ ngồi đó nắn bóp đôi chân bị phong thấp, quằn quại với nỗi đau nhức.Khi thấy trên tay người con cầm chai dầu phong thấp của mình, người mẹ như được an ủi phần nào, mẹ liền bảo:-"Mẹ quên mang theo, may mà con nhớ đem đến cho mẹ".Anh ta đến và quỳ xuống bên mẹ.

"Trời đã khuya rồi, mẹ tự mình thoa cũng được, con về đi mai còn phải đi làm nữa."
Anh ta nghẹn ngào nức nở một hồi rồi khóc oà lên nói với mẹ rằng
 
"Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ, mẹ hãy tha thứ cho con! Mẹ hãy về nhà với con đi!"

 
 


-------------



Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 10/Mar/2010 lúc 2:01pm
 
XIN MỜI ĐỌC MỘT CHUYỆN CẢM ĐỘNG

 

 Người lính cứu hỏa tí hon

                              Nguyen Tran phỏng dich
 
           
Tại thành phố Calgary tỉnh bang Alberta (Canada), một bà mẹ trẻ 26 tuổi đau khổ nhìn đứa con trai mới 6 tuổi đầu thật dễ thương và cũng rất tội nghiệp đang chết lần mòn vì chứng bệnh ung thư máu ở giai đoạn cuối cùng. Trên cõi đời nầy, chắc không có danh từ nào đau thương ngậm ngùi cho bằng hai chữ “cuối cùng”.
           Mặc dù  tâm tư rối bời tan nát nhưng người phụ nữ trẻ vẫn quyết tâm phải làm một cái gì đó cho đứa con bất hạnh của nàng trước khi cháu ra đi. Như muôn ngàn bậc cha mẹ khác, nàng mong con mình lớn lên và thành đạt những ước vọng trong đời nhưng giờ đây thì mơ ước kia đã tan thành mây khói vì chứng bệnh ung thư oan nghiệt. Tuy thế nàng vẫn muốn cho giấc mơ của con mình thành sự thực . Cầm lấy tay con nàng âu yếm hỏi:

-
        Billy, có bao giờ con mơ ước và mong muốn khi lớn lên con sẽ làm gì hay không?
       

-
        Mẹ ơi! Con luôn ôm mộng trở thành người lính cứu hỏa.
 
Bà mẹ trẻ nhìn con mỉm cười:

-
        Được rồi con. Để xem chúng ta có thể làm cho mơ ước con thành sự thật.
 
     Ngay sau đó, nàng tới sở cứu hỏa địa phương gần nhà ở Calgary để gặp chàng lính cứu hỏa Bob, người có trái tim bao la như tỉnh bang Alberta . Nàng trình bày ước muốn cuối cùng của con trai mình và hy vọng là Billy sẽ được ngồi trên xe cứu hỏa đi một vòng phố.
Bob trả lời ngay:

-
        Được chứ! Chúng tôi sẽ làm hơn thế nữa. Vậy bà cứ chuẩn bị cho cháu nó sẵn sàng lúc 7:00 giờ sáng thứ tư , chúng tôi sẽ giúp cháu trở thành người lính cứu hỏa danh dự trong suốt một ngày. Cháu sẽ sinh hoạt trong trạm cứu hỏa, ăn uống chung với chúng tôi, đi công tác khi có kêu gọi cấp cứu... Ngoài ra, nếu bà cho chúng tôi biết kích thước của cháu, chúng tôi sẽ may cho cháu một bộ đồng phục lính cứu hỏa thực sự với nón đồng có huy hiệu Sở Cứu Hỏa Calgary, cộng thêm những sọc vàng chói trên đồng phục và đôi giày cao su. Hảng  sản xuất đồ trang bị cũng gần đây để chúng tôi kịp đặt hàng.
    Ba ngày sau, Bob đến đón Billy, trang phục đầy đủ cho cậu và hộ tống cậu từ nhà thương ra tới xe cứu hỏa ngay chỗ khóa  cài  và thang leo.

           Billy ngồi đàng sau và phụ điều khiển xe về trạm cứu hỏa. Trong ngày đó có ba lần gọi cấp cứu và cậu đều được tháp tùng trong cả ba. Cậu ngồi trên xe cứu hỏa, xe hồng thập tự và cả xe của xếp cứu hỏa.  Cậu còn được thâu hình trên bản tin địa phương.
           Mơ ước đã thành hiện thực với tất cả tình yêu thương và sự ân cần của những người chung quanh đã như ánh hào quang soi sáng làm cậu sung sướng xúc động tới độ đã kéo dài cuộc sống thêm 3 tháng hơn sự dự liệu của tất cả các bác sĩ.

           Nhưng con người không ai vượt qua được định mệnh, một đêm buồn nọ, Billy bắt đầu hấp hối và bà y tá trưởng, người luôn tin tưởng theo ý niệm là tại nhà vĩnh biệt , không một ai đáng chết trong cô đơn nên bà bắt đầu gọi thân nhân cậu bé xấu số vào nhà thương gấp. Sau đó bà sực nhớ lại cái ngày mà Billy sống trọn vẹn vai trò người lính cứu hỏa nên bà vội vả gọi  giám đốc Sở Cứu Hỏa hỏi xem họ có thể gởi ngay một nhân viên trong đồng phục tới nhà thương với Billy trong khi cậu đang chết lâm sàng. Vị giám đốc trả lời ngay:

-
        Chúng tôi sẽ làm tốt hơn thế nữa. Chúng tôi sẽ có mặt tại nhà thương trong vòng năm phút. Nhưng xin bà giúp giùm tôi một việc. Đó là khi bà nghe tiếng còi hụ và đèn chớp thì xin bà thông báo trên hệ thống phóng thanh là không có cháy nhà gì hết. Đó chỉ là sở cứu hỏa tới gặp một trong những nhân viên tuyệt vời nhất một lần cuối cùng nữa  thôi.. Và cũng xin bà mở rộng cửa sổ căn phòng của Billy.
     Độ năm phút sau, một chiếc xe cứu hỏa trang bị khóa cài thang leo tới nhà thương và cầu thang được bắt lên một cánh cửa sổ đang mở rộng trên lầu 3. Rồi thì 16 lính cứu hỏa lần lượt leo lên thang vào phòng của Billy. Với sự đồng ý của mẹ cậu, họ lần lượt  ôm  cậu vào lòng thật lâu trong ngậm ngùi và nói với cậu rằng họ yêu thương cậu vô vàn.

           Qua hơi thở hấp hối, Billy mệt mỏi nhìn vị giám đốc nói:

-
        Thưa ông giám đốc! Cháu đã thực sự là người lính cứu hỏa rồi phải không?
     Vị giám đốc dịu dàng trả lời:

-
        Đúng vậy Bill! Cháu quả là lính cứu hỏa, và đấng tối cao Jesus đang cầm tay cháu đó.
     Nghe tới đây, Billy mỉm cười nói:

-
        Cháu biết rồi. Chuá Jesus đã cầm lấy tay cháu suốt ngày nay và có cả các thiên thần đang ca hát.
 
     Thế rồi cậu nhắm đôi mắt lại…một lần cuối cùng mang hình ảnh người lính cứu hỏa tí hon đi về vùng miên viễn…




(Xin cám ơn người bạn đã chuyển đến bài nầy)


-------------
Lộ Công Mười Lăm


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 12/Mar/2010 lúc 1:27pm

NGÀY GIỖ MẸ


Theo phong tục truyền thống Việt, dân ta kỷ niệm ngày qua đời của người quá cố, ngày giỗ, khác với người Tây phương thường kỷ niệm ngày sinh gọi là sinh nhật. Ngày nay việc tổ chức mừng sinh nhật không làm cho một ai ngạc nhiên hay phê bình. Riêng về phụ nữ, ngoài ngày Phụ nữ 8-3, ngày Vu Lan, rằm tháng 7, mùa Báo hiếu, còn có Ngày Hiền mẫu. Thật là một tập tục đẹp để nhắc nhở người con mọi thời nguồn cội và đồng thời bổn phận vinh danh gìn giữ và phát huy .

- Mẹ ơi, nhà con đi rồi mẹ biết đấy, chắc rồi đây trước sau gì con cũng phải sang theo. Ba đứa cháu của ngoại cần sự giáo dục của cha lẫn mẹ, gia đình mà cha mẹ xa nhau đáng thương con cái quá. Con không biết đến chừng nào chúng con mới gặp lại nhau, tâm trạng con lúc nầy rối bời bời, mẹ khuyên con gì đi mẹ ? Mây ôm lấy mẹ nước mắt đoanh tròng.
Mây là con gái một, cha mất khi Mây lúc còn nhỏ, lập gia đình đã có ba con rồi mà vẫn còn ở chung với mẹ cho đến ngày chồng theo diện đoàn tụ gia đình bên chồng đi nước ngoài.
- Mẹ già rồi không biết ngày nào về với ông bà.Thật lòng mẹ không muốn rời con cháu nhất là các cháu còn nhỏ quá, mẹ lại không còn tuổi và sức khoẻ để đi theo được. Từ lâu mẹ vẫn biết thế nào cũng có ngày nầy, vì vậy ngày nào các con còn ở lại thì cố gắng chịu đựng, thời gian chờ đợi thường dài lắm đó con.
- Hôm tiễn nhà con ra phi trường với gia đình bên nội các cháu, nhìn theo nhà con nhỏ dần biến hút sau cánh cửa phi cơ, quay lại bên mình ba đứa nhỏ ngơ ngác vừa vẫy vẫy tay từ biệt vừa lẩm nhẩm kêu bố ơi, bố ơi, con bấy giờ mới cảm thấy bơ vơ cô đơn làm sao !
- Mẹ hiểu con buồn lắm, nhưng con cũng nhớ rằng con có phước hơn nhiều người khác có hoàn cảnh bi đát hơn. Bây giờ không phải lúc mà con lo buồn về cuộc chia ly, mà từ đây con phải mở tai mở mắt to mà sống, thực tế khác hẳn không biết đâu mà lường.
Trước kia, khi cậu con mất đi, thời thế khác, mẹ một mình nuôi con theo ý mẹ được. Dưới thời Pháp thuộc, Nhật thuộc, họ là người ngoại quốc xâm lăng, mình phân biệt rõ ràng ai là ai. Rồi đến thời Việt nam Cộng hòa cũng có những luật mới áp dụng như Luật gia đình, luật Người cày có ruộng, luật bầu cử …,cuộc sống và thân phận của người dân cũng khác bây giờ.
- Thương mẹ đã trên 80 tuổi rồi mà còn không vơi lo lắng cho con cháu, má nghĩ chu đáo cho tụi con còn hơn lo cho riêng mình.
- Nước mắt chảy xuống con à, rồi đây tới phiên con, con cũng tất đi qua con đường ấy như mọi người mẹ trên đời. Người đàn ông Việt nam ta thường sống về công danh sự nghiệp, ngoại tướng, còn phụ nữ chúng ta dù có chức phận cao sang đi chăng nữa, bổn phận nội tướng làm vợ làm mẹ vẫn là trọng yếu. Nếp nhà có tốt yên được là phải do bàn tay người phái yếu, bà mẹ đó con. Không ai phủ nhận địa vị cốt yếu của người cha trong gia đình, do đó mới có câu đổ lỗi cho các bà ‘Con hư mẹ, cháu hư tại bà ’ đó.
- Bây giờ khác hơn rồi mẹ ơi, ở các nước tân tiến, quan niệm về người phụ nữ khác hẳn, tự do và bình đẵng hơn. Quyền lợi và bổn phận cũng đồng đều không như thời trước của mẹ. Ngày xưa có những ngành nghề như đặc quyền của phái nam như quân nhân, bác sĩ, luật sư, giáo sư chẳng hạn. Bằng cớ là ngay cả nước Pháp trước kia chỉ có docteur, avocat, professeur, facteur, maçon,…sau nầy mới có nữ bác sĩ, nữ luật sư doctoresse, avocate…Mẹ của con cũng văn minh thức thời thua ai đâu, mẹ cũng dám ‘tống cựu nghinh tân’ chọn cái mới hay, bỏ cái lạc hậu nên dù có một con mà là con gái nữa vẫn cho con tiếp tục học lên.
Ngày nay, người ta còn châm biếm đùa thời đại nầy là thời của các bà các cô, như ở Mỹ là thời ‘first Lady’, dân Pháp cũng được nổi tiếng ‘nịnh đầm’ đó mẹ. Mẹ nói rồi con mới nhớ một chuyện thật tức cười vô cùng minh chứng chuyện trên gần đúng 100%
- Con kể đi.
- Mẹ nhớ không, sau khi đi học nội trú ở trường Nữ Trung học Gia
http://long.software.informer.com/ - được gần một năm thì phong trào Sinh viên học sinh xuống đường biểu tình rồi đám táng anh Trần văn Ơn mất ngày 09-01-50. Sau đó, các trường bị đóng cửa nhưng đầu niên học mới, tất cả học sinh phải thi lên lớp. Thế là phụ huynh xôn xao, ai cũng tìm cách cho con học thêm các môn chính ở Saigon vì ở tỉnh nhỏ bây giờ chưa có trường Trung học.
- Mẹ nhớ mài mại rồi, hình như con lên ở trọ một hai tháng gì đó bên Khánh hội đi qua Cầu Ông Lãnh, trong hẻm phố cất sát bên bờ sông. Trước nhà, dường như có một cái xưởng sơn mài Thành Lễ, thời cơ sở còn chưa nổi tiếng quốc tế như ngày nay.
-Trí nhớ mẹ còn tốt quá, nhà anh Tư Như đó, lúc bây giờ anh chị vừa mới có cháu trai Bình đầu lòng bụ bẫm thật dễ thương làm sao.
- Anh tư con mồ côi cha mẹ lúc chín mười tuổi, hồi nhỏ cũng ở nhà mình đi học, lớn lên đi làm xa lưu lạc nhiều nơi. Có một điều là mỗi năm Tết đến thế nào cũng về quê thăm bà con, ăn mặc bảnh bao, chải đầu mướt mượt ‘ruồi đậu phải chống gậy’, bải buôi, gặp ai cũng chào hỏi, hay hát hút gió như Tây và kể chuyện xứ người không biết có thật hay không nhưng hấp dẫn vui nhộn yêu đời lắm, cái thằng !
- Anh thứ tư mà sao con nghe hàng xóm gọi thầy ba, chắc là thứ của chị thì phải.
- Không phải, theo nó nói, có dạo nó làm thư ký cho cơ sở khai thác đá làm đường gì đó mà nên người quen gọi là ‘thầy Ba đá’, …
- Biệt danh gì mà có vẻ anh chị ‘ba đá du côn’ quá.
- Ờ ha, vậy mà nó cứ bảo là trùng hợp thôi và nó còn khoe đào hoa lắm, nhiều cô ‘mết’ nó trong đó có cô Ba cháu ông chủ nữa. Chắc nó xạo miệng chút ít thôi chứ chưa có thấy nó làm gì tai tiếng bậy bạ. May là nó trụ lại được, cưới được vợ lúc lên ba mươi mấy tuổi rồi. Chị tư của con cũng là con gia đình khá giả có tiếng ở Long xuyên, không biết làm sao mà nó quen cưới được. Lần đó nó có về mời má với hai vợ chồng chị nó đi dự đám cưới đại diện cho đàng
http://trai.software.informer.com/ - vì nó không còn cha mẹ nữa. Thấy bề ngoài hời hợt của nó, thế mà rất có phong cách đàng hoàng lịch sự làm bà con ai cũng ngạc nhiên, bên gái cũng có vẻ vui mừng thật sự. Thở phào nhẹ nhõm dù mệt mà vui.
- Cái tánh nịnh đầm của ảnh, chắc mẹ biết rõ, mẹ cũng bị nhiều người mắng vốn lắm rồi vì người ta cho là 35 ‘dê xồm’ vì ảnh hay vồn vã hỏi thăm làm quen tươi cười lanh miệng lẹ mắt đối với mọi người kể cà các bà cô mới gặp.
- Ôi nói gì cái mững đó thì chắc cũng có chứ không thuần ‘tình ngay lý gian’ đâu. Mà thật ra
cũng nhờ đó nó mới được như vậy. ‘Cha mẹ sinh con, Trời cho tính’, ba má của nó hiền như cục đất, ít ăn ít nói, thế mà nó hoàn toàn không giống chút nào hết. Các ông thì cũng không ghét nó vì có mặt nó ở đâu thì không khí vui nhộn lên, nó kể chuyện cũng có duyên lôi cuốn lắm, chuyện trời đất Tây Tàu ‘trà dư tửu hậu’ gì thường liên quan nó thôi nên không phật lòng ai hết, người ta cười xòa cho là ‘ba xạo’, nói đùa tán hưu tán vượn cho vui, xí xóa phần tình tiết râu ria thêm thắt cho câu chuyện ly kỳ gay cấn dí dỏm hào hứng lên.
- Ảnh hát khá hay thuộc nhiều bản nhạc Pháp nổi tiếng mà biết đàn mandoline, hạ uy cầm chút đỉnh lại còn hay huýt sáo nữa, ảnh còn nói tiếng Pháp khá trôi chảy.
- À má còn nhớ, lúc Pháp chiếm tỉnh mình, dân ở trung tâm tỉnh tản cư về làng, anh Tư con cũng từ Saigon vể nhưng bị mục nhọt sưng to làm ảnh nằm liệt một chỗ sốt nặng đành ở lại nhà không theo về quê được. Thế mà vậy mà may.
Một hôm lính Tây đi ba trui (patrouille) đi tuần, lục kiểm soát từng nhà, đập phá tứ tung, mở tủ rương trấp lấy đồ đạc, bắt giữ người còn ở lại đem về bót để phỏng vấn điều tra, bắt cả gà vịt heo, lưới luôn cá nuôi ở ao nhà. Do đó họ phát hiện ngay nhà nào tình nghi có người còn ẩn trốn ở lại. Tên chỉ huy ra lệnh bao vây mục tiêu địch như đi hành quân vậy, súng đạn lên nòng rôm rốp trong tư thế sẳn sàng chờ lệnh tấn công, tình hình rất căng thẳng đáng sợ lắm.
- Toàn là lính Tây không hả mẹ?
- Quân đội Pháp viễn chinh bấy giờ tạp pín lù tạp nhạp lắm, gồm nào là thành phần cốt cán chỉ huy là Pháp, nào là là lính bắt buộc thi hành đầu quân của các nước bị Pháp đô hộ như Indochine française gồm ba nước Việt nam, Cao miên và Lào, Maroc, Agérie, Tunisie, Madagascar,… và đặc biệt lực lượng lính thuê đủ da màu rất thiện chiến, được huấn luyện quân sự tác chiến, lính lê dương
Lính Lê dương trong chiến tranh Đông Dương



- Nhà mình cũng bị đập phá phải không mẹ?
- Tất nhiên nhà nào cũng vậy hết không mất mát ít thì nhiều, ai cũng sợ hết, đàn ông con trai bị bắt thì bị giữ nhốt để khai thác tin tức dò la truy tìm diệt lực lượng kháng chiến. Bị bắt thì thường bị tra tấn dữ dội ác độc lắm. Cậu Bảy con cũng là nạn nhân chiến tranh đô hộ đó, bị cho điện châm vào nơi hiểm yếu của cơ thể giật chết lên chết xuống, cho đi máy bay, tàu lặn trấn nước hộc máu mới thôi.
Còn đàn bà con gái thời bố ráp nhiễu nhương nầy, nhất là ở thôn quê, cũng trở thành con mồi sống cho những tên lính xa nhà không có vợ con theo, lính đánh thuê giết mướn đủ thứ da màu từ Á sang Âu.

Mà con biết không, bất cứ ở đâu củng thế, trong chiến tranh, thông thường người ta nghi rằng ai mà bị bắt là chỉ khi bị có tên nào chỉ điểm thôi, thời bấy giờ ta gọi ngắn gọn là Việt gian, nôm na là lính kín, còn sau nầy văn minh tân tiến hơn thì có ngành huấn luyện mật tinh nhuệ riêng như là cảnh sát, công an tình báo, mẹ không rõ lắm. Thành phần nầy thời nào cũng thế ít được dân chúng ưa, oán ghét nữa là dù có người tốt xấu khó phân biệt được. Nhất là những thông dịch viên gọi là thông ngôn (interprète), vì chỉ một từ dịch sai cũng có thể là viên đạn đồng kết thúc một cuộc đời vô tội đó con. Dịch là phản (traduire c’est trahir) là như vậy đó.

Ở quê mình chẳng hạn, người dân vẫn còn nhớ đến thời kỳ kháng chiến chống Pháp, không quên công ơn các vị anh hùng Võ Tánh, Trương Định và nhất là sự phản bội của Đội Tấn mà Tháp Lãnh binh Tấn được Pháp xây lên tại trung tâm Châu thành Gòcông cho đến
http://19451.software.informer.com/ - mới bị dân địa phương nổi lên đập phá tan tành.
Tháp Lãnh Binh Tấn ở Gò công trước 1945

- Đáng thương cho các nước bị xâm lăng quá, không biết đến chừng nào mà các nước tự cho là đại cường từ bỏ mộng làm bá chủ hay tìm đất mới, thị trường rẽ để trục lợi cho mình.
- Mẹ còn nhớ hôm nhà mình bị đập phá, tối hôm ấy, cả nhà bên ngoại hoảng hốt vì giữa đêm có tiếng cào cửa dồn dập và tiếng sủa nho nhỏ mệt mõi khàn đục của con chó. Té ra là con chó Jackie nhà mình, nó khôn quá đánh hơi tìm ra nơi tản cư của mình để báo tin. Lúc đó mẹ nghĩ ngay là chắc chắn nhà mình có chuyện không may xảy ra rồi. Chừng trở về nhà, nhà cửa tan hoang.
- Còn anh tư Như đâu ?
- Như mẹ đã kể, khi mọi người vội vã bằng mọi phương tiện riêng chạy về làng của bà con hay quen biết tìm nơi trốn tránh không biết thời gian bao lâu, vì anh Tư con không di chuyển được, ai cũng lo mang đồ đạc tùy thân để chạy trốn, ẵm bồng con trẻ, phụ đẩy xe hay võng các cụ nội ngoại, khó ai giúp ai được người khác hết. Thằng Tư đành chịu trận ở lại thôi, định đi sau.
Khi lính Tây lục soát từng nhà, họ phát giác dễ dàng nó nằm vùi trên bộ ván gõ sốt nặng, mụt nhọt mưng mủ hành nó dữ dội, mặt mày đỏ gay. Một mặt, tên nào tên nấy cứ thả giàn đập phá cửa thông thương hoặc tủ nào còn khóa tìm gì còn xài được thì lấy tự do, mặt khác vị chỉ huy toán lính đó tự đến hỏi cung kẻ nào bị bắt. May là anh tư con còn tỉnh chưa bị mê sảng nên cố ngồi dậy đưa hai tay lên đầu khi thấy nòng súng sáu hay mút ca tông chỉa về phía mình.
- Vậy là ảnh bị bắt hả má ?
- Đáng lẽ là như vậy, nhưng nó còn tốt số nên gặp được một quân nhân trẻ tốt bụng thương
người. Ông ta định sai người lính tùy tùng gọi tên thông ngôn để phiên dịch, nghe thế anh tư con vội trả lời ngay là biết nói tiếng Pháp và kể là bị bệnh sốt rét rừng nặng, đã được chích và uống thuốc quinine. Chẳng may bị abcès sưng to đau đớn lắm và không có ăn uống gì hết kiệt sức nên không ra trình diện được. May mắn hơn nữa là người nầy lại thuộc quân y nên anh ta bảo đưa cho xem chỗ đau để kiểm tra thật hay giả. Khi phát hiện ra chỗ sưng đỏ gần bể, vị sĩ quan ấy cho lính dìu anh con ra xe
http://jeep.software.informer.com/ - chở vể P. C. (chữ tắt của Poste de Commandement) Trung tâm hành quân của Pháp lúc bấy giờ để giải phẩu ngay. Hai hôm sau lại chở về nhà trở lại và nhân đạo hơn, mỗi ngày anh ta cũng trở lại thay băng săn sóc vết thương.
- Khó có người như vậy quá phải không mẹ ? Thật đáng phục tình nhân đạo thật sự biết dường nào. Nhớ ngày xưa ta đều gọi người ngoại quốc là Bạch quỷ, Hắc quỷ, Hồng mao, bây giờ ta nhận thấy rằng cũng có quỷ hiền quỷ tốt và tiên thánh cũng có tiên ác, ma vương, tiên thật tiên giả.
- Là con người mà con, không ai hoàn toàn cả, đừng đòi hỏi điều không có đó đi. Đâu phải chỉ ở các nước giàu văn minh là toàn người tốt bụng tử tế mà cũng có kẻ gian ác giết người. Câu chuyện mẹ kể trên như là một bằng chứng hiển nhiên.
- Trở lại chuyện anh tư nha mẹ, không biết có phải rút kinh nghiệm sống trên anh tư bắt đầu trụ lại lập gia đình. Anh biết lo gia đình nhưng cái tính cà rỡn bốc đồng, máu văn nghệ của anh lắm lúc làm chị tư nổi máu Hoạn thư, tam bành lục tặc khóc ầm cả nhà. Có lần, con vừa đi học về nghe tiếng khóc trong phòng ngủ cùng với tiếng quát tháo của anh tư cộng thêm tiếng chát chát :’ Đánh chết luôn cho biết’. Sợ quá, con vội chạy vào trong, thì ra, một hoạt cảnh xảy ra trước mắt thật buồn cười là chị đang đu trên lưng ảnh vừa khóc vừa đánh túi bụi vào lưng trần của anh, còn anh tay thì đánh vào tấm vách ván bổ kho gây tiếng động, miệng la to át tiếng khóc của chị. Con rút lui có trật tự không dám hó hé nói tiếng nào hết.
- Vậy mà nó không lộn xộn gì cả, không vợ bé vợ nhỏ, cũng tốt. Nói lại chuyện mình đi con, con thấy không ở đâu có chiến tranh cũng khổ hết con à, mà xứ mình thì không biết đến chừng nào mới có hòa bình thật sự. Thời kỳ hậu chiến tranh cũng đáng sợ lắm đó con. Với tuổi đời của mẹ, mẹ đã chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử, bao sự đổi đời rồi mà lần nào cũng hy vọng là lần cuối để rồi, thật khó hiểu làm sao.

Không phải chỉ có kẻ thù khác chủng mới là tàn ác mà chính là đồng bào ruột thịt của mình, thật đáng tủi hổ làm sao. Cũng như nước đại cường nào có mộng xâm lăng bá chủ mà ở cách xa mình qua đại dương, cách biệt bằng nhiều tầng nước khác thì không nguy hiểm bằng nước tự xưng là nước anh em kết nghĩa, đồng chí bạn bè láng giềng hùng mạnh, vậy theo chuyện huyền thoại Hy Lạp, giống như thanh gươm
http://treo.software.informer.com/ - lơ lửng bằng một sơi lông đuôi ngựa ngay trên đầu Damocles.

- Lần nầy con về thưa với mẹ hoàn cảnh của con hiện nay. Nếu không có gì thay đổi thì trước sau gì nhà con cũng bảo lãnh chúng con sang, càng lâu càng bất tiện cho các cháu lắm. Vi lý lịch như thế nầy, tương lai của các cháu không biết thế nào. Nhưng nếu mẹ muốn, con có thể ở lại với mẹ và để cho các cháu sang trước với bố chúng.
- Không được đâu con, chồng đâu vợ đó. Có vợ bên cạnh mà còn nhiều chuyện không hay xảy ra, huống hồ. Vả lại, ở lại với mẹ bao lâu ? Ai lo cho các cháu còn nhỏ quá, chồng con cũng phải đi làm nuôi gia đình chứ ai nuôi không mình đâu. Con đừng lo gì cho mẹ hết. Đến từng tuổi nầy rồi, mẹ còn sáng suốt, đi đứng chưa đến nổi nào, mẹ còn có các cháu họ hàng sống từ nhỏ với mẹ, bà con ruột thịt ở gần đây. Mẹ gần chín mươi tuổi rồi mà, vậy thì việc về với ông bà ở đây tiện lợi hợp lý hợp tình hơn đó con. Thương là thương cho con từ nhỏ đến giờ chưa bao giờ sống xa mẹ, còn mẹ không còn dịp chia vui buồn trực tiếp với con cháu trong tuổi gần đất xa trời nầy. Nhưng rồi sớm muộn gì cũng phải chia tay mà con.

Ba năm sau, bốn mẹ con Mây cũng được rời khỏi đất nước. Trong thời gian chờ đợi ấy, mẹ Mây luôn tỏ ra bình tỉnh trước mọi tình huống.Thủ tục xuất ngoại thời bấy giờ cũng gây phiền toái lắm nhưng mẹ cứ khuyên chuyện nào phải làm thì phải kiên trì nhẫn nhục mà làm, mẹ không bao giờ tỏ ra giận buồn gì lìa con xa cháu dù mẹ biết rằng tuổi đời mẹ như ngọn đèn dầu trước gió.
Mẹ cũng không theo tiễn con cháu ra phi trường như trước kia mẹ cũng không đưa con lên đi học Trung học ở Saigon, mẹ bảo không muốn làm con bận bịu, mẹ muốn con mẹ ngắm nhìn ra phía trước, mẹ cầu nguyện hy vọng may mắn và hạnh phúc theo dõi bước chân cháu con, tương lai mở rộng tốt đẹp hơn, tầm nhìn con người phóng khoáng cao cả hướng thiện, sống làm sao cho sống ra con người sống có tình người.

Bây giờ trên hai mươi ngày giỗ qua rồi, ký ức vẫn còn đó, có những kỷ niệm phai mờ nhưng không bao giờ bôi xóa được. Thế giới thay đổi cực kỳ nhanh chóng, tất nhiên tâm hồn con người cũng khó không xoay chiều như chong chóng bông vụ con cù. Ngày xưa, gia đình là tổ ấm, cha như là vách ngăn rào chắn, mẹ là bờ vai. Phong tục tập quán là bờ dậu hàng tre. Tất cả đó như là những sợi giây thiêng liêng vô hình ràng buộc với cội nguồn dân tộc, tập giữ chân con cháu theo vết bước cha ông.
Không biết lực phóng tiến bộ trên mọi mặt đưa con người về đâu ? Từ khám phá nầy đến sáng kiến siêu vi khác, học thuyết xã hội, chính trị, tâm linh thâm sâu rộng mở, cộng thêm ngọn gió tự chủ độc lập bình đẳng tự do, theo lý thuyết ý tưởng chân chính là phục vụ nhân loại hòa bình tương trợ, nhưng trên thực tế, cái vòng sinh bệnh lão tử vẫn còn xoay tít chẳng dừng, chiến tranh lạnh nóng với chiếc lưỡi hái Tử thần hăm he du di không ngừng từ Đông sang Tây xuống Nam lên Bắc. Không biết có phải lý tuởng của con người quá cao vời vợi đưa giấc mộng cầu toàn bá chủ lên tận mây xanh mà không nhớ để ý đến cái tâm trọng yếu hay không ? Nếu lòng người còn ích kỷ chao đảo bất an, hòa bình không bao giờ yên vị được, chiến tranh leo
http://thang11.software.informer.com/ - nhanh theo.
Ngày nay, chẳng những ‘cái tôi’ không bị ghét bỏ trái ngược với ‘le moi est haỉssable’ của
http://pascal.software.informer.com/ - thôi mà còn được đề cao tột bực. Hy vọng rằng con người sinh vật siêu đẳng nhất mọi loài, ý thức vai trò cốt yếu cực kỳ quan trọng của mình đối với tập thể, nhân loại, quyết tâm phấn đấu sử dụng cái tôi thông minh khôn ngoan và cái tâm thiện có lương tâm của mình vào việc bảo vệ môi sinh, duy trì phát triển sự sinh tồn phồn vinh an lạc giống người trên quả bóng màu xanh tuyệt đẹp luôn khoe sắc trong không trung vô tận nầy.


Trần Thành Mỹ



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 13/Mar/2010 lúc 8:41am
 
Hai người ngốc
 
 
Vai chính trong câu chuyện tình yêu này là hai người ngốc. Người con trai ngốc lắm. Ngốc đến nỗi chỉ biết hét lên những câu điên dại. Người con gái cũng ngốc, ngốc đến nỗi chỉ biết nhìn người khác bằng cặp mắt vô hồn rồi cười một cách ngây ngô.


Hai người họ vốn dĩ không quen nhau, kẻ trời Nam, người đất Bắc. Gia đình của họ đều hắt hủi họ, bỏ mặc cho họ lang thang phiêu dạt tứ xứ. Người con trai từ miền Nam lang thang lên phía Bắc. Còn người con gái từ phía Bắc dạt xuống phía Nam. Cứ trôi dạt... Cứ phiêu lãng...

Người con trai vốn dĩ ngày trước không ngốc chút nào. Nhưng vì một lần làm việc ở công trường xây dựng không may bị gạch rơi vào đầu, từ đó biến thành kẻ đần độn. Người con gái vốn dĩ trước kia cũng không ngốc. Cô thi đỗ thủ khoa vào một trường đại học danh tiếng, nhưng rồi bị một kẻ có tiền mua danh, hoán đổi tất cả, từ đó, cô gái không bao giờ nói chuyện với ai, không quan tâm gì đến bố mẹ, và cuối cùng cũng biến thành một người ngốc.

Họ đã lang thang không biết bao nhiêu nơi, không biết bao nhiêu năm. Chỉ biết bộ quần áo của người con trai đã bẩn thỉu, nhếch nhác, đôi giày vải rách nát để lộ những ngón chân đen vì bùn đất. Và chiếc áo đỏ mà người con gái mặc cũng đã ngả sang màu của tro bụi, mớ tóc rối bù còn vương vài sợi cỏ rơm, nhưng khuôn mặt vẫn trắng đến lạ kỳ. Trên tay cô cầm một chai nước, lúc nào cũng nhìn những người xung quanh và cười một cách ngô nghê.

Họ gặp nhau trong một buổi chiều tà, khi cùng phát hiện trong thùng rác còn sót lại chiếc bánh mì đã mốc meo. Họ cùng lao lên trước, giơ tay chộp lấy miếng ăn duy nhất, đầu va vào nhau. Người con trai trợn mắt nhìn người con gái. Người con gái đáp lại bằng điệu cười ngây dại, nhưng cuối cùng cô vẫn chịu thua.

Người con trai há to miệng cắn và nhai nhồm nhoàm miếng bánh mì. Chợt anh ta nhìn thấy người con gái đang đứng bất động nhìn anh, bất động đến ngây dại, trong ánh mắt không một đốm sáng. Cô ta chỉ nhìn anh, cổ họng không ngừng nuốt nước bọt.

Người con trai dừng lại không ăn nữa, bắt đầu nhìn người con gái, cái nhìn chăm chú mà cũng ngây dại. Hai người họ cứ đứng nhìn nhau. Khuôn mặt người con trai không biểu lộ chút tình cảm nào. Người con gái vẫn cứ cười ngô nghê.

Người con trai đưa chiếc bánh mì cho người con gái rồi quay đầu bước đi không nhìn lại, bỏ mặc người con gái đứng đó ngấu nghiến gặm chiếc bánh mì. Khi về đến cái lán rách lụp xụp bên bãi rác quen thuộc, người con trai quay đầu lại và bất chợt nhìn thấy người con gái. Cô ta đã đi theo anh về đến đây. Vẫn là nụ cười ngây dại ấy.

Họ không lên tiếng. Buổi tối hôm ấy, lúc nằm ngủ, người con trai cảm thấy cơ thể ấm hơn bình thường. Sự ấm áp trước đây chưa từng có. Người con gái đang ôm người con trai và ngủ. Dáng vẻ của cô ta khi ngủ quả thực ngô nghê giống một người ngốc.

Hai kẻ ngốc sống với nhau từ đó. Ban ngày họ ra phố nhặt nhạnh tất cả những thứ có thể ăn được, buổi tối cùng trở về cái lán rách và ngủ. Ngày tháng cứ trôi qua trong sự tuần hoàn ấy.

Buổi tối đó, người con trai không biết từ đâu nhặt được một chiếc nhẫn đã gỉ. Anh ta đeo lên tay người con gái. Người con gái nhìn anh và cười. Vẫn là nụ cười ngây dại, nụ cười xé rách sự tĩnh mịch của màn đêm. Cuối cùng thì cười ra nước mắt.

Người con gái khóc. Lần đầu tiên. Cô ta ôm lấy người con trai, khóc rưng rức. Người con trai dường như không chút động lòng, khuôn mặt vẫn không biểu lộ tình cảm gì.

Cuối cùng một ngày kia, người con gái phát bệnh nặng. Buổi sáng, cô ta không cùng người con trai ra phố nhặt đồ, cũng không cười ngô nghê với anh ta nữa. Người con trai đi một mình, và buổi trưa bất ngờ quay về với một chiếc bánh mì mới và một chai nước mới trong tay. Trên mặt anh ta còn lưu lại vài vết bầm tím, dưới mũi còn hai vệt máu dài. Đó là vì trong lúc cướp bánh mì và nước ở quầy hàng anh ta đã bị người ta đánh.

Người con gái vẫn nhắm mắt, không còn nhìn người con trai và cười ngốc nghếch như trước kia nữa. Người con trai đút miếng bánh mì nhỏ vào miệng người con gái, nhưng cô ta không ăn. Toàn thân cô nóng như lửa đốt, và rơi vào trạng thái hôn mê.

Người con trai lần đầu tiên lộ ra chút biểu cảm trên khuôn mặt. Đó là sự hoảng loạn. Anh chạy ra ngoài, bất chợt gặp hai người mặc đồng phục cảnh sát, vội hét lên: “Hãy cứu lấy cô ấy! Cứu lấy người đàn bà của tôi!”. Nước mắt anh ta lăn trên đôi gò má gầy gò. Lần đầu tiên người con trai khóc.

Hai cảnh sát lấy chân đạp anh ta ra và chửi: “Cút xéo! Vừa ra ngõ đã gặp thằng điên!”. Người con trai càng đập đầu van nài bao nhiêu, càng bị hai tên cảnh sát đó đá thốc vào bụng bấy nhiêu.

Khi họ bỏ đi một lúc, người con trai mới lồm cồm bò dậy. Nước mắt đã khô. Người con trai bế người con gái ra phố. Người đi trên phố rất nhiều, nhưng chỉ nhìn họ bằng ánh mắt lạnh lùng trong giây lát rồi lại rảo bước thật nhanh.

Người con trai đặt người con gái nằm ở ven đường. Hơi thở của cô ta đã yếu dần và gần như tắt lịm. Người con trai nhặt một mảnh thủy tinh vỡ sắc nhọn, nâng cánh tay gầy gò, đen đúa của người con gái và rạch một đường nơi cổ tay. Máu phun đỏ tươi khuôn mặt người con trai. Anh cười điên dại và hét lên: “Tôi giết người rồi. Mọi người nhìn xem, tôi giết người rồi...”.

… Xe cấp cứu đến. Người con gái được đưa đi. Ở bệnh viện, người con gái được băng bó vết thương và được hồi sức. Đã qua cơn nguy kịch. Khi biết người con gái là một người ngốc, ai cũng ái ngại và không muốn giữ cô lại.

Cô ta rời khỏi bệnh viện trong sự hắt hủi của bác sĩ và y tá. Cô biết ngoài kia còn một kẻ ngốc nữa đang đợi cô. Vẫn là khuôn mặt vô cảm ấy. Người con gái lại nhìn người con trai và cười ngô nghê.

Họ ngốc. Nhưng điều duy nhất họ hiểu rằng là, cho dù xã hội không cần họ, thì chỉ cần họ sống có tình yêu cũng đủ rồi. Bất kể tình yêu đó là tình yêu của những kẻ ngốc

Họ ngốc hay chính chúng ta mới là những kẻ ngốc...
 


-------------



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 15/Mar/2010 lúc 9:58pm
Cái gáo mù u
Nguyễn Quang Sáng
Bây giờ thì tấp nập lắm, không như ngày tôi mới dọn về. Ba năm trước đây là một con đường nhỏ, nhiều chùa, nhiều quán chay: cơm chay, hủ tiếu chay, bánh bao chay.

Vào ngày mồng một, ngày rằm, xe cộ nườm nượp qua lại quán chay. Dù ở mặt tiền, đêm vẫn ngủ ngon giấc, chiều và gần sáng nghe tiếng chim ríu rít trên vòm lá. Suốt một đoạn đường dài không có một quán bia hơi. Vốn là người sống nơi nhộn nhịp giữa trung tâm thành phố, tôi thấy hơi buồn, buồn hơn là xa bạn bè. Nhưng ở đây tôi tìm lại được một niềm vui nhỏ, ở đây có cái chợ gọi là chợ Cây Xoài. Vùng quê tôi cũng có cái gọi là chợ Cái Xoài, cũng có người gọi là chợ Cả Xoài. "Cái" hay "Cả", chẳng biết tên nào đúng, nhưng "Xoài" thì rất đúng vì chợ nhóm bên gốc xoài, dưới bóng xoài trong một vườn xoài mênh mông. Tôi nghĩ, ở thành phố làm gì có cả một vườn xoài, nhưng chí ít cũng có một hàng xoài. Nhưng cái chợ Cây Xoài nầy không có một cây xoài nào cả. Hỏi một người già lâu năm ở đây, cụ bảo: "Tôi về đây hơn bốn mươi năm, biết mình về chợ Cây Xoài, nhưng không thấy cây xoài. Chắc có từ xa xưa." Đành biết vậy! Âấy cũng là chuyện thường tình. Thời buổi bây giờ, Sài Gòn có chợ Cây Quéo, không có cây quéo. Có chợ Cây Khế, cũng không có cây khế. Trên đường về Long An, nghe quán cháo lòng nổi tiếng - cháo lòng Cây Bàng. Tôi ghé ăn, không thấy cây bàng. Xưa nó có, nó bị đốn, chặt mất rồi, vì nó đẹp nên vẫn còn lưu luyến. Chợ Cây Xoài không nằm dưới bóng cây xoài mà nằm trong một con phố nhỏ. Hàng quán tràn ra hai bên đường, đủ thứ hàng ăn, hàng uống, rau cải thịt cá. Thật sầm uất, vào chợ, để tránh va chạm, thường phải đi nghiêng.

Vào đầu chợ là hàng ăn sáng. Như một cái chợ của một làng quê miền Tây được bốc lên từ mờ sáng. Một dãy hàng xôi: xôi trắng, xôi đậu phộng, xôi cẩm, xôi gấc, xôi vò, xôi bánh phồng. Bên này lề đường thì chè: chè đậu nước cốt dừa, chè trôi nước, bánh ít, bánh ú, lại có một bếp nhỏ đổ bánh khọt. Vừa túi tiền với người bình dân, hàng nào cũng đắt, mỗi thứ hàng người ta mua từ hai trăm, ba trăm, nhiều lắm là một ngàn, đủ bữa ăn sáng. Trong cái cảnh chen chúc ấy, nổi bật lên trước mắt tôi là nồi cháo đậu đỏ chiếm một diện tích bên lề đường chỉ trên dưới một mét vuông là nhiều. Một bên là nồi cháo đang bốc khói, một bên là cái rổ để tô chén, trước là cái mẹt để hủ muối mè, tô dưa mắm, hũ nước cốt dừa đặc quánh, một tô cá con kho tiêu, ngồi giữa là cô bán hàng. Cô bán hàng là nguời lam lũ khó đoán tuổi, tóc bới, áo bà ba, chắc chừng hơn ba mươi, người nhỏ mà tròn mập như hột mít.

Cái món cháo mà hồi còn đi học trường làng, tôi hay ăn trước khi tiếng trống nổi thùng thùng.

Ơở cái tuổi tôi bây giờ, tìm món ăn sáng rất khó. Phở hay hủ tiếu từ năm ngàn, bảy ngàn một tô, không thể nào ăn hết, lần nào ăn cũng bỏ mứa, vừa phí vừa coi kỳ. Xôi hay bánh mì thì nuốt không trôi. Có hàng bánh cuốn dễ ăn, nhưng bột bánh không ngon, nước mắm thì ngọt lại để giá, không như bánh cuốn Hà Nội, không đúng khẩu vị. Cứ chọn đi chọn lại, lần khần rồi chỉ uống ly cà phê, nhịn đến cơm trưa. Tôi thấy mình già. Bỗng một hôm, anh bạn nhỏ tuổi cũng than với tôi là dạo này anh rất lười ăn sáng. Sáng sớm, nổ xe đi làm, anh chạy chầm chậm dài theo đường, chọn quán ăn, không thấy quán nào vừa ý, thấy cái quán bên kia đường có thể vừa miệng, nhưng ngại đâm qua đường. Rồi đến cơ quan, lại lười, uống một ấm trà, nhịn đến trưa. Như vậy không phải một mình mình khó ăn, tôi tự an ủi.

Thấy nồi cháo đậu, tôi mừng, bèn sà xuống cái ghế đẩu bằng nhựa xanh, kêu một chén năm trăm, ăn với muối mè, thật vừa miệng, dễ nuốt. Nhưng ngồi ăn tại chợ thật bất tiện, khi thì xe đạp, khi Hon-da, khi chân người cứ quẹt qua lưng khiến tôi cứ chồm lên phía trước. Được cái ở đây có bán mang về, người mua không cần phải mang tô chén, cháo được rót vào bịch nilông trắng, sợi dây thun buộc túm lại với bàn tay khéo léo của cô bán hàng.

Sáng nào tôi cũng mua một bịch năm trăm đồng. Vậy là tôi đã có món ăn sáng, ngày nầy qua ngày khác, không biết ngán. Một buổi sáng, tôi ra mua cháo, chợt nghe cô nói chuyện với mấy cô ngồi ăn cháo, trẻ có, sồn sồn có, không ngờ cô chửi thề nghe ngọt sớt:

- ... Đ.má nó, lúc chưa cưới, mình muốn đi đâu thì nó vội vàng đem xe đến, đèo mình đi. Đi càng lâu, càng xa nó thích. Khi làm đám cưới rồi, hễ mình hở miệng muốn đi đâu thì nó biểu mình đi xích lô, đi xe ôm, Đ.má nó, đời là vậy!

Rồi cô ngửa mặt cười, người xung quanh cười theo. Cô chấp nhận cái nợ đời ấy thật hồn nhiên, không hờn, không giận, không tủi như chấp nhận cái thân phận của mình là cô bán cháo đậu. Mờ sáng tôi đã thấy cô từ một cái hẻm nhỏ bên kia đường, trên vai chiếc đòn gánh cong quằn, đầu trước là một rổ tô chén, đầu sau là nồi cháo. Vừa bé lại vừa thấp, hai cái đầu gánh cứ nhún nhẩy theo bước chân là dưới mặt đường. Chẳng biết nồi cháo lời được bao nhiêu mà nhọc nhằn quá. Tôi hỏi, cô không nói rõ số tiền mà nói đắp đổi qua ngày. Vào những ngày sắp tết, tôi thấy cô ngồi trong hàng cháo, đưa tay chỉ qua cô bán trái cây:

- Nè, để cho tao bốn thứ, cho tao cúng nghe chưa. Biết không? Mãng cầu, dừa, đu đủ với xoài.

- Sao lại cúng bốn thứ đó?

- Bác không biết sao? Mãng cầu là "Cầu", dừa "Vừa", đu đủ là "Đủ", xoài là "Xài". Cầu vừa đủ xài.

Nghèo và nhọc nhằn đến như vậy mà cũng cảm thấy không yên, phải cúng, phải vái sao cho vừa đủ xài. Tội quá!

Một buổi sáng, tôi đang ngồi ăn cháo thì một anh bạn đến bên tôi. Anh bạn tôi chưa đến bảy mươi nhưng đã vượt qua tuổi sáu mươi lăm, thiếu tướng về hưu, đang viết văn.

- Cậu ăn cái gì mà đỏ đỏ vậy?

- Cháo đậu đỏ.

- Có gì lạ đâu mà hai con mắt anh sáng lên.

- Nhà cậu nấu à?

- Không! Ơở chợ Cây Xoài.

Bất ngờ, giọng anh sôi nổi hẳn lên:

- Mầy làm tao nhớ hồi nhỏ quá. Có lúc tao thèm một tô cháo đậu đỏ nước dừa ăn với dưa mắm, nhưng chỗ tao ở không ai bán.

- Ông thiếu tướng với tôi là bạn cùng làng, anh học trên tôi một lớp.

- Mầy có nhớ dì bán cháo đậu cho tụi mình không?

- Nhớ!

- Mầy có nhớ cái thằng Còn, con ông chủ tiệm cầm đồ không?

- Nhớ ! Nó cũng là thiếu tướng, nhưng là thiếu tướng của Thiệu.

- Mầy còn nhớ thằng Đảnh, con ông thợ mộc không?

- Nhớ ! Nó là thiếu tướng Công an của mình, nó cũng vừa về hưu. Mấy thằng đó cũng như mầy với tao, bên này hay bên kia, lớn hay nhỏ đều ăn cháo đậu với nước cốt dừa. Tao với dì bán cháo có duyên lắm. Đừng có nghĩ bậy bạ. Năm đó, tao với mầy mới chín, mười tuổi, bả bằng má mình thì duyên cái gì? Duyên như vầy. Một hôm bả đón đường tao, bả bảo, nè cháu, cháu với dì có duyên lắm, cháu biết duyên gì không? Dạ thưa không! Hôm nào mà cháu mở hàng cho dì thì chớp một cái phải vét nồi. Bây giờ cháu cầm cho dì năm xu, sáng mai mở hàng cho dì, rồi mai dì lại đưa cho cháu năm xu, ngày nào cũng vậy. Cháu không muốn cầm tiền! Mai cháu mở hàng, dì đừng lấy tiền cũng được vậy! Âấy, ậy! Không phải như vậy. Hai chuyện khác nhau. Nếu cháu mở hàng mà dì không lấy tiền, coi như bán chịu, rồi cả nồi dì bán chịu hết. Cái duyên của tao với bà bán cháo là như vậy. Ăn cháo không mất tiền, tiền bà già cho, tao để dành, chiều ra tiệm chú Xồi ăn cháo quảy.

Từ chuyện cháo đậu, ông bạn thiếu tướng của tôi lại leo thêm chuyện khác.

- Hồi nhỏ tao qua chợ Cả Xoài, tao mua một gói xôi, tao thấy trong gói xôi của tao có cái nhân rất lạ, nho nhỏ màu hột gà. Tao bốc ăn thử, té ra là bông xoài. Bông xoài rụng xuống nắm xôi! Số là, buổi sáng hôm đó là buổi chợ nhằm mùa bông xoài. Tao thấy vui, ngơ ngác nhìn, thấy bông xoài rụng lên tóc mấy con nhỏ không đội khăn. Chỉ có như vậy mà suốt bao nhiêu năm đánh nhau, thỉnh thoảng lại nhớ bông xoài trên mái tóc của mấy con nhỏ...

Câu chuyện của ông bạn thiếu tướng không dừng ở lại đó, còn nữa, ghi thêm e lạc đề. Trước khi ra về, anh bắt tay tôi rất chặt và lắc mạnh bàn tay con nhà lính:

- Sẽ có một ngày nào đó, tao qua mầy thật sớm, hai đứa kéo nhau ra chợ ngồi ăn cháo đậu. Ăn để nhớ thời con nít. Mà, nè, cô bán cháo đậu của mầy múc nước cốt dừa bằng cái gì?

- Bằng cái vá i-nốc - Anh bạn như nhảy lên:

- Sao bằng vá i-nốc, phải bằng cái gáo mù u mới đúng - Biết anh có điều giống tôi, tôi chọc anh.

- Muôi hay gáo cũng vậy, miễn có nước cốt dừa cho anh thôi chứ.

- Biết vậy, nhưng không đúng kiểu.

- Thấy anh vẫn cay cú với gáo mù u, tôi kể:

Một hôm tôi chợt hỏi cô bán cháo:

- Sao cháu không múc nước cốt dừa bằng chiếc gáo mù u?

- Cô bán cháo ngước nhìn tôi cười:

- Mấy ông già bà già nào cũng hỏi như ba. Hỏi thiệt ba, ba là dân tập kết về?

- Sao cháu biết?

- Biết chớ. Người ở ngoải về, cái gì cũng chiếc, chiếc. Trong ta gọi cái áo, ở ngoải kêu chiếc áo, cái gáo thì kêu chiếc gáo. Ba thích, mai con đem ra, con múc nước cốt dừa bằng cái gáo mù u cho ba...

Y hẹn, sáng hôm sau, cô múc nước cốt dừa rưới vào chén cháo của tôi bằng cái gáo mù u, cái gáo mù u nhỏ tròn bằng đầu ngón chân cái, rất xinh, tôi có cảm giác chén cháo ngon hơn.

Anh bạn nhà văn thiếu tướng khoái, cười mà ngậm cả hai môi:

- Như vậy mới đúng ! Rồi anh gật gù ra vẻ tâm đắc - Những cái đẹp nho nhỏ mà không biết giữ thì cái lớn sẽ mất!

Từ cái gáo mù u, chúng tôi lại nhớ cây mù u.

Làng tôi không có cả một vườn mù u, mà thường mọc rời rạc bên bờ sông, bờ rạch hoặc một đôi cây ăn trái. Cây mù u không đẹp, thân nhiều u, lá dài với một màu xanh đậm. Hoa vừa trắng vừa to, bốn lá dài trắng với bốn cánh hao trắng và nhiều tiểu nhụy vàng trên một tấm bì - toàn là loài hoa đẹp với tuổi thơ của tôi. Cái trái của nó, trái mù u, vỏ làm gáo, ruột đem đốt tán nhuyễn trộn dầu dừa xức ghẻ. Nhớ thời Nhật qua, không có dầu lửa, cây mù u bỗng trở nên quý - Không có dầu thắp đèn, trái mù u được xắt lát phơi khô, rồi xỏ xâu, đốt làm đèn - Và nhà tôi, cây cột là cây mù u, và chiếc ghe buôn hàng xóm, cột buồm cũng là cột mù u - Cái giá trị kinh tế của nó khiêm tốn, nên nó mọc ở những thẻo đất thừa. Tôi bỗng nghĩ đến cô bán cháo. Cô và nồi cháo của cô cũng chỉ chiếm một khoảnh đất nhỏ ở rìa chợ.

Anh bạn thiếu tướng của tôi hẹn đến ăn cháo đậu, nhưng không thấy tới.

Tôi trở lại cái tính lười ăn sáng. Cùng với sự biến mất của cô bán cháo, tôi phát hiện ra con phố thay đổi quá nhiều. Người ta đập, người ta xây, khách sạn mi-ni hết cái này đến cái khác mọc lên, cửa hàng, cửa tiệm, tấm quảng cáo nào cũng lộng lẫy, đêm - những bóng đèn li ti mọc lên từ bên này đường qua tận bên kia đường, chớp nháy như đom đóm trên cây bần. Con đường không quá hai cây số mà mọc lên có đến sáu cái nhà hàng máy lạnh.

Khi tôi thấy họ mở cửa hàng, tôi nghĩ, chắc là mấy lão điên, dân xứ nầy ai đủ tiền vô nhà hàng, lại là nhà hàng máy lạnh! Hóa ra họ chẳng điên chút nào. Họ rất thính. Khách chơi từ nơi xa cứ đổ về, như nước chảy về lỗ trũng. Khách chơi đi Hon-da đời mới, đi ô tô biển trắng, cả biển xanh.Tôi nghĩ lẩn thẩn, các nhà hàng đó có cạnh tranh gì với cháo đậu mà cô bỏ nghề.

Cô bán cháo biến đâu đến mức tôi không còn nhớ nữa. Khi tôi quên thì cô lại xuất hiện, cũng ngay chỗ cũ với một nồi cháo. Rất ngạc nhiên là cô nhỏ lại như còn có phân nửa, như một cô gái mười ba mười bốn.

Tôi mừng, và thấy tôi cô cũng mừng.

- Đi đâu mà lâu vậy cháu?

- Bác ngồi xuống đây, con nói cho bác nghe. Con bị đụng xe.

- Vậy sao?

- Nói cho rõ là xe đụng con. Sáng sớm, con gánh cháo. Con nghe sau lưng ù ù chạy tới. Nghe cái cảng, con té, đau điếng. Con không bị chảy máu, nhưng nồi cháo của con tung tóe ra đường, đỏ lờm như máu, thấy chóng mặt.

- Cái thằng đụng cháu nó có đền gì cho cháu không?

- Dạ không, nó rú ga chạy mất, con không kịp nhìn số xe của nó nữa. Vô bệnh viện, không ngờ bị gẫy xương. Từ đó đến nay là tám tháng, bao nhiêu là thuốc men.

- Hèn chi thấy cháu ốm.

Cô bán cháo cười:

- Mạnh rồi, nhưng hai chân còn yếu, không gánh nổi, bận đi con đi xe xích lô, bận về, nhẹ, con gánh.

- Một chuyến xích lô mất bao nhiêu?

- Dạ, năm ngàn.

Bịch cháo năm trăm lần này tôi thấy ít hơn một vài muỗng. Tôi không thắc mắc, coi như tôi và người ăn cháo như tôi, mỗi người góp một vài muỗng cháo tiền thuốc thang cho cô.Tôi mang bịch cháo về, lâu ngày mới được ăn, đang ngon miệng, bỗng bị nghẹn - Ăn cháo mà bị nghẹn - Tôi phát giận vì chợt nghĩ cái tay chạy ẩu, cô bán cháo nằm sõng xoài, nồi cháo đổ lênh láng trên mặt đường như máu.

Tôi mong anh chàng ẩu nào đó, hãy có một phút giây ân hận.


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 17/Mar/2010 lúc 2:34am
TRUYỆN ĐỌC
Bà Ngoại
cúa Nhà Văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc


Mời các bạn thướng thức bài: Bà ngoại cúa nhà văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc
Thân mến,

Phan Xuân Hùng

http://mp3.zing.vn/mp3/nghe-bai-hat/Ba-Ngoai-Nguyen-Thi-Hoang-Bac.IWZ99FI8.html - http://mp3.zing.vn/mp3/nghe-bai-hat/Ba-Ngoai-Nguyen-Thi-Hoang-Bac.IWZ99FI8.html


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 19/Mar/2010 lúc 5:14am
Những mái rêu xưa

‘’ Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ! ‘’



Nhẩm lại bài thơ của thi sĩ Vũ Đình Liên, tôi thoạt hình dung thân phận mình lồng qua hình ảnh của ông đồ ngày xưa ấy, thời vàng son của chữ Nho, chữ Nôm hình vuông khuôn vàng thước ngọc, chữ thảo rồng bay phượng múa, thời ‘vinh qui bái tổ ‘ ‘áo gấm về làng’ ‘ngựa chàng đi trước võng nàng theo sau’ của các sĩ tử tên ghi trên bảng vàng trong các kỳ thi Hương thi Hội. Cũng như các cụ, tôi cũng có một quá khứ huy hoàng nổi tiếng. Cho đến bây giờ, như vẫn còn phảng phất dư hương màu sơn son thếp vàng của những câu đối chúc tụng trên thân thể tôi, da thịt tôi cũng được ‘xâm’, khắc khảm chạm trổ những bức tranh hoa bướm rồng phượng tinh vi, và ngay cả những y phục tôi cũng được trang trí mỹ thuật tô điểm bằng thư pháp hay hoa lá cành thêu tinh xảo. Chúng tôi đều thuộc thành phần cổ vừa tương phản vừa bổ túc nhau. Thầy đồ là nhà đào tạo, phân phát ban chia tri thức cho thế hệ tương lai, ngược lại tôi chỉ là sản phẩm nắn nót do bao tay nghề đóng góp, kẻ thụ hưởng tốt số, chứng nhân của văn hóa nghệ thuật kinh tế một thời hưng thịnh. Xin thưa ngay, tôi tên tộc là Nhà Cổ, nôm na gọi là Nhà Xưa, tuổi gần trên thế kỷ.
Thật ra, mỗi thời kỳ lịch sử đều có những nét thăng trầm xã hội đặc thù, có những sự kiện người đương thời khen thưởng trọng vọng, thời sau đó lại lên án bài trừ nhưng dù sao cái tinh túy cái hồn vẫn không mất mà tồn tại với thời gian. Hình thể của mái nhà hay nét chữ Nho tượng hình là do sự đúc kết công sức kỹ luật ý chí tinh thần của bao ngưòi tạo nên thành phẩm. Nhớ câu chuyện kể vào thời kỳ Nhật chiếm đóng Việt nam, một học giả Nhật nhờ một ông đồ già viết mướn trên lề đường một chữ Quốc. Sau khi bình tĩnh mài mực sửa lại cây cọ lông, cụ đồ không chút xao động tập trung vung bút. Chỉ cần quan sát qua phong cách của cụ đồ và nét chữ, nhà trí thức Nhật kết luận rằng dân tộc Việt nam khó có thể bị khuất phục, đầu hàng.
Hơn thế nữa, thời đại nào cũng thế có học vẫn hơn. Thế giới thay đổi luôn không ngừng, vậy kiến thức cần thiết để đẩy lùi ngu dốt mới tiến bộ được. Không thể ngăn chận dòng lịch sử đi tới vì thế đừng hòng một thế lực hùng mạnh độc tài nào đó có thể bắt câm bít miệng thế hệ đương thời cúi đầu dậm chân tại chỗ hoặc tàn ác ngu ngốc hơn đẩy lui quá trình đạt được trở về thời tiền sử.

‘Ai ơi đừng lấy học trò,
Dài lưng tốn vãi ăn xong lại nằm.’
‘Dài lưng thì có võng điều,
Tốn vãi thì có áo bào vua ban.’


Câu đối đáp mộc mạc trên cũng chứng minh thêm rõ rằng ngay trong thời kỳ quân chủ chuyên chế lòng hiếu học luôn được đền bù xứng đáng và bậc
http://thang11.software.informer.com/ - thang xã hội cũng được định giá theo ‘có công mài sắt có ngày nên kim.’.
Thầy đồ, lúc bấy giờ, còn thuộc giai cấp lãnh đạo luôn được mọi tầng lớp xã hội kính trọng, do đó vị thế của thầy chỉ sau vua mà trước cả cha, câu ‘quân sư phụ’ xác nhận điều trên. Rồi theo giòng thời gian, cái còn cái mất, cũ mới, thay đổi biến thể không ngừng. Thời ‘Tam tự kinh’ cũng không khỏi bị ảnh hưởng soi mòn tàn phá. Chữ Nho đến lúc cũng phải nhường chỗ cho tiếng Việt qua mẫu tự la tinh.
Chúng tôi không được cái vinh dự ‘tôn sư’ ấy nhưng dù sao may mắn cũng thuộc vào thành phần giàu sang quý tộc ruộng đất ‘cò bay thẳng cánh’. Tôi hảnh diện thể hiện một phần nào mơ ước cao sang của mọi thành phần xã hội, bằng chứng của sự thành công cá nhân, gia tộc, địa phương, làng nước, chứng tích hữu hình lịch sử, niềm kiêu hãnh trong cuộc đời của lớp người tốt số, nét văn hóa đặc trưng của quốc gia. Chẳng những là ‘đứa con cưng ‘ chắt chiu phác họa sáng tác điển hình mỗi thời đại, khuynh hướng mới của nhà kiến trúc, nhà xây cất, chúng tôi còn được hình thành do tập trung công sức của bao ngành nghề tinh vi khéo léo khác. Người Việt ta mong rằng ‘Sống có nhà, chết có mồ’ như người Bỉ thường bảo ‘’ trong bụng người dân Flamand đều có viên gạch’ vậy. Hơn thế nữa, đây còn là nơi tập trung sinh sống qua bao thế hệ của một dòng họ, đậm đặc bao kỷ niệm chồng chất tản mạn khắc cốt sinh sôi phiêu bồng.
Vì thế giàu nghèo tùy theo ‘hầu bao’ ai cũng dự định xây cho mình một mái nhà. Nhìn những lâu đài cung đình nguy nga đồ sộ ngày xưa luôn vẫn còn phong độ đẹp bền hiên ngang bên cạnh những nhà nhiều tầng, nhà chọc trời với kiến trúc tân kỳ, quả thật óc sáng tạo kỹ mỹ thuật con người phong phú siêu đẳng tuyệt vời và biết luôn cải tiến. Ngắm phố cổ Hội An hay bao nhiêu nhà cổ rải rác ở thị thành hay làng quê tỉnh lẻ, với mái tóc phủ rong rêu, rui kèo cột gỗ ‘trơ gan’ qua bao phong sương bụi bặm tháng năm như những anh hùng luôn kiên cường thẳng đứng bảo vệ mái nhà tổ quốc, ai không chạnh lòng hoài cổ như bà huyện Thanh Quan :

« Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương. »


Như con người, phải có sự bồi bổ thường xuyên tuổi thọ mới cao. Để trùng tu những bức họa xưa nỗi tiếng thế giới trên trần cung điện Versailles ở Pháp chẳng hạn, người ta phải huy động nhiều thành phần nghệ sĩ chuyên gia phục hồi tái tạo màu sắc nước sơn nét vẽ mờ nhạt lột xác trở thành như nguyên bản. Mỗi tác phẩm kiến trúc tồn cổ, hoặc theo khuynh hướng thời đại, hay phối họp xưa nay đều tiêu biểu hiện trạng giai đoạn xã hội lịch sử cụ thể thời bấy giờ, như Dinh Độc lập do kiến trúc sư vang danh quốc tế Ngô Viết Thụ thực hiện ở thế kỷ XX.
Nói thế để thấy rằng việc trùng tu nhà cổ đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt của giới trách nhiệm, không thể vịn vào thành kiến, mặc cảm, ý thức khác biệt, quan điểm chính trị lên án bắt triệt hạ. Vì kém hiểu biết, vụ lợi, độc tài vô ân, người ta chỉ biết phá hủy, làm biến chất cổ đi thay vì phục hồi di tích đáng được lưu truyền.

Hiện đại hóa tùy tiện tân tạo bừa bãi chỉ là « bức tử » cái hồn ngày xưa. Đập phá tan tành không tiếc thương rồi xây mới lại, như vậy đâu còn giá trị đích thực, kiến trúc của một thời mà nên nhớ rằng, ông cha ta xưa rất tinh tế thận trọng biết làm văn hóa bằng cả tâm hồn vả kỹ thuật riêng. Người ta có cảm tưởng là hiện nay ngay cả di tích lịch sử quốc gia có khi cũng còn không được phục hồi đúng cách, càng ngày càng bị lấn chiếm, cắt xén, xé manh mún, thu hẹp nhường chỗ cho phố phường trơ trẻn hiện tại.
Dòng lịch sử vẫn vô tình trôi, nhưng từ dòng luân lưu đó, con người cần rút kinh nghiệm, tìm bài học sống. Bên Trung quốc chẳng hạn, chẳng những phục hồi công trình vật chất, người Trung hoa còn biết cách khai thác lòng hoài cổ, tồn cổ qua cách tân cảnh vật dựa vào sử kiện liên quan quanh một triều đại lớn, những danh nhân anh hùng liệt nữ. Chẳng hạn như khi đến Hàng châu, dân chúng hay người du lịch có thể viếng chiêm ngưỡng ngôi đền lộng lẫy thờ vị anh hùng « tận trung báo quốc » thế kỷ thứ XII Nhạc Phi. Ở cửa đền có hai câu đối :

«Thanh sơn hữu hạnh mai trung cốt
Bạch cốt cô vô chú nịnh thần»
(Núi xanh may mắn được chôn xương bậc trung quân
Sắt trắng vô tội mà phải đúc bọn nịnh thần.)


Đặc biệt trong một góc tường trước mộ Ngài, người Trung hoa còn để tạc hai tượng bằng gang vợ chồng tên gian thần Tấn Cối và Vương thị bị trói đang quỳ, y với cái đầu láng bóng vì dân chúng đánh vò đầu. Tính chất khách quan trung thực của lịch sử cần được tôn trọng bảo trì. Người đương thời không thể phê bình sử kiện một cách chính xác, thế hệ tương lai mới có cái nhìn đúng hơn, vô tư không thiên kiến hơn trong việc phán xét, phân biệt rõ ràng hơn đâu là đúng sai, địch thù, công tội.

Vì vậy, nếu hiện tại không có chính sách đường lối đúng, vì lòng thù hận, do mặc cảm thắng bại, thiếu hiểu biết ít học đạo đức kém, độc đoán mà lại có quyền hành trong tay, thật là thảm họa cho đất nước, thay vì xây dựng tiến bộ, lại là chỉ làm phá hủy, đình trệ ngăn cản bước tiến cần thiết.
Phần đông những nhà xưa thuộc tư nhân, nhà từ đường thờ riêng của một dòng họ. Tôi cũng thuộc thành phần danh dự ấy và số phận tôi cũng theo vận nước nổi trôi. Như là một công dân trong nước, phải có khai sinh, lý lịch, đặc biệt tên chúng tôi là số, thuộc giai cấp nào như nhà trệt, ba gian hai chái, nhà dãy, nhà có gác có lầu, lâu đài biệt thự villa. Ngày xưa đại gia đình nhiều con đông cháu, hai ba bốn thế hệ thường sống chung với nhau, do đó nhà to rộng rãi. May cho tôi trước kia luôn được tu bổ và sửa chữa khuếch trương lại mấy lần nên còn giữ được phần nào vừa gia phong nề nếp xưa vừa thái độ thức thời tiến bộ.

Thế nhưng, hậu quả chiến tranh nhất là nội chiến không chừa một ai, nạn nhân không chỉ riêng là người dân, chúng tôi cũng thế nhất là nhà cổ miền Nam. Chúng tôi sinh sau nở muộn, lại sống trong vùng đất mới được thiên nhiên ưu đãi lại còn thừa hưởng bao nền văn minh Á Âu. Do đó kiến trúc của chúng tôi là sự hòa hợp mới cũ, ấn tích sự phối hợp linh hoạt giữa hai nền văn hóa xưa và Đông Tây. Tính hào phóng hiếu khách dễ dãi rộng lượng trong cuộc sống biến chúng tôi thành những tác phẩm văn minh vừa cổ vừa hợp thời mới. Có những nhà ba gian hai chái nhưng cách bài trí bên trong là sự hài hòa thẩm mỹ giữa phong cách đặc trưng miền Nam với bàn thờ uy nghi ở gian giữa xen lẫn bộ bàn ghế Trung quốc, bộ salon, bộ đèn pha lê Pháp. Cũng theo khuynh hướng mới đó, có những ngôi nhà lầu nhưng cách trưng bày trang trí trong nhà theo xưa, khánh thờ sơn son thếp vàng, bàn ghế tủ trường kỷ cẩn ốc xa cừ, chạm trổ theo mẫu truyền thống. Oái oăm làm sao, thay vì được đặc cách là di tích cổ đáng được lưu giữ, nhiều cô bác chú dì bạn bè xa gần tôi bị xem là ‘ tàn dư chế độ cũ’ bị lên án trớ trêu thay !

Hon thế nữa, lại còn có các cụ già xấu số bị kết tội là sản phẩm của ‘thành phần tư sản tư bản mại bản’ nên nhiều nhà bị tịch thu, trưng dụng thành cơ quan nhà nước. Sau một thời gian sử dụng, đồ đạc cổ quí trong nhà mất mát thất thoát từ từ, tình trạng nhà không ngân khoảng tu bổ sửa chữa nên càng ngày càng bị « mối mọt » đục khoét hư hao.Thế là phá hủy, cả cái nền móng nhà cho đến xóa hết mọi vết tích ngày xưa của lịch sử dù lịch sử không theo phe phái nào càng không thuộc kẻ thắng người thua.
Khu đất sẽ được chia lô phân phối bán lại theo thời giá cho giới ‘tư bản mới’, những « nhà cao tầng » ngạo nghễ từ đấy trồi lên chiếm thế thượng phong.
Có cụ xưa khác tốt số hơn được cho đóng « dấu ấn » mới « di sản cấp quốc gia » « cấp tỉnh » nên không bị triệt tiêu, cải tên ‘Nhà truyền thống’ chẳng hạn. Nhưng rồi, bước đi của thời gian mấy mươi năm qua tất nhiên cũng vô tình để lại dấu vết, mái nhà rong rêu dột bể, tường tróc sơn xi măng trơ gạch, thềm nhà loang lỗ dậm vá nhiều nơi,...

Thế là cuộc chỉnh trang thực hiện theo chủ trương mới, kỹ mỹ thuật ‘hiện đại’, phá bỏ cái nhà cũ rồi xây lại cái mới với cùng mẫu cũ mà vật liệu mới, ‘bình cũ rượu mới’, sơn phết màu sắc không nhất thiết như bản gốc, bề ngoài có vẻ như còn được tôn trọng riêng tinh thần công trình cũ « qua đường không ai hay ».
Nhìn những ngôi nhà cổ trong lớp áo ‘thời mở cửa’ loè lẹt nổi bật vàng trắng đỏ xanh, thật cảm thấy thương cho thân phận của thế hệ trước không hậu duệ kế thừa, người quá cố cũng không yên nghỉ trong mộ phần. Ông cha ta đã cố gắng tạo ra một kỳ tích để lưu truyền lại không phải chỉ cho con cháu trực hệ thôi, mà còn ước vọng khắc ghi niềm tự hào của làng của nước, nét văn hoá đặc trưng điển hình một thời đại, kỷ niệm sáng kiến canh tân, tâm tư nguyện vọng tiến thủ của người dân. Vậy mà con cháu sao chóng quên công ơn người trước !

Lịch sử như thời gian, không ai biết đâu là điểm đầu và điểm cuối, một con đường vô hình mà mang vết tích sử kiện hữu hình, mà quá khứ tương lai được tiêu biểu bằng trừ và cộng vô cực. Nói ví von như thế để thấy tầm quan trọng bề dầy, hồn thiêng của lịch sử, nếu không tìm hiểu sâu sắc hầu tiếp tục đúng hành trình, không tôn trọng lịch sử, anh hùng trở thành anh khùng không xa đâu.

Hình ảnh của Ông đồ
« Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.”


Hay những mái rêu xưa dù có bị phai mờ với thời gian vẫn là niềm tự hào của một nền văn hóa Việt nam đã biết vừa giữ truyền thống vừa cầu tiến. Cải cách viết theo mẫu tự La tinh quả là một bước tiến vào việc hội nhập văn minh quốc tế. Đặc biệt hơn là để khẳng định tính thích ứng cao độ dân tộc, ta đã phong phú hóa óc sáng tạo bằng nghệ thuật Thư pháp viết chữ đẹp, thảo chữ Việt với năm dấu như chữ Nho Nôm cổ truyền trong khuôn bằng bút lông mực Tàu như thời trước.
Lịch sử là tấm gương soi cho ta thấy cuộc đời ngắn ngủi, hợp tan, sướng khổ, mất còn, không có gì là vĩnh viễn, bất di bất dịch. Biết thế để nhắc nhở con người cần phải biết luận suy, rút kinh nghiệm sống từ dòng luân chuyển bất tận tuyệt vời ấy. ‘Cây kim trong bọc lâu ngày cũng trồi ra’, sự thật có cố tình bưng bít đậy che, thế rồi, cũng được phơi bày rõ trắng đen.’Cái gì thuộc về César phải trở về với César’ vì vậy không ai bóp méo sửa đổi mãi lịch sử được.

Xưa nay, công trình nào, hành động tốt xấu nào, kỷ niệm vui buồn nào cũng là dấu tích, cái mốc của quá khứ, lịch sử, ngay cả con người tiền sử cũng thế. Không có những bằng chứng hữu hình hay vô hình cổ xưa làm sao chứng minh hiện tại tương lai là có thật và thế giới luôn luôn biến đổi cải tiến không ngừng. Vật chất có thể phai mòn mất mát nên cố gắng bảo trì lưu niệm cho thế hệ sau làm kinh nghiệm bàn đạp vươn lên, và nhất là không được đánh mất cái tinh hoa của mỗi sự vật, như cái hồn thiêng đất nước mà ông cha ta qua bao thăng trầm lập kỳ công trong việc dựng giữ nước cho tới ngày nay.
.
Trần Thành Mỹ



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 21/Mar/2010 lúc 7:49am

http://thongtin247.blogspot.com/2010/02/cho-tinh-nguyen-thi-chau-giang.html - Chợ tình - Nguyễn Thị Châu Giang

http://4.bp.blogspot.com/_zsnv7zeQ7Gs/S2be8AzTzDI/AAAAAAAACFQ/quGe3u-vB8M/s1600-h/1.jpg">


Hai bà cháu ở trong căn nhà nhỏ. Mái lợp gianh, tường đắp bằng đất, bốn bề trồng đầy rau và cỏ dại Ngôi nhà nằm lặng lẽ trên đồi cao bốn mùa phủ sương và mưa gió. Từ ô cửa treo tấm màn màu cháo lòng nhìn ra một Sapa tỉnh lẻ buồn và lạnh giá, ngày ngày bà đứng chờ đứa con gái về.

Cái ngày đó cách đây đã lâu lắm rồi.

Trong ký ức của bà mọi thứ trở nên nhạt dần, nhưng riêng ngày đó thì bà nhớ mãi. Con gái bà sửa soạn quần áo cho vào cái vali màu nâu đỏ đã sờn hết góc, thỉnh thoảng lại ngơ ngẩn khóc. Bà ôm đứa cháu ngoại vào lòng hỏi khẽ: "Bây giờ con đi đâu". Con gái ngượng cười: "Mẹ nuôi cháu giúp con, chừng nào tìm được chồng con, con về". Bà âm thầm nhìn con, đau từng khúc ruột. Nhưng bà không biết nói gì, cũng không biết điều đó đúng hay sai. Đầu óc bà đặc lại. Bà chép miệng: "Con định đi đâu?". Chưa kịp trả lời, nó đã đi ra tới cửa. Nó đi xuống đồi, lưng áo ka-ki bạc phếch, ba lô con cóc đeo lủng lẳng trên tấm lưng gầy. Nó trở nên lạc lõng giữa bốn bề phủ rau xanh và những vồng cải vàng rực. Bà gọi với theo "Nhớ về con nhé" và chợt giật thót mình khi nhận ra lời nhắn nhủ rơi lọt thỏm vào không khí, khi sương mù ùm lên lấp kín bưng.

Bà quay vào nhà nhìn cháu ngoại đang khóc ngằn ngặt đòi mẹ, cay đắng "À... ơi... Gió đưa cây cải về trời... À... à... rau răm ở lại chịu đời đắng cay...". Bà rơm rớm nước mắt: "Cha bố mày, mama mày bỏ đi theo giai rồi. Chỉ còn hai bà cháu mình với nhau thôi. Ngoan nhé bà thương. Chừ làm thân con gái cực khổ trăm đường con ơi". Bà lại tẩn mẩn nghĩ, không biết con gái bà định đi đâu. Thành phố biết bao nhiêu là cám dỗ. Chiến tranh biết bao nhiêu là đau thương. Thằng bố của đứa bé này, nghĩ dại, có khi đã mồ yên mả đẹp ở một nơi nào đó rồi. Biết đi đâu mà tìm.

Con gái bà biệt tăm. Thời gian vẫn đều đặn trôi qua trên tuổi già của bà, ngày một nhanh hơn. Dưới chân đồi người ta xây những ngôi biệt thự sang trọng, trồng thêm nhiều thông và hoa tầm xuân, đóng thêm nhiều cọc gỗ treo biển nhà cho thuê, quán ăn, khách sạn. Bà ít xuống chợ dần, chỉ ở nhà lo chăm bón rau cho con cháu mang xuống chợ bán.

Buổi chiều cháu gái về nhà, quẳng phịch cái gùi vào góc bếp phụng phịu: "Sao người ta gọi cháu là con hoang?". Bà thót người, vội kéo cháu ngồi sát bên bếp lửa vỗ về: "Bậy nào! Cháu có cha, có mẹ. Cháu mới gọi bà là bà được chứ". Cháu gái nghi ngờ: "Thế mẹ đâu, bố đâu?". Bà đưa đôi mắt đục lờ nhìn xa xăm: "Họ xuống xuôi làm giàu rồi. Chừng nào giàu họ lên đón cháu về". Bà lại thầm nghĩ: "Nhưng mà bây giờ chúng nó ở đâu?", tay cầm que cời than run bần bật.
Cháu gái xoa đôi má hồng, hít hà: "Ngoài trời lạnh quá bà à?". Bà nghểnh tai nghe. Gió thổi rít từng hồi qua mái gianh, qua những góc đào. Một lúc mưa rơi lộp bộp, nặng dần như ai ném đá ngoài sân. Cháu gái bảo: "Mưa đá. Mai trời nắng lắm đây". Ừ, - Bà lo âu - nhưng hỏng rau với đào hết". Cháu gái hỏi: "Dưới phố thế nào hả bà?". Bà im lặng một lúc. Bà nhớ hồi còn con gái, ông chở bà đi khắp Hà Nội trên chiếc xe đạp cổ lỗ. Những phố nhỏ cũ kỹ và yên tĩnh. Sau này bà đưa con gái xuống xuôi, mua hàng. Phố xá đã thêm nhiều đèn xe và lọc lừa, và nhiều chia cách. Bà lầm bầm: "Có gì đâu chỉ toàn người với xe. Buồn lắm cháu ạ! Bà cháu mình ở thế này là sướng nhất". Bà quay lại thấy cháu gái đã ngoẹo đầu ngủ, mắt khép dài, hai khóe miệng nhếch lên nụ cười ngây thơ còn đọng đầy nước mắt. Bà lau mặt cho cháu, khe khẽ thở dài. Ngoài trời mưa đã tạnh. Tiếng côn trùng râm ran sau những luống cây buồn nẫu cả lòng.

Ông trưởng khu đi vòng quanh nhà, chỉ cái này, bảo cái nọ rồi ngồi phịch xuống chiếc ghế đẩu kê bên cái bàn gỗ mục thấp lè tè, tợp một cụm lớn nước chè. "Chuyện là thế này bà ạ - Ông căng người, kín đáo quan sát nét mặt của bà - Nước chè của bà ngon quá. Tôi muốn nói cái gì nhỉ? À, thế này. Có vài đứa sinh viên ở xuôi lên đây thực tập để vẽ vời gì ấy mà. Tôi thấy nhà bà rộng lại neo người - Ông ồ ề, cố gắng làm cho ra vẻ quan trọng. Cặp kính lão tụt lên tụt xuống trên chóp mũi - Nên tôi bố trí trước. Không biết ý bà thế nào?". Bà thở phào. Gớm cái ông này cứ làm bà thon thót cả người. Tưởng chuyện gì, chứ cái chuyện ở nhờ của bọn trẻ càng làm bà vui thêm chứ sao. Cháu gái của bà lại có dịp quen biết người ta. Nhưng bà vẫn thấy hơi tưng tức. Vì ông trưởng khu đặt bà vào chuyện đã rồi, hệt như ông chồng bà ngày xưa và con gái bà, toàn đẩy bà vào chỗ yếm thế. Cả đời, hình như chẳng có gì là của bà, là do bà quyết định cả. Bà nói mát: "Sao không báo tôi trước - Rồi nhỏ nhẹ - Để tôi chuẩn bị". Ông cười hề hề, những mụn trứng cá trên mặt từng lúc lại đỏ tấy lên vì lạnh.

Khoảng hai ba giờ chiều, sương mù loãng ra đã ùn ùn đổ tới một lớp dày đặc khác. Cháu gái đi chợ về kéo theo hai đứa con trai và một đứa con gái rất xinh với lủng củng bao nhiêu túi xách. Ngôi nhà nhỏ bé căng nứt những tiếng ồn ào và gió lạnh từ ngoài tràn vào. Chúng nó vây lấy bà. Cậu bé đeo cặp kính cận xề xệ trên chóp mũi, bảo: "Bà cho chúng cháu ở nhờ nhá". Bà hiền lành: "Tôi chỉ sợ các cô cậu chê nhà xấu". Chúng nó cười. Đứa con gái bảo: "Con là Linh, kia là Hiền, còn anh đeo kính trắng là Danh". Linh nhìn ngó một lúc, rồi bảo: "Bà ngồi chỗ này, tư thế này đẹp quá, để chúng con vẽ chân dung bà". Chúng nó mở túi lấy giấy, lấy màu bày khắp ra nhà. Bà ngồi ngượng nghịu, tay đặt lên đùi run run. Cháu gái đi vòng quanh nhà, lâu lâu ghé con mắt qua xuýt xoa: "Bà đẹp quá, giống quá". Bà nhìn chúng nó thấy tủi thân cho cháu gái. Lớn bằng này mà chưa ra khỏi Sapa, ngờ nghệch đến tội nghiệp. Lớn bằng này mà chưa biết tí gì về cuộc sống cả.

Cháu gái dắt mấy đứa nhỏ đi vẽ suốt ngày. Một mình bà lại ra vào thui thủi. Buổi sớm bà vẫn ra đứng ở cửa, nhìn xuống chân đồi đầy thông và cỏ dại, đợi con gái về. Bà nghĩ là mình đã không còn khóc được nữa.

Được khoảng hai tuần, chúng nó than nhớ nhà. Linh cầm một xấp thư ra đọc. Cháu gái mon men lại gần: "Thư ai nhiều thế chị Linh?". Linh tự hào: "Đây là thư mẹ, đây là thư bố. Còn đây là thư bồ". Mặt cháu gái thẫn ra. Nó bảo: "Em chưa bao giờ nhận được thư ai cả". Danh cười, không biết đùa hay thật: "Thế thì lúc nào về, anh sẽ viết thư cho em. Muốn thế nào? Tuần một cái hay nhiều hơn?" Hiền tủm tỉm: "Đừng tin nó, thằng này xạo lắm". Cháu gái cười mơ màng. Tưởng tượng một ngày kia cũng được cầm một xấp thư như Linh bây giờ. Tối thứ bảy cuối, Danh đi chơi với cháu gái khuya mới về. Bà nằm ngủ lơ mơ trong buồng, nghe tiếng kẹt cửa đã tỉnh ngủ hẳn. Cháu gái chui vào chăn, áp khuôn mặt lạnh ngắt vào người bà. Bà khẽ giật mình: "Cha mày, đi đâu về khuya thế con?" Cháu gái mơ màng: "Trời đẹp lắm bà ạ! Đêm nay rằm, có trăng. Chúng con xuống chợ tình xem người Dao kéo nhau, rồi đi dạo khắp nơi". Cháu gái thật thà: "Anh ấy hôn con và bảo yêu con. Liệu có tin được không bà?". Bà khẽ thở dài: "Coi chừng con ạ!". Bà định nói thêm mấy câu, đã nghe tiếng ngáy nhè nhẹ của cháu gái. Từng làn hơi phả vào gáy bà, ấm sực. Bà lồm cồm ngồi dậy, vạch cửa nhìn ra ngoài. Trăng rọi sáng lạnh, xanh như miếng thép bạc vào phòng. Không ngủ được, bà ngồi nghĩ ngợi lung tung. Thấy tội thân bà, thân con gái bà, bây giờ đến lượt đứa cháu gái. Cả đời khổ vì tình, lụy vì tình. Xa xôi cách trở thế, dần rồi cũng nhạt cả thôi. Xem cung cách của thằng Danh, chẳng có gì ràng buộc nó được.

Hai ngày sau đám sinh viên trở về Hà Nộị Danh tặng lại cháu gái bức ký họa vẽ chân dung cô đầy vẻ đắm đuối bằng màu nước, ngồi bên con đường mòn phủ đầy cỏ dại, mắt môi rạng rỡ. Cháu gái lặng lẽ đóng khung, treo trang trọng trên đầu giường. Ngày ngày xuống chợ bán rau, cô ta ghé qua bưu điện, nhìn người nhân viên to béo soạn thư từ chiếc thùng màu vàng nhạt và chờ đợi ông ta gọi tên mình. Nhưng không có gì ngoài cái nhún vai thất vọng và nụ cười thương hại của người đàn ông đáng mến đó. Cháu gái lủi thủi về nhà, nhìn bức chân dung lại ngẩn ngơ khóc.

Cháu gái biếng ăn biếng ngủ. Đêm lại giật mình thon thót, mồ hôi vã ra đầm đìa. Trong người cô có gì cứ cuồn cuộn lên, rồi sôi chảy đầy êm ả, ngọt ngào. Hệt như đêm nào cô nằm trong vòng tay Danh. Bà tội nghiệp: "Nó có hứa hẹn gì với cháu không?" Cháu gái trả lời: "Không, nhưng anh ấy bảo cháu là vợ của anh ấy". Bà sụp xuống, đầu óc quay cuồng. Linh tính nhắc nhở bà những chuyện đau lòng. Bà hỏi: "Tháng này cháu có kinh chưa?" Cháu gái lắc đầu: "Chưa, nhưng sao hả bà?". Bà rũ xuống, đau đớn nghĩ đấy là lỗi tại bà. Bà nuôi nó mà không dạy nó. Cũng chưa một lần kể về cha mẹ nó cho nó nghe. Những người lớn đã sinh ra nó rồi bỏ đi. Thật ra quá khứ dù tồi tệ đến mấy cũng là kinh nghiệm quý báu. Nhưng bà không nghĩ ra điều ấy. Bà đã muộn trong mọi việc. Bà nức nở: "Tội nghiệp cháu tôi". Rồi đùng đùng bỏ vào giường.

Bà ốm nặng. Đến ngày thứ ba bà mới gượng dậy, húp được ít nước cháo. Cháu gái ngồi bên cạnh, bóp nhẹ tấm lưng gầy của bà: "Bà ạ, có lẽ con phải xuống xuôi tìm anh ấy". Bà thảng thốt: "Con biết đi đâu mà tìm. Mẹ con ngày xưa đã bỏ bà đi như thế". Bà kể lể sự thật bà đã giấu diếm suốt mười tám năm trời, mong giữ chân cháu gái lại. Nhưng mọi thứ trôi tuột qua. Cháu gái vẫn nhất định im lặng. Cô nghĩ đến Hà Nội, đến Danh, đến đứa bé và hạnh phúc. Con cô cần có bố. Cô không thể bỏ rơi nó được. Và cô cần có Danh. Cô đứng dậy: "Chừng nào bà khỏi bệnh, con sẽ đi tìm anh ấy". Mặt cô tái xanh và cương quyết.

Hôm cô gái đi trời mưa tầm tã, trôi mất vài luống rau xà lách. Đường đi quệt thành bùn đặc quánh. Được một lúc mưa tạnh, mây mù kéo lên dày đặc. Mới một vài bước đã không còn thấy cháu gái đâu nữa. Tất cả trắng xóa, mịt mùng.

Bà đứng tựa vào cánh cửa gỗ mốc xỉnh và lạnh giá. Hai tay thu vào chiếc áo bông trấn thủ lỗ chỗ vệt gián nhấm. Bà nghĩ mình không thể nào khóc được nữa nhưng nước mắt chảy ra nhòe nhoẹt. Bà bấm đốt ngón tay, lẩm bẩm: "Chừng hai năm nữa, chúng nó sẽ về".

Một làn gió lạnh thổi qua. Trong mắt bà sương mù đang tan dần dưới chân đồi.

Hãy thử giải thích lí do truyện có tên "Chợ tình" nhé !


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 22/Mar/2010 lúc 10:15am

 

 
 
 

Cà phê, sữa và nước đá     

 
Café

Café yêu Sữa, cái yêu say đắm, lắng đọng và cô đặc như chính nó. Nó ngắm nghiá Sữa, luôn thầm nhủ: “Ôi nàng mới ngọt ngào, sóng sánh làm sao. Có nàng, ta sẽ bớt đắng hơn, ta và nàng sẽ hòa quyện vào nhau, tạo nên hương vị cho nhau, vị đắng của ta sẽ hòa tan cùng vị ngọt của nàng. Ta và nàng sẽ thưởng thức thứ tình yêu hòan hảo ấy. Màu da đen nhẻm của ta sẽ được lớp áo vàng óng của nàng che phủ, tạo nên một màu nâu đẹp dẽ, hòan hảo. Ôi ước chi nàng là của ta.”

Café yêu Sữa bao nhiêu, thì ghét Nước đá bấy nhiêu, nó thường lánh xa Nước đá, và thường chửi rủa chàng Nước đá tội nghiệp: “Ôi thứ quái vật băng giá ghê tởm kia, ngươi làm ta tan chảy, làm vị đắng tuyệt vời của ta cứ tan dần tan dần cho đến khi ta lạt nhách. Ngươi chẳng mảy may có chút lòng thương, ngươi làm nàng Sữa từ sóng sánh ánh vàng chuyển sang trắng nhợt nhạt và bỏng bẻo. Ôi vì sao trên đời lại có thứ quái vật lạnh lùng như ngươi.”

Sữa
 
Sữa ghét Café, nàng thường tìm cách tránh mặt Cafe, nàng cho rằng Café làm cho màu da nàng không đẹp nữa, nàng vốn đã ghét màu áo vàng óng ánh của mình, thế mà Café còn làm cho nàng trở nên nâu xỉn, và làm đắng nàng, nàng thì ngọt, và nàng không thích hòa tan cái vị ngọt của mình vào vị đắng của Café.

Sữa yêu Nước đá, Sữa thường bảo với chàng Nước đá: “Ôi chàng mới tuyệt vời làm sao, chàng làm cho em tan chảy ra, hòa tan với chàng, làm cho em mát lạnh, làm làn da em trở nên trắng trẻo như thể em đi tắm trắng (ôi công nghệ làm đẹp). Chàng làm cho vị ngọt của em trở nên dịu hơn, dễ thưởng thứ hơn.”

Nước đá

Chàng Nước đá lạnh lùng chẳng yêu cũng chẳng ghét nàng Sữa, cũng chẳng rỗi hơi đi căm thù lại cậu Café. Bởi cậu biết, có yêu ghét nhau thế nào, rồi cũng có ngày 3 chúng ta sống chung. Cuộc đời là thế mà, có đắng, có ngọt và có lạnh lùng. Chàng cũng muốn nói cho nàng Sữa và cậu Café biết, nhưng bản tính chàng nó lạnh lùng thế, hơn nữa, chàng nghĩ “ Thế nào chả có lúc hai kẻ dở hơi ấy nghĩ ra, thôi thì để họ tự nhận ra tốt hơn là bị mình dạy bảo”

Và khách vào nhà, cô bé con xinh xinh chạy ra chào lễ phép, ba cô bé hỏi ông khách muốn uống gì? Ông khách trả lời ngắn gọn : “Café Sữa Đá” Ba cô bé nhìn cô bé trìu mến: “vào làm cho chú ấy một ly Café Sữa Đá con à”. Cô bé dạ một tiếng rõ to rồi nhảy chân sáo vào bếp, miệng hát vang, lâu lắm rồi - từ ngày mua hộp Café và hộp Sữa mới- mới lại có khách muốn uống Café Sữa Đá.



-------------



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 23/Mar/2010 lúc 9:15pm

Truyền thuyết hoa anh đào

Ngày xưa ở xứ Phù tang chưa có hoa anh đào như bây giờ. Tại một ngôi làng xinh xinh ven núi Phú Sĩ ,có một chàng trai khôi ngô tuấn tú dũng cảm khác thường. Năm chàng mới tròn một tuổi ,có một đạo sĩ phiêu bạt ghé

qua nhà, nhìn cậu bé, mỉm cười đặt vào tay người cha thanh sắt đen bóng rồi lặng lẽ ra đi.
Lúc đấy đang mùa đông tuyết rơi tầm tã vị đạo sĩ đi khuất trong mưa tuyết rồi mà người cha vẫn thẫn thờ nhìn trông theo. Đặt thanh kiếm vào tay người vợ trẻ, ông nói như thì thầm: "Hãy cất kỹ và giao thanh sắt này lại cho con trai chúng ta khi nó tròn 14 tuổi. Số phận đã an bài nó sẽ trở thành một kiếm sĩ lừng danh”.

Cha cậu bé qua đời. Người vợ trẻ ở vậy nuôi con. Thanh sắt đen bóng được giao lại cho chàng trai năm cậu tròn 14 tuổi. Cậu rùng mình vuốt ve kỹ vật huyền bí nặng nề ấy. Một sức mạnh kỳ lạ, một khát khao khó hiểu tràn ngập vào cơ thể tươi non dũng mãnh của cậu. Người mẹ chưa kịp nói gì thì cậu đã run rẫy thốt lên trong cảm xúc nghẹn ngào: “Ta phải trở thành một kiếm sĩ nổi tiếng nhất đất nước này”.
Chàng trai đến rạp đầu xin thụ giáo một võ sĩ đạo lừng danh. Vị samurai ngắm nhìn chàng trai từ đầu đến chân, trầm ngâm suy tư bất động hàng giờ liền. Cuối cùng ông thở dài lẩm bẩm một mình “oan nghiệt” và chấp thuận. Thời gian thấm thoát thoi đưa, tuổi 18 thanh xuân tràn trề sức sống đến với người kiếm sĩ. Tay kiếm của chàng khiến những samurai kiêu hùng nhất cũng phải e dè.
Nhưng còn thanh sắt? Chàng đã tự mình rèn nó thành thanh kiếm sáng ngời đầy uy lực. Nhưng chưa được. Một thanh kiếm báu thực sự phải được tắm mình trong máu ngay trong ngày khai trận. Biết nhúng lưỡi thép uy lực này vào máu ai khi chàng chưa hề có kẻ thù, khi chàng chưa hề đối mặt với kẻ cướp, khi chàng chưa tìm được bất cứ lý do gì để quyết đấu một phen? Lúc này người mẹ và người thầy của chàng đã khuất núi. Cô gái duy nhất của vị võ sư lừng danh năm xưa là người thân yêu còn lại duy nhất của chàng. Mỗi ngày khi nắng đã tàn lụi trên núi Phú sĩ, đêm đã tràn ngập trên xóm núi, cô gái lại buồn bã nhìn chàng ngồi bất động ,trầm tư bên bếp lửa. Chàng không còn cười nữa, mắt chàng lạnh như tuyết, chàng ôm thanh kiếm mà ước mơ ngày nó được tắm mình trong máu để trở thành bảo kiếm vô địch thiên hạ

-Anh thân yêu! Có phải chăng đối với anh thanh kiếm này là tất cả ? Nếu nó không được tắm mình trong máu để ngập trong khí thiêng thì anh sẽ mãi mãi buồn đau?
Nhìn vào bếp lửa ,chàng trai vuốt ve thanh kiếm trong lòng và nói chậm rãi rất quả quyết
- Chỉ buốn đau thôi ư? Không đâu! Đối với anh,thanh kiếm là sự nghiệp, là cuộc sống, là tất cả…..làm sao anh có thể coi mình là một võ sĩ đạo chân chính khi thanh kiếm của anh chưa từng no say trong máu? Trời ơi! Anh chết mất! Sao thời buổi này yên bình đến thế ? Sao không có kẻ cướp nào thúc giục anh xuống kiếm.không có kẻ cuồng ngông nào thách đấu với anh?
Cô gái mỉm cười đau đớn. Cô chỉ hỏi để khẳng định quyết tâm của mình thôi
- Anh thân yêu! Cho em được cầm lấy thanh kiếm của chàng một chút thôi.
Cầm thanh kiếm đen bóng, sắc lạnh cô gái nhìn chàng bằng ánh mắt buồn thăm thẳm rồi đột ngột đâm thẳng vào tim. Máu trào ra ướt đẫm tấm thân mảnh dẻ của nàng, nhuộm hồng chiếc áo kimono trắng nõn, trinh bạch. Chàng trai hốt hoảng rú lên kinh hoàng, vươn tay rút phăng thanh kiếm khỏi lồng ngực cô gái. Dưới ánh lửa bập bùng ,thanh kiếm ngời sắc xanh rực rỡ, hào quang loé lên lộng lẫy lạ thường: nó đã được no mình trong máu!
Nhưng từ đó, chàng trai hoàn toàn cô độc. Cho đến một hôm, một buổi chiều mùa đông, khi những bông tuyết đầu mùa vừa rơi, chàng trai ôm thanh kiếm đến bên mộ cô gái. Chàng thì thầm: "Tha lỗi cho anh. Anh đã hiểu ra rồi…” Chàng bình thản cắm sâu mũi kiếm vào bụng rạch một đường mạnh mẽ và rút kiếm ra phủ gục bên cạnh mộ. Thanh bảo kiếm cắm sâu vào mộ đất….tuyết không ngừng rơi….đến sáng. Tuyết đã ôm trọn chàng trai và ngôi mộ vào vòng tay của mình. Chỉ còn lại một cây hoa lạ, mơn mởn vươn lên tươi cười, hồng thắm. Không ai biết hoa hoá thân từ thanh kiếm ấy. Người ta dặt tên hoa là Anh đào. Hoa anh đào có nhiều loại mọc được ở nhiều nơi. Nhưng không nơi đâu đẹp bằng hoa đươc ươm mầm và trổ bông ở vùng núi Phú sĩ.
sưu tầm


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 25/Mar/2010 lúc 5:12am
Thương Nhớ Hoàng Lan
Posted%20Image //
 
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: “Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?” Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: “Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại”. Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.

Lớn lên, tôi giống cha tôi như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hoà trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Đề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Đại Đức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay trước sư cụ trụ trì: “Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ?” Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Đã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi: “Mấy con ếch lạy khéo không thưa thầy M.H” Rồi bà cười ha hả: “Đi tu mà chẳng chót đời, làm thân con ếch cho người lột da”. Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vao đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm…

Cô ruột tôi giận lắm, bảo: “Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng.” Ai cũng khuyên đăng báo tìm, nhưng cha tôi chỉ nói “Đừng”. Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương?

Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại khu vườn sáng sủa. “Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni.”

Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào búi tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn…

Năm tôi mười tuổi, có vị Đại Đức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Đế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo: “Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?” Tôi chỉ lắc đầu…

Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am – am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi: “Bạch thầy, Đăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác”. Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp tụng kinh, tôi biện bạch: “Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời, làm sao hiểu đời đục mà tránh?” Thầy hỏi: “Ai bảo con là đời đục? Đời không đục, không trong.” Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì.

Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào tới tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn những làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng: “Đây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải màu vàng”. Cô chìa tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày: “Này, đừng nghịch”. Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi. “Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan”. Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại: “Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai vừa quậy”. Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh: “Mấy con Thị Màu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đoạ địa ngục hử?” Tôi cự: “Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ”.




Từ đó, vài hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đây là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Điểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước giò. Lan phụng phịu: “Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có”. Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng hồn nhiên như trẻ thơ. “Vậy tôi đặt cho cô
một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi”.




Posted%20Image

Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo: “Không can gì”. “Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?” Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu. “Đây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó”. Tôi động lòng, hỏi: “Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu, chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong”. Thầy cười: “Đúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Đến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên chín rầng mây”. Tôi vái thầy mà thưa: “Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa.”

Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi. “Anh không thích phong lan nữa sao?”. “Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoàng lan”. Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như màu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh toả thơm ngây ngất. Lan bảo: “Thích ghê, em chưa thấy bao giờ”. Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên, lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương…

Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra. “Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường”.Tôi nghe tiếng, quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo: “Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng”. Tôi hãi hồn, vội nói: “Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây”. Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu: “Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa”.

Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan, còn cô bé thì chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt…

Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán.

“Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh sợ đàn ông. Đếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà”. “Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó”. “Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức”. Tôi im lặng, một lát sau mới bảo: “Khó tin”. “Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra – bạn tôi nói, vẻ ông cụ non – Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn”.

Đạp xe về đã đến quá lăng Tự Đức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi: “Nhà chùa có việc gì mà nhắc cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi”. Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời nói của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu: “Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt quá dài, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Đấy là tướng hồng nhan mệnh yểu.”… Trời chập choạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống, Lan lắc đầu, Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn: “Đồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi”. Quay sang Lan, tôi nạt: “Đi về!” Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của một con thú mất mồi…

Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi, khóc: “Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không?” Tôi cau mặt: “Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?” “Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến”. “Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Đừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn”. Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ ven đường. Lan ngồi bên tôi. “Đêm nào nằm mơ cũng thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?” Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa… “Em có thích nghe chuyện cổ tích không?” “Thích”. Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ: “Sao có người làm được như thế?” Tôi gật đầu: “Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vầy. Vị thiền sư trả lời: “Bệ hạ hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua”. Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạ lùng. “Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?” Tôi bảo: “Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con”. Lan cười… Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá. “Thôi, về đi em”. Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp loá những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật…

Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo: “Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu”. “Không có lửa làm sao có khói. Ăn ốc, đánh lộn, dành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên”. Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức: “Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?”

Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về.

“Con ma nữ” đã uống hai mươi viên Sedusen, may sao nhà biết được, chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát: “Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con”. Tôi cuống quýt: “Bác bảo con làm sao được?” “Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra”. Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ: “Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng”. Tôi thở dài: “Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thuỷ Sám”. Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi…

Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo: “Sao con bỏ học?” Tôi nói: “Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng”. Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy: “Bạch thầy”. Thầy tôi bảo: “Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn.” Tôi nói: “Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An”. Thầy lặng lẽ một lúc rồi bảo tôi: “Tâm không an, có cầu cũng vô ích”. Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió. “Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?” Thầy nhìn vào mắt tôi: “Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình.” Tôi lắc đầu: “Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi”.

Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt buồn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã úa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.

Đang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến: “Chú Ninh!”

Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan. “Bác lên chùa cầu cho em đi bình an…” Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.

Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan:

“Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Đã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan…




Posted%20Image



Người ta cứ bảo em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi…”

Bất giác, tôi oà khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục luỵ cuối cùng. “Cứ khóc đi con” – Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt – “Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ”. Tôi nức nở: “Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây Hoàng Lan không?”

Thầy bảo: “Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?” Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.

Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.

Tôi cầm lòng thôi thương, thôi nhớ…


(Trần Thùy Mai)


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 26/Mar/2010 lúc 7:36am
 
Dưới Bóng Hoàng Lan





Thanh lách cánh cửa gỗ để khép, nhẹ nhàng bước vào. Chàng thấy mát hẳn cả người, trên con đường gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm cây xuống nhảy múa theo chiều gió. Một mùi lá tươi non phảng phất trong không khí. Thanh rút khăn lau mồ hôi trên trán bên ngoài trời nắng gắt rồi thong thả đi bên bức tường hoa thấp chạy thẳng đến đầu nhà. Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại trên bực cửa.

     Thanh bước lên thềm, đặt va li trên chiếc trường kỷ, rồi ngó đầu nhìn vào trong nhà, bóng tối dịu và man mát loáng qua những màu sắc rực rỡ chàng đem ở ngoài trời vào, Thanh chưa nhìn thấy rõ gì cả, một lát, quen bóng tối, chàng mới nhận thấy cảnh tượng gian nhà cũ không có gì thay đổi, cũng y nguyên như chàng đi xưa. Sự yên lặng trầm tĩnh đến nổi Thanh trở nên nghẹn họng, mãi chàng mới cất được tiếng lên gọi khẽ:

     - Bà ơi!
    
Một cái bóng lẹ làng từ trong vụt ra, rơi xuống mặt bàn, Thanh định thần nhìn rõ: con mèo của bà chàng, con mèo già vẫn chơi đùa với chàng ngày trước. Con vật nép chân vào mình khẽ phe phẩy cái đuôi, rồi hai mắt ngọc thạch xanh giương lên nhìn người. Thanh mỉm cười lại gần vuốt ve con mèo:

     - Bà mày đâu?

     Thanh bước xuống dưới giàn thiên lý. Có tiếng người đi, rồi bà chàng, mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc, ở ngoài vườn vào. Thanh cảm động và mừng rỡ, chạy lại gần.
     - Cháu đã về đấy ư?
     Bà cụ thôi nhai trầu, đôi mắt hiền từ dưới làn tóc trắng đưa lên nhìn cháu, âu yếm và mến thương.
     - Đi vào trong nhà không nắng cháu.
     Thanh đi bên bà, người thẳng, mạnh, cạnh bà cụ gầy còng. Tuy vậy, chàng cảm thấy chính bà che chở cho chàng, cũng như những ngày chàng còn nhỏ.
     - Nhà không có ai ư bà?
     - Vẫn có thằng Nhân, hôm nay nó đi đong thóc bên kia xóm. Dễ chốc nó về. Con đã ăn cơm chưa?
     - Dạ chưa. Con ở tàu về đây ngay. Nhưng con không thấy đói.
     Bà nhìn cháu, giục:
     - Con rửa mặt đi, rồi đi nghĩ không mệt. Trời nắng thế này mà con không đi xe ư?
     Thanh cười:
     - Có một tý đường đất, cần gì phải xe. Con đi bộ hàng ngày cũng được.
     Nhưng Thanh cũng vẫn theo lời bà. Chàng đến bể múc nước vào thau rửa mặt. Nước mát rượi và Thanh cúi nhìn bóng chàng lay động trong lòng bể với những mảnh trời xanh tan tác.

     Tất cả những ngày thuở nhỏ trở lại với chàng. Thanh vắng nhà đã gần hai năm nay, vậy mà chàng có cảm giác như vẫn ở nhà tự bao giờ.

     Phong cảnh vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch mịch và bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ.

     Trên trường kỷ, ngọn đèn con va cái điếu cũ kỹ. Con mèo già tròn mình nằm bên cạnh, mắt lim dim trong sự bình yên và nhàn nhã. Thanh trông thấy cảnh ấy đã nhiều lần. Lần nào trở về với bà chàng, Thanh cũng thấy bình yên và thong thả như thế. Căn nhà với thửa vườn này đối với chàng như một nơi mát mẻ và hiền lành, ở đấy bà chàng lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để mến yêu chàng.

     - Ấy bà làm gì thế? Bà để mặc cháu...
     Bà cụ vẫn không thôi phẩy chiếc phất trần lên đầu giường:
     - Đã lâu không có ai nằm nên bụi bám đầy khắp cả.
     Thanh phải để mặc cho bà sửa chiếu và xếp lại gối. Chàng thấy mình bé quá.
     - Cháu đi nghỉ chẳng mệt. Để bà hái mấy lá rau nấu canh ăn cho mát.

     Bà cụ đi ra, Thanh bỗng thấy mệt mỏi. Chàng lặng nằm xuống giường, duỗi chân tay, khoan khoái. Ngoài khung cửa sổ, trời xanh ngắt ánh sáng, lá cây rung động dưới làn gió nhẹ. Một thân cây vút cao lên trước mặt. Cùng một lúc chàng lẩm bẩm: "cây hoàng lan!" mùi hương thơm thoang thoảng đưa vào, Thanh nhắm mắt ngửi hương thơm và nhớ đến cái cây ấy chàng thường hay chơi dưới gốc nhặt hoa. Đã từ lâu lắm, ngày mới có căn nhà này, ngày cha mẹ chàng hãy còn. Rồi đến ngày một bà một cháu quấn quýt nhau. Thanh ra tỉnh làm rồi đi về hàng năm, các ngày nghỉ. Bây giờ cây đã lớn.

Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát như vừa tắm ở suối. Chàng tắm trong cái không khí tươi mát này. Những ngày bận rộn ở tỉnh giờ xa quá. Khu vườn với các cây quen đã nhận biết chàng rồi.
     Nghe tiếng bà đi vào, Thanh nằm yên giả vờ ngủ. Bà lại gần săn sóc buông màn, nhìn cháu và xua đuổi muỗi. Gió quạt đưa nhẹ trên mái tóc chàng. Thanh vẫn nằm yên, nhắm mắt nhưng biết bà ở bên mình. Chàng không dám động đậy, yên lặng chờ cho bà lại đi ra. Bà xuống bếp làm cơm hẳn. Tiếng dép nhỏ dần.
     Chàng cảm động gần ứa nước mắt. Bà yêu thương cháu quá, giờ chỉ có mình cháu, với mình bà. Mà bà làm bếp có một mình thôi ư?. Không, hình như có tiếng người khác nữa, tiếng trong và mau hơn. Thanh lắng nghe: một tiếng cười sẽ đưa lên. Tiếng ai? Nghe quen quá mà Thanh không nhớ được.
     Chàng lẳng lặng ngồi dậy tỳ trên cửa sổ, cúi mình nhìn ra phía ao. Bóng cây hoàng lan lay động cả một vùng. Chàng chợt nhớ, chạy vùng xuống nhà ngang, gọi vui vẻ:
     - Cô Nga...
     Người thiếu nữ đương nhặt rau nghe tiếng gọi vội ngửng đầu: một nụ cười, đôi mắt trong sáng lên, rồi tiếng nhẹ nhàng:
     - Anh Thanh! Anh đã về đấy à?
     Thanh đứng tựa bên cột, chưa trả lời. Chàng nhìn cô thiếu nữ xinh xắn trong tà áo trắng, mái tóc đen lánh buông trên cổ nhỏ, bên cạnh mái tóc bạc trắng của bà chàng. Cô Nga, cô bé hàng xóm vẫn sang chơi với chàng trong vườn, và mỗi lần về, chàng lại gặp ở nhà như một người thân mật.
     Một lát cô Nga nói:
     - Anh Thanh độ này khác hẳn trước. Anh chóng nhớn quá.
     - Tôi vẫn thế đấy chứ.
     Bà cụ cúi trên rổ rau, không nhìn cháu, đáp:
     - Cô trông em có phải gầy đi không? Không bằng độ còn ở nhà.
     Nga ngửng nhìn Thanh, cười:
     - Đấy em nói có sai đâu. Anh trông lại đen đi nữa.
     Lá rau tươi xanh ngắt bên bàn tay trắng hồng nhỏ nhắn. Thanh cũng ngồi ghé xuống. Thế là lại như lúc còn ở nhà, ngày ngày chàng cũng vẫn với Nga xuống bếp xem bà làm cơm. Câu chuyện vẫn vui và vẫn đậm, có lúc chàng lầm tưởng Nga chính là em ruột của mình.
     Lúc Nhân bưng cơm đặt lên bàn, bà cụ bảo cô thiếu nữ:
     - Ở đây ăn cơm một thể, cháu ạ.
     Thanh nhìn lên:
     - Ăn cho vui, cô Nga.
     - Xin phép cụ và anh thôi, em vừa mới ăn cơm xong ở nhà. Em đứng đây cũng được chứ gì.
     Thanh ra vẻ không bằng lòng:
     - Không, cô phải ngồi ăn cơ. Cô làm khách mãi.
     Nga sợ, vén áo ngồi bên bà cụ, nhưng nàng chỉ ăn nhỏ nhẻ, cầm chừng, và buông đũa luôn để xới cơm cho Thanh. Bữa cơm vui quá, Thanh ăn rất ngon miệng, lòng thư thái và vui sướng. Thỉnh thoảng chàng nhìn đôi môi thắm của Nga, hai má hồng. Và nụ cười tươi nở, nàng nhìn lại Thanh, một chút thôi, nhưng biết bao âu yếm.
     Ngoài vườn, trời vẫn nắng. Giàn thiên lý pha xanh một bên tà áo trắng của Nga. Những búp hoa lý non và thơm rủ liền trong giàn, lẫn vào đám lá. Gạch mát và phủ rêu khiến Thanh nhớ lại hai bàn chân xinh xắn của Nga, ngày nào, đi trên đó. Hai bàn chân nhỏ, lấm tấm cát, để dấu tự ngoài ao trở về... Chàng đột nhiên mỉm cười, rồi nói:
     - Cô Nga có còn hay đi nhặt hoàng lan rơi nữa không?
     Nga cũng cười hơi thẹn:
     - Vẫn nhặt đấy. Nhưng không có ai tranh nữa.
     Nàng nhìn Thanh, mắt như tụ lại những hình ảnh tự bao giờ, và sẽ vuốt mấy sợi tóc mai ra một bên. Thanh thấy quả tim đập nhẹ nhàng.
     Bà cụ thì mãi nhìn cháu. Bác Nhân khoanh tay đứng dựa bên cột nghe, bác cũng vui mừng vì thấy cậu về, vẫn mạnh khỏe và xinh trai như ngày trước. Còn cô Nga vẫn tươi đẹp và vui vẻ như thế. Có cô nhà cũng đỡ vắng, và bà cậu cũng đỡ buồn, hàng ngày cô chạy sang chơi giúp đỡ bà cụ giã cối trầu và nói chuyện đến người đi vắng ở trên tỉnh đã lâu không về thăm nhà.
     Bữa ăn xong, Thanh với Nga đã trở lại thân mật như khi còn nhỏ. Thanh dắt nàng đi xem vườn, cây hoàng lan cao vút, cành lá rủ xuống như chào đón hai người. Có lúc gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng thơm như có giắt hoàng lan. Nhưng hoa lan chưa rụng, vẫn còn tươi xanh ở trên cành. Nga bảo Thanh:
     - Những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh quá.
     Thanh chẳng biết nói gì, chàng vít một cành lan xuống giữ ở trong tay để Nga tìm hoa, rồi nhẹ nhàng buông ra cho cành lại cong lên. Nắng soi vào vai hai người, nhưng dưới chân đất vẫn mát như xưa.
     - Bao giờ anh lên tỉnh?
     - Ngày mai thôi. Kỳ này được nghỉ ít. Nhưng mai sau, tôi sẽ về ở đây lâu hơn.
     Lòng Thanh dịu lại. Nga đến bên bể múc nước rửa hoa, rồi xếp bày trên quả trầu. Bà cụ nhìn cô, âu yếm:
     - Hoa hãy còn non lắm, sao hái sớm thế, con?
     Nga thưa:
     - Anh con hái đấy ạ! Và nàng nhìn Thanh mỉm cười.
     Đêm ấy, một bà, một cháu với một cô láng giềng chuyện trò dưới bóng đèn mãi tới khuya, khi trăng lên. Qua vườn, Thanh tiễn Nga ra đến cổng, đi qua hai bên bờ lá đã ướt sương. Mùi hoàng lan thoang thoảng bay trong gió mát. Không lưỡng lự, Thanh cầm lấy tay Nga, để yên trong tay mình. Nga cũng đứng yên lặng. Lâu lâu, Nga rút tay sẽ nói:
     - Thôi, em về.
     Thanh đi trở vào rất thong thả. Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vương mãi. Chàng đến trường kỷ ngồi ở bên đèn.
     Sáng hôm sau, Thanh đã phải lên tỉnh. Chiếc va li chàng nặng những thức quà bà chàng đã ban cho. Thanh cầm mũ đứng nghe bà khuyên bảo ân cần của bà già dưới giàn hoa lý. Chàng vẫn bé quá và lại đi xa.
     Tới cổng, Thanh còn đứng lại nhìn cây hoàng lan và các cây khác trong vườn. Bác Nhân nhanh nhẩu cầm đỡ va li cho chàng. Thanh dặn khẽ:
     - Bảo tôi có lời chào cô Nga nhé.
     Rồi chàng bước ra đi, nửa buồn mà lại nửa vui, Thanh nghĩ đến căn nhà như một nơi mát mẻ và sung sướng để chàng thường về nghĩ sau việc làm. Và Thanh biết rằng Nga sẽ vẫn đợi chàng, vẫn nhớ mong chàng như ngày trước. Mỗi mùa, cô lại giắt hoàng lan trong mái tóc để tưởng nhớ mùi hương.

Kết Thúc (END)

THẠCH LAM





-------------



Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 28/Mar/2010 lúc 4:56am
 

Câu chuyện đau lòng


5 năm trước hai người họ quen nhau, sau đó anh phải đi Nhật du học. Trước khi anh đi một ngày, hai người họ cùng nhau tản bộ trên đường.
Góc phố có một cô bé bán nhẫn, cô cứ nhìn về phía đó. Anh bỏ tiền, mua một chiếc nhẫn đeo cho cô. Chiếc nhẫn đó chỉ có giá 8 tệ, nhưng cô cảm thấy chiếc nhẫn thần kỳ không gì so được.

Tháng 3, anh đi rồi. Trước lúc đi anh nói, mùa xuân năm sau sẽ trở lại thăm cô, nếu như cô đồng ý gặp anh, thì ngày 14 tháng 2 đứng đợi anh dưới gốc cây ở đường Tân Kiện. Anh nói, đừng đánh mất chiếc nhẫn đó.

Mùa thu, cô đánh mất chiếc nhẫn anh tặng. Cô từng hứa sẽ đeo nó mãi mãi, nhưng chớp mắt thời gian ... cô trở thành một cô gái xinh đẹp, sau khi đánh mất chiếc nhẫn, trái tim cô dù không thay đổi, nhưng ngoài nó ra tất cả đều thay đổi.

Anh quả nhiên trở về. Ngày 14 tháng 2, đã hẹn cô. Đời người quan trọng nhất là lời hứa, nhưng cô không có dũng khi để thực hiện lời hứa đó. Nhưng cô không thể chịu đựng hơn được, cô nhờ bạn đi gặp anh. Bạn cô chưa gặp qua anh, sau khi trở về nói, nhìn thấy một người đàn ông mặc áo choàng đứng dưới gốc cấy, trên tay cầm một đoá hoa hồng, đêm hôm đó cô khóc, ướt đẫm cả khăn mui xoa.

Lễ tình nhân thứ hai, cô vô hồn bước trên đường, không biết làm cách nào lại đi đến đường Tân Kiện.

Dưới gốc cây đó có một chàng trai đang đứng, trái tim cô đập loạn, không thể điều khiển được đôi chân mình, cứ thế đi về phía chàng trai. Chính là anh.

Anh đưa đoá hoa hồng ra trước mặt cô, anh nói " Anh biết năm nay nhất định có thể đợi được em đến." cô hỏi : "nếu như em không đến" anh cười rồi trả lời " thì năm sau anh lại đợi"

Cô thuỷ chung không nhận hoa của anh. Lúc cô quay lưng ra đi thì nghe thấy anh hỏi : " chiếc nhẫn ngày xưa em còn giữ không ?" " xin lỗi em đánh mất nó rồi ". Cô không dám quay lại nhìn anh.

Từ đó về sau cô không gặp anh nữa. Chớp mắt đã mấy năm qua đi. Cô nghe tin anh sắp kết hôn.

"Em yêu anh" câu nói đấy cô đã giữ trong lòng bao năm nay. Nhưng cô không có cách nào mở miệng nói cho anh. Có lẽ anh chỉ thỉnh thoảng mới nghĩ về cô, nhưng thực sự cô có nỗi khổ của riêng mình. Mấy năm trước, trong lúc đi thực tập, cô mất đi không chỉ là chiếc nhẫn anh tặng, còn có cả một bàn tay trái.


 


-------------



Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 30/Mar/2010 lúc 10:19am
 

TÌNH YÊU VÀ ĐÔI CÁNH


Ngày xưa, trong ngôi nhà gỗ cạnh cánh rừng có một cô gái sống cô đơn. Hôm nọ, trong lúc dạo chơi cô thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Cô đem chúng về và nuôi trong một cái lồng rất đẹp.Với sự săn sóc chan chứa tình thương của cô, hai chú chim ngày càng trở nên vừa khỏe vừa xinh. Mỗi sáng chúng cất tiếng líu lo để chào cô. Đôi chim chính là... Tình yêu của cô!

Ngày kia, cô quên cài cửa lồng, thế là ,một con vọt ra, nhưng nó chưa bay đi hẳn mà lại lượn vài vòng quanh cô như muốn chào cô lần cuối. Cô gái buồn bả nhìn theo, cô không muốn phải xa rời nó, cô không muốn tình yêu của cô mất đi. Chính vì vậy, khi con chim bay đến thật gần, cô với tay tóm lấy nó, sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng một lúc sau, cô cảm thấy con vật yêu quý bỗng trở nên mềm nhũn, hốt hoảng xòe tay ra, cô bàng hoàng nhận thấy con chim đã chết, nó đã chết bởi chính tình yêu mà cô dành cho nó.

Thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng và mường tượng rằng nó cần được tự do bay trên bầu trời, cô tiến đến mở cửa lồng và nhẹ nhàng tung chú chim vào không trung. Nó lượn quanh cô một vòng, hai vòng, rồi ba vòng, cô đón nhận niềm vui của nó bằng ánh nhìn rạng rỡ và trìu mến, những muộn phiền trước đó không còn nữa.

Bỗng nhiên chú chim dịu dàng đáp xuống đậu trên vai cô và hót vang những giai điệu mượt mà, chưa bao giờ cô được thưởng thức.

Qua tiếng hót dịu kỳ kia, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho cuộc tình một đôi cánh tự do.


 

-------------



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/Apr/2010 lúc 4:01pm
BỨC TRANH BI BÔI BẨN
Có một anh chàng họa sĩ từ lâu ôm ấp ước mơ để lại cho hậu thế một tuyệt tác. Và rồi một ngày kia chàng bắt tay vào việc. Ðể tránh sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống thường nhật, chàng dựng một khung vẽ rộng 30 mét vuông trên sân thượng một tòa nhà cao tầng lộng gió. Người họa sĩ làm việc miệt mài suốt nửa năm. Chàng say mê bức họa tới mức quên ăn quên ngủ. Khi bức tranh hoàn thành, nó sẽ đưa tên tuổi của chàng sống mãi với thời gian.

Một buổi sáng nọ, như thường lệ, chàng họa sĩ tiếp tục hoàn chỉnh những nét cọ trước sự trầm trồ của hàng chục du khách tham quan. Tuy nhiên sự có mặt của đám đông không hề ảnh hưởng tới họa sĩ. Chìm đắm trong cơn say mê điên dại, chàng ngây người nhìn ngắm thành quả lao động sáng tạo của mình. Cứ thế, chàng từ từ lùi ra xa để chiêm ngưỡng bức tranh mà không biết rằng mình đang tiến tới mép sân thượng. Trong số hàng chục người khách tham quan đang bị bức tranh hút hồn, chỉ có vài người phát hiện ra mối nguy hiểm đang chờ đón người họa sĩ: chỉ lùi một bước nữa là chàng sẽ rơi tõm xuống khoảng trống mênh mông cao cả trăm mét.Tuy nhiên, không ai có can đảm lên tiếng vì biết rằng một lời cảnh báo có thể sẽ khiến người họa sĩ giật mình ngã xuống vực thẳm.

Một sự im lặng khủng khiếp ngự trị trong không gian. Bất chợt một người đàn ông tiến tới giá vẽ. Ông ta chộp lấy một cây cọ nhúng nó vào hộp màu và bôi nguệch ngoạc lên bức tranh. Một sự hoàn mỹ tuyệt vời đã bị phá hủy. Người họa sĩ nổi giận, anh ta gầm lên đùng đùng lao tới bức vẽ, giật cây cọ từ tay người đàn ông nọ. Chưa hả giận, người họa sĩ vung tay định đập cho người đàn ông nọ một trận. Tuy nhiên, hàng chục người xung quanh cũng đã kịp lao tới, giữ lấy người họa sĩ và giải thích cho anh ta hiểu tình thế. Rồi một vị cao niên tóc bạc phơ đến bên chàng họa sĩ và nhẹ nhàng nói: "Trong cuộc đời, chúng ta thường mải mê phác ra những bức tranh về tương lai. Tuy rằng bức tranh đó có thể rất đẹp, rất quyến rũ nhưng chính sự quyến rũ, mê hoặc về những điều sắp tới đó thường khiến chúng ta không để ý tới những mối hiểm họa gần kề, thậm chí là ngay dưới chân mình".

-->
Vậy nên, nếu như có ai đó bôi bẩn, làm hỏng bức tranh về tương lai mà ta dày công tô vẽ, xin bạn chớ nóng vội mà oán giận. Trước tiên hãy xem lại hoàn cảnh thực tại của chính mình. Biết đâu một vực thẳm đang há miệng chờ đón ngay dưới chân bạn.
Sưu tầm


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 03/Apr/2010 lúc 9:13am
 

Café sữa, Lipton




 Nắng, em đi lang thang dạo trong phố nhỏ. Cái quán café nhỏ xíu cũ kỹ nhưng lại đông khách một cách lạ kỳ, có lẽ do nó nhỏ nên cảm giác ấm cúng nhiều hơn chăng?

Mùi café thơm phức như mời gọi bao khách đi qua. Em cũng chen chân vào, theo chân cô hầu bàn dễ thương chiều ý em chọn một chiếc bàn nhỏ kế bên cửa sổ.

Trời cuối đông không lạnh lắm. Em chọn món café sữa vẫn không quên dặn thêm "café ít nhiều sữa" vì khi uống café nhiều, tim em sẽ đập như trống liên hồi và sẽ mất ngủ một đêm. Vậy mà vẫn cứ thỉnh thoảng uống café.

Nhìn ly café nghi ngút khói thơm dịu, nhìn qua khung cửa sổ những giọt mưa đang lấm tấm rơi trên tóc bao người đi trên đường. Chợt kỷ niệm ùa về. Nơi ấy có em và anh.

Cách đây 4 năm về trước mùa mưa tháng 6, quán café hẹn hò đầu tiên sau 4 tháng quen biết là Thềm Xưa, cái quán vừa đủ lãng mạn và dễ thương cho bao bạn bè ở cuối con hẻm đường Nguyễn Hữu Cảnh.

Anh đến sớm chỉ cố ý nhìn em từ xa, em bẽn lẽn trong cái lạnh co ro vì mưa làm ướt áo. Anh chỉ biết nắm lấy bàn tay bé nhỏ của em đặt vào tay anh cố sưởi ấm. Em vẫn gọi café sữa ít café nhiều sữa trong cái liếc nhìn vì anh biết em sẽ mất ngủ và chắc chắc anh cũng mất ngủ vì những tin nhắn em liên tục gởi đi.

Anh gọi trà nóng, chủ yếu để cho em ốp bàn tay vào cái ly nóng cho bớt lạnh. Rồi anh lại cằn nhằn em, nhéo mũi em khi em lại bày trò nhõng nhẽo hay cãi lời. Anh là vậy đó, cứ nói thương em vì lý do gì không biết. Anh lại bảo em hung dữ hay ăn hiếp anh, lúc nào cũng đòi là người thắng cuộc trong các trò chơi hay tranh luận.

Những buổi café tiếp theo cứ lần lượt đi qua theo những cuối tuần, em và anh cũng cứ Lipton và café sữa.

Rồi lần hẹn hò cuối cùng, anh chỉ im lặng khi em bảo sẽ đi xa vào tháng tới. Anh ngạc nhiên đến giận em, bảo em sao không cho anh biết sớm, rằng em không thương anh nên mới ra đi. Nhưng anh đâu biết chính em cũng ngạc nhiên khi mà lãnh sự quán chấp nhận đơn xin học bổng của em tuần rồi.

Đó là lần cuối em và anh cùng ngồi ở quán cũ, câu chuyện như dài thêm, thời gian ngắn hơn. Anh im lặng khi chia tay.

Ngày em đi, anh chỉ biết nắm tay em và bảo hãy nhanh về, anh sẽ chờ em ở quán xưa, cùng ngồi vào chiếc bàn cũ và anh sẽ gọi Lipton nhưng anh sẽ can đảm ôm em vào lòng để sưởi ấm cho em.

Em hứa trong vội vã, nén giọt nước mắt đi thẳng vào khu dành cho hành khách, tay cầm hộ chiếu bên trong ép một tấm thư mời của một trường đại học ở Toulon thành phố miền nam nước Pháp.

Bốn năm rồi, em vẫn chưa về thăm gia đình, chưa về gặp anh và chưa thực hiện được lời hứa năm nào.

Ngồi đây, em lại ước gì có anh bên cạnh, em sẽ không e thẹn mà co rút vào người anh tìm hơi ấm của ngày đông...


 

-------------



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 05/Apr/2010 lúc 7:18am

 

YÊU CHỊ

 
Tôi tình nguyện gọi người ấy là chị vì lớn tuổi hơn tôi và chín chắn hơn tôi trong suy nghĩ. Tôi đã rất hạnh phúc khi được là em của chị.

Qua thời gian tiếp xúc, chia sẻ và đồng điệu, tôi nhận ra tình cảm của tôi dành cho chị có thêm những nỗi nhớ vu vơ. Và rồi tôi biết mình... yêu chị!

Khi đó tôi 22 tuổi, mới ra trường, chưa từng trải qua cuộc tình nào. Chị làm tôi rung động có lẽ vì chị đến với tôi quá tình cảm, sự quan tâm quá ngọt ngào, sự chăm sóc nhẹ nhàng bằng những lời nhắc, câu chúc...

Con người ta sống - yêu và gắn kết với nhau vì điều gì? Tôi tự hỏi và tự trả lời: vì cả hai muốn cùng xây đắp những hạnh phúc chung. Và tôi nhận ra sự thật: tôi thấy hạnh phúc khi ở bên chị, tôi có thể tin tưởng, chia sẻ với chị nhiều điều.

Điều tôi muốn sẻ chia là khi yêu ai đó bạn nên hỏi trái tim mình đã yêu thật lòng, yêu hết mình? Và bạn có thể cùng người ấy “đồng cam cộng khổ” để bước qua những ranh giới của cuộc sống mà hai người có thể gặp trong chặng đường yêu, đi đến hôn nhân và tìm kiếm hạnh phúc trong tình yêu?

Nếu câu trả lời là có thể thì bạn hãy tỏ tình, hãy vun vén tình yêu của mình để không bị bất kỳ một ngoại cảnh nào tác động làm tình yêu của bạn bị tổn thương!

Tôi bày tỏ nỗi lòng mình qua tin nhắn: “Chị có biết là ngày hôm nay không nói chuyện với chị em cảm thấy… nhớ lắm không?”. Vừa nhấn phím gửi đi, tôi vừa hồi hộp, vui vui, mắc cỡ.

Nhiều lần như thế cho đến một lần chị hồi âm: “Vì sao em nhớ chị? Những tin nhắn của em làm chị suy nghĩ rất nhiều. Và chị cũng đã mất ngủ khi phải đọc đi đọc lại tin nhắn ấy hàng chục lần! Em có biết là em đang làm khổ chị?”.

Tôi vỡ òa khi đọc tin ấy. Cái rụt rè của thằng con trai 22 tuổi bỗng biến đâu mất, tôi nhắn tin giãi bày: “Em cũng không biết nữa, em rất quý chị, không biết có phải đó là tình yêu?”. Vậy đó, tôi bắt đầu ngỏ lời như thế. Mãi đến mấy tháng sau mối tình đầu của tôi mới chớm nở khi chị gật đầu nói… yêu tôi.

Những ngày yêu nhau thật hạnh phúc nhưng cũng thật ngắn. Chị nhận được nhiều lời châm chọc, có thể lúc đầu là đùa nhưng dần dần người ta bảo chị “dụ dỗ” tôi - chàng sinh viên mới ra trường. Bạn bè tôi thì bảo: "Quen với chị sẽ được bảo bọc tốt, khôn thiệt!”. Những búa rìu dư luận ấy đẩy chúng tôi vào ngõ hẹp.

Cả tôi và chị không vượt qua được cái tự ái của bản thân. Tôi còn trẻ nên tôi không thể nhẫn trước những câu ác ý của bạn bè và vài người thân. Tôi sợ hãi. Chính tôi nói lời chia tay dù vẫn thương chị. Có lẽ chị rất buồn nhưng là người biết lắng nghe nên chị nhẹ nhàng chấp nhận…

Mãi đến bây giờ, khi chị đã có chồng, tôi vẫn chưa dám yêu thêm lần nữa. Tôi cũng nhận ra rằng thời điểm tôi ngỏ lời yêu chị, tôi chưa chuẩn bị hết những tình huống xảy ra trong mối quan hệ “em yêu chị”. Tình yêu ấy cũng chưa đủ lớn để vượt qua dư luận.

Tiếc lắm, nhớ lắm một mối tình không trọn...



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 07/Apr/2010 lúc 10:20pm
  /main/vanhoc/truyenngan/17481-ting-gao-trong-em.html - Tiếng Gào Trong Đêm http://saigonecho.com/main/vanhoc/truyenngan/17481-ting-gao-trong-em.pdf">PDF http://saigonecho.com/main/vanhoc/truyenngan/17481-ting-gao-trong-em.html?tmpl=component&print=1&page=">Print http://saigonecho.com/main/component/mailto/?tmpl=component&link=aHR0cDovL3NhaWdvbmVjaG8uY29tL21haW4vdmFuaG9jL3RydXllbm5nYW4vMTc0ODEtdGluZy1nYW8tdHJvbmctZW0uaHRtbA%3D%3D">E-mail
Tác Giả : Nguyễn Thị Ngọc Nhung   
Dưới đây là một truyện ngắn giá trị của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Nhung,

 mô tả những diễn biến rùng rợn của một chuyến vượt biên, trong đó tác giả là nạn nhân. Truyện được viết dưới dạng tự thuật, nên lôi cuốn từ đầu đến cuối, khiến người đọc vô cùng hồi hộp, như được sống lại những kỷ niệm hãi hùng của ngày xưa... vượt biên. Ghe chòng chành giữa dòng nước, tôi sợ hãi ngồi bám chặt mạn thuyền, mắt láo liên nhìn trời đêm sáng lờ mờ ánh trăng mười chín. Chúng tôi ngồi dồn đống trong khoang thuyền. Hai tên đàn ông to người chèo ghe gõ nhẹ trên mui báo hiệu đã đến nơi tạm an toàn, chúng tôi có thể cử động đôi chút. Người chèo mũi vén tấm lá che mui nhìn vào.
"Bây giờ mình phải đi bộ một khoảng, tui dẫn hai người một lần. Chia ra để khỏi lộ. Mấy người khác cứ ngồi đợi đến phiên, nhớ đừng nói chuyện lớn tiếng."

Hắn dẫn hai người đàn bà ngồi sát cửa mui đi trước. Cả đám ngồi đợi ẩn nhẫn. Tim tôi chưa hết hồi hộp đập thình thịch thể như bất cứ người nào ngồi gần cũng đều có thể nghe được nhịp ấy. Phong nắm tay tôi. Tay Phong đẫm mồ hôi và lạnh. Tôi phải ngồi bệt và khom lưng, hai đầu gối co đụng cằm, gọn lỏn trong lòng Phong. Khoang ghe quá chật cho mười người ngồi lèn nhau, phía ngoài còn tấn mấy buồng chuối mùi nhựa nồng chát. Bên trái tôi, cha mẹ Phong dúi sát nhau. Một bé trai độ bốn, năm tuổi, bị uống thuốc ngủ, nằm im lìm trong lòng cha nó. Bà vợ ngồi kế bên, chân trái đạp chân tôi nhưng hình như bà không biết và tôi cũng không thể dời chân đi nơi khác. Đành chịu. Người con gái ngồi kế có lẽ là em gái bà, mặc bà ba đen như gái quê, mặt từa tựa nét.

Khí trời đêm hơi lạnh nhưng bên trong khoang, nóng hầm hơi người. Hình như cái nóng hậm hực ấy tăng gấp bội vì trộn lẫn với nỗi căng thẳng bập bùng ngập ngụa không gian. Tôi lén nhìn đồng hồ giấu trong ngực áo. Khoảng 2g15 sáng. Tôi thì thầm nơi tai Phong "Hơn hai giờ sáng rồi anh." Phong gật nhẹ đầu. Người đàn ông chèo lái ngồi im như pho tượng. Đôi khi ánh mắt của hắn lấp lánh nhẹ dưới ánh trăng khi chớp. Cái mũi dài mang nét khoằm khiến mặt hắn lộ đầy vẻ gian ác nhưng nụ cười nở rộng với hàm răng thưa làm giảm bớt ấn tượng xấu nơi người đối diện. Hắn mặc áo bà ba đen, tay áo xắn quá cùi chỏ.

Người đàn ông đưa hai người đàn bà lội bộ băng qua hàng cây thấp trở lại. Hơi thở của hắn nóng hôi hổi phà ngay mặt tôi khi thò đầu vào khoang kêu người đàn ông ẵm đứa con ngủ mê mệt. Người chồng bò ra đằng lái, vác đứa bé trên vai như vác bị gạo mò mẫm bước lên bờ. Vấp phải vật gì trên bờ đất, ông chúi nhủi suýt té, tay cố giữ thằng bé, người lảo đảo bước quàng xiên lòm khòm rồi mới đứng thẳng lên được.

Tên đàn ông dẫn đường mặc áo sơ mi màu nâu đen, quần tây nhàu nát ống nhỏ túm hơi ngắn trên mắt cá, có chỗ sờn, đôi dép mỏng. Hắn ta tương đối trông được hơn người ngồi lái. Với nước da tái, môi thâm vì thuốc lá nhưng lại vẽ nên một nụ cười thật đẹp với lúm đồng tiền bên trái, kẽ răng đóng nhựa thuốc. Đôi mắt mí to với hàng mi rậm, duy có ánh mắt của hắn là không thẳng thắn, còn ngoài ra hắn dễ dàng lấy cảm tình của người xa lạ với giọng nói trầm và chậm.

Tôi và Phong chưa bao giờ gặp hai người đàn ông này. Chuyến đi này chúng tôi qua trung gian bởi người bạn thân giới thiệu. Người bạn đó đã đến Mã Lai an toàn, chính vì vậy mà tôi và Phong mới tin tưởng nơi người trung gian này. Hơn nữa, chuyến đi có cả gia đình người thân gì đó của người trung gian cùng đi, như vậy thì không có gì để chúng tôi lo ngại. Thường là chắc ăn, người trung gian mới dẫn gia đình đi sau khi đã mối lái nhiều lần có vàng có tiền làm của hoặc manh mối bắt đầu bị lộ. Ba mẹ Phong và tôi phải xuống Cần Thơ, giả đi thăm bà con. Tôi mặc hai bộ đồ trên người, giấu theo ít vàng và nữ trang. Phong mặc quần áo nhăn nhíu không ủi. Mẹ Phong thì mặc bà ba quần thâm. Ba Phong thì vận đồ rách, vá chùm vá đụp mấy chỗ, chân mang dép rách quai cột nối bằng cọng kẽm. Tất nhiên là không dễ gì qua mắt người miệt quê đó nhưng hình như họ cảm thông (hay tội nghiệp) trước sự trá hình không mấy chỉnh nên tôi thường bắt gặp ánh mắt ái ngại nhìn mà không dám hỏi vài lần suốt đường đi.

Đến nơi, cả bốn được dẫn đến một căn nhà nằm dựa mé sông chờ đến tối mới xuống ghe nhỏ theo sông ra cửa biển nơi có ghe lớn đợi sẵn. Trong nhà có độ hơn mười người khác đợi sẵn khi chúng tôi đến rồi chia nhóm theo ghe. Tôi dặn Phong tìm cách đi chung với người trung gian, bảo đảm hơn. Phong gật nhưng gia đình người đó cả thảy là tám, thêm hai người thì vừa đủ cho một chuyến. Nhưng tôi lẫn Phong đều không muốn đi tẻ riêng thành ra đành phải chờ chuyến chót, mười người, hơn mười giờ tối.

Thoạt đầu, ngồi chen chúc trong khoang, tôi muốn ngộp thở với hơi người và mùi bùn non lẫn mùi nước đọng hôi hám nơi đáy ghe. Hai người chèo bắt chúng tôi khom lưng gần như nằm mọp xuống, tấn bên ngoài dằn bên trên, mấy buồng chuối xanh ngắt sau khi đậy bao bố tời dơ bẩn lên đầu mọi người. Đường đi may mắn yên tĩnh không có chuyện gì xảy ra tuy rất chậm và kéo dài như không bao giờ đến nơi.

Người đàn ông dẫn đường trở lại, kêu bà vợ và cô em gái của bà cùng đi. Tôi chợt ngửi phải mùi nồng tanh tưởi nơi áo hắn khi hắn nghiêng người khều vai bà vợ. Bỗng dưng tôi nghe lợm giọng không hiểu tại sao. Cái mùi thật lạ lùng. Bóng tối trong khoang không cho phép tôi nhìn rõ mặt hắn. Mùi tanh đến lạ. Hơi thở của hắn cũng nặng nề hơn. Tôi thì thào với Phong sau khi hắn đã đi.
"Anh có nghe mùi gì không?"
"Không. Mùi gì?"
"Có mùi tanh tanh kỳ lắm... "
Phong bâng quơ qua chuyện.
"Mùi bùn đó mà."
Cũng khá lâu người đàn ông dẫn đường mới trở lại. Có thể hắn đi không lâu lắm nhưng khi chờ đợi thì năm ba phút dễ biến thành năm ba giờ. Chỉ còn bốn người trong khoang. Hai tên đàn ông bàn tính nho nhỏ trên bờ. Tôi bỗng nghe gai ốc nổi đầy người. Tôi nắm chặt tay Phong. Mồ hôi tươm ướt lưng. Người đàn ông đẹp trai kêu chúng tôi ra khỏi khoang. Hắn nói, giọng khoan thai.
"Bây giờ tui dẫn ông bà đi, hai người một. Để khỏi mất thì giờ, hai người đi với anh Ban, hai người đi với tui. Tụi tui đi hai đường nhưng đường nào cũng dẫn tới chỗ ghe lớn. Đi đông nhiều tiếng động dễ bị lộ. "

Rồi không đợi phản ứng của người nào hết, hắn hất hàm người mũi khoằm tên Ban, đẩy cha mẹ Phong về phía đó. Quay nhìn hai đứa tôi, hắn cười, hàm răng lởn nhởn dưới ánh trăng, bóng đen lúm đồng tiền nổi rõ trên má, rồi hắn quay lui bắt đầu đi về phía rừng cây thấp. Phong nắm tay tôi đi theo hắn. Rừng cây tối mờ dù là rừng thưa, bóng lá đen ngòm trên đường lồi lõm. Tôi vấp té loạng choạng nhiều lần, đi chậm hẳn lại.

Chợt một nhánh cây đập vào mặt đau điếng, tôi khựng lại, giằng tay khỏi tay Phong rồi đỡ nhánh cây cúi người lom khom. Bỗng dưng, tôi nghe thấy... không chắc mình nghe đúng, nhưng tứ chi chai cứng. Thứ âm thanh nhọn như tiếng mèo gào giữa khuya. Tim tôi đập nhịp cuồng. Tôi quờ quạng tìm tay Phong. Chàng đứng sát tôi, chợt tôi cảm thấy cả người mệt mỏi và thỏng dài. Người đàn ông dẫn đường quay nhìn hai đứa tôi. Bóng tối mờ nhưng tôi vẫn thấy được ánh mắt kỳ lạ của hắn. Bỗng nhiên nỗi sợ hãi ùa tới tràn ngập người tôi với sự im lặng kỳ lạ của người dẫn đường không thúc hối khi thấy chúng tôi khựng lại. Hắn không hề kêu chúng tôi nhanh bước. Thời gian đứng khựng và cả ba đứng im như chờ đợi phản ứng của nhau. Chợt Phong kéo ngược tay tôi chạy trở lại hướng vừa rời đi lúc nãy. Tôi chạy cuống cuồng theo tay kéo mù loà. Rừng cây như mê hồn trận, chúng tôi chạy bất kể mọi thứ.

Rồi cả hai cũng trở lại được bờ sông nơi ghe cặp bến. Người đàn ông tên Ban đang cúi khom lục lọi chi nơi bóng đen nằm im bên chân hắn. Tôi đứng sựng kêu không ra tiếng. Miệng lưỡi dính thành một khối nghèn nghẹn. Bóng đen dưới chân hắn là mẹ Phong, nửa trên loã thể, tư thế co quắp, mặt úp xuống bùn. Ban hình như cũng không ngờ sự có mặt của tôi và Phong. Hắn đờ người, tay còn cầm sợi dây chuyền vàng lòng thòng. Trong khoảnh khắc chúng tôi nhìn hắn, nhìn cái búa bửa củi vất bên chân. Tôi không thấy máu vì bóng đêm làm nhoè bẩn mọi thứ. Nỗi sợ hãi dâng lấp trí óc. Ý nghĩ lướt thật nhanh trong đầu. Tôi đã hiểu tại sao chúng muốn dẫn từng hai người một. Tôi sực nhớ đến người dẫn đường. Đầu óc hoảng sợ nhưng vẫn còn sáng suốt để nghe rõ tiếng chân chạy đuổi và tiếng la của hắn đâu đó "Ê Ban, coi chừng tụi nó chạy. Ban! Ban! Tụi nó chạy rồi!" Phong vụt chạy về chỗ neo ghe. Tôi chạy theo tay níu của Phong đến sát mé nước, chân vấp vật gì. Tôi ré lên như đạp phải giòi. Nhìn xuống, ba Phong nằm nửa người vùi dưới nước. Phong khựng lại vì tiếng la của tôi rồi đẩy tôi ra sông. Tôi sặc sục, nước mới ngang ngực. Phong hét vào tai tôi. "Lội mau lên, lội ra giữa sông."

Tôi bơi hối hả, tay chân nặng chình chịch vì hai bộ đồ ướt nước. Tôi quay cuồng tứ phía, không rõ mình bơi về hướng nào mới đúng. Tiếng người la hét sau lưng nghe chói tai đến độ hãi hùng. Một tràng đạn bắn vãi quanh tôi và Phong. Chàng đè đầu tôi ngụp xuống nước. Không mấy lâu, tôi ngộp thở hất tay Phong trồi lên hớp không khí. Súng nổ liên hồi như sát mang tai. Tôi luýnh quýnh đập tay chân loạn xạ, chưa đầy mấy phút đã mệt lả. Tôi càng ráng trồi lên chừng nào thì lại càng chìm xuống nhanh chừng nấy. Tôi lặn hụp lên xuống như người sắp chết đuối. Có lẽ nhờ vậy mà tôi tránh được đạn bắn xối xả chung quanh. Phong khi lặn kéo tôi hụp xuống, khi nổi đẩy tôi trùi tới. Tôi bơi tới tấp với cảm tưởng mình nổi ì một chỗ. Đầu óc tôi rối loạn nhưng hình như vẫn tỉnh táo, rất tỉnh táo để thấy ánh trăng mờ trên cao, cây cối đứng im nơi bờ, bóng nước lấp lánh quanh mình, hơi thở hào hễn, cơn mệt muốn đứt hơi và mấy bóng đen trên bờ với loạt đạn dữ dội. Tôi bơi như máy, hơi thở dần ngắn với nước tuôn vào mũi mồm sặc sục. Biết mình không đủ sức, tôi thả ngửa để Phong vịn vai đẩy đi. Hình như chúng tôi đã ra được giữa sông. Tôi nhìn vào bờ, chỉ thấy dạng cái ghe, hai bóng đen tàn ác nhoè lẫn trong bóng đêm nhưng ánh lửa nháng với tiếng nổ vẫn hiện hữu. Tôi đạp chân phụ sức với Phong, mắt nhìn thẳng lên lòng đêm có trăng sao đầy đủ. Trời đất có đó nhưng hình như bịt tai im lặng trước hành động dã man. Tôi nhẩm cầu những đấng tối cao mà tôi có thể nghĩ đến trong nhịp tim hỗn loạn.

Tiếng súng bỗng im. Sự im lặng hãi hùng đè chụp lấy tôi. Tiếng đập nước vùng vẫy của chúng tôi bỗng trở thành tiếng động duy nhất rõ mồn một trong đêm. Tôi lật sấp người lại tiếp tục bơi, bờ bên kia vẫn còn xa thăm thẳm. Có bơi mới thấy con sông không nhỏ như tôi tưởng khi còn ngồi trên ghe. Phong nhìn lại rồi nói qua hơi thở đứt quãng.
"Tụi nó chèo theo... bơi lẹ... lên em... May ra mình... thoát."

Câu nói của Phong lại được đệm bằng tiếng súng nhưng rời rạc hơn lúc nãy. Tôi muốn bịt tai để đừng nghe thứ âm thanh dữ dằn chở đầy gai nhọn đâm thẳng tim óc. Tôi nhìn lui, không hiểu sao trong lúc bấn loạn, trí óc vẫn tiếp tục có lúc minh mẫn để thấu suốt những thứ không dính dáng gì hết, quanh mình. Chiếc ghe trôi lừ lừ ra giữa sông thật nhanh. Lửa đỏ loé quanh. Tôi nghe được tiếng giầm quậy nước lẫn với tiếng súng mỗi lúc thưa hơn. Tiếng lủm chủm của đạn rơi không còn nghe gần đâu đây nữa mà vạt xa xa về phía bờ bên phải. Phong kề tai thì thào.
"Tụi nó không thấy mình. Em bơi nhẹ dưới nước trôi lần vào bờ, đừng gây tiếng động mạnh. Khi tụi nó bắn thì mình bơi nhanh hơn một chút."
Đám lục bình nhẩn nha trôi đâu đó làm hai tên đàn ông lầm lẫn. Chúng la hét lẫn nhau.
"Mày bắn lục bình không hà, Ban! Ê. Đụ mẹ, tụi nó trôi hướng này sao mày cứ bắn hướng đó hoài vậy? Đụ mẹ, giết có hai đứa mà cũng không xong, biết làm gì ăn đây mậy?"
"Câm cái miệng của mày lại. Đứa nào để xẩy? Hả? Mẹ cha nó, tao bắn đúng chỗ, chắc tụi nó chìm rồi. Không tin thì thôi. Đụ má, bỏ cho rồi. Sống chết kệ mẹ tụi nó. Về cho xong, trời gần sáng rồi, làm cả đêm, mệt chết mẹ!"

Mọi thứ vụt im. Không có tiếng chèo lẫn tiếng chửi thề. Tay Phong nắm cứng vai tôi trong khoảnh khắc rồi buông. Tôi chúi đầu sát mặt nước, tay chân cố khuẫy thật nhẹ nhưng vẫn mang cảm tưởng nặng chịt lào xào khuyấy nước. Im lặng nặng như tấm màn sũng nước phủ đè lên tâm trí. Tim tôi đập rối rít, mạch máu nhảy theo nhịp tim hào hễn, tai tôi nghe được tiếng bình bịch của tim mình tưởng như ai cũng đều nghe ra. Chợt có người dúi chân tôi xuống. Tôi hơi giật mình khi chân đạp phải lớp sình mềm. Phong đứng, mặt ngửa chừa mũi thở, cả đầu dìm gần hết dưới nước. Tôi bắt chước Phong, đỡ mệt vì chân chạm đáy sông nhưng phải đổi chân chống vì lớp sình mềm khiến chân chuồi nghiêng không vững. Được một lát, tôi ngẩng nhìn vừa lúc bóng đen nơi ghe lên tiếng.
"Đằng kia kìa. Đó. Đụ... tụi nó vừa hụp xuống. Chỗ này nè. Mày bắn chỗ đó coi."

Phong nắm tay tôi kéo hụp xuống nước. Nghe được câu nói của người trên ghe nên tôi kịp chuẩn bị để hít một hơi không đến nỗi chịu ngộp lâu. Đạn bắn tung toé sát nơi tôi đứng. Phong dò dẫm bước đi dưới nước. Tôi bước theo mò mẫm, chân đạp sình loạng choạng nhằm nơi trũng sâu làm tôi hốt hoảng bíu chặt tay Phong. Miệng há ra bất ngờ khiến nước ùa vào mồm, tôi ngột ngạt trồi đầu lên thở. Trước mặt, đám lục bình kẹt nhánh cây chết dồn đống bên bờ. Tôi truồi sâu vào đám lá, chỗ nước cạn ngang bụng nên ngồi chồm hỗm dưới nước. Bóng ghe đi ngang thật rõ. Tiếng nói chuyện vang vang.
"Kệ mẹ tụi nó, về cho rồi. Mày cất đồ chưa?"
Giọng trầm khoan thai trả lời như không bị ảnh hưởng chi hết với hỗn loạn máu me vừa rồi.
"Rồi, hỏi hoài! Xét hết mấy cái thây rồi. Trừ khi nào họ nuốt vô bụng thì tao chịu chớ... Ờ, hay là mình quay lại mổ mấy cái thây đàn bà. Tụi nó có khi nuốt hột xoàn..."
Giọng kia bẳn gắt hơn. "Sao hồi nãy hổng nói? Mẹ nó. Xì. Đụ má, gì cũng mày. Đợi xong rồi mới nói. Xẩy hết hai đứa... Gần sáng rồi, mổ miết gì nữa. Đụ má."

Tiếng nói nhỏ dần theo dạng ghe loãng dần trong đêm tối. Phong đứng dậy, lần mò trượt lên trượt xuống với lớp sình nơi bờ rồi mò lên bờ đất. Tôi đạp sình nhão nhoẹt len chảy qua mấy kẽ chân, theo Phong lên chỗ có đất cứng. Bờ đất đầy rễ chằng chịt của thân cây chết, không rõ cây gì. Tôi lại vấp chân đau điếng nhưng cơn đau không đủ nồng độ để tôi nhận biết lâu hơn. Ngồi bệt xuống, tôi lần mò ngực áo tìm đồng hồ. Ánh lân tinh mờ ảo. 4g20 sáng. Tôi nói với Phong, hơi khựng lại khi nhận ra mình lạc giọng.
"Gần bốn rưỡi rồi anh. Giờ tính sao đây?"

Phong cởi áo vắt nước không trả lời. Tôi cởi bớt một bộ đồ bên ngoài cố vắt cho ráo rồi phơi đại trên mấy nhánh cây gần đó. Hơi lạnh thấm qua lần áo ướt còn lại trên người khiến tôi nổi ốc. Cả người tôi run từng cơn theo phản xạ cơ thể. Tôi ngồi bó gối, hai tay ôm chân co ro. Phong choàng tay qua vai tôi cho ấm. Hai đứa chúi vào nhau. Trí óc tôi dần dần tỉnh và tôi cố tránh không nghĩ đến những gì vừa xảy ra.

Rừng cây thưa thớt không một bóng nhà hay bóng đèn. Sao thật sáng và thật nhiều. Tiếng ếch nhái ễnh ương đâu đó nổi lên thật bình yên như không có chuyện gì xảy ra. Nước mắt tôi rơi chầm chậm nhiểu trên tay mới hay. Cơn sợ hãi lắng xuống, giờ chỉ còn lạc lõng khốn cùng sau cơn bão tàn khốc. Tôi mang cảm tưởng vừa rỗng không vừa đầy ắp đến độ muốn nôn. Không biết tôi nên nói gì, làm gì. Sau con giông tàn bạo, sực thấy mình không là gì cả, tay chân dư thừa, đầu óc đầy rẫy những hình ảnh chết chóc và cảm tưởng mình rất mỏng manh dễ bị xúc phạm thì lấp đầy cả người.

Giọt nước mắt đầu rơi xuống, khơi dậy trùng dương trong tôi. Tôi khóc ngon lành như chưa bao giờ được khóc. Trí óc lần mò trở lại xác người vấp phải nơi mé nước, sợi dây chuyền vàng đong đưa nơi tay gã đàn ông cúi mình trên cái xác trần. Hoá ra, tim tôi hụt nhịp, những người chung ghe đã chết. Tôi nhớ đứa bé trai ngủ mê vì thuốc. Cô gái trẻ thì thầm với tôi "Bồ em ở Texas. Ảnh hứa sẽ đón khi em tới đảo. Mấy năm rồi em chỉ đợi có dịp này. Tưởng sẽ không bao giờ gặp rồi chứ. " Giọng cười khẽ vui sướng đầy hy vọng của cô. Giờ thì thật là không bao giờ gặp. Tôi gục đầu ủ rũ với nước mắt. Phong ngồi im lặng lẽ. Chúng tôi đã gặp phải lũ cướp cạn tàn ác. Lũ cướp cùng màu da cùng tiếng nói với mình. Tôi thường nghe nói đến hải tặc Thái lan nhưng chưa nghe nói đến lũ cướp cùng màu da tiếng nói với mình. Giờ thì tôi hiểu, nạn nhân chết cả, lấy ai kể lại câu chuyện thương tâm nơi bờ sông vắng. Biết bao bờ sông vắng đã chứng kiến những cảnh tượng tương tự? Tôi lau nước mắt trên tay áo còn ẩm ướt, nằm lăn ra đất. Phong nằm theo, gối đầu tôi lên tay chàng. Tôi sờ soạng mặt Phong trong đêm tối mờ, ngón tay tôi ướt khi lướt ngang mắt. Tôi vùi mình trong lòng Phong, cảm kích và đau đớn vô vàn.

Bà ngoại Phong mất khoảng sau hai giờ sáng cùng ngày hôm ấy. Dì Sáu cho chúng tôi hay mấy ngày sau, khi hai đứa mò về đến nhà. Bà mất cùng ngày chúng tôi bị nạn. Lúc hai giờ, bà còn đòi dì Sáu rót cho tách trà. Sau đó, dì Sáu về giường của mình. Đến sáng thì bà đã chết cứng, hai chân thò ra ngoài như sửa soạn xuống giường, tay phải níu chặt thành giường, mắt mở hé.

Phong ngồi ôm đầu nghĩ ngợi. Chập sau Phong hỏi.
"Dì có chắc là sau hai giờ không?"
"Chắc. Dì cho ngoại uống nửa tách trà. Lúc để tách xuống bàn sực thấy đồng hồ gần hai giờ chớ dì có tính coi giờ đâu mà nhớ."
Dì Sáu là em út của mẹ Phong. Dì lớn tuổi nhưng không con. Chồng dì còn ở trại học tập nên dì không đi với chúng tôi, vả lại không ai trông nom bà ngoại, đã hơn bảy mươi lăm già yếu nhiều bệnh tật. Dì giống mẹ Phong nhiều nét nhưng khô khan cằn cỗi hơn. Mặt dì sưng húp vì khóc nhiều.
Lúc mở cửa thấy hai đứa tôi, dì oà khóc như trẻ nhỏ. Thấy trở về, hiểu ngay là không thoát, phần mới chôn mẹ một mình nên dì tủi thân. Đến khi biết cha mẹ Phong tử nạn, dì khóc thảm thiết hơn. Phong chỉ ngồi yên nhìn tôi và dì Sáu, mặt chàng chai cứng với giận dữ và oán hờn.
Tối hôm đó, Phong ngồi nơi giường ngoại, vụt nói một câu lạ.
"Mình thoát được là nhờ ngoại!"
Tôi nhìn Phong không hiểu. Dì Sáu hỏi.
"Sao? Con nói sao?"
Phong chậm rãi kể, mắt nhìn mông lung.
"Lúc Ngà giật tay con đứng lại, tự nhiên con thấy bà ngoại. Thấy như thế nào thì con không biết, chỉ biết là thấy mà trong người không hề thắc mắc tại sao. Bà ngoại xua xua tay nói. Chạy đi con, lội qua bên kia sông. Lẹ lên. Chạy đi con! Con nghe rõ ràng giọng thúc hối nóng lòng của Ngoại. Con đang hoang mang chưa biết làm gì thì lại nghe bà nói. Mẹ mày chết rồi. Chạy mau lên con ơi. Rồi như có gì ám, con lôi tay Ngà chạy về phía bờ sông theo lời Ngoại. "

Tôi nghe lạnh nơi sống lưng. Tôi đã không kéo tay Phong đứng lại vô cớ, rõ ràng có nhánh cây đập nơi mặt đau như trời giáng nên tôi đứng lại không suy nghĩ.

 Khi mặt trời lên, Phong nhìn và không thấy vết bầm hay trầy trụa nào trên mặt tôi cả. Điều này khiến tôi ngạc nhiên vì cái đau xé da thịt kia không thể nào không để lại dấu vết trên mặt. Còn tiếng gào, thứ tiếng đau đớn của một con thú bị nạn. Thứ âm thanh chỉ có thể tạo được bởi cơn đau tận cùng xương tuỷ. Phong đã không nghe tiếng gào nào hết khi giật tay tôi quay lui chạy ngược về hướng cũ. Không dám suy tưởng nhiều hơn, tôi chỉ giản dị cho rằng mẹ Phong đã tìm cách cứu chúng tôi bằng tiếng gào mà bà đã không kịp thoát thành tiếng. Tôi đã nghe được thứ âm thanh xé rách màn đêm chọc thẳng óc mình, đã ngửi được mùi máu trên áo kẻ giết người. Nếu không có nhánh cây quật mặt, tôi đã không dừng lại và đã tiếp tục ngoan ngoãn đi theo tên dẫn đường gian ác. Nếu không có tiếng gào, có lẽ tôi vẫn tiếp tục đi không chút ngờ vực. Tiếng gào và cái đau của nhánh cây quật mặt, cả hai đều thật, thật như nỗi hãi hùng của cuộc thảm sát ghê rợn nơi bờ sông vắng.

 Tôi đã cảm thấy được tất cả mọi thứ bằng mọi giác quan trên người. Có thể, nhánh cây làm tôi đau nhưng không để lại dấu vết, nhưng còn tiếng gào, tôi phải giải thích làm sao khi Phong không hề nghe có tiếng gào nào hết. Hai đứa tôi đã được báo động cùng một lúc bằng hai hình thức khác nhau. Và nhờ hành động vụt chạy bất thần khiến tên dẫn đường không kịp trở tay. Nếu không, nếu không... tôi vẫn thường tự hỏi, nếu không, nếu không, chuyện gì sẽ xảy ra và tôi sẽ làm gì nếu gã đàn ông không gờm tay với mình giả như tôi và Phong cùng rơi vào tình trạng sống chết dưới tay hắn? Đây là nỗi ám ảnh không biết đến khi nào tôi mới được quên dù đã yên ổn xứ người nhiều năm sau đó.



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 09/Apr/2010 lúc 3:14pm

http://vietnamlibrary.informe.com/m-t-thuy-an-nguy-an-xunon-t-ng-vy-dt4374.html - Mắt Thuyền
 - Nguyễn Xuân Tường Vy.


Biển lặng những ngày sau. Tôi vẫn không đủ can đảm nhìn xuống lòng đại dương sâu hút. Đôi mắt thuyền vẫn ở đó. Trong thâm tâm tôi biết đôi mắt ấy vẫn dõi theo tôi từ khi rời khỏi mặt nước. Biển trong lòng tôi đã lặng. Cả những lượn sóng sôi. Nhưng đôi mắt vẫn ở đó trong sâu tận đáy lòng. Đôi mắt làm bằng ván của quê tôi, của Tam Kỳ tuổi thơ, của những gốc phi lao rì rào. Những gốc cây trơ gầy vậy mà chúng cũng ghép lại được để chở mang tôi ra xa, vượt những ngọn sóng, vượt những lượn triều, vượt trời nước mênh mông để khi tôi quay nhìn lại thì Tam Kỳ đã biến mất. Quê tôi không biến mất, Tam Kỳ chưa biến mất. Tam Kỳ gửi theo tôi đôi mắt ván thuyền.

Đó là năm 83, khi tôi bước chân xuống chiếc thuyền chòng chành ở mấp mé bờ nước.

Thuyền đi đã bao lâu, tôi không thể nhớ. Tôi thức giấc giữa lòng ghe. Chung quanh im phắc. Ánh sáng lờ mờ từ nắp ghe hắt xuống những thân người nằm ngồi ngả nghiêng. Các chị tôi ngồi dựa lưng vào thành thuyền, lờ đờ. Mùi nôn mửa xú uế trùm kín vùng không gian hẹp. Ngộp thở, tôi lại muốn nôn. Nhưng bao tử thắt chặt co bóp. Không còn gì để nôn ra. Tôi bò về phía có ánh sáng. Không ai la mắng khi tôi bò lên thân họ, dẫm lên mặt họ. Tôi đưa đầu lên khoảng sáng. Mùi gió mặn thốc vào mặt làm tôi tỉnh táo. Biển nhám hiện ra lờ mờ trong vũng sương. Trời và nước cùng xám đục. Hình dáng vài chiếc ghe hiện lên xa tít, lung linh mờ ảo như buổi sáng ban mai đang êm dịu.

Đêm qua, chúng tôi rời bến Bình Triệu. Thuyền xoáy đuôi tôm từ bên này bờ sang bên kia thì mắc cạn. Những giây phút chờ nước lên trở thành vô tận. Lúc đó tôi còn hồi hộp, tim đập thình thịch vì cách nhổ bãi chớp nhoáng. Hầm tàu tối om. Mọi người co rút lặng lẽ. Người theo đạo Công Giáo lẩm nhẩm đọc kinh. Người theo đạo Phật lầm thầm tụng niệm. Lúc chiều tôi để ý nhiều người xách theo tượng Phật và cả nhang đèn. Con người cầu cạnh thượng đế những khi yếu đuối nhất. Sao không yếu đuối khi tất cả diễn ra mong manh vừa thúc đẩy mỗi chúng tôi dấn bước vào định mệnh.

Từ buổi chiều nhập nhoạng, chúng tôi theo người dẫn đường đến tụ tập tại điểm hẹn tại một ngôi nhà thờ trong khu cư xá Tam Đa. Gia đình tôi và các anh chị họ được đưa đến đầy đủ. Thánh lễ chiều vừa xong, giáo dân lục tục ra về. Chúng tôi vào nhà thờ cầu nguyện. Đức Mẹ giang tay an ủi. Chúa Giêsu cúi nhìn từ thánh giá. Trời tối mau. Cơn mưa rả rích từ chiều vẫn chưa dứt. Ở bên ngoài, tôi thấy thêm nhiều tốp người đứng lố nhố. Họ không phải giáo dân ở đây. Như chúng tôi, họ chờ giờ khởi hành. Tôi thấy má bắt đầu bồn chồn. Đứa em nhỏ tám tháng của tôi khóc leo nheo. Đám đông đứng lớ ngớ, tay xách nách mang. Trong chiếc giỏ bàng ở chân cột có hình Quán Thế Âm và bát nhang.

“Không biết họ đi đâu? Hôm nay làm gì có chầu.”

Một con bé đang nhảy dây nơi sân đứng lại hỏi han. Không ai trả lời cho nó. Mắt tôi nhìn sững vào vòng dây quay đều trên sân. Tôi cũng hay cột hai tà áo dài để nhảy dây ở sân nhà thờ sau buổi lễ. Đám bạn tôi, Bích, Yến, Mai, Tươi. Chúng nó có thắc mắc tìm tôi sau buổi lễ chiều nay? Chúng nó có biết tôi đang ở đây, chờ một chuyến đi để phải xa chúng nó mãi mãi?

Bóng tối lan nhanh. Mưa vẫn phớt mặt Chúa qua lớp tôn chắn kêu rào rào. Chúng tôi đứng ép vào hiên nhà thờ. Ông Từ nhà thờ bảo chúng tôi vào xin phép cha xứ. Nhà thờ đã đến giờ đóng cửa. Tôi thấy hai cánh tay Chúa chịu nạn vươn dài khỏi lỗ đinh rướm máu. Hai cánh cửa nhà thờ đóng lại. Không thể chờ ở đây, chúng tôi phải đi đâu đó khỏi khuôn viên nhà thờ. Đám người lục tục xách giỏ lên tay. Ai cũng nhìn nhau lo lắng. Ba và bác Niếp tới kịp ngay lúc ấy. Không cần hiệu lệnh, chúng tôi vội theo sát chân hai ông. Đám người bước hỗn loạn, tất tả trong con hẻm nhỏ ra bến đò. Mỗi người thúc nhau đi mau. Tôi xách đôi dép da chạy theo ba. “Họ đi đâu mà đông dữ vậy?” “Chắc đi ăn đám giỗ.” Cánh đàn ông trong hãng cưa đứng bên kia đường láo xáo hỏi. Không ai trả lời. Chúng tôi cắm đầu chạy. Mưa rơi lất phất lên tóc tôi, lạnh tanh trên trán, rồi lạnh buốt da mặt. Mặc, tôi cứ chạy. Thuyền neo tại bến đò. Một mảnh ván xiêu bắc ngang làm cầu. Ba tôi đứng bên kia đầu ván, kéo tay chị em chúng tôi và đẩy từng đứa xuống hầm. Tôi rớt xuống vùng không gian tối mù, đôi dép văng khỏi tay lúc nào không rõ. Chung quanh tôi, tiếng người và dép guốc rơi lộp bộp. Trong bóng tối, chị em chúng tôi tìm nhau. Má và mấy đứa em nhỏ không ở chung khoang thuyền. Tôi chỉ tìm thấy tay của các chị. Không có cảm giác nào an toàn hơn được nắm tay người thân của mình trong bóng tối lo âu, mịt mùng đầy bất trắc. Thuyền nổ máy. Tiếng vang rền, dòn tan. Mùi dầu, khói. Thuyền rú ga phóng ra khỏi bến, nhưng chỉ được ít phút, bỗng khựng lại. Máy thuyền tạch tạch một lúc rồi tắt lịm. Không khí đông cứng. Ngột ngạt. Mọi tiếng thì thầm bặt câm. Chúng tôi nín thở. Tôi nghe tiếng nước vỗ róc rách vào mạn thuyền; tiếng mưa rơi long tong lên mặt ván gỗ trên đầu. Thỉnh thoảng, có tiếng ghe máy sè sè vọng lại. Tim tôi vồng lên hồi hộp. Thời gian trôi chậm nặng nề. Nắp hầm đột nhiên mở rộng. Bác Niếp nói vọng xuống, thuyền mắc cạn, phải chờ nước lên. Mọi người tuyệt đối giữ im lặng. Hầm thuyền vẫn tối om. Mồ hôi tôi đổ đẫm lưng áo. Lưng con gái sớm biết sợ. Tôi khua tay tìm bàn tay chị. Chị đang lần hạt bằng những đốt ngón tay ẩm. Ngón tay chị lạnh ngắt. Một lát, có tiếng ì oạp của mái chèo, tiếng lục cục của gỗ va vào nhau. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi. Nhất định là công an đến kiểm tra.

“Anh Uyển ơi, về đi. Trên bờ họ biết cả rồi. Họ còn biết thuyền đang mắc cạn nữa.” Tôi nhận ra giọng nói của chú Tôn. Chắc chú lọt lại trên bờ khi thuyền vội vã rời bến khi nãy. Tim tôi lại dội lên thình thịch. Trên bờ họ biết cả rồi. Chẳng mấy chốc, công an sẽ đến. Trời ơi! Nhóm tổ chức toàn là những người bạn tù của ba. Cái tội “Ngụy” chưa ráo, tội vượt biên sẽ mang họ về đâu. Tôi tưởng tượng đến lúc ba bị bắt đưa vào trại cải tạo lần nữa. Hiện ra trước mắt tôi đồi núi Nghệ Tĩnh khô cằn. Cả vùng chỉ trồng toàn sắn là sắn. Ba ốm nhom trong bộ quần áo lao động. Lưng áo ba đóng triện đỏ. Ba chữ Tù Cải Tạo đỏ lòm như cổng chào. Tiếng mái chèo ì oạp xa dần. Tôi thầm mong ba nghe lời chú Tôn lên ghe vào bờ. Nhưng hai cha con chú quyết định ở lại. Ba cũng ở lại. Tôi lại tìm tay chị. Chị vẫn lần hạt bằng những đốt ngón tay ẩm. Tôi lầm thầm đọc kinh, nghĩ đến cánh tay Chúa Giêsu chịu nạn. Tay Chúa có lạnh giá? Lưng Chúa có đổ mồ hôi? Dù Chúa ở trong nhà thờ đóng cửa, chị em tôi vẫn cầu nguyện. Tôi lần hạt hết Năm Sự Thương, Năm Sự Mừng, Năm Sự Vui mà nước vẫn chưa lên. Tôi chưa bao giờ lần hạt nhiều đến như vậy.

Tôi giật mình bởi những tiếng súng nổ. Thuyền tăng tốc độ. Máy rú gầm, phóng lao. Chị em tôi nắm chặt tay nhau kinh sợ. Thuyền bốc thêm người ở hai nơi. Địa điểm thứ nhất lên được cả. Địa điểm thứ hai bị công an gác bến đuổi bắn. Chúng tôi phóng chạy, bỏ lại một số người. Sau này tôi được biết vì thuyền mắc cạn hai giờ đồng hồ, công an gác bến đổi phiên. Toán công an sau không được ăn chia nên ra lệnh bắn. Hầm thuyền vẫn tối mù. Khoang tàu như thu nhỏ lại với số người mới lên. Chúng tôi ngồi dèn lên nhau, lưng khòm theo mạn thuyền. Hơi người hầm hập. Thuyền sóc mạnh. Vài người bắt đầu nôn oẹ. Tôi muốn ngộp thở. Mùi nôn mửa bốc lên chóng mặt. Chị đã thôi lần hạt bằng những ngón tay ẩm. Chị cũng gập người nôn thốc tháo. Tôi dựa vào vai chị, người mệt bã. Tôi nhắm mắt. Khoang thuyền tối. Tôi mở mắt. Khoang thuyền vẫn tối bưng. Khi mở mắt tôi không thấy gì ngoài bóng tối. Nhưng nhắm mắt tôi có thể hình dung đến tương lai. Tôi hình dung đến bờ bên kia của biển cả. Vượt biên đối với tôi lúc ấy giống như đi đò từ bên này sông sang bên kia sông. Chỉ một lát thôi, tôi sẽ đến bến. Ý nghĩ ấy làm tôi nhắm nghiền mắt lại. Tôi thiếp dần vào giấc ngủ mê mệt. Trong giấc ngủ, hình ảnh ba còm cõi cuốc đất trồng sắn không ngừng ám ảnh.

Cũng ngay tại đây, ngay tại ga xe lửa Bình Triệu, lần đầu tiên tôi biết đến sân ga. Chúng tôi mua vé tàu suốt đi từ ga Bình Triệu đến ga Vinh. Ba bị cải tạo ở đó. Chúng tôi mới được giấy phép thăm nuôi. Ba ra đi biệt tăm từ tháng Năm năm 75. Bây giờ đã là tháng Sáu năm 79. Tôi được mười tuổi, bằng tuổi của má ngày di cư vào Nam.

Gia đình tôi gốc Bắc. Hai bên nội ngoại di cư vào Nam năm 54. Chị em chúng tôi hầu hết sinh ra ở miền Trung, theo bước chân hành quân của ba. Tôi sinh ở Quảng Ngãi. Em M sinh ở Quảng Tín. Em K sinh ở Tam Kỳ. Gia đình tôi ở Tam Kỳ cho đến ngày phải di tản về Sàigòn. Tam Kỳ mưa phùn lạnh lẽo trong trí nhớ tôi non nớt. Tôi đứng bên
http://song.software.informer.com/ - song cửa thèm thuồng nhìn những đứa trẻ hàng xóm long nhong tắm mưa. Má cấm chị em tôi dầm mưa. Mùa đông Tam Kỳ chúng tôi mặc áo măng tô bên trong, áo mưa bên ngoài chờ chú Mới đưa đi học bằng xe Jeep. Thỉnh thoảng chú chở chúng tôi vào căn cứ Chu Lai thăm ba bận việc không về nhà. Căn cứ Chu Lai có lá quốc kỳ vàng bay phất ở cổng vào. Cuối tuần chú chở chúng tôi ra Đại Chủng Viện Đà Nẵng thăm bác dạy học tại đó. Chúng tôi chạy nhảy tha hồ dưới những cây dừa rụng bông trắng xóa. Ba hay vắng nhà, chúng tôi ở nhà với má và bà vú. Chị em tôi hay cười khi bà bảo, en cem meo meo rồi đi ngủ hỉ. Mỗi chiều, tôi chờ tiếng xe Vespa của ba reo vui ở đầu ngõ. Chị em tôi chạy ùa ra đường, đứa trèo đứng đằng trước, đứa leo đằng sau để ba lái xe vào sân nhà. Đêm trăng sáng, trẻ con hàng xóm tụ tập ở sân nhà tôi múa hát. Chiến tranh đang xảy ra ở căn cứ Chu Lai hoặc nơi nào đó trên quê hương. Nhưng chiến tranh trong tuổi thơ tôi đầy êm đềm vì đã có những người lính như ba chết để bảo vệ chúng tôi. Cảnh nhà tôi vẫn ấm cúng. Những người lính đem đến ấm cúng, đem đến hòa bình giữa chiến tranh. Chúng tôi yên ấm giữa bom đạn mù lòa.

Năm 74 tôi chỉ mới vài tuổi. Tôi không biết đấy là lúc quân cách mạng ồ ạt vượt dãy Trường Sơn để vào giải phóng chúng tôi. Anh Lê Văn Tám hy sinh làm bó đuốc sống phá tan kho đạn Thị Nghè. Anh giao liên Kim Đồng thông minh lanh lợi lập nhiều chiến công. Em bé quê dùng dầu gió bắt sống lính Mỹ. Chị Út Tịch mang bầu bảy tháng giả kế mỹ nhân quyến rũ sĩ quan Ngụy chiếm bót Tám Thế. Sau này tôi được trường học dạy như thế. Tôi học những bài học lịch sử đứt đoạn, từ thời Ngô Quyền nhảy vọt đến cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Tháng Ba năm 75. Chiến tranh lan như vết rắn bò trườn. Ba đi hành quân liên miên. Má lo âu võ vàng. Bom đạn phủ xuống đời sống. Đạn pháo cách mạng rình rập. Lưỡi lê giải phóng canh chừng. Chúng tôi lo lắng. Chú Mới đón chị em tôi ở trường học. Con đường yên tĩnh từ trường về nhà giờ mang đầy thương tích. Dãy phố cháy, khói bốc cao thành cột. Bụi tre ở đầu ngõ bị bom đánh gẫy. Cờ phủ vàng những chiếc quan tài trong xóm. Chiến tranh phơi bày bộ mặt tàn khốc. Tam Kỳ chìm vào lửa. Chúng tôi phải chạy về Sài gòn bằng máy bay quân sự, không có ghế phải ngồi trên sàn. Ba ở lại với các đồng đội. Khi miền Trung mất, chúng tôi mất liên lạc với ba nhiều ngày. Ở Sài gòn ông nội lo lắng từng giây. Hai người con trai của ông còn kẹt lại ở miền Trung không có tin tức. Cả ngày ông ôm khư khư cái
http://radio.software.informer.com/ - radio theo dõi từng biến chuyển của cuộc tháo chạy, sừng sộ với bất cứ một tiếng động nào. Không khí trong nhà nghẹt thở. Cuối cùng, ba và chú cũng trở về được vài ngày sau đó. Ông bà nội rơi nước mắt khi thấy hai con trai của mình tơi tả bước vào cổng.

Chúng tôi về bên ngoại tá túc. Bà ngoại ở gần bến Bạch Đằng. Mỗi chiều, ba dắt một hai đứa chúng tôi ra bến xem người ta di tản. Họ rủ ba đi, nhưng ba lắc đầu. Ba dẫn chúng tôi xuống tàu chơi, rồi lên bờ khi tàu nhổ neo. Sau này, trong những năm ba ở tù, tôi thường tự hỏi tại sao ba không theo tàu di tản vào thời gian đó? Ba có bao giờ ân hận vì cái lắc đầu ngày ấy? Ba nghĩ gì? Ba tin vào điều gì?

Tháng Năm năm 75, ba ra trình diện chính quyền mới. Tôi nhớ ngày đi ba mặc chiếc áo in hình bánh qui. Bánh rơi đầy vai ba như có ai vừa mở tung nắp hộp thiếc. Những chiếc bánh qui hình vuông, viền răng cưa thơm thơm ngọt tan trong miệng. Chúng tôi không cho ba đi. Chúng tôi đeo theo, đứa đu tay, đứa ôm chân. Ba đeo túi lên vai, hẹn mười ngày sẽ về. Em trai út vừa sinh chưa tròn tháng, ba bảo chờ ba về hãy rửa tội cho em. Ba thanh thản đến nơi tập trung. Ba nghĩ đến tình anh em Nam Bắc một nhà. Ba tin vào lòng khoan hồng của kẻ chiến thắng. Ba tin vào lời hứa “mười ngày”. Nhưng ba đã thất vọng. Gia đình tôi đã tuyệt vọng. Niềm tin không cứu được ba. Hòa bình bắt đầu bằng sự khát khao thanh trừng của kẻ chiến thắng. Ba đột nhiên biến mất khỏi cuộc đời chúng tôi lúc đó. Tôi không thể hiểu. Đất nước thanh bình mà gia đình tôi tan nát.

Chị em chúng tôi lớn lên với má và bà ngoại trong một căn nhà ở ngoại ô Sàigòn. Hai người đàn bà chật vật nuôi năm đứa trẻ. Chị cả mới lên tám và em út chưa đầy tháng. Ngoài giờ dạy học, má đạp xe chạy lùng khắp nơi, đến từng nhà giam trong thành phố tìm tin tức của ba. Bà ngoại ở nhà nuôi đứa bé sơ sinh bằng nước cháo pha muối. Đứa bé ba đặt tên Hòa Bình. Vừa ra đời đã thiếu cha. Ba còn sống hay đã chết? Đối với mọi người chung quanh, ba đã không còn hiện hữu. Tấm hình ba oai phong trong bộ quân phục bị nhét sâu dưới đáy rương, nằm lẫn lộn giữa quần áo cũ và những viên băng phiến hắc. Ba có khác gì một người đã khuất. Chỉ còn thiếu tấm hình của ba trên bàn thờ là bà ngoại sẽ xin lễ giỗ cho ba hàng năm.

Ba ra đi, mang theo những chiếc bánh thơm lừng tuổi thơ của chúng tôi. Nắp hộp thiếc đóng chặt từ ngày ấy. Sau này, lâu lắm, khi sang Mỹ tôi mới được nếm lại mùi bánh qui. Tôi nhai bánh như nhai giấy. Mùi vị không còn ngọt ngào béo ngậy như trong trí nhớ. Tôi không còn là con bé sáu tuổi đeo lên lưng ba vờ ăn bánh. Tôi không còn thèm bánh qui nữa. Tôi thèm ly nước chanh mát lạnh trên đường vượt biển.

Từ lúc lên được boong, tôi không muốn xuống hầm nữa. Boong thuyền không còn chỗ trống. Người nằm ngồi la liệt. Tôi chỉ đủ chỗ dựa lưng vào thùng phi chứa nước. Nước trong thùng chỉ còn lấp xấp. Chúng tôi chưa đi được bao xa. Nước uống phải để dành, phải dè sẻn. Tôi khát khô cổ. Tôi tìm bóng dáng một chiếc tàu ngoại quốc. Tàu nào cũng được. Tàu nào có thể cho tôi một ly nước đá chanh ngọt lịm. Buổi sáng nắng trong. Mặt biển óng ánh như kính nhuyễn. Thuyền phóng băng băng mà cứ như đứng một chỗ, giống xả hết tốc độ mà vẫn như neo lại trên vũng nước. Tôi nhìn đại dương bao la không thấy bến bờ, không thấy tàu bè. Mênh mông bạt ngàn những trận gió. Con thuyền như chiếc tàu giấy con con tôi xếp thả vào ao nước mưa. Những cơn mưa ngập lụt đất Tam Kỳ. Tôi vẽ đôi mắt thuyền nguệch ngoạc. Đôi mắt ấy giờ theo tôi ra đại dương. Cũng như thuyền, tôi chưa bao giờ ra biển. Tôi hoàn toàn không hình dung hết được hiểm nguy chực chờ. Nếu chúng tôi bị giông bão? Nếu chúng tôi gặp hải tặc? Nếu chúng tôi chết trên biển? Dù sao chúng tôi cũng có nhau. Ba nói: chết thì chết cả nhà.

Trời nóng. Gió biển rì rì nhưng vẫn nóng. Mặt trời phả hơi xuống những thân người nằm phơi như cá. Tôi say nắng. Người nóng rực như sốt. Biển trải rộng. Biển vô cùng. Màu xanh bất tận chạy dài ngút ngàn. Tôi thấy bà ngoại mấp máy, miệng móm mém. Bà pha cho tôi ly nước chanh thật to. Chiếc ly sành vẽ hai con cò trắng lung linh. Uống đi con! Vậy là chúng mày bỏ bà mà đi. Tôi muốn cầm ly nước bà đưa, nhưng tay mỏi rã rời. Bà ngoại không đi. Bà ở nhà giữ hộ khẩu, nhỡ bị bắt còn có bà thăm nuôi, còn có nhà để về. Bà nuôi chị em chúng tôi từ ngày giải phóng. Em út tôi là con
http://trai.software.informer.com/ - trai của bà mới đúng. Bà chăm sóc nó từ ngày lọt lòng. Không có bà, tôi biết má không sao đứng vững được. Chạy về từ Tam Kỳ, chúng tôi không còn gì ngoài hai bàn tay trắng. Chúng tôi mất tất cả. Ngôi nhà nhỏ xinh có mảnh vườn trồng rau. Mỗi buổi sáng tôi theo ba ra vườn bắt ốc sên. Đất Tam Kỳ đỏ quạch bám nhão gót giầy. Sau nhà có con sông nước lênh láng mỗi chiều. Hoa lục bình trôi tím mặt sông. Tôi dõi mắt cố tìm một cánh lục bình trên biển, chỉ thấy sóng bạc nhấp nhô. Sóng bạc của Thái Bình Dương ngợp nắng. Người tôi vẫn nóng hực. Tôi nhắm mắt lại cho đỡ lóa. Lẽ ra chúng tôi đã ra biển trước đây mấy tuần. Lần ấy chủ thuyền định đổ bến gần Bà Rịa. Gia đình tôi từ Sàigòn ra Hải Sơn chờ ngày đi. Ông bà nội ở đó. Ngày đi, bà nội dậy lúc gà gáy, lục đục thổi xôi luộc gà. Chúng tôi mặc quần áo ấm, khăn gói ngồi chờ đến khi trời sáng rõ. Ông nội nói bể rồi không đi được nữa đâu. Giọng ông buồn mà mắt ông lại tựa như đang vui mừng. Ông cười lấp lánh răng vàng. Ông bảo bà rỡ xôi gà ra cho chúng nó ăn. Con cháu ông đã rủ nhau ra biển.Chúng tôi đi, ông chẳng còn ai. Ngày di cư vào Nam, chắc ông chẳng bao giờ ngờ lịch sử lập lại. Con cháu phải bồng bế nhau xa rời quê hương lần nữa.

Chiều đến. Mặt trời biến nhanh lắm. Một thoáng thôi, đã mất hút. Nền trời xám xịt. Gió bắt đầu thổi mạnh. Mây sà xuống boong, trĩu nước. Sóng không còn đập hiền hòa vào mạn thuyền. Từng con sóng giận dữ quật xuống. Sóng nhồi suốt cho đến đêm. Trời tối đen. Tôi không thấy gì ngoài bóng tối đặc sệt. Tôi hình dung đến đôi mắt thuyền phăng phăng rẽ sóng. Thuyền đưa tôi đi qua biển dữ. Gió vẫn mạnh. Sóng đập vào mạn thuyền tung nước lên boong. Thỉnh thoảng mưa đổ ào rồi ngưng. Người tôi ướt đằm. Cái lạnh thấm vào da thịt, buốt giá. Thái Bình Dương đen. Đêm bao la chỉ một ánh đèn le lói trên
http://cabin.software.informer.com/ - cabin . Gương mặt chú Thiện căng thẳng. Chú Thiện sĩ quan hải quân bạn ba. Chú vẫn nghiêm trang ít nói mỗi lần đến nhà. Lần nào chú cũng trốn ngay lên lầu làm việc gì đó với chiếc la bàn. Ba dặn: có người lạ tới phải báo ngay cho ba. Tôi hồi hộp với vai trò gác cửa, mắt đau đáu nhìn ra ngõ. Đột nhiên có tiếng la to: Tàu lớn kìa! Tôi mở choàng mắt. Xa thật xa, trong tối đen mịt mù, một ánh đèn bập bềnh ẩn hiện. Mắt tôi mở dán vào vùng không gian phía trước. Ánh đèn chấp chới tựa bóng ma lúc ẩn lúc hiện. Tôi dụi mắt ngỡ mình nằm mơ. Không phải tôi mơ. Ánh sáng có thật. Ánh sáng bừng lên chói lọi như mặt trời vừa mọc. Nhưng lạ quá, ánh sáng cứ bừng lên rồi tắt lịm. Thuyền chao qua. Ánh sáng tắt ngúm. Sóng bắn tung vào người tôi. Thuyền nhảy lên. Ánh sáng bừng lấp lánh. Chúng tôi cứ tiến tới. Tôi tưởng tượng đến con tàu đằng xa. Con tàu đèn điện sáng trưng. Những người đàn ông đàn bà tóc vàng mũi lõ tử tế. Tôi cầm trong tay ly nước đá chanh. Màu xanh lá mạ dịu dàng sóng sánh. Những viên đá nhỏ reo lanh canh. Chúng tôi đi về phía mặt trời ẩn hiện. Sau này tôi biết chẳng phải mặt trời chơi trò ú tim. Chúng tôi đang vật lộn với sóng lớn. Khi sóng đưa thuyền lên cao, tôi nhìn thấy ánh sáng. Khi con thuyền rớt xuống chân sóng, ánh sáng biến mất vào biển đêm. Tôi vẫn rùng mình mỗi khi nghĩ lại.

Chúng tôi vẫn đi về phía mặt trời. Khối đen trước mặt hiện dần hình con tàu. Mặt trời chiếu ra từ cột quan sát. Chúng tôi bật đèn cấp cứu. SOS. Đèn đỏ nhấp nháy. SOS. Chúng tôi đến gần hơn. Boong tàu thấp thoáng bóng người. Tôi không nằm mơ. Thật sự là một con tàu. Một con tàu to kềnh càng. Tôi cầm lấy ly nước đá chanh. Mặt trời vẫn sáng rực trên cao.

“Tàu Liên Xô! Chạy ra, chạy ra.”

Tiếng người hét thất thanh. Tôi sực nhìn lên. Mặt trời sáng rực lóa mắt.

“Cờ búa liềm! Cờ búa liềm. Trời ơi!”

Tài công dùng dằng, tiếc rẻ. Tôi cũng tiếc. Một con tàu to kềnh hẳn an toàn hơn chiếc thuyền mỏng manh. Tôi thèm được cuộn mình trong chăn ấm. Tôi đang lạnh run. Và khát. Ly nước đá chanh vẫn ám ảnh. Con thuyền quay đầu, phóng chạy. Sau giây phút xôn xao, rồi sợ hãi, mọi người im lặng. Chỉ còn tiếng gió gầm gừ. Chỉ còn tiếng sóng đập tung vùng biển động. Chúng tôi chạy trốn mặt trời.

Cơn bão thứ hai dội xuống đại dương một ngày sau đó. Lúc ấy chúng tôi đã an toàn trú ẩn trong khoang tàu Nhật Shonan Maru. Những con tàu mang ly nước đá chanh không thèm ngừng lại. SOS. Tín hiệu báo lâm nguy chưa đủ thảm thương. Shonan Maru ngừng lại và chúng tôi lập tức leo lên. Ba ghi tên điểm danh 105 người. Số thuyền nhân nhiều gấp hai số thủy thủ trên tàu. Chiếc Shonan Maru chở sinh viên thực tập trên biển. Cả tàu không có một nữ sinh viên. Vị thuyền trưởng cho kéo theo chiếc thuyền rách nát vượt đại dương của chúng tôi. Mắt thuyền lập cập. Thuyền như con nhái bám vào vách giếng. Thủy thủ đoàn đưa chúng tôi xuống hầm tàu. Họ không có đủ chăn đắp nhưng sàn tàu sạch sẽ láng bóng. Quanh chỗ tôi nằm là nơi dự trữ gạo. Gạo Nhật hạt to tròn trĩnh. Nấu lên ăn dẻo như cơm nếp. Ngày đầu nhà bếp mang ra một khay cá sống. Từng lát cá tươi rói trong veo bắt mắt nhưng không ai dám ăn. Lúc đó tôi chưa biết mê sushi. Tôi chỉ dám ăn món cháo cá nấu nhão với rong biển suốt những ngày trên tàu.

Sau đêm bão lớn, tôi lò dò lên boong. Biển êm. Gió đã nhẹ lắm tuy sàn tàu vẫn còn đẫm nước. Bên cabin, vài người con trai đứng lố nhố chõ mắt vào hai ô cửa kính. Tôi cũng tò mò chen vào xem. Bên trong, đám sinh viên Nhật đang xem tivi. Màn ảnh màu rực rỡ hiện ra đôi trai gái. Họ ăn mặc rách nát hơn chúng tôi hôm lên tàu Nhật. Đứa con gái tóc dài đến lưng, quấn hai mảnh vải tả tơi ôm chầm lấy đứa con trai đóng khố. Những đôi mắt thuyền nhân mở to chiêm ngưỡng. Đó là phim The
http://blue.software.informer.com/ - Blue Lagoon sau này tôi xem khi đến Mỹ. Biển trong phim êm ả không dữ dằn những đợt sóng sôi. Từ chỗ tôi đứng, biển bao la xanh ngắt. Tàu Nhật thênh thang, tôi hay đi thơ thẩn dưới hầm và trên boong. Tôi ngỡ mình đang ngắm biển Cà Ná hùng vĩ từ trên xe lửa. Chuyến xe lửa đưa tôi đi gặp ba tại trại cải tạo Tân Kỳ. Từ ga Vinh, chúng tôi đi một chuyến xe đò gập ghềnh, thêm một quãng đi bộ mới đến trại. Buổi trưa u buồn vắng vẻ. Cả vùng núi lặng lẽ dưới nắng. Đâu đó vọng lại tiếng gà gáy kêu lơ thơ ở một hốc bụi nào. Xa về phía núi là nơi giam giữ ba. Chúng tôi chờ ba cả buổi chiều. Tôi thấy ba từ ngoài cổng. Ba ốm nhom. Da đen sạm. Tôi chạy thật nhanh ra cổng. Ba đón lấy, nhấc bổng tôi lên lòng. Tôi khóc. Khóc chan hòa vì tưởng sẽ không bao giờ còn được gặp ba. Khóc cho hết nỗi cô đơn không cha, cho vơi những nhọc nhằn từ ngày giải phóng. Tôi khóc trên vai ba như tôi đeo lên vai ba trong ngày ba ra đi. Vai áo ba không còn những chiếc bánh thơm. Tôi ngửi mùi nắng cháy khét trong tóc ba. Ba lấy trong túi ra một nhánh hoa tím.

“Đây là hoa mua, ba hái cho con. Giống như hoa sim ngoài Bắc mình.”

Lúc ấy tôi chưa biết buồn vì màu tím, cũng chưa thuộc thơ Hữu
http://loan4.software.informer.com/ - Loan tím cả chiều hoang biền biệt. Tôi chỉ thấy cảnh tù đày phi lý. Ba có tội gì? Chúng tôi có tội gì? Má xoay sở đầu chợ cuối chợ mới mua được vé xe. Chúng tôi đứng nhìn con tàu Thống Nhất sang trọng sáng choang chạy qua trước mắt. Tôi nhặt bao nhiêu lon sắt, giấy vụn; tôi dang bao nhiêu cơn nắng, nhưng tôi phải đi xe lửa chợ cũ rích ghế gỗ cứng ngắc đau mông. Con tàu Thống Nhất không dành cho tôi một chỗ ngồi như đất nước đã từ chối ba làm một công dân. Chúng tôi lặn lội ba ngày ngủ đứng ngủ ngồi trên xe lửa. Chúng tôi bị mất cắp bị chen lấn bị chèn ép trong các toa xe. Qua ngần ấy gian nan để chỉ được gặp ba một giờ đồng hồ. Chú cán bộ ngồi đầu bàn theo dõi từng cử động. Tôi có bao điều muốn kể với ba. Nhưng tôi chỉ dám ngồi yên trong lòng ba. Một giờ đồng hồ qua nhanh như chớp mắt. Tôi và má đứng ngẩn nhìn ba bước về trại giam. Lưng áo ba in chữ đỏ. Tù Cải Tạo.

Tôi theo ba lên cabin gặp vị thuyền trưởng. Phòng ông có tivi màu và tủ đựng nước ngọt. Ông bấm vào nút, một lon nước ướp lạnh chạy ra. Tôi tròn mắt nhìn ông làm ảo thuật. Ông đưa cho tôi lon nước mở sẵn. Tôi ủ lon nước lạnh ngắt vào đôi tay. Ly nước đá chanh tôi ao ước. Ngụm nước đọng trên đầu lưỡi, lạnh buốt suốt tuổi niên thiếu. Vị thuyền trưởng nói chuyện với ba bằng cuốn tự điển. Ba nói tiếng Anh. Ông tra tự điển rồi trả lời. Tôi ngồi xem tivi, không hiểu gì cả. Mãi mãi ghi sâu trong trí nhớ tôi vùng không gian nhỏ bé bình yên, màn hình tivi với ngôn ngữ lạ, nước cam lạnh, chiếc tủ nước ngọt, và ông Nhật biết làm ảo thuật. Mỗi lúc tình cờ bấm tivi sang một đài nước ngoài hoặc lạc vào đám đông với ngôn ngữ lạ, tôi thấy mình nhỏ lại như năm mười bốn, ngồi bên cạnh ba và vị thuyền trưởng. Ba múa tay giải thích với vốn liếng Anh ngữ từ thời đi dạy. Tôi nhìn ba ung dung, tự tin, nhớ lại những lần đứng thập thò nghe ba nói chuyện e dè với công an khu phố.

Ba trở về sau sáu năm sáu tháng hai mươi hai ngày “cải tạo”, thể xác héo mòn, tinh thần kiệt quệ. Tôi không biết thực sự ba đã được “cải tạo” những gì trong những năm tháng đó, ngoài những cơn đói triền miên và những ngày lao động cực khổ. Ba ra tù, về chịu sự quản thúc của chính quyền địa phương. Công an dân phố ghé qua sáng chiều. Ở trường học, mỗi tuần chúng tôi xếp hàng đi bộ đến nghĩa trang liệt sĩ làm cỏ. Trời đổ lửa. Chúng tôi mặc áo trắng quần đen đi theo hàng. Nghĩa trang liệt sĩ nằm kề bên con đường lớn. Ở giữa, một khung đài tưởng niệm nhang khói lâm thâm. Lần nào về tôi cũng ấm đầu.

Ra đi là con đường duy nhất để chúng tôi được sống đúng với ý nghĩa một con người. Đối với ba má, đó là một sự chọn lựa đau đớn và liều lĩnh. Ra đi là đánh cuộc với mạng sống của tám thành viên trong gia đình. Tôi không ngạc nhiên vì quyết định của ba má. Như thể đó là định mệnh. Chúng tôi không còn con đường nào khác.

Biển lặng những ngày sau đó. Tôi vẫn không đủ can đảm nhìn xuống biển từ lan can tàu. Màu xanh hun hút làm tôi chóng mặt. Nếu không được tàu Nhật vớt, chúng tôi có thể chống nổi với cơn bão chiều ấy? Biển đẹp man rợ. Biển mênh mang không thấy bến bờ. Biển lan như trên mặt đất chỉ toàn nước. Biển xanh lục như trên mặt đất toàn rêu. Biển nhấp nhô như tinh thần chúng tôi hãy còn chông chênh chưa tin đang hít thở khí quyển tự do.

Chúng tôi dần lại sức. Cháo cá rong biển đậm đà không còn vô vị. Chúng tôi sẽ đáp bến Manila nay mai. Vị thuyền trưởng ra lệnh chặt dây thừng bỏ con thuyền rách nát đã theo chúng tôi dọc Thái Bình Dương. Tôi nhìn đôi mắt thuyền ướt nước ngỡ như đang nhìn chính mình. Chiếc thuyền tang thương bẩn thỉu mang hình ảnh của chúng tôi ngày hôm qua. Đêm nay thuyền sẽ về đâu? Con mắt thuyền ướt đẫm. Mắt thuyền lặng câm. Thuyền xa bến như tôi xa quê hương. Biết thuyền có tìm được đường về. Thuyền lênh đênh tôi cũng lênh đênh. Thuyền trôi dạt, tôi cũng trôi dạt. Mười bốn năm, tôi mất tuổi thơ hai lần. Tôi mất Tam Kỳ tháng Tư năm 75. Năm 83, tôi mất Sàigòn. Chiến tranh phá hủy tuổi thơ. Hòa bình đẩy tôi dạt ra biển cả. Những giọt nước mắt con gái khóc chia tay; không phải tôi khóc mà mắt thuyền đang khóc.

Nhiều năm sau tôi vẫn nhớ đôi mắt thuyền ai oán. Mỗi khi soi gương tôi vẫn thấy mắt thuyền
http://long.software.informer.com/ - long lanh trong mắt mình. Tôi mang đôi mắt ấy, đôi mắt Tam Kỳ và những mảnh vụn ký ức không thể ráp nối. Tôi chưa vào đến đất liền. Chưa vào đến Bataan hay hải đảo Palawan huyền hoặc. Tôi trôi mãi trên biển Đông ở vùng hải phận quốc tế.

Ngày mai mất biển Đông, tôi sẽ trôi về đâu ?
Nguyễn Xuân Tường Vy



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 10/Apr/2010 lúc 9:58am
Kiếp Người
Nước trắng xóa




- Cha ơi, tui chịu không nổi rồi.

- Lên đây, để cha xuống dưới.

Ông cha hét lên và chỉ vào bánh lái tàu, chỗ ông ta đang nói, cả hai người trao đổi tiếng nói trong hơi thở dồn dập.

Chỉ một vài phút sau, ông cha biết rằng, đằng sau bánh lái tàu, chỉ có thể cho một người bám vào để sống. Ông gượng người lên nói, trong tiếng được, tiếng còn:

... Cha đi con ơi, .. gắng sống, ...cha phù hộ cho con.

Nói rồi ông bỏ tay ra, chỉ trong khoảnh khắc, không thấy ông đâu, chỉ có bọt nước trắng xoá duỗi dài ra sau.

Người con kể lại cho tôi, và tôi hình dung được rõ ràng như thế. Nhìn anh như sống trong một thế giới khác, mặt anh lặng lẽ ít biểu lộ cảm giác ra ngoài.

Không biết đến bao lâu, tàu mới về gần đến bến. Hai bên bờ, có người chỉ cho thuỷ thủ trên tàu biết rằng có người, đang bám theo bánh lái. Đến lúc đó, anh ta được chiếc tàu vớt lên. Người lạnh và đói khát, đến cả mấy ngày sau, anh ta mới mường tượng được nơi anh đang bị cầm giữ. Lúc chưa hồi tỉnh hẳn, anh có nghe giọng nói của cô bé gái nhỏ hỏi han và đút từng muỗm cháo cho anh. Cô ta nói thì thầm nhẹ như nói cho chính cô:

-Tội cho anh quá, họ chẳng tha cho đâu. Trốn đi ! Anh có nghe tôi nói không. Trốn đi !

Khi anh tỉnh thì đã thấy đang bị trói chân vào thành giường.

Mỗi lần đút cháo, thì lại có người đứng canh chừng. Họ không cho hai người nói chuyện với nhau. Cô gái nhỏ chừng 13 tuổi, người Tàu Việt. chỉ một lần lỡ lên tiếng hỏi han, đã bị đánh giáng từ đằng sau, đánh tới. Rơi cả chén cháo xuống nền đất. Vậy mà cô gái chỉ giật mình, nức nở một đôi tiếng rồi im ngay. Cô gái nhỏ, đã quen bị như thế, không biết đã từ bao lâu.

Mấy lần sau, cũng cô gái đó làm thông dịch cho biết rằng họ đang tìm chỗ người tị nạn đang ở, họ sẽ cho đi đến đừng có ý trốn.

Đến buổi chiều, trong lúc còn đút cháo, anh đặt bàn tay anh vào lòng bàn tay cô con gái xin cô, kiếm cho anh một chiếc lưỡi lam. Lúc chạng vạng, trong khi đưa nước, cô gái nhỏ đã dấu dưới ly nước, vật anh hỏi. Tối hôm đó, anh đã cắt được sợi giây trói. Trong lúc quá vội vã cái lưỡi lam gẫy làm hai, cắt cả vào tay chân của anh mà anh cũng không biết đau.

Trốn ra ngoài bằng cửa sổ, gần sáng anh lần mò ra được chợ. Nơi đó vừa là chợ, vừa là bến xe. Chỉ quanh quẩn vài tiếng đồng hồ khi mặt trời vừa lên thì họ đã tìm thấy anh. Bị bắt lại, mang về căn phòng cũ, anh thấy cô con gái nhỏ bị lột trần truồng, đang ngồi ôm gối trong góc nhà còn đang khóc. Họ thừa biết cô gái giúp cho anh. Hai người tuy quá chênh lệch tuổi tác, nhưng phận số có lẽ đau đớn như nhau.



Biển mênh mông:

Ngay sau đó, anh bị nhốt vào một cái rọ bằng mây. Cái rọ, dùng để thả xuống biển sâu, bắt tôm càng. Rọ được nối với một sợi giây vài chục mét vào cái phao nổi. Muà tàu đi bắt tôm càng, mang theo cả hằng trăm cái rọ. Khi thả xuống vùng nước biển thường bắt tôm, những phao nổi được đặt chìm dưới mặt nước chừng một sải tay, để dấu các tàu lạ từ xa đến và tránh để quấn vào chân vịt. Khi bắt tôm, Rọ sẽ được kéo lên bằng cây móc sắt, qua cái phao nổi. Phao tàu nào, được đánh dấu màu của tàu nấy. Đêm nay tàu sẽ ra khơi, và anh sẽ bị mang theo tàu.

Cả gần nửa ngày, anh cố gắng di chuyển cả cái rọ và anh để với đến cái nửa lưỡi lam bị gẫy. Từ hồi khuya, mảnh gẫy vẫn còn ở chân giường. Phần còn lại của ngày hôm đó, anh đã tận lực cắt cái đáy rọ. Rọ làm bằng dây mây, không dễ gì cắt đứt. Tay chân anh tê dại, và đọng máu khắp nơi. Những người hải tặc, mang anh lên tàu ra khơi, lúc rỏ mây vẫn chưa cắt đứt hẳn. Tàu đi cả ngày hôm sau, lúc trời gần sáng còn mù sương, họ mang anh lên boong tàu, họ ném cả rọ và anh ta xuống biển mênh mông, không một bóng của sự sống.

Những lá thơ không gởi:

Khi tôi gặp anh, anh vẫn còn viết những lá thơ cho gia đình anh.

Anh ta cứ viết thơ, cẩn thận từng dòng một, bỏ vào phong bì dán kỹ lưỡng rồi bỏ vào góc phòng. Cứ thế, đống thơ từ từ cao lên. Người Care taker của nhà thờ, lặng lẽ dọn bớt đi.

Không dễ gì, hỏi chuyện được anh. Chúng tôi cùng đi đến thư viện rất sớm, và về rất trễ. Ý thức rằng phải có một cái nghề để sống nên tôi đầm người vào chữ nghĩa và thi cử. Một hôm, tôi gợi chuyện về việc đi đến sớm là vì không có dễ kiếm chỗ đậu xe. Anh ta chỉ cho tôi một chỗ đậu xe, chỉ việc băng qua đường, bên kia có rất nhiều khoảng trống, ít người biết đến.

Khi hỏi tại sao anh ta biết chỗ này, anh ta nói cho tôi biết rằng anh ta đang ở gần nơi nơi đó.

Đến một hôm tôi phải kiếm chỗ đậu xe, chợt nhớ đến nơi anh ta chỉ. Quả nhiên rất nhiều chỗ trống. Tôi nhìn thấy anh ta bước ra từ một cửa bên của nhà thờ. Khi lớp học chấm dứt, tôi cùng về và biết được chỗ cuả anh ta đang ở. Anh ta được một nhà thờ Tin lành bảo trợ. Người
http://care.software.informer.com/ - Care taker của nhà thờ, rất hớn hở và đề nghị tôi có thể đậu luôn trong khu vực nhà thờ. Thái độ tốt bụng một người mới gặp làm tôi liên tưởng đến việc rằng ông ta đang tha thiết kiếm bạn cho người ông ta bảo lãnh.

Khi bước vào nơi anh đang ở tạm, một cái phòng nhỏ với một cửa sổ. Chỉ đủ để kê cái gường và một cái bàn rất nhỏ. Không đủ chỗ trống để đặt cái tủ, quần áo để luôn vào một cái thùng giấy. Nhìn thấy tôi đâm áy náy, rõ ràng là người mới từ đảo qua, lại thêm một đống thơ ở góc phòng. Tôi đề nghị anh ta lấy tiền tôi mà mua tem, giúp dùm những người từ bên đảo gởi thơ. Để cho anh nhận, tôi cho anh biết trước kia tôi cũng được người khác giúp như vậy.

Ép mãi anh ta mới nói cho biết là thơ của anh, và anh viết cho ba má, chị em, dì và cả vợ của anh nhưng họ chết trên biển hết rồi, bên Việt nam không còn ai nữa. Vài lần gợi chuyện sau đó, anh ta kể cho tôi nghe phần đời của anh.



Vượt Biên

Nhà anh gần bờ biển, trong một làng đánh cá. Cả gia đình, họ hàng cùng lên 1 tàu vượt biên. Đến ngày thứ hai, thì bị bão và sóng dữ dội, tàu tắt máy, bị trôi dạt cả tuần lễ.

Sau cơn bão lớn, biển đột nhiên im lìm, nhìn xa được cả tận chân trời, thì hải tặc Thái lan bắt đầu đến hành hạ.

Đàn bà, con gái bị đưa lên tàu Thái ăn uống, tắm rửa và bị hiếp sau đó. Đàn ông bị dồn về một góc cuả hầm tàu. Hải tặcThái lan sau khi tìm kiếm của cải, chúng bắt từng người lên, dùng búa chém loạn xạ vào đầu gối từng người và đẩy xuống biển. Chỉ một số nhỏ người may mắn nhìn được và tự ý nhào xuống biển trước để khỏi bị chém. Sau đó hải tặc Thái lan đã đục thủng tàu, rồi cắt giây bỏ tàu đằng sau.

Phần lớn người ta đã chết từ một vài phút đầu tiên, khi tàu chìm. Những người khác, phải ôm những thùng nước, mảnh ván nổi. Máu loang trên mặt biển cả một vùng.

Chừng nửa ngày sau, Chiếc tàu Hải tặc đó, quay lại, vờn trước, vờn sau để giết nốt những người còn sống sót. Những cái cây sắt có móc nhọn, cây sắt dùng trong việc móc những cái phao để kéo, những rọ tôm hùm từ dưới biển lên. Họ đã dùng để đánh cho chết hẳn những người còn lại.

Chỉ có hai người bám được vào đằng sau bánh lái của chiếc tàu hải tặc. Nhưng cuối cùng chỉ còn có anh là người còn sống sót. Trong nhiều ngày tháng của sau cuộc đời anh, anh toàn nằm mơ thấy bọt trắng xóa từ sau con tàu. Trong những giấc mơ đó, anh cố ngoái nhìn, cố tìm vô vọng, mái tóc bạc người cha trong đám bọt nước.

Những miếng phao nổi

Bị ném xuống biển, anh thoát ra khỏi rọ bằng khoảng trống mà anh cắt ra bằng chiếc lưỡi lam gẫy.

Anh làm nghề biển từ thuở nhỏ. khi gặp đàn cá, phải nhảy xuống giữ một đầu lưới, để tàu vòng đánh lưới bao. Lần đầu tiên, năm anh 13 tuổi, nửa đêm phải xuống nước lạnh cắt, nỗi sợ hãi và cô đơn tràn ngập trong người, cậu bé chỉ sợ tàu quên, hoặc không tìm thấy mình. Nhưng hoàn cảnh này lại khác, anh lại sợ tàu hải tặc biết được và chỉ vài phút sau thì sợ hãi còn kinh hoàng hơn ngày đầu tiên xuống nước, đánh cá bao.

Xung quanh không một bóng tàu, không có một tăm hơi của con người quanh đó. Trước đó có vài ngày, thì biển động dữ dội bây giờ thì biển xanh mênh mang, không có một tiếng động, không có một chút sóng. Biển phẳng lặng như tờ giấy. Muà của gió nồm và gió bấc đổi nhau. Chỉ có giòng nước biển đang trôi.

Anh đương đầu với thất vọng cùng cực, anh không muốn sống nữa, trong khoảnh khắc của sự sống và sự chết, anh không thấy đau đớn nữa. Anh nhớ đến gia đình anh. Người vợ mới cưới. Anh nhớ đến cha mẹ, anh em. Anh nhớ đến bọt nước trắng xoá, từ đằng sau tàu, tiếng được tiếng còn của người cha. Anh khóc nức nở, khi nhớ lại cha anh nhường chỗ. Anh đột nhiên cười khi nhớ lại nụ cười của đứa con đầu lòng. Những hình ảnh chập chùng, anh ngừng bơi mấy lần, nhưng lại vẫn trồi lên.

Anh nghe tiếng la khóc, kêu gào của những người em gái, bị hiếp và đang bị giết. Anh ngoi lên để nhìn họ. Anh bắt gặp lại, ánh mắt tuyệt vọng, im lìm của mẹ anh, nhìn về hướng của những người đàn ông trong tàu, trong lúc tàu đang chìm.

Rồi, trong tai anh lại có tiếng nói cuối cùng của cha anh rồi bọt nước của đằng sau bánh lái.

Những cảnh tượng những âm thanh xôn xao như thế, cứ tiếp tục diễn đi, diễn lại. Cho đến khi anh được người ta vớt lên.

Con người thực ra cũng không dễ gì tự chết. Ngoài biển, vẫn có giòng nước và anh vẫn nương theo nước. Thình lình, anh đã nhìn ra được, những miếng phao nổi có màu, những miếng phao dùng để đính với những cái rọ bắt tôm hùm. Những miếng phao màu, đặt ngầm dưới mặt nước, rất dễ nhận ra. Anh mừng rỡ, và trồi hụp lặn để gỡ những miếng phao ra rồi dùng cái áo của anh, kết lại vừa đủ để nằm tựa lên trên. Không rõ đến bao lâu, thì có một tàu đánh cá khác thấy được.

Đứa bé gái Tàu Việt

Người của Cao ủy Liên hiệp quốc, đưa anh đi nhiều nơi để nhận diện. Cho đến khi trúng ngay, cái làng đánh cá Thái lan đó.

Chỉ trong vòng nửa ngày, anh đã nhận diện được một phần những người hải tặc cùng tàu.

Trong đám những người bị nhận diện, có một hay hai người đang làm cho một tàu đánh cá khác, không dính líu đến tàu hải tặc. Bấy giờ anh không thể nhớ rõ và không tập trung trí nhớ được lâu, nhưng mọi người đều muốn giải quyết nhanh chóng.

Cho đến lúc, người ta đều nghĩ rằng anh ta cần phải tĩnh dưỡng một thời gian,để hồi phục trí nhớ. Anh được đưa vào chỗ tạm trú, vì trại tị nạn xa quá. Nơi đó lại là nơi tạm giữ của chính quyền Thái lan.

Người biệt phái điều tra là người bản xứ. Ngôn ngữ trở nên khó khăn. Mỗi lần điều tra, phải cần hai người thông dịch. Một người thông dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh. Một người thông dịch từ tiếng Anh sang tiếng Thái và ngược lại. Vì nhận diện không hoàn toàn đúng và thiếu nhân chứng. Công việc, trở nên khó khăn và kéo dài hằng tháng sau đó.

Khi ra toà án, không thể giải quyết vì yếu tố nhân chứng.

Người ta quyết định đưa cả những người bị truy tố và người truy tố vào trong chỗ tạm giữ ở tỉnh. Đó là một nhà tù lớn. Nhà tù hình sự, Chỉ có khác, là người truy tố và những người bị truy tố ở 2 khu vực tách rời.

Sau đó, ai cũng ngại mở hồ sơ cho anh, vì ngoài việc nhân chứng còn có nhiều điều khác không thể kết thúc. Cho đến hôm, anh tỉnh táo và hiểu được câu chuyện, anh nhắc đến đứa bé gái Tàu Việt.

Những người của Cao ủy Liên Hiệp quốc, lần nữa về cái làng đánh cá Thái lan, để đi tìm tông tích cô gái nhỏ Tàu Việt, nhưng không ai hề biết và không ai từng thấy. Thực ra không ai muốn liên can đến và vấn đề kiếm người nói được tiếng Anh trực tiếp với người cao uỷ không phải là điều dễ dàng.

Thời gian sau đó, Cao ủy Tị nạn, không mấy tin tưởng vào người biệt phái điều tra. Cao uỷ xin đổi người khác. Thủ tục chậm lại hơn nữa. Viên Cao uỷ sốt sắng với công việc, phải chuyển đi nơi khác. Mọi chuyện rơi vào lúc ban đầu.

Trong tù Thái lan

Anh ở trong tù Thái lan như vậy là được 2 năm, anh được chuyển đến vài nơi. Không có người nhà thăm viếng như những người tù khác, anh bị suy dinh dưỡng đến trầm trọng. Những chiếc răng của anh, ngay cả răng cửa đã bị đen và ăn mòn và vỡ. Mặt anh dường như sưng lên, nhìn anh người ta ngần ngại nhìn thẳng.

Một hai lần, người cao uỷ tị nạn chuyển đi, người khác chuyển về. Sự vụ, không giải quyết được, nên nhà cầm quyền Thái lan phải tạm giữ anh. Những người tình nghi, hoặc đã dính vào tội ác, được tạm giải quyết về làng đánh cá, làm ăn, sinh sống như cũ. Chỉ có anh, người truy tố, vẫn bị giam giữ.

Những người cao uỷ tị nạn, thường mang đến thực phẩm và quần aó cho anh nhưng sau này, vì công tác chấm dứt, công việc rất cần thiết này họ lại quên mất. Có những lần nửa năm, anh vẫn chưa gặp được họ.

Người đàn bà Cao ủy Úc

Anh ở như vậy cho đến năm thứ 4, thì anh có gặp được một người nhân viên Cao uỷ Úc, đến thăm. Cô ta ái ngại nhìn anh, thủ tục cũng như mọi lần, họ cho anh một ít tiền, một ít đồ đạc, quần aó và hỏi anh có chuyện gì muốn nói gì không.

Hôm đó trời xui, đất khiến. Anh xin được ra ngoài phố. Câu chuyện bắt đầu chuyển hướng từ đó, người ta không muốn cho anh ra vì chưa giải quyết được. Người đàn bà Cao ủy Úc, thắc mắc, tại sao anh không được ra. Anh ta là người truy tố, và được đại diện bởi Ủy viên Liên Hiệp Quốc, anh ta chưa hề phạm tội, tại sao phải ở trong giam cầm?. Câu chuyện giằng co thêm giữa hai bên. Trong một hôm, anh được người Cao ủy Úc, nói rằng cô ta sắp về nước. Trại tị nạn sẽ được bàn giao lại cho chính phủ Thái lan quản trị.

Điều quan trọng là, cô không tin rằng người khác, những người sau này, còn nhớ đến vụ của anh. Mọi người có quá nhiều những vụ tương tự như vậy. Cô e rằng giấy tờ của vụ truy tố của anh sẽ không được quan tâm đến. Cô ta có lẽ là người cuối cùng đang biết đến anh. Điều tốt hơn cả, là bãi nại chuyện truy tố và theo cô ta về Úc.

Cô ta sẽ dàn xếp với chinh quyền Thái lan về việc bãi nại, giấy tờ sẽ được hoàn tất trước khi họ đổi ý kiến. Sau đó, cô ta sẽ kiếm hội đoàn tôn giáo bảo lãnh cho anh và không phải ai cũng may mắn như thế. Đó là những điều cô thuyết phục anh.

Hơn mười năm sau

Trong tuần vừa qua, tôi tình cờ nhìn thấy trong những người đang băng ngang qua đường, có dáng một người đang lầm lũi. Bấy giờ tôi ngồi lái xe và mọi xe đang nhường bước cho bộ hành. Tôi trồm người lên tay lái, sững nhìn lại anh. Từng bước chân, từng nét mặt, anh ta không thay đổi gì cả, dẫu đã hơn mười năm trôi qua rồi. Có những hoàn cảnh quá đau thương, đến với một con người làm họ trở nên già trước thời gian, đến nỗi rằng thời gian dẫu có trôi đi, nhưng không thể làm cho họ già hơn được nữa ./.



-------------
Có rất nhiều nơi để đi, nhưng chỉ có một nơi duy nhất để quay về...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 13/Apr/2010 lúc 10:29am
Posted%20Image
Hãy yêu nhau nhiều hơn khi còn bên nhau
Ngày đẹp trời, một cặp vợ chồng khoảng 70 tuổi đến văn phòng luật sư. Họ muốn làm thủ tục ly hôn. Lúc đầu vị luật sư vô cùng ngạc nhiên, nhưng sau khi nói chuyện với đôi vợ chồng già, ông đã hiểu ra câu chuyện...

Hơn 40 năm chung sống, cặp vợ chồng này luôn cãi nhau, suốt cuộc hôn nhân của họ, và dường như chẳng bao giờ đi đến quyết định đúng đắn.

Họ chịu đựng được như vậy đến tận bây giờ là vì những đứa con. Giờ con cái đã lớn, đã có gia đình riêng của chúng, đôi vợ chồng già không còn phải lo lắng điều gì. Họ muốn được tự do sau những năm tháng không hạnh phúc. Cả hai vợ chồng đều đồng ý ly hôn.

Hoàn tất thủ tục ly hôn cho cặp vợ chồng này, với vị luật sư, là điều không hề dễ. Ông thực sự không hiểu vì sao, sau 40 năm chung sống, đến tuổi 70, đôi vợ chồng ấy vẫn muốn ly hôn.

Vừa ký các giấy tờ, người vợ già vừa nói với chồng: "Tôi thực sự yêu ông, nhưng tôi không thể chịu đựng hơn được nữa. Tôi xin lỗi".

"Không sao mà, tôi hiểu..." - Ông chồng già đáp lời.

Nhìn cảnh này, ông luật sư đề nghị được mời hai vợ chồng ăn tối. Người vợ nghĩ: "Sao lại không? Dù ly hôn vẫn sẽ là bạn cơ mà".

Bên bàn ăn, một không khí im lặng đến khó xử.

Món ăn mang ra đầu tiên là gà quay. Ngay lập tức người chồng gắp một miếng đùi gà cho vợ: "Bà ăn đi, đó là món bà thích mà".

Nhìn cảnh này, vị luật sư nghĩ "vẫn còn cơ hội cho họ". Nhưng người vợ đã cau mày đáp lại: "Vấn đề ở đấy đấy. Ông luôn đề cao mình quá và không bao giờ hiểu cảm giác của tôi. Ông không biết tôi ghét đùi gà thế nào à?".

Nhưng người vợ không biết, bao nhiêu năm qua, người chồng luôn cố gắng để làm hài lòng bà. Bà không biết, đùi gà là món yêu thích của ông, cũng như ông không biết, bà chưa bao giờ nghĩ rằng ông hiểu bà. Ông không biết bà ghét đùi gà, mặc dù ông chỉ muốn dành những miếng ngon nhất, những điều tốt nhất cho bà thôi.

Đêm đó cả hai vợ chồng già đều không ngủ được. Sau nhiều giờ trằn trọc, người chồng không thể chịu đựng được nữa, ông biết rằng ông vẫn còn yêu bà và không thể sống thiếu bà. Ông muốn bà quay trở lại. Ông muốn nói lời xin lỗi, muốn nói "tôi yêu bà".

Ông nhấc điện thoại lên và bắt đầu bấm số của bà. Tiếng chuông không ngừng reo, ông càng không ngừng bấm máy.

Đầu bên kia, bà vợ cũng rất buồn. Bà không hiểu điều gì đã xảy ra sau tất cả những năm tháng sống cùng nhau đó. Ông ấy vẫn không hiểu bà. Bà vẫn rất yêu ông nhưng bà không thể chịu đựng cuộc sống như vậy nữa.

Mặc cho chuông điện thoại reo liên hồi, bà không trả lời dẫu biết rằng đó chính là ông. "Nói làm gì nữa khi mọi chuyện đã hết rồi. Mình đòi ly hôn mà, giờ đâm lao phải theo lao, nếu không mất mặt lắm". Bà nghĩ, chuông điện thoại vẫn cứ reo và bà quyết định dứt dây nối ra khỏi điện thoại.

Bà đã không nhớ rằng ông bị đau tim...

Ngày hôm sau, bà nhận được tin ông mất. Như một người mất trí, bà lao thẳng đến căn hộ của ông, nhìn thấy thân thể ông trên chiếc đi văng, tay vẫn giữ chặt điện thoại. Ông bị nhồi máu cơ tim trong khi đang cố gắng gọi cho bà.

Bà đau đớn vô cùng. Một cảm giác mất mát quá lớn bao trùm lên tâm trí.

Bà phải làm rõ tất cả tài sản của ông. Khi bà nhìn vào ngăn kéo, bà thấy một hợp đồng bảo hiểm, được lập từ ngày họ cưới nhau, là của ông làm cho bà.

Kẹp vào trong đó, bà thấy có một mẩu giấy ghi rằng: "Gửi người vợ thân yêu nhất của tôi. Vào lúc bà đọc tờ giấy này, tôi chắc chắn không còn trên cõi đời này nữa. Tôi đã mua bảo hiểm cho bà. Chỉ có 100 đô thôi, nhưng tôi hy vọng nó có thể giúp tôi tiếp tục thực hiện lời hứa của mình khi chúng ta lấy nhau. Tôi đã không thể ở cạnh bà nữa. Tôi muốn số tiền này tiếp tục chăm sóc bà. Đó là cách mà tôi sẽ làm nếu như tôi còn sống. Tôi muốn bà hiểu rằng tôi sẽ luôn luôn ở bên cạnh bà. Yêu bà thật nhiều".

Posted%20Image
Nước mắt bà tuôn chảy. Bà cảm thấy yêu ông hơn bao giờ hết.
Bà muốn nói lời xin lỗi, muốn nói "tôi yêu ông".
Nhưng ông đã không thể nghe được nữa.


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 16/Apr/2010 lúc 8:48am

Hoa Tường Vi Vẫn Nỡ                                                                                          

Hồng Hoang

 

Từ cửa sổ phòng khách nhìn ra, mắt Khanh bổng sáng lên. Chiếc xe thể thao, màu đen bóng nhoáng, vừa đậu lại trước cửa. Cô thư ký riêng của Khanh, soi lại khuôn mặt mình trong kính chiếu hậu, trước khi mở cửa bỏ chân xuống đất. Nét mặt nhí nhãnh, nửa chính chắn, nửa thơ ngây của nàng vẫn còn chút gì đó chao động lòng chàng. Cô nghiêng mình vói lấy con gấu trắng ở băng ghế sau. Tiếng giày cao gót nện nhẹ nhàng trên những bậc thềm nhà bằng gỗ.

Sau lưng Khanh, Mai nhót chân nhìn qua vai chồng rồi vội vàng chạy ùa ra mở lớn cửa, reo lên:

- Kìa, chị Tường Vi! Chà.. lâu quá không gặp chị, hén. Tui thấy chị vẫn trẻ và đẹp quá hén.

- Cám ơn chị Mai. Chị khỏe không?

Mai cười, hai mắt nhắm híp lại: - Tui khỏe chứ có gì đâu. Chỉ con bé Ngọc Anh, cứ bị nóng đầu hoài. Tui nghĩ, chắc nó mọc răng hay sao đó. Một tuổi mới mọc răng là chậm quá, phải không chị Tường Vi? Nhưng, không sao cả, mọc chậm thì sẽ rụng chậm hơn. Má tui nói hồi đó tui cũng mọc răng chậm, bây giờ con tui giống tui chứ có giống ai khác đâu mà lo, phải không chị?

- Kìa, em mời Tường Vi vào nhà đi, sao em cứ đứng choán hoài ngay cửa vậy?

Mai bước nhích sang một bên, cười rũ ra: - Trời ơi, lâu ngày mới gặp chị, tui mừng quá, quên mất. Mời chị Tường Vi vô nhà. Vô nhà đi chị Tường Vi.

Tường Vi đi vào, Mai chận lại.

- Kìa, chị Tường Vi cởi giày để chỗ này nè. Chị coi đó, cái sàn nhà tui lau bóng lưỡng đến không thấy một hột bụi. 

- Không sao đâu em, đừng yêu cầu khách bỏ giày ra. Kỳ lắm. Gót giày đàn bà nhỏ tí xíu, có dính cũng chỉ vài hạt bụi, thấm vào đâu? Em vẫn lau nhà ngày hai, ba lần, tí nữa em cũng sẽ lau thôi. Tường Vi đừng ngại gì hết.

Cô thư ký bướng bỉnh chỉ hơi ngập ngừng vài giây rồi tiến thẳng vào phòng khách. Tính nàng không thích cởi giày khi đã ra khỏi nhà. Mai chau mày, khó chịu. Vừa đi vào nhà bếp, Mai vừa hỏi:

- Chị Tường Vi muốn uống gì không? Trà, cà phê hay nước ngọt?

- Em cứ mang nước ra mời khách, ai lại hỏi khách có muốn uống gì không.

- Em hỏi coi chị Tường Vi thích uống gì. Em để cho chị ấy chọn mà anh cũng la em nữa.

- Cám ơn chị Mai, lúc nào muốn uống, em sẽ tự đi lấy.

Đặt con gấu nhồi bông lên bàn, cô thư ký nheo một mắt:

- Anh hơi khó tính đấy, chị ấy thật thà, nghĩ sao, nói vậy.

- Thật thà là tính tốt, nhưng khi nói mình phải chọn lời, giống như khi ăn mình chọn món.

Tường Vi ngồi xuống sofa, bâng quơ: - Như khi lập gia đình mình phải chọn người.

Khanh ngồi xuống chiếc ghế đối diện, nhìn vào mắt Tường Vi: - Dường như việc gì mình cũng phải chọn lựa hết?

- Yêu không thể chọn.

- Ai cũng nói giống vậy. Đã chọn thì không phải là yêu nữa rồi.

- Anh có nghe ai nói: một người yêu không chọn và một người chọn để lập gia đình? Đàn ông giỏi ở điểm đó.

- Ừ, anh thấy mình hay thật.

Bỗng nhiên cả hai lắng tai, chăm chú nghe. Có tiếng khóc nho nhỏ trong phòng ngủ.

- Dường như chị Mai đang khóc?

Khanh thản nhiên: - Mai rất dễ rớt nước mắt, chuyện có gì hoặc không có gì cũng khóc. Cần là khóc, không cần thì thôi. Đang giờ giới nghiêm cũng mặc. Dường như túi chứa nước mắt của bà ấy không có nắp đậy, sẵn sàng trào ra bất cứ lúc nào.

- Anh vào hỏi thăm chị ấy đi.

- Hỏi thăm hoài, đâm ra mệt, chẳng còn muốn biết lý do thêm nữa. Anh đã nhàm với tiếng khóc của Mai lắm rồi.

- Để em nghen.

Tường Vi đứng lên, ôm con gấu đi thẳng vào phòng ngủ. Mai đang ngồi xoay lưng ra ngoài.

- Chị Mai, em tặng bé Ngọc Anh món quà, mừng cháu đầy năm. Để em đưa cho cháu nghen.

Mai xoay mặt lại, nước mắt đoanh tròng: - Chị Tường Vi để đó đi, con gái tui còn đang ngủ. Tui không muốn phá giấc ngủ của nó.

- Sao chị Mai khóc vậy?

- Tui buồn quá mà.

- Chuyện gì buồn, chị Mai nói em nghe với?

- Anh Khanh chê tui hoài hà. Ảnh la mắng tui như đứa con nít vậy đó. Phải chi ảnh chê tui trước khi cưới thì tui đâu có ưng ảnh. Tại bây giờ tui có con rồi, ảnh chán tui, mê người khác. Chị coi có khổ không chứ? Đàn ông dễ chán lắm, mới có một đứa con, còn như vậy, mai mốt có nhiều đứa, tui già hơn, thì hết nói luôn.

Tường Vi đi tới gần hơn: - Chị Mai nè, em nghĩ không phải vậy. Em làm trong văn phòng anh Khanh mỗi ngày, em biết, anh ấy chẳng có ai cả.

- Chị làm sao biết hết được, ở nhà ảnh kỳ cục với tui lắm à. Tui nói gì ảnh cũng la. Tui làm gì ảnh cũng chê. Tui tức muốn chết luôn. Tui khóc ảnh cũng không thèm để ý tới...

Khanh bước vào: - Anh phải vô văn phòng có chút việc đây. Tường Vi, nếu cô không bận, tôi nhờ cô giúp giùm một việc.

Tường Vi mở lớn mắt tỏ vẻ ngạc nhiên: - Em không bận gì cả, nhưng hôm nay là sinh nhật của cháu bé, anh không ở nhà sao?

Khanh xoay lưng đi trở ra: - Anh sẽ về sau, còn cả một ngày mà.

Khanh đi luôn ra cửa. Mai vùng đứng lên, quẹt nước mắt, chạy theo: - Anh đi đâu vậy?

- Anh đã nói rồi, em không nghe thấy sao, còn hỏi?

- Nhưng mà... bạn em sẽ đến, anh không có ở nhà, em trả lời sao với họ?

- Em cứ tiếp chuyện với bạn, anh sẽ về sau, có gì khó trả lời đâu?

Mai vùng vằng, nặng chân quay trở vào, buông mình ngồi phịch xuống ghế. Tường Vi ái nái, ngồi xuống bên cạnh:

- Chị Mai, anh Khanh nói anh vào văn phòng có chút việc.

- Chị không biết đâu. Ảnh chỉ nói vậy thôi,  mỗi lần thấy tui khóc là ảnh kiếm chuyện bỏ đi mất tiêu. Tui biết hết trơn à. Ảnh cứ tưởng tui ngu, không biết gì.

- Vậy là anh Khanh không thích nhìn thấy chị khóc. Nhiều đàn ông khác cũng vậy, họ cảm thấy khó chịu khi phải nhìn thấy nước mắt đàn bà. Hơn nữa, chị Mai à, đôi khi khóc không giải quyết được gì. Mình phải nói chuyện để thông cảm với nhau.

Mai quẹt ngang dòng nước mắt trên má: - Chị nghĩ tui muốn khóc lắm sao? Ảnh có bao giờ nghe lời tui đâu mà nói chuyện, nói trò. Tui nói chưa dứt câu, ảnh đã nhảy ngay vô họng tui ngồi rồi, làm sao tui nói được? Bộ chị tưởng tui ngu lắm sao? Chị không biết chứ... đàn ông đều hư giống nhau hết.

- Chị Mai nói oan cho đàn ông rồi đó nghen.

- Oan chỗ nào? Ba tui cũng vậy, ổng có chịu nghe lời má tui đâu? Ổng đi đánh bài đến tan gia, bại sản, đến nghèo mạc luôn. Bây giờ anh Khanh không đánh bài, nhưng mê gái, cũng đủ tàn đời.

- Anh Khanh mê ai, chị biết không?

- Làm sao tui biết được, cả ngày tui chỉ ở nhà ôm con, giống như con ếch ngồi chong ngóc trong hũ nhìn lên, thấy trời chỉ lớn bằng nắm tay. Ảnh cũng đâu có dại gì để cho tui biết?

- Không biết, sao chị ghen được?

- Tui có bằng chứng nè! Chị thử nghĩ coi, vợ chồng gì mà cả tháng ảnh mới... ôm tui một lần. Trước kia, ảnh ôm tui... nhiều lần lắm. Vậy chứ bây giờ ảnh ôm ai? Đàn ông không ôm đàn bà đâu chịu nổi, vậy mà ảnh tỉnh bơ như thường.

Mai bỗng nhìn trân trân vào Tường Vi: - Mà ảnh có gì với... chị không vậy?

Tường Vi lắc đầu, cười: - Chị Mai đừng lo, em là bạn anh Khanh trước khi anh ấy lập gia đình với chị. Nếu có gì thì đã có trước rồi, chứ không đợi tới bây giờ.

- Trời ơi, đàn ông họ đổi ý không mấy hồi. Trước kia, thấy khác, bây giờ nhìn lại, thấy khác. Chị và ảnh gặp nhau mỗi ngày, giống như "lửa gần rơm, không trầy thì trụa".

Tường Vi đứng lên: - Thôi, em phải đi. Chắc anh Khanh đang đợi em ở văn phòng.

Không đợi Mai trả lời, Tường Vi đi thật nhanh ra cửa. Mai tiếp tục khóc rấm rức.

Khanh đang ngồi trong xe, trước cửa văn phòng. Xe Tường Vi vừa ngừng lại, Khanh bước ra. - - Vi có thể đi với anh một chút được không?

- Được, đi đâu vậy anh?

- Chưa biết nữa. Chỉ biết là anh đang cần có một người bạn thân bên cạnh, vậy thôi.

Nhìn nét mặt buồn buồn của Khanh, Tường Vi không hỏi gì thêm, chỉ lẳng lặng đi theo bên cạnh. Khanh lái xe vào con đường chính trong phố. Hai bên, người đi dạo đông như đàn kiến nối chân nhau. Mùa xuân mới bắt đầu, các quán cà phê bày bàn ra sân. Bàn nào cũng có khách ngồi kín hết. Khanh cho xe quẹo vào, ngừng lại trước cửa khách sạn Four Seasons. Người đàn ông mặc đồng phục bước ra mở cửa cho Tường Vi khiến nàng ngơ ngác nhìn Khanh.

- Mình vào đây một chút nghen Vi.

- Vào khách sạn?

- Ừ.

- Anh đang tỉnh hay mơ vậy, anh Khanh?

Khanh phì cười: - Mình chỉ vào khu giải khát của khách sạn chứ không phải vào phòng khách sạn. Chưa chi em đã vội lo.

- Phòng bệnh hơn chữa bệnh.

- Em "phòng" kỹ quá, chẳng anh chàng nào dám bén mảng tới cầu hôn. Ngày trước, phải chi...

Khanh bỏ lững câu nói. Hai người chọn cái bàn gần bên suối nước nhân tạo. Tiếng nước chảy róc rách, vui tai. Tiếng đàn dương cầm văng vẳng, nhẹ nhàng.

- Anh nói dối chị Mai là anh vào văn phòng.

- Em nghĩ, anh có nên nói thật trong trường hợp này không?

- Không ai thích nghe nói dối cả.

- Em nghĩ, anh thích nói dối sao? Chưa lần nào anh nói dối với em hết. Ngoài chức vụ thư ký, em còn là một người bạn... rất thân. Hầu như chuyện gì, anh cũng hỏi ý kiến em. Người đàn ông nào được diễm phúc làm chồng em, chắc sẽ là người hạnh phúc nhất trên đời này.

- Nếu trước kia anh nghĩ được như vậy, bây giờ chuyện đã đổi khác rồi.

- Có chứ, nhưng...

- Anh Khanh, chuyện đó xa lắm. Mình nói chuyện gần hơn đi anh.

- Chuyện gì?

- Chuyện gia đình anh.

Khanh ngã người ra sau ghế, thở dài:  - Chuyện gì về gia đình anh?

- Em cảm thấy tội nghiệp chị Mai.

- Sao em không tội nghiệp anh?

- Em vẫn quý mến anh. Chị Mai nói anh đang có nhân tình. Dĩ nhiên không phải là em, nhưng chị Mai nghi ngờ luôn cả em nữa. Anh đã xác nhận chưa lần nào nói dối em, hy vọng hôm nay, anh vẫn còn nói thật. Chị Mai nói đúng hay sai?

- Sai!

Khanh bưng ly nước trái cây uống một ngụm. Thêm một ngụm nữa. Xoay qua nhìn suối nước chảy: - Em có biết, từ ngày đầu gặp nhau, tới ngày hôm nay, anh chưa từng một lần nói anh yêu Mai?

- Em đọc được trong mắt anh điều này và tự hỏi, anh có điên không?

- Chắc có, chỉ tại mình không biết? Lập gia đình chỉ vì mình lớn tuổi, theo ông già bà xưa thì "an cư" đi trước, "lạc nghiệp" theo sau. Đồng thời, tránh được cảnh cha già con muộn. Phải có con nối dòng chứ em.

- Trời ơi! Ông ơi, ở đây có rất nhiều đàn ông, ngoài năm mươi tuổi, triệu phú, vẫn còn độc thân. Họ đã lạc nghiệp trước khi an cư. Ông già sáu mươi, vẫn còn cơ hội có con nối giòng. Anh đã ăn bơ, uống sữa văn minh gần hai mươi năm nay, vẫn chưa hấp thụ được quan niệm sống của họ. Thời đại điện toán mà anh vẫn còn hì hục  mãi, chưa bơi ra khỏi dòng tiền sử, kể cũng lạ.

- Em nói có phần đúng, có phần oan. Lúc đó, cơ sở này mới thành lập, ngày nào anh cũng bận rộn bù đầu, thì giờ đâu tính chuyện bản thân. Lo "hoàn tất" chuyện gia đình để còn thì giờ lo cơ nghiệp.

Tường Vi nhìn thẳng vào mắt Khanh: - Không oan cho anh chút nào hết. Đầu óc anh là cả một khối bảo thủ. Anh đã nói dối. Anh đã đối xử bất công với chính anh. Anh đã dùng hết can đảm để chối bỏ mối tình chân thật phát xuất tự đáy tim anh.

Lòng Khanh đau nhói lên. Chàng bỗng cầm lấy bàn tay Tường Vi đang để trên bàn:

- Anh... xin lỗi em.

Tường Vi rút tay lại, thấp giọng: - Quá muộn để xin lỗi.

Tiếng nước chảy róc rách nghe như gần hơn, rõ hơn. Tường Vi mân mê mãi chéo khăn trải bàn. Có một khoảng thời gian, nàng đã oán hận Khanh. Oán hận chàng đã để cho tính bảo thủ lấn áp con tim. Khanh đã âm thầm, chấp nhận cưới Mai qua sự dẫn mối của người Dì. Khanh vẫn hiểu rõ tình yêu chàng dành cho Tường Vi là mối rung cảm thật sự. Theo quan niệm của Dì: Khanh chưa từng lập gia đình, lại thành công trên đường đời, nên không thể cưới "đàn bà" đã có một đứa con. Vợ Khanh phải là con gái còn trinh. Tự nhiên, Tường Vi muốn la lên: Đó! Anh hãy gánh chịu hậu quả của một quyết định sai lầm, đừng hối hận! Chị Mai nhờ ở Việt Nam mới qua, nên gần 30 tuổi vẫn còn trinh chứ con gái lớn lên ở đây, 15 tuổi đã biết làm tình. Hơn nữa, bên Việt Nam, tuổi gần 30 mươi đã bị coi là "trái cây chín héo", chỉ mong được mấy ông chết vợ lãnh về nuôi, hãnh diện gì đó mà trinh với không?  

 Tuy nhiên, chỉ là thoáng qua, Tường Vi cười cười: - Bên mình, con gái chừng hai mươi lăm đã lính quính, chạy quanh tìm người để gã, bán, sợ trở thành gái già không chồng, cho dù biết rằng "gái có chồng như gông đeo cổ". Em nhờ sống trong xứ của các bà chủ trương độc thân.. tự do, đã ngoài ba mươi, vẫn tà tà ở vậy... nuôi con, sợ gì ai? Chỉ sợ bị cái gông đeo vào cổ thôi.

Khanh cảm thấy nhẹ nhỏm, cười theo: - Gông bằng vàng, em chịu không?

- Vàng hay thau gì vẫn là cái gông. Tròng vào cổ rồi thì khó thở lắm.

- Tại em chưa chịu yêu ai. Yêu rồi, em sẽ không ngần ngại đưa cổ ra cho người ta đeo gông.

- Anh nói giống như em còn bé tí teo, chưa biết gì.

Khanh bỗng thở dài:  - Phải chi Mai biết nói chuyện được như em,  anh cũng đỡ khổ.

- Anh nói làm như chị Mai câm vậy?

- Thà câm còn hay hơn. Nói được mà nói chẳng đâu ra đâu hết, đã vậy còn nói nhiều. Nói láp dáp, chẳng ra con giáp nào hết! Tiếng Anh gọi là "big mouth".

- "Big" hay "small" gì cũng lỡ rồi. Anh không thể để tình trạng này kéo dài. Một lúc nào đó, không điên cũng tự tử mất!

- Em cho ý kiến xem anh phải làm gì? Ly dị cũng khổ cho đứa con, sự nghiệp anh cũng không còn được nguyên vẹn.

- Em thấy, người có thể giải quyết chuyện này chính là anh. Chị Mai không có khả năng đó.

- Em có nghĩ, một người đàn ông cần tới hai người đàn bà không? Một người lo nhà cửa, con cái; người kia lo sự nghiệp và rong chơi.

- Một người đã thấy khổ; hai người sẽ là cái khổ nhân bốn.

- Nếu được một người như em, anh nghĩ, cái khổ sẽ được trừ đi, chứ không phải nhân lên.

Tường Vi bưng ly nước trái cây uống cạn: - Theo em, anh nên tập chịu đựng cá tính chị Mai. Mỗi người đều có cái tốt và cái xấu. Chị Mai có thể "xấu" ở cách nói chuyện, nhưng lại rất tốt trong cách săn sóc nhà cửa, con cái. Em không thể nào lau sàn nhà ngày hai, ba lần như chị ấy được. Tuần lễ lau một lần là may mắn lắm rồi. Chị Mai rất nhạy cảm, nếu anh tế nhị hơn một chút, chị ấy sẽ không thể khóc được. Hơn nữa, đàn bà có dư nước mắt, không khóc cho bớt đi, để dành làm gì?

- Em nghĩ, anh không tế nhị sao, nhưng sự chịu đựng nào cũng có hạn. Đôi lúc, anh chưa kịp nói gì, Mai cũng đã khóc rồi.

- Kiên nhẫn thêm nữa, anh Khanh. Vẫn còn may mắn là vợ anh chưa ngoại tình hoặc ngồi sòng bạc nếu so sánh với một số trường hợp khác. Trong văn phòng, anh là chủ, sai khiến người làm. Ở nhà, anh nên đổi lại, làm tớ cho bà xã, cho quân bình, có ai biết mà xấu hỗ? Thêm vào đó, bao nhiêu khó khăn trong sở, anh phải giải quyết bù đầu, tối mắt. Về nhà, gặp cơm không lành, canh không ngọt, sớm muộn gì cái "điền cũng đâu" tức là cái đầu cũng điên đó!

 - Em làm cố vấn gia đình chắc thành công.

- Chuyện người, mình sáng suốt. Chuyện mình, mình tối đen. Anh có biết bao nhiêu người làm cố vấn gia đình, trong lúc chính hoàn cảnh họ lại rối ren không biết đâu mà gỡ? Anh nghe lời khuyên của em đi, thử đi, nghen?

Tường Vi đứng lên: - Chắc chị Mai đang trông anh về tiếp khách. Em gởi lời chúc Happy Birthday Ngọc Anh.

Khanh chuẩn bị nét mặt thật vui khi mở cửa bước vào nhà. Mọi thứ đều im lặng. Khanh đi ngay vào phòng ngủ. Mai đang thay tả con. Khanh tới gần bên, giọng ân cần:

- Các bạn em chưa tới à?

- Tới rồi, mà cũng về hết rồi!

- Sớm vậy? Sao không chờ anh về?

Mai thẳng tay quăng cái tả dơ vào giỏ rác ở góc tường kêu cái bịch.

- Chờ làm gì? Tui biểu tụi nó đi về đó.  Ở lại, nhìn thấy mặt anh, tụi nó biết liền anh đi đâu mới về. Anh chỉ kiếm cớ bỏ đi để tới nơi hẹn với... với con nào. Tui gọi phôn tới văn phòng coi thử, có anh ở đó đâu? Coi kìa, cái mặt anh tươi rói. Chắc gặp nhau hạnh phúc lắm, anh đừng chối. Anh đi nữa đi. Đi đi. Ly dị cho rồi đi. Chia phân nửa tài sản cho mẹ con tui đi sống riêng cho rồi, tui không cần anh nữa đâu.

Mai lại oà ra khóc. Khanh tức nghẹn trong cổ: - Từ từ, để anh giải thích. Em đừng khóc mà.

Mai la lớn: - Giải thích gì nữa chứ? Anh thích chứ tui không thích. Tui biết, anh đâu còn yêu thương tui nữa. Ly dị đi! Anh không lo, tui lo. Ngày mai tui đi hỏi luật sư. Anh tưởng tui ngu lắm, không biết gì hết sao? Đừng hòng ăn hiếp đàn bà. Luật pháp ở xứ này bảo vệ đàn bà tối đa luôn...

- Em nói gì kỳ vậy? Anh đâu muốn ly dị. Anh cũng đâu ăn hiếp em? Em phải chờ nghe anh giải bày, chưa chi đã buộc tội anh rồi.

- Phải mà, anh vô tội mà. Hứ! Tui nói oan cho anh lắm, phải không? Giải bày cái gì? Tui nghe làm gì? Mệt lỗ tai quá đi! Anh sẽ nói anh đúng còn tui thì sai. Phải mà, lúc nào tui cũng sai hết. Lúc nào anh cũng đúng hết.

Bé Ngọc Anh khóc ré lên. Mai thẳng tay giựt đứa con lên khỏi giường, đi xồng xộc ra phòng khách. Khanh cắn môi nén cơn giận xuống: - Em đưa con đây cho anh.

Mai vùng vằng: - Con của tui mang nặng, đẻ đau. Anh sai quấy, anh không đáng làm cha.

Cơn giận bùng nổ, Khanh trợn mắt lên: - Cô có câm cái miệng lại được không? Lúc nào cũng ăn nói hồ đồ.

- Ừ, tui ăn nói hồ đồ đó, anh muốn làm gì tui thì làm đi!

Khanh giận dữ sấn tới giơ thẳng cánh tay lên. Mai hất mặt ra:

- Muốn đánh tui hả? Đánh đi! Đánh đi! Tui kêu cảnh sát tới còng tay anh, anh đừng tưởng tui ngu, không biết gì.

Khanh nghiến răng, cố dằn cơn nóng, bỏ tay xuống. Mai bỉu môi:

- Tui tưởng anh tài giỏi, không biết sợ cảnh sát chứ?

Mắt Khanh long lên: - Đưa con đây cho anh!

- Không!

- Đưa đây!

- Không! Anh muốn đánh tui cứ đánh, con tui đẻ, tui có quyền.

Khanh vói tay giành đứa bé. Mai vừa giựt con lại, vừa vươn năm ngón tay cào nhanh vào mặt Khanh. Những vết sướt đỏ hằn trên má, đau điếng. Một lần nữa, bàn tay Khanh giận giữ đưa lên cao. Một lần nữa, khuôn mặt Mai hất lên, thách thức. Cánh tay giáng xuống. Không sai mục tiêu!

Mai choáng váng, quăng đứa con xuống sofa. Một tay ôm gò má đang đỏ ửng, tay kia chụp vội cái điện thoại, bấm số. Con bé chới với, khóc ré lên từng cơn.

 Khanh xoay lưng bỏ đi nhanh ra cửa, miệng lẩm bẩm:

- Mày muốn tan nát, tao cho tan nát luôn!

Ra khỏi nhà, nhập vào dòng xe cộ trên đường, Khanh lấy điện thoại, bấm số của Tường Vi. Chàng không còn ai khác hơn để gọi trong giờ phút này.

                                                                                               
 Hồng Hoang



Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 18/Apr/2010 lúc 3:43am
 

CHUYỆN CHÚNG MÌNH .

Anh và em quen nhau trong một câu chuyện thật tình cờ . Tình cờ đến độ ngày nay anh đã có 5 con 11 cháu mà vẫn không tin được .

Thuở ấy anh là một tân sĩ quan mới ra trường mang lon chuẩn úy . Mặt còn non choẹt gần như bơ sữa hiệu con bò thường bán ở chợ Phước Lộc Thọ . Hôm lên phi trường về Huế ngày mãn khóa , tôi mặc đồ dân sự . Đang lóng ngóng ở Phi trường Tân Sơn Nhất chưa biết lối ra . Tôi mạnh dạn đến bên cô bán hàng đồ lưu niệm đang ngồi xem báo không buồn để ý khi tôi bước vào :
- Cậu em muốn mua gì ?
- Không ! Tôi muốn hỏi đừơng nào ra khỏi phi trường .
Trời đất Thánh Thần ơi ! Cô ta độ 18 tuổi trong khi tôi đã ngoài 24 , thế mà nhìn gà hóa ra cuốc , cô ta lại gọi tôi bằng " cậu em " , hay tôi còn con nít thật .

Thế đấy ! Thuở ấy gặp em đang lớ ngớ đứng ở trạm xe buýt . Tôi dừng xen Honda và ngõ ý muốn cho em quá giang . Mặt em lạnh lùng ngõanh đi và trả lời :
- Cám ơn cậu ! Tôi không gấp lắm .
Oan ơi ông Địa . Tôi 24 tuổi rồi mà cô nào cũng cho tôi đáng vai em nên cứ tự nhiên kêu là " cậu em " . Tôi lỳ lợm không chịu bỏ cuộc :
-Cô không quá giang thì tôi bị Tổ phạt .
-Tổ nào mà phạt cậu rứa hỉ ?
-Giá là tôi tu theo hạnh nguyện từ thiện , làm phước giúp đời . Nếu một ngày tôi không làm được một việc thiện thì tối đến Tổ phạt , tự đấm mình đấm mẩy của tôi cho đến ngất ngư .

Có lẽ nghe câu chuyện phịa của tôi nên nàng chịu lên xe . Tôi cứ lái lòng vòng quanh thành nội , xem cung điện nhà vua Triều Nguyễn , rồi lái quanh các hồ sen ngắm cảnh . Lúc này tôi bạo hơn và cô ta cũng dạn dỉnh khi tìm bên tôi cũng có một chút dáng đàn ông ra phết . Từ cách xưng cô , tôi đã đổi sang em lúc nào không biết và cô ta cũng xưng em ngọt xớt . Tôi hơi vững bụng bắt đầu mở màng " làm ăn " . Khi ngang hồ sen Tịnh Tâm tôi đố nàng :
- Đố em sen có mấy lá ?
Có lẽ em nghĩ rằng " thằng cha mắc dịch này đố xàm " vì thế em làm thinh . Dù nàng nói có bao nhiêu lá cũng trật . Vì trong tim tôi chỉ có anh và em nên tôi gở mí :
-Có hai lá .
-Làm sao cả hồ sen vậy mà có hai lá rứa tề ?
-Thì một lá cho anh , một lá cho em .

Ngày ấy anh đố em "Sen có mấy lá ". Em hồn nhiên không biết là bao nhiêu lá ? Nàng nhéo vào hông tôi một cái điến hồn , nhưng tôi vẫn cười sung sướng . Ít ra tôi cũng đã lừa được em . Những lần sau đó tôi hẹn hò cùng nàng , lúc thì đi chơi lăng Tự Đức ,lăng Đồng Khánh , khi thì lên chùa Thiên Mụ , khi thì đồi Vọng Cảnh sau lưng núi Ngự Bình trước tròn sau méo .

Hôm ấy vào một chiều thu khi cơn mưa vừa đổ xuống , anh ôm em vào lòng cho ấm, mình núp dưới cây dù tránh mưa và anh thì thầm bên tai em " Chúng mình chỉ hai lá thôi nhé " Sau này, mỗi khi anh hỏi thì em nhí nhảnh trả lời "xin thưa là… sen chỉ có hai lá ". Mình giao ước nhau rằng, lỡ khi lạc nhau anh sẽ đi tìm và hỏi từng người " sen có mấy lá ?", nếu ai đó trả lời được thì đó là em, là mình lại tìm thấy nhau.

Ngày ấy em sờ thấy trên người anh một nốt ruồi, em giật mình vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ vì cùng vị trí ấy, trên người em cũng có một nốt ruồi như thế! Sau này mỗi khi giận nhau, mình bảo sờ giùm nhau nốt ruồi . Thế là mình không những hết giận mà còn yêu thương nhau hơn. Thấm thoát đã hơn 39 năm mình nắm tay đi qua ghềnh thác với hạnh phúc vô bờ bến , cùng những khó khăn trở ngại, vui buồn sướng khổ mình đều đã trải qua , những ngày sóng gió khi anh tù tội , em kiên trì lặn lội bới xách thăm nuôi anh . Dạo ấy lớp tù HO của chúng anh thường tâm niệm :" Vợ ta tuy không sinh ra ta nhưng có công bới xách , nuôi nấng ta như cha mẹ vậy " .Trải qua bao nhiêu sóng gió của cuộc đời , mình hiểu nhau như thuyền và biển, những cái tốt và cả những cái xấu khó ưa của nhau … Đó là hành trang quý giá và đủ đầy cho cuộc sống hôn nhân hạnh phúc bền vững từ nay và mãi mãi về sau .

Có một dạo anh đưa em đi ăn cưới nhà bạn , em rụt rè và nhỏ bé bên anh, anh dìu em đi rồi động viên em từng bước. Ngày ấy, em nào có dám lên sân khấu để hát cho ai nghe đâu. Anh bảo em hát được mà, để anh đăng ký bài "Trả lại cho anh " để em hát nhé (bài mà em thường hát và hát rất hay). Rồi anh luôn nhìn em trong lúc em hát để mỗi khi cảm thấy run, em nhìn xuống là bắt gặp ánh mắt anh khích lệ làm em tự tin và hát hay hơn . Hôm ấy nhiều người vỗ tay không dứt , và anh không quên thằng cha râu dê mắc dịch lên tặng hoa cho em và còn muốn ôm em vào lòng để tỏ tình ngưỡng mộ . Thấy có ghét không ?

Khi biết anh phải đi học Tình Báo trung cấp sáu tháng ,hai đứa mình buồn lắm và bịn rịn khôn nguôi cho dù hơn 3 tuần nữa anh mới đi. Có khi nào mình xa nhau quá một ngày đâu! Em tiễn anh ra sân bay rồi lầm lủi quay về. Em tủi thân vì những ngày tới không có anh bên cạnh. Anh nhìn em mà lòng yêu thương em vô hạn. Xa nhau mình mong ngóng nhau từng ngày, nói chuyện qua điện thoại bao nhiêu cũng không đủ. Anh bảo em mở máy ghi âm lên, sẽ nghe giọng anh nói . Em hồi hộp và mừng rỡ xúc động khi nghe những lời anh dặn dò mỗi ngày bằng mỗi file ghi âm anh lưu lại trong máy trước lúc anh đi.
Nào là lo đi ngũ sớm .....không được nhịn đói và nhớ uống thuốc trước khi đi ngũ một giờ .... không được nghĩ vớ vẫn và khóc nhè ......

Rồi dịp em sanh bé gái đầu lòng rất khó khăn . Anh là nguồn an ủi , vỗ về bên em để vượt qua cơn đau đẽ . Rồi em cũng đậu được Tú Tài sau một thời gian bận rộn cuộc hôn nhân và sau đó em sẽ tiếp tục lên Đại Học như anh đã làm ngày xưa . Chỉ có sự học là chiếc chìa khóa của tương lai . Trong khi đó em đã là một nhà thơ bộc phát từ tuổi trẽ .

Những ngày nghĩ lễ hay chiều chủ nhật anh chở em đi dạo, em ngồi sau ôm anh thật chặt và ngả vào vai anh . Tuy mình luôn gần gũi nhau nhưng mình luôn có những khoảnh khắc đẹp, lãng mạn và ngọt ngào. Những tấm hình lưu niệm , những tin nhắn hằng ngày đã được mình trân trọng lưu lại thành file mà anh đã đặt tên là "Nhật ký chúng mình ". Giờ mỗi khi mở ra xem lại hình, đọc lại tin nhắn hai mình bồi hồi xúc động và tự hào vì những gì mình đã trải qua, thật đẹp và cũng thật ý nghĩa.

Bây giờ những ngày sống trên đất Mỹ , không còn những buổi chiều gió heo may thổi qua cánh đồng quê . Nhưng bù lại anh và em đã hòa mình vào cuộc sống mới văn minh đầy vật chất thừa mứa hơn . Hai chúng mình vẫn dành cho nhau những ngày đi chơi xuyên bang thăm bạn bè . Hai đứa mình lúc nào cảm thấy cô đơn , trống trải khi đàn con bận bịu làm ăn chẳng ghé thăm . Chúng mình chở nhau du lịch thành phố " Silver dollas" ở Branson . Nơi đó tuy hai đứa mình đã đi lại lắm lần . Năm nào em cũng mua sẵn hai vé mùa ( all season ) để muốn đi giờ nào cũng được . Có những lần hai đứa ngồi tựa vào nhau trên đoàn tàu hõa trò chơi , hay cùng nhau bắn súng nước giải trí và đáng cười nhất là em thích món kẹo nóng " Thèo lèo " mà anh nuốt không vô . Tình ta là thế đấy . Không biết ngày mai sẽ ra sao . Nhưng thôi ! Vẫn cứ sống lạc quan vì có nghĩ cũng vô ích khi biết " Đời là vô thường ."

 

-------------



Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 23/Apr/2010 lúc 4:12am
 
 
CUỘC SỐNG LÀ NHỮNG VA ĐẬP...
 
 

 
Hãy nghe một viên sỏi kể về nguồn gốc của mình: “Tôi vốn là một tảng đá khổng lồ trên núi cao, trải qua bao năm tháng dài đăng đẳng bị mặt trời nung đốt, người tôi đầy vết nứt. Tôi vỡ ra và lăn xuống núi, mưa bão và nước lũ cuốn tôi vào sông suối.
 
Do liên tục bị va đập, lăn lộn, tôi bị thương đầy mình. Nhưng rồi chính những dòng nước lại làm lành những vết thương của tôi. Và tôi trở thành một hòn sỏi láng mịn như bây giờ”.

Bạn nghĩ gì khi nghe câu chuyện trên? Cảm thấy lý thú với chuyến đi của hòn sỏi hay xúc động trước ánh mắt lạc quan của nó đối với cuộc đời đầy biến động? Đã bao giờ bạn thấy được rằng chính những chông gai mới tạo nên những hình hài đẹp và ấn tượng, dù là hình hài được tạo bởi chính những vết thương và sự đớn đau?

 
Có thể là bạn, có thể là tôi, cuộc sống chẳng bao giờ chỉ mang đến nỗi đau, cũng chẳng bao giờ chỉ mang đến niềm hạnh phúc. Vượt qua được gian khổ, vượt qua những cuộc thử thách, vượt qua được những nỗi đau là bạn đã tự làm hoàn thiện chân dung mình.
Cuộc sống là vô vàn những điều biến động.
 
Vì vậy, cho dù trong khó khăn hay trong hạnh phúc, cũng mong bạn luôn nhớ cuộc hành trình của hòn sỏi để sống tự tin hơn, để mang những yêu thương xoa dịu và làm lành những vết thương. Sự va đập của cuộc sống chẳng có gì đáng sợ đâu bạn ạ!
 
 


-------------



Người gởi: Nhom12yeuthuong
Ngày gởi: 23/Apr/2010 lúc 4:29am
 

BÍ MẬT VIÊN ĐÁ HÌNH TRÁI TIM !!!


http://photobucket.com/images/soi%20da">trong%20soi%20da%20ta%20co%20nhau%20Pictures,%20Images%20and%20Photos

Tôi - một trái tim đá! À mà không, chính xác thì tôi là viên đá hình trái tim mới đúng.

Tôi có một bí mật trong trái tim đá, à lại quên, bí mật trong một cục đá hình trái tim.

Tôi vừa tỉnh thức và giờ tôi muốn chia sẻ bí mật của mình như một câu truyện kể.

Hình như tôi đã ngủ quên từ lâu lắm rồi hay sao ấy. Tại tôi có cảm giác như mình vừa tỉnh dậy một giấc ngủ dài! Đừng nhìn tôi như thế, tôi nói thật mà! Mà cũng đừng hỏi sao tôi không ngủ luôn đi, dậy làm chi, có lý do mới dậy chớ bộ. Nhưng tôi biết lí do tôi tỉnh dậy à nghen, đó là do tôi bị đánh thức bởi một giọng nam nào đó đang hát những lời nhạc:

"Có hòn đá cô đơn xa xăm, đứng ở đó cớ sao một mình. Phải chăng đá cũng thất tình?

Có chị gió bay ngang qua, khẽ nhẹ vuốt mát tâm hồn mình… buồn làm chi hỡi em?

Có giọt nước rơi trên mi, khẽ nhẹ thấm xót xa trong lòng…

Ta ôm một chút đau thương thôi, dấu thật kín mãi trong hồn mình"

... Tiếng đàn, giọng hát làm tôi giật mình và tỉnh giấc. Tôi nhìn hoang mang khi không biết tôi đang ở đâu. Đáng lý ra phút này tôi cần tìm lời giải đáp rằng vì sao mình lại ở đây, nơi này.Thế nhưng, nghe bản nhạc ấy trong tôi trỗi dậy những chuỗi kí ức đã ngủ từ lâu lắm rồi. Phải rồi! Tôi đang nhớ về tôi của những ngày đã xa, xa lắm…

Ngày ấy, ngày tôi còn vô ưu bên cạnh thành phố sỏi và đá. Sống chung một cộng đồng lớn, tôi cũng được đi học, được đến trường như bao bạn bè khá . Rồi giữa mớ hỗn độn đá và sỏi tôi cũng tìm cho mình một cô nàng dễ thương. Mối tình đầu với viên Đá Xanh ấy chẳng đi đâu đến đâu vì một ngày kia cô ấy được đưa đi nơi khác và rời xa tôi, tôi thì học cách lãng quên cô ta và tự nhủ rằng, sống trên đời đôi khi phải biết quên đi một vài thứ. Tôi chọn cách quên cô ta và tôi để cho thân thể mình một vết rạn nho nhỏ.


http://photobucket.com/images/soi%20da">soi%20da%20Pictures,%20Images%20and%20Photos

Đá sỏi cũng có đời sống của đá sỏi, tôi vẫn tồn tại giữa cộng đồng của tôi. Là một viên đá, hằng ngày tôi phải phơi mình giữa cuộc đời thực, hứng những cơn nắng quái đến bỏng da bỏng thịt, hứng những trận mưa điên cuồng mà đôi khi sau cơn mưa ấy tôi bị chìm hoàn toàn trong nước là nước. Ngày cũng như đêm, tôi tồn tại giữa nắng gió của cõi tục như một điều cần phải có trong đời đá của tôi. Và như thế thân thể tôi có thêm nhiều, nhiều nữa những vết rạn mang tên cuộc sống. Nhiều vết rạn như thế nhưng tôi chưa vỡ vụn ra, tôi vẫn trơ ra cùng năm tháng. Rồi, tôi vô tình quen biết cô Đá Hồng. Cô ấy là một viên đá vừa nâu đỏ vừa hồng hồng, nhưng tôi thích kêu cố ấy bằng Đá Hồng. Chúng tôi trở thành bạn và trao đổi với nhau rất nhiều thứ, tôi bắt đầu muốn tìm cho mình một tình bạn giữa 2 người khác phái, tôi tìm thấy điều đó ở cô Đá Hồng ấy! Tôi có một tình bạn.

http://photobucket.com/images/soi%20da">TY%20SOI?%20DA%20Pictures,%20Images%20and%20Photos

Ngày kia, tôi phát hiện ra mình đang yêu. Từ dạo mối tình đầu với nàng Đá Xanh, giờ tôi thấy mình đang yêu lần nữa. Người con gái tôi yêu là cô nàng Đá Trắng. Tôi yêu cô ta một cách chân thành, ngày đêm tôi đều mong ngóng được nhìn thấy cô ấy. Cô ấy trong mắt tôi là trong sáng, là đáng yêu, là hạnh phúc của tôi. Tôi càng hạnh phúc tin tưởng nhiều vào tình yêu hơn khi biết cô ấy cũng yêu tôi, tôi cảm nhận được tình yêu khi cả hai chúng tôi ở cạnh nhau. Lúc ấy, tôi thấy đời như thế là trọn vẹn, tốt đẹp lắm rồi.

Thế nhưng, ở đời ai mà đoán được chữ ngờ… Sau khi tôi đang tận hưởng niềm hạnh phúc trong tình yêu với người yêu Đá Trắng của tôi, đến một lúc thì tôi lại cảm giác được sự nhạt nhẽo trong tình yêu, à - phải kêu là sự nhàm chán mới đúng.

Những khi ấy, tôi thường tìm đến Đá Hồng. Chúng tôi lại nói chuyện cùng nhau về đủ thứ vấn đề một cách rất hợp ý như thể những ngày tôi còn chưa "bận rộn" với tình yêu cùng nàng Đá Trắng của tôi. (Sau khi tôi có người yêu, xoay xoay trong vòng quay hạnh phúc khiến tôi quên đi mất người bạn Đá Hồng của mình). Chính điều này làm tôi nghĩ tình bạn chúng tôi thật tuyệt vời, thật đáng trân trọng biết là bao nhiêu.

Tôi càng không thể ngờ là trái tim của tôi lại còn có thể yêu Đá Hồng. Không ngờ rằng nàng cũng yêu tôi. Tình bạn của chúng tôi trở thành tình yêu tự lúc nào không biết nữa. Tôi nhận ra tôi yêu Đá Hồng nhiều lắm, tôi yêu bằng tình bạn, bằng tình yêu. Cô Đá Hồng ấy, cô ấy làm thắp sáng trong tôi nhiều thứ lắm, cô ấy cũng khiến tôi thay đổi nhiều lắm. Tôi không biết nên kể thế nào về những gì cô ấy gây ảnh hưởng với tôi, dù rằng khi nhận ra mình đang yêu cũng là lúc mình không thể yêu Đá Hồng được – tôi vẫn còn một tình yêu là nàng Đá Trắng của tôi. Trái tim tôi đau lắm, ngày nào nó cũng như muốn vỡ tan ra. Tôi dằn vặt mình rằng không thể phụ bạc Đá Trắng, nhưng nếu thế thì tôi đành giấu thật kín tình yêu dành cho cô Đá Hồng trong tâm hồn mình mà thôi.

Khi Đá Hồng biết chuyện tôi giấu cô ấy về Đá Trắng, cô ấy khóc! Tim tôi như càng đau đớn rạn vỡ thêm nhiều! Và rồi, Đá Hồng lựa chọn ra đi trong cuộc tình tay ba mà tôi là kẻ tội đồ… Ngay cả việc kéo giữ một tình bạn giữa chúng tôi cũng đã không còn chút ý nghĩa nào cả. Từ ngày Đá Hồng ra đi, tôi những tưởng thờì gian sẽ làm tôi quên Đá Hồng như từng quên mối tình đầu với Đá Xanh. Nhưng chẳng có vẻ gì là quên đi cả, tôi sống trong tiếc nuối vô vàn vì để Đá Hồng xa cách tôi mãi mãi cũng như buồn thật nhiều khi nghĩ một ngày nào đó Đá Hồng sẽ quên mất tôi.

Đá Trắng cũng biết chuyện. Nàng khóc rất nhiều. Nhiều lắm. Và rồi, sau một đêm mưa lớn lắm, nàng cũng bỏ tôi mà đi.

Còn tôi? Tôi bây giờ thì sao, một vết sẹo lớn trong tâm hồn và vô vàn những vết rạn trên khắp thân thể tôi. Vì sao tôi ngủ mê đi tôi không biết nữa, chỉ biết tôi bây giờ mang hình thù là một trái tim của con người, một trái tim đá đầy vết rạn nứt, và đang làm công việc là viên đá chặn giấy. Chán dễ sợ !!! file:///C:%5CUsers%5CNNH%5CAppData%5CLocal%5CTemp%5Cmsohtmlclip1%5C01%5Cclip_colorschememapping.xml - - -



Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 25/Apr/2010 lúc 9:24am
Ngày Về
Ông Hớn ngồi ở nhà hàng gần bờ biển Huntington Beach, một mình với mấy chai bia trên bàn. Sóng biển vỗ dào dạt vô bờ đá, thủy triều đang lên. Ông nhớ con sông Tiền ở quê, cuồn cuộn nước chảy, khi nước lên, tràn đến bậc tam cấp sân sau nhà.
Nhà ông sau này dọn ra gần chợ để tiện việc đi lại, vậy mà qua Mỹ 5 năm rồi, khi nào nằm mơ, ông chỉ mơ thấy căn nhà cũ, mặt tiền ngó ra đường lộ, bờ sông phía sau, hừng đông có nhiều tàu ghe qua lại, tiếng người nói lao xao, tiếng máy đuôi tôm xình xịch, ánh đèn dầu lấp lánh mặt nước.
Khi không sao chiều nay nhớ nhà da diết.
Ông vớ chai bia trước mặt, cụng vô chai trên bàn, nói với nó như bạn nhậu đang ngồi đối mặt:
- Dzô nữa ! Mới có mấy chai, nhằm nhò gì.
Ông ngó vô trong quán, gọi:
- Thêm chai nữa, bà chủ.
Bà chủ lững thững đi ra, đem ra bàn chai bia lạnh, tự động thêm dĩa tôm khô củ kiệu.
- Bữa nay sầu đời sao mà nhậu một mình vậy anh Tư?
Tư Hớn làm thinh. Bà mặc cái váy dài màu đen, áo cánh ngắn cũng đen. “Màu đen làm cho người ốm đi.” Bà nói như vậy, cân nặng của bà sơ sơ 80 kg, đã trừ bì ! Màu đen dường như chẳng làm bà xuống bớt kí lô nào, vòng số 2 với vòng số 3 bằng nhau.
Đàn ông đến đây gọi bà là “bông hồng nhỏ”, ghẹo chơi để nhìn bà cười, rung rinh bộ ngực đồ sộ. Hồi trẻ, bà từng là hoa khôi ở một trường trung học tỉnh lẻ, giờ về già chỉ còn duyên ở nụ cười. Buồn tình đời, có lần “bông hồng nhỏ” tâm sự với ông Hớn:
- Hồi mới qua Mỹ em còn thon thả lắm, chỉ có 48 kí, (ông Hớn tính nhẩm, chắc phải cộng thêm ít nhất 10 kí cho sự thật) hổng biết sao mà mỗi ngày lên cân vù vù. Có lần đi xin việc, phải ngồi chờ hơi lâu. Cái ghế nhỏ có hai tay dựa, chật chội.
Đến lượt mình vào interview, em lật đật đứng dậy, thì hỡi ơi, cái ghế ôm chặt luôn vô mông! Em phải vừa lắc, vừa dậm chân, ông Sếp ra tay, kéo cái ghế ra, em thì muốn khóc mà ông ta tủm tỉm cười. Lần đó không cần chờ kết quả, cũng biết số phận mình ra sao. Thôi đành về nhà mở quán làm ăn.
- Vậy mà hay, em làm ăn mình ên, phất lên ngon lành, có chi mà ân hận?
- Nhờ Trời cũng đủ sống.
Ông bạn nghệ sĩ lang thang hay cùng ông đến đây, có lần say xỉn, nắm tay bà chủ quán, nói:
- Này bông hồng nhỏ của đời anh, nếu em chịu khó m bớt 10 kí lô thôi anh thề yêu em trọn đời.
Đâu dễ chịu thua, bông hồng nhỏ đốp lại:
- Này ông anh ca sĩ hạng ruồi của em, nếu anh chịu khó nhuộm tóc, trẻ lại chừng 10 tuổi thôi, em thề bỏ người yêu theo anh suốt đời.
Hắn ngậm câm. Tư Hớn khoái trá cười thầm“ đáng đời già dịch”, cho hắn bỏ cái thói cợt nhã, coi thường phụ nữ.
Thử một ngày trái đất này không có đàn bà xem sao, chắc hoang tàn hết. Cái gì mất rồi mới biết là quí. No woman no love. Không có đàn bà thì ta yêu ai, sống với ai !?
Như ông “năm năm rồi đi biệt, đường xưa chưa lối về ” chưa một lần về thăm quê, thăm đám con, thăm vợ. Gia đình còn nguyên đó, chỉ cách có nửa vòng trái đất, hằng tuần gọi điện thoại về nhà, sao vẫn thấy mình bơ vơ quá.
Nhớ tới vợ con, ông Hớn thấy cay cay con mắt. Phải làm thêm ngụm bia nữa. Trời nhá nhem tối rồi, sao không nghe tiếng bà Tư nói đám con câu quen thuộc:
- Đứa nào ra mời cha bây vô ăn cơm.
Hồi ông sắp ra đi, bà Tư Huệ, vợ ông, nửa chơi nửa thật nói:
- Coi chừng qua bển rồi, vợ giả dám thành vợ thiệt, lửa gần rơm mà.
Ông Hớn hỏi dò:
- Rủi ro xảy ra thiệt thì bà tính sao?
- Còn biết tính sao, ông làm sao coi cho được thì thôi. Xin ông làm ơn nhớ sấp nhỏ, chứ tôi đành an phận.
Bà nói rồi quay đi.
Ngày ông lên xe hoa lần thứ hai với bà Kiều Mộng Ngọc, bà Việt kiều từ Mỹ về, chính tay bà Tư Huệ, vợ ông, sắm sửa đồ trang sức, áo cưới, đến tận Hotel bà Mộng Ngọc đang ở, trang điểm cho bà dâu mới, cưới vợ nhỏ cho ông Hớn!

- “Sao kỳ vậy ta?” Hàng xóm thắc mắc. Bà Huệ cười:
- Ổng muốn du lịch thế giới cho biết đời, nên phen này bỏ tôi để theo tiếng gọi con tim! Bà con bên nội, ngoại cũng thắc mắc, ông Hớn với vợ giữ im lặng cho êm xuôi mọi việc. Giấy tờ ly hôn được chứng nhận, Tư Hớn tách hộ khẩu ra căn nhà thuê tạm ở chợ, nhưng vẫn cơm ăn ba bữa, tối ngủ ở nhà. Cho đến khi bà Mộng Ngọc về quê, ký giấy hôn thú với ông. Chuyện khó êm xuôi lại ở bà Việt kiều.
Tư Hớn than thở với Hai Sự, cháu ông, người có công lớn trong chuyện mai mối, từ xứ Cali bên Mỹ về thăm quê hương cùng với bà Mộng Ngọc:
- Tao đau đầu với bà Mỹ da vàng này quá, đám cưới giả mà bả làm như thiệt, đòi đốt pháo dài 10 thước, đòi có năm, bẩy cái xe hơi rước dâu chạy lòng vòng thành phố, bấm còi tin tin, trong khi tao chỉ muốn làm cái lễ ra mắt nhỏ, chụp mấy tấm hình làm bằng chứng. Tao mà còn làm chủ tịch xã như trước dám bả đòi bắn pháo bông chào mừng đám cưới !
Quân sư Sự an ủi cậu mình, giảng giải :
- Sá gì mấy cái lặt vặt đó, cậu ráng chiều bả đi, miễn sao chuyện lớn thành công là được. Đời người có mấy lần lên xe hoa. Đời bả, tính sơ sơ, mới có ba ông Mỹ đi qua đời tôi, chưa có ông Viêt nam nào, nên nay bả muốn làm đám cưới rình rang ở quê, cho nở mày nở mặt đó mà.

Nói thiệt với mày, tao rán nín thở qua sông, chứ thấy bả cứ õng ẹo đòi thêm điều này, điều nọ, tao phát ớn lạnh.
- Cậu Tư lo làm chi, bả chỉ muốn hình thức rắc rối vậy thôi, chứ tiền bạc đâu có đòi thêm, vậy là đẹp rồi. Cậu cứ nhớ mục đích tối thượng của mình mà bỏ qua đi.
Với Tư Hớn, 20.000 dollar cho cái giấy hôn thú không phải là mắc, ông đã đưa trước phân nửa, phần còn lại sẽ đưa hết cho bà Mộng Ngọc khi ông đặt chân lên nước Mỹ, có được thẻ xanh. Ông phải đi qua ba nước mới biến kế hoạch lớn của mình thành hiện thực, thôi đành nhắm mắt trao thân gửi phận cho bà Mỹ da vàng này. Bả có lẽ cần tiền, mình cần giấy tờ, làm khó chi đời nhau. Qua được xứ Mỹ rồi thì đường ai nấy đi.
Trước khi xin Visa, đặt vé máy bay, Tư Hớn coi lịch chọn ngày cẩn thận. Ngày ông đặt chân xuống phi trường Frankfurt, đúng hôm nước Đức gặp cơn bão tuyết. Vợ chồng Sang đi đón, chu đáo đem theo áo mantel dầy cho chú Tư. Ở trong phi trường còn ấm, ra ngoài mới thấy rét run, tuyết bay lả tả đầy trời như bông gòn. Tuy lạnh cóng nhưng Tư Hớn thấy xứ này vẫn đẹp, người nào cũng áo len dầy, găng tay, khăn quàng cổ đủ màu, gương mặt ai nấy sáng, tươi vui.
Xa lộ êm ru, chạy hoài không rơi vô ổ gà lớn nhỏ nào gài bẫy trên đường, không thấy núi rác nào lù lù án ngữ bên đường. Xe cộ chạy trật tự, bình tĩnh, không bị điếc tai vì tiếng còi xe inh ỏi như bên nhà. Dù mùa đông, vợ chồng Sang cũng đưa ông đi chơi phố, gặp bạn bè, thăm vài thắng cảnh: khu phố cổ, những lâu đài trên núi dọc theo sông Rhein.

Tuần sau ông thôi không so sánh bên này với bên nhà, chuẩn bị tư thế ra mắt bà chủ nhà hàng Kim Tiền. Sang đưa ông tới nhà hàng tối thứ hai, lúc nghỉ bán. Dù ít chú ý bề ngoài, Tư Hớn phải kề tai Sang hỏi nhỏ:
- Bà này làm sao mà cứ lấy khăn chậm nước mắt hoài ?
- Chú Tư không biết sao, bả mới về VN đi mỹ viện sửa mắt, cắt cao mí mắt, để mắt to hơn, ra vẻ nai vàng ngơ ngác, ai ngờ đụng hạch nước mắt, nên chưa khóc mà lệ cứ dâng tràn.
- Hèn chi. Tao tưởng đâu bả cảm động vì có người bảnh như tao đến xin cưới...giả.
Dáng ông Tư cao lớn, mặt chữ điền, chân mày tướng. Thời trẻ theo ghe chài sống đời sông nước, đến nay tuy hơn sáu mươi, tóc muối tiêu, trông ông vẫn còn phong độ. Bà Kim Tiền ưng thầm ông ngay từ bữa gặp đầu tiên, nhưng vẫn làm cao.
- Tôi thông cảm hoàn cảnh nên muốn giúp anh thôi, tiền bạc là chuyện phụ, tình cảm mới là chính. Anh đưa 30.000 Mark để lo giấy tờ là được rồi.
Sang nói với chú Tư Hớn khi ra xe:
- Giá đó chẳng phải tình cảm gì ráo, đúng giá thị trường. Được cái bảo đảm, chứ nhiều người ký phải giấy hôn thú với mấy tay Đức nghiện rượu, xì ke ma túy, phiền phức lắm. Có khi giao tiền rồi, có giấy tạm trú rồi mà đâu yên, nó bắt trả tiền nhà, mua xe cho nó, tới lui hăm dọa đòi đưa tiền thêm, không đưa nó tố cáo mình ra Tòa là dụ dỗ, lường gạt nó.
- Bộ rồi không biết tố ngược lại sao, tiền mất tật mang, chịu thua sao?
- Đâu có dễ chú Tư. Nó là dân Đức có thể bị phạt vạ chút ít, còn mình dám bị trục xuất về nước, nên phải cắn răng chi thêm, chờ đủ thời hạn được thường trú thì mới Tschüss (chia tay) nó được. Có khi muốn ly dị phải chi thêm tiền nữa.
Với bà chủ đồng hương này coi bộ cũng không bảo đảm. Mấy hôm sau bà kêu điện thoại ngã giá, chịu bớt chút ít, 5.000 Mark, với điều kiện, ông Tư phải làm việc tại nhà hàng giúp bà một thời gian vì tình cảnh bà đơn chiếc. Tư Hớn nổi dóa:
- Bà này cứ leo lẻo cái miệng tình cảm là chính, nhưng tiền bạc tới mười, y chang tên bả. Một thời gian là bao lâu, tiền trao cháo múc, đâu phải cho không mà bắt tao ở rể không công? Phần nào thôi, bộ bả tính chơi trên cơ tao sao chớ?
Vợ Sang nghiên cứu tình hình kỹ hơn, bàn thêm:
- Giả dụ bà Tiền chịu ký giấy, chú Tư có giấy tạm trú, nnhưng phải ít nhất 5 năm sau mới vô được quốc tịch, phải có việc làm, mới đón được con sang, luật ở đây khó khăn lắm.
Tư Hớn đành tay không giã từ nước Đức, buồn lòng vì mộng lớn chưa thành, nhưng quyết chí không chào thua số phận. Hôm tiễn ông ở phi trường, Sang bất ngờ tiết lộ nguồn tin mới:
- Chú Tư yên chí đi, con mới bắt liên lạc được với Hai Sự, con dì Ba Sử, đang sống bên Cali, để nó tìm mối khác cho chú.
Hai Sự - cái phao của đời ông. Ông nhớ như in: nó mặc cái quần xanh rách gấu, cái áo có miếng vá lớn sau lưng. Nhà nghèo, cha chết sớm, lẽ ra nên theo ghe chài với ông sinh sống, nó nói:
- Con muốn học lên nữa, cậu Tư giúp con, con đội ơn. Đời trai mà cứ lẩn quẩn ở cái hóc bò tó bên con sông này, không ngóc đầu lên được.
Ông hỏi:
- Mày lấy gì ăn mà đòi học tiếp?
- Con lên Saigon vừa đi học, vừa làm nghề đóng giày ở nhà đứa bạn. Người ta sống được thì mình sống được, lo gì.

camlyy


Người gởi: ranvuive
Ngày gởi: 28/Apr/2010 lúc 10:14am
 
Nụ hôn  nước mắt
 
 

Cách đây sáu tháng, Hào nói với tôi:


- Anh sẽ lấy em, với điều kiện cả đời này em chỉ ngồi sau xe một người đàn ông duy nhất là anh. Và anh sẽ không chấp nhận bất cứ sự phản bội nào nếu anh tận mắt chứng kiến.
 

Hào trọng danh dự! Một người đàn ông quá trọng danh dự đôi khi lại khiến sự ra đi của người phụ nữ dễ dàng hơn. Vậy tức là, nếu muốn ly hôn, tôi chỉ cần ngồi sau xe ai đó một lần? Dễ thật!
 

Tôi bình thản nhìn Hào, dĩ nhiên tôi biết chưa bao giờ  anh nói hai lời. Thậm chí, Hào còn lạnh lùng gấp đôi lời anh nói ra. Ba mươi tuổi, tôi không hồn nhiên hứa hẹn mọi điều, để rồi khi phạm phải lại sụt sùi xin tha thứ. Tôi không muốn ràng buộc hôn nhân, điều tôi ao ước là được chuyên tâm nghiên cứu những công trình khoa học đang dở dang. Nhưng ba tôi thì khác, ông muốn con gái duy nhất có gia đình trước khi căn bệnh ung thư gan mang ông ra đi vĩnh viễn. Ba là cả cuộc đời của tôi, vì lẽ đó mà tôi có thể đánh đổi tất cả để được ở bên cạnh ông và nhìn thấy ông hài lòng. Ba tôi quý Hào, ông bảo Hào có thể chăm sóc cho tôi suốt đời. Đó là nhận định duy nhất của ba mà tôi thấy sai trái sau 30 năm làm con gái của ông. Nhưng tôi vẫn gật đầu chấp thuận:

 
- Nếu anh ấy đồng ý lấy con, chúng con sẽ tổ chức trong thời gian sớm nhất có thể.
 

Và bây giờ thì Hào đồng ý lấy tôi, kèm theo một điều kiện nhạt nhẽo ấy. Tôi gật đầu không đắn đo:
 

- Em sẽ làm như thế, trong thời gian làm vợ anh.

Hào cười nhưng gương mặt nhăn nhúm như được nhặt lên từ trong hầm mộ:

 
- Vậy thì được, em có thể làm gì tùy thích. Chỉ cần không để anh nhìn thấy. Chúng ta sẽ cưới trong tháng này, em nghĩ sao?
 

Một cái gì đó, bén nhọn như lưỡi dao lia vào tim tôi. Không khí tôi đang hít thở sực mùi cay nồng. Dưới bầu trời này, có hàng vạn cặp vợ chồng không tìm được hạnh phúc, đâu riêng gì tôi. Chẳng có gì phải đau khổ vì một việc mà mình đã lựa chọn. Tôi thản nhiên giương đôi mắt đầy hân hoan nhìn Hào:

- Em muốn cưới ngay chủ nhật tuần sau.

 

Hào khẽ nhíu mày nhìn tôi trong khoảng 30 giây, rồi những cơ mặt của anh giãn ra một cách khó hiểu:

- Cũng được! Chúng ta sẽ gấp rút chuẩn bị. Còn bây giờ anh phải về, anh có việc quan trọng cần giải quyết.

 

Và không cần quay lại nhìn tôi dù chỉ một giây, Hào tất tả ra khỏi quán cà phê. Còn lại một mình, tôi lôi cuốn sổ tay và bắt đầu gạch đầu dòng những thứ cần chuẩn bị. Một đám cưới nhẹ tênh như người ta chọn mua món hàng rẻ tiền. Tôi không biết tới bao giờ mình sẽ ân hận vì quyết định này.

 

 


Minh họa: Hoàng Tường

 

Ba vui khi tôi báo tin sẽ làm đám cưới, nhưng ông bất ngờ khi biết ngày ấy quá sớm so với dự tính của ông. Thì tôi còn gì để lần lữa nữa, ba tôi chẳng biết sẽ ra đi lúc nào.

 

Đám cưới được tổ chức đơn giản nhưng sang trọng, đúng theo ý định của cả hai gia đình. Tôi và Hào đều rạng rỡ trong vỏ bọc hạnh phúc. Mà có gì để không hạnh phúc kia chứ? Giữa chúng tôi không có người thứ ba hay thứ tư. Vả lại, chúng tôi cũng đã quen nhau hai năm nay. Tôi không yêu, nhưng cũng không ghét. Còn Hào, anh bên cạnh nhưng lại dửng dưng với sự tồn tại của tôi. Giống như khi biết tôi gặp tai nạn gãy chân, Hào bình thản:

- Em không chết là được rồi. Cuộc sống còn nhiều thứ đau đớn hơn nhiều.

 
Là chồng tôi nói đấy, mà lại là chồng mới cưới nữa chứ. Tôi lì lợm:

- Anh nói phải!

 
Sau đó thì Hào chở ba tôi về nhà để ông nghỉ ngơi. Anh dọn bữa và lo cho ba tôi tươm tất rồi mới thong thả cầm tờ báo vào với tôi. Tôi trơ ra như một khúc gỗ, suốt đêm đau nhức mà không thể rên rỉ nửa lời. Hào chẳng thèm đả động đến tôi, thì tôi yếu đuối để làm gì? Lạ một điều, ba luôn xem sự lạnh nhạt của Hào chẳng có gì đáng phàn nàn, dù rằng ba rất yêu tôi. Đã vậy, mỗi khi thấy tôi ngồi rầu rĩ vì đau nhức, Hào lại nhăn mặt:

- Em phải vận động nhiều vào, không ai thương mình ngoài bản thân mình đâu.

 
Tôi miễn cưỡng gật đầu, vẫn là câu quen thuộc:

- Anh nói phải!

 
Đó là sự phục tùng để chuẩn bị cho một kết thúc toang hoang sau này. Tôi biết thế, nhưng cũng không mong đợi ngày ấy. Không phải vì tôi luyến tiếc người đàn ông của mình, mà điều đó đồng nghĩa với việc ba sẽ rời bỏ tôi vĩnh viễn. Cái ngày ấy, cả đến trong mơ cũng khiến tôi rơi nước mắt. Nhiều đêm tôi giật mình vì cơn hoảng loạn, Hào sững sờ bật dậy định ôm tôi vào lòng. Nhưng chẳng biết nghĩ thế nào, anh lại kéo chăn đắp ngang người và quay lưng như trốn tránh:

- Chỉ là mơ thôi! Em ngủ đi.

 
Tôi thù ghét tấm lưng ấy. Giá có thể gào lên hoặc xé nát anh ta ra thì tôi cũng làm. Nhưng mà, ba đang nằm phòng bên cạnh, vì vậy mà tôi phải tự dỗ giấc ngủ của mình. Chỉ hy vọng, suốt cuộc đời tôi cứ được nằm bên cạnh mà thù ghét tấm lưng này. Bởi vì, ba còn có thể nhìn ngắm tôi mỗi ngày.
 

Vậy mà ba lại không cảm thông cho cố gắng của tôi. Bốn tháng sau khi chúng tôi cưới, ba lên cơn đau nặng và ra đi sau khi nhập viện hai ngày. Khi ba trút hơi thở cuối cùng, tôi cũng hụt hơi và chìm vào cơn mê. Giá được quyền lựa chọn, tôi nhất định sẽ không tỉnh lại sau một ngày bất tỉnh. Tôi ước ao mình có thể là bạn đồng hành với ba trong thế giới hỗn mang mịt mù mà ba phải đi. Hào cẩn trọng và lo tươm tất tang lễ của ba. Tôi lặng im ngắm nhìn trong sự đau buốt đến tận tâm can.

 

Từ khi kết hôn với Hào, tôi luôn có cảm giác chỉ riêng mình tồn tại giữa cuộc đời này. Vốn dĩ, trong ngôi nhà chung này, Hào chỉ thường xuyên trò chuyện cùng ba và xem tôi như một người vô hình. Thì bây giờ, sự lạnh lẽo ấy càng nặng nề hơn. Chúng tôi bên cạnh nhau mà như những người không có khả năng nhìn và nói. Nhưng ngày nào Hào về muộn, tim tôi lại nhen nhóm một nỗi lo lắng. Tôi ngồi viết đơn ly dị theo đúng dự tính từ trước khi cưới, mà như thể bị ai đó ép buộc làm cái việc ấy. Và rồi, tôi nhận ra cơ thể có những bất thường. Bác sĩ bảo tôi có thai, bảy tuần tuổi, trước ngày ba mất không lâu. Tôi quyết định sẽ nói với Hào, chỉ để nhìn xem cảm xúc của chồng ra sao:

- Em đã có thai, anh nghĩ sao?

 
Hào sững sờ nhìn tôi, ánh mắt lộ vẻ vui sướng  tột cùng nhưng lại vội vã cụp xuống:

- Ý em thế nào?

Tôi nhìn bâng quơ lên bầu trời. Có người mẹ nào muốn giết chết đứa con của mình bao giờ? Tôi sẽ kín đáo giữ lại giọt máu của mình và ra đi thật xa. Tuy vậy, tôi thản nhiên như một con đàn bà máu lạnh:

- Em sẽ phá, vì chúng ta sẽ chia tay nhau.

 
Hào nuốt nước bọt một cách khô khốc, đứng bật dậy:

- Em muốn thế nào thì cứ làm.

Rồi Hào vội vã ra khỏi nhà. Đêm ấy Hào không về, cả hôm sau và hôm sau nữa. Đến đêm thứ năm thì tôi không thể chịu đựng được, tôi bỏ tờ đơn ly hôn vào giỏ xách rồi bắt taxi đến cơ quan tìm Hào. Đúng là Hào ở cơ quan thật, trong căn phòng trước khi lấy tôi Hào vẫn thường nghỉ lại. Anh chàng bảo vệ tỏ ra hết sức vui mừng:

- Chị ạ! Mấy ngày nay giám đốc không bước ra khỏi cơ quan, em lo lắm.

 
Tôi gật đầu cảm ơn và cố gắng bước đi thật thong thả. Đằng nào thì đêm nay chúng tôi cũng kết thúc tất cả, tôi vội vàng, nóng nảy làm gì. Căn phòng của Hào hắt ra thứ ánh sáng yếu ớt, buồn thảm. Hình ảnh trước mắt tôi thật không thể ngờ: Hào nằm ngửa mặt trên ghế sofa, nước mắt lã chã. Cạnh đó lủng củng vô số vỏ bia. Hào say và khóc, một điều chưa bao giờ tôi nhìn thấy ở người đàn ông mà mình gọi là chồng. Có cái gì đó chặn đứng bước chân tôi. Bào thai trong bụng cũng như đang thót tim nghe ngóng. Tiếng nấc rất nhẹ của Hào sao lại khiến trái tim tôi nhức nhối đến thế? Không thể đợi được lâu, tôi gõ cửa và dặn lòng sẽ làm một phép thử trước khi nói lời chia tay. Hào giật mình khi thấy tôi, anh loạng choạng ngồi dậy nhưng lại đổ sầm vì không thể làm chủ cơ thể:

- Em... em đến đây... làm gì?

 
Tôi cố tỏ ra điềm tĩnh:

- Em đi tìm anh.

Lần  đầu tiên Hào nhìn tôi một cách chăm chú, khắc khoải và khổ sở. Rồi Hào vùng dậy, lao đến ôm chặt tôi như sợ tôi sẽ biến mất bất cứ lúc nào:

- Em... em đừng bỏ anh có được không... Em đừng bỏ con có được không? Anh yêu em, Yến ạ... Anh yêu em...

 
Người đàn ông luôn luôn lạnh nhạt và thờ ơ, giờ đang khóc trên vai tôi. Rõ ràng là tôi nên hả hê lắm, nhưng sao tim tôi lại buốt nhói thế này? Tôi khẽ khàng:

- Anh thực sự cần em?

Hào ôm riết tôi hơn, giọng nói của anh vỡ ra từng mảng:

- Vì anh không muốn ràng buộc em, không muốn em cảm thấy có lỗi và đau khổ khi chia tay anh... Anh biết, em lấy anh vì ba... Anh cố làm đau em... để em có thể cứng cỏi khi rời xa anh...

 
Một cảm giác rất lạ tràn vào hồn tôi, khiến thân thể tôi run rẩy trong vòng tay của chồng:

- Anh biết chúng ta sẽ chia tay... thì lấy em để làm gì?

Thật khốn khổ khi phải thừa nhận, giây phút này tôi chỉ muốn suốt cuộc đời được Hào ôm. Ba tôi đã mất, người thân thương nhất của tôi chính là Hào. Làm sao Hào có thể biết rằng, tôi đã đau khổ biết bao khi đối diện với sự lạnh nhạt của anh và thổn thức bởi cái ý nghĩ một ngày nào đó phải rời xa chồng vĩnh viễn. Đúng là tôi lấy Hào vì ba, nhưng thời gian qua đi và tôi nhận ra trái tim mình đã thuộc về Hào từ lúc nào không hay. Giọng Hào nghe thật xót xa:

- Anh yêu em và anh có thể làm bất cứ điều gì vì em...

 
Anh biết em không yêu anh và sẽ chia tay ngay khi ba mất... Thế nên anh đã cố sống để em không thấy có lỗi khi bỏ anh...
 
Cánh tay tôi bất giác đưa lên vòng qua eo chồng, dịu dàng đến mức tôi không ý thức được việc mình đang làm. Chồng tôi đấy! Bây giờ thì tôi mới hiểu vì sao ánh mắt của Hào lại ẩn ức buồn bã ngay cả khi chúng tôi dịu dàng bên nhau. Có người phụ nữ nào lại dửng dưng và đau đớn vì cái nghĩa vợ chồng như tôi? Nước mắt tôi đã chảy ướt môi:

- Em cũng yêu anh... Và nếu phải chia tay chắc chắn em cũng đau khổ vô cùng...

 
Hào sững sờ! Cái sững sờ mà tôi có thể cảm nhận một cách rõ ràng. Anh nhìn thật sâu vào mắt tôi trong trạng thái của một người hạnh phúc tột cùng:

- Em có nói thật không? Em yêu anh thật không?

Tôi gật  đầu, ép người vào thân thể ấm áp của anh:

- Đúng vậy! Em đến đây vì muốn anh đừng bỏ em và con.

 
Hào gần như không thể đứng vững. Một lần nữa, anh ôm tôi thật chặt, giọng nghẹn ngào:

- Cảm ơn em! Sẽ không bao giờ có chuyện đó. Anh yêu em, mãi mãi...

 

Tôi dịu dàng đáp lại nụ hôn ướt đẫm nước mắt của chồng. Đó là nụ hôn có vị ngọt của tình yêu. Nước mắt không phải lúc nào cũng mặn chát như tôi vẫn tưởng. Tờ đơn ly dị có sẵn chữ ký vẫn nằm yên trong giỏ xách, nhưng bây giờ nó thật thừa thãi. Ba tôi đã mất, nhưng người đàn ông ba chọn cho tôi thì vẫn còn. Quan trọng là tôi chỉ yêu người ấy, như ba đã tin tưởng người ấy sẽ bên tôi suốt cuộc đời này.

Nguyễn Quỳnh



-------------



Người gởi: SaoMai
Ngày gởi: 28/Apr/2010 lúc 10:57am
Nụ hôn nước mắt


bộn bề cảm xúc cho một câu chuyện...
Cảm ơn bé Rắn cho đọc...


Người gởi: Lan Huynh
Ngày gởi: 01/May/2010 lúc 7:50am
 

Giọt mưa trên tóc 

Đường Hai Bà Trưng. Chiều. Một trai một gái tuổi độ 17, 18, đạp xe về hướng Tân Định, đi song song. Bỗng, trời nổi gió ào ào rồi mây đen kéo về vần vũ. Mọi người đều hối hả, đi như

chạy, để tránh mưa. Đứa con trai giục:

- Đạp lẹ lên Kim! Qua khỏi đoạn này mới có chỗ đụt.

Đứa con gái gật đầu, chồm lên nhấn mạnh bàn đạp, nhưng chỉ vài phút sau mưa đã rơi lắc rắc xuống hai đứa làm chúng nó cười lên hăng hắc, cái cười hồn nhiên thanh thoát khi thấy mình bị mưa đuổi kịp, cái cười còn nguyên nét trẻ con trong trò chơi “cút bắt”! Chúng nó vội tấp vào mái hiên một tiệm giày. Sau khi dựng xe đạp lại ngay ngắn, Kim nhìn bạn, hơi ân hận:

- Tại Nghĩa đợi Kim mới bị mưa ướt đó. Phải hồi nãy Nghĩa đạp đi trước thì đâu có sao?

Đứa con trai tên Nghĩa vừa nhìn quanh vừa trả lời, người hơi lắc qua lắc lại giống như cành cây đong đưa trong cơn gió thoảng:

- Mình đi chung mà Kim.

Nghe bạn nói, Kim yên lặng nhìn ra mưa mà nghe lòng thật ấm cúng. Sự nhạy cảm của người con gái ở tuổi đó đã giúp Kim nhận thấy một tình yêu nho nhỏ đang nhen nhúm giữa hai đứa, một “cái gì” vừa nhẹ nhàng vừa tinh khiết, mà lại vừa thật là rung động. Một “cái gì” cứ bắt phải cần có nhau; một “cái gì” cứ bắt phải nghĩ đến nhau. Một “cái gì”... Một “cái gì”... Không biết nữa! Kim cảm thấy nóng hai vành tai. Kim nhìn xuống chiếc áo bà ba trắng đang dán vào người từng mảng nhỏ. Tự nhiên, Kim khoanh tay lại che ngực, rồi tự trách thầm: “Phải nghe lời má đội nón thì bây giờ đã có cái gì để ôm cho đỡ ngượng. Con gái gì mà đi đâu cũng đầu trần! Cho đáng...”. Thật ra, Kim thấy đội nón bực bội quá, cứ nghe ngứa ngáy trên đầu như mấy ngày chưa gội và sau đó khi lấy nón ra tóc cứ như bị dán keo nằm nhẹp xuống coi thật chướng mắt. Cho nên, thảng hoặc có đi đâu với má thì Kim cầm theo cái nón lá cho khỏi bị rầy, kỳ dư là đi đầu trần – dù đi học hay đi lao động cũng vậy. Thành ra, tóc Kim bồng lên thật đẹp, đen huyền xõa xuống ngang vai, chao qua chao lại khi Kim nghiêng đầu và lúc nào cũng tự do phất phơ theo chiều gió. Mấy thằng bạn cùng lứa – nhứt là Nghĩa – thường hát ghẹo: “Nắng lên, gió lên cho tóc em bồng...” Và Kim thấy hãnh diện với “mái tóc em bồng”  đó.

Cơn mưa thật lớn. Vỉa hè, mặt đường... đều lai láng nước. Làm như là nước từ dưới đất dâng lên!

Bên kia đường là nhà thờ Tân Định với bức tường cao kéo dài. Bên này, chỗ nào có mái hiên là có người đứng đụt. Cách chỗ hai đứa đứng vài căn phố là tiệm nước mà phía trước là chiếc xe mì với hàng ghế đẩu đứng trong mưa chờ khách.

Mái hiên chỗ hai đứa đụt bỗng nghiêng triền qua một bên, đổ ào nước xuống như một dòng thác. Không bảo nhau mà cả hai đứa cùng nhảy lùi vào trong và cùng đứng về phía mái hiên không đổ nước. Khoảng trống không bị ướt dưới mái hiên bây giờ thu hẹp lại chỉ còn một góc nhỏ vừa đủ cho hai đứa đứng. Không đứng sát vào nhau, nhưng đứng thật gần nhau...

Nghĩa quay nhìn phía sau: cửa lưới sắt tiệm giày đóng im lạnh ngắt. Bên trong tủ kiếng, kệ hàng trống bốc, bụi đầy. Nhìn sang Kim, Nghĩa nói:

- Kim biết không? Ông chủ tiệm giày này đã đưa gia đình vượt biên cách đây ba bốn tháng...

- Sao Nghĩa biết?

Kim ngạc nhiên, bởi vì nhà Nghĩa ở xóm Chi Lăng, còn đây là chợ Tân Định.

Nghĩa chỉ tay sang nhà thờ:

- Con nhỏ em của Nghĩa học ở trường nhà thờ bên kia. Chiều nào Nghĩa cũng tới đón nó. Trong khi chờ đợi, nghe mấy anh xích lô nói chuyện với nhau mới biết.

- Họ đi thoát không?

- Không biết nữa. Mà không phải có tiệm giày đi thôi đâu. Cả dãy phố này đều lần lượt chui hết. Cho nên nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm, Kim thấy không? Nhà Nước tịch thâu lâu rồi sao không thấy cấp cho ai hết.

Kim nhìn ra mưa, bâng khuâng:

- Không biết họ đi có thoát không?

Im một lúc, bỗng Nghĩa ngập ngừng hỏi nhỏ:

- Gia đình Kim có định... có định... đi không Kim?

Kim nhìn bạn, nửa ngạc nhiên, nửa dò xét. Rồi khi thấy không có gì khác lạ trên gương mặt của người bạn trai, Kim thở dài nhìn ra mưa:

- Gia đình Kim mà đi đâu, Nghĩa! Chạy gạo hằng ngày thì lấy vàng đâu mà đi chui?

Nghĩa bối rối, người hơi lắc lư:

- Thì... hỏi là hỏi vậy thôi, chớ Nghĩa cũng biết...

Ba của Kim làm thầy giáo. Hồi thời “ngụy”, bị động viên, rồi chạy chọt được biệt phái trở về đi dạy học – để khỏi đi đánh giặc. Qua trào Việt Cộng, hai chữ “biệt phái” đã làm cho họ nghi là CIA nên bắt đi học tập từ đó đến giờ. Ở nhà, má và chị Hai của Kim chạy ngược chạy xuôi lảnh đồ về may để nuôi năm miệng ăn và góp nhóm chút đỉnh để lâu lâu đi thăm ba của Kim một chuyến. Cho nên, nói chuyện “lo đi vượt biên” cũng như chuyện xuống biển mò trăng...

Bên gia đình Nghĩa cũng không hơn. Ngày xưa, ba Nghĩa làm kế toán ngân hàng, bây giờ đan giỏ chầm nón ở tổ “Mây Tre” Phú Nhuận với má Nghĩa. Hai ông bà sáng đi tối về, đèo nhau trên xe đạp. Nghĩa và con nhỏ em đi học, tối về dán bao giấy bỏ mối cho mấy bà ngoài chợ gói hàng. Bữa cơm gia đình thường là tương chao hoặc ba  cái trứng luộc dầm nước mắm. Chuyện “vượt biên” đúng là chuyện mò trăng đáy biển!

Bỗng Kim nhìn Nghĩa, một thoáng tinh ranh nằm trong ánh mắt:

- Còn Nghĩa? Có tính đi không?

Nghĩa phì cười, miệng rộng huệch:

- Kim trả thù hả?

Kim cười bằng mắt, nhái lại câu của Nghĩa khi nãy, người cũng nhẹ lắc lư:

- Thì... hỏi là hỏi vậy thôi.

Không bảo nhau mà cả hai cùng phá lên cười, cái cười che giấu sự sung sướng bên trong của mỗi đứa, cái cười của những người cùng cảnh ngộ gặp nhau, cái cười không phải của niềm vui mà là của sự an ủi. Rồi chúng nó nhìn nhau một thoáng, trước khi quay nhìn đi nơi khác để cảm thấy thật gần gũi nhau vô cùng.

Mưa thôi ồ ạt nhưng vẫn chưa dứt hột thì nửa vùng trời đã hé nắng ở đằng kia. Ánh nắng xiên xiên thật sáng, thật trong làm như vừa được mưa lau sạch  bụi! Nắng chiều mà giống như nắng sáng.

Nắng xuyên mưa đổ xuống chỗ Kim và Nghĩa, giống như vệt đèn pha sân khấu. Nghĩa nhìn Kim đứng trong vùng ánh sáng đó bỗng nhớ tới vở kịch thần thoại Liên Xô mà hai đứa đóng trong trường cách đây mấy tháng, trong đó Nghĩa làm người cùng khổ còn Kim là bà tiên áo trắng, mái tóc đầy kim tuyến lấp lánh như kim cương. Bây giờ, những giọt mưa đọng lại trên tóc Kim cũng lấp lánh như kim cương trong tia nắng chiều nghiêng chụp xuống. Đẹp quá!

Kim chợt bắt gặp cái nhìn ngây dại của bạn, nóng bừng hai tai.

- Nhìn gì kỳ vậy Nghĩa?

Nghĩa giật mình, người hơi lắc lư:

- Nghĩa đang nhìn mấy giọt nước trên tóc Kim. Nó... Nó...

Kim mỉm cười, lắc mạnh đầu mấy cái rồi đưa hai tay vuốt tóc tém vào ót. Tóc được gom lại, dính vào nhau thành một cái đuôi cong cong.

Nghĩa tiếp:

- Nó giống như kim cương. Thật giống kim cương. Uổng quá!

- Cái gì uổng?

Kim ngạc nhiên hỏi. Nghĩa đang tiếc rẻ hình ảnh đẹp của Kim khi nãy với những giọt mưa trên tóc, bất ngờ bị hỏi vặn, không biết phải trả lời làm sao. Nghĩa đưa tay gãi ót, chặc lưỡi:

- Thì...

Mắt Nghĩa bỗng sáng lên, mặt hí hửng. Một ý nghĩ vừa thoáng qua trong đầu, Nghĩa chụp lấy như người sắp chết đuối chụp lấy cái phao:

- Uổng quá chớ! Nếu là kim cương thiệt thì Kim dư sức đưa gia đình đi vượt biên rồi.

Rồi Nghĩa cười lên ha hả, cái cười của người vừa thoát nạn. Kim cũng cười theo bạn, nhưng cười vì cái ý nghĩ ngộ nghĩnh bắt nguồn từ những giọt mưa trên tóc.

Trời cũng vừa hết mưa. Đường phố khi nãy vắng tanh, bây giờ đầy người trở lại. Làm như mưa ngừng cho nước rút xuống để rừng người mọc lên! Nghĩa và Kim nhập vào đoàn người đạp xe về ngã Phú Nhuận. Không khí sau mưa mát rượi. Hai đứa đều có cảm giác như mặt mũi mình vừa được rửa sạch trong cơn mưa.

Đến ngã tư Phú Nhuận, Nghĩa vẫy tay chào bạn:

- Thôi, “bye” nghe Kim.

Rồi cắm đầu đạp nhanh về hướng Gia Định trong lúc Kim quẹo sang trái để về cổng Phi Long.
 

***

Sau bữa cơm tối, ba gọi Nghĩa và con nhỏ em vào buồng, kéo ngồi xuống chiếc chiếu trải dưới đất, vẻ nghiêm trọng, thấp giọng nói:

- Hổm rày ba má giấu tụi con. Bây giờ, tới lúc phải cho tụi con biết. Khuya nay mình vượt biên.

Nghĩa cảm thấy choáng váng mày mặt, mồ hôi đổ ra như tắm. Trước mắt Nghĩa bỗng là một khoảng trống không mơ hồ. Nghĩa không còn thấy ba. Nghĩa không còn thấy em. Nhưng Nghĩa còn loáng thoáng nghe tiếng ba nửa xa nửa gần:

- Ba sẽ chở má. Nghĩa chở em. Mình đạp xuống cầu Kinh, bỏ xe ở nhà bác Tám rồi băng ruộng ra bờ sông cách đó chừng năm trăm thước. Ghe chờ ở đó. Tụi con đừng đem gì theo hết. Cứ đi tay không như mình đi thăm bác Tám vậy. Hiểu chưa?

Nghĩa gật đầu như người máy, nhưng Nghĩa không hiểu. Thật tình không hiểu! Ba má vẫn hay than vắn thở dài: “Phải chi nhà mình có chút đỉnh gì để liều một chuyến vượt biên như thiên hạ coi ra sao”. Khi gặp bạn bè, ba thường chép miệng: “Tôi mà biết bị kẹt lại như vầy, tôi đã đưa gia đình di tản cha nó hồi bảy mươi lăm rồi! Bây giờ thì thôi. Đành muôn năm ở lại với Bác!”. Vậy mà bây giờ... bây giờ... Nghĩa không hiểu! Thật tình không hiểu! Mới hồi nãy đây, còn đứng đụt mưa chung với Kim, còn đùa nhau về chuyện vượt biên – lý do để hai đứa thấy gần nhau hơn nữa – còn đạp xe song song trên đường dài – dù đường dài có dài thăm thẳm chắc hai đứa lúc nào cũng đạp xe song song... Vậy mà bây giờ... bây giờ... Sao nó giống như ngã tư Phú Nhuận, mỗi đứa đi về một hướng, hai hướng ngược nhau trên một đường thẳng, nghĩa là chẳng bao giờ gặp lại nhau  dù có kéo mãi về vô tận. Và những giọt mưa trên tóc. Ờ... những giọt mưa trên tóc! Những gì hồi nãy mới thấy đây, mới hiện diện đây, những rung động, những cảm nhận thật rõ ràng mới đây, hồi nãy, khi đứng đụt mưa với Kim dưới mái hiên tiệm giày... bây giờ sao giống như giọt mưa trên tóc, chỉ một cái lắc đầu đã rơi mất trong không gian! Còn Kim?... Kim?... Kim sẽ làm sao? Một câu hỏi thật ngớ ngẩn nhưng nói lên chiều sâu của tình yêu vừa chớm, thứ tình yêu chưa rõ nét như bước chân chập chững của trẻ thơ, thứ tình yêu còn thơm mùi giấy mực học trò, còn thật thà như đọc cửu chương hai! Nghĩa bỗng thấy cần phải gặp Kim. Gặp ngay bây giờ. Không biết để làm gì, nhưng phải gặp. Không biết sẽ nói cái gì, nhưng cứ gặp trước cái đã. Có một cái gì thúc đẩy từ bên trong. Có một cái gì kêu gọi từ bên ngoài. Nghĩa không hiểu nữa. Cảm thấy thật cần thiết, thật cấp bách!

Nghĩa bước ra phòng khách, với tay lên kệ lấy đại hai quyển sách gì đó rồi nói với ba đang soạn giấy tờ trên bàn:

- Con đem trả sách cho thằng Tuân.

Khi thấy ba nhìn mình soi mói, Nghĩa tiếp:

- Trả cho nó học.

Ba gật đầu:

- Ờ... Nhưng ba cấm con nói “chuyện đó” với bất cứ ai, dù là bạn thân cũng vậy. Nghe chưa?

Nghĩa gật đầu, đẩy xe đạp ra sân. Ba nói với theo:

- Trả rồi về ngay nghe con, Nghĩa.

Nghĩa "dạ" rồi phóng lên xe, đạp thật nhanh. Trên đường Phan Đăng Lưu (Chi Lăng cũ), Nghĩa ném hai quyển sách vào một đống rác rồi đi thẳng.

Nhà Kim ở xóm cổng Phi Long. Nghĩa vẫn quen lui tới. Vậy mà bây giờ sao thấy nó xa thăm thẳm. Mặc dù xe đã lao nhanh nhưng Nghĩa vẫn có cảm tưởng như hãy còn quá chậm. Nghĩa vừa nhấn mạnh bàn đạp vừa nghĩ miên man: “Không biết phải nói làm sao đây? Ba đã cấm thì mình làm sao nói? Mà không nói làm sao Kim hiểu? Không biết mình đi có thoát không? Rồi cuộc đời sẽ ra sao? Không có Kim mình sẽ ra sao? Còn Kim? Kim sẽ ra sao? Ra sao?... Ra sao?...”. Thật nhiều câu hỏi để không có được một câu trả lời. Người con trai đó cảm thấy thật chơi vơi, tất cả đều vuột khỏi tầm tay, tất cả đều vượt khỏi tầm suy luận của nó, nó không hiểu được gì hết, không chủ động được chuyện gì hết! Lần đầu tiên, người con trai đó nhận thấy cuộc đời này quá nhiều rắc rối chớ không đơn giản như những bài toán ở trong trường, mà mình thì giống thằng học trò dốt nhìn tấm bảng đen thấy nó rộng bằng cái sân banh...

Khi Nghĩa vừa thắng xe trước cổng nhà Kim thì con chó chạy ra sủa mấy tiếng rồi chồm lên cửa sắt vẫy đuôi mừng. Có tiếng má của Kim hỏi vọng ra:

- Ai đó?

- Dạ thưa cháu.

Nghĩa trả lời.

- Nghĩa hả? Đi đâu tối vậy?

Rồi đèn dưới hiên được bật lên, một bóng đèn nhỏ xíu tỏa ánh sáng vàng vọt như ánh sáng cây đèn dầu. Má của Kim bước ra mở cổng:

- Cháu ngồi chơi. Em nó tắm rồi ra bây giờ. Bác còn phải vô may tiếp mớ đồ để mai giao...

Nghĩa “dạ”, rồi dựng xe vào tường rào. Con chó chạy lại quắn quýt mừng rồi chạy vào trong sủa mấy tiếng như để báo là nhà có khách! Nghĩa nhìn quanh: nhà vắng teo, chỉ nghe có tiếng máy may xành xạch đều đều. Nghĩa nghĩ: “Chắc mấy đứa nhỏ về dưới quê hết rồi. Chớ không thì đã chạy ào ra mừng như mọi khi”. Sân nhà Kim tuy nhỏ nhưng tráng xi măng sạch sẽ. Ở góc sân có cây mận khá lớn, tàng gie ra phủ lấy sân như cây lộng. Dưới gốc mận, có mấy gộc củi to đặt đứng để làm ghế ngồi. Trên thân cây mận, hãy còn treo mấy giỏ phong lan mà ba của Kim trồng hồi đó.

Khi Nghĩa vừa ngồi xuống cạnh gốc mận thì Kim cũng vừa bước ra hiên nhà. Tóc Kim chải ngược về phía sau, để lộ khuôn mặt đều đặn với đôi mắt ngời tinh anh. Kim dừng ở hiên một chút... như để định hướng, rồi mới bước tiếp ra sân. Chỉ trong một thoáng đó thôi – một thoáng dừng lại của Kim – Nghĩa bỗng thấy không gian chìm mất chỉ còn lại gương mặt của người bạn gái là hiện hữu, là sinh động, là rạng rỡ... Nghĩa thấy gương mặt đó thật rõ, thật sáng. Thấy mái tóc hãy còn láng nước, tóc mai còn dán vào má vào tai. Thấy vầng trán rộng, thấy đôi mày dài. Thấy ánh sao trong mắt, thấy nét cười phớt nhẹ làn môi... Chỉ trong có một giây thật ngắn ngủi – như một chớp mắt – mà sao ngần đó nét, ngần đó chi tiết được Nghĩa nhìn thấy hết, thâu nhận rõ hết. Phải chăng đó là hình ảnh của Kim mà Nghĩa muốn ghi lần cuối cùng vào tim vào óc? Ghi lấy để giữ lấy mãi mãi, bởi vì, sẽ không còn có lần nào khác nữa để Nghĩa được nhìn Kim như bây giờ...

Kim vừa bước về hướng Nghĩa, vừa hỏi:

- Ủa? Đi đâu mà tối vậy Nghĩa?

Yên lặng. Từ cái thoáng dừng lại khi nãy của Kim, từ cái thoáng đặt hết tâm tư vào gương mặt của người bạn gái, Nghĩa không còn cảm nhận được sự hiện diện của mình. Tiếng của Kim, Nghĩa nghe loáng thoáng như trong chiêm bao.

Nghĩa chỉ sực tỉnh khi Kim đã ngồi đối diện. Người con gái đó có dáng ngồi thật thẳng, thật ngoan, thật dễ thương với hai bàn tay đặt nằm thoai thoải trên đầu gối. Ở Kim, toát ra một cái gì vừa tươi mát vừa tinh khiết, lại vừa trầm lặng với sức sống căng đầy. Nghĩa cảm thấy bối rối, không biết phải nói cái gì, nói làm sao, rồi miên man nghĩ: “Chắc Kim sẽ buồn lắm khi nghe mình nói. Chắc Kim cũng sẽ... cũng sẽ đau khổ lắm khi biết mình đi. Bây giờ còn ngồi đây với nhau chớ lát nữa đây, rồi ngày mai, rồi mãi mãi sẽ không còn gặp nhau nữa. Vĩnh viễn không gặp nhau nữa. Vĩnh viễn... Vĩnh viễn...”. Nghĩa thấy thương Kim. Nghĩa thấy thương Nghĩa. Nghĩa thấy thương hai đứa. Nghĩa muốn khóc! Nghĩa không dám nhìn thẳng mặt Kim. Nghĩa nhìn đôi bàn tay thon nhỏ của Kim, đôi bàn tay ngoan hiền nằm trên đầu gối. Đôi bàn tay đó đã từng vẫy gọi Nghĩa trong đám đông, đã từng vỗ vào nhau thành nhịp khi Nghĩa đàn, và một hôm, đã từng kết lại giùm Nghĩa cái nút áo, sau một lần vật lộn với bầy em của Kim. Đôi bàn tay đó, rồi đây, suốt cuộc đời về sau, Nghĩa sẽ không còn được cầm lấy, nắm lấy, hay nhìn thấy, dù là trong giấc mộng. Không tự chủ được, Nghĩa nghiêng người tới cầm lấy hai bàn tay của Kim. Một cử chỉ thật đột ngột làm Kim sửng sốt định rút tay về, nhưng khi thấy Nghĩa chẳng có nét gì sỗ sàng nên để yên. Nghĩa giữ tay Kim trong tay mình như giữ một vật gì đẹp nhứt, quí nhứt của cuộc đời này. Như hơi thở. Như nhịp tim. Như tình yêu... tình yêu... tình yêu...

Yên lặng. Nghĩa ngồi như pho tượng. Lưng khom khom, đầu chúc xuống, cùi chỏ chống lên đùi làm hai vai nhô lên. Kim không nhìn thấy mặt Nghĩa, nhưng Kim “nhìn” thấy tâm tư của Nghĩa trong đôi bàn tay và trong dáng ngồi của bạn. Đôi bàn tay muốn nắm thời gian ngừng lại và dáng ngồi nói lên niềm thống khổ vô biên...

Yên lặng. Rồi có tiếng Kim hỏi, thật trầm tĩnh: "Nghĩa đi hả?"

Không có tiếng trả lời. Nhưng Nghĩa gật gật đầu, cái đầu đã ở sẳn tư thế cúi thấp xuống của một người nhận chịu số phận! Rồi vai Nghĩa bỗng run run, Nghĩa gục xuống tay nấc lên khóc. Bấy giờ – và chỉ bấy giờ – những ngón tay của hai đứa mới đan vào nhau, tự nhiên đan vào nhau, giữ lấy nhau, giữ chặt lấy nhau. Không biết tại sao? Không biết để làm gì? Mà cần gì phải biết, khi tất cả đều vô nghĩa? Vô nghĩa!

Yên lặng. Không gian không còn nữa. Thời gian không còn nữa. Vũ trụ bây giờ nằm trọn trong lòng tay hai đứa, một vũ trụ rách nát, đau thương. Ở đó, giữa những ngón tay đan chặt vào nhau, tình yêu vừa mới sinh ra, còn măng non nhưng sao đã thấy già nước mắt....

Yên lặng. Kim không khóc. Kim vẫn ngồi thẳng, nhìn thẳng, tuy tâm hồn đã tê dại. Phải một lúc lâu sau, thật lâu sau, Kim mới trở về với chính mình để nhận thấy rằng bỗng nhiên mình già đi mười mấy tuổi! Kim nhìn xuống Nghĩa, chỉ thấy cái đầu tóc ngắn, cái ót gầy gầy, đôi vai nhô cao. Hình ảnh cuối cùng của Nghĩa là đây chăng? Người con trai có đôi mắt xếch xếch, có cái cười rộng huỵch làm cho một bên má lúm đồng tiền, người con trai đã làm Kim rung động, người con trai đã làm Kim xao xuyến, người con trai đó, bây giờ, Kim chỉ nhìn thấy được có cái ót và đôi vai thôi! Rồi mai mốt... mai mốt... Một chua xót đang trạo trực dâng lên. Kim cắn môi kềm lại. Yên lặng...

Một lúc sau, Kim hỏi, giọng lạc đi:

- Chừng nào?

Nghĩa ngồi thẳng lên, tay vẫn không rời tay Kim, mặt còn đầy nước mắt, giọng cũng lạc đi:

- Khuya!

Kim nhìn gương mặt méo mó vì đau khổ của Nghĩa bỗng nghe xúc động dạt dào. Kim muốn chồm tới ôm lấy Nghĩa, ôm lấy gương mặt đầy nước mắt đó áp vào má mình, ôm thật chặt, xiết thật chặt, để mọi niềm đau được cùng chia sớt, để mọi nỗi hận được cùng xẻ đôi. Nhưng Kim gượng lai, gượng lại vì lễ giáo, và gượng lại vì sợ không rời nhau ra được nữa... Trào lòng dâng dậy miên man, Kim nhắm nghiền mắt lại, siết những ngón tay của Nghĩa, siết với hết sức mình, siết thật mạnh, siết thật đau, siết như để nén một trời thống khổ, siết như để bóp vỡ một cái gì uất nghẹn trong tim, siết như đang cố gắng nuốt một liều thuốc đắng, siết như... siết như để chia tay lần cuối trước khi lìa đời… Kim cắn răng để đừng bật khóc!

Yên lặng. Lâu sau, Nghĩa buông tay Kim đứng lên, lủi thủi lại lấy xe đạp. Kim bước theo, nhẹ như một cái bóng. Kim mở cổng, tiếng cổng rỉ sét rên lên. Nghĩa dẫn xe ra, không dám nhìn lại cũng không dám nói một lời, chỉ phóng lên xe đi thẳng. Kim đóng cổng, cổng sắt lại rên lên trước khi kêu cái rầm khô khan. Kim có cảm tưởng như mình vừa bị nhốt trong tù. Ngoài kia, đã là một thế giới khác.

Khi Kim bước lên cầu thang để lên gác – cái gác lửng ba làm cho Kim ngủ và học riêng một mình trên đó – Kim bỗng nghe hai chân mình yếu đi, chẳng còn chút sức lực nào hết. Kim cố bám từng nấc thang, mồ hôi đổ ra như tắm. Lên đến bên trên, Kim chỉ còn đủ sức gieo mình xuống giường, úp mặt xuống gối, khóc ngất... Bao nhiêu nước mắt trần gian xin gởi hết cho Kim, người con gái mang tâm trạng người góa phụ.
 

***

Trời mưa Paris. Ở đây không có “mưa rồi chợt nắng” như ở Sàigòn. Ở đây, mưa không ngập tràn cống rãnh, mưa không đưa rác trôi quanh phường phố. Cũng không có trẻ con cởi truồng chạy giỡn trong mưa. Cho nên, chẳng có gì để gợi nhớ như mưa Sàigòn...

Nghĩa ngồi một mình uống cà phê trong một bar ở khu Maubert. Hai cô đầm tránh mưa kéo vào ngồi bàn trước mặt. Những giọt mưa trên mái tóc vàng gợi nhớ những giọt mưa trên mái tóc đen của Kim hồi đó. Hồi đó, nghĩa là đã hơn bảy năm. Bảy năm không một tin tức gì hết của Kim, mặc dù đã gởi không biết bao nhiêu thơ, đã nhắn không biết bao nhiêu lời qua bạn bè của hai đứa! Cứ im lìm trống rỗng, làm như những chuyện gì đã xảy ra hồi đó chỉ là một ảo ảnh, một giấc mơ...

Những giọt mưa trên tóc hai cô đầm trước mặt vẫn lấp lánh dưới ánh đèn trong bar càng gợi lại hình ảnh Kim trong lần đụt mưa hồi đó với những giọt mưa trên tóc, rõ ràng như Nghĩa đang nhìn bây giờ. Vậy mà bây giờ….

Nghĩa đốt điếu thuốc. Hít một hơi dài bỗng nghe khói thuốc thật đắng và làm cay chảy nước mắt!

 

Tiểu Tử




Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info