Print Page | Close Window

Về Hàn Mạc Tử

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Thơ Văn
Forum Discription: Những bài văn bài thơ hay
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=4239
Ngày in: 04/Aug/2025 lúc 12:57pm
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: Về Hàn Mạc Tử
Người gởi: HEICHPE
Chủ đề: Về Hàn Mạc Tử
Ngày gởi: 16/Jan/2011 lúc 10:50am
Về câu thơ " Lá trúc che ngang mặt chữ Điền " ? /main/vanhoc/vanthisi/23447-v-cau-th-q-la-truc-che-ngang-mt-ch-in-q-.html - Về câu thơ " Lá trúc che ngang mặt chữ Điền " ? --> /main/vanhoc/vanthisi/23447-v-cau-th-q-la-truc-che-ngang-mt-ch-in-q-.pdf">PDF /main/vanhoc/vanthisi/23447-v-cau-th-q-la-truc-che-ngang-mt-ch-in-q-.html?tmpl=component&print=1&layout=default&page=">Print /main/component/mailto/?tmpl=component&link=aHR0cDovL3NhaWdvbmVjaG8uY29tL21haW4vdmFuaG9jL3ZhbnRoaXNpLzIzNDQ3LXYtY2F1LXRoLXEtbGEtdHJ1Yy1jaGUtbmdhbmctbXQtY2gtaW4tcS0uaHRtbA%3D%3D">E-mail
Tác Giả: Nguyễn Khôi   
Thứ Tư, 22 Tháng 12 Năm 2010 19:27

Kể từ khi Tử viết bài thơ "Đây thôn Vỹ DẠ " gứi Cúc đến nay đã được 71 năm...mà cái "án" văn chương này còn biết bao điều kỳ bí để người đời tốn biết bao bút mực (hàn mặc) bàn tán về Nó ?

Đấy là cái duyên thơ, cái "son phấn có thần,thơ vô mệnh" cho dù người viết tặng và người được tặng đã đi vào thiên cổ nhưng Thơ thì vẫn cứ làm # - day dứt lòng người yêu Nó ?

                     Thi sĩ Hàn Mạc Tử

 Nguyên tác bài thơ là "Ở ĐÂY THÔN VỸ GIẠ" - Thi sĩ viết khi đang nằm trên giường bệnh(1939) là lúc Hàn Mạc Tử đang đau khổ lánh mình với nguồn thơ tuôn 2 dòng lệ...rồi chết sau đấy đúng 1 năm tròn ! Đây là tình yêu đơn phương của Tử với Hoàng Thị Kim Cúc( bút danh "Hoàng Hoa thôn nữ")-HMT sinh 22/9/1912 Nhâm tý.HTKC sinh 5/12/1913 Quí sửu- trai hơn 1 đẹp đôi, nhưng Nhâm/quí thì thôi rồi...Số là mùa hè năm 1939 Cúc nể tình Người em họ ( Hoàng Ngâm- bạn thân của Tử) khuyên " Chị nên viết thư thăm Tử(mặc dù không yêu) hãy an ủi 1 tâm hồn đau khổ" thay vào viết thư, Cúc đã gửi 1 bức ảnh chụp phong cảnh nhỏ vừa bằng cái Carte Visite. Trong ảnh có mây có nước,có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò,có mấy khóm tre ( không có cau),có cả ảnh ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước...Cúc viết mấy lời thăm sức khỏe sau bức ảnh mà không ký tên,rồi nhờ Ngâm trao cho Tử.Sau đó 1 tháng Cúc nhận được 1 bì thư trong đó có bài thơ " Ở đây thôn Vỹ Giạ" cũng do Ngâm gửi về cho chị.Đây là một sự "không ngờ" về sức tưởng tượng phi thường của Thi nhân quá khác thường: đã  biến bức ảnh thành hình ảnh Bến sông Thôn Vỹ Giạ lúc hừng đông hay đêm trăng, trong đó có cả Cô gái "lá trúc che ngang ..." làm người ta liên tưởng là cô gái đó mặc áo trắng vì câu "áo em trắng quá nhìn không ra" rất ảo huyền viễn mộng...Bài thơ Tử ký 11/1939.

Ở ĐÂY THÔN VỸ GIẠ

Sao anh không về chơi thôn vỹ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp # - lay
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?

Bài thơ mở đầu như "thác" lời của Cúc gửi Tử, rồi là niềm tâm sự của thi nhân với " ý trung nhân" - "mặc Nàng không yêu, ta cứ yêu" Nàng Thơ của lòng ta ?. Bài thơ có 2 cái đáng chú ý :

 *-1, Nguyên tác "Ở đây thôn Vỹ Giạ". Chữ"Ở"  Thi sĩ dùng có chủ ý nhằm nhấn mạnh cái tên Thôn Vỹ "ở đây sương khói mờ nhân ảnh" (tình yêu với Cúc chỉ là ảo, sương khói mà thôi...).

*-2, Về Cô gái  trong "Lá trúc che ngang mặt chữ Điền" đó là cô gái do sức tưởng tượng của Thi nhân mà hiện ra thôi "...Nay ta xem lai di ảnh Nhà Giáo- cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc (1913-1989) thì đúng là Cúc có khuôn mặt chữ ĐIIỀN phúc hậu...chứ không phải như ai đó (Thang Ngọc Pho và V,V...) quả quyết đó là chữ ĐIỀN- Hán tự đắp nổi ở "mặt trước phía trên cổng các nhà Quí tộc Huế " hay ở các tấm bình phong trước nhà...

Cảm thương về chàng Thi sĩ tài hoa từng thầm yêu trộm nhớ mình,nay đã khuất..."Hoàng Hoa thôn nữ" đã âm thầm viết bài thơ ( và ở vậy suốt đời ?) :
 

ĐỀ TẶNG HƯƠNG HỒN ANH HÀN MẠC TỬ

Bao năm Hoa sống nơi thôn Vỹ
Thầm giữ trong lòng một ý thơ
Cũng biết cách xa ngoài vạn dặm
Tình anh lưu luyến cảnh quê mơ

Một mình một cõi với trời mây
Với cả đau thương với hận này
Anh khéo lột hết tài nghệ sĩ
Tiếng vang muôn thuở vẫn còn đây

Hồn anh lẩn khuất ở đâu xa
Hoa biết cùng ai thổ lộ ra
Tuy sống giữa cảnh đời náo nhiệt
Tình ai ai vẫn cứ đậm đà.
       Đầu xuân Tân tỵ-1941
            Hoàng Hoa

NK tôi vốn yêu thơ Hàn Mạc Tử từ khi còn đi học, mùa hè năm 2006 vào Huế đến Thôn Vỹ Giạ tìm dấu Người xưa, cảm tác :

HỌA THƠ THÔN VỸ

Đã bao người họa Thơ Thôn Vỹ ?
Dù mới ngang qua đã chạnh lòng
Thoáng nét thôn xưa chừng bỡ ngỡ
Gieo chút buồn xưa để bâng khuâng

Sao không về lại...ai kia nhỉ ?
Cứ như Lá trúc chắn nẻo về
Thà cứ là mây theo lối gió
Xin mãi là Trăng trong mộng mê

Ừ,sao ta không về Thôn Vỹ ?
Tìm dấu Người xưa để ngẩn ngơ
Tình như sương khói mờ nhân ảnh
Để vẩn vơ hoài Thơ với Thơ.

                Huế 6-2006
          




Trả lời:
Người gởi: hoangngochungdn
Ngày gởi: 17/Jan/2011 lúc 5:15am

mối tình

Hàn Mạc Tử – Hoàng Thị Kim Cúc
và bài thơ “Ở đây thôn Vỹ Dạ”
 
 
 
http://gdptductam.com/wp-content/uploads/2011/01/1288167047.thotre.jpg">1288167047.thotre%20Sự%20thật%20về%20mối%20tình%20Hàn%20Mạc%20Tử%20%20%20Hoàng%20Thị%20Kim%20Cúc%20và%20bài%20thơ%20Ở%20đây%20thôn%20Vỹ%20Dạ%20***%20GĐPT%20Đức%20Tâm%20%20%20gdptductam.com

Nhà giáo, cư sĩ Hoàng Thị Kim Cúc

 

Hàn yêu đơn phương Kim Cúc và nhan đề chính xác hai áng thơ kia là Ở đây thôn Vỹ Dạ và Sao, vàng sao.

Giai đoạn 1928-1930, Nguyễn Trọng Trí – sau trở thành nhà thơ Hàn Mạc Tử(1) – về Huế nội trú tại trường Pellerin(2) để dùi mài đèn sách hai niên khóa cuối bậc tiểu học (3). Sau khi đỗ kỳ thi tiểu học yếu lược vào tháng 6/1930, Nguyễn Trọng Trí được cấp bằng Certificat d’études primaires franco-idigènes/Pháp Việt sơ học văn bằng ngày 26/12/1930. Kế đó, Nguyễn Trọng Trí vào phố biển Quy Nhơn, sống cùng gia đình. Năm 1932, chàng xin làm tập sự tại Phòng Địa chính Quy Nhơn trực thuộc Sở Địa chính tỉnh Bình Định – cơ quan được dân gian thuở bấy giờ quen gọi là Sở Đạc điền. Nguyễn Trọng Trí được phân công làm thư ký công nhật ở bộ phận bảo tồn điền trạch.

Soạn Đôi nét về Hàn Mạc Tử(4), Quách Tấn ghi nhận: “Khi Tử làm Sở Đạc điền Quy Nhơn, Tử có yêu một thiếu nữ ở cùng một con đường – đường Khải Định(5) – biệt hiệu là Hoàng Cúc.”

Hàn Mạc Tử – Hoàng Hoa: tình đơn phương

Nàng mang họ tên đầy đủ là Hoàng Thị Kim Cúc, ái nữ của Tham tá Hoàng Phùng – thuở nọ đảm trách chức vụ Giám đốc Sở Đạc điền Quy Nhơn. Với nguồn tư liệu hiện thời, tôi chưa hề thấy Hoàng Thị Kim Cúc mang biệt hiệu Hoàng Cúc bao giờ cả. Biệt hiệu của nàng là Hoàng Hoa. Có lẽ bắt nguồn từ những câu thơ Hàn viết thuở tương tư nàng. Như bài tứ tuyệt Hoa cúc:

Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa,
Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha.
Vẻ mặt khác chi người quốc sắc,
Trong đời tri kỷ chỉ riêng ta
.

Hoặc rõ rệt hơn là trong bài Sao, vàng sao – bấy nay lưu hành dưới nhan đề không đúng bản gốc là Đừng cho lòng bay xa – mà Hàn từng gởi “tiểu thư khuê các”:

Trời nhật nguyệt cầu vồng bắc tứ phía,
Ôi Hoàng Hoa, hồn phách đến nơi đây,
Hương ân tình cho kết lại thành dây,
Mong manh như lời nhớ thương hàng triệu

Sinh thời, Hoàng Thị Kim Cúc thỉnh thoảng cũng sáng tác thơ và ký bút danh Hoàng Hoa, hoặc Hoàng Hoa thôn nữ, hoặc H.H.

Hoàng Thị Kim Cúc chào đời ngày 5/12/1913 nhằm mùng 8/11 năm Quý Sửu. Hàn Mạc Tử chào đời ngày 22/9/1912 nhằm ngày 12/8 năm Nhâm Tý 1912. Khoảng cách tuổi tác như thế, theo quan niệm dân gian quả rất xứng đôi vừa lứa: “Nhất gái hơn hai, nhì trai hơn một”. Lứa thì vừa đấy, song chàng với nàng chẳng hề “đôi lứa xứng đôi” – dẫu chỉ xứng đôi trên tình trường như nhiều người bấy lâu ngộ nhận. Sự nhầm tưởng kia, trớ trêu thay, lại xuất phát từ những hồi ký do thân bằng quyến thuộc của Hàn viết và công bố sau khi Hàn mất!
Để bạn đọc tiện khám phá sự thật vấn đề, tôi xin sao lục mấy lá thư của chính người trong cuộc là Hoàng Thị Kim Cúc.

Thư đề ngày 13/3/1971 gởi Quách Tấn: “Hồi đó Tử thường đến chơi với Hoàng Tùng Ngâm là em chú bác với tôi. Bạn Ngâm đông lắm. Trong gia đình tôi, không ai để ý đến bạn của Ngâm. Câu chuyện http://gdptductam.com/ - tâm tình của Tử, trừ Ngâm ra, cũng không ai biết. Tôi được biết trước khi thầy tôi sắp về hưu, do một người bạn khác nói lại, chứ không phải Ngâm.”

Thư đề ngày 15/4/1971 gởi Quách Tấn: “Hồi ấy tuy nhà Tử ở gần tôi, song Tử và tôi cách xa nhau như hai ngọn núi, Tử thì kín đáo và bẽn lẽn như con gái, còn tôi thì bí mật và xa lạ như cung trăng! Tuy thế Tử cũng đã tìm cách để gặp, nhưng rồi vẫn cũng chưa toại nguyện (…). Năm 1936, khi Tử ở Sài Gòn về Quy Nhơn, tôi vẫn còn ở Quy Nhơn đến mấy tháng sau http://gdptductam.com/gia-dinh-phat-tu/huong-dan-doan-sinh-moi - mới về Huế.”

Thư đề ngày 15/10/1971 gởi Quách Tấn: “Về tuồng cải lương(6) thì tôi được biết do đoàn Dạ Lý Hương đóng vào đầu năm 1970 (hồi đó tôi vào Sài Gòn được nghe nhiều người kể lại, trong đó có bác sĩ Lê Khắc Quyến kể nữa) và lần lượt đã trình diễn trên tivi khoảng mấy tháng sau tại các tỉnh miền Trung. Họ đã diễn tả đúng đoạn văn của ông trong tập http://gdptductam.com/category/tho-van/van - Văn số 73 trang 93. Nghĩa là họ diễn đoạn Tử nhờ người đến cầu hôn bị ông bà thân nhà gái từ chối, hất hủi, vì lẽ Tử không xứng mặt đồng sàng! Cô Cúc không có trong vở tuồng, không xuất hiện trên sân khấu, chỉ có ông bà thân của cô và Tử thôi. Ông bà đã lột hết tài nghệ phơi bày rõ rệt http://gdptductam.com/ - tâm địa của con người chỉ biết tiền, ham danh vọng, khinh miệt người, hống hách… Như vậy, ông đã thấy rõ, vì động chạm sai lạc đến thầy mẹ tôi và Tử nên tôi http://gdptductam.com/gia-dinh-phat-tu/huong-dan-doan-sinh-moi - mới lên tiếng, chứ không phải vì tôi!”

http://www.thotre.com/uploads/spaw2/images/Thu-Han-Mac-Tu.jpg">Thu%20Han%20Mac%20Tu%20Sự%20thật%20về%20mối%20tình%20Hàn%20Mạc%20Tử%20%20%20Hoàng%20Thị%20Kim%20Cúc%20và%20bài%20thơ%20Ở%20đây%20thôn%20Vỹ%20Dạ%20***%20GĐPT%20Đức%20Tâm%20%20%20gdptductam.com
Thủ bút Hoàng Thị Kim Cúc trong thư đề ngày 16/10/1987 gởi Nguyễn Bá Tín.

Thư đề ngày 16/10/1987 gởi Nguyễn Bá Tín – em ruột Hàn: “Vào đầu năm 1936, sau khi ông trợ Cát là cậu tôi ghé nhà chơi, lúc ra về bỏ quên thư của Tử gởi cho cậu tôi mà nội dung chỉ nói về chuyện http://gdptductam.com/ - tâm tình của Tử. Tử có tới gặp tôi 2 lần. Lần đầu chỉ nói bâng quơ vài câu rồi chào về. Lần thứ hai, Tử mạnh dạn trong dáng điệu rụt rè, lắp bắp mấy lời tỏ tình, rồi đưa tặng tôi tập thơ Bâng khuâng với mảnh giấy nhỏ có mấy hàng chữ. Tôi bàng hoàng rồi cũng rụt rè từ chối, không nhận sách, không nhận thư (…). Gần cuối năm 1936, khi Tử về dự hội chợ Huế, mang theo một xấp Gái quê vừa in xong, có gặp tôi cùng đi với anh em tôi trong hội chợ. Tử đưa tặng anh em tôi mỗi người một tập, có đề chữ tặng, không tặng tôi mà chỉ yên lặng nhìn! Mấy hôm sau, Ngâm cho biết: Tử có về nhà tôi ở Vỹ Dạ mà lại đứng ngoài ngõ nhìn vô, rồi từ đó chúng tôi không gặp nhau, lại không thư từ, thăm viếng, hứa hẹn, mỗi người một ngả, cách xa nhau như hai ngọn núi (…). Nếu không có bức thư ông trợ Cát để quên ở nhà tôi thì có lẽ tôi vẫn dửng dưng vô sự. Và Ngâm cũng không nói gì với tôi về mối tình của Tử. Ngâm thấy không thể giấu được nên http://gdptductam.com/gia-dinh-phat-tu/huong-dan-doan-sinh-moi - mới kể đại khái rằng: ‘Trí nó cảm chị lâu rồi, từ hôm chị bán gian hàng ở hội chợ của Tòa sứ Quy Nhơn tổ chức (…). Trí đã nhờ Ngâm đưa thư cho chị, Ngâm không đưa. Trí nhờ nói với chị về nỗi lòng, Ngâm từ chối. Trí làm thơ tặng chị đăng trong báo Phụ nữ tân văn, Ngâm cắt mấy bài thơ rồi http://gdptductam.com/gia-dinh-phat-tu/huong-dan-doan-sinh-moi - mới đưa báo cho chị (…). Thật tội cho thằng Trí! Nó kể cho em nghe nhiều nhiều, mà Ngâm đâu có nói gì với chị, vì Ngâm không muốn làm bận rộn http://gdptductam.com/ - tâm trí chị, khi thấy chị chưa nghĩ gì về chuyện yêu đương!’. Thật thế, lúc đó tôi đã 21 tuổi rồi(7) mà sao còn quá ngơ ngác!”

Thư đề ngày 11/5/1988 gởi Hoàng Toại – anh cả của Hoàng Thị Kim Cúc: “Lâu nay em chưa có dịp kể cho anh nghe và em cũng không kể cho ai hết, tuy thế đã có nhiều người biết chuyện, biết qua sách báo sai lạc, biết qua sự phỏng đoán và tưởng tượng của họ. Câu chuyện xảy ra trên nửa thế kỷ rồi anh nợ, em cũng im lặng cho nó đi qua, vì câu chuyện thuộc về dĩ vãng. Không ngờ mấy năm sau đây mấy nhà viết sách tìm tòi moi móc, moi những chuyện không đúng sự thật như bài báo của Kiêm Đạt ở bên đó(8) mà anh đã cắt gởi về cho em coi chẳng hạn (…). Hồi em ở Quy Nhơn với ba, Hàn Mạc Tử có để ý đến em, nhờ Ngâm hỏi ý kiến em, Ngâm không hỏi. Anh ấy kiếm cách gặp em kể lể nỗi niềm, em thấy trước là câu chuyện không đi đến đâu nên từ chối. Câu chuyện chỉ có chừng nấy, em yên trí là không liên quan gì với nhau nữa, không dè thi sĩ cứ thầm yêu trộm nhớ, làm thơ rồi nhờ bạn bè tặng sách báo cho em, em vẫn cứ im lặng, không trả lời trả vốn (…). Sau khi Hàn Mạc Tử qua đời, Ngâm http://gdptductam.com/gia-dinh-phat-tu/huong-dan-doan-sinh-moi - mới kể rành mạch nỗi lòng của Hàn Mạc Tử đối với em. Em hết sức cảm kích và vô cùng ngậm ngùi. Anh có nhớ hồi anh làm ở văn phòng nào đó, ông Trần Tái Phùng cũng làm một chỗ với anh, một hôm anh đi làm về, đưa cho em một tờ giấy nhỏ có ghi hai câu thơ của Hàn Mạc Tử do ông Trần Tái Phùng đưa cho anh đem về hỏi em. Hai câu thơ đó là:

Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá
Muốn ôm hồn Cúc ở trong sương.

Em xem xong chỉ cười mà không trả lời (…). Hôm nay em mới kể câu chuyện tâm tình đó với anh, kể ra cũng quá chậm, song chắc anh cũng hiểu http://gdptductam.com/ - tâm trạng em mà hoan hỷ cho em (…). Kha Anh, Kha Em hay Em Nhỏ thì có biết chuyện, song cũng biết lơ mơ vì em không nói chi hết; mấy em ở trong nhà cũng chỉ biết qua sách báo (…). Trong gia đình, anh là người đầu tiên mà em kể chuyện tâm tình của em”.

Qua trích đoạn năm lá thư của người trong cuộc, ắt bạn đọc đủ cơ sở để kết luận, mối tình đầu Hàn Mạc Tử dành cho Hoàng Hoa chỉ là tình đơn phương. Trao đổi với tôi về chuyện này, một bạn thân của Hàn Mạc Tử là nhà văn Trần Thanh Địch(9) thuở sinh tiền nhận định:

- Năm 1941, ngay sau khi Hàn qua đời, anh Trần Thanh Mại soạn sách Hàn Mạc Tử(10) đã có đoạn kết tiên đoán rất đúng: “Tôi vẫn biết trước, trong một ngày không lâu, người ta sẽ dành nhau cái vinh dự xây dựng cho thi sĩ Hàn Mạc Tử những chiếc thánh giá vĩ đại, đến cả những lăng tẩm nguy nga nữa”. Tham dự một số buổi lễ kỷ niệm Hàn Mạc Tử được tổ chức đó đây trong thời gian qua, chắc anh Phanxipăng đã chứng kiến cảnh mấy phụ nữ tranh nhau tự nhận là “nàng thơ”, là “tình nhân” của thi sĩ quá cố. Thói đời mà! Thế nhưng, chị Cúc thì khác. Chị không nhận những gì mình không có. Tôi cho đó là đức tính trung thực đáng quý. Và nhiệm vụ của các cây bút ngày nay là hãy cố gắng đem “cái gì của César trả lại cho César.”

Thiết tưởng cần soi sáng thêm đôi điểm về nhân thân Hoàng Thị Kim Cúc cùng một vài nhân vật liên quan từng được đề cập trong năm bức thư trên. Biết đâu đôi điểm này lại có khả năng là một trong những “chìa khóa” giúp chúng ta “giải mã” phần nào hành trạng và tác phẩm của Hàn thi sĩ.

Nhiều người dân Huế hiện tại vẫn còn nhớ Hoàng Thị Kim Cúc ít nhất ở hai cương vị, nhà giáo và nữ cư sĩ.(11) Lật lại các tuyển tập Đồng Khánh mái trường xưa do Ban Liên lạc cựu học sinh Đồng Khánh, Huế, nay là Trường Trung học Phổ thông Hai Bà Trưng, thực hiện từ năm 1992 trở đi, chúng ta bắt gặp những dòng hồi ức của bao thế hệ học trò về “hình ảnh dịu dàng, vóc dáng nhỏ nhắn, vui vẻ ân cần nhưng cũng rất nghiêm khắc của cô Hoàng Thị Kim Cúc, cô giáo đầu đàn của bộ môn nữ công gia chánh thời ấy”(12). Hoàng Thị Kim Cúc cũng là tác giả bộ sách Món ăn nấu lối Huế(13) được nhiều người đọc và áp dụng.

Thời ấy, nếu Hoàng Thị Kim Cúc đến Trường Đồng Khánh được các nữ sinh kính cẩn thưa “cô”, thì lúc ra đường, Hoàng Thị Kim Cúc thường được nhiều thanh thiếu niên gọi thân tình bằng “chị”. Đó là cách xưng hô phổ biến của mọi đoàn sinh đối với các nữ huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam(14). Chị Cúc là huynh trưởng với chức vụ Phó ban Hướng dẫn Trung ương Gia đình Phật tử Việt Nam, phụ trách ngành nữ từ năm 1947. Như vậy, cư sĩ không chỉ tu tại gia mà còn tích cực hoạt động xã hội.

http://gdptductam.com/wp-content/uploads/2011/01/066-cth_hue.jpg">066%20cth%20hue%20300x200%20Sự%20thật%20về%20mối%20tình%20Hàn%20Mạc%20Tử%20%20%20Hoàng%20Thị%20Kim%20Cúc%20và%20bài%20thơ%20Ở%20đây%20thôn%20Vỹ%20Dạ%20***%20GĐPT%20Đức%20Tâm%20%20%20gdptductam.com Tôi gặp chị Cúc lần đầu tại đồi thông chùa Từ Hiếu (Huế) trong hội trại mang tên Hoài Nhân do Gia đình Phật tử Việt Nam tổ chức năm 1974. Sau đó, chúng tôi đôi lần ghé thăm chị ở nhà riêng tại Vỹ Dạ, mà lần cuối cùng là lúc chị nằm thoi thóp trên giường bệnh sau vụ tai nạn giao thông xảy ra tại TP ************ ngày 11/8/1988 rồi được chuyển về Huế ngày 23/9/1988. Ngày 3/2/1989, tức 27 tháng Chạp năm Mậu Thìn, Hoàng Thị Kim Cúc – pháp danh Tâm Chánh – lìa trần, hưởng thọ 76 tuổi. Lễ di quan diễn ra ngày 15/2/1989, nhằm ngày mùng 10 tháng Giêng năm Kỷ Tỵ. Lúc ấy, tôi ở xa Huế nên không dự được. Vậy xin dẫn đoạn tường thuật đám tang Hoàng Thị Kim Cúc do Mai http://gdptductam.com/category/tho-van/van - Văn Hoan viết: “Có lẽ đó là một trong những đám tang lớn nhất ở Huế gần đây mà tôi được biết. Đoàn xe tang nối dài từ Đập Đá đến Trường Quốc Học. Quanh xe tang đính nhiều câu đối ca ngợi phẩm hạnh của bà. Tôi còn phát hiện có những bài thơ của các nhà sư họa lại bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ”(15).

Ngoài ông anh cả là Hoàng Toại định cư ở nước ngoài, Hoàng Thị Kim Cúc còn có mấy người anh ruột tập kết ra Bắc sau hiệp định Genève 1954: Hoàng Xuân Tùy (nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục), Hoàng Hoan Nghinh (nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ta tại Philippines). Người em ruột Hoàng Tế Ngộ ở lại Huế, trước khi quy tiên từng là “thủ từ” trong ngôi nhà mà chị Cúc từng sinh sống.

Anh em chú bác của Hoàng Thị Kim Cúc có Hoàng Tùng Ngâm vốn là bạn thân cùng nguyên quán Thừa Thiên, cùng tuổi Nhâm Tý (1912) và cùng làm chung Sở Đạc điền Quy Nhơn với Hàn. Năm 1954, Hoàng Tùng Ngâm tập kết ra Bắc, đổi tên là Hoàng Thanh Trai và từng làm đại sứ nước ta tại Ai Cập rồi tại Sri Lanka. Tết Bính Thìn (1976) thì mất ở Hà Nội.(9) Năm 1939, chính nhờ “xúc tác” của Hoàng Tùng Ngâm, Hàn đã hứng khởi sáng tạo một số áng thơ tặng Hoàng Thị Kim Cúc – trong đó có Ở đây thôn Vỹ Dạ, một tác phẩm gây nhiều tranh luận lâu nay.

Áng thơ Ở đây thôn Vỹ Dạ – nhan đề nguyên tác cùng một số lời bình

Năm 1992, ba cuộc hội thảo lớn được tổ chức ở Hà Nội và TP ************ nhằm nhìn lại và đánh giá 60 năm phong trào Thơ mới. Ban tổ chức đã đề nghị các nhà thơ, nhà nghiên cứu – lý luận – phê bình bỏ phiếu chọn những bài Thơ mới hay nhất. Kết quả cuối cùng, Ở đây thôn Vỹ Dạ của Hàn lọt vào “top 18”.

Quanh áng thơ nổi tiếng này, lâu nay rộ lên nhiều cuộc tranh luận sôi nổi – nhất là từ khi tác phẩm được Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định đưa vào giảng dạy chính thức trong chương trình lớp 11 bậc trung học phổ thông. Theo dõi các cuộc tranh luận đó, tôi nhận thấy một số chi tiết bị nhầm lẫn rất đáng buồn. Tại sao? Có nhiều lý do. Hai trong những lý do quan trọng là thiếu thực tế và thiếu tư liệu tham khảo cần thiết.

Điều nhầm lẫn phổ biến đầu tiên nằm ở… nhan đề bài thơ! Nguyên tác, Hàn viết Ở đây thôn Vỹ Giạ chứ không phải Đây thôn Vỹ Dạ như sách báo – kể cả giáo khoa và giáo trình – vẫn in. Địa danh có thể chỉnh sửa cho thống nhất chính tả: Vỹ Dạ hoặc Vĩ Dạ thay vì Vỹ Giạ(16). Còn chữ Ở hà cớ gì bị lược bỏ? Nếu muốn gọn hóa tối đa, Ở đây thôn Vỹ Dạ rất dễ biến thành Thôn Vỹ chăng?

Nhà văn Trần Thanh Địch nhận xét:

http://gdptductam.com/wp-content/uploads/2011/01/4ae7ca3.jpg">4ae7ca3%20215x300%20Sự%20thật%20về%20mối%20tình%20Hàn%20Mạc%20Tử%20%20%20Hoàng%20Thị%20Kim%20Cúc%20và%20bài%20thơ%20Ở%20đây%20thôn%20Vỹ%20Dạ%20***%20GĐPT%20Đức%20Tâm%20%20%20gdptductam.com - Chữ Ở được Hàn dùng có chủ đích. Đọc kỹ bài thơ mới thấy chữ đó nhấn mạnh đến thôn Vỹ: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh. Tùy tiện “biên tập” cả “title” mà không được tác giả ưng thuận là tối kỵ. Chuyện như vậy xảy ra không ít đối với tác phẩm của Hàn! Như bài Sao, vàng sao – một bài thơ khác mà Hàn gởi tặng chị Cúc – lâu nay cứ bị “chụp” cái tên Đừng cho lòng bay xa.

Cả hai áng thơ vừa nhắc đều được Hàn Mạc Tử đưa vào tập Thượng thanh khí, chứ chẳng phải tập Thơ điên (tức Đau thương). Đây là một nhầm lẫn khác mà đa số tuyển thơ cùng nhiều http://gdptductam.com/bai-viet - bài viết vẫn mắc phải.

Trong cuốn Thơ Hàn Mạc Tử và những lời bình(17), Mã Giang Lân lại cho rằng Ở đây thôn Vỹ Dạ vốn in lần đầu trên giai phẩm Nắng Xuân năm 1937. Hỡi ôi! Bài thơ được hoàn tất năm 1939, liệu có thể công bố trước hai năm chăng?

Thậm chí có người, như Vũ Quần Phương qua lời tựa tập Hàn Mặc Tử – thơ với tuổi thơ(18), nghĩ rằng áng thơ Ở đây thôn Vỹ Dạ mang vẻ đẹp “trong trẻo” và thể hiện bằng giọng điệu “bình tĩnh” nên tin chắc đây là một sáng tác thuộc giai đoạn đầu của Hàn, giai đoạn thân chưa phát bệnh và thơ chưa phát “điên”. Thật ra, Hàn lúc này đang đau khổ lánh mình với nguồn thơ úa mãi hai hàng lệ(19) rồi lâm chung sau đấy đúng một năm tròn!

Hiểu rõ xuất xứ cùng hoàn cảnh sáng tạo tác phẩm, ắt sẽ góp phần giúp bạn đọc tiếp nhận bài thơ theo cách đúng đắn hơn, chuẩn xác hơn. Do đó, tôi sao lục thêm ba đoạn thư liên quan do chính người trong cuộc là Hoàng Thị Kim Cúc giãi bày.

Thư đề ngày 15/4/1971 gởi Quách Tấn: “Về cô gái trong câu Lá trúc che ngang mặt chữ điền mà ông hỏi có phải là tôi đó không. Thưa ông, bức ảnh đó chỉ là bức ảnh phong cảnh, không có cô gái nào khác ngoài cô gái chèo đò. Cô gái mà ông hỏi đó là do sức tưởng tượng của thi nhân mà hiện ra thôi. Số là mùa hè năm 1939, Ngâm viết thư về Huế cho biết Tử bị mắc bệnh nan y. Ngâm khuyên tôi nên viết thư thăm Tử, hãy an ủi một tâm hồn đau khổ. Thay vì viết thư thăm, tôi gởi một bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái carte-visite(20). Trong ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm sức khỏe Tử, mà không ký tên, rồi gởi nhờ Ngâm trao lại. Sau đó một thời gian, tôi nhận bài thơ Ở đây thôn Vỹ Dạ và một bài thơ khác nữa(21) cũng do Ngâm gởi về (bài này các sách báo đều đăng cả rồi). Không ngờ sức tưởng tượng của thi nhân quá khác thường đến biến bức ảnh phong cảnh đó thành bức ảnh bến Vỹ Dạ lúc hừng đông hay một đêm trăng, trong đó có cô gái Lá trúc che ngang mặt chữ điền nữa! Khiến có người đã nghĩ rằng cô gái đó mặc áo trắng dài tha thướt vì câu Áo em trắng quá nhìn không ra…”.

Thư đề ngày 16/10/1987 gởi Nguyễn Bá Tín: “Năm 1938, Ngâm cho biết Hàn Mặc Tử mắc bệnh nan y. (…) Xiết bao ngậm ngùi thương cảm. Thương cho người tài hoa lâm đại nạn! Cảm tấm lòng http://gdptductam.com/tag/yeu-thuong - yêu thương thắm thiết chân thành của Tử đã dành riêng cho tôi! Một thời gian sau, Ngâm đề nghị: lúc này, chị nên an ủi Trí. (…) Xa xôi quá, không biết làm gì khác hơn là viết mấy hàng chữ hỏi thăm sức khỏe Tử, viết mà không chữ ký, không đề ngày, sau tấm ảnh phong cảnh Huế, gởi nhờ Ngâm trao lại. Rồi mấy tháng sau, Ngâm gởi về cho tôi bài thơ Ở đây thôn Vỹ Dạ với mấy hàng chữ sau lưng bài thơ vào tháng 8/1939. Giữa Hàn Mặc Tử và tôi chỉ có chừng nấy.”

Thư đề ngày 11/5/1988 gởi anh cả Hoàng Toại: “Đến khi nghe anh ta(22) mắc bệnh nan y, em rất xót thương cho người tài hoa bạc phận và để an ủi một tâm hồn tha thiết http://gdptductam.com/tag/yeu-thuong - yêu thương đang vô cùng đau khổ, em gởi cho anh ta hai dòng chữ hỏi thăm sức khỏe viết trên một tấm cát 6×9(23) phong cảnh thành phố Huế, ảnh mua ở nhà chụp bóng Tăng Vinh. Sau khi nhận được bức phong cảnh đó thì anh ta gởi bài thơ Ở đây thôn Vỹ Dạ tặng em. Thư đi thư về đều qua tay Ngâm chuyển, chứ em không trực tiếp gởi. Và sau mấy hàng chữ thăm sức khỏe và sau khi nhận được bài thơ Hàn Mạc Tử tặng, em cũng nín luôn, không thư từ gì cho thi sĩ nữa, qua năm sau (1940) thì được tin Hàn Mạc Tử mất tại Quy Hòa”.

Áng thơ Ở đây thôn Vỹ Dạ cùng bức thư của Hàn đã được Hoàng Thị Kim Cúc trân trọng giữ gìn tại nhà riêng. Đó là tờ giấy pelure mỏng, một mặt chép bài thơ, mặt kia ghi mấy dòng thư. Rất may mắn được chị Cúc lúc sinh tiền cho xem tận mắt, tôi chú ý mấy điểm: bài thơ gồm 3 khổ thì khổ cuối trong thủ bản nằm cách biệt với hai khổ đầu, cuối bài thơ, tác giả ký Hàn Mạc Tử rồi đề 11-1939 (chứ không phải 8-1939). Còn bức thư thì nguyên văn như sau:

Túc hạ,
Có nhận được bức ảnh bến Vỹ Giạ lúc hừng đông (hay là một đêm trăng?) với mấy hàng chữ túc hạ gởi thăm. Muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến người năm xưa, thế là phúc hậu lắm rồi. Mong ơn trên xuống lộc cho túc hạ thật đầy. Và mong rằng một mùa xuân nào đây sẽ gặp lại túc hạ phỉ dạ. Thăm túc hạ bình an vui vẻ.
Hàn Mạc Tử

Hoàng Thị Kim Cúc với bút danh Hoàng Hoa đã âm thầm sáng tác một số bài thơ, trong đó có những bài “đề tặng hương hồn anh HMT” như bài dưới đây viết vào đầu xuân Tân Tỵ 1941 – nghĩa là sau khi Hàn mất chưa đầy năm.

http://gdptductam.com/wp-content/uploads/2011/01/lochuyendo.jpg">lochuyendo%20Sự%20thật%20về%20mối%20tình%20Hàn%20Mạc%20Tử%20%20%20Hoàng%20Thị%20Kim%20Cúc%20và%20bài%20thơ%20Ở%20đây%20thôn%20Vỹ%20Dạ%20***%20GĐPT%20Đức%20Tâm%20%20%20gdptductam.com Bao năm hoa sống nơi thôn Vỹ
Thầm giữ trong lòng một ý thơ
Cũng biết cách xa ngoài vạn dặm
Tình anh lưu luyến cảnh quê mơ

Một mình một cõi với trời mây
Với cả đau thương với hận này
Anh khéo lột hết tài nghệ sĩ
Tiếng vang muôn thuở vẫn còn đây

Hồn anh lẩn khuất ở đâu xa
Hoa biết cùng ai thổ lộ ra
Tuy sống giữa cảnh đời náo nhiệt
Tình ai ai vẫn cứ đậm đà!

Nếu chỉ đọc qua bài thơ của Hoàng Hoa thôn nữ, lại thấy nàng suốt đời độc thân và bảo lưu kỹ lưỡng thủ bút Hàn thi sĩ, mà chưa đọc thư từ Hoàng Hoa viết hoặc chưa nghe Hoàng Hoa bộc bạch niềm riêng, hẳn không ít người sẽ dễ tin chuyện tình Hàn Mạc Tử – Hoàng Thị Kim Cúc từng diễn ra “ly kỳ mùi mẫn” y như sách báo và tuồng tích đã dày công… thêu dệt. Mức độ ngộ nhận càng tăng vì ngay cả người nhà cũng chẳng thấy Hoàng Thị Kim Cúc phản ứng gì trước bao đồn thổi, thị phi.

Chính xác, như chúng ta đã biết, Hoàng Thị Kim Cúc có phản ứng chừng mực, đúng người, đúng lúc, song chẳng đạt kết quả như nguyện. Trong một http://gdptductam.com/bai-viet - bài viết đăng trên tuần báo http://gdptductam.com/category/tho-van/van - Văn nghệ số ra ngày 14/10/1995, Võ Đình Cường lý giải kỹ càng: “Những người có liên hệ mật thiết với Hàn Mạc Tử mà chị(24) đã cho biết sự thật, và yêu cầu họ đính chính, thì họ đã không làm, hay làm ngược lại, gây thêm hỏa mù trong bối cảnh đã có nhiều sương khói làm mờ nhân ảnh. Chẳng hạn như ông Nguyễn Bá Tín, tác giả cuốn hồi ký Hàn Mạc Tử anh tôi(25) xuất bản vào tháng 2/1991, sau bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc gởi cho ông vào tháng 10/1987, nghĩa là sau gần 4 năm, nói rõ về tấm ảnh gởi Hàn Mạc Tử, là một tấm ảnh phong cảnh, thế mà ông Nguyễn Bá Tín lại viết: ‘Cho tới khi anh(22) đau nặng rồi (1939), chị Cúc còn cho anh một phiến ảnh cỡ 6×9(23): chị Cúc mặc áo dài lụa trắng như những cô gái Huế thời bấy giờ đứng trong vòm cây xanh mát. Anh làm ngay bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ…’

. Quan trọng hơn nữa, cái đoạn chị Kim Cúc kể chuyện chị đã không nhận thư và sách của Hàn Mạc Tử đem tặng, tác giả Hàn Mạc Tử anh tôi đã bỏ qua, không nhắc đến. Nhưng tác giả lại viết: ‘Nếu anh(22) biết chị(24) đã quy y, dành riêng một căn phòng ngày đêm hương hỏa tụng niệm, tưởng nhớ mối tình bất diệt của anh mà cũng là mối tình đầu của chị, đang quyện theo trầm hương dâng lên anh nơi miền cực lạc. Nơi đây không còn ngăn cách giáo lương, không còn tham sân si trần tục. Ôi! Tình Hoàng Hoa đậm đà biết chừng nào!’ (…) Chị Kim Cúc có buồn không, khi bị người ta vô tình hay cố ý lái cái mục đích cao quý trong sự tu hành của chị về phía tôn thờ một người khác tôn giáo mà chị chỉ có thể có cảm tình, chứ không yêu?”.

Phân tích nội dung và nghệ thuật áng thơ Ở đây thôn Vỹ Dạ, đã thấy xuất hiện khối trường hợp “bàn rồi tính” nối tiếp “bình rồi… tán” đến mức ì xèo! Ngang qua nhà Hoàng Thị Kim Cúc ở Vỹ Dạ, thấy hàng cau trồng nép bờ rào, có người chắc mẩm dòng Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên phải “mọc” từ đây! Hồi trước, vào vườn nhà chị Cúc, chúng tôi chưa thấy cây cau nào. Ông Nguyễn Bá Tín cũng ghi trong Hàn Mạc Tử trong riêng tư(26) rằng: “Năm 1985, tôi về Huế ghé thăm chị Cúc (…), chị Cúc chợt hỏi: Cậu có tìm được một cây cau nào trong vườn tôi không? Sao anh Trí lại nói đến hàng cau?”.

Công bố bài Một cách hiểu khác về “mặt chữ điền”(27), Thang Ngọc Pho lại tự bộc lộ chưa một lần về thôn Vỹ hoặc ghé Vỹ thôn nhưng thiếu quan sát đủ đầy mà vẫn bạo dạn khẳng quyết: “Mặt trước phía trên cổng nhà ở của quý tộc phong kiến ở đây(28) thường trang trí chữ điền đắp nổi. Điền, chữ Hán, có nghĩa là ruộng. Đó là biểu tượng của các gia đình quý tộc phong kiến, được nhà vua phong cấp ruộng đất theo cấp bậc và công trạng. Từ mặt trong câu thơ là mặt chữ chứ không phải là mặt người. Tác giả sử dụng phép ẩn dụ với nghĩa phái sinh như mặt bàn, mặt nước, mặt đường… Vậy câu thơ Lá trúc che ngang mặt chữ điền được hiểu là những chữ điền trên cổng các nhà quý tộc thấp thoáng dưới lá trúc. Cách hiểu này làm tăng giá trị của bài thơ.”

Thú thật, bản thân tôi từng sống ở Vỹ Dạ suốt thời gian dài mà không thấy cổng nhà quý tộc nào đắp nổi chữ 田 điền. Thêm một thực tế nữa cần nêu, Hoàng Thị Kim Cúc là phụ nữ có khuôn mặt chữ điền.

Quá quắt hơn là trường hợp suy diễn chủ quan cực kỳ kệch cỡm: cô gái thôn Vỹ trở thành… kỹ nữ, khách đường xa biến ra khách làng chơi, thuyền ai đậu bến sông trăng trở nên buồng chứa nổi. Bằng lối gán ghép thô vụng như thế, Lê Đình Mai đã “phán” xanh rờn trong bài Đây thôn Vỹ Dạ – một tiếng thở dài đáng quý(29): “Ở chốn dâm ô này, những gì đẹp đẽ nhất, cao quý nhất của con người đều bị sương khói truy hoan lu mờ hết, hoen ố hết.” Nhiều tác giả đã lên tiếng phản bác cách lập luận khiên cưỡng đó. Chẳng ai phủ nhận trên dòng sông Hương xưa nay xuất hiện những điểm kinh doanh trò “ngủ đò tục”, quá khứ có lúc gần như công khai(30), song đoạn sông qua khu vực thôn Vỹ thì hoàn toàn khác.

Trên tập san http://gdptductam.com/category/tho-van/van - Văn hóa và đời sống(31), đề cập đến sự hạn chế trong một số bài viết về áng thơ Ở đây thôn Vỹ Dạ xuất hiện bấy lâu nay, http://gdptductam.com/category/tho-van/van - Văn Tâm sơ bộ chỉ ra bốn nguyên nhân: thứ nhất là thói quen xã hội học dung tục; thứ hai là người nghiên cứu không am tường phong cách nghệ thuật của đối tượng mà mình tìm hiểu; thứ ba là mỹ cảm kém nhạy bén; thứ tư là thái độ tùy tiện, thiếu nghiêm túc trong khâu xác định và khảo chứng tư liệu.

Phanxipăng


_________________________
(1) Nguyễn Trọng Trí (1912-1940) ký nhiều bút danh, trong đó có Hàn Mạc Tử và Hàn Mặc Tử. Khảo sát kỹ lưỡng, nhiều nhà nghiên cứu nhận thấy bút danh chính thức của Nguyễn Trọng Trí những năm cuối đời là Hàn Mạc Tử. Điều ấy đã được Phanxipăng trình bày rõ qua bài “Chính danh định luận: Mạc hay Mặc?” đăng trên tạp chí Thế giới mới số 416 (11/12/2000).

(2) Pellerin hay còn gọi là Trường Bình Linh, thuộc dòng La San, được sáng lập tại Huế năm 1904, giảng dạy từ bậc tiểu học đến trung học (tương đương lớp 1 đến lớp 12 hiện nay). Từ năm 2008, đó là Học viện Âm nhạc Huế, địa chỉ số 1 Lê Lợi, thành phố Huế.

(3) Hai niên khóa 1928-1929 và 1929-1930, tại Trường Pellerin ở Huế, Nguyễn Trọng Trí học lớp nhì năm thứ 2 / cour moyen 2è année (tương đương lớp 4 hiện nay) và lớp nhất / cour supérieur (tương đương lớp 5 hiện nay) là hai lớp thuộc bậc tiểu học – theo sự phân cấp giáo dục trên toàn quốc từ năm 1906 đến năm 1945 – chứ hoàn toàn không phải “có hai năm học trung học tại trường Pe-lơ-ranh (Pellerin) ở Huế? như sách giáo khoa hiện hành Ngữ văn 11 (Tập hai – Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, 2008 và 2009 – Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010) đã in đi in lại.

(4) Bài Đôi nét về Hàn Mạc Tử được Quách Tấn (1910-1992) viết tại Nha Trang năm 1959, đăng tạp chí Lành mạnh số 38 (Huế, 1/11/1959), rồi lần lượt đăng lại trên tập san Văn và bán nguyệt san Phổ thông, đoạn in vào một số sách như Thơ Hàn Mạc Tử (Sở Văn hóa-Thông tin Nghĩa Bình, 1987), Hàn Mạc Tử thơ và đời (Nxb Văn học, Hà Nội, 1995), Hàn Mạc Tử hôm qua và hôm nay (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995), v.v… Lưu ý rằng nội dung văn bản Đôi nét về Hàn Mạc Tử có những thay đổi qua thời gian công bố.

(5) Hiện nay là đường Lê Lợi, thành phố Quy Nhơn.

(6) Vở tuồng cải lương Hàn Mạc Tử do Viễn Châu và Thể Hà Vân hợp soạn năm 1957.

(7) 21 tuổi ta, 20 tuổi tây, tức là vào năm 1933.

(8) Bên đó: Hoa Kỳ.

(9) Tham khảo thêm bài “Bạn thân đồng tuế đồng hương của Hàn Mạc Tử” do Phanxipăng viết đăng tạp chí Thế giới mới số 891 (5/7/2010).

(10) Sách Hàn Mạc Tử của Trần Thanh Mại, in lần đầu năm 1942, sau được tái bản nhiều lần.

(11) Cư sĩ: người tu trì tại gia.

(12) Trích http://gdptductam.com/bai-viet - bài viết “Nhớ cô Hoàng Kim Cúc” của Võ Thị Tiểu Kiều in trong tuyển tập Đồng Khánh mái trường xưa năm 1992.

(13) Do nhà sách Khai Trí ở Sài Gòn ấn hành lần đầu năm 1970, sau được nhiều nhà xuất bản tái bản.

(14) Gia đnh Phật tử có tiền thân là Đoàn Thanh niên Đức dục và Gia đnh Phật hóa phổ được thành lập tại Huế vào thập niên 1930.

(15) Trích bài “Tiếng thở dài – chia sẻ với Hàn Mạc Tử” đăng tạp chí Sông Hương số 2 năm 1990, sau in vào sách Cảm nhận thơ Hàn Mạc Tử (Nxb Thuận Hóa, Huế, 1999).

(16) Địa danh Vỹ Dạ do biến âm từ gốc Vĩ (Vi) Dã 葦野°. Vĩ (Vi) 葦: cây lau. Dã 野°: cánh đồng.

(17) Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000, trang 283.

(18) Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 2000, trang 5.

(19) Trích một dòng từ bài thơ “Buồn ở đây” trong tập Thượng thanh khí của Hàn Mạc Tử.

(20) Carte-visite: carte de visite: danh thiếp.

(21) Bài thơ Sao, vàng sao.

(22) Tức Hàn Mạc Tử.

(23) 6x9cm.

(24) Chỉ Hoàng Thị Kim Cúc.

(25) Nxb Tin, Paris, 1990 – Nxb TP HCM, 1991.

(26) Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1994, trang 118.

(27) Tạp chí Tài hoa trẻ, số 69 ra ngày 25/2/1999.

(28) Vỹ Dạ.

(29) Báo Giáo viên nhân dân, số đặc biệt tháng 1/1990.

(30) Có thể đọc phần Những con đò đưa khách trong bài “Sinh hoạt những vạn đò trên sông Hương trước 1975” của Phan Hoàng Quý đăng trên Nghiên cứu Huế, tập 1,1999 và phóng sự “Ngủ đò sông Hương” in trong sách Huế chừ của Phanxipăng (Nxb Thanh niên, 2000).

(31) Nxb TP HCM, 1990.



-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: hoangngochungdn
Ngày gởi: 17/Jan/2011 lúc 5:29am

Tiểu sử chị Tâm chánh Hoàng Thị Kim Cúc

 

 
 

VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI
CHỊ TÂM CHÁNH – HOÀNG THỊ KIM CÚC
NỮ HUYNH TRƯỞNG CẤP DŨNG GĐPTVN

http://gdptductam.com/wp-content/uploads/2011/01/Tâm-Chánh-Hoàng-Thị-Kim-Cúc.jpg">Tâm%20Chánh%20Hoàng%20Thị%20Kim%20Cúc%20Tiểu%20Sử%20chị%20Tâm%20Chánh%20Hoàng%20Thị%20Kim%20Cúc%20***%20GĐPT%20Đức%20Tâm%20%20%20gdptductam.com

 

Chị Hoàng Thị Kim Cúc, pháp danh Tâm Chánh, tự Thể Hạnh, sinh ngày mồng 8 tháng 11 năm Quý Sửu (5/2/1913).

Thân phụ là cụ ông Hoàng Phùng, thân mẫu là cụ bà Tôn Nữ Thị Khuê. Chánh quán làng Xuân Tùy, Thừa Thiên. Trú quán tại thôn Vỹ Dạ, thành phố Huế.

Buổi thiếu thời sau những năm theo chân Thầy Mẹ công tác ở một số Tỉnh đàng trong, học xong bậc sơ học và tiểu học, sau về Huế học trường Đồng Khánh hết cấp trung học rồi tiếp tục giảng dạy tại đây cho đến ngày về hưu.

Vốn sinh ra và lớn lên trong một gia đình truyền thống Nho phong lại được nung đúc với niềm tin Phật rạt rào và sâu sắc, chị Hoàng Thị Kim Cúc trong khoảng thời gian trưởng thành gần 50 năm đã trọn vẹn đem hết http://gdptductam.com/ - tâm hồn, tình cảm và ý chí phục vụ cho lợi ích của mọi người, nhất là đối với http://gdptthegioi.org/ - giới trẻ trong bao cảnh giao động của đất nước .

Tháng 8/1938, ngày 14, Đại hội đồng Tổng Hội An Nam Phật học họp tại ngôi chùa lịch sử Từ Đàm, Huế, một Phật sự trọng đại đến với chúng ta. Tổng hội đồng đặt nặng vấn đề giáo dục tuổi trẻ Phật giáo như sau : “KHÔNG CÓ MỘT THÀNH TỰU NÀO MIÊN TRƯỜNG MÀ KHÔNG NHẮM ĐẾN HÀNG NGŨ THANH THIẾU NHI. HỌ LÀ NHỮNG NGƯỜI KẾ THỪA CHÚNG TA TRONG NGÀY MAI”.

Ngày 28/8 năm ấy, một tiểu ban thống thuộc Tổng trị sự đề cử 3 vị đứng ra lo về Thanh Thiếu Nhi được hình thành để thực hiện quyết định này gồm ba vị ; cụ Trần Đăng Khoa, Chủ tịch ; cụ Nguyễn Khoa Toàn và bà Cao Xuân Sang (tức Sư Bà Diệu Không) làm Ủy viên. Nguồn gốc GĐPTVN là ở đó.

Thể hiện tinh thần ấy, các đoàn Phật học Đức Dục, Gia Đình Phật Hóa Phổ, Ban Đồng Ấu Phật Tử tùy căn cơ và môi trường đã ra đời .

Chưa kịp ổn định thì chiến tranh Việt – Pháp bùng nổ, dân chúng Huế ào ạt tản cư theo lệnh kháng chiến. Cơn gió lốc đầu tiên lay chuyển một tổ chức đang còn non yếu. Sau khi hồi cư, nhìn cảnh vật điêu tàn, nhà cửa đổ nát, lòng người trong cuộc đổi thay của thời cuộc làm sao tránh khỏi những thay đổi xé lòng. Cái khung cảnh và tâm lý ấy chấn động http://gdptductam.com/ - tâm hồn một thanh nữ xứ Huế vốn giàu tình cảm vị tha. Chị Kim Cúc đến với GĐPT Hướng Thiện là một ngả rẽ cho cuộc đời của mình.
 
Năm 1946, sau khi hồi cư, các Thầy, các anh chị đã từng sinh hoạt trong đoàn Phật học Đức Dục, Gia Đình Phật hóa Phổ, Đồng Ấu Phật tử như chú Minh Châu, các anh Võ Đình Cường, Nguyễn Khoa Việt, Tráng Thông, Phan Cảnh Tuân, … nhen nhúm lại phong trào Gia Đình Phật Hóa Phổ. Cũng trong năm ấy, chị Hoàng Thị Kim Cúc do sự giới thiệu của anh Phan Cảnh Tuân (Thầy Phổ Hòa ngày nay) bước vào Gia Đình Phật Hóa Phổ Hướng Thiện. Đến với gia đình Hướng Thiện, chị chỉ đóng vai trò bạn đoàn, đó là biểu hiện sự thận trọng cần có trước sự giao thoa của thời cuộc.
 
Chú Minh Châu lúc ấy nhận xét chị rất lanh lợi, mẫn tiệp, lãnh hội rất nhanh, rất sâu sắc về Phật Pháp. Sư Bà Diệu Không thường khen ngợi chị là người có thiện căn, có đạo hạnh và tích cực.

Năm 1948, lúc chị 35 tuổi, chị quyết định chính thức gia nhập vào Gia đình Phật Hóa Phổ sau 2 năm tập sự với tính cách bạn đoàn.

http://gdptductam.com/wp-content/uploads/2011/01/bia-NS-24a.jpg">bia%20NS%2024a%20Tiểu%20Sử%20chị%20Tâm%20Chánh%20Hoàng%20Thị%20Kim%20Cúc%20***%20GĐPT%20Đức%20Tâm%20%20%20gdptductam.com
 
Trước khi quyết định chọn con đường đi cho mình, chị Tâm Chánh đã có lần xin xuất gia. Sư cụ Diệu Hương cho pháp tự Thể Hạnh. Đó là pháp hiệu Bồ Tát tại gia của chị khi vâng theo lời phân tích của Sư Bà Diệu Không về tánh và tướng. Sư Bà dạy :”Lúc này Phật giáo đang cần những Huynh Trưởng dạy dỗ đàn em, nối nghiệp tương lai. Đào luyện được một Huynh Trưởng thì khó nhưng tìm một vị xuất gia thì không khó lắm”. Thế là thân tại gia mà tâm của chị thì xuất gia từ lâu rồi.

Về đời, chị là Giáo sư Nữ Công gia chánh tại trường Đồng Khánh, Huếgiúp cho hàng hàng lớp lớp thiếu nữ hoàn thành thiên chức làm chị, làm vợ, làm mẹ, điều hành công việc gia đình .

Nhìn lại cuộc đời của chị:

1/ Chị thành lập Đoàn Nữ Phật tử Hương Trang (12/1948).

2/ Trong thời gian làm Trưởng ban Hướng Dẫn Thừa Thiên và Tổng hội Phật giáo Trung phần (từ 1958 – 1964), điều quan http://gdptductam.com/ - tâm nhất của chị là vấn đề http://gdptductam.com/tag/huan-luyen - huấn luyện Huynh Trưởng. Chị mở các trại http://gdptductam.com/tag/huan-luyen - huấn luyện toàn quốc, các trại http://gdptductam.com/tag/huan-luyen - huấn luyện cấp Tỉnh khắp 34 Tỉnh miền Trung và miền Nam. Trại http://gdptductam.com/tag/huan-luyen - huấn luyện Huynh Trưởng ngành Nữ đầu tiên tại chùa Phước Hải, Sài Gòn cho các tỉnh miền Nam (1964).

Năm 1964, sau khi GĐPTVN thống nhất toàn quốc, chị được bầu vào Ban lãnh đạo GĐPTTƯ. Với chức vụ Phó Trưởng Ban Hướng Dẫn phụ trách ngành nữ toàn quốc. Năm 1965 chị có thư xin Trung Ương thay người khác nhưng không được chấp thuận nên chị phải tiếp tục gánh vác trách nhiệmlàm việc không ngơi, từ công tác tổ chức, thăm viếng, dự và mở các trại http://gdptductam.com/tag/huan-luyen - huấn luyện trên toàn quốc.

3/ Tại Huế và Thừa Thiên, GĐPT phải trải qua sự bất bình đẳng tôn giáo của thế quyền, nhất là sau vụ sát hại huynh trưởng Phan Duy Trinh tại vùng Kim Long, Huế. Thân gái dặm trường, chị Hoàng Thị Kim Cúc cũng phải đứng ra nhận nhiệm vụ của một trong những huynh trưởng GĐPT Huế.

4/ Mùa hè năm 1974, vượt qua mọi khó khăn trắc trở, chị thực hiện một hành trình dài với chủ đích thăm viếng, chấn chỉnh tổ chức hay mở các lớp huấn luyện tùy theo yêu cầu của địa phương. Chị đích thân lãnh đạo đoàn huynh trưởng Trung Ương bắt đầu rời Huế ngày 10/06/1974 sinh hoạt trong 45 tỉnh, thành : Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Bồng Sơn, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết, Lâm Đồng, Đà Lạt, Di Linh, Buôn Mê Thuột, Pleiku, Phú Bổn, Kon Tum, … Đến Kon Tum xem như đã hoàn thành tương đối tốt đẹp kế hoạch thăm viếng miền Trung, củng cố các sinh hoạt ngành Nữ GĐPT cả 3 ngành. Chị lại chuẩn bị kế hoạch vào Nam.

5/ Trong những năm đời sống kinh tế khó khăn (sau 1975), từ Huế chị đã vào Sài Gòn khuyên nhủ anh chị em thành lập tổ hợp cùng giúp nhau sống qua ngày.
 

Chị đã đặt chân đến hầu hết các tỉnh miền Nam : Sóc Trăng, Cần Thơ, Sa Đéc, Vĩnh Long, Long An, Vũng Tàu, Hậu Nghĩa, Tây Ninh, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá, Long Khánh, Vĩnh Bình, Gia Định, Sài Gòn cho đến tỉnh Phước Long . Cuộc thăm viếng cuối cùng là một cuộc thăm viếng lịch sử. Năm 1986, một cuộc thăm viếng đầy xúc cảm qua những quãng đường gồ ghề lồi lõm tại các vùng kinh tế http://gdptductam.com/gia-dinh-phat-tu/huong-dan-doan-sinh-moi - mới : Suối Nghệ, Ngãi Giao, Bình Ba, Quảng Thành, Kim Long, Quảng Phú, Bảo Lộc, Đà Lạt, Đơn Dương, Long Khánh, … cho đến cả Phước Long điêu tàn. Chị đi sâu vào tận các gia đình để khuyên răn, để khích lệ. Cảm động nhất là chị đã đích thân đến thăm gia đình một đạo hữu ở Suối Nghệ đã cưu mang, nuôi nấng một huynh trưởng bị bệnh nan y – người đã có công tạc tượng đức Quan Âm tại trại trường GĐPTVN ở Đà Lạt.

Mỗi nơi chị đến là sự sinh hoạt vươn lên, nhìn tấm thân già yếu, mái tóc bạc, hàm răng rụng của cái tuổi 73, không một huynh trưởng nào, không một đoàn sinh nào, không một phụ huynh nào đã gặp chị mà không nhìn thấy một tấm gương sáng. Con tim của chị sưởi ấm những ai chần chờ dừng bước. Trái tim của chị là trái tim mặt trời chiếu rọi muôn vạn trái tim nhà Lam khiến cho ai nấy đứng lên bước tới.

Biết rằng những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời mình sắp đến, chị muốn thực hiện một chuyến đi nữa với các địa điểm được dự tính : dự trại Hạnh tại Suối Nghệ, thăm vùng kinh tế http://gdptductam.com/gia-dinh-phat-tu/huong-dan-doan-sinh-moi - mới tại Xuyên Mộc, Trị An, Xuân Sơn, Hòa Bình, Cam Ranh, Nha Trang, Phan Rang, dự hiệp kỵ Đà Lạt, … nhưng nhân duyên thăm viếng đã hết.

Ngày chung thất anh Lữ Hồ là ngày gặp gỡ cuối cùng giữa chị với anh chị em lâu năm có mặt tại Sài Gòn. Ngôi nhà cuối cùng mà chị đặt chân đến là nhà hai vợ chồng huynh trưởng Nguyễn Khắc Mão và chị Nguyễn Thị Thông, một chị trưởng lâu năm mà chị Cúc rất thương mến.

11 giờ ngày 30/06 Mậu Thìn tức ngày 11/08/1988, một tai nạn lưu thông đã đưa chị vào bệnh viện Chợ Rẫy. Chị nằm bất động không đau đớn, không rên la, im lặng.
 
Tin được truyền đi, Đà Lạt, Bảo Lộc, Phan Rang, Cần Thơ, Phước Long, Long Khánh, Suối Nghệ, … đã cử người về chăm sóc chị, 45 ngày tại Sài Gòn là 45 ngày quây quần bên chị. Bệnh tình khá hơn, chị được đưa về Huếvà  Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Tín, Bình Định đã hợp tác với Thừa Thiên thay Sài Gòn chăm sóc chị.
 
12 giờ ngày 27 tháng Chạp năm Mậu Thìn tức ngày 03/02/1989, chị trả thân tứ đại lại cho đất, nước, gió, lửa.
Ai biết tình ai có đậm đà.
 
Đức Tâm.


-------------
hoangngochung@ymail.com


Người gởi: HEICHPE
Ngày gởi: 17/Jan/2011 lúc 9:04am
Cám ơn anh Hoàng Ngọc Hùng và Mỹ Kiều  tham gia góp tài liệu quí trong mục nầy.
Một lần nử xin đa tạ HAI VỊ.
                                      hp
Sau đây một bài có tính cách lịch sữ , xin mời cả nhà xem, Cám ơn.
 
 
 
Kỷ Niệm đẹp - Người viết có trí nhớ..dzai ....Mời đọc ..

 

NGÔ ĐÌNH LỆ THỦY, HỒNG NHAN MỆNH YỂU

 

kim thanh

  

 Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương  

                                        (Đoạn Trường Tân Thanh)

 

 

Gửi thầy Đỗ Hữu Nghiêm, cựu JECU.  Niên khóa 1962-63, tôi học năm cuối của chương trình Cử Nhân Giáo khoa Văn Chương Pháp tại trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Còn nhớ cùng lớp tôi lúc ấy có nhạc sĩ Hùng Lân, người hiền lành, dễ mến, như một thầy tu, thỉnh thoảng nổi hứng bất tử ngồi lén ghi nốt nhạc ngay tại chỗ, trong lúc thầy giảng bài. Có bà sơ Phạm Thị Nhâm, mà tôi thường hỏi mượn cua mỗi lần trốn học đi chơi, sau trở thành hiệu trưởng trường Nữ Thánh Tâm Nha Trang, và đã nhận ra tôi ngay khi vừa thấy tôi lò dò đến trường xin dạy. Có Đặng Tiến, da vàng ủng như người bị sốt rét kinh niên, tóc bờm xờm không chải, nói tiếng Pháp đặc giọng Quảng Nam, trước 75 ở phòng tùy viên Tòa đại sứ VNCH tại Thụy Sĩ, đào ngũ qua Pháp sống cho đến bây giờ, chuyên viết báo nịnh hót Cộng sản và phê bình gia văn chương có hạng. Có Đại úy Bộ Binh Ngô Văn Minh, sau lên chức Đại tá Tham mưu trưỏng Quân Đoàn III, Biên Hòa. Có Wang Seng, cô bạn Tàu, Bùi Thế Cần, Lương Thị Nga, Thái Thị Nhân, Lê Thị Bích, Thái Tuyết Lê, Lê Thị Ngọc Loan, và Irène Công Huyền Tôn Nữ Phụng Tiên  -đồng hương Nha Trang và đồng môn trong lớp Latin của M. Le Menn- tất cả đang ở Pháp. Có Nguyễn Nương Minh Châu, sau thành vợ Bác sĩ Đinh Hà, cả hai là cựu JECU (viết tắt của Jeunes Etudiants Catholiques Universitaires, Thanh Sinh Công Đại Học), đang sống rất thầm lặng tại một nơi nào trên đất Mỹ.

      Đầu niên học, từ lầu ba, tôi và Bùi Thế Cần (học giỏi nhất lớp, con của dân biểu Bùi Tuân, Huế) hay xuống lầu một, vào giảng đường Dự Bị, để tìm người quen giữa đám nai vàng ngơ ngác, hay đúng hơn tuyển mộ tân binh cho JECU. Lúc ấy, Cần là trưởng JECU Liên Trường, Nguyễn Ánh Tuyết (con trai), thư ký, còn tôi, trưởng Nhóm Văn Khoa Pháp. Một hôm, tôi thấy đứng trước cửa giảng đường một sĩ quan mang ba hoa mai bạc, đầu đội béret đỏ, tay cầm một xấp cua. Ông dáng cao gầy, vẻ tươi cười. Gặp ông, tôi khẽ gật đầu chào, và ông lịch sự chào lại. Có người cho biết, đó là Đại tá Cao Văn Viên. Mấy năm sau, ông lên tướng, trở thành xếp quá lớn của tôi, và lấy bằng Cử Nhân Pháp. Có kẻ xấu mồm nói, ông nhờ người đi học và đi thi thay cho ông. Tôi không tin. Vì ở Văn khoa Pháp, thầy cô không phát cua, phải vào lớp ghi chép hoặc mượn ai, và kỷ luật thi cử lúc bấy giờ khá gắt gao, ít sinh viên, lại phải thi oral, thầy trò biết mặt nhau hết, rất khó gian lận.

      Vào trong giảng đường, Cần và tôi ngồi lẫn lộn với đám tân sinh viên, nghe cha Cras giảng về Socrate và Hégel hay thầy Kiết dịch tiếng Pháp ra tiếng Việt mà phát mệt trở lại. Một hôm, chúng tôi thấy Yvonne Lan Hương, cô bạn trong JECU, học dưới một lớp, đang ngồi trò chuyện với một cô. Bèn sà đến. Yvonne giới thiệu, đây Thủy, Ngô Đình Lệ Thủy. Lần đầu gặp cô, chúng tôi không nói gì hơn ngoài vài câu xã giao thông lệ.

     Về sau, khi Lệ Thủy gia nhập JECU Văn khoa Pháp, tôi tiếp xúc với cô thường hơn, nhưng thường chỉ để thông báo ngày và chương trình họp của Hội. Cô có dáng thanh thanh, vẻ thùy mị, thông minh, ít nói, ít cười, đôi mắt linh hoạt, khuôn mặt hơi vuông, cằm hơi nhọn, tóc dày, cài bandeau trắng hoặc đỏ. Chúng tôi nói tiếng Pháp với nhau, cho nên bây giờ tôi không biết cô nói tiếng Việt ra sao, giọng miền nào. Đó là một điều mà sau gần nửa thế kỷ, già đi, nghĩ lại, tôi thấy “dị hợm”, mắc cỡ, mặc dù do thói quen, giống như các em Việt Nam hiện tại ở Mỹ nói chuyện bằng Anh ngữ, chứ chẳng vì “snobisme”, thời thượng, lòe thiên hạ. Lệ Thủy thường mặc váy đỏ, áo sơ mi trắng đi học, đôi khi cả đồng phục Thanh Nữ Cộng Hòa. Nói chung, cô khá đẹp, nhưng không lồ lộ, sexy như Irène, không tươi lộng lẫy như Lương Thị Nga. Một sắc đẹp trang nhã, đài các. Tôi để ý, cô ở đâu là luôn luôn có hai anh chàng gorilles (hộ vệ), giả dạng sinh viên, ngồi phía dưới, cách cô một dãy bàn, nhìn chòng chọc vào mọi người.

    JECU Văn Khoa Pháp lâu lâu ra một tờ Bản Tin (Bulletin), bằng tiếng Pháp, do Bùi Thế Cần, Ánh Tuyết, Minh Châu và tôi viết gần hết, vì không ai gửi bài. Trong đó, thỉnh thoảng có đăng một vài bài thơ tình lẩm cẩm của tôi, không đối tượng, chỉ là gửi gió cho mây ngàn bay, mà bây giờ tôi còn nhớ lõm bõm vài câu:

 

               Je veux tremper mes lèvres

               Dans l' eau pure de ton coeur

               Et émerger frissonnant

               D' une aube de lumière...

                (Anh muốn nhúng môi anh

               Vào nước tinh tuyền tim em

               Và bừng lên run rẩy

               Dưới ánh sáng bình minh…)

 hay những câu dịch của John Keats, hoặc Tennyson, đại khái:

               Ce n' est pas toi que je regrette

               C' est le rêve par toi brisé

               (Không phải em mà anh tiếc nuối

               Mà giấc mơ vì em vỡ tan) 

      Lệ Thủy đọc xong, mày hơi nhíu, bảo tôi, nghiêm trang như một cô giáo la rầy học trò: "Je n' savais pas que tu es si romantique. Les poèmes d’amour, ça c’est vraiment beau, mais ils désespèrent aussi" (tôi không biết anh lãng mạn dữ thế. Những bài thơ tình hay thật, nhưng cũng làm người ta tuyệt vọng). Tôi khoát tay, ấp úng chối tội như ăn vụng bị bắt quả tang: "Un peu, oui, j’ n’ les ai faits que pour m'amuser. Rien de sérieux!" (Chút chút, đúng, tôi chỉ làm để chơi vui thôi mà. Không có gì quan trọng!).

      Lệ Thủy không bao giờ đến CLB Phục Hưng để họp, ngoại trừ một lần, tôi nhớ, tham dự thánh lễ đầu tháng cho toàn JECU do cha Pineau cử hành, rồi về ngay sau lễ. Chúng tôi chỉ gặp nhau tại giảng đường Propédeutique, trong giờ nghỉ giải lao, năm sáu đứa ngồi cuối phòng, có khi tại bàn của Lệ Thủy, thảo luận, hay trao đổi vài thông tin cần thiết. Hai anh chàng gorilles, chắc đã được báo trước, đứng xa xa hút thuốc, để chúng tôi yên.

   

     Một ngày thứ bảy, JECU Liên Hội tổ chức đi thăm trại cùi và nhà thương điên Chợ Quán. Mỗi người góp mười đồng, làm chi phí lặt vặt, và ăn trưa. Số tiền không nhỏ, hơn ba tô phở vào thời ấy, đối với ngân quỹ khiêm tốn của sinh viên còn lãnh lương cha mẹ. Lệ Thủy đưa cho tôi một trăm đồng, trước mặt Cần, nói là tiền của “maman cho Hội”, nhưng “tiếc là bận việc bên Thanh Nữ Cộng Hòa, không đi với tụi toa được.” Tôi nhận tiền, cám ơn, rồi nói nhỏ vào tai Cần: “Như thế cũng hay. Có Thủy tham gia, hai  gorilles phải theo, phiền phức, mà trông ngứa mắt lắm!”

      Hôm ấy, tất cả chúng tôi, khoảng bốn chục người, chia nhau lên hai xe buýt, tuyến đường Chợ Bến Thành-Trần Hưng Đạo. Hoặc tự túc, có xe hơi riêng, như hai chị em Anh Thư, Hạp Thư, hay “đại ca” Dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ. Tổ y tế gồm các sinh viên Y khoa, trang bị ống nghe và túi cứu thương, do Đinh Hà hướng dẫn, làm công tác khám bệnh, phát thuốc. Tổ ăn uống do Rosa điều động. Tổ văn nghệ gồm một cây guitare và một số ca sĩ mầm non, do các cô bên Dược phụ trách, trong số có Yvette Trương Tấn Trung, đang ở Pháp. Bùi Thế Cần làm tổng tư lệnh, Nguyễn Ánh Tuyết phụ tá.

       Đầu tiên chúng tôi thăm nhà thương điên. Toàn đàn ông. Vài ông, tóc dài rũ rượi, biểu diễn nhiều màn rất… điên, như xé áo xé quần, rú lên những tràng cười kinh dị, khiến các cô sợ quá, mặt mày tái mét. Nhưng đa số hiền lành đứng nhìn chúng tôi đi qua, vẻ thẫn thờ, ngây dại. Tôi cười, chào, hỏi thăm, họ vẫn vô cảm. Rồi cả toán chuyển sang thăm trại cùi. Thói quen nghề nghiệp, Đinh Hà phát sẵn mấy chai alcool, để tùy nghi. Bệnh nhân rất đông, sống theo khu, gồm cả con nít, trông rất tội nghiệp. Tôi không lạ với cảnh này, vì gần xóm tôi ở Nha Trang, khu Lạc Thiện, cũng có một trại cùi do các tu sĩ dòng Franciscains sáng lập và đảm nhiệm, nhưng lúc ấy tôi còn nhỏ, chỉ là một khán giả bàng quan, đi ngang tò mò đứng nhìn vào qua những vòng rào kẽm gai dày. Bây giờ, lần đầu tiên có dịp thấy tận mắt những thân hình gầy còm, lở lói, những bàn tay, bàn chân co quắp, hoặc mất ngón, những cặp mắt mờ đục, mù lòa. Và lòng dâng tràn một niềm cảm thương vô hạn. Tổ y tế bắt đầu khám, phát thuốc cho những bệnh nhân cùi bị cảm cúm, đau đầu, sổ mũi, do trưởng trại giới thiệu, yêu cầu. Các cô tập họp những cháu bé lại, phát kẹo, tập chúng hát theo nhịp đàn guitare của Nguyễn Ánh Tuyết, vỗ tay, rồi cười lớn tiếng với nhau. Vài cháu chưa bị nhiễm bệnh, mặt mày trông rất sáng sủa, thông minh, phải theo sống chung với cha mẹ.

        Tháng sáu 1963, mãn trường. Bùi Thế Cần, Nguyễn Nương Minh Châu đậu Cử Nhân liền một khi. Tôi rớt oral chứng chỉ Văn chương Quốc âm, bắt buộc cho sinh viên Văn khoa Pháp-Anh, vì trong buổi thi vấn đáp với giáo sư Vương Hồng Sển tôi không nhớ Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị ông nào theo Tây, ông nào chống Tây, và đem thơ ông này cắm vào cằm ông kia. Với giáo sư Bửu Cầm, kết quả còn tệ hơn, tôi không biết chiết tự bốn câu thơ chữ Nôm của thi sĩ Tuy Lý Vương, đứng chịu chết như Từ Hải, nhìn thầy cười cầu tài. Phải thi lại hai môn vấn đáp này. Còn những nàng tiên nga “trong đám xuân xanh ấy”, mà tôi đã kể tên ở trên, chưa có ai “theo chồng bỏ cuộc chơi”, như trong thơ Hàn Mặc Tử, nhưng đã lần lượt đi du học Pháp một cách lặng lẽ từ năm thứ hai, thứ ba. Cần ra Huế, tôi về quê Nha Trang, dạy tại Collège français môn Việt văn cũng nhờ cái chứng chỉ Văn chương Quốc âm khó ác ôn ấy.

        Không bao giờ tôi gặp lại Lệ Thủy, đã biến mất, từ ngày cô tặng JECU chúng tôi một trăm đồng. Tôi biết cô cũng đã đậu Propédeutique, qua bản niêm yết dán trước của trường, với tên chính thức, đầy đủ: Anne-Véronique Ngô Đình Lệ Thủy, sinh năm 1945. Chiến sự mỗi ngày leo thang. Khủng hoảng chính trị gia tăng. Sinh viên và Phật tử xuống đường hàng ngày. Cảnh sát dàn chào với dùi cui, lựu đạn cay. Những tờ báo chui chửi thậm tệ chế độ. Làm tôi rất quan tâm vì, qua Lệ Thủy, cảm tình của tôi với cụ Diệm rất sâu nặng, không như một vài bạn JECU khác. Tôi lờ mờ hiểu rằng thế nào bàn tay lông lá của người Mỹ cũng đã nhúng vào nội bộ Việt Nam. Nhưng tôi tin tưởng và cầu mong cụ Diệm sẽ vượt qua hết như lần đảo chánh hụt 1960. Thời gian sau đó, nhiều biến cố xảy ra, dồn dập. Lựu đạn nổ tại đài phát thanh Huế. Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu. Nữ sinh viên Quách Thị Trang biểu tình bị cảnh sát bắn chết tại chợ Bùng Binh Sài Gòn. Rồi đảo chánh. Ngày 2/11/1963, nghe tin hai anh em cụ Diệm bị giết, ba tôi chảy nước mắt và trong giờ kinh tối ba bắt cả nhà đọc thêm kinh cầu hồn cho hai cụ. Còn tôi tự nhiên thấy buồn vô hạn, suốt mấy bữa, mặc dù chưa hề lãnh được một tí ơn mưa móc nào từ chế độ. Lúc ấy Lệ Thủy đang ở ngoại quốc với mẹ trong chuyến công du giải độc. Liền sau đảo chánh, các phản tướng chia nhau tiền thưởng của CIA, nhảy đầm thả giàn, phá bỏ các ấp chiến lược. Báo chí, sách vở (của anh chàng Hoàng Trọng Miên nào đó chẳng hạn) mở chiến dịch bôi nhọ gia đình họ Ngô, và bà Nhu, Lệ Thủy cũng bị dính miểng. Nào là bà Nhu có một chiếc ghế khích dục, trong dinh Độc lập, nhưng sự thật đó chỉ là chiếc ghế làm răng thường thấy trong phòng nha sĩ. Nào là ông Nhu bất lực. Nào là bà Nhu tư tình với cụ Diệm, với ông tướng này, ông tướng nọ. Nào là Lệ Thủy có nhiều bồ, kể cả một anh người Nhật, Lệ Thủy thất tình, học Văn Khoa, chỉ ghi danh, không đến lớp mà cũng có bằng, v.v… Tôi đọc và thấy buồn nôn. Vô lý quá, vậy mà dân chúng ít học hoặc quá khích vẫn tin, thế mới kỳ lạ. Thì cũng giống như dân quê miền Bắc mười mấy năm sau, đã ném đá vào sĩ quan cải tạo chúng tôi một cách thật tình, nguyền rủa chúng tôi là “quân mọi rợ giết người, ăn thịt con nít, hiếp dâm phụ nữ.”  

       Công việc và đời quân ngũ làm tôi quên Ngô Đình Lệ Thủy. Kỷ niệm với JECU những ngày có cô cũng dần phai theo thời gian.

2. Cho đến đầu năm 1967. Bốn năm sau. Tôi được tăng phái cho Tiểu đoàn 4/44 Bộ Binh trong chiến dịch Bình Định Nông Thôn tại quận Thiện Giáo (Ma Lâm cũ), nổi tiếng nguy hiểm, thuộc tỉnh Phan Thiết. Ngày đi hành quân tìm địch, qua các thôn xóm, đêm đóng quân ven rừng, mắc võng giữa hai thân cây nằm nghe tiếng đại bác ầm ì xa xa, nhìn hỏa châu từng hồi loé sáng trên ngọn Tà Dôm, mà thương cho kiếp lính tráng nay đây mai đó, trực diện cái chết cận kề. Một buổi trưa, tôi đang nói chuyện với ông Đại úy Tiểu đoàn trưởng, một viên đạn rít ngang nón sắt, cách đầu tôi một đường tơ, xuyên ngay cổ binh nhất H., mang máy truyền tin PRC 25 đứng gần đó, làm anh gục chết tại chỗ. Tên du kích bắn sẻ vụt bỏ chạy, bị lính Tiểu đoàn rượt theo và lãnh trọn một tràng carbine, phơi thây. Một người lính, bà con của H., giận dữ chửi thề và muốn xẻo tai tên này để trả thù, tôi phải khuyên ngăn mãi, mới thôi. Cảnh tượng quá thảm cho bên này, bên kia. Tôi nghĩ thêm, những người lính chiến miền Nam, hơn ai hết, là những người thực sự yêu chuộng hòa bình, và vì yêu chuộng hoà bình họ phải hy sinh mạng sống đánh đuổi giặc xâm lược từ Miền Bắc. Nếu phải chống đối chiến tranh thì họ mới là những người có quyền lên tiếng trước tiên, chứ không phải những anh làm thơ, làm nhạc ấm ớ ở hậu phương, sợ chết, trốn quân dịch, núp bóng các ông sĩ quan văn phòng cao cấp mê văn nghệ, để mà gào thét ngưng chém giết, nối vòng tay lớn, tay nhỏ. Rồi tại sao lại phản chiến một chiều? Tại sao không ra Bắc kêu gọi ************, Võ Nguyên Giáp ngưng gây hấn và tấn công miền Nam? Tại sao chỉ to mồm lên án miền Nam là nơi đã cho họ cơm ăn, áo mặc, tự do sáng tác, tự do phản bội? Bao nhiêu câu hỏi cứ lẫn quẫn trong tôi, cho mãi đến hôm nay, khi những dòng nhạc dòng thơ góp phần làm mất nước ấy vẫn còn được yêu chuộng, mê man, và các tác giả được thổi bằng ống đu đủ lên tận mây xanh.

      Trở lại với Ngô Đình Lệ Thủy. Một ngày cuối tuần và cuối tháng 4, 1967, tôi cùng với vài sĩ quan bạn được phép lên Phan Thiết, cách Thiện Giáo khoảng mười lăm cây số, để nghỉ xả hơi qua đêm, và nhậu bia. Tại quán bánh căng “còn ướt sền sệt”, chúng tôi gọi mỗi người hai tô, mỗi tô hai mươi lăm cái, đổ đầy nước mắm, ăn cho bõ những bữa cơm sấy, đồ hộp ngán đến tận óc. Tôi mua một tờ nhật báo, và giật mình đọc tin Lệ Thủy đã chết trong một tai nạn xe hơi tại Pháp, chính xác tại Longjumeau, vùng Essonne, ngoại ô Paris. Chết tại chỗ. Lúc ấy cô vừa hai mươi hai tuổi. Bài báo kể, ban đêm, cô lái xe nhỏ và bị một camion ngược chiều húc thẳng, đầu xe của cô nát bấy. Sau này, đọc trên tờ Time, số Friday April 21, 1967, thấy cũng đăng đúng tin ấy.

     Mặc dầu tình cảm của tôi đối với cô, và ngược lại, chưa bao giờ thắm thiết, gắn bó, đong đầy, đủ để những giọt lệ trào dâng chan chứa, như trong mắt nàng kỹ nữ Tầm Dương làm đẫm vạt áo xanh của người Giang Châu Tư Mã thuở trước, tôi vẫn thấy bàng hoàng, xao xuyến. Tôi bỏ dở bữa nhậu đã bao lâu chờ đợi, ngồi thừ người, nghĩ đến những kỷ niệm thời sinh viên, JECU, những buổi họp, những bài thơ tình lẩm cẩm và lời phê bình nặng ký của cô, một trăm đồng “maman cho”. Đêm về, qua cửa sổ khách sạn, tôi nhìn trời xanh thẳm không gợn mây và nửa mảnh trăng mới mọc vàng úa trên ngọn núi Tà Dôm mà nhớ câu thơ của Mạc Đĩnh Chi khóc nàng công chúa Tàu:  Y! Vân tán, tuyết tiêu / Hoa tàn, nguyệt khuyết (Ôi! Mây tản, tuyết tan / Hoa tàn, trăng khuyết).

3. Hai tháng sau, tôi được lệnh thuyên chuyển đi Qui Nhơn. Tôi đáp chuyến bay Air VN đến Sài Gòn trước, dự trù ở chơi vài hôm, rồi về Nha Trang nghỉ phép một tuần, trước khi ra Qui Nhơn đáo nhậm đơn vị mới. Hành trang là túi ba lô và cây carbine đeo vai, cây Colt bên hông, và bộ quân phục mặc trên người. Trong chuyến bay có một số sĩ quan trẻ từ các đơn vị tác chiến về, cũng trang bị tận răng như tôi, báo hại các cô tiếp viên phải gom hết súng lại, đem cất đi một nơi phía sau phi cơ. Tại phi trường Tân Sơn Nhất, đang đứng chờ taxi, tôi bất ngờ thấy Thái Tuyết Lê cũng từ chuyến Air France xuống. Tôi hỏi dồn:

      - Tuyết Lê phải không? Toa về từ Pháp? Không ai đón sao?

      - Không, moa không báo trước ngày giờ, muốn dành ngạc nhiên cho gia đình.

     Tuyết Lê, người Huế, cựu JECU mặc dầu ngoài Công giáo, là em bà chủ tiệm kem Phi Điệp, chợ Bến Thành-Trần Hưng Đạo, du học Pháp từ năm thứ ba Văn Khoa. Tay bắt mặt mừng, tôi mời Tuyết Lê đi chung chuyến taxi về thành phố. Trong xe, Tuyết Lê nhìn tôi đăm đăm, tấm tắc khen, “toa trông đen, nhưng có vẻ nam nhi, hùng dũng, khác với hồi còn là thư sinh.” “Dĩ nhiên, tôi vênh mặt đáp, bắt chước nghệ sĩ Hùng Cường, lính mà em!” Cả hai cùng cười vui.

     Câu chuyện xoay quanh bạn cũ bên đó, bên này, và tôi được biết Irène Phụng Tiên học ở Grenoble, quê hương của Stendhal, tác giả mà tôi yêu mến từ thời còn học tại Jean-Jacques Rousseau. Rồi cái chết của Ngô Đình Lệ Thủy. Đổi sang tiếng Pháp, để tài xế taxi không nghe hiểu, Tuyết Lê kể:

      - Tại Paris, tụi moa có đi viếng xác Lệ Thủy và dự lễ cầu hồn và đưa nó ra nghĩa trang. Đầu Lệ Thủy bị kính trước cắt gần lìa cổ. Khi liệm, được khâu lại và quàng bằng chiếc khăn lụa màu thiên thanh, trông mặt nó đẹp quá, thanh thản như một thiên thần. Bà Nhu từ Rome bay sang, ôm xác con mà khóc ngất, khiến tụi moa cũng khóc theo. Chiếc xe bị nạn là chiếc Peugeot còn mới do Tổng giám mục Ngô Đình Thục mua cho Lệ Thủy. Tài xế xe poids lourd không việc gì cả, bị thẩm vấn qua loa, rồi cho về.

     Tôi hỏi:

- Lệ Thủy học môn gì ở Paris?

- Trường Luật.

      - Tụi toa có gặp Thủy lần nào trước đó?

      - Thỉnh thoảng. Thủy vẫn gentille (dễ thương) như trước kia.

      Tôi bỗng thở dài:

- Tội nghiệp nó quá! Đúng là hồng nhan bạc phận!

Xe ngừng trước tiệm kem Phi Điệp. Tuyết Lê giành trả tiền, mời tôi vào chơi, ăn kem.

Nhưng tôi thoái thác, “thôi, toa mới về, cần gặp gia đình, để dịp khác”, rồi vác túi ba lô và cây súng lững thững bước đi, gọi xích lô chở về nhà ông bác họ ở đường Nguyễn Trãi.

4. Nếu còn sống, năm nay Lệ Thủy cũng đã 66 tuổi. Quá khứ xa rồi, nhưng khi ngồi viết bài này, tôi vẫn thấy lòng bồi hồi, bởi kỷ niệm. Tôi vẫn nhớ lời cô “la rầy” tôi một lần về những bài thơ tình làm tuyệt vọng. Và hôm nay tôi sửa lại câu thơ ngày đó:

                  C’est bien toi que je regrette

                  Ce n’est pas le rêve par toi brisé

                  (Chính em mà anh tiếc nuối

                  Không phải giấc mơ vì em vỡ tan)

     Nhưng trong một nghĩa nào, vì mang bệnh kinh niên lãng mạn, tôi nghĩ rằng mỹ nhân Ngô Đình Lệ Thủy mất sớm như vậy cũng hay. Để không bao giờ cho thế gian thấy tóc mình bạc màu.

 

Portland, 1/2011

 






Người gởi: lo cong
Ngày gởi: 29/May/2013 lúc 11:06pm
 
 
 
 


-------------
Lộ Công Mười Lăm



Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info