Print Page | Close Window

QÙA XUÂN TÂN MÃO (2011)

In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Tổng Quát
Tên Chủ Đề: Chúc Mừng - Chia Buồn - Cảm Tạ
Forum Discription: Chia sẻ vui buồn giữa các thành viên
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=4329
Ngày in: 02/Aug/2025 lúc 3:42pm
Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com


Chủ đề: QÙA XUÂN TÂN MÃO (2011)
Người gởi: mykieu
Chủ đề: QÙA XUÂN TÂN MÃO (2011)
Ngày gởi: 28/Jan/2011 lúc 7:27pm
 
" Di Lặc là vị bồ tát duy nhất được các tông phái Phật Giáo, từ tiểu thừa, đại thừa và mật tông tôn kính. Các kinh điển trong cổ ngữ tiếng Phạn Pali và Sanskrit, cũng như kinh tạng đại thừa chữ Hán và tiếng Tây Tạng đều có nói đến vị Phật tương lai này"
(GS Nguyễn Tri Ân , Thư vVện Hoa Sen)
 
Mỗi độ Xuân về , các Chùa đều giăng banderole "Xuân Di Lặc" , và Mùng Một Tết cũng là ngày Vía Di Lặc .  Mọi người đều thấy , đều đọc . Nhiều  người cúng và ăn chay ngày này , nhưng ít ai tìm hiểu ý nghĩa ĐÚNG về hình ảnh  "ông Phật cười" , "ông Phật bụng bự " ,..., như thế nào ?
Bài viết dưới đây , tác giả Trần Kiêm Đoàn đưa ra nhận định , một ...."kiến giải" về ý nghĩa hình tướng Di Lặc trong Đạo Phật  thật sâu sắc , nhưng không xa rời đời sống thường ngày .
 
XIN TRẬN TRỌNG GỬI ĐẾN QUÝ ĐỒNG HƯƠNG VÀ THÂN HỮU , XEM NHƯ  QUÀ XUÂN TÂN MÃO - 2011 !
 
MK
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Bến Tầm Xuân
(Trần Kiêm Đoàn)

Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn.  Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế.  Bỗng có một vị sơn tăng – như thiền sư Mãn Giác (1090) chẳng hạn – huơ tay, mỉm cười, tầm nhìn hướng ra ngõ vắng đầy sương, ánh mắt bắt gặp một cành mai hôm trước và kêu lên hồn nhiên:
 “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai!”
   Đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng hết,
   Hôm qua sân trước, một cành mai.

Tiếng chổi trong tâm của người quét lá sân chùa vọng lại:
   Đừng tưởng tuổi già răng rụng hết
   Bảy mươi còn mọc chiếc răng khôn.

Cái “tưởng” là một định kiến ước lệ, khô cằn; trong khi hiện thực là dòng tươi mát, trôi chảy thường hằng.  Thiền sư và người quét lá sân chùa chẳng có gì khác nhau.  Chỉ có một lằn ranh chưa gặp.  Nhưng rồi có thể gặp nhau trong nháy mắt; một lúc nào đó sẽ gặp; hay không bao giờ gặp:  Tri giác và Tuệ giác.
 Mai nở sớm hay mai cũ của mùa Xuân năm trước là câu hỏi theo cái nhìn cảm giác đời thường.  Nhưng với sự tinh anh từ ánh mắt đang phóng nét nhìn lạnh cả hư không, về thế giới hư huyễn – mà chữ nghĩa nhà Phật thường gọi là “quán niệm vạn pháp vô thường” – thì đó chẳng phải là cành mai mới cắt trong vườn nhà ở làng Hương Cần, vác qua Huế bán ở chợ hoa ngày Tết Thương Bạc mà là cành mai “thật”, cành mai tinh túy mang bản chất của mọi cành mai từ cổ sơ đến hôm nay và mãi mãi.
Dựa theo thơ của danh tăng Ashi Zumi, phái Tào động Nhật Bản thì có thể nói như thế này:  Cắt một nhành mai hình tướng. Cắm vào bình thủy tinh. Có một cành mai thể tánh. Ẩn trong lòng biển xanh.  Phải chăng như Mẹ là hình tướng mà Tình Yêu cao tuyệt vô biên của mẹ cho con là thể tánh?  Mẹ không còn nữa, tình yêu của mẹ ẩn trong lòng biển xanh.
Như ngày xưa, cụ nghè tam nguyên Yên đổ Nguyễn Khuyến cũng nhìn thấy: “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái. Một tiếng trên không ngỗng nước nào?!” Nhưng đây là cái nhìn thông qua cảm xúc, tri giác.  Có người hỏi: “ Văn chương tự cổ vô bằng cớ.  Văn chương từ xưa là sản phẩm của cảm xúc nên không có bằng cớ gì cả. Vậy thì căn cứ vào đâu để nói Nguyễn Khuyến không là một thiền sư như Mãn Giác của hơn nghìn năm trước?”  Hình như chỉ có một sự khác nhau rất nhỏ.  “Hình như” vì bạn và ta, và cả vũ trụ vô biên nầy đều giả tạm, huống chi là một dòng tư tưởng mơ hồ (?!). Thiền sư Mãn Giác nhìn vạn sự qua nét nhìn tĩnh lặng mà như xoáy vào nhịp biến dịch thành trụ hoại không.  Cụ nghè Nguyễn Khuyến nhìn đối thể với sự hồ nghi chất vấn.  Còn hồ nghi sẽ thiếu vắng một nụ cười tuệ giác.
Mấy chùm trước giậu “hoa năm ngoái” của Nguyễn Khuyến là hình tướng mà cành mai “đình tiền tạc dạ” của Mãn Giác là thể tánh.  Mai nở thông qua cái nhìn tuệ giác – Tuệ giác mùa Xuân.
Nụ cười, tuệ giác và mùa Xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt.  Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành một nguồn vui trong mơ ước.  Nhân gian ai lại không thích nụ cười; ai mà chẳng muốn mùa Xuân.  Muốn hái nụ tầm Xuân và tắm bến tầm Xuân nhưng chẳng biết mặt mũi cái “nụ xanh biếc” hay cái bến vạn lý sơ xưa đó như thế nào và ở chốn nào.  Tìm đâu cho gặp khi nó ở chính trong ta.  Nó là tiếng pháo khi vui, sương khói khi buồn, đóa hoa khi yêu và nỗi đau khi ghét.  Khi tìm nỗi lòng trên sông núi thì chính sông núi là nỗi lòng.  Ngay khi hết một đời buồn vui, xuôi tay về đất; người ở lại thì khóc bù lu bù loa, thế mà người ra đi vẫn muốn cười, tuy hơi làm biếng hả miệng:  Ngậm cười nơi chín suối!
Tôn giáo ra đời cũng chỉ vì nhân gian thích nụ cười vĩnh cửu.  Tâm lý muốn lên Thiên Đàng, hay về Niết Bàn cũng chỉ vì… ham vui!  Một tâm thức không còn  ham vui là đã bị đóng băng trong khổ đau và phiền não.  Mọi hồng ân cứu rỗi hay độ trì đều chẳng còn tác dụng gì lên sỏi đá.  Bởi vậy, những thế giới hứa hẹn của các tôn giáo sau khi chết mà không có những an lạc vĩnh hằng, yên nghỉ đời đời, chim trời ca hát, nhạc trời véo von, niềm vui vĩnh cửu, hoa thơm cỏ lạ bốn mùa thì hết thảy những người thích cười sẽ “trả lại vé” đã mua với giá một đời tin cẩn, mong cầu niềm vui cho chuyến xe thổ… mộ cuối cùng!
Người theo đạo Phật thể hiện giấc “mơ vui” của mình qua hình ảnh đức Phật Di Lặc.  Theo niềm tin và tín lý nhà Phật thì có ba đời, mười phương Phật.  Có hằng hà sa số chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai.  Thích Ca Mâu Ni là đức Phật của thời hiện tại trong cõi Diêm Phù Đề mà chúng ta đang ở.  Đức Phật tương lai của cõi người nầy sẽ là Phật Di Lặc (Maitreya: Gốc chữ Phạn Maitri, có nghĩa là từ bi, yên vui) là một vị đại bồ tát đang ngự ở cung trời Đâu Suất.  Nếu chỉ riêng Việt Nam ta cũng đã có gần cả trăm kiểu cười, cách cười và nụ cười khác nhau thì thế giới cũng nhìn về biểu tượng yên vui của đức Phật Di Lặc qua nhiều dáng vẻ phong phú như thế.
Tuy đạo Phật có nhiều bộ phái và pháp môn khác nhau, nhưng hình ảnh Phật Di Lặc vẫn trở thành một ước vọng chung tràn đầy niềm vui và hạnh phúc ở chân trời tương lai.  Đức từ bi của Phật Di Lặc được biểu hiện qua nhiều hình tướng khác nhau, tương hợp với điều kiện và hoàn cảnh xã hội, bản chất con người và đặc tính văn hóa của từng xứ, từng vùng.
Qua những tượng đài và kinh văn Ấn Độ thì Phật Di Lặc là hiện thân của từ bi và trí tuệ với dáng vẻ minh triết, trầm tư.  Với Tây Tạng, Tích Lan thì Phật Di Lặc là hóa thân của sự tái sinh an lạc và huyền nhiệm với dáng vẻ đẹp đẽ cao cả và huyền bí.  Nhưng tới đất Trung Hoa thì Phật Di Lặc là biểu trưng của sự hoan hỷ, phong phú, mãn nguyện với nụ cười khoan khoái, sắc diện béo tròn, thân đầy, bụng phệ,  lúc nào cũng sẵn lòng dang tay đón nhận mọi người.  Dưới ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài của kinh điển toàn bằng chữ Hán từ Trung Hoa du nhập vào nước ta (Hán tạng), hình tượng đức Phật Di Lặc ở Việt Nam vẫn chưa đạt được một bản sắc thuần Việt của tinh thần “ Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Cũng là Nụ Cười Di Lặc, nhưng bản chất văn hóa “cung hỷ phát tài” của Trung Quốc làm mất đi tính chất tuệ giác của nguồn suối mơ ước tâm linh.  Nhiều nơi lẫn lộn giữa Phật Di Lặc và ông Thần Tài.  Thậm chí, khi mang ảnh tượng đức Di Lặc của Việt Nam và Trung Quốc sang các nước Âu Mỹ thì trở thành những ông Phật Mập (Fat Buddha), Phật Cười (Laughing Buddha), Phật Phát Tài (Lucky Buddha) hoặc những hình thức tương tự để trang trí quanh những bồn hoa, hồ cá ở vườn sau.
Từ bi là lòng thương không mù quáng,  trí tuệ là sự hiểu biết không cực đoan và hoan hỷ là niềm vui không dung tục. Tuy nhiên, qua lăng kính Đại Thừa của Phật giáo Trung Hoa – được đâm chồi nẩy lộc trong khung cảnh xã hội nông nghiệp và buôn bán nhỏ, giữa hoàn cảnh văn hóa Khổng, Lão và phiếm thần dân gian làm xương sống tâm linh – phật Di Lặc trở thành biểu tượng của sự hoan hỷ, sung mãn, hạnh phúc mang tính phàm trần, thực dụng. Vì con người tạo ra tôn giáo; chứ không phải tôn giáo tạo ra con người nên con người có quyền chối bỏ tôn giáo, nhưng tôn giáo không thể chối bỏ con người.  Cho nên, không ít người đã chơi trò dung dăng, dung dẻ với quyền tự do tâm linh để trói buộc chính mình và người khác vào một sự dính mắc trầm kha như bệnh dịch hạch. Chỉ riêng trên đất Trung Quốc từ thế kỷ thứ III đến nay, đã có tới con số hàng trăm nhân vật theo Phật giáo xuất gia và tại gia tự xưng là “hiện thân của Phật Di Lặc” giáng trần.  Việt Nam ta cũng không thiếu những ông đồng bà vãi như thế. Nhưng tất cả con người và vọng động đều đến rồi đi như những hiện tượng chiến tranh, dịch họa.
Thật ra, đức Phật Di Lặc là tâm ảnh nói lên niềm hy vọng thường an lạc; là biểu tượng mong cầu cho một tương lai thịnh vượng, tươi sáng. Đời có bao nhiêu niềm ước mơ tốt đẹp thì sẽ có bấy nhiêu mẫu hình tướng của nụ cười Di Lặc.  Nếu có chăng điều quan ngại thì nó sẽ không dừng lại ở mức độ hình tướng mà ở tác dụng của phương tiện.  Nếu nụ cười “niêm hoa vi tiếu” của Ca Diếp là sự khai mở của tuệ giác, nhìn đóa sen trên tay Phật mà thấy hết tánh sen là tánh Phật; thấy ngó sen đang ở trong bùn vẫn theo dòng sinh diệt, lặng lẽ nhô lên khỏi mặt nước và có ngày nở rộ tỏa ngát hương thì nụ cười Di Lặc cũng sẽ “đồng nhất thể” tương ưng như thế.  Đó là một nụ cười rất đẹp và trọn lành không phân biệt Bố Đại Hòa Thượng khi cho hay Thằng Bờm khi nhận.
Càng ngày, những nước văn minh Âu Mỹ càng nghiên cứu sâu rộng để tiếp nhận và trân trọng tinh thần phá chấp, từ bi và hóa giải của đạo Phật.  Nhưng khác với người phương Đông, ngưởi phương Tây không còn ảo tưởng về vai trò “cứu rỗi” vô điều kiện của tôn giáo. Bởi vậy, họ tìm đến đạo Phật như một triết lý, một nghệ thuật sống và đồng thời là một tôn giáo.  Một câu hỏi thường xuyên xuất hiện của những người Âu Mỹ mang nặng định kiến thần học phương Tây khi nhìn về đạo Phật là: “Đạo Phật là một hệ thống triết lý, một học thuyết vô thần hay một tôn giáo?” Người hiểu đạo (nói chung) trả lời không ngập ngừng: “Thưa, cả ba!”  Nhưng cũng có người bị dị ứng với khái niệm “vô thần”.  Dị ứng bởi vì tư tưởng bị đóng khung và lão hóa trong kiểu cách suy nghĩ duy lý và chủ quan gọi tên, dán nhãn hiệu của phương Tây.  Nghĩa là chỉ biết khư khư định nghĩa “Thần” như là một đấng Sáng Thế toàn năng, một Vua Trời, một Thượng Đế.  Mahatma Gandhi, người tin vào Thượng Đế Hindu, đã nhận xét: “Đạo Phật không phủ nhận Thượng Đế nhưng định nghĩa Thượng Đế theo một cách khác.” Đấng “Sáng Thế toàn năng” theo đạo Phật là “Duyên Khởi từ bản thể Tánh Không” như cách nhìn của nhà vật lý nổi tiếng nhất thời hiện tại, Stephen Hawking đã viết trong Sự Tạo Tác Vĩ Đại (The Grand Design).
Người phương Tây tìm đến cái đẹp của Phật giáo không phải qua hình thức lễ nghi, bái vọng với một tâm lý đột phá những vòng trói buộc của tín điều và tín lý.  Họ đánh giá chân xác với lòng biết ơn Nụ Cười Di Lặc và tin rằng, một đức Phật tương lai sẽ đến như một sự tái khẳng định nếp nghĩ, lối sống hòa bình, an lạc và trí tuệ chứ không phải là để “tái sáng thế” đầy huyền nhiệm và bí ẩn của nếp tâm linh cổ sơ.  Nếu quan chiêm những ảnh tượng của Phật Di Lặc trong những chùa viện Phật giáo phương Tây ngày nay, người ta sẽ thấy toát lên vẻ đẹp đầy nghệ thuật phảng phất hay rõ nét nụ cười toát ra từ bên trong.  Những ảnh tượng Di Lặc với ngoại hình đầy hoan hỷ đậm nét “ thỏa thê trù phú” trong các chùa viện Việt Nam mô phỏng hay chỉ là phiên bản của Trung Quốc đang mất dần tác dụng giải thoát tâm linh trong thời đại mới.
Truyền thống người Trung Quốc dân dã khi gặp nhau thường chào câu đầu tiên:  “Đã ăn chưa?”  Ngày nay, kinh tế phát triển, cơm áo không còn là nhu cầu bức xúc hàng ngày thì tiếng chào cũng thay đổi dần như phương Tây không còn lo ăn mà lo vui, lo đẹp.  Ước mong dáng vẻ Di Lặc cũng sẽ theo phong trào tập “Tai Chi” và “Fitness” mà trở nên thon thả, thanh lịch hơn trong những thế hệ tương lai.  Đặc biệt là trong khung cảnh văn hóa Việt Nam, các chùa viện Phật giáo cần tìm cầu một biểu tượng an lạc của đức Di Lặc nói riêng và tất cả các tôn tượng, kiến trúc nói chung, phù hợp với bản chất dân tộc, văn hóa và tính độc lập, độc sáng của mình.
Năm mới, mùa Xuân là sức bật của tuổi trẻ, là điểm hẹn của tuổi trung niên và dấu ghi thêm một bước gần đất của tuổi già.  Nhưng tinh thần... ham vui cũng giông giống như “tài không đợi tuổi”.  Mong rằng, tinh thần nụ cười của tuệ giác mùa Xuân đang có sẵn trong mỗi lòng người sẽ đâm chồi nẩy lộc tự nhiên và dễ dàng như hoa lá quanh mình.

Natomas, tuần đầu tháng Giêng 2011
Trần Kiêm Đoàn

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-112_4-9286_5-50_6-1_17-43_14-1_15-1/ - http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-112_4-9286_5-50_6-1_17-43_14-1_15-1/
 


-------------
mk



Trả lời:
Người gởi: tuannguyen
Ngày gởi: 30/Jan/2011 lúc 8:53am
Thầy Sắc nhắc sẽ tặng chị Mỹ Kiều, quyển Gò Công … Vọng tiếng đất lành. Bửa hổm là bản thảo. Bửa nào chị ghé nhà Thầy nhe! Tuấn ghé thăm Thầy và được tặng sách mừng hết lớn vì có thêm tư liệu về quê mình.
Nguyễn Quốc Tuấn – Gò Công


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Jan/2011 lúc 6:45pm
 
Hello Tuấn,
Cám ơn Tuấn nhiều nhe .
Thân,


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 30/Jan/2011 lúc 7:45pm
 

Câu chuyện thật của thế kỷ 21

Tại trại xe điện ngầm Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn vào buổi sáng tháng giêng lạnh lẽo năm 2007, một người đàn ông đàn liên tục 6 tấu khúc của Bach trên cây đàn vĩ cầm trong 45 phút . Ước chừng hơn 2000 người qua lại trạm xe điện ngầm trong khoảng thời gian đó và hầu hết những người ấy đều trên đường đi làm.


Sau ba phút, một người đàn ông trung niên nhận ra là có người đang chơi nhạc. Ông ta chậm bước và ngừng chân trong vài giây rồi lại hối hả theo thời khắc biểu đã định sẵn.
Bốn phút sau, người đàn vĩ cầm nhận được đồng tiền đầu tiên: một phụ nữ vừa đi vừa liệng tiền vô cái nón mà không hề ngừng lại.


Phút thứ sáu: một thanh niên trẻ dựa vào tường và lắng nghe tiếng đàn, sau đó liếc nhìn đồng hồ đeo nơi tay và bước đi.


Phút thứ mười: một bé trai khoảng 3 tuổi đứng lại nhưng bị mẹ lôi đi vội vã. Cậu bé trì lại và nhìn người chơi đàn lần nữa. Dù bị mẹ kéo đi, cậu bé vẫn luôn ngoái đầu nhìn. Nhiều đứa bé khác cũng quay đầu nhìn như thế và không cha mẹ nào lại không nhanh chóng kéo con mình đi cả.


Bốn mươi lăm phút đàn không ngừng, chỉ có 6 người thật sự dừng hẳn lại và lắng nghe trong một lúc. Khoảng 20 người cho tiền mà vẫn tiếp tục bước đi. Người chơi đàn nhận được tất cả là 32 đô la.


Sau một giờ, người đàn ông chấm dứt, thôi đàn và không gian trở nên im vắng. Không ai để ý. Không ai vỗ tay khen và cũng chẳng có ai lưu tâm. Nhưng không một ai biết điều này, người chơi đàn vĩ cầm đó là Joshua Bell, một cầm thủ lẫy lừng trên thế giới. Với cây đàn vĩ cầm trị giá trên 3 triệu rưỡi đô la, Joshua Bell đã đàn lên những tấu khúc tuyệt vời mà không ai có thể viết hay hơn đưọc nữa. Hai ngày trước đây, Joshua Bell đã trình diễn ở Boston, nơi mà giá trung bình là 100 đô la một vé và nhạc viện bán sạch không còn dư một vé nào.


Đây là một câu truyện thật: việc Joshua Bell lặng lẽ chơi đàn tại trạm xe điện ngầm được báo Washington Post sắp xếp để xem cảm xúc con người trong xã hội như thế nào, họ nhận thức và lựa chọn ra sao…


Câu hỏi được đặt ra là tại nơi chốn thông thường trong giờ giấc không thuận lợi cho lắm, liệu chúng ta có nhìn ra được tài năng với bối cảnh không ngờ, và liệu chúng ta có nhận thức được cái đẹp và ngưng lại để thưởng thức nó hay không ?


Có thể kết luận về chuyện này như sau: Nếu chúng ta không có thì giờ ngừng lại một chút để lắng nghe người nghệ sĩ lừng danh trên thế giới đàn những tấu khúc mà không ai có thể viết hay hơn được nữa trên một cây đàn có những âm thanh tuyệt vời nhất thì chúng ta sẽ còn mất mát và bỏ qua bao nhiêu thứ tốt đẹp khác nữa trên cõi đời này….

 
 
Video do Washington Post thực-hiện:
 
http://www.youtube.com/watch?v=hnOPu0_YWhw - http://www.youtube.com/watch?v=hnOPu0_YWhw
 
(nguồn : DĐ VDH DL)
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 01/Feb/2011 lúc 10:46pm

 

XUÂN NÀO ĐẸP NHẤT ?

(Đaminh Phan văn Phước)
 
Có chuyện vui như sau: Người vợ mới về nhà chồng mấy ngày thì Tết đến. Anh chồng trẻ đang ngồi ''chơi Xuân'' ở nhà hàng xóm, nghe nàng gọi: ''Ai ơi, về ăn cơm !'' Biết nàng mắc cỡ, không dám gọi lớn ''anh ơi!'', chỉ kín đáo biểu lộ tình yêu khăng khít bằng chữ ''ai'', chàng mỉm cười, hỏi: ''Cơm ai nấu?'' Nàng trả lời ''trổng trổng'', như nhõng nhẽo: ''Nấu chơ ai!'' Nghe ''chàng và nàng'' đối đáp, chủ nhà hàng xóm vui lây, nên hát để ''trêu ghẹo'' nàng thêm giùm chàng: ''Người ơi, người ở, đừng về!'' Thế là nàng giả vờ giận, nói sang: ''Ai cấm ai! Không về thì đây cũng không ăn!''

Theo tôi, tình cảm e ấp đầu Năm cũng là ''Hoa Xuân''. Trong các lời nhạc Xuân, tôi thích nhất câu sau đây của bài ''Xuân Ca'': ''Xuân trong tôi đã khơi trong một đêm vui, một đêm, một đêm, gối chăn phòng the đón cha mẹ về.'' Có em học sinh ''cấp II'' đã mang Xuân đến cho cô giáo như sau: ''Mình được sinh ra, đó là một thành công vĩ đại của cha và mẹ. Bổn phận của bạn là phải gìn giữ vẻ đẹp hoàn thiện của thành công ấy. Đừng bao giờ ủ ê nghĩ rằng cuộc sống là một chuỗi của thất bại...” Cô giáo cảm động, chờ đọc xong bài luận, cho điểm 9+, rồi viết lời bình thể này: ''Cảm ơn em đã tặng cô một bài học, một lời động viên vào lúc cô cần nó nhất. Em đã thực sự thành công đấy. Mong em tiếp tục thành công.''

Chúng ta thường nghe nói: ''Một con én không làm nổi Mùa Xuân.'' Nhưng, nếu loài én bị diệt chủng, chẳng lẽ Xuân không đến? Giữa trời hè nóng nực, được tin con mình thi đậu, cha mẹ nghe lòng phơi phới tình Xuân! Một em học sinh khác đơn sơ, đã viết về mẹ như sau: ''Trong cuộc sống sinh hoạt đời thường, hàng ngày chúng ta đã từng được thưởng thức rất nhiều loại lòng, như lòng lợn, lòng chó, lòng gà, lòng vịt". Chúng đều rất ngon và có vị riêng biệt, khác nhau, nhưng tất cả đều không thể bằng lòng.... mẹ.''

Nhạc sĩ Y Vân dùng chữ ''như'' để sánh Lòng Mẹ với nhiều phạm trù, nhưng lại thấy Lòng Mẹ đẹp hơn tất cả vì đó là tình Mẫu Tử thiêng liêng và bàng bạc trong thiên nhiên. Mẹ là bạn, là cô giáo đầu tiên, là gia tài của con. Không có mẹ, đời mình sẽ ra sao? Mẹ cũng chính là người rầy la, nhưng dễ tha thứ mọi lỗi lầm. Đối với ai khác, mẹ của tôi không phải là người đẹp nhất; nhưng, nếu ai nhìn mẹ bằng đôi mắt của tôi thì sẽ thấy mẹ tôi là người xinh nhất. Bên tai mỗi người, ''mẹ'' là từ ngữ kỳ diệu. Mẹ không học Trường Y, nhưng là nữ y tá tuyệt vời của tôi. Mẹ không phải ca sĩ, nhưng lời ru của Mẹ đưa tôi vào giấc ngủ say.

Tình Mẹ bao và Tình Cha cũng lai láng mà tôi sẽ ca ngợi trong một bài khác. Nhân đây, xin kính tặng quý vị độc giả hai bài thơ về Thân Sinh:

 
Bài về Mẹ:             
 
 NHỚ XUÂN  
(Phan văn Phước)
 
Bàn thờ nghi ngút khói nhang                                                        Ngồi bên những cánh mai vàng tươi xinh
Mẹ già lẩm nhẩm đọc kinh

Nhớ thương những đứa con mình ở xa

Vườn xuân rộn tiếng chim ca

Cõi lòng của mẹ bao la, nặng sầu

Con đi biền biệt đã lâu

Không còn giúp mẹ têm trầu như xưa

Mẹ ăn ấm buổi Giao Thừa

Con mừng tuổi mẹ... khi vừa nghinh tân

Mẹ cười, nét mặt khoan nhân

Đẹp hơn cả mấy vạn lần xuân tươi

Mùa xuân phúc lộc cõi người

Tức là có mẹ mỉm cười với con

Từ khi cha mẹ không còn

Xuân càng quạnh quẽ, héo hon nơi nầy

Như chim xa tổ, lạc bầy

Lệ sa, nhớ thuở sum vầy đón xuân...    

 
                       

Bài về Cha-Mẹ:                          

MÙA  XUÂN  BẤT  TẬN
(Phan văn Phước)
 
Tình xuân nồng ấm đã khơi                               

Khi cha với mẹ xây đời uyên ương!

Hai người khăng khít, vấn vương

Hài hòa, mẫu mực, nêu gương điển hình!

Hoa xuân tô thắm gia đình

Là lòng cha-mẹ hy sinh đủ điều!

Dáng xuân rực rỡ, mỹ miều

Là tình cha-mẹ thương yêu đậm đà!

Hương xuân ngào ngạt lan xa

Là lòng cha-mẹ mặn mà thương con!

Nhạc xuân trầm bổng, véo von

Là lời mẹ hát ru con ngọt ngào!

Vườn xuân rộn rã, xôn xao

Là ơn cha-mẹ cần lao miệt mài!

Ý xuân bền vững lâu dài

Là lời cha-mẹ cho bài học hay!

Áo xuân chẳng tốn tiền may

Là gương cha-mẹ ăn ngay, ở hiền!

Quà xuân chẳng phải tốn tiền

Là con hiếu thảo và siêng học hành!

Công ơn dưỡng dục, sinh thành

xuân bất tận, tốt lành cho con!!!

Giờ đây cha-mẹ không còn

Tấm gương vằng vặc theo con suốt đời!!!

 

Sau cùng, tôi xin kính chúc Đồng Bào và ước mong như sau:

Kính chúc Bà Con cùng Mẹ Âu Cơ, Họ Hồng Bàng một Năm Mới an khang và thịnh vượng. Ước gì, trong một tương lai gần, ''Quê Cha / Quê Mẹ'' sẽ được nằm trong danh sách mười Quốc Gia có ''Chỉ Số Thịnh Vượng'' (Prosperity Index) như: Na Uy, Đan Mạch, Phần Lan, Úc, New Zealand, Thụy Điển, Canada, Thụy Sĩ, Hà Lan và Mỹ! (Ghi theo cách xếp hạng từ 1- 10.)

Kính chúc tất cả các Tôn Giáo được truyền Đạo thoải mái như ở Đức Quốc và ở các nước khác, biết  đồng hành trong việc yêu cầu mọi người tôn trọng nhân phẩm, nhất là phụ nữ như tục ngữ Á Rập: ''Hãy kính trọng, trong bất cứ người nữ nào, bà đã cưu mang bạn.'' .....

Ước mong Nhà-Nước quyết tâm bảo vệ Nước-Nhà như người Pháp dạy tuổi trẻ: ''Nước Pháp là mẹ của tôi. Ta có thể đổi vợ, nhưng không thể đổi mẹ.'' ....

Tùy chức năng của mình, ai cũng có bổn phận và trách nhiệm xây dựng Đất Nước như lời cha-mẹ răn dạy. Còn tại thế hay đã khuất bóng, hình ảnh của Đấng Sinh Thành luôn nhắc nhớ mình như Jean Gastaldi vẫn nhủ lòng: ''Đừng nói dối với mẹ. Mẹ đọc được tâm hồn chúng ta như trong chính lòng mẹ.'' André Lévy vẫn thấy mẹ canh cánh bên mình: ''Mẹ không bao giờ chết bởi vì ta luôn gọi người là mẹ.''

 
Đaminh Phan văn Phước
28.01.2011
(25 Tháng Chạp, Năm Canh Dần)
 
 
(nguồn : DĐ VDH-DL, GS Đỗ Hữu Nghiêm, Oakland, CA Tue Feb 1, 11)
 
 
 


-------------
mk


Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 18/Feb/2011 lúc 5:50pm

 

Lời tác giả :

Nhân Tết Tân Mão, xin kính chúc quý bạn đọc một năm mới bình an, hạnh phúc và may mắn.
NHQ

 

Sống ở hải ngoại, cứ mỗi lần tết đến, tự dưng tôi hay thấy buồn buồn và mơ hồ thoáng một chút gì như tiếc nuối.

Cảm giác buồn buồn của những cái tết tha hương thì có lẽ chả có gì khó hiểu. Tết, trong tâm thức của người Việt, trước hết, là đoàn tụ; và đoàn tụ, trước hết, là với gia đình, láng giềng, và hơn nữa, quê quán, nơi để lại những hình ảnh đẹp nhất trong ký ức và hầu như gắn liền với tuổi thơ. Sống ở hải ngoại, cả ba điều ấy đều chỉ là những giấc mơ. Quê quán hay quê hương nói chung thì xa lắc; với riêng tôi, thì không thể về được; (đại) gia đình thì mỗi người một ngả; còn hàng xóm thì ngó quanh, chỉ thấy toàn…Tây!

 
Tết, ngoài sự đoàn tụ, cần có không khí. Mà cái không khí ấy lại hoàn toàn thiếu vắng ở hải ngoại.

 

Tôi nhớ hoài cái tết đầu tiên của tôi ở Pháp.

Lúc ấy tôi làm trong một nhà hàng của người anh ở Nice, một thành phố du lịch nằm ở phía nam, gần biên giới Ý. Giữa tháng chạp, nhân ghé một tiệm Tàu, tôi mua sẵn một phong pháo để dành. Tối 30, tôi thấy lòng nôn nao vô hạn. Vừa làm việc vừa chờ đợi phút giao thừa. Cuối cùng, phút giao thừa đến. Tôi mang phong pháo ra sân trước định đốt. Mọi người can ngăn. Lý do: một: luật pháp cấm; hai: phiền hàng xóm; ba: có thể bị cảnh sát bắt. Lúc ấy, tôi mới qua Pháp được hơn một tháng, còn ngơ ngác lắm. Nhìn quanh, thấy đường xá vắng ngắt và mọi nhà đều đã đóng cửa tắt đèn im ắng, tôi chột dạ, cầm phong pháo vào nhà. Mấy anh em và bạn bè ôm nhau, chúc tết nhau. Tất cả diễn ra trong vòng vài phút. Là xong. Sau đó, mọi người ngồi nán lại chuyện trò. Có người đề nghị mang bài ra đánh. Nhưng không ai hưởng ứng. Khuya rồi. Ngày mai, mọi người còn phải làm việc. Lại cụt hứng. Không khí lặng đi. Rồi ai về nhà nấy. Tối đó, tôi nằm trằn trọc suốt đêm. Thương cho cái tết đầu tiên ở hải ngoại.

 

Rồi tôi sang Úc.

Ở Úc, người Việt sống tập trung hơn, không khí tết coi bộ cũng náo nhiệt hơn. Năm đầu tiên, tôi háo hức rủ bạn bè, cả Việt lẫn Úc, đi chợ tết. Nhưng chỉ thấy thất vọng. Tôi không còn trẻ để chơi các trò chơi; không quá già để có thể chịu đựng nổi những màn trình diễn cúng tổ đầy kịch tính và những bài hát, những điệu múa và những vở kịch rất kém nghệ thuật trên sân khấu. Cuối cùng, hầu như chỉ có một hoạt động dễ tham gia nhất: ăn uống. Nhưng ăn uống trong các hội chợ như thế thì phải chấp nhận… bụi. Mà tôi thì ngại bụi bặm. Nên chỉ quanh quẩn một lát thì lại về nhà.

 

Về nhà lại thấy tiếc là mình sinh ra trong một gia đình theo đạo Công giáo. Mà là đạo dòng nữa. Tôi nhớ, hồi nhỏ, tối 30 tháng chạp, cả nhà kéo nhau đến nhà thờ xem lễ. Rồi về nhà ăn uống, tán gẫu, chờ đến đúng 12 giờ khuya, chạy ra trước sân đốt một phong pháo. Nghe nổ lẹt đẹt một lát thì chui vào mùng… ngủ. Chưa bao giờ tôi thấy ba mẹ hay ông bà tôi tiễn ông Công ông Táo về trời vào ngày 23; cũng chưa bao giờ thấy ai thắp một nén hương hay đặt một món ăn gì trên bàn thờ. Tuyệt đối không có cúng. Và, riêng trong gia đình tôi, cũng không ai nghĩ đến chuyện đi hái lộc hay xuất hành vào đêm giao thừa cả. Khuya, đốt pháo xong, mọi người lục đục đi ngủ.

 

Hồi nhỏ, tôi thấy đó là chuyện bình thường. Sau, lớn, hơn nữa, sống ở nước ngoài, xa cách hoàn toàn không khí tết ở quê hương, tự dưng tôi thấy thèm một cảnh cúng kiếng hay ít nhất, một vài nén nhang. Không hiểu sao càng ngày tôi càng thích mùi nhang. Nó làm mình tự dưng thấy ấm áp và nhẹ nhàng. Không khí chung quanh như lắng lại. Tâm hồn mình cũng thấy yên ả hơn một chút.

 

Thật ra thì bây giờ tôi có thể làm những điều đó dễ dàng. Thứ nhất, tôi không còn đi nhà thờ nữa; thứ hai, ngay cả khi tôi còn tin đạo thì luật Giáo hội sau này cũng rất cởi mở trong việc cúng kiếng và nhang đèn trong nhà; và thứ ba, già rồi, tôi có thể muốn làm gì thì làm.

 

Nhưng tôi vẫn không làm được. Một phần vì không quen; phần khác, vì thiếu một niềm tin.

Cho nên thỉnh thoảng, vào tối giao thừa, tôi lại vào… chùa.

 

Thường, tôi đến là do lời mời của các vị sư trụ trì để tham dự một số sinh hoạt văn hóa vào đêm giao thừa. Chưa bao giờ tôi tham gia các buổi tụng kinh hay cầu nguyện. Tuy nhiên, tôi lại rất thích lảng vảng ở những nơi có bàn thờ.

Để làm gì?

- Để nghe mùi hương của đèn và nhang!

Đêm giao thừa, đến chùa, với tôi, chủ yếu là để ngửi ké một mùi hương .

Của quá khứ .

Nguyen Hung Quoc

(Nguồn : DĐ VDH-DL)


-------------
mk



Print Page | Close Window

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a - http://www.webwizforums.com
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide - http://www.webwizguide.info