CÁ KÈO
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Thơ Văn
Forum Discription: Những bài văn bài thơ hay
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=458
Ngày in: 28/Jul/2025 lúc 11:18am Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: CÁ KÈO
Người gởi: thylanthao
Chủ đề: CÁ KÈO
Ngày gởi: 24/Nov/2007 lúc 4:28pm
Thập
niên 50 quê tôi thật sự sống trong cảnh thanh bình, gạo trắng nước trong, mức
chênh lệnh giữa giàu nghèo của người dân không đáng kể, Gò Công họp chợ trong
không khí an lành, chuyện móc túi, dựt dọc hình như không có. Đàn bà con gái
trong tỉnh đi chợ đều mặc áo dài truyền thống tốt đẹp nầy bị phá bỏ khi Cộng
sản may mắn chiếm được miền Nam.
Thuở
tôi vừa mới vào trường tiểu học, xóm cầu Huyện tôi ở thật hiền lành,với khoảng
gần 10 ngôi nhà trải dài cặp lô bên kia
là con kênh, mỗi nhà có rào rấp rạch ròi…Chiều chiều thường có những chiếc xe
ngựa có trống có phèn la hai bên hong xe treo bảng quảng cáo tuồng hát rong
ruổi chậm chậm khắp các nẻo đường để phát chương trình quảng cáo tuồng hát
trong đêm…Rạp Bình An Gò Công luôn luôn có gánh hát từ Sài Gòn xuống trình
diễn… Cứ mỗi lần nghe tiếng trống xe rao hát là tôi được phép chạy ra ngõ chờ
xe tới xin cho được tấm chương trình… Chị tôi cùng với mấy người bạn chung xóm
chuyền nhau xem tờ chương trình, dĩ nhiên không quên bàn tán về các cô đào cậu
kép trong gánh… Để rồi cười với nhau vui vẽ…Nhiều lần tôi nhận được tấm chương
trình bằng chữ tàu, các chị tôi cười chộ tôi
-Tại em giống chệt đó…
-Tối nay mình mua vé hạng cá kèo
đi coi hát …
Trong trí tôi nhận biết hạng cá
kèo là thứ hạng từ bằng tới thấp hơn hạng chót
Ba tôi trong một bửa ăn có nói về
chuyện nầy
-Tháng lúa gần chín miệt làngTăng Hòa cá kèo đặc ruộng, đứng trên bờ
nhìn xuống mặt nước thấy chi chit đầu cá kèo, Hạng cá kèo là vậy đó… Không có
ghề ngồi đứng sau hàng ghế hạng chót cũng đơm đặc đầu người…
Gia đình tôi thuộc hạng giữa của
trung lưu và nghèo, cho nên việc chi tiêu tiền bạc phải hết sức dè sẻn, bửa cơm
thường có hai món, món canh và mòn mặn, cũng có khi thay canh bằng món xào, Con
cá kèo rất thường được mẹ hay chị tôi làm món ăn trong ngày.
Cứ
mỗi lần ngồi vào mâm cơm , ba tôi nhìn thấy dỉa cá kèo, người thường nói
-cá kèo nầy là do đất sanh., Mùa
khô ruộng đất nẻ đồng, vậy mà mưa xuống vài đám , ruộng nổi nước là có cá kèo.
Nghe ba nói, tôi ghi nhớ mà không
thắc mắc…Cho tới khi tôi xin được vào trường đại Học khổ sai của Cộng sản tôi
mới thấy điều nầy là sai
Trại
tù Hà Tây, thường vào cuối thu, các ruộng rau muống bắt đầu cổi,Không phải tát
nước vào ruộng mà chờ ruộng khô đào hốc( lổ khoảng 5 tấc vuông) để trồng su
hào, hay bắp cải…Tôi thuộc đội rau nên thường năm vẫn làm việc nầy, hốc đào sâu
xuống khoảng 5 tấc, thỉnh thoảng tôi nhìn thấy lớp đất khô có thấm nước, nước
chỉ hơi ươn ướt, và sau lớp đất mỏng ướt nầy thế nào cũng có một con cá chạch,
nó nằm yên trong đất chờ nước tới là lội đi. Tôi nhìn con cá chạch rồi nhớ tới
lời ba tôi nhận xét về con cá kèo. Tôi thầm nghĩ chắc là cá kèo cũng ”tỵ thổ’
giống như cá chạch.
Mười
lăm năm lưu lạc đất người, thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến những món ăn làm từ cá
kèo , với bàn tay khéo léo của mẹ tôi, nhớ lại tôi còn thầy thèm… nhiều lần tôi
mua cá kèo đông lạnh trong vài chợ Việt nam… Nhưng dù tôi cũng kho nấu chiên
xào giống hệt mẹ tôi nhưng, thịt cá cứng
ngắc, ăn chẳng ngọt ngào…Những thức ăn làm từ cá kèo của mẹ bây giờ tôi chỉ còn
được ăn trong mơ… để rồi tỉnh giấc…lau vội giòng nước mắt lén chảy ướt má.
Trời
Gò Công tháng gió chướng, ngọn gió độc xứ Gò( Gió nào độc bằng gió Gò Công), gà
vịt cũng thường bị toi vào tháng nầy… Có gió chướng là có hoa so đũa, có trái
đậu rồng, hai loại nầy chỉ xuất hiện vào những ngày tháng cuối thu.
Tan
buổi học về, trời hanh nắng, chén cơm rang buổi sáng lót lòng đã đi chới đâu
mất, bụng đói cồn cào… bước vô nhà, bỗng khịt mũi, mùi canh chua từ nhà bếp
phưởng phất đâu đây…Nhìn mâm cơm mẹ dọn sẵn, tôi đã thấy cồn cào
Tô canh chua bông so đũa , lẫn
với đậu rồng xắt liễn, nấu với cá kèo, nêm rau tần dày lá với ớt sừng trâu chín
đỏ cắt khoanh mỏng xéo, dĩa nước mắm trong dầm ớt chim ỉa, chén cơm bốc khói,
mâm cơm chỉ một món nhưng ăn hoài, ăn no cành hông mà vẫn còn muốn ăn nữa…
Tôi ăn luôn 5 chén cơm loại chén
có hình rồng, mẹ nêm đường, muối, mẹ dầm me, mùi chua cay, ngọt , mặn thật hòa
họp, cá kèo mập tròn, bụng cá béo ngậy với vị đăng đắng của mật cá, ngon khó tả,
cho tới bây giờ xứ người nhớ lại, tôi nuốt miệng không mà cũng thấy ngon…Xong
bữa cơm bụng căng tròn lưng đẫm mồ hôi, quá đã….
Thuở
còn nhỏ, tôi là con út nên thường quẩn quanh bên mẹ, mỗi lần mẹ đi chợ về có
mua cá kèo là tôi có phận sự canh mấy con gà cho mẹ làm cá, sơ ý một chút là gà
cắp cá chạy te te, rượt theo bắt lại đủ mệt. Cá kèo mẹ để trong rồ, lựa thế đất
bằng ngoài sân mẹ ướp cá với tro bếp rồi cầm từng con chà trên mặt đất cho sạch
vảy và nhớt cá, sau đó mới để cá vào rổ, nhận rổ vào chậu nước chà cá nhiều
lần…cá kèo đen đúa bây giờ trở nên trắng trẻo,Mẹ dùng dao nhỏ, sau khi liếc sơ vào
một cái khu tộ, mẹ bắt đầu cắt bỏ đầu cá, bầy gà sau khi cá làm xong thì bầu
diều cũng căng cứng vì đầu cá, lọai cá nầy sống khá lâu trên cạn.
Cũng
cá kèo mẹ dùng gắp tre cặp gắp nướng, cá gặp lửa than hồng liu riu chín tới từ
từ, cho tới khi da nứt vàng nghín mẹ để cá vào dĩa, nước mắm chanh đường tỏi ớt
, củ cải trắng mẹ xắt lát mỏng rồi xắt lại thành sợi, ngâm cải vào tô giấm có
pha chút đường muối và chút nước lã, rau quế mẹ xắt nhuyển, cá kèo nướng được
mẹ đặt nằm khít trên dĩa, mẹ chan ngập nước mắm ớt, trải trên mặt một lớp củ
cải ngâm dấm, trên lớp củ cải là lớp rau quế, bên xứ lạ nầy có tiền biết đi đâu
để mua dĩa cá nướng nầy đây?.thêm một món bông bí xào với thịt ba chỉ. Cơm ăn
với cá kèo nướng,bông bí xào thêm xị rượu đế Bình Ân, khà một tiếng…quên hết
chuyện đời.
Chị
Hai tôi thường kho mắm với cá kèo. Mắm cá sặt chị mua của bà thầy Thanh, kho
rục lọc bỏ xương, cá kèo, chị để nguyên con, nêm đường cho mắm dịu, canh sôi
hớt bọt, cá vừa chín tới, trái đâu bắp chị cắt mỗi trái làm 3 khúc, cà dái dê
chị cắt miếng bằng ngón tay cái…thả hết vào nồi mắm, chờ lửa sôi lại chị nêm
thêm hành, ớt…Nhà bếp trống vách vậy mà mùi mắm vẫn bốc thơm lừng, gầy cồn cào
bao tử…
Buổi
chiều trời mưa rả rít, cảnh trời mưa mùa lúa chín, mưa không lớn, nhưng dai
dẳng dễ làm lòng người se lại, dễ gợi nhớ những kỷ niệm êm đềm đã trôi qua…,
những cô gái mới về nhà chồng dễ nhớ tới người tình cũ …gian nhà bếp trống
vách, bộ ván cũ nhỏ, vừa dùng để nồi cơm trả cá, đi chợ về bày biện trên ván,vừa
dùng làm bàn ăn, ba, anh, và tôi ngồi ghế đầu quanh góc ván, mẹ chị ngồi trên
ván, mâm nhôm, với một tô nước mắm kho, một dĩa bàn đựng cá kèo, một dĩa dưa
leo, khế chua, chuối chát, một tô tai bèo đựng rau thơm, gồm tía tô, rau quế,
vấp cá, húng cây, một dĩa đậu bắp hấp cơm …mấy trái ớt chỉ thiên vừa hườm chín…trời
nhá nhem tối, ngọn đèn dầu khêu ngọn cao, cơm gạo Sóc Nâu nóng bốc khói…Anh kể
chuyện trường, chị kể chuyện lớp, mẹ kể chuyện ngoài chợ…. Mâm cơm gia đình ấm
cúng bên ngọn đèn dầu với đầy đủ thành viên trong nhà… cảnh nầy,hy vọng kiếp
sau tôi mới tìm thấy lại được… ngoài trời mưa vẫn còn rả rít, nồi cờm cạn dần,
mẹ lại tủ thức ăn mang ra một dĩa vú sữa mẹ đã cắt sẵn ăn tráng miệng..mẹ ơi!
bàn tay của mẹ, bàn tay mềm dịu chăm sóc đàn con bây giờ con biết tìm đâu??
Có
nhiều hôm cá kèo mẹ không nướng mà chiên tươi, mẹ dầm nước mắm me đường tỏi ớt
thật cay, cá kèo chiên tươi ăn kèm với đậu rồng xắt xéo xào với tôm bạc lột vỏ
( dân Gò Công phân biệt tôm càng, tôm trứng, tôm đất, tôm bạc, tôm chấuu, tôm
tích…rồi tới tép rong, tép mòng …sau cùng là con ruốt, ruốt là loại tép ở biển,
nhiều nơi tôi nghe người dân gọi con tôm đất tôm bạc…là con tép đất, tép bạc,
vậy chớ khi con tép đất nầy phơi khô sao không gọi bằng con tép khôJ.)
Gò
công thuở tôi còn nhỏ, cá kèo rất rẻ, tôi nhớ có năm, bà con ( gia đình chị
Phụng, gia đình chị hai E) từ Bến Chùa mang cho nhà tôi mỗi lần hàng mấy trăm
con cá kèo, thuở đó cá kèo được tính bằng đôi( mỗi đôi 2 con)
Từ
khi giặc cờ đỏ cưỡng chiếm miền Nam…
cá kèo trở nên khan hiếm, có lẽ cá kèo cũng khiếp sợ lá cờ sao mà kéo nhau bỏ
xứ ra đi tìm miền đất bình an để sống
Ngày
còn khoát áo nhà binh, mỗi lần về phép, sau khi ghé thăm nhà, tôi thường xuống Cầu Bến Lội. Trong đồn lính gác bên cầu
tôi có 2 người bạn thân đi lính nghĩa quân ở đây, về đây mới thấy cảnh thanh
bình dù giặc giả tứ phương nhưng Gò Công vẫn không còn một bóng giặc thù, đó là
điểm son của tỉnh quê nhà tôi.Tôi mặc đồ trận dù cho đi sáng đêm từ xã nầy qua
xã khác, tôi cũng không bao giờ phải sợ Việt Cộng.
Về
đây nhậu tôi nhớ hoài món khô cá kèo nướng dầm nước mắm me. Cá kèo làm khô,
nướng lên thịt ngọt lại thơm, nước mắm me dầm ớt, mùi chua ngọt của nước mắm,
hòa với vị ngọt thơm của khô cá…thì cạn ly đầy ta lại rót đầy ly cạn..Lúc đương
thời, đi công tác dưới Sóc Trăng, tôi thường mua khô cá kèo đem về đơn vị nhâu…
Khô cá kèo có khuyết điểm là không để lâu được vì thịt khô trở nên gắt dầu, bởi
bụng cá có nhiều mỡ. Lúc trong tù Cộng Sản, nhận quà gia đình, có một gói nhỏ
mấy con khô cá kèo, tôi tự dưng ứa nước mắt, hình ảnh mẹ tôi, bạn bè tôi… cảnh
cũ quê nhà như hiện rõ trước mắt tôi.Những con khô cá kèo nầy, trước khi cho
vào bọc,chắc là mẹ tôi trải khô trên mặt hồ nước bên hông nhà phơi nắng, hình
ảnh mẹ già đang trăn trở con khô như hiện ra trước mắt tôi
Những
ngày đi huấn luyện trong chiến dịch Kiện toàn an ninh lãnh thổ quân đoàn 4 vào
giữa năm 74, công tác tại Sóc Trăng tôi có dịp ăn món bún nước lèo nấu bằng cá
kèo, món nầy quê Gò Công tôi không có… lạ miệng ăn thấy ngon
Con
cá kèo kho nêm hẹ rắc tiêu là món thường ăn của dân miền lục tỉnh,cá kèo kho
khô, cá cong mình lại quyện hẹ tiêu, kèm chút rau thơm khế chua dưa leo…mới
nghe nói đã bắt thèm, nhưng cá kèo kho chỉ, dân Việt lưu vong khó biết làm.Thời
Gò Công thanh bình, thời tôi còn thơ trẻ, chạy chơi quanh nhà, khi bắn kè, lúc
đá cầu, nồi cơm chiều gần cạn mẹ luôn luôn chắt cho tôi một chén nước cơm. Gạo
thời đó cho nước cơm thật béo, chén nước cơm để nguội trên mặt đóng một lớp ván..
chạy chơi nhớ tới cử, tôi vô bếp bưng chén nước cơm uống ngon lành.
Con cá kèo kho như bình thường,
khi thấy nước rút gần cạn, cho vào nửa chén nước cơm chắt, chờ sôi lại vài dạo
cho nước hơi kẹo, nêm hẹ( cá kèo kho chỉ nêm hẹ mà không nêm hành), dùng đủa dẽ
cá, cá gắp khỏi dĩa sẽ có một sợi chỉ nước cá vương theo, nên gọi là cá kèo
kho…chỉ.
Thịt
cá kèo ăn bị phong, tuy nhiên “Ông Trời” sinh ra thứ độc, ông cũng sinh ra thứ
để trừ, mật con cá kèo là thứ giải phong.
Thời
cá kèo đơm đầu đặc ruộng, có dịp về Tăng Hòa, hay Bình Luông Đông, bạn bè gặp
nhau chén chú chén anh, với mấy món nhậu miền quê, Gà giò xào lá ớt, lòng gà
chưn hột vịt… tiệc gần tàn, vợ bạn mình múc đầy một tô lớn…cháo cá kèo.Thường
món cháo là phải dùng gạo, riêng cháo cá kèo chỉ có nước và thịt cá kèo nhưng
vẫn gọi là cháo. Có ăn qua chén cháo cá kèo mới thấy thấm” món ngon vật lạ miền
Nam”, cá kèo còn nhày soi sói, nồi nước đang sôi thả nguyên rổ cá sống vào, khơi
già lửa, cho tới khi nào cá rục, dung đũa bếp( đũa cái) quậy vài lấn cho cá rã
thịt, dùng rổ thưa lọc bỏ xương, chụm lửa riu riu, canh hớt sạch bọt, nêm nước
mắm, hành xắt nhuyển, tiêu đâm vừa bể… Uống rượu đế, mình mầy nóng hổi, húp một
muổng cháo cá kèo vị ngọt lâng lâng từ miệng trôi xuống tận bao tử.. tỉnh rượu
ngay… vị cay của tiêu, thơm mùi hành, nêm nếm vừa ăn… ngon ngọt làm sao tả hết
được, không lẽ ngối đó múc cháo ăn hoài… đâu phải người miền Nam nào cũng được
ăn món nầy ( Món nầy cũng nấu giống như món cháo cá Khoai ờ biền Vàm Láng)
Cờ
đỏ còn bay tôi còn xa xứ, nghe cô em đồng hương về Việt Nam kể lại , thực đơn
bây giờ có món lẩu cá kèo, và món nầy được dân Hà Nội rất ưa chuộng, chưa được
thưởng thức nên không viết rõ được
Có
những cái rất tầm thường nhưng khi không tìm thấy mình mới thấy tiếc, thấy nhớ…
Khoảng thập niên 50, 60 cá kèo là loại
cá dành cho dân dã miệt ruộng vườn, nhưng với bàn tay khéo léo của người nội
trợ, cá kèo được chế biến thành nhiều món ăn rất ngon miệng lại rẻ tiền…làm món
nhậu cũng rất bắt mồi.
Đất
người khác phong thổ quê mình, có nhiều con cá, cọng rau, tìm đỏ con mắt không
thấy, tiệc tùng sang trọng ai đi đãi khách món cá kèo kho chỉ, món canh chua…
chỉ có trong mâm cơm gia đình, dọn trên bộ ván sơ sài bên ngọn đèn dầu lữa mới
thấy hết cảnh ấm cúng của mâm cơm chiều cả gia đình xum họp chuyện trò vui vẻ..với
đầy đủ hương vị ngon ngọt của cọng rau con cá quê nhà.
Chiều
ở đây, đi làm về thui thủi một mình, vợ làm khác ca, con im ỉm trong phòng, cá
thịt đông lạnh nhạt phèo, cố ăn mà sống, tôi vẫn thường nấu canh rau…. Ăn cho
trơn cổ dễ nuốt chén cơm xứ người, có thèm canh chua cá kèo cũng chỉ để nuốt
nước miếng , chứ biết làm sao hơn
Cũng
tại bàn tay của mẹ chăm sóc miếng ăn thức uống cho con từ ngày còn thơ trẻ,
những món ăn nhà nghèo nhưng đầy đủ chất ngọt ngào của con cá cọng rau vùng
quê, hương tay của mẹ ủ ấm đời con…cho nên bây giờ sống đời xa xứ con mới thấy thèm
hương vị quê nhà. Đời sống vật chất ở đây đủ đầy… nhưng mẹ ơi!, buổi chiều nào
trời mưa, đi làm về, con đứng tựa cửa kiếng nhìn ra sân… mắt của con mờ dần…
con nhìn thấy ngoài sân hàng cây so đủa, trổ trắng bông đang nghiêng mình theo
gió trong cơn mưa chiều… Cá kèo ơi ta nhớ…nhớ canh chua cá kèo!
Thủy Lan Vy
Viết
tại Kỳ Đà Động, cuối hè
------------- Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
Trả lời:
Người gởi: thylanthao
Ngày gởi: 26/May/2008 lúc 3:15pm
MỘT THỜI
TUỔI THƠ
*
-Gò Công ơ! Nhớ biết
mấy cho vừa!
Dòng
sông với những lượn sóng nhẹ nhàng chầm chậm chảy ngang qua trước nhà, một hình
ảnh luôn gắn bó suốt thời thơ ấu của tôi, đây là một chi nhánh của con kinh Sa
Li Sết Ti lượn qua thị xã và chảy vào con Sông Tra của Tỉnh Gò Công..
Gia
đình tôi với ông bà sống bằng nghề dạy học, cho tới đời anh chị tôi là đã trải
qua 7 đời gỏ đầu trẻ, tôi lớn dần lên trong không khí ấm cúng hòa thuận của gia
đình…Nhà tạm đủ ăn, huê lợi quanh năm trông nhờ vào hai mẫu rưởi ruộng cho
thuê, mẹ khéo léo sử dụng tiền bạc nên chuyện cơm nước ăn tiêu trong gia đình
cũng tạm đủ, anh chị học tại Sài Gòn sống nhờ học bổng và nhận dạy kèm thêm…
Thuở
còn bé, tôi gần gủi với Ông Nội tôi nhiều hơn, chạy chơi lẫn quẫn quanh nhà
nghe Ông nói chuyện ….đời xưa với ba tôi, những câu chuyện thuở Ông tôi còn dạy
học ở Chợ Gạo, ở Tân Niên Trung, thuở Ông tôi hưu trí ra làm làng , Nội làm
Hương Cả sau được lên chức Đại Hương Cả, Nội thường nhắc tới tên ông chủ tỉnh
là ông Chánh Grimald, ba tôi thì nhắc chuyện thời đi dạy học ở Chợ Giồng ông
Huê,với Ông đốc học là ông Be a nô… tôi lẩn quẩn bắn kè trong sàn nhà nền đất, nhà
vắng vẻ, anh chị lớn học ở Sài Gòn, mấy chị kế đang giờ học ở trường, tôi lủi
thủi một mình bên mấy cục kè chỉ,kè trái khế, kè xi măn, kè ốc… vây mà tai tôi
vẫn nghe tuy không hiểu nhiều về câu chuyện, nhưng nhờ bộ nhớ tương đối tốt nên
những câu chuyện trao đổi hàng ngày giữa ông nội và ba tôi tôi vẫn còn nhớ đến
bây giờ. Tôi gạn lọc, tôi rút tỉa, tôi hình dung ra từng nhân vật mà sau nầy
lớn lên có người tôi biết mặt có người biết qua báo chí có người biết qua sự
nhắc nhở của dân tình…cho nên với lứa tuổi của tôi chuyện nhân vật Gò Công tôi
biết khá rành rẽ so với những người cùng tuổi khác
Tôi kéo chiếc xe bằng họp cá mòi
su ma cô, ba tôi cắt 2 đầu ống chỉ cây dù làm thêm 4 bánh xe, khi thì chỡ mấy
cục kè, khi thì mấy chú em ve, cũng lên dốc, cũng bóp còi miệng, trò chơi đơn
giản của trẻ em nghèo thời đó, tôi không được dang nắng chạy ngoài đường như
những đứa trạc tuổi tôi vì tôi là con út , với lại ba tôi thường nói, con thầy
giáo không được chơi lêu lỏng người ta cười.Trước nhà là con kinh dù nước chảy
hiền hòa nhưng vẫn là điều cấm kỵ của gia đình tôi, không được ra lộ mon men
bên bờ sông một mình….vì dưới sông có Hà Bá lôi xuống nước chết…Bởi vậy dù nhà
cạnh sông mà thuở bé tôi không biết bơi. Tôi nhớ năm tôi học lớp chót với thầy
Ba Nguyễn văn Thắng, lớp học ngày hai buổi, tuần lễ nghỉ ngày thứ năm và chúa
nhật, một lần tôi kéo xe…cá mòi ngang qua ghế xích ông tôi đang nằm đọc sách,
thấy tôi vừa kéo xe vừa bóp còi, ông tôi vừa vỗ tay vừa nói:
-Kỳ Nhông lên núi Kỳ Đà ( Kỳ Nhông là tên tôi)… Tôi vẫn tiếp tục kéo xe miệng
thì trả lời
-Ông nội già lật đật leo theo.
Tôi nhớ ông nội tôi vuốt râu cười to lắm… từ đó gặp ai ông cũng kể lại, nhất là
bà con từ Sài Gòn về.Tôi nhớ sau khi kể xong ông thường cười cười ;
-Thằng nhỏ nầy lớn lên chắc khá
về thơ phú , mới 5 tuổi mà nó đã …
Những
buổi sáng nghỉ học tôi thường theo mẹ tôi đi chợ. Chợ Gò Công lúc bấy giờ các
bà nội trợ đi chợ thường mặc áo dài, tay xách nả ( tiếng địa phương, một lọai
giỏ xáxh có đáy hình chữ nhật, đan bằng tre)…bận đi tôi xách nả cho mẹ, trên
đường đi gặp người quen của mẹ tôi cúi đầu chào…. Đến ngã tư đầu đường, nơi có
tấm bảng ghi tên bằng chữ đèn néon Tin Tức Cần Thiết, ngay bảng tin tức nầy là
đại lý nước đá cây, ba của trò Trần hảo Hiệp bạn học lớp chót của tôi, với
chiếc xe ba bánh, ba của Hiệp chỡ nước đá đến các tiệm nước trong tỉnh, lúc đó
Gò Công hình như chỉ có một nhà máy nước đá của chú Tư Nguyên con trai thứ tư
của bà Năm Sún,sau nầy ở gần cầu Huyện có thêm một hảng nước đá của Ông Ba Huy,
con đường nầy cặp hông chợ, ít xe, một bên là dãy phố với các tiệm buôn cám,
phân , thúng rổ, trải đệm ven đầu đường là anh bán bài ca vọng cổ, kế là hàng
sơn đông bán cao đơn hoàn tán, rồi thuốc sán lải….Tôi thường xề xuống ngồi
trước gian hàng bán bài ca, mẹ tôi không quên căn dặn :
-Con
đừng đi đâu, con ngồi tại đây cho mẹ dễ
tìm.
Thời
đó với tôi anh bán bài ca nầy là ca sĩ số dách, anh có cây đàn guitar, anh vừa
đàn vừa hát, thời đó có những bản thời danh như Nắm Xương Tàn của sọan giả Quy
Sắc, Trái Khổ Qua, Trái Gùi Bến Cát… Nghệ sĩ thời đó là Hữu Phước, Thanh Hương
Hùng Minh, Lệ Thủy, em bé Hương Lan…Sáu câu vọng cổ được in thành tập mỏng, khổ
sách hình chữ nhựt bằng nửa cuốn tập học trò, có in hình nghệ sĩ trình diễn…
Thỉnh thoảng tôi cũng xin tiền mẹ mua một cuốn, lâu dần tôi có đủ các quyển mà
anh bày bán, điều lạ là tôi không ca vọng cổ được nhưng rất thích nghe, phải
chăng đó là đặc tính của người miền Nam, nội dung bài ca vọng cổ thường là ân
đền nghĩa trả, đề cao tình chung thủy, nghĩa bạn bè, hiếu đạo ….tôi không ca
được nhưng thuộc gần hết …Có lẽ những lời ca vọng cổ nầy đã ảnh hưởng đến cuộc
đời của tôi, giúp tôi biết thương người khó, biết trọng đấng anh hùng và nhất
là giúp tôi rất khá trong môn việt văn sau nầy… Lúc vào tù tôi vẫn còn được
nghe lại những bản nầy…. vào mỗi cuối tuần lúc tôi còn ở đội 3 trồng rau ( Trại
tù Hà Tây) có anh Ca văn Dương, Anh Đáng… hai anh đại úy nầy thuộc rất nhiều
bài ca vọng cổ… Trong cảnh tâm tối trong phòng tù….nhất là những đêm mùa đông,
trời trở lạnh, cuộn mình trong mềm nằm nghe hai anh rỉ rả ca, với tiếng đờn của
anh đại úy Bửu… Nhớ nhà hết biết.!
Tôi
cũng thường xem Sơn Đông diễn trò, tôi nhớ có nhiều gánh khác nhau, có gánh có
Chó, khỉ làm trò, có gánh có nhiều võ sĩ biểu diễn…Té tức, bị đánh tức, làm nặng
tức… …dán cao đả tức là hết liền…Tiếng trống tùng tùng đệm sau lời rao , quý vị
con nít lấn dần vào, đường kính sân diễn hẹp dần anh sơn đông dùng 1 sợi dây
dài dầu có chiếc gối nhỏ, quay vù vù nới rộng vòng diễn, có anh võ sĩ nằm xuống
đá tảng đặt lên trán , một anh khác dung búa tạ đánh vỡ tảng đá… đầu anh chẳng hề
hấn gì… Tôi thích nhất là khỉ đua xe đạp, hai con khỉ trên hai chiếc xe, cong
lưng đạp nhiếu lúc nhóng người lên, hay ngoái cổ lại nhìn phía sau…Anh Sơn Đông
cầm một cái ly đầy nước, anh cho vào chút màu đỏ ly nước thành màu đỏ tươi, anh
bảo dây là máu người, rồi anh cho vào ly một thứ bột nước trong ly thành màu
đậm đen. Anh bảo dây là máy huyết của người bệnh, bị đánh, bị té, bị đè… nhưng
đồng bào đừng lo, bệnh quỷ đã có thuốc tiên, anh từ từ xé một hoàn thuốc bỏ vô
ly, nước sẫm đen trở lại màu đỏ tươi… -
Anh Hai bên nầy mua một hộp.. dạ biếu thêm một hộp. dạ cô Ba áo hường bên kia
mua… Tiếng trống, tiếng chập chả đệm theo sau từng câu nói… Gốc chợ sinh động
hẳn lên, nhiều lúc đang say sưa nhìn khỉ đua xe, thì bàn tay êm ái của mẹ tôi
đã nắm lấy tay tôi, người âu yếm nói:
-
Về con,Mẹ có mua cho con một đồng bánh chuối., về nhà hãy ăn, về con!
Nhiều
lúc ngồi xem, tới màn bán thuốc tôi hay vơ vẩn ngó sang hàng bên xem có gì hấp
dẫn không, bên hàng thuốc sán lải, tôi thấy thằng Sáng, Thằng Nghiêm tọc quần
ngồi, đang ăn trái chuối chấm thuốc, Bác Hồ ló đầu ra,Bác thuở còn trẻ chưa có
râu trông nhỏ nhắn dễ thương, tôi ngó đi ngó lại một lúc thì thấy người bán
thuốc khều dưới đít thằng Nghiêm kéo ra một nùi lải đũa, rồi anh dùng dao lam
mổ con lải, thôi thì hàng hà lải kim trong bụng lải mẹ.
-Bà
con nhìn thấy tận mắt chưa, lải kim từ bụng lải mẹ chui ra. Các em ăn uống
không rửa tay, trứng lải theo vào sản sinh trong bụng, bụng nổi gân xanh, ăn
hoài không mập…ăn bao nhiêu là lải rút hết bấy nhiêu. Đừng có lo.Mỗi gói thuốc
một đồng, mua hai gói tặng thêm một gói.. bảo đãm không hiệu nghiệm ra đây lấy
tiền lại… lại một màn bà con cô bác quăng tiền ra mua thuốc…
Thời
khoảng thập niên 50, Gò Công rất hiền hòa,người đi chợ ít khi bị móc túi,
chuyện cướp giựt hầu như không có.Chuyện úp hụi, giựt hụi họa hoằn mới có một
vụ … gây xôn xao cả quận, thời đó Gò Công là Quận trực thuộc tỉnh Đinh Tường, Chỉ
huy trưởng quân sự hinh như chức vụ là Tiểu Khu Trưởng là thiếu tá Chi,văn
phòng làm việc là một dinh thự bên hông trường Nam cạnh dinh ông phó. Dinh tự
nầy thời Đệ Nhất Cộng Hòa là Ty Công An, Thời Đệ Nhị Cộng Hòa là Trung Tâm Hành
Quân, Ông Chi có người con gái là chị Xuân bạn học với chị tôi thời nội trú Gia
Long nên tôi còn nhớ. Năm tôi học lớp ba vị chỉ huy là Đại úy Trần bá Di, .,
lúc ở trại tù Hà Tây, có dịp vào khu F( khu nhốt Tướng) Ông Di biết tôi là dân
Gò Công có hỏi thăm tôi về một vài gia đình cố cựu ở Gò Công như Ông Quản Huỳnh
Đình Phát…
Con
đường từ nhà tôi lên tới chợ, tôi thuộc lòng cảnh vật hai bên đường, bên tay
mặt là con kênh nước chảy hiền hòa lên tận khỏi trường Bà Phước, lúc tôi còn
nhỏ, con đường từ bên hông trường Bà nối qua dinh ông phó chưa đắp, Con đường
nầy được đắp năm tôi học lớp tư, trước trường Bà trở thành hồ nuôi cá phi, có
cầu thủy tạ,hai bên cầu có hai cây dừa rũ bóng, có băng đá hoa kiểng thật đẹp,
con đường mới đắp được trải đá, hai bên đường trồng mấy cây điệp tây.Những buổi
đi học về tụi nhỏ thường tụ lại đây bắn kè, đa số là dân Xóm Me và xóm Cầu
Huyện. Trước Pon ga Lô thời đệ nhất Cộng
Hòa là Ty Cảnh Sát ( Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, hai ty Cảnh Sát và Công An biệt
lập), một hồ tắm xinh xắn có cẩn đá bốn bên nằm trước trường Nam tiểu học, Công
viên có lối đi trải đá sỏi, có băng đá, có nhiều giỏ đựng rác được treo vào
thân các cột đèn, có những thảm cỏ xanh có người canh giữ , tôi còn nhớ trên ve
áo người canh giữ có mang 2 chữ CV. Người cắt cỏ dùng phảng đề cắt, tưới tắm
chăm sóc cẩn thận, chiều chiều gió mát trăng thanh nhiều gia đình ra băng đá
ngồi hóng gió, từ Hồ tắm lên tới phòng thông tin là khoảng trống trước ngôi nhà
của Ông Cai Tổng Sáu (Nguyễn Văn Tân) Ông là con trai của Ông Đốc Phủ Nguyễn
văn Hải ( Ông Hải đậu tú tài bên Tây), Vị Tỉnh trưởng người Việt đầu tiên ở Gò
Công,nguyên ngôi nhà nầy là nhà của Ông
Lảnh Binh Huỳnh Công Tấn, Ông nầy là
thuộc hạ của Ngài Trương Công Định, vì sai lầm bị quở phạt nên bất mãn ra đầu Tây
chỉ điểm nơi trú của Ngài Trương Công ở đám lá tối trời thuộc làng Gia Thuận,
Cậu Hai Miên là con trai của Ông Tấn, một thanh niên văn võ song toàn, đậu tú
tài bên Tây về không chịu làm quan, Ông đứng dưới đất hơi trở bộ là nhày lên
nóc nhà dễ dàng, sống đời giang hồ, trọng nghĩa khinh tài, ngao du đây đó không
hợp tác với Pháp,Tây tà lạng quạng chưa biết Cậu, tỏ vẽ nghêng ngang thường bị
Cậu bộp tai, đá đít, duy Cậu chỉ có tật là hay để ý tới vợ đẹp của người khác,
Sinh nghề tử nghiệp, ông quen lấy vợ người nên bị phục rượu đập chết…Thời giặc
cờ đỏ, ngôi nhà nầy bị tịch thu, trưng dụng làm nhà văn hóa… Thuở nhỏ đi ngang
qua ngôi nhà nầy tôi thường bước thật chậm để nhìn vào, , bao bọc quanh khuôn
viên là hàng rào bằng đá xanh trên là song sắt uốn hoa văn, Cồng sắt hai cánh
xe hơi chạy thong thả, trong sân nhởn nhơ mấy con chó berger cao bằng tôi màu
lông sậm với hai tai cụp
, sát hàng rào mặt tiền là một hàng
cây mai tứ quý mỗi cây cao gần 2 thước, Hông bên trái có trồng mấy cây ổi ô rô,
lá ổi giống như lá ô rô trái nhỏ nhưng rất thơm, nghe đâu chính Ông Đốc Phủ khi
du học bên Tây mang về, Ông mang giống cây Sơ Ry, cây ổi ô rô, cây tùng( Trồng
trong nhà mồ, thời đệ nhị Cộng hòa trưng dụng làm Trung Tâm Tiếp vận). Ngoài
nhà mồ Ông Đốc Phủ còn một miếng đất lớn là nhà vườn trồng cây ăn trái và một
nhà thờ ba căn hai chái nền tam cấp cao ráo cất theo kiểu chữ công, Nhà vườn ,
nhà mồ đều có cất nhà nhỏ cho người giữ ở, Nhà vườn bị trưng dụng làm trại gia
binh cho trung đoàn 12. Nhà thờ thì do Ông Hương Thân Bính là bà con chú bác
với ông cai Tổng coi sóc thờ phượng, Cô Giáo Nhung là người thừa kế ngôi nhà
thờ nầy.Nhà xe nằm bên mặt ngôi nhà, Ông cai Tổng, mỗi sáng Ông thường ngồi
tiệm Lưu Sum. Có tài xế lái xe Huê Kỳ màu xanh bóng lộn… chở tới trước tiệm,
cách nhà ông nếu đi bộ hút chưa tàn điếu thuốc.Thường Ông ngồi chung bàn với
những vị có chức sắc, những người giàu có trong tỉnh như Ông Louis Đại Đồng,
Ông Thôn Trưởng Nguyễn tấn Khoa, Ông cả Hạc, Thầy giáoMai…
Tôi
lên lớp nhì, tập vở của ngày khai trường do chị tôi dẫn đi mua ở tiệm Thuận
Nguyên, có thiếu món gì tôi thường đến tiệm Chú Luc nằm trong căn thứ 3 dãy phố
bên hông công viên trước phòng thông tin, căn bìa là tiệm may Văn Tươi, ông chủ
tiệm may có dáng người phong lưu, chiều Ông mặc sọt trắng áo thung trắng xách
vợt ra sân tennis của trường Nam tiểu học chơi banh với các vị chức sắc tòa
hành chánh hay các thầy giáo dạy tại đây. Thứ năm, chúa nhật nghỉ học tôi vẫn
thương theo mẹ đến chợ, không có gánh sơn đông nào qua dược mắt tôi, có ngày mẹ
cho tôi 1$ 50 mua một khúc bánh mì cá mòi và thịt, xe bánh mì thịt của dì Tư
trước sân tiệm may Hồng Yến, với tôi lúc bấy giờ bánh mì thịt ở đây là ngon nhất
tỉnh, thỉnh thoảng tôi cũng nhờ mẹ tôi xin giúp cho một họp cá mòi không về nhà
làm xe kéo. Buổi chiều thường qua sân nhà Ông Thôn Khoa chơi với con chú hai Kỳ
nhỏ hơn tôi vài tuổi như Huỳnh Mai ,Phú,Quý, Hồng Lan, Mai tuổi tý, Phú tuổi
dần, Lan tuổi tỵ, có Chín Ngọc là cháu của bà thôn học bên trường nữ trước tôi
một lớp, tôi cũng chơi đánh tên( đánh đũa với Mai, với Chín, chơi bá quan , chơi
kéo tàu mo, xung quanh nhà có trồng nhiều cây cao tây, tàu xệ hạ xuống làm ngựa
kéo. Ông nội tôi vẫn thương dặn dò:
-Mình
con nhà nghèo, con qua nhà người ta chơi chớ có vào nhà, nhỡ nhà người ta mất
tiền sẽ đổ ngờ cho con.
Nội
chỉ nói một lần mà tôi nhớ mãi, không bao giờ một mình tôi đi lên lầu, tôi chỉ
chơi quanh quẩn dưới sân. Nhà cao cẳng rộng lớn, tôi thuộc từng vị trí cây cảnh
trong vườn dù vườn thật rộng, nhà có nhiều cây ăn trái, phía sau nhà có 2 cây
khế ngọt thật ngon, một cây me ngoài vườn và một cây me đậu phọng sau nhà, dừa
trồng dọc theo mươn ranh đất, nhản và mận đầy sân, gần cổng ra vào có hai cây
xoài thanh ca…ngoài vười có cây xoài tượng, mản cầu dai có vỏ màu tím, trái to
chín ăn thật ngon ngọt, giống mãn cầu vỏ tím nầy tôi ít thấy bán ngoài chợ, mấy
gốc sa bô chê đầy trái .tôi cũng được ăn nhiều lọai trái cây trong khuôn viên
nhà nầy. Bên phải nhà tôi là nhà thờ của gia đình Ông Đốc Phủ Hải, nhà cất chữ
Công, ba gian hai chái nền có tam cấp, tường xây hai mươi, Ông Hương Thân Bính
coi sóc cơ ngơi nầy, nhà đã lớn mà đất xung quanh cũng rộng, nằm góc ngã ba
đường, hai Bác muộn màng mới sinh được cháu gái tuổi thìn, bé Nhung thuở nhỏ
vẫn thường qua lại chơi với gia đình tôi, tôi và Nhung chơi với nhau rất đằm thắm…
cho tới khi vào trung học Nhung mới bớt qua nhà tôi.
Năm
tôi học đệ nhị, Mai học đệ tứ, hai đứa góp tiền mua cặp vợt vũ cầu, chiều chiều
hai an hem chơi cầu trước sân nhà tôi, năm sau mai chuyển về trường Trưng
Vương…để rồi hơn 30 mươi năm sau tôi mới được một lần nói chuyện qua phone với
Mai
Thời
gian thoáng chốc, Mai bây giờ ở GA, Phú( Thiếu Qúy), Quý( hải quân), Lan ở CA,
Nhung ở Chicago.
Người
Việt Nam
vẫn thường ham thích đá banh, tôi cũng không qua thường lệ đó. Cháu nội Ông
Thôn Khoa cạnh nhà tôi, các anh nầy lớn hơn tôi nhiều tuổi đang học ở Sài Gòn,
mỗi khi nghỉ hè về Gò Công là sân rộng nhà Ông Thôn rất đông khách của các anh
nầy đa số là cầu thủ . Anh Nguyễn TấnTâm con chú Ba Nam đứng góc trái, Anh Tâm sau nầy
là cán sự phòng thí nghiệm làm việc tại Huế. Anh tử trận trong trận Mậu Thân
đợt hai tại Đức Hòa trong màu áo Biệt
Động Quân, Anh Nguyễn TấnTrọng là con của chú Hai Kỳ, sau nầy là Thiếu Tá lái
Si Núc, anh Trọng là thủ môn, bạn anh tôi còn nhớ có anh Tam Lang, sau nầy là
tuyển thủ quốc gia, Anh Quý ( Nhà Thờ) lúc vào trại Mỹ Phước Tây tôi có gặp lại
Anh Quý, Anh là Thiếu tá trưởng phòng 2 một tỉnh thuộc vùng 3,Anh Lê văn Hòa,
sau nầy là giáo sư Pháp văn, Anh Xiếu, Anh Châu Chuột, Anh Mai Lang Xuân…Thuở
đó tuần nào Gò Công cũng có tổ chức đá banh, mở màn thường là hai hội xã đá
chân không, tôi còn nhớ xã Hòa Nghị có Anh Nhàn thủ môn rất được bọn trẻ tụi tôi
ngưỡng mộ, ra sân anh mặc toàn đen, mang bao tay đen, Hội Vĩnh Lợi có anh Bé Ba
, sau nầy vào tù có lúc tôi ở chung buồng với anh Bé Ba ở trại tù Hà Tây…. Nhất
là thời Trung úy Tuệ làm quận trường, Chiều thứ bảy ông đến sân vận động bằng
xe jeep, có ban quân nhạc dàn chào, sau khi chủ tọa lễ chào cờ xong Ông thay áo
cầu thủ đứng trong hàng tiền đạo, Ông Tuệ rất được thanh niên Gò Công ngưỡng mộ
( Tới thời tôi mang 2 bông sao mà lon lá rẻ như bèo…).Những trận vào cửa có bán
vé tôi thường xách giày cho các anh để được vào cửa miển phí… Thời đó đội tuyển
AJS rất thường xuống Gò Công, Tôi còn nhớ có một trận Anh Rạng không đứng trong
khung thành mà đứng vị trí hậu vệ,..Thường hội Gò Công đụng với các đội hạng A
Sài Gòn thì phải tăng cường thêm 2 danh thủ gốc Gò Công là Anh Tư và Anh Quới,
cộng thêm anh Tam Lang, Anh Vàng… nên cũng thường đá ngang ngửa…
Nhà
tôi ba căn kiểu chữ đinh, nhà dưới lợp lá nhà trên lợp ngói âm dương, ông nội ở
ba căn nhà trên, cả gia đình tôi xúm xít ở nhà dưới với 2 bộ ván, 1 giường ngủ,
4 tủ quần áo, một tủ sách, một tủ thức ăn,, một bàn tròn nên rất chật chội
khoảng trống đi lại từ nhà dưới xuống nhà bếp rất hẹp, lại thêm một bàn máy may
của chị thứ hai. Mỗi buổi chiều ba tôi làm dầu… người lau chùi sạch sẽ từng cây
đèn, đèn bóng nhỏ vặn lu để ngủ, đề mẹ bắt muổi., đèn lớn để học bài may vá hay
ăn cơm, đèn con cóc( chai dầu chùi lư hiệu con sư tử, gắn một vòi xe đạp vào
nút chai làm tim), cây đèn nầy dùng để nhóm bếp, ba tôi rất thứ tự với vật dụng
trong nhà, cây đèn nào phải dùng đúng chức năng của nó. Buổi tối sau giờ cơm,
anh tôi ngồi chấm bài , chị tôi ngồi học bài với tôi, có gì không hiểu tôi hỏi
chị , thỉnh thoảng anh kèm chị học thêm pháp văn, xong giờ học, chi thứ hai
thường mang tiểu thuyết ra đọc, thường là sách của Hồ Biểu Chánh, giọng chị ấm
đọc vừa đủ cho cả nhà nghe, sách ở nhà cũng có mà sách mượn từ nhà thầy giáo
Tốt cũng có. Những cốt chuyện tròn trịa, ân đền oán trả, gieo gió gặt bão… đã
in sâu vào trí tôi từ tuổi còn thơ, sau nầy lớn lên tôi có dịp học với giãng
khóa của Thầy Thanh Lãng,… thế hệ văn học biền ngẩu và văn chương đổi mới, một
nhà văn đi giữa hai khuynh hướng đó là Hồ Biểu Chánh, Thầy bắt chúng tôi đọc
hết sách của họ Hồ. Tôi dễ dàng vì những quyển truyện nầy còn in rõ trong trí
tôi như Tiền Bac Bạc Tiền, Chúa Tàu Kim Quy. Ai Làm Được, Ngọn Cỏ Gió Đùa…Thường
tôi ngủ trước khi chị Hai tôi đọc xong, tôi nhẹ nhàng đi vào giấc ngủ bằng
những nhân vật có tình có nghĩa rất rạch ròi.
Với
ngôi nhà nhỏ chứa nhiều người, với kiến thức đi dạy học của ông nội, của ba
tôi… tôi học được nhiều bài học từ thuở ấu thơ, trời sinh tôi có trí nhớ khá
tôt, nên những lời dặn dò dạy bảo hay là những câu chuyện không phải nói với
tôi mà là sự trao đổi của người lớn trong nhà, của khách ông, của khách ba tôi,
tôi không cố ý mà nó vẫn lọt vào tai, tôi không để ý tới, khi lớn lên đi vào
quân đôi, đi vào tù… mỗi sự kiện xảy ra chung quanh tôi tôi trực nhớ lại tôi
như nghe lại giọng nói của ông của ba tôi của khách về việc mà tôi gặp phải,
tôi biết tự hào về cảnh nghèo mà cha mẹ cho con ăn học, tôi biết thương người
nghèo khó, biết buồn trong cảnh chia ly, biết vui trong ngày đoàn tụ ..tâm tánh
tôi ảnh hường rất nhiều bởi lứa tuổi cha ông …. Những người mà tôi sống cạnh kề
từ thuở bé….
Điều
đáng tiếc là năm tôi học đệ thất ông nội tôi qua đời, tôi chưa học được nhiều ở
ông, một thầy giáo với tuổi nghề 26 năm ra làm làng tới chức Hương Cả rồi Đại
Hương Cả, ông thuộc môn phái Đạo văn Học Sĩ, chim kêu tiếng lạ ông bắt ấn niệm
chú chim té ngã ngay, võ nghệ đủ sức chống đở ba bốn người, rành và mê hát, có
tiền là bao dàn gánh hát bộ( bội), tự tay cầm chầu, con cũng mấy dòng.Ông
thường kể cho tôi nghe người thầy của Ông muốn qua sông chỉ cần lật ngửa chiếc
nón lá rồi đứng lên đó… Nón sẽ di chuyền như thuyền qua sông Riêng ba tôi thì
hiền quá người chỉ để lại cái đức cho con cháu.
Ngày
qua tới đất hứa, con tôi đứa lớn 5 tuổi đứa nhỏ 10 tháng… Nhìn các thứ đồ chơi
của các hội thiện nguyện mang tới cho… Tôi không khỏi không nhớ tới chiếc xe
bằng họp cá mòi, tới em ve, chai Nhị Thiên Đường hết dầu cắt giấy làm áo , tới
hình tac dăng….mà thấy ngậm ngùi cho
người dân nhược tiểu, sống và lớn lên trong cảnh khói đạn mịt trời.
Buông
cây viết, tôi học cầm súng, học cách giết người, buông cây súng tôi vào tù gở
trên 8 cuốn lịch… Cuộc đời thoáng chốc như gió thoảng như mây bay, ngó qua ngó
lại tóc đã sương pha, thằng bé kéo chiếc xe bằng họp cá mòi năm xưa bây giờ đã
đáo tuế… Nhiều đêm mất ngủ nhớ Gò Công da diết, nhớ Huỳnh Mai, nhớ Phú Qúy, nhớ
Hồng Lan, Nhớ bé Nhung…
Chừng nào mới về lại Gò Công? Bao
nhiêu kỷ niệm sẽ được khơi lại, giọt nước mắt đoàn viên sẽ chảy khi cờ máu
không còn trên đất nước… Thế hệ sinh thập niên 40 có tội tình gì mà phải chịu quá nhiều truân
chuyên… Tuổi thơ tôi mất tôi biết đòi ai
đậy?
Viết
tại Kỳ Đà động Mùa Giáng Sinh 06
THỦY LAN VY
------------- Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
|
Người gởi: HongLan
Ngày gởi: 16/Apr/2014 lúc 9:15am
ĐẬM ĐÀ HƯƠNG QUÊ *
- Sao con không lấy nón lá của chị con đội cho mát? Trời nắng nóng quá mà con! Chai nước mưa mẹ châm đầy liệu có đủ uống không con? Uống xong nhớ để ly chai vào bao ny lon cho sạch nha con…
Mẹ vẫn luôn ngọt ngào, vẫn đôi mắt trìu mến nhìn tôi, với mẹ tôi vẫn là thằng con trai út bé bỏng của thuở nào...
- Được rồi mẹ, đi lao động bây giờ bụng no là quá sướng rồi… Tám năm trong tù con đã quen rồi mẹ., vào nghỉ đi mẹ!
Tôi được giặc thả về đã gần tròn năm, những người tù được thả ra từ các trại tù miền Bắc thường về địa phương không bị quản chế, riệng đất Gò Công nầy, có lẽ tại vì trước năm 1975, là tỉnh đứng đầu trong việc bình định an ninh trên toàn quốc, nên khi giặc về, mọi oán thù đều đè nặng trên đầu trên cổ người của chế độ Sài Gòn.Nên tù Nam tù Bắc gì cũng quản chế hết... Ít nhất cũng phải hơn năm.
Trong thời gian quản chế, thỉnh thoảng trong tuần, trong tháng tôi vẫn thường bị công an khu vực gọi đi lao động, khi thì cạo cờ, những lá cờ vàng được sơn bằng sơn Mỹ trên những bức tường, trên những thân cây to, trên nóc công sở, theo năm tháng vẫn còn rõ nét vì sơn Mỹ quá tốt. khi thì đi đập phá miếu thờ Ông Quan Công, vì trong miếu có bàn thờ Ông Lãnh binh Tấn, những ngày gần tết đi quét dọn lau chùi các công sở, đi làm thủy lợi… Bất cứ công việc gì cần là có mặt đám tù cải tạo quản chế, lần nầy đi đấp sông, con kênh nằm cuối đường từ xóm Cầu Tàu ra, được quy hoạch phóng đường nên thị xã quy tụ một lực lượng hùng hậu, ngoài tù cải tạo quản chế, mỗi nhà góp một công trong việc đấp đường nầy, con kinh dù hẹp nhưng đang thông giòng nước, lượng công nhân dù đông, chia ra làm nhiều dây, móc đất sình từ phía gần bờ chuyền tay nhau rồng rắn mấy chục người một dây, cục đất ra tới tay người cuối chỉ còn bằng cái bánh bao…nên kết quả …
Đã hơn mười ngày, với lực lượng đông như vậy, con đường ngăn nước đã gần hình thành, chỉ còn khoảng 2 thước nữa là con đường liền mặt, và chiều nay là buổi chiều quyết định.
Nhìn con đường ngăn nước được đấp bằng sình, với hàng cọc bằng cây đước đóng lưa thưa, cột được dựng bằng tay, trông rất lỏng lẻo, mấy anh em cải tạo chúng tôi chỉ biết lắc đầu trước việc làm của các đỉnh cao trí tuệ thị xã.
Tôi đạp xe trở lại hiện trường sau 2 tiếng nghỉ xả hơi về nhà ăn cơm. Gửi xe đạp ở nhà chị Loan, người đẹp Cầu Tàu năm xưa, tôi lửng thửng bước đi về hướng bờ sông, gặp Anh Hậu, nguyên chi khu trưởng quận Hòa Bình, Anh Có, thiếu tá phòng 1 sư đoàn 7, chị Rết, trung úy quân đoàn 2 …đã có mặt dước gốc cây bần bên bờ sông, đây là những người cũ quen biết chung phường 2 với tôi, vẫn thường đi lao động chung với nhau…
Những ai có tiền hay có quen biết, thường thường không phải đi lao động loại bất thường nầy, mình nghèo quá đành phải dang nắng vọc sình thôi.
- Ê, chiều nay, buổi chiều cuối của công trình nầy, để coi, con bờ sình nầy sẽ bể nát… Còn khoảng 2 thước, áp suất nước càng mạnh mà đấp bằng sình thì….
Anh Hậu cười lớn mà không nói tiếp
- Ê chút xong về ghé nhà thằng Hiệp ăn bánh vá, nó mời tụi mình hôm qua.
Anh Hậu vừa nói vừa nhìn mọi người, Anh Hiệp nguyên là sĩ quan thanh tra của tiểu khu Gò Công.
Trời nắng chang chang, bờ sình hắt hơi nóng lên thật khó chịu, dây chuyền sình của phường 2 phía bên nầy bờ sông, có tất cả hơn mười dây, mỗi dây khoảng trên 30 người, chuyền từng nắm sình hướng về 2 thước còn lại, tôi đứng cuối dây nên nhìn thật rõ, nước bắt đầu xoáy mạnh khi khoảng trống càng hẹp lại. Tiếng cổ động của ban chỉ đạo thị xã oang oang bên tai, qua mấy cái loa phóng thanh treo trên mấy cây bần, tiếng cười đùa của những người lao động tạo nên một không khí ồn ào, bởi làm chuyện không có tiền công, nên mọi người đều làm cho có, làm chiếu lệ, tạo dịp cười giỡn nhiều hơn là chuyền sình, tôi với anh Hậu, anh Có, chị Rết đứng cuối dây luôn râm rang chuyện trò, nhắc chuyện bạn bè năm xưa…
Ầm, một âm thanh khá lớn, hàng cây cọc và dãy đất sình trôi bung theo dòng nước…
Tiếng cười, tiếng la, tiếng bước chân lội bì bõm trên sình, hai hình ảnh trái ngược, mặt ban chỉ huy giống như cái bánh bao chiều, mặt mày anh chị em lao động vui ra thấy rõ…
Tôi với Anh Hậu, Anh Có quẹo xe đạp vào hướng nhà đèn, nhà anh Hiệp cất nửa trên đất, nửa trên sông nên rất mát mẻ, bước vào nhà tôi thấy có Anh Hên, nguyên tiểu đội trưởng quân cảnh tư pháp tiểu khu Gò Công, sau màn chào hỏi, chúng tôi quay quần cùng ngồi trên chiếc bàn tròn, kê sát vách đóng bằng lưới B40, bên ngoài sông nước đang lớn, dòng nước lặng lờ với chút sóng nhẹ, lơ thơ vài cây thủy liễu( bần), lá cành đong đưa theo gió ... mát mẻ làm sao.!
Ba anh Hiệp từng là đại tá thị trưởng một thị xã miền trung, Đại Tá Mãi nhờ đau cột sống được giặc tha về sớm từ trại Nam Hà, cũng đang ở chung với anh, Bác chỉ nằm trên giường, có khách tới thăm bác vui lắm, tôi vẫn thường trò chuyện với Bác… Thường Bác nhắc chuyện ngày xưa với nhiều tiếc nuối. Bác rất thích tôi vì dù chênh tuổi tác nhưng cùng chung trại tù Nam Hà, có nhiều chuyện nhắc nhớ thời trong lao nhục. Những kỷ niệm rất khó quên trong đời.
Anh Hiệp có người vợ đảm đang, Chị ba Phích, chị mua chui bán nhủi rất khá, nên cưu mang luôn cả gia đình, Anh Hiệp có số sống nhờ cung thê, nên thường ngày chẳng phải làm gì hết, cách vài ngày lại tổ chức tiệc tùng mời bạn bè ăn nhậu. Đi lao động anh đóng tiền, người cũ người mới gì anh đều chơi, anh thường nói:
- Mình như cá trên thớt, sống trong tay sinh sát của tụi nó, không cho đám công an khu vực ăn nhậu, tụi nó làm khó dễ mất công phiền phức ...
Gió từ sông thổi lòn qua song lưới, dòng kênh nước chảy lững lờ, thỉnh thoảng có chiếc thuyền tam bản chở củi, chiếc ghe câu của chú Tám bờ Kinh lênh đênh giữa dòng…
Bụng đói, gió mát thổi lòn song, nhìn tô bún trắng nõn, dĩa bánh vá vàng ươm, dĩa rau sống xanh tươi, màu vàng đậm của khế chua, màu trắng xanh của dưa leo bầm, tô nước mắm ớt với những múi chanh, ớt đỏ tỏi trắng lượn lờ, tôi chép miệng nuốt nước miếng .. Thời mạt vận quen ăn rau cỏ, thấy thịt cá ai không khỏi thèm…
- Mời anh em cầm đũa, hôm nay năm anh em mình ăn bánh vá quê hương.. Tôi dô trước một ly, rồi bắt đầu xoay vòng nha...
Anh Hiệp nói xong uống cạn một ly rượu thuốc ngon lành.
- Bánh vá nầy bà xã đặt chiên, nên nhân bánh đặc biệt có cua lột, có óc heo…
Tôi gấp đũa bún, mấy cọng rau, giá, dưa khế, gắp 1 cái bánh vá, dùng tay xé ra làm nhiều miếng, chan mấy muổng nước mắm ớt… từ ngày ở tù về hơn năm, hôm nay lần đầu mới được ăn lại bánh vá quê hương, bột dòn xốp, tôm thịt gan heo ngọt ngào, óc heo béo ngậy, nhất là thịt cua lột, nó ngon béo làm sao! Cay của ớt, chua của khế, thơm của rau… tôi làm tiếp chén thứ hai… chỗ thân tình đâu cần chi giữ kẻ. Ly rượu thuốc xây vòng từ từ tới, vừa ăn xong chén bún, dô một ly rượu thuốc nó ngon làm sao…
- Ê, cái thằng Hai A đảng ủy gì đó, hai cái bàn chân nó nhỏ xíu mà sao hồi đó mình đi hành quân không bắt được nó, chân cẳng gì giống như bàn chân con nít, mà sao nó chạy giỏi quá?!
- Nhờ chạy giỏi bây giờ nó mới ngang tàng, phách lối.. Mẹ!
Tiếng anh Hậu gợi chuyện và Anh Cò Hên trả lời
Hai A người của đảng ủy thị xã Gò Công, chỉ huy công trình đấp kênh hôm nay, tên nầy có nhiều mặc cảm với người của chế độ cũ, luôn hạch sách và làm khó dễ khi có điều kiện, sau mấy năm làm việc bây giờ thân hình mập phì, áo quần bảnh bao, tuy có đôi bàn chân dị tật bẩm sinh, đôi săn đal nhỏ nhắn như của em bé lên năm, thế mà vẫn chịu được thân hình trên 60 kílô của Hai A
- Thôi bỏ qua chuyện đó đi, ở đây tai vách mạch dừng, mình nói chuyện khác cho vui đi!
Tiếng của Anh Hiệp chủ nhà.
-Lần lao động nầy sao không thấy Anh Sự? Anh Có thắc mắc
Anh Sự cùng khóa 16 Võ Bị với Anh Hậu. Anh Sự nguyên là chi khu trưởng quận Hòa Tân. Mẹ anh là chủ chảo bánh vá nổi tiếng Gò Công, là truyền nhân của lò bánh vá chợ Giồng (quận Hòa Đồng), loại bánh chiên nổi tiếng có mặt đầu tiên tại tỉnh Gò Công, nghề nào cũng vậy, phải có một chút bí quyết mới có được cái ngon đặc biệt của nó, người ngoài có bắt chước cũng không thể so bì được, bánh vá của gia đình Anh Sự ngon là nhờ có bí quyết riêng.
- Thằng Sự nó ít đi đâu lắm, có lẽ nó đóng tiền nên mới nằm nhà an toàn, chứ dễ gì công an khu vực tha cho nó. À nầy, mấy anh là dân Gò Công chánh gốc, tui chỉ là rể Gò Công nên không biết rành về nguồn gốc cái bánh vá nầy. Anh Hậu tiếp
- Mỏng rành chuyện Gò Công, nói nghe chơi cho vui.
Sở dĩ anh Hậu nói như vậy là vì tôi sinh quán, học hành và lớn lên tại Gò Công. Tôi có thể biết được nhiều chuyện về Gò Công qua những câu chuyện giữa Ông Nội và Ba tôi, nhưng cũng có rất nhiều cái thuộc thế hệ trước mình không thể nào biết được, nếu không có người trong cuộc kể cho biết. Người Gò Công, người tỉnh khác đến chơi, ai ăn qua bánh vá bún cũng đều khen ngon, nhưng chẳng có mấy ai muốn tìm hiểu cái bánh vá nầy đến từ đâu, ai là người mang nó du nhập vào Gò Công, thường người ta chỉ nhìn cách chiên bánh, vật liệu chiên bánh, để có dịp thực hành, làm phong phú thêm thực đơn gia đình. Cũng có nhiều tác giả đã viết nhiều bài về đề tài bánh vá, nhưng nội dung thường chỉ tả cách làm bánh và cách ăn, cũng như vật liệu làm bánh mà chưa có tác giả nào đề cập tới nguồn gốc cái bánh vá Gò Công. Tôi có nhiều duyên may, sống trong một gia đình giáo chức, có lối giáo dục người nhỏ bắt chước người lớn… Lễ nghĩa ở đời tôi nhìn cách hành sử của Ông Nội của Ba tôi mà bắt chước làm theo. Nhìn anh chị học hành tôi bắt chước học theo, gia đình tôi không khe khắc trong việc theo dõi sự học hành của anh em tôi. Ba tôi và Ông nội thuở sinh tiền vẫn thường đàm đạo, nhắc lại chuyện xưa tích cũ, khen tặng gương trung hiếu, khích bác lũ nịnh gian… Tôi lẩn quẩn trong nhà nên được nghe và nhờ có chút trí nhớ tốt nên tôi ảnh hưởng rất nhiều… Chuyện bánh vá tôi nhớ tới Anh Sự, người tự nhận mình lớn lên, nên người, bên chảo mỡ bánh vá, anh là người Gò Công, ra đời làm quận trưởng tại Gò Công, một điều anh vẫn thường hãnh diện.
Thuở trung học, tôi học chung với Tuyết Nga, em gái của anh. Ở Gò Công thường mỗi người ngoài tên cha mẹ đặt còn kèm theo một ngoại hiệu do bạn bè, chòm xóm gán ghép cho. Chẵng qua là vì tên thứ, tên trùng nhiều người nên phải kèm ngoại hiệu cho dễ phân biệt. Ngoại hiệu có thể từ hình dáng bên ngoài như Sang quắn, Nhựt què…, từ ngành nghề, như Chị Loan mắm lóc, vì chị có người mẹ bán mắm ngoài chợ, anh Minh bánh bàn, chị Kiều bánh ích… Vì gia đình như Chị Nguyệt Cò Mi Linh vì chị là con Ông Cò Mi Linh, Dung Ba Nữa vì Dung là con gái thầy Ba Nữa, tên thứ thì Năm lửa, Hai néo, Sáu lèo…,dĩ nhiên Tuyết Nga không qua ngoại lệ đó, cô nầy bị bạn bè gọi là Nga bánh vá, nghe goi là cô phản ứng ngay, cô chửi thôi… tắt bếp! Chính vì hay chửi, ghét ai gọi ngoại hiệu nên Nga cứ bị gọi hoài. Ngày tôi còn đi học, tên tôi có lót chữ Kỳ, bạn bè trong lớp ít có trò nào gọi đúng tên tôi, ê Kỳ Đà cho tao mượn cây thước, ê Kỳ nhông cho tao mượn cục gom… Tôi vẫn tự nhiên như là tên thật của tôi, không bao giờ tỏ vẻ khó chịu, nên dần dần tôi trở lại với chính tên tôi trong khai sinh.
Với 2 chén bún bánh vá, qua 5 vòng xây tua… Rượu đế Bình Ân ngâm chuối hột chín phơi khô, rượu có nồng độ cao uống mau bốc, tiếng cười nói trong bàn râm rang, bé Phi con gái anh Hiệp lại mang thêm một dĩa khô hắc cấy nướng vàng đập mềm với một dĩa nước mắm me dầm ớt trông thật hấp dẫn…
- Ê Mỏng, biết gì về bánh vá nói nghe chơi Mỏng! Chú có ăn nhiều cũng không mập được đâu.
Anh Cò Hên cười cười nhìn tôi
- Dạ thì cũng biết chút chút… Tôi có được duyên may nghe Anh Sự kể về chuyện bánh vá của gia đình anh. - Ê, làm một ly cho ấm lòng đi rồi kể.
Anh Có rót đầy một ly trao cho tôi. Đánh khà một tiếng tay xe điếu thuốc rê, mồi lửa, nhả một hơi khói dài tôi bắt đầu lấy giọng. - Người Gò Công vẫn thường hãnh diện với món bánh vá, người ta chỉ biết đến chợ Gò Công, cánh chợ hướng đông vào gần cuối chợ, chảo chiên bánh vá đặt ngay trên mặt gạch nền chợ. Một cái bàn hình chữ nhựt chân thấp để vật liệu chiên bánh. Khách hàng có thể mua bánh dễ dàng, muốn ngon hơn thì mua sẵn vật liệu như gan heo, thịt nạc, nấm rơm, có khi cua lột, tôm càng, óc heo… đến chỉ nhờ chiên thì bánh vá sẽ ngon hơn nhiều, thành ra cái bánh vá nào bột cũng như nhau, tùy giá tiền mà nhân bánh khác nhau, ngon dở là ở chỗ...tiền...
Anh Sự khẳng định tên bánh là bánh vá chứ không phải là giá (Cây giá ươm từ đậu xanh), vì bánh được đổ bằng cái vá, cái vá nầy có lòng vá sâu hơn vá múc canh thường. Người ta giải thích vì bánh có nhân là giá nên gọi là bánh giá. Thế thì bánh xèo cũng có nhân là giá mà sao không gọi? Trong nhân bánh vá có nấm sao không gọi là bánh nấm, bánh tôm, bánh gan…??
- Bà Nguyễn Thị Luốc, người dân còn gọi là Bà Tư bánh vá là vợ của Ông Hương Nhạc Trần văn Tồi gốc người Ba Dừa Tỉnh Mỹ Tho, vì sinh kế chuyển về sống ở Chợ Gạo khoảng năm 1916 thời thế chiến thứ nhất đang ì xèo dữ dội, sinh sống bằng nghề chiên bánh vá, sau đó chuyển về chợ Giồng Ông Huê đâu khoảng thập niên ba mươi. Bà Tư bánh vá có 2 người con, một gái là Trần Thị Vinh, một trai là Nguyễn văn Tại, bà Tư chiên bán bánh vá tại chợ giồng Ông Huê, cô con gái theo phụ Mẹ. Năm 17 tuồi, Trần Thị Vinh lên xe hoa với chồng là Nguyễn Duy Hải. Xe hoa không đưa cô dâu về nhà chồng quê ở Vĩnh Hựu mà giữ cô dâu tại nhà vì bắt rể. Nên tuy lập gia đình nhưng Bà Vinh vẫn theo phụ Mẹ bán bánh vá… Lần lượt Anh Thế rồi Anh Sự ra đời. Những bước đi lẩm đẩm của hai anh nầy cũng lòng vòng quanh chảo mỡ bánh vá. Bánh vá Vĩnh Lợi tiếng đồn xa, thuở ấy có nhiều gánh hát nhỏ về xã, đêm quay cót quanh chợ bán vé diễn tuồng, mấy anh hề trong lúc diễu cương đều có nhắc tới chuyện bánh vá Vĩnh Lợi, ăn quá ngon quá đã. .. Đây là khoảng thời gian nhiểu nhương của đất nước, Cộng Sản quốc tế lợi dụng lòng yêu nước của người Việt Nam lập ra mặt trận Việt Minh (Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh). Với tầm vong gậy gộc, những người yêu nước, phải đi đầu, chết thay cho bọn lảnh đạo núp trong chốn an toàn. Năm 1945 Việt Minh đánh đồn lính (vị trí sau nầy là dinh quận). Trong đồn có mặt Ông Cai Tổng Ngữ, coi như chức sắc khá cao của tỉnh, lực lượng Việt Minh quá yếu chỉ cốt đánh gây tiếng vang. Chúng đốt phá một góc làng, rồi bỏ chạy. Nhà bà Tư bánh vá cháy rụi, cả nhà phải nương náu mấy nhà quen. Người con trai bà Tư cưới con gái Ông Tam Hưng (Chủ xe đò Mỹ Tho Chợ Giồng.) Lúc bấy giờ Chú Hải đang đi lính gạc ở Gò Công .. Đó là khoảng năm 1947. Cùng thời bấy giờ có Cai Nhung rồi Đội Nhung đang làm ở Đơ dèm bua rô, đội Nhung sau nầy là Đại Úy Nhung người đi trong chiếc thiết giáp định mệnh từ nhà thờ Cha Tam về Bộ Tổng Tham Mưu trong ngày 2-11 năm 1963. Bà Vinh dẫn con theo chồng về Gò Công ở trong trại lính (sau nầy trại lính được gọi là trại gia binh). Trại lính gạc lúc bấy giờ nằm trên con đường trước mặt dinh tỉnh trưởng phía đối diện, đi từ bờ sông về hướng nhà thờ thì đụng miếu tiên sư trước, tới một miếng đất trống (sau nầy xây trường Trung Học Gò Công). Trại lính đồi diện với tòa án, sau nầy trai lính trở thành trung tâm cải huấn, nơi nhốt tù binh Cộng Sản. Để kiếm tiền sinh sống, bà Vinh tiếp tục hành nghề của Mẹ, chiên bánh vá bán tại chợ Gò Công. Như vậy bánh vá có mặt ở Gò Công vào khoảng năm Đinh Hợi 1947. Tỉnh Gò Công bắt đầu có hai chảo mỡ bánh vá, một đầu tiên ở Chợ Giồng, và một ở chợ Gò Công. Bánh vá ngon nhờ nhiều yếu tố. Bột dậy, nhưn tươi, để có được đồng tiền lời, cả gia đình phải qua nhiều công đoạn khá vất vả, sau khi tan chợ về, sắp xếp vật liệu đâu ra đó… Chiều xuống, cho gạo vô chậu ngâm nước tới 3 giờ sáng đem gạo xay thành bột, gạo ngâm khoảng 8 tiếng đồng hồ, gạo vừa nở, vừa chớm lên men, nên khi chiên, bột sẽ xốp và dòn. Đặc biệt bánh vá bà Vinh chỉ chiên bằng mỡ heo quay. Mở nầy chú Hải mỗi sáng đi thu gom ở các lò heo quay, nếu thiếu mới dùng thêm mỡ heo tươi. Ngoài bột gạo có pha thêm bột đậu nành, mà muốn biết tỷ lệ pha chế bao nhiêu thì mổi năm cứ đến ngày 30 tháng 2 tây mang 2 con cọp quay đến nhà Anh Sự cúng tổ sẽ được chỉ dẫn tận tình... (Đã bí quyết thì ai truyển cho mà học)
- Thằng Mỏng nầy dốc hết biết, tháng hai làm gì có 30 tây?! Tiếng Cò Hên càm ràm…
- Ờ, thì trong nghề nghiệp, ai cũng có bí quyết giữ riêng làm của gia bảo, tôi lựa ngày 30 là có ý cho biết bí quyết nầy khó được truyền lại..
Sau nầy cạnh bà Vinh có thêm bà Hai Chuối, bà là mẹ của Anh Tư nước đá. Sau nầy Anh Tư lên Sài Gòn, trở thành tuyển thủ quốc gia trong môn đá banh với danh hiệu là mũi tên vàng (Một thời hai anh Tư và Quới làm nổi tiếng dân Gò Công trong bộ môn đá banh). Bánh vá của bà Hai Chuối không ngon bằng của bà Vinh, vì bà Hai chiên bằng dầu, cũng như công thức copy không hoàn toàn giống như chánh bản... Sau nầy trong Tăng Hòa (Chợ Cửa Khâu) Cũng có chảo dầu bánh vá, không biết của ai, nhiều người ăn cũng khen ngon. Hai lít rượu mít ngâm chỉ còn lại một ly cuối cũng là vòng chót của tôi. Anh Hiệp chủ nhà con mắt gần như muốn nhắm. Anh Hậu mặt đỏ như Quan Công. Cò Hên thì ca ử ử bản Tỏ Tình Trong Đêm... - Ba mua thêm rượu nữa không ba? Tiếng bé Phi ngọt ngào hỏi Anh Hiệp. Anh Hiệp đang lim dim bỗng giựt mình
- Con dẫn ba vô buống đi ngũ.. Ba hết chịu nổi rồi con ơi ...
Tiếng Anh Hiệp nhừa nhựa kéo dài…
…
Bây giờ trên đất tạm dung ngồi viết lại mấy dòng nầy, lòng tôi thương nhớ quá.. Gò Công quê hương còn đó.. Anh chị tôi còn đó, mà cờ đỏ cũng còn đó, nên đành thương đành nhớ.. Buồn nhớ chuyện năm xưa, gọi phone nhắc nhở chuyện quê nhà với một vài người bạn đó là niềm vui cuối tuần của tôi. Lúc tôi mới thả về, chị tôi có mua cho tôi một cái bánh vá của cô Lan, cô em gái của Tuyết Nga, kế thừa nghiệp mẹ, nhưng nơi chiên bánh không còn đặt ở vị trí cũ, chảo mỡ cũng teo nhỏ lại, chỉ bằng phân nửa chảo mỡ năm xưa. Cái bánh cũng nhỏ đi nhiều, dĩ nhiên gan ruột chỉ là những miếng thịt mỏng như lưỡi lam, con tôm thì đang tuổi vị thành niên. Với một cái bánh vá, chị mua cho một ký bún, cái bánh vá nhỏ xíu, hòa trộn với một kí bún, lực lượng hai bên không cân xứng. Kệ! Tôi ra sau vườn hái ít lá quế. Chén nước mắm ớt, lẽ ra phải có dưa leo bầm, cải xà lách với vài loại rau thơm cắt mỏng với ít giá sống, nhưng mà thôi, như vầy cũng quý rồi… Tôi ngồi ăn mà nhớ tới chảo mỡ năm xưa.. Nhớ đến Chị Lắm lúc đó chị học trước tôi 4 lớp, chị mặc áo trắng, da chị trắng, mặt chị đẹp, bên chảo mỡ bốc khói, trên vĩ, bánh vá vàng ươm, cô nữ sinh duyên dáng nầy đã có biết bao cây si đem trồng trước chảo mỡ… Nhưng mà có cây nào mà chịu nỗi với độ nóng trên 100 độ của mỡ đang sôi? Gò Công có những ngày trời mưa liên tiếp, lò chiên chụm bằng củi, củi ướt khói mịt mờ, nhìn hình ảnh chị Lắm mặt tươi như ngọc. Hai con mắt đỏ ửng, nước mắt rưng rưng vì khói cay, ngồi trong làn khói mỏng.. Một hình ảnh đẹp dễ làm tôi liên tưởng đến truyện kiếm hiệp của Kim Dung, người đẹp Tiểu Long Nữ luyện kiếm tỏa nhiệt bốc lên thành khói trong đêm trăng mờ ảo, chắc cũng đẹp như vầy thôi. Tôi ăn hết tô bún rồi mà miệng vẫn còn thèm và có cảm giác như … chưa ăn! Giá mà có được một ly cà phê tráng miệng… Đã qua rồi cái thời sống trong tay giặc. Đất tạm dung đầy đủ quá, nhưng kỷ niệm ai giúp giùm tôi mang theo. Con đường Gò Công, con đường Sài Gòn... Tôi còn nhớ như in trong dạ. Về bánh vá Gò Công tôi còn nhớ 4 câu thơ
Buổi sáng chợ đông chão mỡ sôi Thơm lừng bánh vá khách quanh ngồi Mắm pha chanh ớt rau tươi rói Ngon quá nhờ em miệng khéo cười (Trích trong bài "Gò Công Thương Nhớ" thơ của TLT)
Bên Ca Li, hàng năm tới ngày giổ bà Vinh, Anh Sự cũng có mời thân tình đồng hương tới dự. Món chánh vẫn là bánh vá bún rau thơm. Anh Sự cho biết dù chính người trong nhà chiên nhưng bánh vá vẫn không ngon bằng bánh năm xưa, vì bột gạo mua làm sẵn, bột xay từ gạo ngâm có chút lên men bột mới xốp dòn được. Còn xay bột, cũng làm được nhưng cực quá vì xay bằng máy xay tiêu, máy xay trái cây. Ở đây làm sao tìm được con tôm đất ruộng còn nhảy soi sói, khi tôm chín thịt ngọt ngào khó tả.. Làm sao tìm được nấm rơm búp vừa mới rời gốc rạ.. Đừng nói chi đến con tôm càng xanh để trong rổ, chân tôm càng còn bún tanh tách.. Con cua lột lót cỏ non, nằm mềm mại, ngo ngoe nhẹ nhàng mấy cái que..… Thôi thì nhìn thấy bánh vá như thấy Gò Công. Bên nầy Houston tôi làm gì được nhìn thấy cái BÁNH VÁ... Chưa có tiệm ăn nhà hàng nào ở đây bán món ăn nầy. Hai món tuyệt chiêu của Gò công đều không thấy bán ở Mỹ là mắm tôm chà và Bánh Vá
Viết tại Kỳ Đà Động. Quý Thu 2008 (Viết để tặng giai nhân tài tử từng ăn bánh vá Gò Công)
THỦY LAN VY (Trích trong Mây Trắng Chiều Hôm)
[ 
|
|