Vài Ghi Nhận Bất Ngờ Về thơ Thy Lan Thảo
Dẫn Nhập
Tôi đọc Thy Lan Thảo mười tháng
sau khi tập thơ đầu tay của anh chào đời. Trước đó, tôi cũng có dịp đọc thơ anh
đâu đó trên các tạp chí hay các bản tin. Nhưng phải đọc hết một công trình 10
năm mới thấy rõ ruột gan nỗi niềm và mơ ước của một con chim tận Gò Công miền Nam nước Việt thân yêu bỏ xứ lưu lạc tận Houston miền Tây nước Mỹ
ngan ngát...
Cô Hồng Phan, đồng hương của tác
giả và nữ sĩ M.H. Hoài Linh Phương trong phần Cảm Nghĩ...và Tựa Nhỏ đã lần lượt
đưa tác giả lên bàn mổ và quý anh chị ấy đã tìm thấy trong tận cùng Thơ Thy Lan
Thảo cái dễ dàng, cái tự nhiên như ăn như thở, cái chân thành rất
dễ thương rất dễ làm xao xuyến rung động lòng người.
Xin được chia sẻ những nhận xét
trên và chúng tôi xin mạo muội phác họa lại bóng dáng của tác giả bằng cách hệ
thống những ý tình của Thơ Thy Lan Thảo hiển hiện trong tim gan phèo phổi của
anh.
Bóng dáng đó thật bình thường
nhưng không phải là không khác thường...
- Thy Lan Thảo là một người con
đạo hiếu với bậc sinh thành và là một người em thuận thảo với các anh chị trong
gia đình,
- Thy Lan Thảo là một người bạn
chí tình và một người yêu trung hậu,
- Thy Lan Thảo là một chiến sĩ
QLCH trung dũng khí phách với Đất nước Quê hương.
Dẫn Chứng
Trong phần ghi nhận thô thiển
này, chúng tôi xin đề cập đến cái bất ngờ mà cũng có thể là điều khác thường
phất phới hiên ngang trong suốt tập thơ 174 trang, đứa con nhà tông đầu
lòng của Thy Lan Thảo, không giống Tâm cũng giống Ý!
Cái khác thường phất phới hiên
ngang đó chính là Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, một biểu tượng của Tự Do Dân Chủ của
Việt Nam Cộng Hòa và của hàng triệu người Việt Tự do lưu vong trên hoàn vũ. Quả
vậy, chúng tôi thật bất ngờ nhìn thấy lá cờ Tổ quốc thân yêu tung bay trong
suốt tập thơ, tung bay trong suốt thời gian quê nhà, tung bay trong các ngục tù
cộng sản từ Nam ra Bắc, tung bay trong suốt 10 năm lưu lạc và sẽ tung bay trong
tâm tưởng suốt cuộc đời của người Sĩ
quan trẻ trung dũng khí phách Thy Lan Thảo.
Chúng tôi xin trích từ Tập Thơ
những vần thơ Cờ Vàng (in chữ hoa trong phần trích), dựa theo thứ tự số
trang và dựa theo bóng dáng phác họa tác giả nêu trên đây.
- Cờ Vàng với người con đạo
hiếu và người em thuận thảo:
Chị ơi! quỷ dữ cùng ma quái
Cũng phải vì dân thuận ý Trời
Ngày mai nắng đẹp trời Nam phải
Phất phới Cờ Vàng bay khắp nơi
(Cờ Vàng Sẽ Bay, TTLT, trang 34)
Em bảo một ngày tươi nắng đẹp
Cờ Vàng rực rỡ gió tung bay
Ta về với Mẹ vui như Tết
Quê cũ từ đây hết đọa đày
(Nhắn Gửi, TTLT, trang 79)
Đói khát nhọc nhằn nhiều lần
tưởng chết
Xương bọc da lê nặng bước chân
đời
Mắt vẫn sáng và tấm lòng vẫn
nhớ
Lá Cờ Vàng Ba Sọc nét hùng
tươi...!
(Viết Cho Ba Ngày Father’s Day,
TTLT, trang 151)
- Cờ Vàng với người bạn
nghĩa tình và người yêu đôn hậu
Anh hẹn em – anh sẽ trở về
Một ngày nắng đẹp – mát tình
quê
Cờ Vàng phất phới bay kiêu
hãnh
Mình sẽ bên nhau trọn ước thề
(Gò Công Ơi Ta Nhớ, TTLT, trang
51)
Ngày nào tao bước chân về lại
Nhìn lá cờ xưa lộng gió bay
(Nghĩa Tình Vẫn Nhớ, TTLT, trang
77)
Một ngày nào quê mình thôi cát
bụi
Cờ Vàng bay, nắng sớm ngọt
vàng hanh
Bao thương nhớ tháng năm dài
mệt mỏi
Tôi theo anh- về thăm lại Tân
Thành...!
(Sao Vẫn Là Mơ, TTLT, trang 97)
Muội ơi ! Ta chúc gì cho muội
Năm mới quê mình nở thắm mai
Cờ Vàng sẽ bay tươi nắng ấm
Muội cười, vang dội pháo bên
tai...
(Ta Chúc Gì Cho Muội, TTLT, trang
108)
Em ơi mai mốt quê mình sẽ
Rợp bóng Cờ Vàng rực rỡ bay
(Vẫn Còn Ý Nhớ, TTLT, trang 141)
Mầy thường tâm sự thân lưu lạc
Mất nước mong gì bước lối xưa
Gắng chờ quang phục trời tươi
mát
Cờ sẽ bay - trời tạnh giông
mưa...
(Viết Vội Bài Thơ, TTLT, trang
157)
Mười năm đất lạ luôn ray rứt
Nhìn lá cờ xưa dựng xứ người
Đất tổ quê cha không ở được
Thì đời em hởi mấy khi vui
(Ý Đến Đầu Năm, TTLT, trang 167)
- Cờ Vàng với người chiến
sĩ trung dũng
Mười năm đất lạ lòng mơ ước
Cờ sẽ vàng bay giữa tháng tư
(Chút Ý Tháng Tư, TTLT, trang 28)
Một dãy giang sơn gấm vóc xưa
Vua Hùng dựng nước thắm màu cờ
Trải bao tai biến người dân
Việt
Vẫn vững niềm tin trọn ước
mơ...
(Có Phải Là Mơ, TTLT, trang 31)
....
Của một thời ngang dọc bước
chân xưa
Mang chiến công dâng trọn dưới
lá cờ
.....
Mấy ngàn đêm ray rứt chiến
trường xưa
Vẫn âm thầm trang trọng sống
trong mơ
Ngày quang phục dựng cờ xưa
kiêu dũng
......
Cờ máu kia thay bởi Lá Cờ Vàng
Trả nắng ấm cho miền Nam nước Việt
(Không Thể Quân, TTLT, trang 62,
63, 64)
Hồn Quốc Tổ sẽ cười vang sông
núi
Đường quê hương sẽ rợp bóng cờ
vàng
Đổi năm tháng nhọc nhằn đầy
hận tủi
Bằng tình thương dấu ái ngát
trời quang
(Quê Hương Rồi Sẽ Đẹp, TTLT,
trang 92)
Tháng sáu vào tù- lòng ta vẫn
nhớ
Lá Cờ Vàng tơi tả ướt gió mưa
(Tháng Sáu...Lòng Ta, TTLT, trang
113)
Hơn mười năm cảnh Nam Hà vẫn rõ
Mắt tướng quân tha thiết đậm
trong lòng
Trời phương Nam bao giờ
trăng rạng tỏ
Cờ Vàng bay kiêu hãnh thỏa chờ
mong!!...
(Xót Xa Ngục Tù, TTLT, trang 160)
Tạm Kết
Khi xếp tập thơ lại, trí kia còn
lãng đãng, lòng nọ còn bồi hồi. Thì ra, Thy Lan Thảo đã giúp tôi thấy lại Lá Cờ
Vàng Ba Sọc Đỏ mà tôi từng đội trên đầu (Tổ Quốc Danh Dự Trách Nhiệm), từng đeo
bên ngực trái (Tổ Quốc Không Gian), từng thề dưới ngọn Lửa Nghĩa Trung Đài
đêm mãn khóa, lòng ta giữ mãi có quên đâu...! (Đôi Mắt Ngày Về, trang 40).
Vâng, lá Cờ Vàng cũng là biểu
tượng của Chính nghĩa Tự Do Dân Chủ mà mỗi một người dân miền Nam còn ở lại trong nước hoặc đã bỏ
nước ra đi đều mang theo trong lòng mình hình ảnh thiêng liêng nầy. Từ đó, Cờ
Vàng được biết như là ước vọng của toàn dân trong đó có người Chiến sĩ QLVNCH.
Giữa biểu tượng của Chính nghĩa Tự Do và xương máu của người Chiến sĩ Cộng hòa
đổ ra dưới lá cờ này, đã chung hòa và quấn quyện vào nhau tạo nên màu cờ linh
thiêng truyền thống...
Và lá cờ thiêng liêng nầy đã thấm
nhập vào trong máu huyết và trong hơi thở của người Việt Nam Tự Do trong đó có
chinh nhân Thy Lan Thảo.
Ngày nay, đã có trên 60 thành phố
trên toàn nước Mỹ công nhận Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ như là biểu tượng Tự Do của Cộng
đồng Người Việt tị nạn. Đây không hẳn là điều thiếu ý nghĩa.
Nhưng không phải người chiến sĩ
quốc gia nào cũng ấp ủ và quý trọng biểu tượng thiêng liêng nầy một cách liên
tục và son sắt như Thy Lan Thảo đã từng biểu lộ qua ước vọng của
riêng mình (mà cũng là ước vọng chung của đàn chim xa xứ), thốt lên từ ruột gan
của mình, qua đứa con đầu lòng của mình là tập Thơ Thy Lan Thảo xuất bản
tháng 08 năm 2003:
Hồn Tổ quốc sẽ cười vang sông
núi
Đường quê hương sẽ rợp bóng Cờ Vàng
Đổi năm tháng nhục nhằn đầy hận tủi
Bằng tình thương dấu ái ngát trời quang...
Bằng tình thương dấu ái ngát trời quang...
Ôi cao cả thay tấm lòng dung dị chơn chất của người Chiến sĩ
Cộng hòa Thy Lan Thảo đối với quê hương đất nước. Vâng, tôi đã học ở Thy Lan
Thảo lòng trung dũng khí phách nhưng cũng thật nhu hòa chơn chất nầy.
Tôi muốn nói với anh lời chân thành: chúng mình là bạn tù từ
những năm 80, nhưng mãi đến hôm nay, nghĩa là hơn 20 năm sau, tôi mới tìm gặp ở
anh một chiến hữu nghĩa tình!
Dù muộn màng nhưng vẫn còn hơn không, có phải không Mỏng?!
St Louis,
19/06/2004
Bắc Đẩu võ ý