THI NHAN và GIAI THOẠI VĂN CHƯƠNG
In từ Trang nhà: Hội Thân Hữu Gò Công
Category: Văn Học - Nghệ thuật
Tên Chủ Đề: Thơ Văn
Forum Discription: Những bài văn bài thơ hay
URL: http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=7815
Ngày in: 14/Aug/2025 lúc 8:41am Software Version: Web Wiz Forums 8.05a - http://www.webwizforums.com
Chủ đề: THI NHAN và GIAI THOẠI VĂN CHƯƠNG
Người gởi: mykieu
Chủ đề: THI NHAN và GIAI THOẠI VĂN CHƯƠNG
Ngày gởi: 21/Mar/2012 lúc 8:14pm
GIÓ ĐƯA CÀNH TRÚC LA ĐÀ (GS. VŨ QUỐC THÚC)
Mới
đây tôi được đọc trên mạng lưới Internet một bài phiếm luận lý thú về
hai câu thơ, thời tiền đô hộ Pháp. Đó là cặp câu lục bát:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương ...
Ngay
từ hồi còn học ở Trường Thành Chung Nam Định (1934 - 1937), tôi đã được
đọc hai câu thơ này, nhưng không phải là tiếng chuông Thiên Mụ mà là
tiếng chuông Trấn Vũ. Theo tôi nhớ thì đây là hai câu đầu của một bài
thơ tứ tuyệt:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương,
Mịt mù bãi cát màn sương,
Nhịp chày Yên Thái , bóng gương Tây Hồ..
Thiên
Mụ là tên một ngôi chùa danh tiếng ở ngoại thành Huế, còn Trấn Vũ là
tên một ngôi chùa cũng rất nổi danh ở phía tây thành Thăng Long cũ (tức
Hà Nội). Vậy thì địa danh nào mới đáng coi là chính xác? Dĩ nhiên những
ai sinh trưởng ở miền Trung, đặc biệt ở vùng Thừa Thiên, có xu hướng
chọn địa danh Thiên Mụ. Trái lại những người gốc miền Bắc tin rằng địa
danh Trấn Vũ mới đúng sự thật.
Bản
thân kẻ viết bài này không bao giờ có đầu óc địa phương phi lý như vậy:
trái lại chúng tôi rất trân quý đồng bào miền Trung. Tuy nhiên khi bàn
về một đề tài liên can tới văn học sử, chúng ta cần phải khách quan và
tôn trọng tinh thần khoa học. Tôi tin rằng tiếng chuông trong câu thơ
trên là chuông chùa Trấn Vũ vì những lý do sau đây.
Trước
hết, địa danh Trấn Vũ không đưa ra một cách đơn lẻ mà đặt trong một
tổng thể gồm 4 địa danh: Trấn Vũ, Thọ Xương, Yên Thái, và Tây Hồ. Cả bốn
địa danh này đều thuộc một khu vực chung là vùng tây cố đô Thăng Long,
tức Hà Nội cũ. Chùa Trấn Vũ là một thắng cảnh nằm trên đường Cổ Ngư, một
đường đê ngăn cách Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch. Thọ Xương là tên cũ của một
huyện sát thành Thăng Long, trên bờ Hồ Tây, trong đó có những làng danh
tiếng như làng Bưởi, làng Thụy Khê, làng Yên Thái, vân vân... Đặc biệt
là làng Yên Thái chuyên nghề làm giấy bản: trong làng suốt ngày vang
tiếng chày giã bột giấy của nhân dân. Như vậy toàn bài thơ tứ tuyệt liên
can tới một vùng nhất định là vùng ngoại thành phía Tây của cố đô Thăng
Long. Nếu cho là tiếng chuông của chùa Thiên Mụ thì làm sao giải thích
được sự hiện diện trong cùng câu thơ của huyện Thọ Xương, một nơi cách
xa Huế hàng nghìn dặm?
Đọc
bài thơ tứ tuyệt nói trên, ta có thể mường tượng là tác giả đã sáng tác
ở đâu và trong hoàn cảnh nào. Rõ ràng là lúc đó ông (hay bà?) ta đang
ngụ ở một nơi trông ra Hồ Tây cách chùa Trấn Vũ cũng như làng Yên Thái
không xa lắm, nên mới nghe được tiếng chuông chùa cũng như tiếng chày
giã bột giấy của dân làm giấy. Trước biến cố ngày 9 tháng 3 năm 1945 kẻ
viết bài này từng cư ngụ ở đường Pépinière, một con đường đi từ đường
Quan Thánh qua trường Bưởi (tức Lycée du Protectorat sau đổi tên là
trường Chu Văn An), tới Vườn Ươm Cây của Thành Phố Hà Nội (vì thế con
đường mới mang tên Pépinière) rồi tới các làng Thụy Khê, Yên Thái. Đứng
trên gác ngôi nhà tôi cư ngụ, nhìn qua cửa sổ có thể thấy Vườn Ươm Cây
và đàng xa là mặt nước Hồ Tây. Như vậy việc tác giả bài thơ thuật rằng
mình nhìn thấy mặt nước Hồ Tây sau bãi cát phủ sương mù ở bờ hồ, đồng
thời nghe thấy tiếng chuông chùa Trấn Vũ và tiếng chày giã bột giấy của
dân làng Yên Thái, là việc có thực, không phải bịa đặt để thi vị hóa.
Tác giả đã ngẫu hứng vào lúc nào? Theo tôi nghĩ lúc đó là bình minh vì
bốn chữ canh gà Thọ Xương. Hồi theo cấp tiểu học, tôi từng thuộc lòng
một bài thơ khác khởi đầu như sau:
Trống canh năm gà vừa gáy sáng,
Bừng mắt dậy trời đã rạng đông!
Ngắm phong cảnh đẹp vô cùng:
Hỏi ai thêu dệt? Ấy Ông Thợ Trời!
Tác
giả không nói tới tiếng trống cầm canh của đồn Thọ Xương mà lại nói
tiếng gà gáy. Tất nhiên gà gáy vào lúc bình minh chứ không gáy ban đêm:
có lẽ tiếng gà gáy đã vang lên cùng lúc với tiếng trống điểm canh năm
chăng? Vì thế tác giả mới nảy ra ý nghĩ ngộ nghĩnh là con gà gáy điểm
canh! Đây là một nghệ thuật chơi chữ táo bạo của các nhà thơ, nhà văn,
có dụng ý đánh động sự hiếu kỳ của độc giả hay thính giả. Từ xưa đến nay
đã ai thấy gà gáy điểm canh suốt đêm đâu! Chẳng trách có người đã hiểu
lầm và dịch canh gà Thọ Xương là chicken soup of Thọ Xương (bouillon de
poulet de Thọ Xương)!
Tiếng
chuông chùa cũng như tiếng chuông giáo đường thường có ảnh hưởng gây
xúc động trong tâm hồn những người nhạy cảm. Thời Nhà Đường, một thi sĩ
Trung Hoa, ngủ trên thuyền ở bến Cô Tô, giữa đêm bỗng nghe thấy hồi
chuông từ chùa Hàn San vọng lại. Ông ta ngẫu hứng đã sáng tác một bài
thơ trứ danh trong đó có hai câu:
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh náo khách thuyền!
(Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San)
Hồi
chuông mà tác giả của chúng ta đã nghe thấy không có tính cách bất
thường như hồi chuông giữa đêm khuya của chùa Hàn San: đó chỉ là hồi
chuông được gióng lên mỗi buổi sáng. Tuy nhiên đối với những người đang
có chuyện ưu tư hay phiền não, nó nhắc nhở cho họ rằng mọi sự trên cõi
đời trần tục này đều là vô thường!
Đánh tan tục niệm hồi chuông sớm!
Gõ vỡ trần tâm tiếng mõ trưa!
Tác
giả của chúng ta có ở trong trạng thái tâm thần đó không? Ta không thể
quyết đoán, chỉ biết chắc rằng ông (hay bà) ta đã chú tâm đến hồi chuông
này. Có thế thôi!
Dựa
trên các chi tiết trong bài thơ, tôi giả thiết như sau: Tác giả vừa
thức dậy, nhìn ra ngoài vườn thì thấy nhiều cành trúc trong bụi trúc
trước nhà la đà trước gió, rồi nghe thấy tiếng chuông ban mai của chùa
Trấn Vũ vang dội cùng lúc với tiếng gà gáy từ phía đồn canh của Huyện lỵ
Thọ Xương. Tác giả thầm nghĩ 'Thật chẳng khác chi con gà đã thay lính
cầm canh báo cho ai nấy biết rằng canh năm tới rồi!'. Tác giả nhìn về
phía bãi cát ở bờ Hồ Tây, thì thấy sương mù mờ mịt. Mặc dù còn tranh tối
tranh sáng như vậy, đã nghe thấy tiếng chày giã bột giấy của dân làng
Yên Thái. Rồi qua màn sương, tác giả thấy mặt nước Hồ Tây lóng lánh như
một tấm gương vĩ đại... Ngẫu hứng nhà thơ đã sáng tác bốn câu thơ thể
lục bát, còn được truyền tụng cho đến ngày nay.
Rõ ràng đó là một bài thơ tả cảnh, rất hiện thực. Tuyệt nhiên không phải
là thơ tả tình vì không có một câu nào, một từ nào, nói lên tình cảm
của chủ thể. Điều bất ngờ là do các biến chuyển của thời cuộc, bài thơ
dần dần trở thành thơ tả tình, hơn thế nữa: đã được dùng như một thông
điệp để biểu lộ một thái độ chính trị.
a)
chuyển thứ nhất là việc nước Pháp chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa (1863) rồi
đặt nền bảo hộ trên hai miền Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1884). Lợi dụng tình
trạng khiếp nhược của Triều đình Huế, nhà cầm quyền Pháp đã dần dần biến
chế độ bảo hộ trên giấy tờ thành một chế độ trực trị trong thực tế.
Những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định ở Bắc Kỳ hoàn toàn
do các cai trị viên Pháp quản lý. Bộ mặt của những thành phố này thay
đổi sâu xa. Trước cảnh tang thương ấy, nhiều sĩ phu cựu học cảm thấy nhớ
tiếc thời đất nước còn tự chủ: thời Hà Nội còn gọi là Thăng Long với
những hình ảnh, những âm thanh được ghi trong bài thơ tứ tuyệt 'Gió Đưa
Cành Trúc La Đà'... Các cụ đã ngâm nga bài này để nói lên tâm trạng hoài
cổ của mình và gián tiếp bầy tỏ nguyện vọng cần vương phục quốc. Nhưng
sau sự thất bại của các nhà kháng chiến như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa
Thám, Nguyễn Thiện Thuật..., của các phong trào duy tân như Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa Thục, sau khi thấy các vị vua có tinh thần đấu tranh như
Hàm Nghi, Duy Tân, Thành Thái bị lưu đày ra hải ngoại... nhiều cụ đã
chán nản, chua chát ghi nhận những sự thật ngang tai chướng mắt.
Thí dụ: Cụ Tú Trần Kế Xương trong mấy câu: Sự biến
Vợ lăm le ở vú!
Con tấp tểnh đi bồi!
Khách hỏi nhà Ông đến:
Nhà Ông đã bán rồi!
b)
Sự biến chuyển thứ hai xẩy ra trong những năm đầu của thập kỷ 1930. Sau
khi những âm mưu khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng và của Đảng Cộng
Sản Đông Dương bị nhà cầm quyền thuộc địa thẳng tay đàn áp, Pháp áp
dụng chính sách 'lập lờ đánh lận con đen' với hy vọng ru ngủ nhân dân
hai miền Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vua Bảo Đại được Pháp đưa về hồi loan chấp
chính, Triều đình Huế được tân trang với sự bổ nhiệm một số nhân vật tân
học vào Viện Cơ Mật nhưng cơ cấu chính trị và hành chính vẫn giữ nguyên
vẹn với các định chế lỗi thời như định chế quân chủ thiên mệnh, định
chế quan lại, định chế xã thôn tự trị... Nguyện vọng của các tổ chức đấu
tranh và những người yêu nước là phải canh tân toàn diện chứ không phải
là cải cách nửa vời, giả dối! Bài thơ 'Gió Đưa Cành Trúc La Đà' bị coi
như tượng trưng xu hướng thủ cựu, một xu hướng chỉ có lợi cho nhà cầm
quyền thuộc địa. Sau khi vua Bảo Đại bổ nhiệm sáu vị thượng thư 'tân
học' để thay thế lục bộ cũ, tuần báo hài hước Phong Hóa đã đăng một bức
hí họa trong đó sáu cụ 'Thượng mới', quần trùng áo dài, đeo thẻ bài lủng
lẳng, chen chúc nhau trên một con thuyền nhỏ bé lênh đênh trên sông
Hương. Dưới bức họa ghi hai câu thơ lục bát:
Gió đưa cành trúc la đà
Một thuyền chật ních bài ngà thượng thư ...
Bài
thơ 'Gió Đưa Cành Trúc La Đà' trước kia được coi là biểu tượng của thái
độ chống thực dân Pháp thì nay đã biến thành biểu tượng của thái độ thủ
cựu, hợp tác với nhà cầm quyền thuộc địa Pháp!
c) Sự biến chuyển thứ ba xẩy ra sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 với sự di
cư của hơn một triệu người Việt tị nạn ra ngoại quốc. Nhiều người tị nạn
đã mượn bài thơ 'Gió Đưa Cành Trúc La Đà' để nói lên nỗi lòng tưởng nhớ
quê hương của mình. Tất nhiên những người gốc miền Trung đã sửa lại
tiếng chuông Trấn Vũ thành tiếng chuông Thiên Mụ.
Ba
mươi năm đã trôi qua. Số người tị nạn ở hải ngoại, cộng với con cháu họ
và những người Việt không chịu hồi hương sau khi chế độ cộng sản Liên
Xô tan rã, đã lên gần ba triệu. Khỏi cần chứng minh là nhiều thanh thiếu
niên không biết gì về lịch sử cũng như văn chương Việt Nam. Nhiều người
nói tiếng Việt còn không sõi. Do đó, khi đọc bài thơ trứ danh 'Gió Đưa
Cành Trúc La Đà', họ đã không hiểu những từ ngữ dùng trong bốn câu thơ.
Nếu tra tự điển để tìm nghĩa từng chữ thì có thể sai lầm thảm hại, như
tác giả bài phiếm luận nói trên đăng trên internet đã chứng minh một
cách rí rỏm. Chẳng hạn người ta có thể nghĩ rằng 'la đa`' la` m ột đàn
la và lạc đà rồi suy luận rằng cành trúc là cây roi tre của kẻ chăn đàn
la và lạc đà này. Rồi Thiên Mụ thì được hiểu là Vợ của ông Trời, chuông
đồng của chùa giống như chuông điện chỉ cần bấm là kêu leng keng, còn
canh gà Thọ Xương có lẽ là canh xương gà trong các tiệm ăn Tầu! Tác giả
bài phiếm luận đã dựa trên những sự lầm lẫn đó để làm bài thơ trào phúng
sau đây:
Roi tre vun vút vung ra:
Lũ lạc đà với lũ la chạy cuồng...
Vợ Trời giáng một hồi chuông
Gọi về ăn bát canh xương gà Tầu!
Nếu
dụng ý của tác giả bài phiếm luận là chế giễu các thanh thiếu niên
không có đủ kiến thức về ngôn ngữ và văn chương Việt Nam, thì tôi nghĩ
rằng cũng tội nghiệp cho họ quá! Họ đâu có được học hỏi về ngôn ngữ và
văn chương Việt Nam như ông, cha của họ!
Kẻ
đáng trách chính là chúng ta, những người lớn tuổi thuộc thế hệ ông,
cha của các thanh thiếu niên ấy. Chúng ta đã không làm hay không làm đủ
bổn phận truyền đạt cho con cháu chúng ta những kiến thức về văn hóa dân
tộc mà chúng ta đã hấp thụ.
Thiên
phiếm luận đăng trên Internet về bài thơ “Gió đưa cành trúc la đà” đã
giúp chúng ta ý thức sâu sắc hiểm họa vong bản đang đe dọa con cháu
chúng ta. Chúng ta không nên trì hoãn nữa: cần phải làm một cố gắng
quyết liệt để chấn chỉnh tình trạng này./.
VŨ QUỐC THÚC (Paris)
http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=677&Itemid=49
------------- mk
|
Trả lời:
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 21/Mar/2012 lúc 8:17pm
Xin được góp ý về bài “ http://chutluulai.net/forums/showthread.php?t=6136 - Gió đưa cành trúc la đà ” của giáo sư Vũ Quốc Thúc (Dương Tử)
Phải
công nhận rất, hiếm khi chúng ta đuợc đọc bài viết về văn học văn hoá
của một chuyên viên kinh tế. Cám ơn Giáo sư đã sử dụng kinh nghiệm bản
thân cụ thể để phân tích cặn kẽ 4 câu thơ: “Gió đưa cành trúc la đà.
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương. Mịt mù bãi cát màn sương. Nhịp
chày Yên Thái, bóng gương Tây Hồ.”
Sau đây, chúng tôi xin mạo muội đóng góp một số ý kiến về bài viết của
Giáo sư. Nếu có điều chi thất thố, xin Giáo sư vui lòng chỉ bảo.
I.- Ý THỨ NHẤT:
Tiếng chuông TRẤN VŨ
.
-Bốn câu thơ nêu trên với những địa danh Thăng Long( Hà Nội ), rõ ràng
là được sáng tác ở Miền Bắc. Tiếng chuông ở đây là tiếng chuông Trấn Vũ,
chứ không phải là tiếng chuông Thiên Mụ. Tuy nhiên, trong kho tàng Văn
Học Dân Gian ( Bình Dân) của chúng ta còn có 4 câu thơ khác như sau:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông THIÊN MỤ canh gà Thọ Xương.
Thọ Xương có gái mỹ miều
Trẫm thương, Trẫm nhớ, Trẫm liều Trẫm đi.”
Câu ca dao nầy được xếp vào loại ‘ca dao có tình cách lịch sử’, ám chỉ
việc vua Duy Tân rời bỏ kinh thành, mưu đồ khởi nghĩa chống Pháp: Theo
kế hoạch, vào đêm 3 tháng 5 năm 1916, hai ông Trần Cao Vân và Thái Phiên
đến cửa Hòa Bình đón vua xuất bôn. Không may âm mưu đã bị phát giác,
vua tôi bỏ chạy, bị truy nã. Ðể đánh lạc hướng mật thám, vua đã gói ấn
tín bỏ lại trên cầu Tràng Tiền mà theo Thái Phiên và Trần Cao Vân lẩn
trốn. Nhưng cuối cùng vua tôi đều bị bắt tại chùa Thiên Mụ và huyện Phú
Lộc (Huế ). Hai ông Trần Cao Vân và Thái Phiên bị xử chém, nhà Vua thì
sau 10 ngày phải giam cầm ở đồn Mang Cá, bị đày sang đảo Réunion bên Phi
Châu. Lúc bấy giờ Ngài mới 16 tuổi!
Như thế, câu ca dao nầy được sáng tác ở miền Trung, sau ngày âm mưu khởi
nghĩa. Và tiếng chuông ở đây là tiếng chuông THIÊN MỤ. Chứ không thể
nói là sau biến cố 30 Tháng Tư, tị nạn ở hải ngoại nhớ quê hương mà
những người gốc Miền Trung đã sửa lại tiếng chuông TRẤN VŨ thành tiếng
chuông THIÊN MỤ! Có điều là tôi không biết câu nào được sáng tác trước
câu nào.
Nói về các câu ca dao có tính cách lịch sử, chúng ta có rất nhiều. Thí
dụ như: “Phụ Hoàng Hoàng đế hà tội kiến thiên? Dực tông tôn lăng hà cô
kiến quật?”(Sớ bí mật dâng lên vua Duy Tân kể tội việc đày vua Thành
Thái và việc đào mả vua Tự Ðức.) “Tiếc thay cây quế giữa rừng Ðể cho
thằng Mán, thằng Mường nó leo!” “Châu Ô, Châu Lý vuông ngàn dậm Một gái
Huyền Trân của mấy mươi!” liên quan đến việc vua Nhà Trần gả Công Chúa
Huyền Trân cho Chiêm vương Cế Mân, đổi lấy 2 Châu Ô và Châu LÝ. “Nghĩ ra
nông nỗi thêm rầu. Ở giữa Ðồng Khánh, hai đầu Hàm Nghi!”liên quan đến
việc vua Ðồng Khánh được Pháp đưa lên ngôi ở Huế, trong khi ở hai miền
Bắc và Nam, dân chúng vẫn trung thành với vua Hàm Nghi. “Tháng sáu có
chiếu Vua ra Cấm quần không đáy, người ta ngặt ngùng Không đi thì chợ
chẳng đông Ði thì bóc lột quần chồng mà mang”liên quan đến việc vua Minh
Mạng cấm người phụ nữ miền Bắc mặc váy… “Nực cười châu chấu đá xe Tưởng
rằng chấu ngả, ai dè xe nghiêng!”: đề cập đến việc vua Nhà LÝ năm 1076
sai Lý Thường Kiệt đem quân đánh TỐNG để đòi lại Khâm Châu, Liêm Châu và
Ung Châu . “Giặc Tây đánh đến Cần Giờ Ðừng thương, đừng nhớ, đừng chờ,
uổng công!” :lời người chiến sĩ Nghĩa Binh tòng quân đánh giặc Pháp
(1859) “Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệâu bất tường”:Bên nầy sông Hương là triều đình
Huế, bên kia sông là toà Khâm Sứ Pháp, từ tháng 6/1883 ( vua Tự Ðức mất )
đến tháng 10/1883, có 3 vị vua được/bị phế lập là vua Dục Ðức, Hiệp Hoà
và Kiến Phúc; đó là điềm chẳng lành!
Và gần đây, có rất nhiều câu ca dao tân thời, liên quan đến các vấn đề
thời sự, chính trị, xã hội, chẳng hạng như về vấn đề ‘Ở TÙ CẢI TẠO’:
“Bao giờ Trảng Lớn hết tranh Núi Bà hết đá thì anh mới về!” “Con đường
Cải Tạo chơi vơi Tù mà không án biết đời nào ra!” “Ngày đi tóc hãy còn
xanh Ngày về mái tóc của anh bạc rồi!” hoặc “tếu” hơn nữa: “Ngày đi con
hãy u, ơ Ngày về cháu nội/ngoại đang chờ đón Ông!”
Về được là may. Chứ như giáo sư Tổng Trưởng Giáo Dục Nguyễn Duy Xuân
thay Dược Sĩ Ngô Khắc Tỉnh có 2 tuần lễ ( trong nội các của Thủ Tướng
Nguyễn Bá Cẩn), đã không chịu bỏ nước ra đi nên bị đưa đi tù cải tạo ở
miền Bắc 13 năm và chết trong trại Hà Nam Ninh năm 1987!
II.- Ý THỨ HAI:
Việc dịch nhóm chữ “ CANH GÀ THỌ XƯƠNG”
Về việc dịch nhóm chữø “Canh Gà Thọ Xương” ra tiếng Anh “ Thọ Xuong
Chicken Soup”, hay tiếng Pháp “Bouillon de Poulet de Thọ Xuong”, chúng
ta đã từng nghe nói đến từ trước năm 1975 nhưng theo thiển ý, và có lẽ
nhiều người cũng cho đây là một ‘lối dịch đùa cho vui’(joking
translation, theme comique ): vừa dịch vừa cười, chứ có mấy ai cho đó là
nghiêm túc đâu! Riêng về “bài thơ trào phúng trên Internet” mà giáo sư
đã trích dẫn, rất tiếc chúng tôi không được xem, nhưng nghĩ chung chung
thì đây cũng chỉ là một trò vui(joke) vậy thôi, chứ có mấy ai dốt nát
đến nỗi cho rằng “La đà” là Con La và Con Lạc đà!
Thời tiếng Pháp còn thịnh hành ở Việt Nam, cũng đã có người dịch đùa cợt
nhóm chữø “Năm khi mười hoạ” ra là “xanh căng đít cọt bô” ( cinq quand
dix corbeaux ), hoặc dịch ra tiếng Pháp như sau: “Xòa xòa ca nạ ki xòa.
Rớ gạt tôm mé, nốp xòa cớ man!” ( Soir soir canards crient soir- Regarde
tombe mère neuf soirs coeur mal!) câu ca dao:“Chiều chiều chim vịt kêu
chiều. Trông vời mả me, chín chiều ruột đau!” cười thôi chứ có ai nói ai
dốt đâu!
Cũng như có người nói đùa ( xin lỗi quí vị phụ nữ ) Miền Bắc Cali có một
nơi “ phụ nữ giá rẻ lắm”: một trăm quan mà tới sáu nàng! Ðó là người ta
cắc cớ bảo San Francisco đọc na ná như “cent francs six cô”: “Trăm quan
có được sáu nàng. Ðem về mua gạch Bát Tràng mà xây. Xây dọc rồi lại xây
ngang.Xây hồ bán nguyệt cho ( các ) nàng rửa chân! ( nhại lại câu ca
dao xưa). Ðùa có quá lố, nhưng vẫn chỉ cho vui. Vậy, cũng không nên quá
bi quan về sự ‘dốt nát’ của tha nhân. Chúng tôi vốn thuộc “tiếu lâm cái
bang”, cũng thích những chuyện khôi hài, tiếu lâm nhẹ nhàng, tự biết
mình không hơn ai nên không dám chê ai dốt nát cả, mình hơn mình đã khó,
còn đòi hơn ai ? Thỉnh thoảng cũng “I can du”, “Du cho ai xin” lia
chia.
III.- Ý THỨ BA:
Canh gà và tiếng chuông chùa HÀN SAN:
1/.Qủa có tiếng “Canh gà” Xin kể câu chuyện vui sau đây: Có một nhà Nho,
sáng mùng một TẾT khai bút: “Ðầu năm khai bút, bút khai hoa”..Ðịnh chấm
mực tàu ghi thơ trên giấy hồng đào, nhưng bỗng thấy nghiên mực đã mài
sẵn mà sao lại đầy cứt gà? ..Ồ, thì ra là con gà trống chứ ai vô đây.
Ông kêu lên: Nghiêng mực mà sao lắm cứt gà! Ðúng là “hắn”, hễ cứ mỗi lần
bọn gà mái kêu ổ cót cót, là hắn nhảy xổ lên bàn ông cào cào, tục tục,
tìm ổ cho lũ gà mái. Càng nghĩ càng giận. Ông quát: Thì cứ đem ra mà cắt
tiết.Bà Ðồ từ nhà sau chạy vội ra: “Ai can du! Du cho ai xin “ ( dịch
đùa đấy nhé ): Lấy gì đánh thức lúc CANH BA!”. Vì thỉnh thoảng: “Ðang
đêm gà gáy canh ba. Ông bà nổi hứng bắt gà đá chơi! ”. Ðủ rồi. Không dám
kể tiếp sợ bị…mắng!
Kinh nghiệm bản thân. Thưở nhỏ, vì trường học ở xã không có lớp Nhì, nên
chúng tôi phải đi bộ xuống trường Tỉnh để tiếp tục học. Cứ sáng sáng
canh ba, GÀ “gáy hiệp nhứt’, MỢ tôi ( tức vợ của Cậu tôi, chú không phải
Mẹ tôi ) thức dậy nhóm lửa, nấu cơm cho chúng tôi ăn và còn gói thêm
đem theo cơm trưa, GÀ “ gáy hiệp ba” ( tức Canh Năm) là bắt đầu đi bộ 2
cây số, từ xã Phước Thành đến bến đò Trạm (qua sông Ðồng Nai ), chúng
tôi qua đò miễn phí vì là học sinh. Rồi bạn hàng thì có xe ngựa chực sẵn
chở người và hàng hoá xuống chợ, còn chúng tôi tiếp tục đi bộ, hoặc
thường là chạy theo xe ngựa thêm 4,5 cây số nữa mới đến Trường. Vì sợ
chúng tôi đeo theo xe, trì đít xe xuống mà càng xe lại ngỏng lên, ngựa
không kéo được, nên thỉnh thoảng bác tài quất roi ngược ra phía sau nghe
vun vút. Có lần vì sợ cặp mắt kiếng can rớt bể trong khi chạy theo xe,
anh tôi gửi kiếng trong thúng hàng hóa của một bạn hàng rồi quên luôn,
tưởng mất; vậy mà mấy hôm sau, có người tìm đến trả kiếng lại. Cám ơn
hết sức. Chiều tan học, chúng tôi lại lội bộ về đến nhà thì đã “đỏ đèn”.
2/- Qủa tiếng chuông chùa HÀN SAN là bất thường.
Thường thì chùa chỉ nện chuông ‘công phu’ vào buổi chiều tối hay sáng
sớm. Tiếng chuông chùa HÀN SAN trong đêm khuya quả là bất thường. Tương
truyền, nhà thơ Trương Kế đang đêm neo thuyền ở bến Phong Kiều( Phong
Kiều Dạ Bạc ), ngoại ô thành Cô Tô, trước cảnh u tịch, vắng vẻ, trăng
tà, quạÏkêu, sương xuống, muốn sáng tác một bài thơ, nhưng chỉ làm được
hai câu đầu, rồi “hết ý”: “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên. Giang phong
ngư hỏa đối sầu miên”
Cùng đêm đó, một sự trùng hợp lạ lùng: vị sư trụ trì chùa Hàn San, trong
một đêm đầu tháng, trăng non tỏa ánh sáng lung linh trên hoa lá, cũng
muốn sáng tác một bài thơ vịnh trăng, nhưng cũng chỉ làm được hai câu
đầu, rồi “ cụt hứng”: Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung. Bán tu câu liêm bán
tự cung”
Cho mãi đến khuya, tứ thơ vẫn chưa đến, Ngài cứ lập đi lập lại hai câu
thơ đã làm mong gợi hứng.Chú tiểu đồng theo hầuThầy, cũng vừa đọc vừa
suy nghĩ rồi đánhbạo đê đầu xin phép Thầy cho đọc tiếp hai câu cuối của
bài thơ tứ tuyệt mà sư phụ nghĩ mãi không ra: “Nhất phiến ngọc hồ phân
lưỡng đoạn.Bán trầm thủy để bán phù không!”
Sư phụ cả mừng khen rối rít, ngâm nga nhiều lần toàn bài thơ, giục trò
nấu nước pha trà dâng Phật, và gióng một hồi chuông tạ ơn chư Phật đã
ban cho hai thầy trò trí huệ minh mẫn, hoàn tất được bài thơ.
Ðúng lúc ấy, người được hưởng “lây” huệ sáng suốt nói trên là nhà thơ
Trương Kế:ông đang lơ tơ mơ, có lẽ đã ngủ gà ngủ gật, chợt nghe tiếng
chuông giật mình “đánh thót một cái”, như trái táo rụng trên đầu nhà bác
học Newton, ý thơ bỗng dâng lên, giúp nhà thơ kết thúc tác phẩm “bất
hủ”của mình, hiện được khắc trên đá để du khách bốn phương lũ lượt đến
thưởng ngoạn:“Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự.Dạ bán chung thanh đáo khách
thuyền!”
Hay thì biết là hay vậy, chứ làm chi mà phải tốn bạc ngàn sang tận bên
Tàu để xem thơ! Một sự “tôn sùng”, “vọng ngoại” quá đáng”! Cũng như Vạn
Lý Trường Thành, không đi xem, có chết đâu! Thế mà có người bảo: “Bất
đáo Trường Thành phi hảo hớn!”
IV.- Ý THỨ TƯ:
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HÓA Ở HẢI NGOẠI
Cám ơn Giáo sư đã nhắc nhở. Xin được tường trình Giáo sư: Vấn đề nầy,
riêng ở Miền Nam CALI , đã được chúng tôi và quí phụ huynh học sinh hợp
tác với nhau thực hiện từ hơn ba mươi năm nay rồi: Phải hành động chứ
không thể hô hào suông được. Riêng cá nhân chúng tôi, thì chị mới bắt
tay vào việc 20 năm thôi, kể từ năm 1990 tị nạn sang Mỹ theo diên H.O.(
Chương trình Tị nạn Nhân đạo) , sau mấy năm tù cải tạo vàsau khi được
thả từ nhà tù vượt biên. Bọn cai tù điều tra biết tôi là tù cải tạo vượt
biên nên điểm mặt tôi:”Người thường vượt biên còn có thể tha, chứ đã
cải tạo rồi mà vẫn u tối ( tôi lầm bầm vừa đủ nghe “còn lâu”), vẫn còn
muốn chạy theo bọn đế quốc để ăn bơ thừa sữa cặn, cho ở tù rụt xương
luôn”. Nói vậy chứ không phải vậy: Bà Xã tôi lo tiền là nó thả. Ðược thả
rồi, tôi vượt biên nữa, lại mất tiền mất bạc; và cuối cùng thì trắng
tay, chờ đi theo diện H.O.
Xin trở lại việc‘ Dạy tiếng Việt, Lịch sử, Ðịa lý và Văn hoá Việt Nam’
cho các thế hệ trẻ tai Miền Nam California từ hơn 30 năm nay: Phụ huynh
học sinh thì khuyến khích con em nói tiếng Việt, học tiếng Việt, tạo
điều kiện và khuyến khích con em đến lớp học tiếng Việt vào mỗi cuối
tuần, giúp đỡ Thầy Cô, trường lớp về vật chất cũng như tinh thần. Phương
châm của quí vị là “Ðừng sợ con mình không nói giỏi tiếng Mỹ, mà chỉ lo
con em mình không nói rành tiếng Việt!”
Về phía chúng tôi thì hai tổ chức đã liên tục nỗ lực: Ðó là Ban Ðại Diện
Các Trung Tâm Việt Ngữ NAM CALI và Gỉai Khuyến Học Việt OLYMPIAD:
1.-Ban Ðại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ NAM CALI : là cả một phong trào
thi đua. Các Trung tâm Việt Ngữ mọc lên như nấm, thi đua mở các lớp dạy
Tiếng Việt, Lịch Sử, Ðịa Lý, và Văn Hoá Việt Nam vào mỗõi cuối tuần, với
phương châm: “Tiếng Việt còn, Ðất nước ta còn”. Thầy Cô hy sinh đến dạy
miễn thù lao, trường lớp thì xin chùa, nhà thờ cho mượn , cung cấp miễn
phí bàn ghế, phấn bảng.. Hiện nay ở Nam Cali có hàng trăm trung tâm
tiếng Việt như vậy. Thậm chí còn có Thầy Cô lấy phòng ốc của nhà mình để
làm lớp học! Ðể phối hợp hoạt động, cácTrung tâm bầu lên một Ban Ðại
Diện điều hợp, một chương trình chung, soạn và in sách giáo khoa, liên
lạc với chánh quyền, với các hội đoàn bạn, thi đua Văn nghệ “VUI HỌC,
VUI HÁT”, tổng kết mỗi niên học, báo cáo thành quả, họp mặt cuối năm,
khen thưởng học sinh và tri ân Thầy Cô xuất sắc, kiên trì phục vụ không
mệt mỏi, trong mười năm, mười lăm năm, hai mươi năm qua! Ðặc biệt tuyên
dương những Thầy Cô liên tục dạy trên mười, mười lăm năm, hai mươi năm:
Họ quả là duy trì sự kiên nhẫn, sự hy sinh vượt mức! Họ đã liên tục hoạt
động “CHÙA” nhưng rất hăng hái và phấn khởûi và đã tạo được những thành
quả cụ thể lớn lao trong hơn ba mươi năm qua. Ðịa chỉ liên lạc: Ban Ðại
Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ Nam California, 14560 Magnolia St, Ste 105 ,
Westminster- CA 92683:Website: ttvn.org - E-mail: tavietlcs at
yahoo.com.
2.- Gỉai Khuyến Học Việt OLYMPIAD đã tổ chức đến kỳ thứ 22, phối hợp
nhịp nhàng vơí Ban ÐẠI DIÊN CÁC TTVN nói trên: một bên thì lo dạy, một
bên lo kiểm tra để phát thưởng, khuyến khích:các em vui học với phương
châm:“Ðược không kiêu, thua không nản”! Thật ra trước đây hai tổ chức
nầy là một, về sau vì nhu cầu phát triển nên tách ra làm hai để dễ bố
trí và điều động nhân sự. Hằng năm, cứ đến kỳ thi khuyến học Việt
OLYMPHIAD, khoảng tháng 6, cả một bầu không khí rộn ràng, hào hứng. Phần
các Trung tâm Việt Ngữ và Ban Ðại Diện lo ôn tập, lập danh sách thí
sinh gởi về ban tổ chức, chuẩn bị tiền bạc để lo ăn uống , xe đưa đón
các thí sinh trong mấy ngày thi, và lo chuẩn bị các phần thưởng của
riêng từng trung tâm cho các học viên của mình. Ban tổ chức thì lo:
- Soạn đề thi, ra đề thi, chấm bài cho các cấp Tiểu học, Trung học, Ðại
học, kể cả thi viết và Ðố Vui để Học, xem xét, định mức sức học và thành
tích hoạt động cộng đồng của các Sinh viên và Học sinh ưu tú, xếp hạng
các sáng tác đã nộp cho Ban Tổ chức, v.v… với sư giúp đỡ tích cực và
kiên trì của các Thầy Cô trong HỘI CỰU GIÁO CHỨC VIỆT NAM HẢI NGOẠI và
GIA ÐÌNH SƯ PHẠM HẢI NGOẠI
-Tổ chức các phòng thi và phát giải thưởng ( mấy năm sau nầy do GSTS
Phạm Thị Huê giúp mượn được phòng thi và hội trường để phát các giải
thưởng tại Trường ÐHCÐ Orange Coast College)
-Thực hiện các giải thưởng gồm các giải viết văn, học sinh và sinh viên
ưu tú, luận văn, đố vui về lịch sử- địa lý-văn học, viết chính tả…Kinh
phí thì có các mạnh thường quân quyên góp, tổ chức trình diễn văn nghệ
cây nhà lá vườn, tổ chức tiệc gay quỹ, tổ chức rửa xe, thả thơ trong các
Hội Chợ TẾT v.v…
- Phổ biến các Thông báo, tường thuật các Kỳ thi, lễ Phát các Giải
thường, tri ân Thầy Cô giáo, quý vị Mạnh Thường quân, quý vị Ký giả,
Phóng viên, Báo chí, các Ðài Phát thanh, các Ðài Truyền hình, v.v…
Kết quả là gì? Xin mời Quí vị đến phòng dạy học, phòng thi, dự khán Lễ
Phát thưởng để xem chúng tôi làm việc. Vui lắm. Mệt nhưng mà vui. Chúng
tôi hỏi một em bậc tiểu học về tên các con vật trong tác phẩm LỤC SÚC
TRANH CÔNG và phần việc của mỗi con vật. Em kể đúng 6 con: TRÂU, NGỰA,
CHÓ HEO, DÊ và GÀ nhưng đến phần công việc của DÊ và GÀ, em lúng túng
“Dạ…dạ, con GÀ ÐẺ TRỨNG, con DÊ VẮT SỮA”.Thật đáng mừng: Em đã có một ít
khái niệm căn bản về Văn học rồi đó!
Quí vị cũng sẽ gặp những thanh niên sanh tại Mỹ, học Trường Mỹ, làm việc
hãng Mỹ nhưng nhờ trước có theo học các lớp tiếng Việt, nay cuối tuần
trở về trung tâm dạy phụ, tiếp tay với Thầy Cô của mình.
Quý vị sẽ bắt gặp những gương mặt rạng rỡ khi các em nhận được các phần
thưởng từ tay các Thầy Cô, Phụ Huynh và các nhà mạnh thường quân. Quí vị
sẽ ngạc nhiên thích thú khi nhìn thấy tận mắt những bài hát tiếngViệt,
những màn vũ dân tộc do các em luyện tập và trình diễn góp vui!
Quí vị sẽ thấy lòng rộn rã khi nghe tập thể học sinh vui hát các bản
nhạc Tình Ca của Phạm Duy“Tôi yêu tiếng nướùc tôi…” hoặc bài Vang Vang
Tình Việt Nam của Trầm Tử Thiêng“Cây có cội, nước có nguồn…”
Lẽ dĩ nhiên đây cũng chỉ là những kết quả khích lệ, chứ hoài bão của
chúng ta “to lớn gấp trăm, gấp ngàn lần” và chúng ta còn phải nỗ lực gấp
trăm , gấp ngàn lần như thế!
Ðịa chỉ của Ban Qủan Trị Giải Khuyến Học Việt OLYMPIAD: Box 802 Garden Grove, CA 92843
Ð.t. (714) 531-8540 - (562) 225-4059
Xin được nhại lời hát của cố ca nhạc sĩ DUY KHÁNH :Hãy đến với chúng tôi, hãy dến với chúng tôi, đừng yêu TRẺ bằng lời!”
Xin cám ơn giáo sư. Xin cám ơn quý độc giả.
Dương Tử (Dec . 2009).
http://chutluulai.net/forums/showthread.php?t=6358
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 21/Mar/2012 lúc 8:28pm
Một Câu Thơ Gây Nhiều Tranh Cãi
(Phương-Vũ Võ Tam-Anh)
Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương.
Trong bao nhiêu năm nay, nhiều người Việt Nam ở nhiều lãnh vực khác nhau
đã đua nhau tranh cãi về xuất xứ của hai câu thơ này.
Trên Tập san Y Sĩ ở Montréal Canada số 135 tháng 5 năm 1997, Lê Dư
Khương cho rằng hai câu thơ đó không hề có ở xứ Huế, viện dẫn rằng ở Huế
có chùa Thiên Mụ mà không ai nghe nói tới địa danh Thọ xương. Vậy thì
câu thơ phải phát xuất từ miền Bắc là
"Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Võ canh gà Thọ Xương".
Thoạt nghe thấy có lý vì phía tây thành Thăng Long (Hà Nội cũ) có cả
chùa Trấn Võ trên đường Cổ Ngư và có cả huyện Thọ Xương nằm trên bờ Hồ
Tây.
Liền sau đó, tháng bảy 1997, Hồ Văn Châm đăng bài phản biện cũng trên
tập san này, chứng minh rằng ở Huế cũng có vừa chùa Thiên Mụ vừa có
làng Thọ Xương để xác định là câu thơ phát xuất từ vùng Huế bằng những
lập luận dựa trên nhiều sự kiện lịch sử:
Theo Văn Đàn Bảo Giám do Văn Học Tùng Thư ấn hành và theo Phan Phong
Linh trong cuồn Việt Nam Phong Cảnh Qua Thi Ca thì bài thơ sau đây là
của Dương Khuê:
Phất phơ ngọn trúc trăng tà, Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương, Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây Hồ.
Theo Thái Văn Kiểm trong bài " Hồi chuông Thiên Mụ" đăng trong Làng Văn
Magazine (tháng Tư 1986) ước đoán rằng thơ Dương Khuê sơ khởi chỉ có hai
câu đầu, về sau một nhà thơ nào đó thời cận kim thêm vào hai câu sau
cho đầy đủ cảnh trí..
Điều đáng chú ý là tất cả mọi trích dẫn trên đều thống nhất ở một điểm
là "Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương" đi theo sau câu "Phất phơ
ngọn trúc trăng tà". Trong khi đó sách báo tại Hà Nội vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên
90 đều nhất loạt đổi "Phất phơ ngọn trúc trăng tà, Tiếng chuông Trấn võ,
canh gà Thọ Xương" thành " Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn
Võ, canh gà Thọ Xương".
Nhà văn Vũ Ngọc Phan thận trọng hơn, khi phải
viết "Gió đưa cành trúc là đà, Tiếng chuông Trấn Võ..." thì phải a dua
theo thời để được yên thân, nhưng cũng không quên chú thích rằng có bản
chép là " Phất phơ ngọn trúc trăng tà" để cho lương tâm khỏi bị căn rứt.
Gần đây, giáo sư Vũ Quốc Thúc, một vị giáo sư khả kính đã dạy tôi về môn
kinh tế khi tôi còn theo học trường Luật ở Sài gòn, cũng đã lên tiếng
trên Internet để góp ý về cuộc tranh luận văn học này.
Giáo sư kể rằng
khi còn học ở trường Thành Chung Nam Định vào năm 1934-1937, giáo sư đã
từng được nghe bài thơ đó. Vì là người Hà Nội chính cống nên giáo sư rất
rành rẽ ngọn ngành về những địa danh và những sinh hoạt trong bài thơ.
Giáo sư đã từng đứng trên gác nơi cư ngụ ở gần đường Quan Thánh mà nhìn
qua Vườn Ươn Cây của thành phố để thấy mặt nước Hồ Tây và xa xa là
huyện Thọ Xương và làng An Thái. Từ đó giáo sư hình dung được cái cảm
hứng của tác giã khi làm bài thơ và xác nhận rằng đó là môt cảnh vật có
thật, điều này không ai chối cãi. Giáo sư còn suy diễn thêm những cảm
nhận rất phong phú về đời sống, về chính trị qua các giai đoạn lịch sử
bắt nguồn từ bài thơ bất hủ này. Giáo sư cũng lý luận rằng Thọ Xương và
chùa Thiên Mụ cách nhau cả ngàn dặm thì làm sao một người có thể vừa
nghe tiếng gà gáy ở Thọ Xương vừa nghe được thiếng chuông Thiên Mụ. Giáo
sư cũng viện dẫn một bức hí họa đăng trên tuần báo Phong Hóa với hai
câu thơ:
Gió đưa cành trúc la đà, Một thuyền chật ních bài ngà thượng thư.
Kẻ viết bàn này cũng được có dịp đọc và xem bức hí họa trên, trong đó
cành trúc là những cần hút làm bằng trúc của mấy điếu thuốc lào, một
tượng trưng của các quan chức ở Huế, và các Cụ Thượng trong quốc phục
khăn đen áo dài với thẻ bài ngà trên ngực, chen chúc trong một chiếc
thuyền trên sông Hương. Bức hí họa nhằm ám chỉ Cụ Phạm Quỳnh, được nhận
ra với cặp kính cận thị gọng đen đậm, đã từ bỏ Bắc Hà trong lãnh vực cao
quý là làm báo viết văn để đi vào con đường hoạn lộ, vào Huế nhận chức
Lại Bộ Thương Thư, tương đương với Thủ Tướng chính phủ. Câu thơ châm
biếm trên cũng đã vô hình dung nói lên là đã xuất xứ từ Huế, vì ờ Huế
mới có bài ngà Thượng Thư.
Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là tiếng chuông Trấn Võ hay tiếng chuông Thiên
Mụ ?
Trước hết, Thọ Xương là một địa danh có thật nằm đối diện với chùa Thiên
Mụ ở bên kia bờ sông Hương, ngày nay là làng Nguyệt Biều có gò Long Thọ
nơi có nhà máy vôi Long Thọ và có Phường Đúc, nơi tập trung các tiểu
công nghệ làm đồ đồng, ngày nay vẫn còn. Dưới thời các chúa Nguyễn, nơi
đây được gọi là Thọ Khương, nơi có cung điện mùa hè của các chúa
Nguyễn. Đến đầu đời vua Gia Long đổi thành Thọ Xương, đến năm Minh Mạng
thứ năm (1824) lại đổi thành Long Thọ Cương. Thọ Xương ngày nay ít người
biết tới cũng như ít ai biết tới Hà Nội đã từng được gọi là Đông Đô,
Thăng Long, Đại La, Bắc Thành, Đông Quan, Tống Bình, ... Có người cho rằng vì thấy mấy câu thơ hay của Dương Khuê nên người Huế
mới ôm về cho mình mà đổi thành ra "Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông
Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương." Điều này không thể có được vì chùa Thiên
Mụ xây năm 1601, chuông Thiên Mụ đúc năm 1710 (có thể là tại Phường Đúc
ngay bên kia sông), tên làng Thọ Xương có từ đời Gia Long đến đời Minh
Mạng (1802-1824), trong khi Dương Khuê vào làm quan dưới triều vua Tự
Đức vào nửa sau thế kỹ 17.
Tóm lại, câu ca dao ở Huế vẫn là của Huế, bài thơ Dương Khuê, cho dù
người đời sau có thay đổi "Phất phơ ngọn trúc trăng tà" thành "Gió đưa
cành trúc la đà" vẫn là của Dương Khuê, không ai lấy của ai hết.
Câu ca dao trên đã in sâu vào lòng người dân Huế. Để thưởng thức trọn
vẹn cái cảm khoái tỉnh niệm đó, người Huế tìm ra được cái thú là ngủ đò
trên sông Hương. Vào những đêm mùa hè nóng bức, với những ngọn gió Lào
khô cháy, một số gia đình, trong đó có gia đình tôi, thường mướn những
chiếc đò cho trôi lững lờ trên sông Hương, để hưởng những giây phút thư
giãn trong khung cảnh trăng thanh gió mát trên mặt nước bềnh bồng. Chung
quanh đâu đó, thỉnh thoảng lại vọng lên những tiếng ca Nam Ai, Nam
Bình, tiếng hò Mái Nhì Mái Đẩy nghe rất ngọt ngào. Vào thời đó, ở Huế có
nhiều "ban nhạc bỏ túi," thường gồm có một tay đờn nguyệt, một tay đờn
cò và một hoặc hai cô ca, được mướn đi ca hát trong những dịp vui mừng,
lễ lạc, đám tiệc, hoặc trên sông Hương vào những đêm mùa hè sáng trăng.
Trong dịp này các Cụ thường uống rượu, ngâm thơ, làm thơ để đưa cho mấy
cô ca ngâm nga, đó là một cái thú chơi rất tao nhả, thanh lịch, không
phải chỉ dành riêng của bực vương tôn công tử mà thôi. Cũng từ đó, nhiều
văn nhân đã cảm hứng thành những bài thơ sau nay được truyền tụng trong
dân gian mà cứ tưởng là ca dao: Chiều chiều trước bến Vân Lâu, Ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm, Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông, Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Nghe câu mái đẩy, chạnh lòng nước non.
Những đêm đẹp trời, nhiều khi đò chèo ngược giòng sông, qua khỏi cầu
Bạch Hổ hướng về phía lăng Minh Mạng để được hòa mình trong cái vẽ đẹp
tuyệt vời khi giòng sông Hương uốn khúc. Xa xa là dãy núi Trường Sơn mờ
mờ mây phũ, một bên là chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén, một bên là làng
Nguyệt Biều, Long Thọ, Phường Đúc, ẩn hiện trong sương mù sau những rặng
tre xanh mướt phất phơ theo gió hai bên bờ sông. Càng về khuya cảnh vật
càng thêm phần huyền ảo mông lung, tiếng hát càng thêm thấm thía, và
cũng từ đó có khi tôi được nghe và được thấy luôn cả câu thơ
Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Lời thơ hình như đã thấm vào da thịt tôi, ngây ngất trong huyết quản
tôi. Lúc đó tôi được khoảng mười tuổi.
Thế rồi chiến tranh bùng nổ, sông Hương mất đi cái duyên dáng đài các
của nó. Ngủ đò trên sông Hương đã trở thành một thứ kỹ nghệ xưa nhất của
loài người, để rồi sau chiến tranh, Huế xác xơ với mấy vần thơ:
Núi Ngự không cây, chim ngủ đất, Sông Hương vắng khách, đĩ kêu trời.
Ngày nay du khách có thể tìm thấy trên sông Hương nhan nhản những chiếc "
thuyền rồng" chạm trổ một cách cẩu thả, xấu xí, quê mùa, rồng không ra
rồng, rắn không ra rắn, làm hổ thẹn cho cái quá khứ thi vị của đất Thần
Kinh.
Phê bình văn học không những là một đóng góp mà còn là một bổn phận để
trao đổi, để phổ biến và học hỏi, để thu nhận những ý kiến, những kinh
nghiệm của người khác. Điều quan trọng là phải chấp nhận và tôn trọng
những ý kiến khác vì cùng một sự kiện mà mỗi người có một cảm nhận và
một góc nhìn khác nhau. Đó là cái hương thơm của văn minh, của dân chủ.
Áp đặt ý kiến mình cho kẽ khác bằng cách này hay cách khác là một hành
động lỗi thời trắng trợn không chấp nhận đuợc. Thế mà chính quyền cộng
sản Hà Nội đã chỉ đạo sinh hoạt văn hóa theo một chiều hướng nhất định
và kễ từ cuối thập niên 80 bắt buộc sách báo khi viết hai câu thơ trên
thì phải là
Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương.
Tại sao?
Theo Hà Nội, đỉnh cao trí tuệ phải nằm ở miền Bắc, cái gì hay cũng phải
được phát xuất từ miền Bắc kễ cả bộ xương của một người cổ được cho là
thủy tổ của dân Việt cũng đào được ở dãy núi Hoàng Liên Sơn (?) Không
hiểu vì mặc cảm hay vì muốn sơn phết cho cái gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa,
nên sau khi chiếm được miền Nam tất cả những tài sản vật chất cũng như
văn hóa đều phải dời ra Bắc như là những chiến lợi phẩm khi đi chiếm
thuộc địa. Trong số đó, ưu tiên phải dành cho 16 tấn vàng trong kho của
Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam, được chở ngay ra Bắc để rồi biến thành mây
khói mà không còn lại một mảy may vết tích. Chỉ có một kho tàng mà họ
không cưóp nổi, đó là chất xám của miền Nam. Cộng sản không những tom
góp cái gì quý để đem ra Bắc mà còn trấn áp miền Nam bằng những cái gì
mà dân Bắc đã phải chịu đựng dưới ách cai trị của họ. Họ đang phát động
phong trào dùng tiếng Bắc làm tiếng tiêu chuẩn ( ! ), báo hại đồng
nghiệp Nguyễn Hy Vọng , một nhà nghiên cứu ngôn ngữ tiếng Việt, đã phải
lớn tiếng trên diển đàn Nội San này rằng tiếng Bắc còn có nhiều sai
sót từ phát âm cho tới cách viết. Đó là chưa kể tiếng Bắc của " Hà Nội
mới " với giọng lên rất khó nghe, khác hẳn với giọng Hà Nội khoan thai
quý phái của Hà Nội trước năm 1954. Nguy hại hơn nữa, họ còn áp đặt cái
gọi là Văn Hóa Xã Hội Chủ Nghĩa, mà tượng trưng là một tình thương và
một niềm vui:
"Thương cha thương mẹ thương chồng, Thương mình thương một, thương Ông (Staline) thương mười"
"Vui biết mấy khi nghe con học nói, Tiếng đầu lòng con gọi Staline."
Thôi thôi, xin cám ơn, thứ văn hóa đó xin các ông hãy giữ lấy!!
Trong các trường học, học sinh đươc học chủ nghĩa Mac-xít Lê-ni-nít như
là những giáo điều chân lý tuyệt đối, trong khi chủ nghĩa này đã bị sụp
đổ ngay tại cái nôi sinh ra nó. Bóp méo lịch sử là sở trường của cộng
sản. Những thế hệ trẻ Việt Nam được học rằng Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt
vì người Nhật đã đầu hàng Nga chứ không phải là Mamoru Shigemitsu đã đại
diện Nhật Hoàng để ký văn bản đầu hàng với Tướng Douglas Mac Arthur
ngày 2/9/1945 trên chiến hạm Missouri. Họ cũng không hề được biết rằng
người Mỹ đã lên tới mặt trăng, giả thử có người lên tới mặt trăng thì
người ấy phải là người Nga v...v...Trong chuyến về thăm Việt Nam năm
2004, tôi được một cô hướng dẩn viên của Hanoi Tours tổ chức đi thăm Hoa
Lư. Khi đi ngang trại tù Nam Hà, tôi bảo rằng trước kia tôi đã ở đây,
cô ta tròn xoe đôi mắt ngạc nhiên, vì không hề được biết một chút gì về
việc mấy trăm ngàn người tù miền Nam đã bị lưu đày trên khắp đất Bắc. Cô
ta sinh vào năm 1980 nên đã học lịch sử theo bài bản của chính quyền
cộng sản viết ra.
Để kết luận, tuy tôi không đồng ý với giáo sư Vũ Quốc Thúc về xuất xứ
của câu thơ "Tiếng Chuông Thiên Mụ", nhưng tôi rất hoan nghênh ý kiến
của giáo sư trong đoạn kết. Giáo sư thấy rằng có một số người Việt hải
ngoại đã hí lộng trên sự kém cỏi tiếng Việt của giới trẻ Việt Nam, đó là
một điều đáng buồn, vì những thanh thiến niên đó đâu có được học hỏi về
ngôn ngữ và văn chương Việt Nam như những thế hệ đi trước. Giáo sư nói:
" Kẽ đáng trách là chúng ta, những người lớn tuổi thuộc thế hệ ông cha
của các thanh thiếu niên ấy. Chúng ta đã không làm hay không làm đủ bổn
phận truyền đạt cho con cháu chúng ta những kiến thức về văn hóa dân tộc
mà ta đã hấp thụ. Thiên phiếm luận đăng trên Internet về bài thơ " Gió
đưa cành trúc là đà" đã giúp chúng ta ý thức sâu sắc hiễm họa vong bản
đang đe dọa con cháu chúng ta. Chúng ta không nên trì hoản nữa: cấn phải
làm một cố gắng quyết liệt để chấn chỉnh tình trạng này."
Vậy thì chúng ta phải thiết thực và cần có sự góp sức của nhiều người để
có những hành động chung Chúng ta nên thực hiện chương trình qua nhiều
giai đoạn, ví dụ như mở lớp dạy tiếng Việt cho con em ở nhiều trính độ
khác nhau, phổ biến sách báo, thành lập một thư viện, tổ chức những buổi
nói chuyện, thuyết trình về những đề tài văn học, lịch sử v...v...,
nhưng quan trọng hơn hết vẫn là thường xuyên nói tiếng Việt với con cháu
trong nhà. Đó là những ý kiến sơ khởi mới thoáng qua, còn cần phải
nhiều công phu và nhiều thiện chí. Câu thơ sau đây của Alfred de Vigny
trong bài La Mort Du Loup đáng cho ta suy gẩm:
"Gémir, pleurer, prier est également lâche, Fais énergiquement ta longue et lourde tâche."
PHƯƠNG VŨ VÕ TAM ANH Paris, tháng Mười năm 2009
http://giaocam.saigonline.com/HTML-P/VSPhuongVuVoTamAnh/PhuongVuVoTamAnhNDMotCauThoGayNhieuTranhCai.htm
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 21/Mar/2012 lúc 8:44pm
Chùa Thiên Mụ (Linh Mụ)
BY: HOÀNG THẠCH
 | http://danchua.eu/index.php?eID=tx_cms_showpic&file=uploads%2Fpics%2Fchua_Thien_Mu_01.jpg&width=400m&height=400&bodyTag=%3Cbody%20bgColor%3D%23dddddd%3E&wrap=%3Ca%20href%3Djavascript%3Aclose%28%29%3B%3E%20%7C%20%3C%2Fa%3E&md5=c27c2b66b60423746852a3161e4f3bdb"> 
|
1- THIÊN MỤ, MỘT BIỂU TƯỢNG CỦA CỐ ĐÔ HUẾ Khi
nói về biểu tượng của Huế, người ta nghĩ ngay tới chùa Thiên Mụ. Khi
nói tới ngôi chùa danh tiếng này, người dân Huế thường nhắc tới hai câu
thơ: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương.
Trước khi nói về chùa Thiên Mụ, chúng tôi nhận thấy cần tìm hiểu về lai lịch của hai câu thơ nêu trên.
1.1- Phải chăng hai câu thơ trên phát xuất từ miền Bắc? Đối với người dân Thăng Long, văn gia và thi sĩ của quê hương Ngàn Năm Văn Vật thì không ai quên bốn câu thơ: Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Quốc canh gà Thọ Xương (1) Mịt mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chầy Yên Thái mặt gương Tây Hồ. (2)
Để hiểu rõ bốn câu thơ trên, chúng ta cần biết qua danh xưng liên quan tới địa danh miền Bắc:
(1)
Chùa Trấn Quốc (hay Trấn Võ, Trấn Vũ) được xây vào thời Lý Nam Đế
(1010) với tên là Khai Quốc. Đến đời Hậu Lý (1225) danh hiệu Khai Quốc
dành cho chùa Cổ Pháp; nên đổi chùa Khai Quốc thành Trấn Quốc. Đến Vua
Thiệu Trị (1841-1847) chùa lại bị đổi thành Trấn Bắc. Ông vua này viện
cớ Thăng Long không còn là kinh đô và không muốn người dân tưởng nhớ tới
các triều đại cũ. Nhưng đối với dân chúng thì chùa Trấn Quốc đã in sâu
vào tâm trí họ. Cảnh đẹp của chùa Trấn Quốc, một công trình được nhà sư
Viên Thắng xây dựng trên Hồ Tây có thể đã tạo nên nguồn cảm hứng trong
dân gian, nên mới xuất hiện bốn câu thơ được truyền tụng qua nhiều thế
kỷ.
Thọ Xương (có nơi viết là Thọ Sương) là huyện Thọ Xương ở Hà
Nội, nơi có ngôi miếu ở số 222 phố Bạch Mai, thờ các bậc hiền sĩ tài
cao đức trọng. Canh gà Thọ Xương có nghĩa là tiếng gà gáy ở Thọ Xương.
Ngày xưa dân ta chưa có đồng hồ, nên tiếng gà gáy được dùng để chỉ giờ
và mỗi giờ gọi là Canh. Canh gà Thọ Xương không phải là canh nấu bằng gà
của huyện Thọ Xương, như có người đã hiểu lầm và dịch là “chicken
soup!” Chúng ta nên hiểu rằng Phật giáo “cấm sát sinh”, nếu câu thơ
Tiếng chuông Trấn Quốc hay tiếng chuông Thiên Mụ đối với canh gà Thọ
Xương là “Thọ Xương chicken soup” thì nghe không ổn hoặc có vẻ nhạo báng
nhà chùa! Ngồi nghe tiếng chuông chùa để thưởng thức hay nhắc tới canh
nấu bằng gà ở Thọ Xương thì nghe không ổn. Xét về luật đối trong thơ thì
tiếng chuông là âm thanh phải đối với một âm thanh khác. Ở đây tiếng gà
gáy đối với tiếng chuông rất hoàn hảo.
Để tuổi trẻ hiểu thêm về
“Canh gà”, chúng tôi xin ghi lại sau đây 4 câu ca dao nói về cảnh sống
của người xưa đã dựa vào tiếng gà gáy khi chưa có đồng hồ báo thức. Người
phụ nữ Việt Nam vẫn được đề cao là trung thành, đạo đức và cần cù nhẫn
nại. Người phụ nữ khi về làm dâu bên nhà chồng không chỉ lo bổn phận
mình, làm lụng vất vả ngày cũng như đêm để nuôi chồng con, mà còn lo cho
công danh của người chồng đang còn cắp sách tới trường như bài thơ dưới
đây: Canh một dọn cửa dọn nhà, Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm. Canh tư bước sang canh năm, Trình anh dậy học, chớ nằm làm chi. Nữa mai Chúa mở khoa thi, Bảng vàng choi-chói kia đề tên anh.
Ngày
xưa, để coi giờ ban ngày, người ta dựa vào bóng mặt trời; còn ban đêm
thì dựa vào tiếng gà gáy gọi là Canh. Canh một là lúc gà gáy lần 1:
khoảng 1 giờ sáng; Canh hai: khoảng 2 giờ sáng; Canh ba: khoảng 3 giờ
sáng; Canh tư: khoảng 4 giờ sáng…. Chính vì vậy mà tiếng chuông chùa
vang vọng cùng với tiếng gà gáy từng canh nói lên thời điểm và sự yên
tĩnh, thanh thoát của cảnh vật trong đêm khuya.
(2) Yên Thái còn
gọi là Kẻ Bưởi ở phía Tây-Bắc Hà Nội là làng làm giấy Mật Hương nổi
tiếng nhất VN. Theo sử liệu thì năm 284 các thương gia Ý đã mua hàng
ngàn tấm giấy này làm quà dâng vua Tấn Vũ Đế. Nhịp chầy Yên Thái có
nghĩa người dân phải dùng cối chầy để giã vỏ cây đó thành bột, đem nấu
rồi mới đàn ra làm giấy. Khi lấy chầy giã vào cối đá nó phát ra tiếng
vang cả vùng Yên Thái.
1.2-Có phải chúa Nguyễn Hoàng sau khi xây
chùa Thiên Mụ (năm 1601) thì hai câu thơ mới dưới đây xuất hiện để ca
tụng cảnh đẹp của chùa và cảnh yên tịnh trong đêm khuya không?
Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương. Để hiểu rõ vấn đề có lẽ chúng ta phải dựa vào sự kiện lịch sử của chiếc chuông phát ra câu ca dao nổi danh trên. Theo
sử thì chúa Nguyễn Phúc Chu rất mộ đạo Phật. Ông vua này đã trùng tu
chùa chiền và quảng bá đạo Phật. Năm 1694 ông sai người sang Quảng Đông
mời sư Thích Đại Sán (Thạch Liên Hòa Thượng) sang thuyết pháp đạo Phật
cho quan quân và dân chúng. Năm 1710, Đại Hồng Chung của chùa Thiên Mụ
được đúc,ï nặng 2.021kg, cao 2,5m, đường kính 1,2m. Tiếng Đại Hồng Chung
khi đánh lên vang dội khắp kinh thành. Phải chăng hai câu thơ trên xuất hiện vào thời điểm đó? Tuy
nhiên, theo tạp chí Nam Phong số 10 tháng 4 năm 1918, tức 208 năm sau,
có ghi lại một nhà báo miền Bắc, nhân dịp dạo thuyền trên sông Hương vào
đêm khuya, đã cao hứng viết hai câu thơ Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương. Ông
nhà báo miền Bắc dĩ nhiên thuộc lòng bốn câu thơ của miền Bắc và có lẽ
để thích hợp với cảnh vật sông Hương, núi Ngự, ông ta đã thay chùa Trấn
Quốc bằng chùa Thiên Mụ chăng? Có người cho rằng, có thể nhà báo này đã nhớ tới hai câu thơ của cụ Dương Khuê: Phất phơ ngọn cỏ trăng tà, Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương. Ngoài
ra, khi tra cứu các tự điển và địa danh VN chúng tôi không thấy chữ Thọ
Sương. Chỉ có Thọ Xương, một huyện của Hà Nội, và cũng là tên của một
xã, phường của tỉnh Bắc Giang. Như vậy, Tiếng chuông Thiên Mụ ở Huế
lại đối với Canh gà Thọ Xương ở Hà Nội thì nghe có vẻ giống như “Râu ông
nọ cắm cằm bà kia!” Tiếng chuông Thiên Mụ không thể vọng tới Hà Nội và
ngược lại, tiếng gà Thọ Xương không thể vang tới Huế. Nếu hai câu ca dao phát xuất từ Huế thì tại sao không là: Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Hà Khê (hoặc Kim Long hay Thủy Xuân?) vì cả ba làng này nằm gần chùa Thiên Mụ. Nếu
dựa vào thời điểm lịch sử thì chùa Trấn Võ được Lý Nam Đế xây năm 1010,
trong khi chùa Thiên Mụ được Nguyễn Hoàng xây vào năm 1601; như vậy
tiếng chuông Thiên Mụ nếu có, xuất hiện sau 529 năm hoăïc 700 năm sau
khi Nguyễn Phúc Chu cho đúc Đại Hồng Chung, vào năm 1710. Như vậy, hai
câu thơ trên có thể “nhập cảng” từ miền Bắc và thay vì chùa Trấn Võ
người ta đổi thành Thiên Mụ chăng? Dù sao đi nữa, sự xuất phát của hai câu thơ trên vẫn còn chỗ khó hiểu! Dù
sao thì hai câu thơ đã trở thành ca dao và người dân Huế coi như đã
thuộc lầu. Nó được nói trên miệng môi và xuất hiện trong văn chương,
sách báo và thi ca mỗi khi nhắc tới kinh đô của một thời đã qua.
2- LỊCH SỬ CHÙA THIÊN MỤ 2.1- Về sự tích:
Về lịch sử của chùa Thiên Mụ thì có nhiều truyền thuyết kể lại như:
-Theo
Bách khoa Tự điển và các mạng lưới điện tử về Huế thì khi Nguyễn Hoàng
được chúa Trịnh cho vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng
Nam, ông đã có mưu đồ mở mang cơ nghiệp và xây dựng một giang sơn riêng
cho mình. Trong một lần dạo mát bên bờ sông Hương, Nguyễn Hoàng gặp một
ngọn đồi nhỏ có tên là Hà Khê nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc,
thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại. Tiến thêm một
đoạn đường, ông gặp dân địa phương và qua câu chuyện dân kể lại nơi đây
ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lam xuất hiện trên đồi. Bà
ta nói cho họ biết: “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập nghiệp và
xây chùa trên đất long mạch, kết tụ linh khí thì nước Nam sẽ hùng mạnh.” Nghe dân kể như vậy, Nguyễn Hoàng tự cho mình là chân chúa và xây ngôi chùa vào năm 1601 để cho phù hợp với câu chuyện.
-Theo quyển “Từ điển địa danh văn hóa và thắng cảnh VN” thì sự tích có vẻ ly kỳ hơn: “…
Bấy giờ, sau hơn 6 năm ở kinh đô Thăng Long, giữ chức Thái Bảo, Nguyễn
Hoàng trở về Thuận Hóa xây dựng thế lực để biệt lập với họ Trịnh. Một
hôm, nhân rỗi việc, Nguyễn Hoàng đi thăm các nơi núi sông cảnh đẹp trong
bản trấn. Khi đến xã Hà Khê, huyện Kim Trà, thấy giữa chốn đồng bằng
đột khởi một đồi cao tựa đầu rồng, đang nhìn về núi mẹ. Đoan Quốc Công
thầm khen là nơi danh thắng, bèn trèo lên đồi cao ngắm khắp xung quanh.
Chợt thấy một đoạn hào cắt ngang dưới chân núi, chưa rõ nguyên do ra
sao. Nguyễn Hoàng sai hỏi người địa phương. Các bô lão nói: “Tương
truyền núi này rất linh thiêng, Cao Biền (nhà Đường) sang làm An Nam Sứ,
từng đi khắp nơi ở nước ta xem nơi nào có vượng khí thì lập phép trấn
yểm. Đêm hôm ấy, Cao Biền chiêm bao thấy một bà lão đầu tóc bạc phơ ngồi
dưới chân núi này kêu gào than vãn, rồi cất tiếng nói to: “Đời sau nếu
có bậc quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi này để làm mạnh cho Nam triều, thì
nên lập chùa thờ Phật, cầu linh khí trở về giúp nước yên dân, tất không
có sự gì đáng phải lo ngại”. Nói xong bà lão biến mất. Dân địa phương
từ đó đặt tên núi là Thiên Mụ (bà lão nhà trời). Nguyễn Hoàng nghe nói
cả mừng, bảo rằng: “Ấy là bà lão trời bảo ta mở nền định đất, biến nhà
thành nước để gây nghiệp lớn”. Nói đoạn, sai người cất dựng chùa Phật,
tự tay viết biển đề tên chùa là “Thiên Mụ tự”. Chùa Thiên Mụ nằm trên
đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km
về phía tây. Về lịch sử, trước khi có chùa Thiên Mụ thì trên đồi Hà Khê
đã có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu của người Chăm
(Chàm). Di tích này được nhắc đến trong “Ô Châu Cận Lục” của ông Dương
Văn An vào năm 1553. Sau Nguyễn Hoàng xây rộng lớn hơn hay phá chùa cũ
để xây chùa Thiên Mụ không thấy tài liệu nói rõ. Năm 1862, vua Tựï
Đức bị bệnh bất lực, có vợ và hàng chục Cung tần Mỹ nữ mà không có con.
Để cầu cho có người nối dõi tông đường, vua cũng tin nhảm, sợ nói tới
chữ “Thiên” phạm đến “Ông Trời” nên đổi tên “Thiên Mụ” thành “Linh Mụ”,
có nghĩa “Bà mụ Linh thiêng”. Tuy nhiên, vấn đề kiêng nhảm chỉ tồn tại từ năm 1862 cho tới năm 1869. Sau
đó, người ta quen gọi cả hai tên: chùa Thiên Mụ và chùa Linh Mụ. Lý do
cũng dễ hiểu vì chữ “Linh” đồng nghĩa với “Thiêng”, âm người Huế khi nói
“Thiên” nghe tựa “Thiêng”, nên khi nói “Linh Mụ”, “Thiên Mụ” hay
“Thiêng Mụ” đều có nghĩa giống nhau mà không sợ bị bắt bẻ.
2.2- Về Kiến trúc Chùa Thiên Mụ chính thức khởi công xây cất vào năm 1601, đời Nguyễn Hoàng. Dưới
thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) theo đà phát triển và hưng thịnh
của Phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Năm
1710, chúa cho đúc một chiếc chuông lớn, nặng tới trên hai tấn, gọi là
Đại Hồng Chung, có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa lại cho
đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc đồ sộ hơn như:
điện Thiên Vương, Đại Hùng nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng,
nhà Thiền... Nhiều công trình trong số này ngày nay không còn nữa. Chúa
Quốc còn đích thân viết bài văn, khắc vào bia lớn (cao 2m60, rộng 1m2)
nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây, việc cho người sang
Trung Quốc mua hơn 1.000 bộ kinh Phật đưa về đặt tại lầu Tàng Kinh, ca
tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch Liêm - người
có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng
Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá lớn, trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp. Với
cảnh đẹp tự nhiên và diện tích được mở rộng ngay từ thời đó, chùa Thiên
Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố
lịch sử, chùa Thiên Mụ đã từng được dùng làm đàn Tế Trời Đất dưới triều
Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới
triều các vua nhà Nguyễn. Năm1844, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” của bà
Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị),
vua Thiệu Trị xây lại ngôi chùa lớn hơn, thêm một tháp bát giác gọi là
Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyên và dựng 2 tấm bia
ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua. Tháp
Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp
cao 21m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi
tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn
lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía
trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe Phật
pháp, biểu tượng Phật giáo. Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện quay
tròn khi gió thổi). Tháp được coi là tháp cổ nhất Việt Nam. Tháp
Phước Duyên (Phước Duyên Bửu Tháp) được xây 7 tầng vì số 7 là con số
linh của đạo. Hệ thống bậc cấp của chùa cũng tính theo số 7. Đại
Hồng Chung: chuông cao 2,3m, đường kính 1,4m, nặng 2.025 kg. Đây là một
trong những kiệt tác của nghệ thuật đúc đồng của người Việt vào đầu thế
kỷ XVIII. Mặt trên quả chuông có khắc 8 chữ THỌ. Giữa thân chuông chia
làm 14 khung, khắc bài minh của chúa Nguyễn Phúc Chu và chạm nổi hình
Rồng, mây, ngày, trăng sao v.v… Ở phần dưới khắc hình Bát Quái và Thủy
Ba. Bia thời chúa Nguyễn Phúc Chu là tấm bia đá cao: 2,6m, rộng:
1,25m, dựng trên lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch dài 2,2m, rộng 1,6m
đều được khắc chạm tinh vi. Điện Đại Hùng: gian phòng chính trong
chùa. Trong phòng này, ngoài các tượng Phật bằng đồng còn có một khánh
đồng lớn chạm hình mặt trăng, mặt trời, sao và dòng chữ kỷ niệm do quan
Trần Đình Ân thuê đúc năm 1677 để cúng chùa; và một bức hoành phi bằng
gỗ sơn son thiếp vàng do chúa Nguyễn Phúc Chu đề năm 1714. Trận bão
năm 1904 đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó
đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn còn dấu tích). Năm 1907,
vua Thành Thái cho xây dựng lại, nhưng chùa không còn được to lớn như
trước nữa. Hai bên tháp có hai nhà tứ giác, đặt hai tấm bia đời Thiệu
Trị. Sâu vào bên trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và một nhà để
quả chuông đúc đời chúa Nguyễn Phúc Chu. Chùa Thiên Mụ được xếp vào
hai mươi thắng cảnh đất Thần Kinh với bài thơ Thiên Mụ Chung Thanh do
đích thân vua Thiệu Trị sáng tác và được ghi vào bia đá dựng gần cổng
chùa.
Thiên Mụ Chung Thanh Cao cương cổ sát trấn điền xuyên Nguyệt tướng thường viên tự tại thiên Bách bát hồng thanh tiêu bách kết Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm Liêu lượng dần tiêu đạo vị huyền Phật tích Thánh công thùy hải vũ Thiện nhân tăng quả phố khai diên.
Dịch thơ: Tiếng Chuông Thiên Mụ Trên bến gò xưa chùa lập ra Bên trời tự tại mãi Gương Nga Tiếng ngân trăm tám tan trăm oán Thế giới ba ngàn giải nợ ba Chuông động giữa trưa miền tối Kinh gieo canh sớm đạo tăng gia Truyền công Phật Thánh tràn non nước Nhân quả ươm lành khắp chốn xa.
Năm
1899, nhân dịp lễ Cửu tuần Đại Khánh Tiết (mừng 90 tuổi bà Từ Dũ (sau
được đặt tên cho bệnh viện hộ sinh Từ Dũ ở Sài Gòn), vợ vua Thiệu Trị,
vua Thành Thái cho Bộ Công tu bổ Tháp Phước Duyên và dựng bia kỷ niệm.
Năm 1920, vua Khải Định cho dựng bia đá gần tháp Phước Duyên và khắc bài
thơ ca tụng cảnh đẹp của chùa.
Qua nhiều đợt trùng tu lớn nhỏ
thời Tây Sơn và nhà Nguyễn, ngoài những công trình kiến trúc như tháp
Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm... cùng bia đá,
chuông đồng, chùa Thiên Mụ ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quí giá
không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả về nghệ thuật. Những bức tượng Hộ
Pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Đà, tượng Tam Thế Phật... hay
những hoành phi, câu đối v.v…
http://danchua.eu/index.php?id=2303&...he=1&tx_ttnews[tt_news]=5069&type=98
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 21/Mar/2012 lúc 8:50pm
Câu chuyện về Thọ Xương chicken soup!
NGUỒN : http://lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=16021&page=2
Chuyện tiếu lâm kể rằng có anh hướng dẫn viên du lịch giới thiệu với ông khách người Mỹ câu ca dao:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
và giảng giải "canh gà" tức là ... súp gà (chicken soup), Thọ Xương là mắc xương, Thiên Mụ là mụ trời!
Ông Mỹ về nước viết lại một quyển hồi ký dịch nguyên câu này ra tiếng
Anh. Một dịch giả Việt Nam khác đọc được cuốn sách Mỹ, bèn "mắc dịch"
như vầy:
Mụ Trời đánh mấy hồi chuông
Cháo gà húp vội, mắc xương mấy lần (!!!)
Dị bản 1: Giang hồ đồn rằng dị bản này là tác phẩm của Dâu Tây, hồi còn
Y!360, nhưng có nguồn khác lại viết rằng câu chuyện này đã có từ thời
còn chiến tranh, thế này:
Trích:
Một chàng sinh viên người Hungary sang Việt Nam du học, dĩ nhiên là
học chuyên ngành Tiếng Việt. Trong kì thi học kì, trường Quốc Tử Giám ra
đề: "Anh (chị) hiểu gì về câu thơ:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
Chàng người Hung đọc đề thi xong thì mừng lắm, vì các từ trong câu này anh đều hiểu hết hơn 90%.
Anh bắt đầu phân tích câu thơ. "Gió đưa cành trúc" anh nghĩ rằng chắc là
gió phải to lắm mới đưa được cành trúc, như vậy là trời có bão. Hai chữ
"la đà" anh tách ra để dễ phân tích. Chữ "la" anh hiểu theo hai nghĩa:
theo nghĩa của động từ là nói lớn, nghĩa của danh từ là một loài động
vật lai giữa lừa và ngựa. Anh bảo rằng hai nghĩa đó khi dựa vào câu thơ
thì không hợp, và anh kết luận là đề thi in sai. Ở đây phải là chữ "lao"
mới đúng. Còn chữ "đà" anh dịch ra là cái tà vẹt đường (đường ray cho
xe lửa). Vậy là gió thổi lao đà. Câu dưới anh cũng phân tích từng chữ,
"tiếng chuông" thì anh đã hiểu, "Thiên Mụ": thiên là trời, mụ là bà, vậy
bà trời có nghĩa là vợ trời. "Thọ Xương" thì anh lại dịch là xương cũ.
Sau khi đã giải thích hết từ ngữ, anh liền trổ tài viết lại bà thơ đó
theo ý mình:
|
Trời nổi cơn bão lớn
Lao xuống tà vẹt đường
Vợ trời đánh một tiếng chuông
Canh gà húp vội, hóc xương mấy lần
Dị bản 2: hải ngoại lưu truyền câu chuyện nói là của ông Vũ Quốc Thúc như sau:
Trích:
..
Ba mươi năm đã trôi qua. Số người tị nạn ở hải ngoại, cộng với con cháu
họ và những người Việt không chịu hồi hương sau khi chế độ cộng sản Liên
Xô tan rã, đã lên gần ba triệu. Khỏi cần chứng minh là nhiều thanh
thiếu niên không biết gì về lịch sử cũng như văn chương Việt Nam. Nhiều
người nói tiếng Việt còn không sõi. Do đó, khi họ đọc bài thơ trứ danh
"Gió Đưa Cành Trúc La Đà" họ đã không hiểu những từ ngữ dùng trong bốn
câu thơ. Nếu tra tự điển để tìm nghĩa từng chữ thì có thể sai lầm thảm
hại như tác giả bài phiếm luận nói trên đăng trên internet đã chứng minh
một cách rí rỏm.. Chẳng hạn người ta có thể nghĩ rằng "la đà là một đàn
la và lạc đà rồi suy luận rằng cành trúc là cây roi tre của kẻ chăn đàn
la và lạc đà này. Rồi Thiên Mụ thì được hiểu là Vợ của ông Trời, chuông
đồng của chùa giống như chuông điện chỉ cần bấm là kêu leng keng, còn
canh gà Thọ Xương có lẽ là canh xương gà trong các tiệm ăn Tầu! Tác giả
bài phiếm luận đã dựa trên những sự lầm lẫn đó để làm bài thơ trào phúng
sau đây:
|
Roi tre vun vút vung ra:
Lũ lạc đà với lũ la chạy cuồng...
Vợ Trời giáng một hồi chuông
Gọi về ăn bát canh xương gà Tầu!
http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=677&Itemid=49 - GS Vũ Quốc Thúc
Và có người đã phản biện ông Vũ Quốc Thúc: http://chutluulai.net/forums/showthread.php?t=6358 - http://chutluulai.net/forums/showthread.php?t=6358
Dị bản 3: Thế hệ người Việt thứ hai ở hải ngọai làm sao có thể cảm nhận
được cái gì là ‘’ canh rau muống’’, cái gì là”cà dầm tương” mỗi khi nhớ
quê, nhớ về cội nguồn. Làm sao có thể nhận ra được “ngọn gió mát sau
lưng” để lòng dạ bồi hồi “ bổng nhớ người dưng” thế nào?
Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế nầy.
Và câu ca :
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên mụ, canh gà thọ xương
dịch ra tiếng Anh, rồi nhờ một người nào đó có chút am hiểu về lục bát
của Việt Nam, gắn ghép vần nhịp và cố dịch ra tiếng Việt theo văn cảnh
sẽ trở thành:
Bão đưa tre trúc tới nhà
Lũ La cùng với Lạc đà chạy chung
Vợ trời đánh một hồi chuông
Gọi về ăn bát canh xương gà hầm
Cũng có nhiều cố gắng đó chứ? – Gió mạnh đến đổi tre trúc ngả nghiên thì
là bão thôi. La đà hình như là từ ghép đẳng lập, như vậy cho nó chạy
chung thì không còn cách nào hay hơn ?? Thiên mụ là vợ trời (wife god) …
canh gà thọ xương thì là soup chicken old. Gà sống lâu năm là gà già,
cứng lắm chỉ có nước hầm bằng nồi áp suất mới tận dụng được.
Về câu "Thọ Xương chicken soup" có lẽ là do ông "giaó sư" Nguyễn Ngọc
Bích khi còn là doctor-to-be, "dịch" "canh gà Thọ Xương" thành "Thọ
Xương chicken soup" và hai chữ "bể dâu" thành "mulberry sea"; sau đó,
ông ta nổi tiếng là chưởng môn nhân của "trường phái dâu bể".
Một ông "dịch giả" khác cũng không chịu kém tài của ông Bích, bèn dịch
"dâu bể" thành "broken pride". Có một ông bèn làm thơ con cóc mà rằng:
Mulberry sea dịch bể dâu
Dịch mà được vậy chẳng dễ dầu
Dịch mà như vậy thì cũng giống:
"No star where" dịch "không sao đâu"!
Sau này đến lượt Google translate dịch giống như mấy ông trên.
NGUỒN : http://lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=16021&page=2
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 04/Aug/2013 lúc 11:33pm
Tưởng nhớ nhà thơ
Hoàng Cầm - Hỏi chuyện chủ quán “Lá Diêu Bông”
Monday,
July 29, 2013 5:10:42 PM
Nguyễn Trọng Tạo
Nghe
nói ở làng Hạnh Hoa có một cô chủ quán rượu xinh đẹp lấy tên bài thơ Lá Diêu
Bông cuả Hoàng Cầm đặt tên quán của mình, tôi bèn mang máy ghi âm bỏ túi đến…
uống rượu. Quán nhỏ, lợp tranh đơn sơ, nhưng lịch sự. Các tửu khách trông có vẻ
trang nhã, không giống như quán rượu ở quê. Cô chủ quán đẹp như tiên, đi lại
nhẹ nhàng như mây gió. Nghe nói ngày xưa chị trót yêu một chàng trai kém mình
tám tuổi, gia đình cấm đoán, nên quyết định không lấy chồng. Từ hồi “đổi mới”
chị mở quán rượu sinh sống, và luôn mơ được gặp tác giả Lá Diêu Bông.

|
Nhà thơ Hoàng Cầm.
(Hình: http://dutule.com -
|
Thấy
tôi là khách lạ, chị ưu tiên tiếp rượu, và cuộc trò chuyện đã diễn ra như vầy:
-
Chắc chị mê thơ lắm mới đặt tên quán bằng tên một bài thơ?
-
Tôi mê tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Nhưng khi đọc được bài thơ Lá Diêu Bông của
Hoàng Cầm là tôi quên Vũ Trọng Phụng luôn. Từ đó tôi cũng hình dung Hoàng Cầm
là cái cậu con trai cứ lẽo đẽo theo tôi đi tìm lá thuốc cho mẹ từ hồi mới lớn.
Nhưng người phụ nữ trong bài thơ Hoàng Cầm thì đi lấy chồng, có con, còn tôi
thì không.
-
Chắc chị thuộc nhiều bài thơ Hoàng Cầm?
-
Từ khi đọc bài thơ Lá Diêu Bông, là tôi đi tìm đọc Hoàng Cầm. Nghe nói trong
“đổi mới” thơ ông bị “lưu ban” một thời gian dài. May mà từ khi tôi thích thơ
Hoàng Cầm, thơ ông lại được in ra liên tiếp. Tôi có đủ các tập Về Kinh Bắc, Men
đá vàng, 99 tình khúc, Mưa Thuận Thành, Bên kia sông Đuống, và cả cuốn kịch thơ
Kiều Loan ông viết từ hồi bốn lăm (1945). Tôi đọc đến đâu là thuộc đến đấy, vì
thơ ông rất Việt Nam, rất thích hợp với tư duy của tôi. Như là ông viết riêng
cho tôi.
-
Chắc chị từng học đại học văn?
-
Mấy đứa cháu tôi nó mới học đại học văn. Nhưng chúng nó chẳng hiểu gì về thơ.
Chúng nó thạo kinh tế hơn. Bây giờ đứa nào cũng nhà lầu xe hơi trên phố.
-
Thế chị học gì?
-
Tôi học thơ Hoàng Cầm. “Sông Đuống trôi đi – Một dòng lấp lánh – Nằm nghiêng nghiêng
trong kháng chiến trường kỳ”. Đọc câu thơ này, nhiều đêm tôi nằm nghiêng và
thấy mình cũng như đang trôi đi.
-
Chị lãng mạn thật.
-
Con người, ai mà chả lãng mạn. Nhưng lãng mạn bằng thơ thì nó đẹp gấp trăm
nghìn ngoài đời. Thơ làm cho người ta sống đẹp hơn.
-
Nhưng phải là thơ Hoàng Cầm?
-
Tất nhiên là với tôi. Nhưng có một ông khách trên phố về đây uống rượu, ông ta
cũng mê thơ Hoàng Cầm lắm. Ông ấy bảo chỉ có thơ Hoàng Cầm và thơ Hàn Mặc Tử là
nhất. Suýt nữa tôi với ông ấy đã thành đôi…
-
Sao lại không thành?
-
Vì tôi chỉ thích thơ Hoàng Cầm.
-
Rắc rối nhỉ?
-
Này anh, nghe nói ông Hoàng Cầm lại sắp lấy vợ phải không?
-
Năm nào tôi cũng nghe nói như vậy. Nhưng rốt cuộc thì mười mấy năm nay chả có
đám cuới nào cả.
-
Thế cũng tốt.
-
Sao lại tốt?
-
Mỗi lần thi sĩ yêu lại có thêm bài thơ hay cho đời.
-
Chị không ghen với các giai nhân thật sao?
-
Việc gì mà tôi phải ghen với họ.
-
Ở Sài Gòn cũng có một cái quán Lá Diêu Bông như quán chị…
-
Tôi biết. Những cái quán ấy ra đời sau quán tôi. Đọc báo tôi biết mà. Hai “anh-
chị” còn làm thơ tặng nhau nữa. Thi sĩ Hoàng Cầm phủ dụ chị ta bằng những câu
thơ thật sang trọng: “Kinh Bắc lên men đằm hương vương phi – Hỡi mưa Phương Nam
bao giờ mưa đi?”. Thế mà chị ta không chịu đi thì thật là “trời không có mắt”.
-
Nếu ông Hoàng Cầm mà làm thơ tặng chị, hay nói như chị là “phủ dụ” chị thì chị
tính sao?
-
Với tôi thật không có hạnh phúc nào bằng. Tôi phóng to bài thơ lên dán trên
vách quán để khách rượu cùng thưởng thức.
-
Nhỡ có người lại chê thì sao?
-
Chê là quyền của người ta. Tôi cũng đọc một bài người ta phê bình thơ Hoàng Cầm
là “thơ tình dục khiêu dâm”. Và tôi thấy chính cái tay phê bình ấy mới thực sự
có một cái đầu “dâm”. Cứ theo cái đầu của anh ta thì Hồ Xuân Hương hay Nguyễn
Du khi viết về tình dục sẽ bị anh ta xử trảm.
-
Có lẽ chị nói đúng.
-
Tôi nói đúng là cái chắc. Ví dụ những câu thơ đẹp như thế này: “Ấm êm em trong
trắng thịt da đêm – Ngọn gió nào cũng ấp một hơi thèm” mà anh ta lại phán là
“thơ khiêu dâm” thì tôi không hiểu là anh ta đọc thơ theo cách nào.
-
Thơ cần có tri âm. Cũng như Bá Nha gẩy đàn phải có Tử Kỳ nghe. Chị là Tử Kỳ của
riêng Của Hoàng Cầm rồi đấy!
Có
thêm khách đến. Tôi chia tay chị chủ quán Lá Diêu Bông. Biết tôi quen Hoàng
Cầm, chị mừng lắm, gửi tặng ông chai rượu Hạnh Hoa, và nhờ tôi mời thi sĩ ghé
thăm quán. Hoàng Cầm cũng mừng lắm. Tôi và ông chuẩn bị “hành quân” thì ông bị
đau phải vào bệnh viện. Vậy mà cái cậu con trai lẽo đẽo theo Chị đi tìm lá Diêu
Bông đã gần chín mươi xuân.

|
Thủ bút của nhà thơ
Hoàng Cầm. (Hình: http://dutule.com -
|
Giờ
thì “Con người Hoàng Cầm” – con người đẹp trai da trắng môi đỏ, hào hoa và tài
hoa ấy đã không còn lại trên cõi đời này nữa, ngợi ca hay chê trách ông cũng là
chuyện đã rồi. Nhưng ông đã sống, đã yêu, đã đắng, đã ngọt và đã thơ. Thật kiêu
hãnh đọc câu thơ ông viết: “Chim vàng phải tên dưới bụng/ Giận mình bay quá cao”,
“Đợi sau khi Em qua đời/ Sẻ đồng thành phượng núi”. Hàng ngàn trang viết của
ông còn đó, nói hộ chúng ta rất nhiều điều về một con người nghệ sĩ đến tận
cùng chân tóc. Dân tộc và Ái tình chính là hồn ông gửi lại. Đó là những tác
phẩm trầm đầy tinh thần Việt mà trong đó sử Việt, văn hóa Việt hay văn hóa Kinh
Bắc đều ánh xạ qua trái tim mạnh mẽ và yếu mềm của ông. Vì thế tôi tin ông
không mất. Ông còn rất gần ta và đang “Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc”. Vâng,
người ta còn đọc ông, và ông còn tồn tại, cũng có thể là “tam bách dư niên
hậu”…/.
------------- mk
|
Người gởi: mykieu
Ngày gởi: 17/Aug/2013 lúc 7:37pm
Ngày đăng : 20:55 17/08/2013 (GMT+7)
Người tình duy nhất của Xuân Diệu - NSND Bạch Diệp qua đời
(Kienthuc.net.vn) - NSND Bạch Diệp, người phụ nữ duy nhất của "ông
hoàng thơ tình" Xuân Diệu và cũng là nữ đạo diễn đầu tiên của Điện ảnh
Việt Nam vừa qua đời.
http://kienthuc.net.vn/goc-nghe-si/nha-tho-hoang-cat-xuan-dieu-yeu-con-toi-chi-thuong-227804.html - Nhà thơ Hoàng Cát: “Xuân Diệu yêu, còn tôi chỉ thương“ http://kienthuc.net.vn/kim-chi-da-lua/su-gan-bo-dinh-menh-huy-can-xuan-dieu-55675.html - Sự gắn bó “định mệnh” Huy Cận - Xuân Diệu
Sau một thời gian dài chống chọi với
căn bệnh ung thư quái ác, đạo diễn "Hoa ban đỏ" - NSND Bạch Diệp đã trút
hơi thở cuối cùng vào 10h sáng nay (17/8), hưởng thọ 85 tuổi.
Đạo diễn Bạch Diệp tên thật là Nguyễn
Thị Thanh Tâm, sinh năm 1929 tại Hà Nội. Bà sinh trưởng trong một gia
đình có truyền thống nhiếp ảnh, có lẽ vì thế mà niềm đam mê nghệ thuật
đã ngấm vào bà ngay từ nhỏ. Nhiều người không khỏi ngạc nhiên khi bà
chọn nghề đạo diễn - nghề nghiệp được xem là “khó nhằn”, vô cùng vất vả
đối với nữ giới.
 |
NSND Bạch Diệp |
Trong sự nghiệp đạo diễn, tên tuổi
Bạch Diệp từng gắn liền với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Tác phẩm đầu tay
của bà là bộ phim Trần Quốc Toản ra quân, chuyển thể từ chèo, sau được
trao giải Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ hai. Những bộ
phim tiếp theo như: Người về đồng cói (1973), Ngày lễ thánh (1976), Câu
chuyện làng Dừa (1977), Người chưa biết nói (1979), Ai giận ai thương
(1982), Mảnh trời riêng (1983), Trừng phạt (1984), Y Hơ Nua (1985), Cuộc
chia tay không hẹn trước (1986), Huyền thoại về người mẹ (1987), Ngõ
hẹp (1988), Hoa ban đỏ (1994)...
Nổi bật trong số các tác phẩm của NSND
Bạch Diệp là hai bộ phim Ngày lễ thánh (dựa theo cuốn tiểu thuyết Bão
biển của Chu Văn) và Huyền thoại mẹ, do nghệ sĩ nhân dân http://kienthuc.net.vn/showbiz/nsnd-tra-giang-moi-tinh-dau-tien-va-moi-tinh-cuoi-cung-154541.html - Trà Giang đóng vai chính, đều giành được giải thưởng Bông sen bạc.
Với những đóng góp trong sự nghiệp đạo
diễn, năm 1997, Bạch Diệp được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân.
Năm 2007, bà được nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật cho
các tác phẩm Ngày lễ thánh, Huyền thoại mẹ. Bên cạnh đó, NSND Bạch Diệp
còn là một trong số các nghệ sĩ Việt Nam có tên trong Bách khoa toàn thư
điện ảnh Liên Xô. Năm 2008, bà là một trong 11 nghệ sĩ đương đại được
tôn vinh trong ngày kỉ niệm 55 năm thành lập ngành Điện ảnh cách mạng
Việt Nam.
 |
Nhà thơ Xuân Diệp và NSND Bạch Diệp ngày trẻ
|
Sự nghiệp của NSND Bạch Diệp thành
công bao nhiêu thì chuyện tình cảm của bà trắc trở bấy nhiêu. Bạch Diệp
kết hôn ở tuổi 27 với nhà thơ Xuân Diệu khi ông ngấp nghé tuổi 40. Quen
biết nhau qua mai mối của bạn bè rồi kết hôn chưa đầy nửa năm thì họ
chia tay. Mãi đến năm 40 tuổi, Bạch Diệp mới đi bước nữa, với ông Nguyễn
Đức Tường, người thực sự thắp ngọn lửa yêu thương trong cuộc đời bà.
Còn với Xuân Diệu, Bạch Diệp mãi là người phụ nữ duy nhất trong cuộc đời
"ông hoàng thơ tình".
Nguyệt Cát
http://kienthuc.net.vn/showbiz/nguoi-tinh-duy-nhat-cua-xuan-dieu-nsnd-bach-diep-qua-doi-254762.html
------------- mk
|
|