VĂN TẾ
GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG
Than ôi,
Lỡ vận nước gặp thời đen tối, phận long đong lưu lạc xứ người;
Mong cơ trời xoay buổi tân minh, tâm an lạc qui hồi cố thổ.
Chúng tôi nay:
Thắp nén nhang thơm;
Lập bàn tế Tổ.
Lòng trung cang vằng vặc bóng trăng soi;
Lễ đạm bạc đinh ninh tình chiêu ngộ.
Người dẫu đi về cõi hạc, danh vẫn rền khắp ngọn cỏ cành cây;
Thân dù hóa kiếp bụi hồng, tên mãi khắc trên tường bia cổ mộ.
Nhớ linh xưa,
Phá rừng khai rẫy, dựng cơ đồ lắm nỗi gian truân;
Bạt núi xẻ sông, xây sự nghiệp bao điều lao khổ.
Ngoài biên thùy, phong Lạc tướng cẩn trọng bảo an;
Trong bá tánh, phái Lạc Hầu ân cần dạy dỗ.
Lớp lớp binh rồng;
Hàng hàng tướng hổ.
Lấy ý dân làm trọng, trên dưới chung lòng, chống chèo vượt
mọi phong ba;
Coi xã tắc là nhà, vua tôi nhất chí, phiêu phiêu đằng cơn
sóng vỗ.
Chính sử rành rành:
Giận loài quỹ dữ, đày dân lành xuống biển mò châu;
Hận kẽ tham tàn, bắt trai đinh lên rừng xẻ gỗ.
Nên cờ Triệu Ẩu đuổi gió hiên ngang;
Nên trống Trưng Vương thét trăng rầm rộ.
Nhưng nghiệp bất thành:
Đành trầm mình giữ tiết quần thoa;
Phải gửi xác theo dòng mệnh số.
Kìa, bao đấng mày râu kiệt tuấn, dốc lòng bảo vệ quê hương,
mạng sống coi thường, xông pha khắp chốn khắp nơi;
Đây, những trang hồng liệt anh thư, quyết chí gìn giữ non sông,
hiểm nguy bỏ mặc, lặn lội mọi miền mọi chỗ.
Phá ngoại xăm: Thường Kiệt, Quang Trung;
Gương trung liệt: Lê Lai, Thủ Độ.
Hào khí can vân;
Thuần ơn vũ lộ.
Chiến thắng lẫy lừng, bàng hoàng núi bắc sông nam;
Oai danh hiển hách, lồng lộng đầu thôn cuối phố.
Dũng khí rạng hãn thanh;
Hương danh lưu thiên cổ.
Vậy mà nay:
Quan liêu hống hách, trộm cướp lộng hành;
Tham nhũng bao che, dân lành khiếu tố.
Da thịt Tiên Rồng vì ham quyền mà cắt xén bán dâng;
Uy linh Hồng Lạc bởi u mê đã bôi tô hoen ố.
Thiên hạ bất bình;
Đất trời phẩn nộ.
Đoạn lòng sầu, chuyện quê hương thật cặn kẽ giãi bày;
Tuần rượu nhạt, lễ đất trời xin tận tình chiếu cố.
Nguyền xin:
Quốc hiển Tổ linh, cả giận loài tham ác mà vũ lộng thần oai;
Sông thần Núi thánh, xót thương đám dân lành hãy ban ơn
gia hộ.