Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Thơ Văn
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Thơ Văn
Message Icon Chủ đề: Phạm Thành Tính Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Chủ đề: Phạm Thành Tính
    Gởi ngày: 31/Aug/2008 lúc 9:01pm

          ChuyŒn hai ngÜ©i tù g¥p låi

                                                            *

                                      M‰n gºi nhà thÖ Thy Lan Thäo

         


ñ©i cÙ ngª không bao gi© g¥p låi

Mà hôm nay h¶i ng¶ ª phÜÖng này

Cùng nhau k‹ nh»ng ngày thê lÜÖng Çó

Cänh mÜ©i næm khÓn kh° chÓn lÜu Çày

 

Tháng TÜ Çó, tôi anh cùng gäy súng

BÎ bån thù trª m¥t, phäi lao lung

N‡i oan nghiŒt, phäi Çành buông tay súng

NuÓt hÆn vào tim, giã biŒt ki‰m cung

 

ñ©i hÒ häi chôn vùi chung m¶t xó

ChÓn nhà giam, khÓn kh° cänh tù Çày

Thân cá chÆu chim lÒng, ôm h©n tûi nhøc

Bi‰t nói gì hÖn , ngÆm Ç¡ng nuÓt cay

 

G¥p låi nhau gi»a tråi tù ÇÃt B¡c

H‰t SÖn La, Vïnh Phú ljn Hà Tây

VŠ Nam Hà thân héo gÀy xÖ xác

Ch‰t dÀn mòn vì lao Ƕng kh° sai

 

Gi© nh¡c låi nh»ng ngày trong lao lš

ñói khát Çau thÜÖng tûi nhøc ê chŠ

Nh© th©i th‰ xoay dÀn bao bi‰n ǰi

Tܪng møc gông nào thÃy ÇÜ®c ngày vŠ

 

Nay g¥p låi nÖi phÜÖng tr©i xÙ lå

Tܪng chØng nhÜ trong giÃc m¶ng chiêm bao

M§i hôm nào trong tù, khi gäy súng

Gi© g¥p nhau sao m¡t lŒ tuôn trào

 

Tình chi‰n h»u næm nào luôn vÅn nh§

Thêm nh»ng ngày lao lš, khó lòng quên

ChuyŒn Çau thÜÖng Çó, k‹ còn chÜa dÙt

Thêm chuyŒn Ç©i càng nghï båc ÇÀu thêm

 

Còn g¥p nhau Çây, mØng không k‹ xi‰t

Hày k‹ cho vÖi muôn vån n‡i sÀu

Tܪng nh§ vong linh nh»ng b¢ng h»u ch‰t

ChÌ hÆn tình ngÜ©i , thÆt quá ǧn Çau

 

Bao næm qua nÖi phÜÖng tr©i xa xÙ

Ôm n‡i sÀu quá khÙ chÓn lÜu vong

B© b‰n cÛ ngÆm ngùi thân l» thÙ

Nhìn xót xa Çau bao chuyŒn nát lòng

 

B¢ng h»u bÓn phÜÖng vÅn còn cách biŒt

Có ÇÙa Çi  biŠn biŒt ch£ng quay vŠ

Nhìn låi thân ta mái ÇÀu Çã båc

Ôm n‡i buÒn man mác nh§ miŠn quê

 

Ôi quê xÜa bi‰t ngày nào ta trª låi

NhÜng bây gi© còn låi chÓn này thôi

Tình ÇÒng Ƕi mãi còn không phai nhåt

Hãy cÓ vùng lên vào phút cuÓi Ç©i...!

 

Austin, mùa hè 2008

Phåm Thành Tính

Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
IP IP Logged
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Gởi ngày: 01/Sep/2008 lúc 3:27pm

Ngày đi hoa cỏ cũng sầu

 

(1) "QuÓc phá sÖn hà tåi

     Thanh xuân thäo m¶c thâm

     Cäm th©i hoa tiÍn lŒ

     HÆu biŒt Çì‹u kinh tâm"

                   ñ‡ Phû

 

TrÜ©ng SÖn, C»u Long, Sông HÒng còn Çó !

V§i ngàn cây hoa cÕ vÅn lên xanh,

Bu¶c lòng ra Çi, tØ bÕ không Çành ,

Khi quê hÜÖng mình, ÇËp xinh nhÜ th‰ !

 

Nh§ ñ‡ Phû: "Cäm th©i hoa tiÍn lŒ" ( 1 )

Hoa cÛng sÀu, khóc k‹ tiÍn ÇÜa nhau,

Lòng nao nao khi hoa cÕ ÇÆm màu

CÕ hoa m‰n ti‰c !- NgÜ©i không luy‰n ti‰c !

 

Bªi quê hÜÖng mình, vÜÖng nhiŠu ly biŒt ,

Vì tình ngÜ©i không có chút tình thÜÖng,

Nên cam lòng phäi biŒt xÙ ly hÜÖng,

ñ‰n muôn chim cÛng Ƕng lòng xa cách.

 

Anh- Tôi, cùng sinh trên m¶t dãy ÇÃt ?

Do hÆn thù nên không th‹ sÓng gÀn..!.

Tôi không làm Câu TiÍn, Çóng kÎch n‰m phân,

ñ‹ ÇÜ®c tha, ch© mong ngày phøc quÓc?

 

Tôi: Tôn Võ, NgÛ Tº TÜ, mÃt ÇÃt,

Không mÃt linh hÒn, ÇÃu løy Phù Sai.

Dù có Çau thÜÖng chÎu cänh dža Çày.

Dù phäi sÓng nh»ng ngày thân viÍn xÙ.

 

Quê hÜÖng mình khi còn bè lÛ d»,

Dù có tr©i xanh, hoa cÕ lên xanh,

Khi con ngÜ©i chÜa ÇÜ®c sÓng an lành.

Hoa cÕ tÓt ? - Nhìn lòng thêm Çau kh°.

 

K‹ tØ ngày tôi xa lià ÇÃt t°,

M‡i Ƕ xuân vŠ cây cÕ ÇÖm bông,

Nhìn muôn hoa nghe xao xuy‰n trong lòng.

Tôi låi nh§ " Cäm th©i hoa tiÍn lŒ"

 

Nh§ ljn quê nhà, niŠm Çau vô k‹.

Bi‰t vi‰t gì hÖn, bi‰t nói gì hÖn,

Nh§ cänh lao lung bao n‡i oán h©n,

Cûa m¶t th©i, m¶t th©i Çau vong quÓc

 

Gi© t¿ hÕi: " Nên cÜ©i hay nên khóc"

Khi con ngÜ©i toàn xäo quyŒt Çiêu ngoa,

Nh§ ljn quê hÜÖng, m¡t lŒ ǰ nhoà,

Khóc thân phÆn, khóc quê mình quá kh°

 

Phåm Thành Tính

Chỉnh sửa lại bởi thylanthao - 01/Sep/2008 lúc 3:28pm
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
IP IP Logged
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Gởi ngày: 07/Sep/2008 lúc 3:16pm

Chuyện hai người tù gặp lại

 

                                                                                    Thanh Khâm

 

Sau cái  ngày của Tháng Tư Đen năm 1975. anh em đồng đội của chúng tôi bị gảy súng ,vì bị bức tử.một cách oan nghiệt. Bị tan hàng rã ngủ , bị bạn thù trở mặt.Tưởng không còn sống để gặp nhau nữa, như những bạn bè đã hi sinh trước và sau cuộc chiến Việt Nam.. Nhưng cũng đau thương không ít cho những người còn sống sót . Do một số lớn bị tù đày, một số trốn bỏ đi tìm tự do, có người bỏ thây bỏ mạng trên đường vượt biên, vượt biển hoặc trong nhà tù Cộng sản. Kể ra cũng có nhiều cái nghiệt ngã không ngờ, mang đầy đầy tủi nhục và cay đắng. Như tình cảnh của người còn sống bị kẹt lại, thì bị vào tù ngục, còn người chết thì bị quật mồ quật mã, xóa sạch và san bằng nghĩa trang

 

Còn cảnh của chúng tôi khi gặp lại nhau cũng đau thương không ít, tại nơi các trại tù cải tạo tập trung của CSVN trên đất Bắc . Như trại tù Sơn La, Nghĩa Lộ ở Hoàng Liên Sơn. Trại tù Hà Tây của tỉnh Hà Sơn Bình  Trại tù Nam Hà của tỉnh Hà Nam Ninh. Hoặc trại tù Tân Kỳ, Thanh Phong Thanh Hóa. Trại tù Tiên Lĩnh ở miền Trung . Trại tù  Z30D, Long Khánh ở miền Nam. Nếu đem kể tên hết trại tù do Cộng sản dựng ra sau cái ngày 30/4/75, làm sao mà kể cho hết. Ngày đó, CSVN đã xây nhà tù mọc lên như nấm,.khắp mọi nơi trên toàn cõi.Việt Nam... Cũng vì thế mà  nhà văn Nga lưu vong  Solzhenitzyn có phát biểu, khi miền Nam lọt vào tay Cộng sản :   ‘’ Toàn thể Việt Nam sẽ thành trại tập trung ‘’ Nhà văn này có nhiều kinh nghiệm đối với Cộng sản không riêng gì CSVN

 

Dù trong vòng lao lý, dù có tan hàng rã ngủ, nhưng trong lòng mỗi người anh em đồng đội, đồng ngũ vẫn giữ một lòng son sắt , gắn bó với tình nghĩa huynh đệ chi binh như thuở nào. Dù bất cứ trong tình huống bi đát đến đâu vẫn tình nghĩa một lòng và tưởng nhớ mến thương nhau... Cũng do tình nghĩa cao quý như thế nên chúng tôi còn tìm gặp lại nhau..

 

 Như trường hợp của tôi và anh Nguyễn Sơn,tức nhà thơ Thy Lan Thảo., gặp lại nhau hôm nay. Chúng tôi đã từng gặp nhau trong trại tù Hà Tây, Hà Sơn Bình và trại tù Nam Hà, Hà Nam Ninh, Bắc Việt.Nam. Chúng tôi bị giam giữ ở trại Hà Tây cũng khá lâu, tính ra trong vòng 4 năm. Kể từ năm 1979 , sau khi CSVN bị Trung Quốc dạy cho bài học thứ nhất, tức đánh CSVN có không gian và thời gian, tức chỉ đánh 6 tỉnh phía Bắc nằm giáp sát biên giới Hoa Việt và thời gian 3 tháng, mục đích lấy lại những gì Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam. Do đó CSVN phải di tản tù cải tạo từ miền rừng sâu núi thẩm Hoàng Liên Sơn,đem về giam giữ tại các trại tù trong vùng đồng bằng sông Hồng. Do đó tôi và Sơn mới có dịp gặp nhau một thời gian.ở Hà Tây và Nam Hà 

 

Vào tháng ba năm 1983, tù cải tạo ở trại Hà Tây bị chuyển về trại tù Nam Hà. Sơn và tôi cũng bị chuyển về giam ở trại tù Nam Hà một thời gian. Rồi Sơn cũng được thả về ngày 29 tháng 6 năm 1983. Còn tôi  vẫn còn bị giam tiếp đến 11 tháng giêng năm 1986 mới được phóng thích,cũng tử nơi nhà tù Nam Hà này..

 

Giờ này, Sơn và tôi cũng may mắn được gặp lại với nỗi niềm nữa mừng nữa tủi. Tôi hình dung lại những năm tháng ở trại tù Hà Tây. Nhất là khi thấy những người bạn trẻ như Sơn, khiến lòng tôi cảm mến và quí trọng. Cảm mến cái  tác phong anh hùng, đầy sĩ khí qua hình dáng của những người lính trẻ trong QLVNCH. Mặc dù, còn rất trẻ, bị tù đày, nhưng tinh thần rất vững chắc. Do cái hào khí oai hùng của người lính miền Nam được giáo dục tốt, được tôi luyện kỷ như thép súng. Tương tự như tinh thần bất khuất đầy khí tiết , un đúc trong huyết quản của từng người lính VNCH, đã vì lý tưởng Tư Do,  vì Tổ quốc Việt Nam,và vì miền Nam thân yêu, đã thể hiện một cách rạng ngời, qua tấm gương trung liệt của những vị anh hùng miền Nam, như Nguyễn khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ ngọc Cẩn.. Dù có bị bức tử, dù có bị tù đày như thế, nhưng tinh thần và khí tiết của người lính miền Nam vẫn còn bất cứ trong tình huống nào.

 

 Nhớ lại ngày ở tù về, trở lại đất miền Nam, Sơn về quê quán ở đất Gò Công. Còn tôi khi trở về phải tạm trú ở Sài Gòn. Cả hai chúng tôi, cũng như một số tù cải tạo khác, được CSVN thả về, phải làm ‘’phó thường dân Nam Bộ ‘’ môt thời gian khá lâu do bị quản chế, mới được trao trả quyền công dân, nhưng cũng cảm thấy khó sống.! Kể ra lúc đó, ai muốn làm công dân của một nuớc theo chế độ Cộng sản như Việt Nam cũng khó lắm thay ! Cũng do thù hận , kỳ thị vì tư tưởng ý thức hệ vẫn còn. Đồng thời cũng do cái tư tưỏng ngạo mạn công thần xem đồng bào mình như cỏ rác.. Bởi thế, nên buộc lòng chúng tôi đành cam phải bỏ xứ mà ra đi.. Nên Sơn đã viết cho một người bạn của Sơn những dòng như sau đây :

 

Giặc thả tao về bơ vơ tay trắng

Mẹ chị cưu mang an ủi bước đời

Mày chạy xe lam hằng ngày kiếm sống

Bạn bè cùng khổ gặp lại cũng vui

.........

Uống với tao cạn ly này để nhớ

Đã một thời bằng hữu sống bên nhau

Mai mốt tao đi điều tao lo sợ

Sống ly hương rất tủi nhục nghẹn ngào

 

Rựơu Gò Công ai đong nấy uống

Tao mời mầy bởi biết khó tương phùng

 

                                    ( Viết cho thằng bạn, thơ Thy Lan Thảo )

 

Chúng tôi ngở không bao giờ có dịp gặp lại nhau, đời con người mấy ai học được chữ ngờ. Thế mà , chúng tôi cũng còn cái may mắn hơn một số bạn bè ở lại.  Chúng tôi gặp lại nhau do một sự tình cờ, nơi quê lạ xứ người. Ôi đời con người chuyện ly tan, ly xứ , hoặc tương phùng tái ngộ , tôi tin là do định mệnh, hoặc do cái duyên tiền định đã an bày. Hồi tưởng lại,  biết làm sao kể hết. những đớn đau xa cách bất hạnh, do lo sợ và tù đày, từng xảy ra hàng ngày, cho cuộc đời.của con người, tức con người Việt Nam, phải sống và cam chịu dưới chế độ bạo tàn của CSVN..

 

Lần này, tôi gặp lại Sơn trên đất tạm dung, với niềm đau thất thổ ly hương và cùng nhau kể lại những ngày đau tùi của quá khứ tù đày. Chúng tôi gặp nhau qua ‘’ Chút Tình Chút Ý’. Chúng tôi gặp nhau qua thi phẩm của Nguyễn Sơn xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2005. Qua điện thoại gọi nhau, Sơn cũng nhắc lại một thời quá khứ bị lưu đày nơi trại tù Hà Tây và Nam Hà. Tôi hình dung nhớ lại Sơn còn có biệt danh biệt hiệu do bạn bè đặt cho lúc trong tù, là Sơn Mỏng. Vì Sơn có thân hình mảnh mai, ốm yếu, nhưng trẻ trung  vui tính và đẹp trai, nên bè bạn ai cũng rất mến Sơn...

 

Chút tình Chút Ý.

 

 Cũng từ lâu, tôi có nghe nhà báo Việt Hùng , chủ nhiệm tạp chí Phương Đông ở Boston, M***achusetts, có gọi nhắc tôi , nhà thơ Thy Lan Thảo có ý muốn gặp. Cũng may mắn tôi có số điện thoại của nhà thơ, nên đã gọi thăm, mới biết ra Thy Lan Thảo là Nguyễn Sơn , là người bạn trẻ, là một trong số những người lính trẻ của QLVNCH,  từng bị CSVN giam giữ chung cùng trại tù Hà Tây với tôi năm nào.

 

 Ôi ! may mắn thay ! Nỗi vui mừng làm sao kể xiết. Có biết bao là kỷ niêm vui buồn được nhắc lại, kể lại trong những ngày bị tù đày trên quê hương mình.  Tôi ngở như là trong giấc mộng chiêm bao. Vì từ lâu ,tưởng chừng đời chúng tôi như đã chết rồi. Cũng may, sau những năm lưu đày tủi hận, chúng tôi còn sống sót đến hôm nay, lại gặp nhau trên xứ người, để cùng kể cho nhau nghe những chuyện buồn của một thời quá khứ..

 

Thy Lan Thảo cũng có gửi tặng tôi quyển thơ có tựa đề ‘’Chút tình chút ý’’ với những dòng chữ do tự tay tác giả viết tặng’’ Để kỷ niệm.

những ngày tháng ở trại tù Hà Tây và Nam Hà.’’

 

Tôi nhận được tập thơ’’ Chút tình chút ý’’, tôi chợt có cảm nghĩ, mình cũng nên ghi lại đôi dòng về người bạn trẻ tùng là đồng đội, đồng cảnh năm xưa, mà mãi cho đến giờ này vẫn còn giữ được tình nghĩa huynh đệ chi binh trong lòng. Ngoài ra, còn chan chứa những nỗi niềm thất thổ ly hương  do cái tình đồng đội, đồng hương, đồng nghiệp do cùng làm thơ làm văn , ghi lại những nỗi niềm thương tiếc của một thời.qua ở quê nhà

 

Được biết rõ thêm, Thy Lan Thảo sinh quán  ở làng Tân Niên Trung, tỉnh Gò Công. Là con út trong một gia đình giáo chức thời VNCH. Nói đến Gò Công, đối với tôi không có gì xa lạ. Do tôi có môt thời gian, từng làm công tác bình định xây dựng trong khu vực tỉnh Gò Gông, gần khu Cầu Nổi. Có lúc tái thiết cầu Cần Đước, Cầu Ông Thìn trên đường từ Chợ Lợn đi Cần Giuộc xuống Gò Công. Như vậy, Thy Lan Thảo cũng là người cùng quê với  nữ ca sĩ Phương Dung, từng nỗi danh với lời ái mộ của bà con thường gọi là ‘’Con nhạn trắng Gò Công’’ .

 

Gò Công cũng là vùng đất của lịch sử miền Nam, vùng đất của những vị anh hùng dân tộc như Võ Tánh ,Trương Định.. Của những bậc nữ lưu danh tiếng như Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, và Nam Phưong Hoàng Hậu. Gò Công từng nổi tiếng là vùng đất của địa linh nhận kiệt..

 

Nói đến Gò Công là vùng đất mà tôi từng lưu lại những công tác xây dựng  như tái tạo các cầu đường trong vùng. Những kỷ niệm cùng đồng bào trong vùng Cần Giuộc , Cần Đước, Hoà Đồng, Hòa Tân, Hòa Lạc.. Nhất là vùng Cần Đước với hương vị mặn mà của các món đặc sản ở vùng này,như gạo Nàng Hương chợ Đào, cùng mắm còng trộn với thơm Bến Lức, hòa lẫn với tình nghĩa đồng bào và quê hương ngày đó thật là thắm thiết mặn nồng..

 

 Khi gặp Sơn và biết Sơn là dân Gò Công, tôi có cảm tình quí mến Sơn như đã có ‘’chút tình chút ý’’ với Gò Công ngày nào. Được gặp Sơn, qua những dòng thơ Thy Lan Thảo đã viết, dù là trong mơ, dù là bị thất thổ ly hương, nhưng trong tiềm thức, trong tư tưởng vẫn một lòng hoài vọng về hướng quê nhà nơi đất Gò Công

 

Quê hương ngàn dậm lòng ghi khắc

Hai chữ Gò Công - âm thật êm

                                                ( Nỗi nhớ trong mơ, thơ Thy Lan Thảo )

hoặc :

 

Chị ơi đất lạ lòng cô quạnh

Em nhớ Gò Công , nén thở dài

                        ( Lòng vẫn không nguôi , thơ Thy Lan Thảo)

 

 Khi đọc thơ Thy Lan Thảo, thấy nhà thơ tuy trẻ , tuy làm lính xa nhà, tuy bị tù đày khổ sai biệt xứ, nhưng trong lòng vẫn luôn luôn gắn bó với gia đình, do lòng  hiếu đạo ,đã thương nhớ từng cọng rau tấc đất, cùng với những giây phút êm đềm thắm thiết đậm đà của tình mẹ cha , nơi quê cha đất tổ, qua những câu trong bài ‘’ Rau càng cua ‘’ như:

 

Đất Hà Tây rau càng cua chẳng có

Nằm mơ thấy mẹ cắp rổ hái rau

Chợt thức giấc nghe như mình nghẹt thở

Mẹ thương con- ôi lai láng rạt rào

.........

Dĩa rau càng cua rưới thêm dầu giấm

Nước tương dầm với ớt vậy mà ngon

Mẹ với ba ảnh hình con ghi đậm

Nước mắt quê hương trong dạ héo mòn !

 

Hoặc khi biết lũ giặc chuyển tù ra đất Bắc, lòng như tuyệt vọng :

 

Chuyển tù ra Bắc như đời ta hết

Mẹ tuổi già đâu thể đến thăm con

Hai năm trong Nam mẹ gắng thăm tìm

Sáu năm đất Bắc mẹ thương mõi mòn..

 

                                    ( Rau càng cua, thơ Thy Lan Thảo )

 

Sau ngày 30/4/75,  nhớ lại những ngày đầu vào trại tù ở miền Nam trước khi bị đưa ra Bắc :

 

Ta ở đây dù chỉ một năm

Mỹ Phước Tây triền miên cực khổ

Ta nghe đầy lời chửi của  bọn coi tù

Lũ côn đồ có trái tim bằng đất..

 

( Về thăm lại Mỹ Phước Tây, thơ Thy Lan Thảo )

 

  Rồi cờ gảy  tao lưu đày ra Bắc

  Mấy lần đau tường rũ xác thiên thu

 Trong tuổi thanh xuân nhọc nhằn héo hắt

  Nhớ lời cổ nhân :  ‘’ nhất nhật tại tù ‘’

                                    ( Viết cho thằng bạn , thơ Thy Lan Thảo )

 

Và cuộc đời bị lưu đày của nhà thơ cứ tiếp diễn trên đất Bắc Việt Nam::

 

Từng trại tù- Tết chầm chậm trôi qua

 Xuân Hà Tây- bụng đói mắt nở hoa

Tường chớn chở kẽm gai rào mấy lớp

Chiến hữu xưa gượng cười quên tiếng khóc

Mắt đỏ nhìn thâm thẩm hướng trời Nam.

 

Dù biết bị lưu đày trong tuyệt vọng, nhưng tình nghĩa xưa mãi mãi  vẫn còn.

 

 Mày hơn năm năm trại Kiến Hòa

 Tao trại Hà Tây  chuyển Nam Hà

 Mày vượt biên giả từ lũ quỷ

 Cùng đường tao cam chịu xót xa

........

( Viết cho thằng em, thơ Thy Lan Thảo )

 

Nhớ lúc chuyển trại, đến trại tù Nam Hà :

 

 Đất đá Nam Hà bước máu loang

Trừng trừng mắt gửi sắc hao mòn

 Phía sau chút khói hoàng hôn đó

 Là gửi tấm lòng với nước non

 

 Nằm trong hổn trận đành yên chịu

 Rừng núi Nam Hà ngăn lối đi...

 

                                    ( Đá dựng Nam Hà, thơ Thy Lan Thảo )

 

Cảnh lưu đày này cứ ngở sẽ mục gông trong nhà tù khám lạnh, nhưng cũng may, nhờ thời thế xoay vần , thời cuộc biến đổi, giặc Cộng cùng đường hết lối. Do kinh tế kiệt quệ và bị kẻ thù bao vây phong tỏa cấm vận, buộc lòng chúng phải thả tù ra cứu đảng để mong được sống còn. Cũng nhờ thế mà mạng của tù cải tạo còn, nếu không thì cũng toi mạng với chủ trương của CSVN ‘’ trước sau như một’’ tức ‘’trước nhốt sau giam’’, ‘’ở mãi không về’’ hoặc’’ kiên trì cải tạo và cải tạo lâu dài’’ và’’ Rượt đuổi người đi và cầm tù người ở lại’’. .. Tất cả những câu , những khẩu hiệu đểu giả  này là những ngón sở trường sở đoản của CSVN.

 

Sau 8 năm ra tù,  trở về Gò Công nhớ lại bạn bè:

 

Bạn cùng khóa bao nhiêu  thằng nằm xuống

Bao nhiêu thằng oan ngục chịu tù gông

Sau ngục tù tao trở về hết muốn

Sống ươn hèn- thà vùi xác biển Đông

 

(  Nghĩ về bạn, thơ Thy Lan Thảo )

 

Đọc thơ Thy Lan Thảo với những dòng thơ trích dẫn như trên ta mới thấy được cái nỗi đau của những người tù cải tạo bị Cộng sản trả thù một cách hèn hạ. Nổi đau nhục này khó lòng mà hàn gắn, khó mà quên đi một cách dễ dàng, Vì nó đã trở thành một nổi đau chung của dân tộc, của lịch sử. Nó đã trở thành những kỷ niệm khó bôi xóa hết trong lòng. Đó là những kỷ niệm khó quên, đối với đời người, với những người tù cải tạo, bởi thế :

 

Đừng trách tại sao nhắc hoài kỷ niệm

Bởi lòng ta kỷ niệm quý hơn vàng

 

                        ( Nghĩ về bạn, thơ Thy Lan Thảo )

 

Những kỷ niệm đau buồn trong cuộc đời bất hạnh của những người tù cải tạo là những niềm đau sâu đậm đã trở thành một vết hằn sâu trong tim óc của từng người, từng nạn nhân của Cộng sản. Do đó, thơ Thy Lan Thảo cũng đã nói lên được nỗi đau chung của thời  đại, của thời thất thổ lưu vong của chúng ta.

 

Những ai chưa từng là nạn nhân của cảnh tù đày của Cộng sản, đọc thơ Thy Lan Thảo trong thi tập Chút ý chút tình, cũng hiểu được cái nỗi đau của tác giả,từng là người tù cải tạo tập trung trong trại tù Cộng sản, .khi bị lưu đày trên đất Bắc

 

Tao đi dưới sắc cờ tanh máu

Chiến bại thân hèn nhục khổ sai

Tám năm sống kiếp tù ‘’ cải tạo’’

 Oan khuất đời ta nhục đọa đày

                        (  Tấm lòng gửi bạn, thơ Thy Lan Thảo )

 

Thy Lan Thảo làm thơ và có lúc cũng mượn rượu để giải sầu, để giải bày cái đau cái hận sau cái ngày bị tan hàng rã ngủ. Mục đích nói lên cái nỗi đau chung, cái nỗi đau oan nghiệt của người lính sau ngày tàn cuộc chiến.bị Cộng sản trả thù và ngược đãi

 

Rượu đế Gò Công trong sùi bọt

Nhậu để quên tuổi thuở dập bầm

 

                                    ( Viết cho thằng em, thơ Thy Lan Thảo)

 

 Hết phần đọc thơ

 

Trong pham vi nhỏ hẹp của bài viết này, khi đọc thơ Thy Lan Thảo, tôi chỉ cố gắng chủ yếu muốn ập trung  vào những nỗi đạu nỗi nhục của thân phận của người lính bị gảy súng, bị làm thân chiến bại, bị tù đày khổ sai biệt xứ do người Cộng sản trả thù sau cuộc chiến Việt Nam. Chưa nói đến, chưa kể đến những nỗi lòng tha thiết với tình cảm, tình yêu thơ mộng , với mái tóc , với vành môi khoé mắt, mà Thy Lan Thảo cũng từng đã viết  qua  thơ trong thi phẩm’’ Chút ý Chút tình’’ như :

 

Không son phấn vẫn ý thơ tròn nụ

Mái tóc ngày xưa, mái tóc bây giờ

Bạn bè em bốn phương trời lữ thứ

Em ngoan hiền mắt vẫn đẹp vẫn mơ

 

                        ( Ngọt nụ xuân đời , thơ Thy Lan Thảo )

 

 Do đó người viết chỉ kể riêng rẽ về chuyện tù đày .Giờ này nhớ lại có biết bao kỷ nệm trong lao tù giữa nhà thơ và tôi, cùng anh em đồng đội.từng là chiến hữu trong QLVNCH. Tôi nhớ khi tôi  gặp  Nguyễn Sơn là người tù năm xưa ,tức nhà thơ Thy Lan Thảo hôm nay, xuyên qua những dòng thơ chan chứa nặng tình nặng ý.  Thy Lan Thảo đã gói ghém trọn vẹn những nỗi lòng, nỗi nhớ , nỗi đau của nhà thơ đem trang trải hết trên những dòng thơ mang nặng ‘’ Chút ý chút tình ‘’. Nên tôi đọc thơ Thy Lan Thảo’’ như cảm thông thấy có mình ở trong đó 

 

Thy Lan Thảo cũng thể hiện cho người đọc thơ thấy tấm lòng của người con chí hiếu, nguời anh , người em có nghĩa tình. Kể cả cái tình nghĩa cao quý với bạn bè bằng hữu, dù trong mọi tình huống, hoặc cảnh ngộ của một khoảng đời , từ lúc ở quê nhà hay ra hải ngoại tạm dung .

 

Thy Lan Thảo là nhà thơ người miền Nam, cũng đã vận dụng khéo léo qua cách dùng từ miền Nam trong những bài thơ của anh, cũng tạo nên những cái duyên dáng, tự nhiên, đáng mến, như’’ ai đong nấy uống’’, ‘’dập bầm’’ ‘’ bụng phình chưa’’ ‘’ Khều chân’’ ..v..v.. Nói tóm lại những dòng  thơ Thy Lan Thảo cũng phong phú tình cảm cùng âm điệu nhẹ nhàng qua những sáng tác đã thể hiện trong thi tập ‘’Chút ý chút tình ‘’ Tất cả cũng đã tạo nên những ý và tứ thơ rất hợp với tâm tình của một người mặc áo lính làm thơ. Mục đích  để nói lên tâm sự , để kể chuyên của đời mình, hoà lẫn với nỗi đau chung của bằng hữu và của quê hương ...

 

Nhân khi viết vội những dòng lưu niệm  này, tôi cũng cảm thấy vui vui, khi gặp lại người bạn trẻ năm xưa, một trong số những người lính trẻ của VNCH, từng là tù cải tạo bị giam giữ chung nhau ở trại tù Hà Tây và Nam Hà. Nguyễn Sơn ơi ! hồi tưởng lại những năm tháng tù đày, khổ sai biệt xứ, đói khát và tủi nhục, nhưng chúng ta còn sống sót đến ngày nay, để gặp nhau lần này, cũng là phúc đức của Ông bà Tổ tiên ban cho nhiều lắm rồi.! Xin cảm ơn Thượng Đế.! Xin cảm ơn những người bạn đã chết để cho chúng ta còn sống đến hôm nay !. Nỗi vui này biết làm sao kể hết., nói sao cho trọn, cho đầy ..

 

Tôi cũng cảm ơn nhà thơ Thy Lan Thảo đã gửi tặng tôi thi tập này, để cùng nhớ lại những ngày đau tủi bị lù đày khổ sai biệt xứ trên quê hương mình. Cũng là dịp để’’ ôn cố tri tân’’ trước cái thảm cảnh người mình, sĩ nhục hành hạ đánh đập mình. Trước cảnh dối trá bằng những thủ đoạn nói lời giả nhân giả nghĩa , để đánh lừa mình và  dối gạt đồng bào mình.như hiện nay . Đồng thời cũng là dịp nhớ lại thời gian bị lưu đày khổ sai trên đất Bắc Việt Nam. Coi như là một bài học cho thế hệ con em chúng ta biết qua, mục đích để rút kinh nghiệm, một kinh nghiệm xương máu và nước mắt của cha anh từng gánh chịu dưới chế độ bạo ngược của Cộng sản  Việt Nam./

 

Austin, mùa hè năm 2008

 

Phạm Thành Tính

Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
IP IP Logged
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Gởi ngày: 08/Sep/2008 lúc 5:44pm
  BÀI  THƠ  GỬI  ANH

                                      *

                                                Gửi Anh Phạm Thành Tính tác giả bài thơ” Chuyện hai người tù gặp lại “


Gió thoảng mây tan rồi tụ lại

Bước đời xuôi ngược đến phương nầy

Đã qua rồi cảnh đời ngang trái

Thuở oan khiên tủi nhục lưu đày…

 

Nắng tháng tư sao đành buông súng

Vạn trai hùng chịu cảnh lao lung

Thương tuổi trẻ tan rồi ước mộng

Ướt mắt cay từ giã kiếm cung…

 

Bốn vùng chiến thuật giờ chung xó

Nhận đòn thù xiềng xích lưu đày

Câm hận đi dưới cờ sao đỏ

Nhớ cờ vàng ngậm đắng nuốt cay

 

Tôi với Anh lưu đày đất Bắc

Làm sao quên tù ngục Hà tây

Nhớ Nam Hà tụi mình xơ xác

Người xuôi tay…tàn sức khổ sai

 

Giọng trong phone, chuyện thời lao lý

Đói rét quằn thân, nhục ê chề

Trong giấc mơ- Lắm điều hoa mỹ

Tỉnh dậy rồi. hướng cũ khó về…

 

Gặp lại anh tình cờ xứ lạ

Ba mươi năm đời vẫn chiêm bao

Thương quá anh- Những ngày nhục nhã

Mình nhắc nhau nghe, lệ tuôn trào.!

 

Thời chinh chiến lòng luôn ghi nhớ

Thuở lao tù đâu có dễ quên

Giặc man rợ, quỷ ma kinh sợ

Đời trắng đen- Ai nhục, ai hèn?!

 

Chuyện buồn vui làm sao kể xiết

Đất tạm dung lặng lẽ nỗi sầu

Nấm mồ hoang bạn bè đã chết

Ai đốt ngang cho bạn năm nào??!

 

Chim thê thiết bay trời xa xứ

Người rứt ray đếm ngày lưu vong

Đò xưa bao giờ cặp bến cũ

Vật chất xa hoa chuyện nát lòng…

 

Dân Lạc Long tội gì chia biệt

Sông Dịch ngày xưa khó bước về

Hướng trời Nam xót xa thê thiết

Mẹ cha giờ đất lạnh miền quê

 

Tôi với anh có ngày trở lại.

Bước về quê chắc chẳng xa xôi

Cờ vàng bay- hết rồi oan trái

Việt Nam ơi! Tươi sáng cảnh đời.

 

            thylanthảo

Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
IP IP Logged
thylanthao
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 02/Jun/2007
Đến từ: United States
Thành viên: OffLine
Số bài: 1051
Quote thylanthao Replybullet Gởi ngày: 04/Oct/2008 lúc 6:38am
Nhớ lại bài thơ Tha La xóm đạo
Phạm Thành Tính

Tháng 5 năm 1968..

Tôi có ghé quaTha La xóm đạo, và ở lại đây mất 6 tuần lễ . . Mục đích dừng chân lâu ngày như vậy, để phụ trách tái lập cây cầu sắt ở Tha La đã bị Việt Cộng phá hoại. Mục đích tái thiết cầu sắt Tha La để góp phần vào công cuộc hành quân bình định và mở rộng an ninh cho khu vực thuộc quận Trảng Bàng, Củ Chi., Hậu Nghĩa... Lúc đó, cũng là lần Tổng công kích đợt 2 của Việt cộng , vào khoảng giữa tháng 5, năm Mậu Thân 1968. Do đó đơn vị tôi rất bận rộn công tác yểm trợ hành quân trong vùng đất này.

Trong những ngày ghé thăm Tha La, làm tôi chợt nhớ lại bài thơ Tha La xóm đạo của Vũ Anh Khanh. Những phút giây rảnh rổi ở chốn này, tôi chợt nhớ lại bài thơ Tha La,một bài thơ kỷ niệm của tuổi học trò mà tôi từng ưa thích. Do đó, hôm đặt chân đến vùng đất Tha La, cũng gợi cho tôi nhớ lại bài thơ này. Nên tôi đã đọc đi đọc lại bài thơ với hi vọng để tìm lại những cảm hứng tuơng tự như tác giả. Tôi đã thuộc lòng bài thơ này từ lâu mà mãi đến hôm nay vẫn còn nhớ. Giờ này có cơ hội ghé qua Tha La, rất lấy làm vui thích, khi nhớ lại kỷ niệm xưa và ngâm nga đọc lại bài thơ này với một cảm giác đầy thi vị .

Khi viết bài kỷ niệm này, tôi xin phép mượn trọn bài thơ của nhà thơ Vũ Anh Khanh, để làm đề tài chính trong câu chuyện hôm nay. Ngày tôi đến Tha La, nơi đó vẫn còn xóm đạo, nhưng có vẻ hơi khác, có lẽ có một chút biến đổi do thời gian và thời cuộc, so với mô tả trong thơ của tác giả , nên trong lòng cũng hoài nghi tự hỏi : -Không biết có phải là Tha La này của Vũ Anh Khanh đã viết trong thơ hay không? Mặc dù tôi có cái cảm nghĩ như nữa nghi nữa thật , nhưng không hiểu sao tự trong lòng vẫn có cảm giác lâng lâng khoan khoái vô hạn , nên tôi cất giọng khe khẻ ngâm nga với đoạn đầu của bài thơ:

Ðây Tha La xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh....
Ngậm ngùi Tha La bảo:
Ðây rừng xanh, rừng xanh 
Bụi đùn quanh ngõ vắng
Khói đùn quanh nóc tranh
Gió đùn quanh mây trắng
Và lữa loạn xây thành..
Viễn khách ơi, người hãy dừng chân cho hỏi
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng

Nhìn hoa rơi lòng khách vẫn bâng khuâng
Tha La hỏi, khách buồn nơi đây vắng
Không tôi buồn vì mây trời đây trắng 
Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn
Khách rùn mình nghe gió nổi từng cơn
Gió vun vút gió rợn rùn gió rít
Bổng đâu đây vẳng véo von tiếng địch
Thôi hết rồi còn chi nữa Tha La
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà
Nay đã chết giữa chiến truờng ly loạn
Tiếng địch càng cao não nùng ai oán
Buồn trưa trưa lây lất buồn trưa trưa

( Tha La xóm đạo, thơ Vũ Anh Khanh )

Bài thơ này Vũ Anh Khanh viết rất dài , có 8 đoạn tất cả, tôi sẽ lần lượt nhắc lại một số đoạn tiếp theo sau của bài thơ Tha La xóm đạo này. Trong khi tôi kể lại những sự việc cùng những biến cố đã xảy ra trên vùng đất Tha La, cùng những vùng sát cận Tha La, mà ngày hôm nay, có những chuyện đã đi vào lịch sử liên quan với cuộc chiến Việt Nam. 

Nhắc tới Vũ Anh Khanh, tác giả của bài thơ trên đây, khiến tôi nhớ lại bài viết của Xuân Vũ trong một bài báo đã đăng trên tap chí Phương Ðông ở Boston tiểu bang M***achusetts, vùng Ðông Bắc Hoa Kỳ,năm 2002, có kể qua về Vũ Anh Khanh, đã đi tập kết ra Bắc, nhưng anh không sống nổi với chế độ Cộng sản Bắc Việt, nên anh bỏ trốn về Nam. Anh vượt sông Bến Hải, nên bị lính Cộng sản Bắc Việt bắn chết, mất tích trên sông Bến Hải.

Giờ này ngồi nhớ lại, trong khi ghi chép những kỷ niệm của một thời đã qua , khiến tôi hình dung lại trong những ngày tôi có dịp ghé qua Tha La. Cũng một phần vì ngày hôm nay, nhơn lúc đọc những tin tức trên mạng có liên hệ với những tin tức thời sự về chất độc da cam, do CSVN đang thưa kiện Chánh phủ Mỹ, trong tháng 6 năm 2007 ở New York, Hoa Kỳ. Tính đến hôm nay cũng đã trải qua gần 40 năm, khi đơn vị tôi từng có dịp xử dụng loại thuốc khai quang trên những vùng đất sát cạnh xóm đạoTha La năm xưa, như vùng Hố Bò, Bời Lời., Khiêm Hanh, Suối Ông Hùng, Trị Tâm , Ka Tum, Xa Mát .hoặc vùng Trà Cú, Ba Thu, Mõ Vẹt sát cận biên giới Việt Miên .v..v.. 

Qua những sự kiện này, khiến tôi liên tưởng đến những ngày mà đơn vị tôi được lệnh tái lập giao thông trên đoạn đường Liên Tỉnh lộ 10, từ ngã ba Tân Mỹ (Ðức Huệ) đến xã An Ninh, Lộc Giang,qua cầu sắt Tha La nối vào Quốc lộ 1,kế cận thị xã Trảng Bàng.Trên đoạn đường này, cầu sắt Tha La là điễm trọng yếu. Cây cầu này đã bị Việt Cộng phá hủy nặng nề . Ðơn vị tôi có nhiệm vụ phải tái lập giao thông trên con đường từ ngã ba Tân Mỹ, Ðức Huệ đi về khu Lộc Giang, Tha La,Trảng Bàng. Ðó là cả một công trình xây dựng để tái thiết rất khó khăn trong khu vực này, do cây cầu sắt Tha La đòi hỏi tốn công sức và vật liệu cũng như thời gian tái thiết. Vì con đường Tỉnh lộ số 10 này, đã trãi qua một thời kỳ do Việt Cộng phá hoại theo kiểu tiêu thổ, ngăn sông cấm chợ, như đào đường, đấp mô, gài mìn gài bẩy.. Việt Cộng đã đào bới mặt lộ, gánh đá bỏ đi một nơi khác, con đường không còn nền móng. Nền đường bị đào, bị cắt ngang trông giống hình những phím đàn dương cầm ( touch piano ). Do đó việc tái lập rất gian lao và rất là vất vả.

Thêm vào dọc theo khu vực sửa đường, Việt cộng đã gài đầy mìn bẩy, hầm chông lẫn bom đạn chưa nổ hết , đem gài lại...Ðã thế còn có Việt Cộng ẩn núp bắn sẻ, rình mò bắn lén, gây khó khăn cho người tái thiết.

Ðơn vị tôi đã ở lại Tha La mất 6 tuần lễ. Tuy rất gian nan và vất vả, nhưng cũng là một dip may cho tôi, được nhận thấy tận nơi, để nhớ lại những hình ảnh mà nhà thơ Vũ Anh Khanh đã mô tả về ‘’ Tha La xóm đạo’’

Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù
Người nước Việt ra đi vì nước Việt
Tha La vắng vì Tha La đã biết
Thương giống nòi đau đất nước lầm than
Ngày hiu quạnh, ờ ơ hơ tiếng hát
Buồn như gió lướt
Lạnh dài như khúc nhạc
Tiếng hát rằng 
Tha La giận mùa thu
Tha La hận quốc thù 
Tha La hờn quốc biến 
Tha La buồn tiếng kiếm 
Não nùng chưa
Tha La nguyện hi sinh

O ơ hơ có một đám chiên lành
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lữa dậy
Quỳ cạnh Chúa đám chiên lành run rẩy
Lạy Ðức Thánh Cha
Lạy Ðức Thánh Mẹ
Lạy Ðức Thánh Thần
Chúng con về cõi tục để làm dân
Rồi cởi trả áo tu
Rồi xếp kinh cầu nguyện
Rồi nhẹ bước về trần
Viễn khách ơi người hãy dừng chân
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé

Ðất đã chuyển rung lòng bao thế hệ
Trời Tha La vần vũ đám mây tang
Vui gì đâu mà tâm sự 
Buồn làm chi cho bẽ bàng
O ơ hơ tiếng hát
Rung lành lạnh ngâm trầm đôi khúc nhạc
Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi
Tha La thương người viễn khách quá đi thôi
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ

Ðây Tha La xóm đạo chốn ven rừng
Có trái ngọt cây lành im bóng lá
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ
Về chi đây khách hởi có ai chờ
Ai đưa đón ? Xin thưa tôi lạc bước
Không là duyên, không là bèo kiếp trước
Không ai chờ, ai đưa đón tôi đâu
Rồi quạnh hiu khách lặng lẽ cúi đầu
Tìm cánh hoa lạc loài bên vệ cỏ
Ngàn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió
Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng

Buồn xưa xưa lây lất buồn xưa xưa
Lòng viễn khách bổng dưng tê tái lạnh 
Khách rùng mình ngẩn ngơ trời hiu quạnh
Thôi hết rồi còn chi nữa Tha La
Ðây mong mênh xóm đạo với rừng già
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách
Khách bước nhẹ trên con đường đỏ hoạch
Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng
Ðang đón mây xa khách bổng ngại ngùng
Kính thưa cụ vì sao Tha La vắng
Cụ ngạo nghể cười run run râu trắng
Nhẹ bảo chàng em chẳng biết gì ư?

O ơ hơ có một đám chiên lành
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lữa dậy..

( Thơ Tha La xóm đạo, Vũ Anh Khanh)

Tha La ngày tôi đến thăm, là một làng theo đạo Công giáo. Ðám chiên lành rất nghèo, nhưng vui sống trong những mái nhà tranh đạm bạc. Ðời sống có lúc không yên. Thường khi gánh chịu giữa hai lằn đạn. Súng đạn rất vô tình. Bên kia bờ sông cách một khoảng dài, hướng về khu Ba Thu, cũng là mật khu của Việt Cộng, nằm giáp ranh đất Miên, thuộc khu Mỏ Vẹt. Ðoạn sông Vàm Cỏ Ðông từ Gò Dầu Hạ chảy về, ngang qua xóm đạo Tha La và xã Gia Bình, rồi đến voi đất xã Lộc Giang, rồi đến Ðức Huệ, Trà Cú, Ðức Hoà. Xuyên suốt hai bờ sông vùng này là vùng bom đạn và mìn bẩy dẩy đầy. Thời đó, Tha La không có đêm nào mà không thấy ánh hỏa châu soi sáng. Tha La tuy sát cận thị xã Trảng Bàng, nhưng Tha La vẫn thấy buồn cô đơn... Tha La nằm đó, một xóm đạo với rừng già.. Thị xã Trảng Bàng ở phiá Nam, xã Gia Bình ở phiá Bắc. Phiá Tây giáp tả ngạn sông Vàm Cỏ Ðông, phiá Ðông giáp Quốc lộ 1, đi từ Trảng Bàng đến Gò Dầu Hạ. Ngồi trên xe đò có thể nhìn thấy Tha La xóm đạo nằm về phiá trái, ẩn khuất sau một bià rừng chạy dài theo quốc lộ. Xa hơn hướng quốc lộ, về hướng Ðông là mật khu Hố Bò, Bời Lời , mật khu của Việt Cộng,và đồn điền cao su. Cầu sắt Tha La bắt ngang qua con rạch chảy ra sông Vàm Cỏ Ðông. Con rạch này chảy vào, nối liền với kinh Thầy Cai ở Củ Chi, để giúp cho việc dẫn thủy nhập điền, và khai phèn sả mặn, giúp cho các cánh đồng dọc theo kinh Thầy Cai và vùng Ðức Lập, Bàu Trai, Tân Mỹ, Ðức Huệ..

Những ngày tạm trú ở Tha La, ngoài công việc chính là tái lập giao thông trên Liên tỉnh lộ 10, đơn vị tôi còn làm những công tác dân sự vụ. Như anh em trong đơn vị có đạo Công Giáo vào giúp nhà thờ sở tại, sửa chửa trạm y tế, sửa chửa các bàn ghế học trò của trường học tại xã Tha La. Gửi biếu thực phẩm thuốc men cho đồng bào thiếu thốn. Trong khu vực này hoặc các khu kế cận với Tha La, đơn vị thường đóng góp công sức để làm những công việc lợi ích cho đồng bào sở tại. 

Thời đó, các đơn vị Công binh Hoa Kỳ, như Tiểu đoàn 65 Công binh Hoa Kỳ thuộc Sư đoàn 25 Bộ binh Hoa kỳ, đóng tại căn cứ Củ Chi, thường hay làm những công tác dân sự vụ, giúp cho các quận các xã và các ấp, khi dân chúng địa phương cần đến. Trong thời gian đơn vị tôi , Tiểu Ðoàn 25 Công Binh Sư Ðoàn trực thuộc Sư đoàn 25 Bộ Binh VNCH và Tiểu đoàn 65 Công Binh Hoa Kỳ giúp cho công việc hành quân bình định tỉnh Hậu Nghĩa,lúc đó có Ðại tá Mã sanh Nhơn là tỉnh trưởng Tỉnh Hậu Nghĩa, tỉnh này gồm có 4 quận như Ðức Hòa, Ðức Huệ, Củ Chi và Trảng Bàng.

Ngoài ra, trong thời gian ở Tha La, đơn vị tôi cũng đã phối hợp với Tiểu đoàn 65 Công binh Hoa Kỳ hành quân khai hoang, vùng Hố Bò, Bời Lời, Chà Rầy, Khiêm Hanh, và Trị Tâm. Việc khai hoang thường dùng xe ủi đất loại "Rome Plow". Nhờ thời gian khai hoang này mà các đơn vị hành quân đã tìm ra các đường hầm, điạ đạo của Cộng sản trong vùng hành quân khai quang. Mà về sau này Cộng sản đem ra khoe với cái tên là Ðịa đạo Củ Chi!

Tôi chưa có dịp xem qua địa đạo Củ Chi do người Cộng Sản Việt Nam trình diễn sau ngày 30/4/75. Tôi tự nghĩ cái huyền thoại về hang động Củ Chi , CSVN chằc hẳn phải cải trang, phải vẻ vời, tô son trét phấn cho ra vẻ có hào quang, để tuyên truyền về người du kích Cộng sản có tinh thần cao trong chiến đấu. Ðồng thời cũng để đề cao cái đất Củ Chi là tường đồng vách sắt ? Như vậy để đánh bóng cái địa đạo, hầu lôi cuốn dể gạt du khách đến xem Mục đích để quảng cáo cái hào quang chiến đấu " Chống Mỹ cứu nước" của người du kích CSVN ở Củ Chi.? 

Riêng tôi là người từng chứng kiến tận chỗ, tận nơi tại vùng Hố Bò, Bời Lời, Khiêm Hanh,Chà Rầy, Suối Ông Hùng, Trị Tâm, Phú Hòa Ðông, Paris Tân Qui., Ðức Hòa, Ðức Huệ..v v.... Lần ấy đơn vị Hoa Kỳ đã tìm ra một số địa đạo gần sát trung tâm huấn luyện Trung Lập và khu Chà Rầy nằm phiá Bắc Củ Chi... Trong suốt thời gian hành quân khai hoang, các địa đạo bị phát hiện do đơn vị tôi và đơn vị Mỹ đã tìm thấy. Có những đường hầm dài, cũng có tổ chức , có nơi chứa lương thực, máy móc, tuy thế cũng chẳng có gì gọi là qui mô to tác đáng kể, đáng nói.. Tương tự như các loại hang ổ, rất thô sơ vì đào bằng tay, và đào lén lút để ngụy trang, che giấu, để tránh phát hiện. Dĩ nhiên , chắc chắn làm sao đẹp như loại đường hầm được tái tạo với tư tưởng của kẻ tự cho là chiến thắng để trình diễn ? Nếu đem so sánh các đường hầm và hang động của Bin Laden ở Tora Bora, Afghanistan, thì địa đạo Củ Chi có thấm vào đâu? 

Sau này, tôi có những người bạn người Mỹ đã từng phục vụ đơn vị Công binh Hoa Kỳ, có thời gian từng trú đóng tại Củ Chi và Trị Tâm năm 1968- 1969. Họ đã từng khám phá thấy qua tận mắt trước đây những địa đạo của du kích Cộng sản ở trong vùng Củ Chi, Hố Bò, Bời Lời., Chà Rầy .v..v. Về sau này vào năm 1986,họ có trở lại thăm Việt Nam ,như khách du lịch. Họ đã có đi xem qua địa đạo Củ Chi,. để biết và so sánh với sự thật năm xưa mà họ đã có dịp tận mắt khám phá ra sao!

Khi trở về Mỹ , tôi có gặp hai anh cùng làm chung một sở làm ở hảng Boston Scientific Corporation ở Quincy và Boston thuộc tiểu bang M***achusetts với tôi. Trong khi trao đổi qua câu chuyện về Việt Nam , anh ta có khoe là có đi xem qua địa đạo ở Củ Chi, trong chuyến du lịch Việt Nam. Tôi có hỏi :- anh có ý nghĩ và cảm tưởng gì sau khi xem ở nơi đó ? Hai anh chỉ mĩm cười và nhún vai ,có vẻ chê bai hơn là khen tặng. Vì nó không thật., như hai anh đã từng thấy trước đây, trong thời gian đơn vị của hai anh từng tham chiến trên các vùng đất Củ Chi. Hai anh còn trả lời tôi một cách khôi hài:- Thật ra Củ Chi mà đã anh xem qua , cũng như là Không Có Chi. Anh nói tiếng Việt rất rành như người Việt , rất vui tính và hay thích pha trò...

Những ngày tôi ở Tha La là những ngày tham gia hành quân phối hợp với đơn vị Công binh Hoa Kỳ trong vùng này. Vì thời đó đơn vị tôi được Tiểu đoàn 65 Công binh Hoa Kỳ huấn luyện thực tập tại chỗ, tức huấn luyện tại nơi hành quân (OJT-On Job Training ). Nhờ những dịp này ,tôi có cơ hội ghé qua Tha La và nghe thấy những gì xảy ra trong khu vực trách nhiệm của các đơn vị hành quân phối hợp với các đơn vị Việt Mỹ.

Hồi tưởng lại những ngày qua, liên tưởng với những gì đã xảy ra trong vùng sát cận Tha La. Thực hư và hư thật của con người tạo ra, biết sao mà đo lường lòng dạ con người. trong cuộc chiến và sau cuộc chiến. Nhất là về phía của Việt Cộng đã tự biên tự diễn những trò ma giáo, do đầu óc công thần ngạo mạn của con người, tự xưng mình là kẻ chiến thắng, nhưng thực chất chỉ là thời cơ? Xét ra cũng chẳng có gì gọi là mưu trí sáng tạo ,là tài tình, nói theo kiểu khoa học kỷ thuật.của Cộng sản cả. Còn những cái đã có đem ra trình diễn, chỉ là trò ảo thuật, do những tiểu xảo mánh khoé của kẻ thất phu, để gạt gẩm đánh lừa thiên hạ mà thôi. Nhưng những người biết rõ sự thật , khi xem qua họ chỉ mĩm cười.bỏ đi mà thôi.

Nhân cơ hội này, nghĩ ra cũng nên nhắc lại những ngày tháng hành quân trong khu vực sát cận Tha La, tôi cũng có dịp biết qua việc xử dụng chất hóa học để khai hoang ( Orange Agent ) mà CSVN dịch ra gọi là chất dộc hóa học màu da cam. Do tư tưởng lệch lạc, nên CSVN dịch hai chữ Orange Agent theo dã tâm để kết án chứ không đúng nghĩa của chữ. Vì đơn vị tôi cũng có dịp từng xử dụng qua hóa chất này, trong công tác khai quang, khi hành quân trong khu vưc Phú Hòa Ðông và Paris Tân Qui, Ðức Hoà, Trà Cú, Ðức Huệ, Ba Thu, Trị Tâm ..v..v

Ngày xưa đơn vị tôi từng xử dụng thuốc khai quang, là loại thuốc bột thường được chứa trong loại thùng phuy 55 gallons, gần tượng đương 200 lít. . Khi đơn vị tôi đem xử dụng thuốc khai quang , phải pha trộn với dầu hôi , có nơi gọi là dầu lữa, hoặc dùng dầu cặn , dầu diesel. Ngày xưa chúng tôi trộn với tỷ lệ,1kílô thuốc bột khai quang với 1 can ( Jerrican ) loạì thùng 20 lít, chứa dầu hôi hay dầu cặn. Sau khi pha trộn đều,cho vào bình xịt bằng tay , giống như loại bình xịt thuốc diệt muổi..Chúng tôi xủ dụng hóa chất này như một loại thuốc diệt cỏ ( herbicide ) Khi thi hành công tác này phải có bao tay và khẩu trang bảo vệ an toàn .Mục đích xử dụng làm cho cây cỏ mất đi chất xanh , chất diệp lục tố trong lá, sẽ bị khô héo đi , và đổi màu ,sau đó 72 giờ, dùng lữa đốt cho cháy. Về hiệu quả diệt cỏ ,chỉ sau một mùa mưa, cây cỏ sẽ xanh lại, và chất độc dioxin trong thuốc khai quang cũng tan biến dần đi, do nước mưa của một mùa rửa sạch, vì tỷ lệ dioxin chỉ có 1/100 trong thuốc khai quang không nhiều, như kết quả do phân tích khoa học đã chứng minh..

Ðối với những vùng rừng cây cao to lớn, hay vùng cỏ rậm rạp, mà việc xử dụng bình xịt tay, không thỏa mản nổi yêu cầu, thường phải dùng máy bay đi rải thuốc khai quang. Như tôi thường thấy đơn vị khai quang của Mỹ ở Củ Chi , đã dùng máy bay loại C123 hoặc C130 đi rải thuốc khai quang. Sau thời gian rải thuốc khai quang 72 giờ, thường dùng xăng đặc pha chế để đốt cháy. Thường dùng cách tắm lữa ( Flame bath ) hoặc bom Napalm.đốt cháy . Dùng Flame bath tôi thấy nhiều hơn là dùng bom Napalm, Mỗt lần đi ném Flame bath thường dùng 30 thùng phuy loại 55 gallons,chứa đầy chất Thickerner -M1 ( xăng đặc ) pha với dầu lữa hoặc đầu cặn hoặc dầu Diesel.. Mỗi thùng đều có gắn một ngòi nổ ( VT fuse =Variable Time fuse ) có bộ phận điều chỉnh thời nổ, khi xử dụng phải điều chỉnh thời nổ truớc với việc xác định độ cao , tức còn cách mặt đất từ 100 feet đến 150 feet, mới cho nổ . Mục đích làm cho tung toé chất xăng dầu đã pha chế đổ ra, trải khắp trên vùng khai hoang, đồng thời cũng đốt cháy lan rộng ra luôn khu vực đã rải thuốc khai quang trước đó 72 giờ. Tại Củ Chi, phần lớn do máy bay C130 đảm trách công việc này, đã bay vào vùng đã rải thuốc khai quang, ném Flame Bath và đốt cháy. Ðó là trường hợp những vùng rừng chồi cây nhỏ và cỏ tranh, cỏ đế, hay lau, sậy...v ..v..

Nếu rừng rậm có nhiều cây to, dùng thuốc khai quang không có kết quả tốt, thường đem xử dụng xe ủi loại Rome Plow. Loại xe ủi đất gắn lưỡi xẻng như lưỡi cày để cắt những cây to. Khi ủi quang xong chờ một thời cây khô héo. Sau đó phải dùng Flame bath để đốt cháy. Xe Rome Plow là một loại xe ủi đất loại lớn ( Bulldozer của hảng Caterpillar là loại D7 hay của hảng Allis Chalmers loại HD16) được biến cải bằng cách thay lưỡi xẻng ,hình giống lưỡi cày kiểu La Mã ( Rome Plow Blade ) để ủi cắt các cây to ở những vùng rừng rậm . Thân xe ủi còn đưọc trang bị thêm khung sắt bao che buồng máy và buồng tài xế. Mục đích tránh nguy hiểm cho tài xế, và hư hỏng xe, khi cây cối bị ủi ngã đập vào xe...

Công tác khai quang (Defoliation) hoặc (Land Clearing) trong vùng Hố Bò, Bời Lời , Chà Rầy, Khiêm Hanh,Trị Tâm do Công Binh Hoa Kỳ đảm trách. Họ có môt Ðại đội chuyên về khai quang (Land Clearing Company ) có đầy đủ phương tiện tối tân hiện đại. Khi khai quang trong rừng rậm có trực thăng ( LOH ) hướng dẫn và trực thăng võ trang Cobra bảo vệ, cùng với lực lượng Bộ binh và Thiết giáp yểm trợ sát cận

Về phía VNCH, có Liên Ðoàn 30 Công Binh Chiến đấu ( Combat Engineer Group) đồn trú tại Hốc Môn, cũng có Ðại đội 318 Khai Quang, được trang bị xe ủi đất loại Rome Plow do Hoa kỳ giao lại trong thời kỳ Việt Nam hóa chiến tranh. Ðã từng khai quang vùng Thiên Ngôn , Xa Mát, Ka Tum, Tây Ninh. Nhưng không có đủ phương tiên hiện đại như dùng trực thăng để hướng dẫn lúc làm công tác ủi quang, như đơn vị Mỹ từng làm ở Hố Bò, Bời Lời, Củ Chi .

Các đơn vị khai quang dùng thuốc khai quang không riêng gì Agent Orange mà còn có loại như Agent Purple , màu tím,, Agent White, màu trắng,Agent Green, màu xanh v..v..Thường được phân phối ra đơn vị xử dụng, chứa trong thùng phuy 55 gallons, bên ngoài thùng sơn màu khác nhau tùy theo mỗi loại để. dành cho các chuyên viên phân biệt khi xử dụng. 

Căn cứ vào tài liệu khoa học, theo Tiến sĩ Mai Thanh Truyết , tiến sĩ Hóa học ở Ðại học Besancon, Pháp, đã cho biết khi trả lời trong cuộc phỏng vấn của Trường Giang:

"Cho đến nay nhiều người vẫn lầm lẫn dioxin là Chất Ðộc Màu Da Cam. Tôi xin thưa, cụ thể là dioxin có thành phần hóa học là 2, 3, 7, 8 tetrachlorodibenzo- para - dioxin, hay gọi chung là 2, 3, 7, 8,TCDD . Trong thời gian chiến tranh từ năm 1962 đến 1971, người Mỹ đã phun xịt những Chất Ðộc Màu Da Cam và một số chất khác.

Trong chất độc màu da cam đó, nó gồm có hổn hợp 50% của 2 loại hóa chất sau đây 2, 4-D hay là dichlorophenoxy- acetic và 2, 4. 5-T là trichlorophenơxyacetic. Trong quá trình sản xuất chất 2, 4, 5-T, đó là môt chất thuốc diệt cỏ dại đã xử dụng ở Hoa Kỳ, trong quá trình sản xuất , dioxin là một phế phẩm và cái hàm lượng của dioxin chỉ là 1/100 trong cái quá trình sản xuất đó." (Trích theo bài phỏng vấn Tiến Sĩ Hóa Học Mai Thanh Truyết, của Trường Giang, Tuesday, 17 September, 2002, ở Chương 39 , trang 381, quyển Câu Chuyện Da Cam/ Dioxin Việt Nam , xuất bản do Hội Khoa Học và Kỷ Thuật Việt Nam (VAST).

Theo kinh nghiệm xử dụng, tất cả những chất hóa học khai quang đều có đặc tính chung là diệt chất diệp lục tố trong lá cây hay cỏ, bị khô héo đi, sau khi xịt thuốc khai quang vài ba ngày. Theo tôi được biết qua căn cứ vào các tài liệu khoa học kỷ thuật , sách vở và báo chí, khi nói về độc tố dioxin, không phải chỉ có thuốc khai quang mới có nhiều Dioxin như thế, mà còn có trong các môi trường khác, như cháy rừng , mùi khói xăng dầu , mùi khói thuốc lá, đốt củi, đốt than cũng có Dioxin .Kể cả trong thịt cá, sửa cũng vẫn có dioxin. Các loại thuốc trừ sâu xủ dụng trong nông nghiệp cũng có dioxin., như DDT và PCB.(Polychlorynatic byphenil) Như đã tìm thấy có dioxin trong kỷ nghệ sản xuất ximăng, cụ thể như trường hợp nhà máy ximăng Hà Tiên đã phóng thích ra trên 30 tấn PCB, hiện chưa biết xử lý thế nào (theo Câu chuyện Da Cam/ Dioxin Việt Nam, trang 383, xuất bản do VAST.)

Cũng do đọc tin tức trên mạng, nhân khi đọc tin CSVN đòi tiền thiệt hại cho các nạn nhân cho là bị nhiễm Dioxin gây bệnh do thuốc khai quang của Mỹ cách đây gần 40 năm, để bắt chẹt phía Mỹ trách nhiệm về hâu quả của thuốc khai quang có độc tố dioxin gây ra.Còn về tác hại do Dioxin của các loại thuốc trừ sâu mà CSVN đã sử dụng trong nông nghiệp sau thời gian chiến tranh thì không kể vào ? Hoặc những thực phẩm hoặc trái cây nhập từ Trung Quốc. ? Khi đọc tin về một nhà khoa học CSVN ,như theo tin báo Lao Ðộng tại Việt Nam viết. Tiến sĩ Nguyễn quốc Tuấn, trưởng phòng Môi Trường Bộ Khoa học -Công nghệ của CSVN, cho biết cam trồng ở tỉnh Hà Giang , Bắc Việt Nam,cũng có chứa chất 2,4-D, và trái cây nhập từ Trung Quốc cũng có chất 2,4-D và thêm chất 2,4,5-T, như vậy ở đâu cũng có chất dioxin bám vào..

Còn báo Thanh Niên cũng tại Việt Nam, lại đăng bài giải thích của Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm lại đính chính , rất buồn cười, khi nói chỉ có chất 2,4-D chứ không có chất 2,4, 5-T, ngụ ý bảo là không có chất 2,4,5-T là không có dioxin ? Báo Thanh Niên ở Việt Nam không phân biệt rõ ràng,về vấn đề này ( Theo tài liệu về Orange Agent trong http:// www. người viet .online. com )

Như vậy, dù trái cây ở Bắc Việt Nam hay nhập từ Trung Quốc đều có phải do nhiễm chất thuốc khai quang đem phun rãi tại miền Nam do quân đội Mỹ xủ dụng cách đây hơn 40 năm hay không? Không chỉ riêng miền Nam Việt Nam mới có chất dioxin do thuốc khai quang? Vì thực tế ở đâu cũng có dioxin , chú không riêng gì ở miền Nam Việt Nam mới có? Làm sao phân biệt dioxin nào do chất khai quang của Mỹ rải ? Vì thời gian phun xịt thuốc khai quang của Mỹ tính đến nay đã gần 40 năm qua. Khó mà hiểu được xuất xứ chất dioxin này do lòng dạ con người ?

Trên thực tế, CSVN không có một việc làm nào hay hành động nào mà không lồng vấn đề chánh trị vào. để tuyên truyền hoặc bắt chẹt nhau? Tại sao CSVN không nêu lên vấn đề để xin cứu trợ nhân đạo cho các nạn nhân bị nhiễm dioxin, hơn là đi thưa kiện ồn ào như thế? Chưa chắc đã thắng kiện, vì sự thật chứng minh về tác hại của dioxin không rõ ràng xuất xứ.Nhưng trường hợp thuốc khai quang mà tôi có dịp xử dụng qua ,cũng như đã thấy xử dụng trong những ngày tháng hành quân trên vùng đất ở Củ Chi Trảng Bàng ,Tha La, trong cuộc chiến tại Việt Nam , theo tôi biết chỉ hoặc 2 hoặc 3 mùa mưa là dioxin đã rửa sạch và cỏ dại vẫn lên xanh như lúc chưa xịt thuốc..

Ðiều này cũng chứng minh theo suy luận của các khoa học gia, chẳng hạn theo TS Mai Thanh Truyết đã cho biết :

Tôi nghĩ với hàm lượng dioxin trên trong môi trường Việt Nam trong thời kỳ đó cho đến hôm nay, nó không còn tác dụng gì. Thêm nữa, cái thời gian bán hủy của dioxin là khoảng từ 7 năm tới 10 năm. Kể từ năm 70 tới bây giờ, suốt hơn 30 năm, tôi nghĩ sự hiện diện của dioxin trong đất chỉ là huyền thoại. Tôi nghĩ thực chất của vấn đề này, nó nằm trên lảnh vực chính trị nhiều hơn là khoa học..’’ (Trích câu trả lời phỏng vấn của TS Mai Thanh Truyết, trong cuộc phỏng vấn do Trường Giang, ngày 17 tháng 9 năm 2002, trang 383 và 384, chương 39, sách Câu Chuyện Da Cam/Dioxin Việt Nam, xuất bản do VAST, năm 2008 )

Chuyện tuy cũ, chuyện đã trãi qua gần non nữa thế kỷ, mà hôm nay vẫn còn âm ỷ trong lòng dạ con người, để làm rầm rộ lên do sự sách động do tâm địa gian xảo của con người. Khó mà lường kết quả của sự việc như vậy..

Cũng vì đó, mà tâm trạng của tôi khi đọc bài nói về thuốc khai quang và sách Câu Chuyện Da Cam/ Dioxin Việt Nam, làm tôi nhớ đến Tha La. Khiến tôi hồi tưởng những ngày gian khổ đã qua trên vùng đất này. Ðặc biệt trên vùng đất Củ Chi, Hố Bò, Bời Lời,Trị Tâm, Suối Ðá, Thiện Ngôn, KaTum, Xa Mát và Tống Lê Chân..v..v .. Những địa danh đó đã thu gọn vào đời lính của tôi bằng những ngày tôi ghé qua vùng đất Tha La, làm tôi liên tưởng đến một quá khứ đầy vinh nhục trong cuôc đời. Ôi bao hình ảnh ngày xưa, giờ này như diễn lại trong tâm trí tôi. khiến tôi vẫn còn nhớ từng nơi từng chỗ mà tôi đã đi qua.Dù đến nay đã quá lâu, nhưng vẫn làm tôi nhớ lại những kỷ niệm đó cũng gần 40 năm qua, vẫn chưa phai mờ.mỗi khi nhắc lại vùng đất Tha La

Tất cả một chuổi dài hồi tưởng về những ngày đã qua trong đời lính. Trong đó có hình ảnh của vùng đất Tha La , Trảng Bàng Củ Chi, Hố Bò, Bời Lời.. Tất cả là những kỷ niệm buồn đã đi vào đời. Ðời của con người từng gánh chịu gian khổ và chứng kiến biết bao chuyện xuyên suốt 20 năm đời lính. Rồi kế tiếp 10 năm do đời tù, bị CSVN giam giữ tại các trại cải tạo tập trung trên rừng rú của đất Bắc Việt Nam. May mắn. còn sống sót. ra tù , sống tiếp đến đời lưu vong xa xứ, cùng với những ngày đầy trăn trở, bùi ngùi nơi xứ lạ quê người. 

Mọi chuyện tưởng đâu đã đi vào quên lảng, vì những nổi đau của quá khứ đầy đen tối bất hạnh đó. Nay nhơn lúc đọc những bản tin thời sự, sách báo , khiến tôi nhớ lại quá khứ của một thời , cũng là một hội chứng dai dẳng, khiến tôi nhớ lại những hình ảnh trên vùng đất Tha La đầy tang tóc và máu lữa của cuộc chiến năm xưa.Như vậy nỗi nhớ vẫn chưa nguôi ,vì cơn đau chưa dứt.?

Kể từ ngày cởi bỏ áo lính do thời cuộc gây nên , tôi không có dịp về thăm Tha La và thăm lại Trảng Bàng, để có dịp thưởng thức những món ăn đầy hương vị của vùng đất này, như bánh canh và cháo lòng Trảng Bàng..mà tôi có dịp thưởng thức qua trong những ngày tôi đến với Tha La. Cũng để nhớ lại những kỷ niệm trong thời kỳ chiến tranh tàn khốc trên quê hương do Việt Cộng gây ra..

Giờ viết ghi lại những ngày tháng mà tôi đã ghé qua Tha La, bổng dưng những hình ảnh năm xưa như gợi về . Ngẩm nghĩ lại trong cuộc đời con người thường sống bằng những nguyện ước cho tương lai khi còn trẻ tuổi, nhưng lúc về già, thường sống bằng những kỷ niệm. Như những kỷ niệm của thời trai trẻ, đôi khi cũng làm nhớ lại những hình ảnh của một thời, làm tâm tư mình rung động hoặc xao xuyến, truớc những hư thực của cuộc đời đầy man trá và lừa đảo, do bản chất hung bạo của con người.. Những cảnh tượng, những hình ảnh đã xảy ra năm xưa trên vùng đất Tha La, giờ này nhớ lại thấy lòng quá xót xa như dao cắt và quá ngậm ngùi, ray rứt, như những lời thơ của bài thơ Tha La Xóm Ðạo :

Ðất đã chuyển rung lòng bao thế hệ
Trời Tha La vần vũ đám mây tang
Vui gì đâu mà tâm sự
Buồn làm chi cho bẽ bàng..
O ơ hơ tiếng hát

Lá vàng cao, vàng rụng lá rừng bay
Giờ khách đi Tha La nhắn câu này
Khi hết giặc khách hãy về thăm khách nhé
Hãy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tha La dâng ngàn hoa gạo
Về suối mát rừng xanh
Thăm đám chiên lành thương áo trắng
Nghe trời nổi gió nhớ quanh quanh 

(Tha La xóm đạo, thơ Vũ Anh Khanh )

Nhà thơ Vũ Anh Khanh đã một lần ra đi, rồi đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại với Tha La. Riêng viễn khách cũng đã từ giả vùng đất năm xưa để ra đi . Dù đã hết giặc, nhưng vì lòng người vẫn còn ngăn cách, nên khách không thể về thăm Tha La xớm đạo năm xưa được. Ðành xin hẹn lại, sẽ về thăm Tha La khi một ngày nào đó quê hương sớm có được thật sự hài hòa giữa con người với con người.Con người biết thương con người. Không còn cảnh con người hành hạ đánh đập con người do lừa dối nhau.để thống trị. Không biết đến bao giờ quê hương mình mới chấm dứt cảnh bạo tàn này ? Hi vọng khi đó khách sẽ về thăm Tha La và Trảng Bàng như ngày nào./

Austin, mùa hè 2007
Phạm Thành Tính
Nếu rêu phong vết hằn theo năm tháng - Thì đời ta chắc cũng lắm rêu phong.
IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.164 seconds.