Bài mớiBài mới  Display List of Forum MembersThành viên  LịchLịch  Tìm kiếm trong Diễn đànTìm kiếm  Hỏi/ĐápHỏi/Đáp
  Ghi danhGhi danh  Đăng nhậpĐăng nhập
Âm nhạc
 Diễn Đàn Hội Thân Hữu Gò Công :Văn Học - Nghệ thuật :Âm nhạc
Message Icon Chủ đề: TÂM SỰ BÀI CA VỌNG CỔ Gởi trả lời Gởi bài mới
Người gởi Nội dung
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Chủ đề: TÂM SỰ BÀI CA VỌNG CỔ
    Gởi ngày: 05/Mar/2009 lúc 9:57pm

TÂM SỰ BÀI CA VỌNG CỔ

 

Lê Quốc

 

Tôi (*) chào đời trong nỗi buồn chia ly của cha mẹ tôi. Chia ly ép buộc. Giã từ miễn cưỡng ! Cha mẹ tôi gạt lệ chia tay nhau trong niềm đau khôn tả ... Thân gái dặm trường...mẹ tôi ngập ngừng cất bước ra đi... bỏ lại sau lưng ...người chồng cô đơn, sầu thảm... Chiều chiều nghe tiếng chim lẻ bạn kêu chiều - cha tôi nghe như lòng mình bị ai xát muối:

Chiều chiều chim vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau ....

Đau khổ dồn ứ, tắt nghẹn, không thoát ra được. Nỗi buồn ướt đẫm sương khuya, ủ kín trong lòng, nhức nhối trong xương tủy. Nhớ thương đục mòn lá phổi, cay xé tâm hồn. Người muốn kêu la hò hét... phá bỏ, bứt tung tất cả những trói buộc gia đình. Nhưng vô vọng ! Bao quanh ông là một bức trường thành phong kiến - những hào lũy kiên cố của một quan niệm cỗ hủ, lỗi thời: ''Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại ''. (Không con nối dõi tông đường là một tội bất hiếu lớn nhứt). Bức tường cao vời vợi ấy đã đặt cha mẹ tôi vào cảnh ''Chàng Tương giang đầu, thiếp Tương giang vĩ '' ....         

Cha tôi vừa tròn 30 tuổi, sống cô đơn vật vờ ... vì thương nhớ mẹ tôi. Cho đến một đêm trăng thượng tuần - ông thơ thẩn ngoài hàng ba trước nhà ... bên tai còn văng vẳng lời thống thiết của vợ lúc chia tay ... trên trời, vầng trăng lưỡi liềm treo lơ lửng ... bỗng có tiếng trống sang canh của một khám đường gần đó, từng hồi nện mạnh vào không gian vắng ngắt, khơi dậy niềm thương nhớ dồn ép lâu ngày... người nghệ sĩ bỗng thấy lòng rung động bồi hồi, tâm hồn trào dâng một niềm cảm xúc...ông vói lấy cây đờn nguyệt, tay rung rung nắn phím... rút ruột trút hết tâm sự mình qua tiếng đàn não nuột bi thương....:

Hò lìu xang xê cống...

Líu cổng... líu cổng.... xê xang

Xừ xang xê hò líu, cống xê xang hò        

Líu xế xang xự, xế xang lìu hò ...            

(Cao văn Lầu - Dạ cổ hoài lang. Trần văn Khải - Nghệ thuật sân khấu, trích dẫn)

Thanh âm phát ra từ chiếc nguyệt cầm chậm và buồn- như uất ức, như thở than - từng tiếng buông xuống như những giọt mưa rơi lưng chừng ... nửa như muốn trút xuống, nửa như còn vướng đọng trên mây... Năm ngón tay gầy guộc rung rung trên phím đàn - khi nhấn xuống, lúc buông lơi chùng lại - khi vuốt nhẹ kéo dài ... luyến láy qua nhiều âm vực, tạo nên một làn điệu nỉ non, áo não... thấm tận tim gan. Tiếng nguyệt cầm ngân lên, chìm xuống hay tắt lịm ...là những tiếng kêu bi ai của loài chim Đỗ quyên khóc bạn.... bi ai, khoắc khoải .... đến mòn hơi rồi tắt ngủm trong sương đêm... Điệu đàn như u uất, tức tưởi một niềm đau dội lại từ nỗi lòng quằn quại bi thương.... khi dồn dập như một cơn giông đầu mùa, rào rào trên giòng sông Hậu - khi lê thê rã rời như tiếng vạc ăn đêm về muộn...

Tiếng đàn bỗng buông trầm xuống ''hò'', âm thanh chùng lại, lan rộng như hơi gió của cơn giông vừa dứt ...mặt sông vẫn còn nhấp nhô sóng gợn... ngón tay ông dứt câu ở âm ''cống ư...ử ư...'' nhấn sâu xuống ở tận chỗ nào đó gần bát độ nốt đờn, rồi buông lơi nhẹ cho trở về chữ cống vừa tầm giọng ca... nghe xốn xang, thắt thẻo... Tiếng đàn từ hò lên cống... nức nở... bỗng hạ xuống xang theo tiếng ''cắt'' nhịp song lang dứt câu ... sắt như một nhát dao chém lên thềm đá ... âm thanh lạnh lùng xuyên thấu tim gan...

Sắt đá cũng ngậm ngùi ! Điệu đàn càng về khuya càng áo não... Thanh âm thoát ra từ 5 ngón tay rướm máu .... đã có linh hồn - lời ca xuất phát từ nỗi lòng quằn quại bi thương - đã thành máu huyết, thẩm thấu qua tim gan... Cha tôi bây giờ không còn biết mình là mình nữa... Tâm hồn ông bay bổng đến một vùng trời mênh mông, chập chờn hình ảnh của người vợ thương yêu ... Tiếng đờn không còn là tiếng đờn mà chỉ là những dư âm lan man thành một cảm giác bâng khuâng lơ lửng .... Lời ca không còn là lời ca ... chữ nghĩa hết còn là chữ nghĩa - mà chỉ nghe một sự rung động thấm tận tâm hồn...          

Mảnh hình hài tôi là những nỗi nhớ nhung xao xuyến...những đau thương bi phẩn kết tinh thành những thanh âm tận cùng của nghệ thuật đờn nguyệt cầm. Tôi ra đời từ đêm ấy .... và mang tên DẠ CỔ HOÀI LANG. Sinh ra và lớn lên trong nỗi buồn... Cho nên đời tôi là một điệu nhạc buồn ! Từ đó...          

LANG THANG KHẮP MIỀN NAM KỲ LỤC TỈNH

Tôi lang thang khắp miền sông nước phù sa. Lạ lùng thay ! Người ta say mê tôi. Khắp nơi - từ thành thị tới thôn quê - Già trẻ bé lớn - trí thức, bình dân - ai nấy đều mang tôi ra để mà đờn, mà hát ... Tôi là thượng khách trong mọi buổi hội hè đình đám, quan hôn tang tế ... - là tri kỷ của các đám đờn ca tài tử ... - là bầu bạn của đám nông dân chưn lấm tay bùn - là món ăn tinh thần thường trực của những dân quê - sau một ngày làm lụng vất vả - tụm năm, tụm ba bên vài xị rượu đế, mấy con khô cá lóc, vài trái xoài sống... nhậu sần sần rồi nổi hứng lên ca hát... Có đờn càng tốt - Ca trúng nhịp càng hay, trật nhịp cũng không sao. Miễn xuống hò mùi riệu, nói lối cho ngọt là ăn tiền.

Phải nhìn thấy cảnh một ông già trong bữa giỗ - sau khi nghe xuống HÒ câu vọng cổ - tay búng một cái chóc, đưa ly rượu đế lên miệng làm một cái ''trót'', khà một tiếng, gật gù khoan khoái...- bà lão ngồi khuất trên bộ ván đàng sau, ngừng tay ngoái trầu, mắt lim dim ... thở phào sung sướng như vừa có một điều gì mãn nguyện trong lòng - mấy cô gái lấp ló trong buồng đang say sưa nhìn trộm chàng thanh niên vừa dứt câu nói lối để vô câu vọng cổ: ''Rảo bước qua nhịp cầu tre, trở về nơi mái lá thì con mới hay là mẹ đã qua ...ờ...ớ... ơ... đời'' (1) chàng thanh niên rướng giọng lên cao vút ...ngân dài... mỏng và nhỏ rứt .... bỗng xuống trầm ngay chữ đời cùng một lúc với tiếng đờn kìm - như một tay đua về nhứt trước sự reo hò hoan hô của khán giả - mới hiểu được sức tác động tận tâm can của bài ca vọng cổ. Chàng thanh niên tiếp tục ca: ''Mẹ ơi ! Lòng con tan nát tơi bời. Trên bàn thờ cũ kỹ, con chỉ thấy lạnh lùng chiếc nhện giăng tơ. Mẹ ơi ! Tuổi già nua, mẹ chịu đói no, sau trước một mình, còn con thì trên bước lãng du, bốn phương trời làm thân viễn xứ ....ơ....ơ....ơ...'' (1) - bà già chắt lưởi xốn xang ! Mấy cô gái sau màn - đã có hơn một người quay mặt chỗ khác - rút khăn lau nước mắt....

Ông già cao hứng nói: ''Thằng Gia - Mầy ca mùi quá ! Mầy nói lối khúc Đơn phu nhân cản đầu ngựa Đơn hùng Tín - nghe chơi mầy. Con hai Lụa ờ đầu vàm, nó đang chờ nghe mầy ca đó ''! Ông già cầm ly rượu đưa cho chàng thanh niên: '' Nè làm một ly lấy hứng''. Thằng Gia - cảm thấy dường như có con Lụa sau màn - đưa tay lấy ly rượu, ực một cái cạn ly, khoa tay đứng dậy bắt chước giọng bi hùng trong vai Đơn hùng Tín: ''Này phu nhân - Dạ ! - Chữ tử sanh hữu mạng - câu vạn sự do thiên. Vậy thì thôi - chốn khuê phòng, phu nhân hãy thủ phận thuyền quyên- -i....ối ... còn nơi chiến địa là mồ chôn liệt sĩ - có chi mà phu nhân phải bận lòng đó a... phu nhân'' (2)          

Thằng Gia - rượu đã ngà ngà - râu tóc dựng ngược - chỉ tay vào trong như để nói với con Lụa: ''Còn nơi chiến địa là mồ chôn liệt sĩ, có chi mà bận lòng đó a... phu nhân''. Phía sau màn, Con Lụa chớp chớp đôi mắt, cảm động ...và bao nhiêu con mắt dán vào thằng Gia ... chờ nó vô vọng cổ. Bữa nhậu biến thành buổi hát ''bỏ túi''. Thằng Gia nhờ có rượu, có con Lụa bên trong nên tưởng mình như kép hát đóng vai Đơn hùng Tín, mắt trợn trừng, tiếng nói rổn rảng... Nghe mà đã ...đến bừng bừng máu chạy trong cơ thể .... Bây giờ không cần ai mời, họ tự rót rượu uống đến mềm môi ! Khoái trá vô cùng !

Có khi tôi lang thang trên những chiếc ghe thương hồ, gạo chợ nước sông, trôi nổi bềnh bồng theo con nước ròng, nước lớn ...Những đêm trăng sáng vằn vặt ...thuyền trôi xuôi dòng - những điệu hát huê tình, những câu hò đối đáp của những cặp nam nữ buông lỏng tay chèo ...vang lên rộn rã cả giòng sông Hậu. Tôi say sưa nghe các đàn anh, đàn chị Tứ đại oán, Xàng xê, Hành vân, Kim tiền...được các tài tử đờn ca thả thuyền đi chơi, vừa ca hát, vừa thưởng thức món ốc gạo đầu mùa, mập ú, trắng phau chấm nước mắm chanh ớt hay những con tôm càng nhảy soi sói mua từ xuồng câu tôm gần đó, đem nướng trên lò lửa than hồng thơm phức, lột vỏ chấm mấm nêm, rau sống rồi đưa cay một ly nước mắt quê hương. Chao ơi! Vua chúa cũng ăn ngon đến thế là cùng !  

Thưởng thức cái ngon - như đọc một bài thơ, nghe một khúc nhạc hay - không thể dùng lời mà lột tả được. Ăn xong mà cái dư vị còn đọng trong cổ họng, cái ngon thấm dần qua da thịt... Còn khi nghe một bản nhạc hay ... bài ca đã dứt mà cảm xúc còn lai láng... dư âm còn lan man mãi trong hồn...

Đêm trăng sáng - rượu đã sần sần - họ nổi hứng mang tôi ra mà đàn hát.... Họ thả hồn theo tôi, bay bổng ngang qua mấy ngọn bần lập lòe đom đóm... bay vút tận mấy vầng mây lấp loáng ánh trăng ...

Có lần tôi xuống tận miền Cà Mau - nơi vàm sông Cái Cau - nghe được tiếng hát của chị Bảy đưa đò. Chưa bao giờ tôi được nghe tiếng hò hay như vậy: Tiếng hò: ''Khi cất lên thì cao hơn tầm bay bổng của con cò, con vạc ... cao vút tận mấy vì sao lấp lánh; giọng ấy lúc buông trầm xuống thì như hơi gió xao động cả giòng sông, chuyển rung mặt nước, dẫu khi thuyền đã xa khuất ''. (3)

Tiếng hò hay như vậy - giọng Nam ai có buồn như lá đổ - các đàn chị Tứ đại oán, Hành vân - mấy anh Xàng xê, Bình bán - trước đây ăn khách bao nhiêu - giờ đây đều nhường bước cho tôi. Nơi đâu, tôi cũng chiếm một chỗ hàng đầu. Ở đâu tôi cũng chiếm được trái tim người thưởng thức...

NHỮNG GIỜ PHÚT VINH QUANG

Vinh quang đời tôi bắt đầu với thằng nhỏ Lê văn Cao, 7 tuổi, ở xóm Hàng Cóc, ca bài Dạ cổ hoài Lang. Tôi được mọi người say mê - thằng nhỏ 7 tuổi nổi tiếng khắp một vùng xóm công xi rượu Mậu thắng Hưng, xóm kinh Tư Muối. Nó giúp anh nó bán đuợc ghe muối kiếm lời bộn bàng nhờ sự say mê bài Dạ cổ và lòng hào hiệp của Chủ Sanh và Năm Học ở Bạc Liêu (4). Lớn lên, thầy giáo Lê văn Cao bỏ nghề để theo nghiệp cầm ca, tâm tiếng lẫy lừng và làm nên sự nghiệp với bài ca Vọng cổ... Một thời gian sau - tôi được nhiều nghệ sĩ nuôi dưỡng cho trưởng thành - tôi như con diều gặp gió - bay khắp vùng trời Nam Kỳ Lục Tỉnh và sau đó tạm dừng chưn tại Sàigòn hoa lệ.

Nơi đây - tôi gặp những danh tài thượng thặng của nền cổ nhạc miền Nam như Tư Chơi, Năm Châu, Lê hoài Nở, Trần hữu Trang, Phùng Há, cô Tư Sạng, cô Ba Đắc, những danh cầm như Văn Vĩ (độc huyền cầm), sáu Tửng (đờn kìm) chín Trích (Tranh), Bảy Bá (cò) v.v... Không sao kể hết....

Soạn giả Huỳnh thủ Trung (tức Tư Chơi) hà hơi thổi cho tôi dài ra thêm từ nhịp 2 lên nhịp 4 trong bài Tiếng nhạn kêu sương - nghệ sĩ Lư hoà Nghĩa chấp cho tôi đôi cánh - từ nhịp 4 lên nhịp 8 - bài Văng vẳng tiếng chuông chùa. Phải nhìn nhận rằng với nghệ sĩ Năm Nghĩa - tôi có thêm da thịt máu huyết, lông cánh, để bay cao và bay xa hơn. Chính cha tôi còn phải khen Lư hòa Nghĩa: ''Cái hay của thằng Nghĩa là nó biết nhồi thêm chữ đờn cho mùi hơn, réo rắt hơn, xôm hơn mà vẫn giữ được chữ đờn ở nhịp chánh'' (5). Rồi từ nhịp 8 biến thành nhịp 16 với Nguyễn thành Út (tức Út Trà Ôn) trong bài Tôn Tẩn giả điên, cô Tư Sạng- bài Xử tội Bàng quý Phi - nhịp 16 tăng đến nhịp 32 với tài danh Hữu Phước trong bản Đội gạo đường xa của Kiên Giang, Tình anh bán chiếu của Viễn Châu. Rồi sau nầy - nhịp 64 được áp dụng - cho dễ ca với các bản Tân cổ giao duyên.

Về sau... tôi như cá thêm vi, hùm thêm cánh ... với những danh tài thượng thặng như Thành Được, Thanh sang, Thanh Nga, Bạch Tuyết ca diễn trong nghệ thuật hát cải lương với những tuồng tích của những soạn giả tài danh Năm Châu, Hà Triều Hoa Phượng, Viễn Châu, Nguyễn Phương v.v.... Có thể nói không có tôi thì nghệ thuật cải lương không thể có những kỳ công như vậy - nhiều nghệ sĩ tên tuổi lẫy lừng, ký giao kèo với giá hàng triệu đồng trước 75 - chưa kể tiền mỗi xuất hát - là nhờ ca mấy câu vọng cổ.

NHỮNG BƯỚC CHƯN ĐI... KHÔNG NGỪNG

Điều kỳ diệu là người dân Nam Kỳ Lục Tỉnh say mê tôi ...rồi dần dần lây sang đến cả người bình dân miền Trung và miền Bắc sau nầy. Âm điệu buồn ướt đẫm nỗi niềm nhớ nhung hoài cảm, pha lẫn một chút than thở oán hờn - là tâm sự của những người xa xứ ...đi KHAI PHÁ vùng đất phương Nam ... mà lòng lúc nào cũng hoài vọng về nơi cố lý... - là tâm tư khoắc khoải của những người Tàu Minh hương mà ông cha là những người phản Thanh phục Minh lưu vong biệt xứ ... nhưng lúc nào cũng hướng vọng về cố quốc ... và hơi nhạc còn mang âm hưởng giọng oán than của một mối hờn vong quốc của dân tộc Chiêm Thành... Rồi trong sự cộng cư hoà bình của các dân tộc Việt, Minh hương, Chàm, Miên trên một vùng đất rộng người thưa .... tôi trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu và tôi đã mang trong thân thể những chất dân tộc tính của phần đất miền Nam.

Tôi còn thể hiện những bước đi hào hùng mang nhiều dấu vết của sự BÔC PHÁ đầy SÁNG TẠO của tiền nhân trên đường Nam tiến. Đâu có bài ca anh chị em nào mà biến thể lạ lùng và kỳ diệu như tôi. Tôi đã 6 lần thay hình đổi dạng. Thời lượng dãn ra, số nhịp chữ đờn tăng lên... tôi phải vươn mình đổi mới. Từ cách sử dụng thủ pháp diễn tấu các loại nhạc khí đến cung cách ca hát ... tất cả đều tiến triển không ngừng.

Người đờn mặc tình lui tới dạo chơi, tự do nhấn rung luyến láy... miễn sao giữ được chữ đờn ở nhịp chánh - xuống hò, xuồng xề, dứt song lang đúng nhịp...Còn người ca thì tự do ngân nga, kéo dài một chữ, ca nhanh hay chậm một đoạn ... thời lượng không hạn chế sít sao ...để có thể biểu lộ tận cùng cảm xúc của mình- mà vẫn giữ được nhịp chánh. Đó không phải tính bộc phá đầy sáng tạo và sự tự do, hào sảng, phóng khoáng - hình ảnh của những người tiên phong đốn cây phá rừng, chiến đấu với hùm beo rắn độc, sương lam chướng khí...để biến vùng đất hoang vu, rừng thiêng nước độc thành một miền mầu mỡ, trù phú hay sao ? Và tôi vô cùng hảnh diện mang dòng máu đó trong người.

Có người trách tôi là ca khúc buồn áo não quá ! Quả thật tôi mang một âm điệu buồn ! Mùi nữa ! Nhưng không phải là cái buồn ủy mị, yếu hèn - mà là một cái buồn KHƠI ĐỘÂNG NGUỒN CẢM XÚC để mà thắm thía hơn tình mẫu tử, nghĩa phu thê, lòng chung thủy....những gương Trung Hiếu, Tiết, Nghĩa... là những đức tính cao quý của con người muôn thuở ... Có những khi tôi còn khơi dậy nỗi thương nhớ quê nhà - nơi có bờ tre mái rạ, dòng sông con đò ... từ đó phát sinh ra lòng yêu mến quê hương, yêu quê cha đất tổ mình hơn và có nhiều khi tôi đã rung cảm được người nghe mà hướng tâm hồn họ về Chân, Thiện, Mỹ - về con đường tu dưỡng hướng về nẻo Phật từ bi, về Chúa cứu rổi.   Có phải vậy không ? các bậc văn nhân tài tử trên đời ? Các nhà văn học hiện đại?

Người ta có thể thuyết phục con người bằng những lý luận đanh thép, nhưng đồng thời người ta cũng có thể chinh phục thiên hạ bằng sự thổn thức của con tim và sự rung cảm của tâm hồn...

Từ khi chào đời đến lúc trưởng thành, tôi đã làm rung động biết bao tâm hồn ... làm thổn thức hàng vạn vạn trái tim và làm rơi lệ hàng triệu, triệu con người ... và theo đó - tôi đã nuôi dưỡng đậm đà biết bao tình mẫu, hun đúc bao nhiêu tấm lòng yêu mến quê hương, biết bao tình nghĩa vợ chồng, cha con, bầu bạn... Rồi theo chưn các gánh hát cải lương Nam Bộ lưu diễn miền Bắc... tôi được đồng bào ở đây cũng hoan nghênh nhiệt liệt... Điều lạ lùng là tại vùng đất ngàn năm văn vật nầy: ''Hà nội lại là Thủ đô thứ hai đón tiếp cải lương nồng nhiệt nhất, sau Saigòn''. Ông Tô Ngọc - một người Bắc chính cống cũng nói: ''Cũng như dân Nam kỳ- dân Bắc Kỳ cũng khoái 6 câu vọng cổ mùi rệu'' (Chọn lọc số 51). Rồi chính người Bắc mê nó đến độ đòi hỏi các nghệ sĩ miền Bắc phải hát cải lương. Rồi những Huỳnh Thái, Sỹ Tiến, Ái Liên, Từ Vi, Bích Hợp, Bích Thuận, Kim chung... đứng ra thành lập gánh hát và nhứt định tôi - bài ca vọng cổ - phải được xem là hàng đầu trong việc trình diễn...

Nhưng có điều là tôi (bài ca vọng cổ) - theo nhà văn lão thành Nguyễn văn Xuân - thì: ''Vọng cổ của người Nam Kỳ thì phải dân Nam Kỳ hát nghe nó mới thấm thía. Chính vì lý do đó mà có ban hát Nam Kỳ ra Hà nội lưu diễn, thì y như tối nào vé cũng bán hết sạch.'' (Nguyễn văn Xuân - Khi những lưu dân trở lại).

Riêng tôi thì chỉ mong được nghệ sĩ miền Bắc mang ra ca hát, đồng bào Hà Nội ưa thích say mê là tôi vô cùng hảnh diện và sung sướng rồi ! Còn ca ra sao thì mỗi miền có cách phát âm riêng. Điều quan trọng là tôi đã phục vụ được hàng triệu triệu đồng bào tôi. Và qua sự gạn lọc của thời gian, tôi tồn tại đến ngày nay và ngay tại hải ngoại - tôi vẫn được mọi giới ưa thích ... kể cả những người trước đây xem thường tôi, mỉa mai tôi là ''văn chương cải lương'' và xem tôi như là một thứ nghệ thuật hạng nhì.

Văn chương mà khi hát làm vểnh râu dựng tóc người nghe - đi thẳng vào tâm hồn khán giả - không phải là văn chương sao ? Khúc nhạc, bài ca khi tấu lên làm thổn thức hàng vạn vạn con tim, làm rơi lệ hàng triệu triệu người - không phải nghệ thuật ? Ấy thế tôi và cải lương bị văn học bỏ rơi một cách phũ phàng.... trong khi các đàn anh, đàn chị hát tuồng, hát chèo lại có một chỗ đứng đàng hoàng trong văn học sử. Điều nầy làm tôi buồn bã ! Nhiều nhà văn, nhà thơ - trong đó có nhà văn Duyên Anh lên tiếng: ''Giá trị cải lương khôn cùng. Tôi buồn là văn học sử Việt Nam hơi tệ bạc với ngành cải lương. Những vở hát của Phạm ngọc Khôi và Năm Châu và gần đây Hà Triều Hoa Phượng, phải có một chỗ đứng xứng đáng trong văn học sử. Nhưng văn học sử vẫn làm ngơ. Công khai và công bình mà nói rằng ở Việt Nam chưa có một nghệ sĩ nào, trong tất cả mọi mặt làm xao xuyến lòng hàng triệu người bằng nghệ sĩ cải lương, bằng những Thành Được, Huỳnh Thái, Thanh Nga, Út Trà ôn v.v.'' (6)

Nghệ thuật không thể tách rời khỏi quần chúng. Nghệ thuật tách rời quần chúng là nghệ thuật tự giam mình trong ốc đảo cô đơn, nó sẽ khô héo, chết dần mòn trong sự kiêu hảnh của nó ... Albert Camus - trong buổi lãnh giải văn chương Nobel 1957 - cũng phát biểu: ''Người nghệ sĩ tự tôi luyện mình trong sự giao lưu giữa một bên là cái ĐẸP không thể thiếu và bên kia là cái CỘNG ĐỒNG mà anh ta không thể dứt bỏ. Nghệ thuật không cho phép người nghệ sĩ tự tách mình ra khỏi quần chúng'' (7)

Cho dù bây giờ tôi bị bỏ quên - cho dù hiện tại, văn học không ngó ngàng đến tôi ... sự thật vẫn là sự thật. Sự thật đó là tôi vẫn được đại đa số quần chúng - trong đó có những người trí thức - ưa thích, yêu thương. Có thể tôi và cải lương không có những tiêu chuẩn cứng ngắt, những quy luật trói buộc, những thể văn cầu kỳ, khó hiểu của kịch nghệ.

Ông Nguyễn Đông Châu - trong bài phỏng vấn ông Vũ khắc Khoan - bảo rằng ''ngành kịch bế tắc'' và nhà văn Võ Phiến ngờ rằng ''quần chúng không chịu bỏ tiền mua vé xem kịch'' (8). Kịch bản đã thành tác phẩm văn học thường không có quần chúng. Điều dễ hiểu là quần chúng không hiểu hoặc nếu có, thì chỉ một số rất ít oi. Không hiểu thì làm sao rung cảm được. Trong khi tôi (Vọng cổ cải lương) là một loại nghệ thuật đi thẳng vào lòng người bằng những cốt chuyện phổ thông và một ngôn ngữ dễ hiểu, một âm thanh và động tác làm rung cảm con tim. Có thể tôi được hiểu như là một loại nghệ thuật của người bình dân, của đại đa số quần chúng nông dân, thợ thuyền ít học.... Nếu vậy thì nghệ thuật phục vụ cho đại chúng không phải là nghệ thuật ? Nghệ thuật chỉ thuộc dộc quyền cho một số người phê phán nghệ thuật ?

Cho dù được phê phán ra sao - sự thật vẫn là sự thật. Và sự thật sẽ không bao giờ chết.                      

                                                                                               

Chú thích:                                                                  

(*)        Bài Dạ cổ hoài lang                  

(1, 2):   Không rõ tác giả.

(3, 5):   Theo soạn giả Nguyễn Phương.            

(6):       Trần quang Hải - Âm nhạc Việt Nam               

(7):       Albert Camus - Nobel price of litterature 1957. Người dịch: Phạm Toàn           

(8):       Văn số 93&94 (tháng 9 và 10 - 2004)

 



Chỉnh sửa lại bởi Hoang_Ngoc_Hung - 05/Mar/2009 lúc 10:07pm
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 05/Mar/2009 lúc 10:09pm

Lời bài ca

Từ là từ phu tướng,

Bảo kiếm sắc phong lên đàng.

Vào ra luống trông tin chàng.

Năm canh mơ màng.

Em luống trông tin chàng,

Ôi gan vàng quặn đau.

Đường dù xa ong bướm,

Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang.

Đêm luống trông tin chàng,

Ngày mỏi mòn như đá Vọng phu.

Vọng phu vọng luống trông tin chàng.

Sao nỡ phũ phàng...

Chàng là chàng có hay?

Đêm thiếp nằm luống những sầu tây.

Bao thuở đó đây sum vầy,

Duyên sắc cầm lạt phai.

Là nguyện cho chàng

Hai chữ an bình an.

Mau trở lại gia đàng,

Cho én nhạn hiệp đôi.

Ký âm cổ nhạc

(theo loại đàn dây Bắc)

Hò lìu xang xê cống

Líu cống líu cống xê xang

Xừ xang xê hò líu cống xê xang hò

Liu xế xang xự xề xang lìu hò

Xừ liu xáng ũ liu cống xề

Liu xáng xàng xề liu xề xáng ú liu

Hò lìu xang xang xế cống

Xê xê líu xừ, líu lĩu xừ xang

Xừ xang xế, líu xê xang xư’'

Xê líu xừ, líu lĩu xừ xang

Xừ, xê líu xừ, líu cống xê, líu hò

Liu xề xang xự cống xê xang lìu hò

Xừ xang xừ cống xế

Xê líu xừ, líu lĩu xừ xang

Xừ xang xề hò líu cống xế xang hò

Lưu xáng xàng, xề liu xề xáng ú liu

Hò xự cống xê xang hò

Xê líu xừ, líu lĩu xừ xang

Xừ xang xế, hò líu cống xê xang hò

Liu xáng xàng xề liu xề xáng ú liu

Bản Dạ cổ hoài lang sử dụng thang âm lên tới 7 cung, thuộc hệ thang âm Ai, Oán.

(net)

Nghe DẠ CỔ HOÀI LANG
Nghệ sĩ Ngọc Giàu
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoang_Ngoc_Hung
Senior Member
Senior Member


Tham gia ngày: 16/Jan/2008
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 1332
Quote Hoang_Ngoc_Hung Replybullet Gởi ngày: 05/Mar/2009 lúc 10:10pm

Bài DẠ CỔ HOÀI LANG

Dạ cổ hoài lang[1] là một bản nhạc cổ do nhạc sĩ Cao Văn Lầu (1892-1976) sáng tác, nói về tâm sự người vợ nhớ chồng lúc về đêm.

Từ bản Dạ cổ hoài lang mỗi câu 2 nhịp, các nghệ sĩ sau này chuyển lên 4 nhịp rồi 8 nhịp, mà thành bài vọng cổ đầu tiên...

Nguyên nhân ra đời

Theo báo Thanh Niên[2], thì Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) đã thổ lộ với bạn thân rằng:

Tôi đặt bài này bởi tôi rất thương vợ. Năm viết bản Dạ cổ hoài lang, tôi đã ăn ở với vợ tôi được 3 năm mà không có con...Tiếng ra, tiếng vào của gia đình buộc tôi phải thôi vợ, nhưng tôi không đành. Tôi âm thầm chống lại nghiêm lệnh của gia đình, không đem vợ trả về cho cha mẹ mà đem gởi đến một gia đình có tấm lòng nhân hậu...

Tác giả bài báo kể tiếp: Trong thời gian dài, phu thê phải cam chịu cảnh “đêm đông gối chiếc cô phòng", Sáu Lầu thường mượn tiếng đàn để vơi cơn phiền muộn. Và bản Dạ cổ hoài lang đã ra đời trong bối cảnh như thế...

Tác giả Trung Tín trong một bài viết, cho biết thêm hai lời kể nữa:

Lời kể của nhạc sĩ Hai Ngưu[3]:

Trong một đêm ông Sáu Lầu trực gác tại Nhà đèn Bạc Liêu vào năm 1920, do đau khổ trong hoàn cảnh nợ duyên ngang trái, ông xúc cảm viết thành bản nhạc lòng Dạ cổ hoài lang (Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng). Sau khi bản Dạ cổ hoài lang ra đời... ít lâu sau (nhờ vợ ông có thai) hai vợ chồng ông được tái hợp, để rồi sau đó hai ông bà đã có với nhau 6 người con.

Lời kể của nhà giáo Trịnh Thiên Tư với ông Chín Tâm (nguyên giảng viên Trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn):

Năm ông Sáu Lầu 28 tuổi, ông được lệnh mẹ phải thôi vợ vì lý do “tam niên vô tự bất thành thê”. Ông Sáu Lầu đau khổ nhưng không dám cãi lời mẹ dạy. Chiều chiều ông ôm cây đàn kìm ra sau vườn làm bạn tâm tình…

Bài này lúc đầu có 22 câu và ông đặt tên là Hoài lang. Danh ca Bảy Kiên nhận thấy có vài câu trùng ý, đề nghị rút lại còn 20 câu. Đồng thời ông Kiên còn thêm vào hai chữ “dạ cổ”, thành ra “Dạ cổ hoài lang”. Về lời ca, nhạc sĩ Sáu Lầu phóng tác theo bài thơ “Chinh phụ thán” của nhạc sư Nguyệt Chiếu – trụ trì chùa Phật Hòa Bình ở Bạc Liêu. Bài thơ mang âm hưởng tích “Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn” đời nhà Tần bên Tàu.[4]

Nhưng theo Trần Tấn Hưng (Năm Nhỏ) và những người đồng môn với ông Cao Văn Lầu, thì ông Lầu đã soạn được phần nhạc trước khi xa vợ. Ông Hưng kể:

Ông Cao Văn Lầu cùng các bạn học đồng thời đã được thầy là nhạc sư Lê Tài Khí (Nhạc Khị) hướng dẫn sáng tác theo một chủ đề là “Chinh phụ vọng chinh phu”, được rút ra từ bản Nam ai Tô Huệ chức cẩm hồi văn. Lúc đó có nhiều người sáng tác, riêng ông Cao Văn Lầu trong năm Đinh Tỵ (1917) đã sáng tác một bản nhạc 22 câu, nhưng gặp phải hoàn cảnh vợ chồng ly tán…Vì quá đau buồn nên ông không thể tiếp tục đặt lời ca, mãi đến năm sau vợ chồng hàn gắn[5] lại ông mới có đủ tinh thần chỉnh lý bản nhạc. Ông đã theo lời khuyên của bạn đồng môn là Ba Chột (tác giả bản Liêu Giang, tác phẩm được sáng tác cùng thời và cùng một chủ đề vừa nêu trên) bỏ bớt 2 câu trùng lắp còn lại 20 câu và tiếp tục đặt lời ca...

Và cũng theo ông Hưng, cái tên Dạ cổ hoài lang là của một nhà sư đặt cho bản nhạc:

Bản nhạc và lời ca đã sáng tác xong nhưng chưa có tên. Lại vừa đến rằm Trung thu (Mậu Ngọ 1918) ông Lầu cùng các bạn đến thăm thầy luôn tiện đem bản nhạc ra trình. Ông Lầu đã dùng chiếc đàn tranh vừa độc tấu một lần và vừa đàn vừa ca thêm một lần nữa. Lúc đó, ngoài các thầy trò còn có mặt nhà sư Nguyệt Chiếu (một người rất tinh thâm Hán học và nhạc cổ truyền), chính thầy Nhạc Khị đã nhờ nhà sư đặt tên cho bản nhạc vừa tấu và nhà sư đã đặt tên là Dạ cổ hoài lang. Vậy, bản Dạ cổ hoài lang 20 câu nhịp đôi đã chính thức ra đời kể từ đêm đó..[6]

Trần Đức Thuận ở Hội Khoa học lịch sử Bạc Liêu, trong một bài viết đã kết luận:

Bản Dạ cổ hoài lang về nguyên nhân sáng tác tuy có dính líu một phần nào với hoàn cảnh chia ly của vợ chồng Cao Văn Lầu, nhưng nguyên nhân chính vẫn là nhờ sự hướng dẫn sáng tác của thầy Nhạc Khị với một tiêu đề định sẵn...[7]

Thời điểm ra đời

Thời điểm Dạ cổ hoài lang ra đời, ngoài những chi tiết khá khác nhau qua lời kể ở phần trên, còn có nhiều ý kiến chưa tương đồng nữa, kể cả ông Cao Kiến Thiết và Cao Văn Bỉnh, là hai người con của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu cũng chưa xác định được thời điểm, vì có lúc hai ông nói năm 1919 là năm ra đời bản Dạ cổ, có lúc hai ông lại nói năm 1919 là năm đổi tên Dạ cổ thành Vọng cổ.[8].

Và theo các nhà nghiên cứu khác, thì:

  • Ông Thành Châu (báo Văn học nghệ thuật, tháng 8 năm 1977), nhà thơ kiêm soạn giả cải lương Kiên Giang (Báo Long An, ngày 18 tháng 7 năm 1986), đồng cho rằng bài Dạ cổ hoài lang ra đời 1917.
  • Nhạc sĩ Trọng Nguyễn (Kỷ yếu Từ Dạ cổ hoài lang, tr.40) Nghệ sĩ nhân dân Ba Vân tức Lê Long Vân (Kể chuyện cải lương, 1988, tr. 67), nhà nghiên cứu Đắc Nhẫn (Tìm hiểu âm nhạc cải lương, Nxb TP. HCM, 1987, tr. 41), hai nhà sử học Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế (Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, 1992) không cho biết năm khởi thảo, nhưng đều nói bài Dạ cổ hoài lang ra đời năm 1818.
  • Nhạc sĩ Trương Bỉnh Tòng (Kỷ yếu Từ Dạ cổ hoài lang, Nxb Mũi Cà Mau, 1992, tr. 50), Lâm Tường Vân (Đặc san Quí Dậu 1993, Hội Ái hữu Bạc Liêu Nam Cali, tr. 28), Nguyễn Tư Quang (Tạp chí Bách Khoa số 63, Sài Gòn, 1959) thì năm sinh của bài Dạ cổ hoài lang là năm 1919.
  • GS. Trần Quang Hải (con trai của GS. Trần Văn Khê)[9] nói vào năm 1920 và nhà nghiên cứu Toan Ánh nói “vào khoảng năm 1920” (Tìm hiểu nghệ thuật cầm ca, Nxb Đồng Tháp, 1998, tr. 207-208)
  • Ông Anh Đệ (Nghệ thuật sân khấu, Viện sân khấu, 1987, tr. 59) cho rằng năm sinh của bài Dạ cổ hoài lang là 1915.

Tuy nhiên, ý kiến cho rằng bài Dạ cổ hoài lang ra đời ngày 15 tháng 8 (âm lịch) năm Mậu Ngọ (nhằm ngày 19 tháng 9 năm 1918) được đa số nghệ sĩ Bạc Liêu[10] và nhiều người đồng thuận hơn.

Nghi vấn

Ông Nguyễn Tư Quang, tác giả bài báo Thử tìm xuất xứ bài Vọng cổ cho biết:

...Thoát thai của bản nhạc vốn là bài thơ có dạng như là một bài phú 20 câu lấy nhan đề là Dạ cổ hoài lang. Bài này do một nhà sư có pháp danh Nguyệt Chiếu, không rõ họ tên thật, tu trong một ngôi chùa ở làng Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu. Bài Dạ cổ ra đời năm 1919...

Ý kiến này được nhà nghiên cứu Toan Ánh đồng thuận, ông viết:

Ở chùa Hòa Bình tỉnh Bạc Liêu, có một nhà sư pháp danh là Nguyệt Chiếu. Thấy nhà sư nho học uyên thâm với tư tưởng ẩn dật, người ta đoán chừng là một văn nhân chống Pháp trong thời Cần Vương, nay thất thời nên tạm lánh mình vào cửa Phật...Tuy đã đi tu nhưng vẫn mang nặng tình non nước…nên nhà sư mới đem tâm sự mình ký gủi vào bài từ, đề là Dạ cổ hoài lang. Và bài thơ này được ông Sáu Lầu phổ ra nhạc...[11]

Năm 1989, tại cuộc hội thảo ở Bạc Liêu, nhạc sĩ Trương Bỉnh Tòng cũng đã phát biểu:

Vào những năm 1950-1952, nhóm sưu tầm nghiên cứu dân ca và cổ nhạc Nam Bộ gồm nhạc sĩ Quách Vũ, Ngọc Cung và ông. Rất tiếc là lúc ấy ông Cao Văn Lầu đang bệnh không ra được vùng giải phóng. Nhưng cũng may là nhóm tài tử ở Long Điền có người biết rành cho hay ông Sáu đã dựa vào bài thơ của nhà sư Nguyệt Chiếu mà phổ nhạc. Nhạc của nó là sự kết hợp giữa hai bài Hành Vân và Xuân nữ.[12]

Nhưng qua tìm hiểu của ông Trần Phước Thuận ở Hội khoa học lịch sử Bạc Liêu, thì:

Ở Bạc Liêu chỉ có một nhà sư pháp danh là Đạt Bảo tự Nguyệt Chiếu (1882-1947), trước ở chùa Vĩnh Phước An sau dời về chùa Vĩnh Đức, hiện mồ mả của nhà sư nằm ở sau chùa Vĩnh Đức. Không có chùa nào mang tên Hòa Bình như các tài liệu trên đã ghi. Ông vốn là tiền bối về nhạc lễ cổ truyền nhưng ông chưa bao giờ làm thơ. Các đệ tử của ông hiện còn sống đều xác nhận như vậy và chẳng ai nghe thầy nói gì về bài thơ trên. Như vậy, cái thuyết cho rằng “ông sáu Lầu đã dựa vào bài thơ của nhà sư Nguyệt Chiếu để sáng tác ra bản Dạ cổ hoài lang năm 1919” là hoàn toàn không có căn cứ.[6]

Giá trị

Ông Trần Đức Thuận nhận xét:

Bản Dạ cổ hoài lang không dừng lại ở nguyên dạng như các bản nhạc cổ khác mà dần dần biến đổi hình thức, phát triển thành bản Vọng cổ làm thay đổi một phần lớn bộ mặt Cải lương. Đây cũng là điều tối ưu của nó, có lẽ là do tiếng nhạc du dương và lời ca bình dị rất hợp với người Nam Bộ; hình ảnh người chinh phụ ở đây đã hòa nhập thực sự vào cuộc đời thường, phản ảnh đúng tâm trạng yếu đuối của người phụ nữ khi xa chồng, nhất là trong những hoàn cảnh bắt buộc phải chia duyên rẽ thúy. Có lẽ chính cái "tính thường" này đã làm rung cảm người nghe...[7]

Thông tin thêm

  • Bài này được đưa lên sân khấu lần đầu bởi gánh hát Năm Tú ở Mỹ Tho, rồi sau đó được sử dụng rộng rãi, nhất là trong tuồng cải lương. Và cũng vì thế, bản Dạ cổ hoài lang được chuyển dần thành nhiều nhịp. Năm 1924, tăng lên nhịp bốn. Từ khoảng 1934 đến 1944, tăng lên nhịp tám. Từ khoảng 1944 đến 1954, Vọng cổ tăng lên nhịp 16. Từ 1955 đến 1964, tăng lên nhịp 32 rồi nhịp 64 từ năm 1965 đến nay.
  • Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ Dạ cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp hai. Bản Vọng cổ từ nhịp bốn trở đi, trên những chặng đường phát triển, thuộc công trình chung của tài tử bốn phương. Và ông tổ cải lương không phải là Cao Văn Lầu, vì bản Dạ cổ hoài lang chào đời năm 1918, trong khi sân khấu cải lương ra đời khoảng năm 1916[2].

[sửa] Chú thích

1.     ^ Hoài là nhớ, lang là người trai (ở đây là người chồng), hoài lang là nhớ chàng, dạ là đêm, cổ là trống, dạ cổnghe tiếng trống về đêm ( cổ, nghĩa là trống hoặc đánh trống).

2.     ^ a b Cao Văn Lầu có phải ông tổ ngành cải lương?, Báo Thanh Niên. Truy cập 19-10-2008.

3.     ^ Năm 1978, ông Sáu Lầu có lên Sài Gòn, trú tại nhà ông Hai Ngưu

4.     ^ Bản Dạ cổ hoài lang (nhịp 2) đã ra đời như thế nào?

5.     ^ Theo ông Trần Đức Thuận (sách đã dẫn bên dưới): vì quá nhớ thương, vợ chồng ông thi thoảng vẫn lén lút gặp nhau, chứ hai người chưa chính thức xum họp. Xem thêm Cao Văn Lầu.

6.     ^ a b Trần Phước Thuận, Bàn về thời điểm ra đời và nguồn gốc của bản Dạ cổ hoài lang,in trong Nam Bộ - Đất và Người tập 2, Nxb trẻ, 2004, tr 266-271.

7.     ^ a b Trần Đức Thuận, Cuộc đời Cao Văn Lầu và nguyên nhân ra đời bản Dạ cổ hoài lang, in trong Nam Bộ - Đất và Người, tập 2, NXB Trẻ, 2004, tr.259-265.

8.     ^ Năm 1919 là năm đổi tên Dạ cổ thành Vọng cổ. Ý kiến này được nhà thơ kiêm soạn giả cải lương Kiên Giang đồng thuận (Báo Long An, ngày 18 tháng 7 năm 1986). Tuy nhiên, theo bài viết trên báo Thanh Niên (dẫn bên trên), thì: Trên những chặng đường phát triển, khi "Vọng cổ hoài lang" được nâng lên nhịp 8 (từ khoảng năm 1934 đến 1944) thì nó có tên mới là Vọng cổ, không còn đuôi "hoài lang".

9.     ^ Gs. Hải còn cho biết thêm: Vào năm 1920 ông Sáu Lầu mới dùng cây đờn cò để sáng tác bài "Hoài Lang" (nhớ tới người yêu của mình). Sau đó ông Sáu Lầu mới đờn bài này cho ông Tần Xuân Thơ (gọi là Thống, thầy tuồng của gánh Tân Minh Kế ở Bạc Liêu) nghe. Chính ông Tần Xuân Thơ viết lời cho bài "Hoài lang" được sửa lại là "Dạ Cổ hoài lang", nhịp hai. Khi hát cải lương thành hình trong thập niên 20, bài "Dạ Cổ hoài lang" được các ông thầy tuồng đưa vào các vở cải lương và dần dần thay thế bản Tứ đại oán. Xem thêm phần Thảo luận.

10. ^ Ở Bạc Liêu từ nhiều năm nay, đang lưu hành trong giới đàn ca tài tử một bài Văn Thiên Trường (đủ ba lớp) nhan đề là “Cuộc đời Cao Văn Lầu”, trong đó câu 7 và câu 8 như sau: Bản Dạ cổ hoài lang thương nhớ mơ màng, gan vàng khắc sâu. Chẳng bao lâu trong tim người nhụy nở hoa khai, bực sắc tài nào dễ mấy ai, năm một ngàn chín trăm mười tám chính thức ra đời...

11. ^ Toan Ánh, Tìm hiểu nghệ thuật cầm ca, NXB Đồng Tháp, 1998, tr. 207-208.

12. ^ Từ Dạ cổ hoài lang, Nxb Mũi Cà Mau, 1992, tr.52-53.

(từ điển mở)

 



Chỉnh sửa lại bởi Hoang_Ngoc_Hung - 05/Mar/2009 lúc 10:14pm
hoangngochung@ymail.com
IP IP Logged
Hoa Hạ
Senior Member
Senior Member
Avatar

Tham gia ngày: 19/Jan/2009
Đến từ: Vietnam
Thành viên: OffLine
Số bài: 968
Quote Hoa Hạ Replybullet Gởi ngày: 08/Apr/2009 lúc 9:56pm


Vọng Cổ Buồn

Tiếng Hát Cẩm Ly



Trời mưa không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu
Cuộc tình không lớn lắm
Nhưng chiếm hết đời nhau.

Hoa Hạ

IP IP Logged
Gởi trả lời Gởi bài mới
Bản in ra Bản in ra

Chuyển nhanh đến
Bạn không được quyền gởi bài mới
Bạn không được quyền gởi bài trả lời
Bạn không được quyền xoá bài gởi
Bạn không được quyền sửa lại bài
Bạn không được quyền tạo điểm đề tài
Bạn không được quyền cho điểm đề tài

Bulletin Board Software by Web Wiz Forums version 8.05a
Copyright ©2001-2006 Web Wiz Guide

This page was generated in 0.176 seconds.