![]() |
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() |
Lịch Sử - Nhân Văn | |
![]() |
![]() |
![]() ![]() |
Trang of 2 phần sau >> |
Người gởi | Nội dung |
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() Gởi ngày: 14/Mar/2009 lúc 2:53am |
Ðịa linh nhân
kiệt
Ðã từ lâu chúng ta vẫn thường nghe mọi người nhắc nhở và bảo rằng : Gò Công mảnh đất của Địa linh nhân Kiệt . “Ðịa linh nhân kiệt”: Nhóm từ này thật ra không có gì khó hiểu , nó thường được dùng để nói về một nơi chốn nào đó,chốn đã sản sinh ra nhiều người tài giỏi. Khoan, khoan, bạn đừng vội rầy tôi “Tưởng gì, điều đó ai mà không biết, có vậy mà cũng nói”. Tôi chưa nói hết mà bạn. Ðã đành ai cũng biết như vậy, nhưng có ai thử ngồi suy nghĩ tại sao, địa - đất đai, chỗ này linh mà chỗ kia không linh, cái gì đã khiến cho địa linh, và địa linh thì có liên quan gì đến nhân kiệt ? . Nếu như có người hỏi rằng: Này bạn, nghe nói ngôi chùa cổ cả ngàn năm kia linh ứng lắm hay là nghe nói miễu bà chúa Y, X… thiêng lắm,ai muốn mua may bán đắt đến mượn tiền ấy về đầu tư sẽ được như ý, hoặc giả chùa Ông của người Hoa vốn thờ ông Quan Công, mà ông Quan Công này chết đến nay gần hai ngàn năm rồi nhưng người Hoa họ vẫn cứ tin là ông ta hiển linh nên mỗi khi cần thương lượng về hợp đồng thương mại người Hoa thường kéo đến chùa Ông thương lượng và ký kết, theo sự hiểu biết của bạn, bạn có tin điều này không? Ngày nay con người dần dần nhận ra rằng, cái gọi là linh khí, hào quang chính là trường năng lượng của con người được ý nghĩ chỉ huy .Trường năng lượng sinh học(một tên gọi nôm na khác là Nhân Ðiện) này có thể thẩm thấu vào khoảng không và vào mọi vật thể, nó vừa có tính điện từ lại vừa không có tính điện từ .Thực nghiệm đã chứng minh con người có thể hấp thụ năng lượng ở trường vũ trụ lại vừa có thể bức xạ năng lượng vào trường vũ trụ. Thế nhưng trường năng lượng sinh học của con người mạnh hay yếu tùy thuộc vào thể chất và chức năng sinh lý của từng ngưòi, đặc biệt liên quan mật thiết với trạng thái tinh thần của mỗi cá nhân. Tóm lại, việc nghiên cứu và đo đạc trường sinh học chứng minh rằng trong cơ thể con người có tồn tại một trường năng lượng chịu sự chỉ huy của ý nghĩ của mình, có tồn tại mối quan hệ giữa cơ thể, trạng thái tinh thần và các tín hiệu của trường năng lượng vũ trụ.Trường nhân thể là sự thể hiện những đặc trưng của một loại năng lượng vạn năng; loại năng lượng này gắn chặt với sự sống của con người; nó được mô tả như một vật phát sáng,vật phát sáng này bao bọc và xuyên qua cơ thể con người, đồng thời phát ra những bức xạ vốn có riêng của nó, loại năng lượng này có thể làm cho con người tương tác với nhau trong một khoảng cách nhất định. Ảnh hưởng của ý niệm đối với khí rất to lớn và là nguyên nhân quyết định sự việc. Ý niệm được chia thành hai loại: Thiện và ác, ác niệm có thể dẫn đến độc hại. Người ta đã làm một thực nghiệm về tâm lý và phát hiện rằng: Khi con người có mầm mống ác niệm thì về sinh lý có thể gây ra sự thay đổi hóa học và làm cho một loại dịch thể nào đó chuyển hóa thành độc tố xâm nhập vào các bộ phận của cơ thể con người, từ đó ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Ðiều đó đã được chứng minh qua thí nghiệm như sau: Ðặt một ống thủy tinh cho đối tượng thí nghiệm hít thở vào thiết bị làm lạnh, hơi thở đó gặp lạnh thì ngưng kết ở thành ống. Nếu tâm lý người làm thí nghiệm bình thường thì nước ngưng kết ở thành ống thủy tinh sẽ trong sáng, không có màu sắc. Nếu tâm lý người làm thí nghiệm có sự tức giận, sợ hãi, đố kỵ, oán hận…Thì hơi nước ngưng kết có những mầu sắc khác nhau. Qua phân tích về hóa chất cho thấy trong đó có cả những chất độc hại có thể dẫn đến chết người.Tụ khí khi đố kỵ có thể gây độc làm chết một con chuột. Trái lại, ý niệm lương thiện có thể nâng cao được sức miễn dịch của cơ thể. Ðiều này có thể chứng minh thuyết “ Tướng tùng tâm sinh, tướng tùng tâm diệt” về mặt thể lý Người ta lại dùng một thiết bị có lắp các tế bào quang điện khuếch đại để quan sát trường năng lượng của cơ thể người trong phòng tối. Trong lúc tham gia thực nghiệm, những người lo sợ hồi hộp, các tín hiệu thu được cho thấy trường năng lượng tăng cường rất ít, thậm chí có khi còn thu được giá trị âm, trở thành người “năng lượng thấp” hoặc “hấp thu năng lượng” và lẽ tất nhiên năng lượng mà họ hấp thu sẽ cùng một loại với năng lượng của cơ thể họ đang có,nghĩa là ảnh hưởng xấu cho trường khí cơ thể, còn một số ít người tham gia thực nghiệm với thái độ tích cực phối hợp, tư tưởng nhập tĩnh cao độ thì trường năng lượng tăng cường rõ rệt,và trường năng lượng mạnh mẽ này có tính cách bức xạ và khống chế, khuất phục được những trường năng lượng yếu kém chung quanh, chính vì vậy mà khi đến viếng thăm chùa chiền, Phật tích hoặc gần gủi với những bậc tu hành chân chính đạo cao đức trọng, ta cảm thấy tâm tư nhẹ nhàng, thoải mái, bình an là vì trường năng lượng tốt đẹp to lớn mạnh mẽ của các nơi chốn ấy, của các ngài đã tác động lên chúng ta .Và cũng chính vì vậy nếu như các bậc tu sĩ ấy vì một lý do nào đó phải hoàn tục và ra làm thương mại thì rất dễ dàng và mau chóng thành công. A ! Như vậy coi như tạm xong phần phong thủy nhưng cũng có liên hệ đến khoa học rồi đấy bạn ạ. Nhưng bạn vẫn còn thắc mắc rằng cái này có dính dấp gì tới chuyện linh không linh phải không ạ ? Rõ ràng là có chứ sao không . Này nhé, đã bảo là ý nghĩ của con người sẽ tác động lên trường năng lượng nhân thể khiến cho nó có thể mạnh hay yếu hơn có phải không.Một con người trong lúc thành tâm thành chí có phải là một hình thức “điều tâm” không? Phải quá đi chứ. Mà con người khi đã đi đến chùa miếu để cầu xin van vái điều gì đó tất nhiên là phải có lòng tin mới đi chứ.Khởi đầu những nơi chốn linh thiêng đó thật sự cũng có một vài hiện tượng linh ứng xảy ra bởi trường năng luợng còn tồn tại đâu đó của những vị tu hành đạo cao đức trọng đã rời bỏ thế gian khiến cho con người sinh lòng tin tưởng. Chính cái lòng tin của một người,hai người,ba người khi đến đó để cúng bái,cầu xin đã tạo ra một trường năng lượng mới vừa thẩm thấu vào không gian quanh đó lại vừa tác động trở lại vào trường năng lượng của cơ thể con người,khiến con người cảm thấy có điều ứng nghiệm xảy ra, trường năng lượng mới này dần dần được khuếch tán mạnh mẽ hơn bởi vì ai đến đó cũng mang niềm tin đến và khi ra về cũng mang theo về ít nhiều năng lượng đã thu nhập từ nơi đó, trải qua ngày tháng chất chồng trường khí của những nơi thờ phượng đó trở thành linh thiêng ,thậm chí có những vật vô tri cũng được thẩm thấu trường năng lượng bởi sự va chạm lâu dài thí dụ như quyển kinh, cái chuông cái mõ chẳng hạn, đó cũng là một hình thức nén khí mà đôi khi người ta dùng những vật đó để trừ tà rất là hiệu nghiệm. Do đó ta có thể kết luận rằng những cuộc đất được con người khai thác ,sống chết với nó càng lâu càng dài sẽ có những điều kiện phong thủy sản sinh ra con người tài giỏi nhiều hơn những cuộc đất mới khai thác.Và con người được sinh ra, lớn lên trong môi trường đất đai có trường khí linh thiêng, ngay từ khi còn trong bụng mẹ đã hấp thu được cái trường năng lượng tốt rồi thì không vượt bực hơn những người ở nơi khác sao được.Và còn điều đáng nói nữa là trường khí hay nôm na là sóng có tính chất thu hút những dạng sóng khác cùng tần số với nó(Ðồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu).Dựa theo những khám phá trên,một con người sau khi rời bỏ thế gian thì mới đầu cái trường khí vẫn còn đó,trường khí này không có vật chất để trụ vào thì theo khuynh hướng tự nhiên nó dễ dàng bị thu hút,kết nạp vào những vật chất có cùng dạng sóng bao bọc. Trường khí thanh, nhẹ do bởi con người lúc còn sống có nhiều thiện niệm thì được thu hút đến những vùng,nơi, vật chất có trường khí thanh, nhẹ giống như nó. Trường khí ô trọc, nặng nề do bởi con người lúc còn sống có nhiều ác niệm thì cũng sẽ bị thu hút vào những vùng, nơi,vật chất có trường khí nặng nề như nó.Nguyên lý này có thể giải thích thuyết nhân quả bởi vì đã đành con người nhận chịu cái quả xấu là do gieo nhân xấu,bản thân người đó sẽ nhận lãnh quả báo về sau (có thể là kiếp khác), nhưng vì hành động không thiện làm cho trường khí bị ảnh hưởng và nó thu hút những trường khí cùng loại đến phát tác vào những vật chất chung quanh bắt đầu thành tựu nơi đó chẳng hạn như con,cháu, thế hệ sau của người đó, và khi thế hệ sau đó nhận chịu những hệ quả xấu mà chính bản thân thế hệ sau đã gieo nhân trong quá khứ thì người làm cha mẹ, ông bà của thế hệ sau có thể dửng dưng được hay không ? Người của thế hệ trước nhận cái quả gián tiếp và người thế hệ sau nhận cái quả trực tiếp . Ðiều kiện phong thủy đã đành là cũng lệ thuộc dáng núi hình sông mà un đúc nên những loại trường khí tốt cho lãnh vực này hay lãnh vực khác nhưng nếu không có cái nhân tốt để cho trường khí tốt có cơ hội thẩm thấu vào và phát triển mạnh mẽ hơn thì làm gì địa mà linh cho được. Ta phải nhìn nhận một điều rằng đất đai miền Bắc và miền Trung ,nhất là miền Bắc , là đất cũ lâu đời, con người sinh sống ở đó, trường khí trải ra đó quanh đi quẩn lại đã hơn cả ngàn năm, biết bao anh hùng hào kiệt đã được sinh từ đó và cũng đã được vùi lấp trở lại mãnh đất đó thì không trách gì người Bắc,người Trung dễ dàng thăng tiến trên mọi lãnh vực. Tuy là vậy nhưng cũng không có nghĩa là những miền khác không sản sinh được nhân kiệt, điều này còn phải xét điều kiện trường khí của từng gia đình, giòng tộc nữa. Cho nên cũng không lấy làm lạ khi một gia đình nếu kém phần âm đức mà có được một ngôi đất tốt thì cũng trở thành vô dụng ,đôi khi còn bị phản tác dụng nữa là khác. Còn tiếp Nguồn tvvn. Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 14/Mar/2009 lúc 3:18am |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Tại sao có và tại sao không? Theo bạn, bạn nghĩ thế nào? Riêng đối với tôi, tôi sẽ trả lời rằng: “Tôi tin chốn ấy quả là có linh thiêng, vì sự thật hiển nhiên, không linh thiêng thì ai mà đem tiền bạc của cải đến để dâng cúng, không phải chỉ có một hay hai người, mà hàng trăm, hàng ngàn người, từ năm này qua năm khác,kéo dài cả trăm năm rồi cả ngàn năm, nhưng mà tôi không tin có một linh hồn của ông Quan Công hay linh hồn của bà Chúa Xứ hoặc là một Phật ông, Phật bà nào còn tồn tại mà ở mãi trong ngôi chùa, ngôi miếu đó để phù trợ cho nhân gian cả. Nói như vậy không có nghĩa là tôi phỉ báng thánh thần mà trái lại tôi vẫn tin cõi đời này có rất nhiều loại chúng sinh như lời Phật dạy”. Hơn nữa, bạn vẫn biết rõ rằng đức Phật không hề giáng họa hay ban phước cho ai cả,hoạ hay phước là do con người tự gieo và gặt lấy. Bạn sẽ hỏi tôi: “Ồ, nếu bạn nói vậy thì làm sao linh,cái gì khiến cho cuộc đất , ngôi miếu, ngôi chùa đó trở nên linh ứng?” Hì hì, tôi sẽ kéo tay bạn lại, ấn bạn ngồi xuống ghế đây, rồi ta từ từ phân tích,bạn sẽ hiểu ngay, đơn giản lắm thôi. Ờ mà muốn giải thích cái này, tôi xin phép bạn cho tôi nói lan man qua lãnh vực phong thủy chút xíu. Tôi thật cũng không phải là người am tường về môn phong thủy đâu, chẳng qua mới bắt đầu nghiên cứu chút đỉnh mà chơi thôi,và đây cũng chỉ là những vấn đề căn bản ai cũng biết, không cần phải là người chuyên môn mới hiểu .Và tôi cũng chỉ là căn cứ vào sách vở mà tôi được đọc thêm thắt chút suy luận của riêng tôi thôi, bởi vậy cũng chưa chắc là tôi đã đúng, đem nói với bạn thì cũng không ngoài mục đích …mời bạn …suy luận tiếp tôi. Ơ, mà nói cái này lại có dính dấp tới …khoa học nữa rồi. Ậy, bạn đừng có sốt ruột,nói chuyện này giống như vừa nhâm nhi vừa nói chuyện trên trời dưới đất, trúng …đâu thì… trúng vậy mà. Sở dĩ tôi phải nói lòng vòng một chút là tại vì vắn tắt quá thì bạn sẽ khó hiểu ý tôi bởi nếu đi xa hơn, rộng hơn một chút thì nó lại còn có …bà con với cả ba nhà Phật, Khổng và Lão nữa đó bạn à . Này nhé,hiện tượng trước mắt rõ ràng nhất là bạn đang xử dụng máy vi tính và bạn đã bấm chuột vào đúng võng trạm này, võng đàn này, võng mục này thì máy bạn mới hiển thị được những dòng chữ này phải không ? Như vậy có nghĩa là bạn đã tìm đúng tần số thích hợp trên cái mạng lưới sóng mênh mông rồi chứ gì. Nghĩa là khoa học đã áp dụng những nguyên lý của sóng mà phát chế ra đủ thứ phương tiện cho đời sống. Tóm lại không tin có sóng là không nói chuyện được đâu đó bạn. Xong rồi đấy nhé, bây giờ ta quay sang phong thủy. A ! Cái món phong thủy này mới dài dòng đây, nhưng mà bạn đừng lo,tôi sẽ cố gắng tóm tắt rất gọn để cho bạn dễ dàng thấy được vấn đề chính yếu mà tôi muốn trình bày. Khi nói đến phong thủy thì phải nhìn nhận cái “hạt nhân của phong thủy là khí thời xưa,trường thời nay”. Vậy khí là gì đây. Khí, thật ra nó chỉ là một loại vật chất tất cả những người bình thường không sao nhìn thấy được.Người xưa chia vật chất thành hai bộ phận, một bộ phận là “hình” có thể nhìn thấy được,sờ mó được; một bộ phận khác là “khí” không nhìn thấy,không sờ mó được nhưng vẫn tồn tại một cách khách quan. Nói một cách bao quát, đại khái hơn một chút là “hình” và “khí” là hai hình thức biểu hiện của cùng một loại vật chất, “hình” và “khí” có thể chuyển hóa lẫn nhau, tụ thì thành “hình”,tán thì hoá “khí”.Nên nhớ khí đây không phải là không khí mà ta thở ra hít vào mỗi ngày đâu nhé.Trung y gọi “khí” là vật chất tinh vi, Ðạo gia gọi “khí” là vật chất cực nhỏ nên có thể chuyển động được.(Một Ðạo gia sớm có vũ trụ quan – Trang Tử - cho rằng “Bản nguyên của muôn vật trong trời đất là KHÍ là ÐẠO.) Cái quan niệm “ tụ thì thành hình,tán thì hoá khí” của người xưa gần đây được nhìn nhận phù hợp với kết quả của các công trình nghiên cứu vật lý đã tìm thấy rằng vật chất tồn tại dưới hai hình thái: một là dưới dạng thực thể do hạt cơ bản tạo thành,hai là dưới dạng trường mà cảm quan của con người không sao phát hiện được. Cần chú ý rằng, đây là hai mặt của cùng một sự vật, hình thể và trường luôn gắn chặt với nhau, trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hóa lẫn nhau. Do trường động sẽ thành sóng( chẳng hạn trường điện từ dao động sẽ thành sóng điện từ) vì thế trường và sóng thật ra là một. Và mọi vật chất hiện hữu trên thế gian này đều có trường khí bao bọc, hay đúng hơn là một dạng sóng nào đó bao bọc. Ở con người nó được gọi là trường nhân thể. Các công trình nghiên cứu khoa học đã cho hay ở ngoài cơ thể chúng ta quả có bộ áo trong suốt giống như sương mù, mắt không nhìn thấy, tay không sờ thấy,gồm có ba lớp tưa như áo lót, áo mặt trong , áo khoác ngoài vậy. Ðương nhiên bộ áo này chỉ có những người có công năng đặc dị hoặc đã khai mở “thiên mục” là có thể nhìn thấy, còn “người trần mắt thịt” phải dựa vào các thiết bị vật lý mới có thể nhìn thấy được.Ðó chính là trường khí của con người, là trường nhân thể. Trường nhân thể có nhiều điểm đặc biệt hơn trường khí của các loại vật chất khác mà đặc điểm rõ rệt nhất là tính có thể điều khiển được nó,nghĩa là có thể dùng ý thức điều khiển khí, một đặc điểm khác là tính hữu cơ của nó, nghĩa là nó được sản sinh ra từ tế bào,acid amin, protein, nhân tế bào đặc biệt là từ mã di truyền AND, acid dezoxibonucleic. Trường nhân thể hay gọi tóm tắt là trường khí này có chứa một năng lượng mà các nhà nghiên cứu gọi là trường năng lượng nhân thể hay trường năng lượng sinh học có thể đo được bằng máy móc. Các nhà khoa học đã dùng ống nhân quang(photomultiplier)và kỹ thuật xử lý ảnh vô tuyến đã ghi lại được trường năng lượng sinh học bao quanh cơ thể con người. Ðiều đáng nói là các quan sát thực nghiệm đã cho thấy sự biến đổi cường độ của trường này có liên quan đến tâm lý và tình hình sức khỏe của cơ thể. Trạng thái tâm lý đề cập đến ở đây chính là khâu “Ðiều tâm” trong khí công. Các kết quả cho thấy trạng thái tâm lý của những người có trường năng lượng tương đối mạnh phù hợp với yếu lĩnh điều tâm của khí công . Nhất là có những người trường năng lượng tồn tại kéo dài sau 15 – 20 phút mới mất. (Việc phát hiện ra hiệu ứng lưu giữ trường năng lượng sinh học này giúp ta hiểu được cái bí mật che phủ cách chữa bệnh bằng bùa ngải trong y học cổ truyền Trung Quốc,cách yểm bùa trừ tà của Ðạo Gia, những công phu thượng thừa và những công năng đặc dị trong khí công. Nguồn tvvn Hoa Hạ sưu tầm . Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 14/Mar/2009 lúc 3:19am |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Gò Công hôm nay thuộc về tỉnh Tiền Giang. Thời Tự Đức là một
huyện của tỉnh Gia Định (huyện Tân Hòa), thời Pháp thuộc qui hoạch làm
một tỉnh kèm theo cơ chế với tòa Bố, tòa Án. Dầu phân bố về mặt hành
chánh như thế nào, du khách đến Gò Công cũng nhận là một khu vực độc
đáo, với dòng họ xưa, nếp sống thuần VN, nhiều nhân vật nổi tiếng về
khoa bảng.
Đất giồng cao ráo ven biển thuận lợi cho người từ miền Trung đến bằng đường biển dễ dàng. Vàm Láng phải chăng đặt tên ấy vì thời xưa đã mọc lên nhiều lán trại, dành cho ngư dân, không phải vì bãi biển trơn láng, kiểu giải thích gượng ép. “Gò” là vùng đất cao ráo. “Công” là con công đến đậu, loài chim đẹp, thích múa, xòe lông đuôi. Ở Thủ Đức (thành phố ************) có một nơi cũng gọi Gò Công, nhưng Gò Công của Thủ Đức là Gò Công Trao Trảo, tên một loài chim rừng. Gò Công khá thuận lợi để giao lưu với Sài Gòn, chỉ cần qua chiếc phà Cầu Nổi là đến . Thời Pháp mới đến, đồng bào ta ngạc nhiên vì kỹ thuật của Tây Phương, bến phà có thể dâng lên hay hạ xuống theo nước lớn ròng chớ không ở mức cố định. Gò Công được nổi danh là “địa linh nhân kiệt” từ xưa, với Võ Tánh. Viên tướng gan lì. Gò Công còn được lợi thế là lúa gạo ngon, sản lượng cao, vì vậy quân sĩ của Võ Tánh tha hồ luyện tập trong thời gian dài. Trận đánh lớn nhất là trận Hổ Cứ, vùng Tòng Sơn, nay thôn Sa Đéc. Và trận sau chót là việc tử thủ thành Bình Định (Qui Nhơn), nơi tập trung lực lượng mạnh nhất của Tây Sơn để bao vây. Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tử tiết, Võ Tánh ngồi trên giàn hỏa, chung quanh chất sẵn thuốc súng rồi tự quăng tàn thuốc cho cháy. Sau đó, Ngô Tùng Châu uống thuốc độc tự tử. Việc “tử thủ” này thừa lúc binh hùng tướng mạnh của Tây Sơn gom về Bình Định, Nguyễn Ánh tức tốc đưa quân ra Huế dễ dàng. Nhờ đó Võ Tánh được sử gia nhà Nguyễn xem như một trong ba “người hùng” của đất Gia Định xưa. Ở ấp Gò Tre, xã Long Thuận hãy còn miễu thờ Võ Tánh, đánh dấu nơi tụ nghĩa. Vì tự thiêu, phần hài cốt không được nguyên vẹn, một phần tro thờ ở Bình Định, phần khác đưa về Gia Định xây lăng mộ, tại quận Phú Nhuận, đáng chú ý là nơi đây miếu thờ và lăng mộ khá đẹp, kiến trúc đơn giản mà uy nghi. Có người đặt giả thuyết tại lăng ở Phú Nhuận, tro của Võ Tánh được nhồi trong sáp, dùng sáp ấy nắn hình người rồi đặt trong quan tài. Di tích lịch sử mà mọi giới, luôn cả người Tây Phương thích tham quan là lăng miếu của anh hùng miền Nam là Trương Định. Trương Định gốc Quảng Ngãi, là con quan lãnh binh, vào Gò Công lập đồn điền để khẩn hoang vùng đất thấp ven biển. Ông có tài tổ chức, đồn điền của ông là khuôn mẫu hoàn chỉnh thi hành chính sách “tay giáo, tay cày”, “động vi dân, tịnh vi binh”. Người khẩn hoang lúc rảnh rang lo luyện tập quân sự, kiểu dân quân, nhằm canh giữ trộm cướp và chống ngoại xâm. Hằng năm, khi thao dượt, dân đồn điền từ các tỉnh qui tụ về Sài Gòn, dân đồn điền Gia Thuận của Trương Định luôn luôn được khen ngợi. Pháp đánh Sài Gòn, Nguyễn Tri Phương xây lũy Chí Hòa để chống giữ với sự đóng góp công lớn của Trương Định. Dân đồn điền của Trương Định quấy rối giặc, sau khi đồn Chí Hòa thất thủ tại Trường Thi (nay là Nhà Văn hóa Thanh Niên, đường Phạm Ngọc Thạch), và ở khu vực đường Cách Mạng Tháng Tám (Bộ Tư lệnh Thành) như bài văn tế của cụ Đồ Chiểu, xác nhận, gọi là “mô súng” nơi quân sĩ thời Tự Đức tập bắn. Trương Định rút quân về Gò Công, bấy giờ gọi huyện Tân Hòa, củng cố hàng ngũ, đoán chắc sau khi chiếm Mỹ Tho, giặc sẽ chiếm vùng lõm Gò Công. Ông bố trí súng đại bác, đắp nhiều vật cản trên sông rạch, ngừa tàu chiến lớn nhỏ của giặc len lỏi vào. Sau hai năm chống cự, lần chót nghĩa quân ta bị đánh, Trương Định bị giết (có giả thiết nói ông tự sát) vì sự phản bội của một thuộc tướng cũ là Lãnh binh Tấn, tên này rành địa thế vùng đầm lầy. Ông là người yêu nước nồng nhiệt, cuộc khởi nghĩa của ông nhằm chống đối việc triều đình Huế cắt đứt ba tỉnh miền Đông nhượng cho Pháp. Giặc đem phơi thây ông tại chợ Gò Công cho dân chúng xem, để xác nhận ông chết thật, đề phòng có người khởi nghĩa khác mượn uy thế ông, bảo rằng ông còn sống, để tiếp tục kháng chiến. Dĩ nhiên, giặc đành chôn ông tại chỗ, để canh giữ phần mộ cẩn thận. Suốt thời gian dài thực dân rất khó xử; mặc dầu chúng đề cao công lao của tên Việt gian Lãnh binh Tán, kẻ phản bội. Giồng Sơn Qui của Gò Công hình dáng con rùa được truyền tụng là huyệt linh thiêng. Sự thật như thế nào, không ai rõ ảnh hưởng của phong thủy, chỉ biết lúc sau này vì đất hẹp, dân đông nên về kinh tế người dân ở đây chẳng mấy ai khá giả. Giồng Sơn Qui là nơi phát tích của dòng họ Phạm Đăng Hưng, khi Nguyễn Ánh lên ngôi, lần hồi ông được thăng chức Lễ Bộ Thượng Thư, giỏi về chính trị và kinh tế. Khi mất, linh cữu đưa về Sơn Qui an táng. Con gái đầu lòng của ông là Phạm Thị Hằng, sinh ở Sơn Qui, được tuyển vào cung, là vợ của vua Thiệu Trị, bà sống đến 93 tuổi, chôn cất tại Huế. Ở Sài Gòn, có nhà hộ sinh đặt tên Từ Dũ, là tước vị của bà, khi là hoàng hậu. Bà được ngợi khen vì lòng hiếu thảo, lại biết dạy dỗ con là vua Tự Đức. Vua Tự Đức thích săn bắn, thường bị bà quở trách vì mỗi lần đi là quan lại và binh sĩ mất thời giờ theo phò trợ. Bà khuyên nhà vua bớt chuyện sát sinh. Con thú săn được nếu bị thương, chưa chết thì bà chăm sóc rồi “phóng sinh”. Trong cung, hôm ấy có ổ kiến bò lúc nhúc, bà nói với lũ kiến: “Mau tìm nơi khác mà ẩn thân, bằng không bọn nữ tỳ dội nước sôi giết sạch”. Lũ kiến như “biết nghe”, lập tức dời đi nơi khác. Bà đọc kinh sử, xem tích xưa dạy vua Tự Đức. Hôm ấy, vì ham mê săn bắn ở khu rừng gần Huế, gặp cơn mưa, vua và các quan trở về ướt át. Bà dạy đem đến cây roi mây; nhà vua như biết mẹ đang giận bèn nằm xuống chịu tội. Nhưng bà hất cây roi, nói với Tự Đức: - Lần này, ta tha tội cho. Chuyện vui chơi mà làm phiền nhiều người, nãy giờ mẹ cứ nóng lòng chờ đợi. Rủi nhuốm bệnh thì sao? Đừng ham vui như vậy nữa. Đặt tên bà cho nhà Hộ Sinh, ngụ ý nhắc đến phận sự của người mẹ khéo dạy con. Khu lăng mộ của họ Phạm được bảo quản tốt, thời nhà Nguyễn, cử người chăm sóc (gọi tự phu), nghi thức xây mồ mả được tôn trọng, to lớn theo cấp bậc. Nhờ vậy, giồng Sơn Qui được nổi danh với di tích lịch sử văn hóa này. Vua Thành Thái đã đích thân đến thăm khu mộ họ Phạm, vua là người yêu nước, cuộc viếng thăm đã động viên lòng yêu nước của người dân địa phương. Bấy giờ Nam Kỳ được người Pháp xem như một “nước” riêng, tách khỏi Trung Bộ, vua Thành Thái trong thực chất chỉ là vua tượng trưng, không quyền hạn. Người địa phương gọi đây là khu lăng mộ của “Thích Lý” theo nghĩa của bà con nhà vua. Thắng cảnh Gò Công rất ít, nhưng du khách không thể bỏ qua bãi biển Tân Thành, khá tốt, dành làm nơi nghỉ mát cho học sinh nhưng đồng bào mọi giới đến đây vẫn thấy thoải mái với biển rộng trời xanh, ít tốn kém mà được thưởng thức nhiều hải sản còn tươi. Từ đây, nhìn thấy núi ở Vũng Tàu. Gò Công ít xảy ra thiên tai, nhưng năm Giáp Thìn (1904) trận bão lớn từ biển khơi kéo đến thình lình, vào tháng 5 dương lịch, theo âm lịch là 16 tháng 3. Số người chết quá lớn. Mấy làng sát biển gần như 95% dân số. Nên nhớ bấy giờ vào mùa nắng hạn, đất ruộng còn khô cằn, nứt nẻ, chẳng ai đề phòng vì bình thường bão chỉ xảy ra vào cuối mùa mưa, tháng 9 hoặc tháng 10. Các nhà nghiên cứu khí tượng mãi đến nay đặt giả thuyết: Đó là loại “sóng thần”. Do động đất từ đáy biển ngoài khơi. Nước biển dâng lên đột ngột hơn 4 mét, sóng to tràn vào bờ, ngập nhà cửa, trong dân gian còn phổ biến bài vè về trận bão này, ảnh hưởng lây lan đến Mỹ Tho, Rạch Giá, tận Lộc Ninh, Hớn Quản miền Đông nhưng miền biển Gò Công lại là nơi đứng “đầu sóng ngọn gió”. Hôm ấy, có làng đang bày lễ Kỳ yên ở đình, mời gánh hát bội đến. Sau khi nước giật, người từ địa phương khác đến cứu trợ chợt phát hiện vài xác chết tận trên ngọn tre, nạn nhân còn áo mão, râu ria. Trâu bò chết, nước giật xuống, chẳng ai chôn, mùi hôi thối gây bệnh tật. Bọn cướp nọ đến nhà điền chủ, bao vây vòng ngoài, chờ xông vào “ăn hàng”. Bão nổi lên, dân làng hoảng sợ chỉ biết nơi tạm trú an toàn nhất là ngôi nhà vách tường của ông điền chủ. Dân chạy bão lụt quá đông, khi bọn cướp đến chỉ là thiểu số, chúng hoảng sợ, để rồi lát sau, phần lớn chịu chết, nếu không biết bơi lội giỏi, ở miền biển, ai mà chẳng biết lội nước, cái khó là khi giông bão nổi lên thì luôn luôn trời tối như mực, ngâm mình dưới nước lạnh suốt ba bốn tiếng đồng hồ, tay chân bủn rủn, lại thêm đói. Biết bơi lội giỏi cũng chết. Thời buổi nào cũng có dân bất lương, làm giàu nhờ cái chết của kẻ khác. Mười ngày sau, lắm kẻ từ vùng lân cận đến vơ vét nào vàng bạc trong tử thi, nào tủ cẩn xà cừ, nào bộ ván gỗ, đem công khai về xứ. Hằng năm, ở Gò Công vẫn giữ lệ Giỗ hội (giỗ tập thể), ngày 16 tháng 3 âm lịch để tưởng nhớ ông bà tử nạn hồi năm xưa. Với bề dày lịch sử, người Gò Công lần hồi biết tận dụng thế mạnh của mình về nguôn lợi thiên nhiên, nổi danh trong khắp Nam Bộ, có một thức ăn khó kiếm đó là mắm tôm chà. Dùng con tôm đất, lúc nhiều trứng, nhiều gạch son, bắt khi tôm chưa đẻ đem về cắt đầu, cắt đuôi, ngâm rượu, quết trong cối nhỏ, thêm gia vị muối ớt. Đến giai đoạn chà tôm, “chà” là động tác chà xát, chà trên cái rổ khá dày mặt (nay dùng rổ lưới sắt mịn), tôm rơi xuống như thứ bột lỏng, có màu đỏ, màu gạch tôm. Đem phơi nắng cho mớ bột ấy đặc lại, đề phòng ruồi bu mất vệ sinh, có thể sinh bệnh. Thời trước, tôm này đựng trong ve chai nhỏ, đậy nút kín, bán tận Sài Gòn. Vài người đem phết mắm tôm chà lên bánh mì, ăn như bánh trét bơ lạt. Lại còn món mắm tôm để nguyên con, cắt đầu, ngâm trong hũ có nước mắm nấu nước đường và hàn the, để nguội. Xong gài cho chặt, trước đó lót lá chùm ruột và mía lau xắt nhỏ dưới đáy hũ. Mười lăm hôm sau, ăn được, bày tiệc với thịt ba chỉ xắt nhỏ, rau sống, riềng, ăn với bún. Móm mắm tôm chua nguyên con này ở Huế vẫn phổ biến, bán giá cao, theo lời đồn đãi đáng tin cậy thì bà Từ Dũ, người Gò Công đã nâng niu đứa con là vua Tự Đức, bày món này để nhớ quê nhà, ra xứ Huế, được cải biến chút ít. Tôm khô ở Gò Công nổi danh, con nhỏ, dùng tôm đất ngon ngọt hơn thứ tôm ở biển Rạch Giá - Cà Mau nhiều. Là đất xưa với quan lại thời phong kiến cũng như thời Pháp thuộc, Gò Công được nổi danh với thú phong lưu “cầm” và “kỳ”. Cầm là nghề đàn ca. Tương truyền khi bà Từ Dũ còn sống, người địa phương tuyển chọn những nghệ nhân giỏi nhất đưa ra Huế để hòa tấu cho bà thưởng thức. Truyền thống ấy hãy còn trong giới cổ nhạc, họ giao lưu với các nhạc sĩ ở Cần Đước, cách một con sông mà thôi. Về cờ tướng, một thời đất Gò Công tự hào với lão sư “Giáo Bố”, tên thật Hà Quang Bố, làm giáo viên ở làng. Ông giáo về sau dời xuống Long Mỹ (nay Cần Thơ), gây phong trào cờ tướng. Ông là vô địch, đã từng thi đấu tại Chợ Lớn với những “kỳ vương” từ Hương Cảng qua, được thán phục vì tài biến hóa khi ra quân, dường như chỉ hòa đôi ba lần, những lần khác thì thắng, với tài hoa rõ rệt. Nghề truyền thống của Gò Công nay hãy còn nổi danh khắp Nam Bộ, được nhiều địa phương khác mô phỏng vẫn là đóng tủ thờ. Như ta biết, trước khi Pháp đến và sau đó trong thời gian dài, đồng bào ta gọi “giường thờ”, hiểu là cái giường mà người quá cố đã dùng lúc còn sống. Ở nhà trung lưu, giường là bộ ván nhỏ, trải chiếu, giăng mùng khi ngủ, ban ngày, vắt mùng lên, dùng làm nơi đọc sách, uống trà, đánh cờ hoặc đánh đàn với bạn bè. Khá giả hơn, giường có bốn cây trụ chạm trổ, khá rộng, có thể nằm... hút thuốc phiện với bạn. Khi chết, người nhà đem trọn cái giường ấy ra giữa nhà, đặt sát vách để thờ, theo quan niệm xưa: “Thờ người chết giống như người ấy còn sống”. Lần hồi, đơn giản hơn, đóng cái bàn nhỏ, bốn chân, trên mặt bàn cũng để cái gối, cái quạt, kỷ trà, gọi là “giường thờ”, bằng cớ là hãy còn câu hát: "Ngó lên, nhang tắt đèn mờ, Mẫu thân đâu vắng, giường thờ quạnh hiu!”. Để tiện việc thắp nhang, cúng kiến, phía trước cái giường thờ nói trên, đặt thêm cái bàn cao hơn, bên trên chưng bày hai chân đèn, một cái lư dành để đốt trầm (có nắp, thường là hình con kỳ lân), dưới nắp là những lỗ nhỏ để khói trầm xông lên thoang thoảng. Sau cái lư đốt trầm là cái lư cắm nhang, thêm bình bông, đĩa để chưng trái cây. Cái bàn thờ này cao hơn, đặt phía trước cái giường thờ thấp. Ngày giỗ, dọn thức ăn trên giường thờ phía sau. Với sự tiếp xúc với văn minh Tây Phương, lần hồi người trung lưu thấy cái bàn thờ chưng chân đèn và lư của ta còn thô, bốn chân lỏng khỏng, lắm khi phía trước che cái “quần bàn” vải đỏ thêu con lân, con phụng. Người Pháp cho du nhập kiểu tủ khá đẹp, phía trước không cửa, cửa bên hông, mặt tiền uốn cong, lắm khi hình hột xoài, hai bên là cột nhỏ, chạm những hột chuỗi. Ta mô phỏng lại, với vật tư quí giá của xứ nhiệt đới là cây cẩm lai, cây gỗ (hoặc thao lao). Dùng kiểu tủ này để chưng chân đèn và bộ lư trông sang trọng hơn, khi đủ tiền thì mặt trước của tủ dùng cây nu. Nu là dạng cây có tật, thớ cây trộn loại, xoáy tròn từng loại, đẹp nhất là nu của cây gỗ. Thợ mộc ở Gò Công được nổi danh nhờ áp dụng kiểu tủ Pháp (kiểu thời vua Louis XVIII) để làm tủ thờ, tức là cái bàn thờ cao ngày trước, đặt trước giường thờ. Và cái giường thờ ngày xưa lần hồi không còn, khi làm đám giỗ, thức ăn bề bộn thì dọn trên bộ ván, đặt trước cái tủ thờ. Người trong nghề mộc gọi kiểu tủ Pháp cải tiến ấy là “tủ Gò Công”, nghĩa là theo mô thức mà người thợ ở Gò Công sáng tạo trước tiên. Nghề đóng tủ nói trên, nhiều xã ở Gò Công có thợ, nhưng nổi danh nhất có lẽ ở thị xã Tân Niên Trung, Bình Xuân. Kiểu tủ này được mô phỏng về sau ở Lái Thiêu (Sông Bé), chợ Thủ (An Giang). Ngày nay, vẫn còn thông dụng, nhưng mặt trước không uốn cong, lại cẩn xà cừ, tuy nhiên vẫn còn dấu ấn của tủ Gò Công khi xưa: Phía trước không mở cửa, vả lại, gỗ quý ngày càng hiếm, thợ có tay nghề cao lần hồi không còn mấy ai, hàng tiêu dùng cần được tiêu thụ mạnh, giá thành càng rẻ càng tốt. Ghe hầu là nghề truyền thống của Gò Công. Ngày nay, nhắc đến TS hoặc giới trung niên ít ai tưởng tượng được hình ảnh cụ thể. Những năm đầu thế kỷ XX, ô tô chưa phổ biến, dưới sông còn tàu thủy chạy máy hơi nước rất cồng kềnh, phương tiện di chuyển của giới điền chủ, cai tổng hoặc hương chức làng xã vẫn dùng ghe cá nhân. Nhưng ghe của người sang trọng phải có gì lạ. Cần tiện nghi tối đa, đi nhanh, hình dáng hấp dẫn chứng tỏ người sử dụng thuộc vào tầng lớp quí phái. “Hầu” là đi hầu việc quan, theo nghĩa này là cấp dưới đi công tác, để gặp cấp trên, xin ý kiến, chờ quyết định. Hầu, là hầu hạ, hầu chực vì bộ máy phong kiến thực dân lắm khi tùy tiện. Đi ghe, gọn hơn đi bộ, đi võng như xưa thì quá cồng kềnh. Vả lại, địa hình ở Nam Bộ nhiều sông rạch, dễ gì nuôi ngựa, qua cầu khi mưa đường xa trơn trợt. Đường thủy bảo đảm nhanh nhất. Đây là kiểu ghe mô phỏng theo ghe của cai tổng, quan phủ thời phong kiến, cải tiến lại đôi chút. Vẫn là vàng son tráng lệ, ở xứ thuộc địa, chẳng có gì là cấm kỵ, miễn là đủ tiền. Mũi chạm đầu rồng, lái chạm chim phượng, nào kém gì vua chúa xứ Huế thời xa xưa. Để tăng tốc lực, ghe phải tương đối nhỏ, phía trước hai người chèo, phía sau hai người. Mui là công trình nghệ thuật, hình chữ nhật, cao ráo, nhưng muốn vào phải lom khom một tí để giữ thăng bằng cho ghe đừng chòng chành. Mui chạm nào hình con dơi, nào quạ, nào lẳng hoa tùy thích, kiểu “Bát tiên” trong thần thoại, hoặc hoa mẫu đơn, rồng, hoa cúc, tùy chủ nhân. Cửa trước cửa sau đóng kín được, tránh những cặp mắt tò mò, lắm khi đi hầu quan trên nhưng vì đường xa, mang theo hầu thiếp, bên hông, bố trí cửa sổ cho mát. Sạp ghe trơn láng, bằng phẳng, trải chiếu bông với gối nằm, gối dựa lưng, thêm ấm trà, cái bếp nhỏ nấu nước sôi, bộ đồ hút thuốc phiện. Gối thường là kiểu vuông, màu mè sặc sỡ, thêm cái bàn thấp, để ngồi xếp bằng mà viết. Nếu thuộc vào hàng cai tổng, bố trí thêm “lỗ bộ”, tức là những khí giới thời xưa, khi đi ra ngoài, quân sĩ vác chạy phía trước để dọn đường, nhưng đây là những món tượng trưng, nhỏ bé, cao hơn 2 tấc tây, nhằm trang trí trên cái giá nào đinh, chùy, đao, kiếm. Khi cần ăn cơm, bọn chèo ghe dừng lại, lên chợ mua thức ăn, xào nấu ở bếp nhỏ, phía sau lái. Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 14/Mar/2009 lúc 3:20am |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 14/Mar/2009 lúc 3:21am |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
xin được mạn phép trích một đoạn trong bài của tác giả thiennhan bên
diễn đàn tuvilyso.com về địa thế của miền đất miền nam yêu dấu, nhằm
tưởng niệm công lao của các bậc tiền nhân "Từ thuở mang gươm đi mở cõi"
"Từ Tuy Hòa tới cao nguyên Đà Lạt là vùng đất nở rộng của Nam Trường Sơn, đất đỏ vì núi lửa cổ đại tạo ra, sông nông mạch ngắn. Suốt dọc Trường Sơn núi dốc thẳng phía biển, thoai thoải phía Lào, sông chẩy giữa thung lũng hẹp, nhiều thác, chảy ra biển Đông mà không có sông nào dài bắt vào Cửu Long. Xét về phong thủy là đất âm, độc khí, không có trường mạch, hùng khí của núi cao không đủ quân bình với đất hẹp và sông ngắn. Riêng miền Cao nguyên đất nở rộng, có thể ẩn tàng những đại địa như đất Tây Sơn mà Lê Quí Đôn đã nhận thấy khi vào trấn thủ Thuận Hóa (1775). Sau khí mạch Trường Sơn, đất nước lại mở ra một đại địa mới với trường giang Cửu Long làm chủ mạch. Sông Cửu Long dài 4180 cây số, là một trong những con sông dài nhất thế giới, chẩy qua Lào, Miên, Việt 2700 cây. Cùng với Hoàng Hà và Dương Tử Giang, sông Cửu cũng phát nguyên từ cao nguyên Tây Tạng, mang lại cho Đông dương một khí mạch tương dương với Trung Hoa. Điểm đặc biệt của dòng sông này là đổ ra biển theo hướng Đông Nam (giống sông Missippsippi của Hoa Kỳ), cung Thìn, tượng trưng là rồng, vì thế cổ nhân gọi là Long và Cửu là cực số thành tượng trưng mức tiến hóa cao tột huyền diệu (không có nghĩa là 9 cửa sông), Cửu Long từ xưa đã được nhìn bằng nhãn quan phong thủy mà đặt tên tất là trường mạch đầy khí lực của Đông Nam Á. Miền núi Tây Ninh (900 m) làm tay long, miền núi Thất Sơn làm tay hổ , tại hai nơi này chấn phát lên hai giáo phái lớn. Núi Tây Ninh đột ngột nổi lên giữa đất rộng phẳng, có khí thế giống Tản Viên, Tam Đảo, Núi Hùng ở miền Bắc, có thể là huyệt kết của tả ngạn Cửu Long. Đất Saigon Gia Định nằm giữa 4 con sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, Sông Saigon, Sông Đồng Nai, bốn dòng sông này chẩy ra biển Đông như một vòng cung từ Vũng Tầu tới Gò Công, là đất kết phát. Nhìn chung, ưu điểm phong thủy địa lý miền Nam là sông dài, rộng, đất phẳng, triển nở sinh lực, cây cỏ tươi nhuận, nên là đất lành ít tai ương binh lửa, gọi là Phật địa cũng không ngoa. Vì sông nước êm đềm, núi thấp, nên âm thịnh, vùng Gò Công (đất Giồng Sơn qui) đã là đất phát vương hậu triều Nguyễn. Nếu nhìn rộng lên đất Miên, thủ đô Nam Vang nằm chính giữa ngã tư hai dòng sông lớn hội về là sông Cửu, sông B***ac, phía Bắc có Biển Hổ mênh mông với đại điểm Angkor Thom, Angkor Vat ở tả ngạn, khí mạch ở đây lớn mạnh không thua kém miền Nam Việt Nam, lại có thể có huyệt kết tả long hữu hổ hai bờ Biển Hồ. Tuy vậy rặng núi cao nhất cũng chỉ tới 1200 m. như núi Voi gần Phú Quốc, Hà Tiên, nên khí thế không bằng đại địa quân bình âm dương Việt Trì Hồng Hà. Chính ở đại địa long mạch Cửu Long mà hai ngàn năm trước đã phát khởi lên cường quốc Phù Nam, là cường quốc đầu tiên ở Đông Nam Á, lan rộng tới Lào, Quảng Nam về phương Bắc, bao cả miền Nam Việt Nam và Cao Miên bây giờ, lan sang Mã Lai ngày nay. Kế tiếp vương quốc Chân Lạp bành trướng lên tới Nam Chiếu, Hạ Lào, ngang ra biển Đông cũng là một vương quốc lớn mạnh một thời. Nền văn hóa Óc Eo, Angkor, mang dấu tích đế quốc Phù Nam, không thua sút văn hóa Trống Đồng của Việt Nam. Tuy Phù Nam suy tàn từ thế kỷ VI, Chân Lạp suy tàn từ thế kỷ XV, nhưng khí lực Cửu Long rất hùng viễn mạch trường thiên kỷ, nên đại địa này còn có chu kỳ hưng phát tương lai. So sánh với Đại Việt, cường quốc Phù Nam và Chân Lạp lúc thịnh thời có thể rộng lớn và qui phục nhiều tiểu quốc hơn. Đấy là nhờ khí lực long mạch Cửu Long đem lại. Tài liệu trên internet Hoa Hạ sưu tầm Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 14/Mar/2009 lúc 3:22am |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Nam Kỳ đất lành chim đậu ![]() Hồi năm 1918, nhà văn Phạm Quỳnh có vào thăm Nam Kỳ. Ông viết bài “Một tháng ở Nam Kỳ” đăng liên tục nhiều kỳ trên báo Nam Phong. Tuy có thái độ tự tôn, nhưng nhà văn Phạm Quỳnh cũng ngạc nhiên thấy mức sống của các ông Cai tổng, điền chủ, Hội đồng trong Nam quá cao, quá sung túc hơn những ông Tổng đốc, Tuần phủ, án sát ngoài Bắc. Các điền chủ lớn trong Nam là những ông vua nho nhỏ tại địa phương. Điền chủ có vài ngàn mẫu ruộng như một ấp riêng, có chợ riêng, hàng chục ngôi nhà nền đúc, có máy điện, máy lạnh, xe du lịch, ca-nô và tôi tớ hàng chục người phục dịch trong gia đình. Trong khi đó, nông dân, tá điền, những người góp phần làm cho họ giàu có chỉ có mỗi căn chòi lá ọp ẹp và chiếc xuồng ba lá... Chúng tôi không có thành kiến như cộng sản “Hễ nhà giàu thì bóc lột, là ác ôn, là trọc phú bất nhơn.” Giới nào cũng có người tốt kẻ xấu. Nhiều điền chủ có vài ba trăm công ruộng, đối đãi thân mật với tá điền như anh em, chỉ những người quá giàu thỉnh thoảng mới có người khắc khe. Thói thường “phú quý thì bất nhơn, còn bần cùng sanh đạo tặc gian trá.” Tá điền, nông dân làm mướn đáng thương mà các điền chủ cũng có khi không đáng trách. Lỗi ấy tại chế độ thực dân dung dưỡng. Thực dân muốn cho một số ít người thật giàu để họ trung thành và áp bức kẻ nghèo thay họ, giúp họ một cánh tay đắc lực trong việc nội trị. Bấy giờ, dưới chế độ cộng sản, người nông dân Việt nam còn nghèo khổ hơn vì nhà nước độc quyền mua sản phẩm, độc quyền bán phân bón, thuốc trừ sâu còn lại thu thuế rất cao. Nếu giàu quá ắt không khỏi mang tiếng bóc lột, mà con cháu sẵn của, ăn không ngồi rồi, sinh lắm thói hư tật xấu, cũng là một khía cạnh khác của xã hội đương thời. Các đại điền chủ ở Nam Kỳ hồi trước đều có hàng chục lẫm lúa. Mỗi lẫm là một dãy nhà liên kế, rộng 4, 5m, bề dài từ vài chục đến hàng trăm mét. Nhiều gia đình giàu quá, không biết xài cách nào cho hết tiền, nên con cái phung phí cũng là chuyện dĩ nhiên. Hễ cha kiếm tiền dễ thì con phải xài phá. Đó là định luật. Ít khi, nhưng vẫn có những người giàu biết nhân nghĩa, làm việc thiện. Hội đồng Đoàn Hữu Nhơn ở Bến Tre tặng nguyên một ghe chài lúa cho làng để cất trường học. Bà Huyện Xây ở Vũng Liêm, cứ mỗi ngày rằm lớn thường làm chay, phát chẩn, dựng rạp trước nhà để đãi người nghèo, hành khất... Không phải hễ phú quý thì tàn ác mà nghèo khổ là đạo đức, đáng thương hại tất cả. Trung thành với chủ trương từ trước tới nay, chúng tôi không phê phán công việc làm ăn của họ mà chỉ liệt kê, tìm hiểu. Một nguồn gốc của sự giàu sang phú quý khác, được cắt nghĩa bằng thuyết phong thuỷ. Tuy mơ hồ, nhưng hồi trước ai cũng tin vào thuyết này. Con người sống nhờ đất. Đất tạo ra của cải nuôi sống loài người. Con người không thể tồn tại nếu thiếu đất. Lịch sử Đông Tây kim cổ chứng minh rằng vấn đề ruộng đất là nguồn gốc mọi sự bất hoà trong mỗi gia đình, sự xích mích giữa dòng họ, sự tranh chấp trong làng xóm, láng giềng và là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh. Nói cho cùng, nguyên nhân gây ra hai cuộc thế chiến hồi đầu thế kỷ 20 này cũng chỉ là cuộc tranh chấp đất đai mà ra. Đất nào sinh ra người nấy. Thuyết phong thuỷ giải thích tại sao có “địa linh sinh nhân kiệt,? Theo quan niệm cổ, ông bà ta cho rằng cuộc đất linh thiêng do núi sông ùn đúc, đã sản sinh những anh hùng, hào kiệt. Đó là thế đất kết tụ khí thiêng sông núi, đồng bằng như một sự kết hợp hài hoà, mà những người am hiểu địa lý không thể biết được? Ngày nay, khoa học chưa tìm ra mối lương quan ấy. Tuy vậy các nhà doanh nghiệp, nhứt là ở Á Châu, mỗi khi tìm co sở thiết lập hãng xưởng, noi mở văn phòng, luôn luôn nhờ thầy địa lý tìm thế đất vượng phát. Cũng có khi gặp thế đất xấu, nhưng do nhu cầu làm ăn, họ phải “cải tạo bằng cách trấn yểm. Quan niệm về địa lý phong thuỷ còn giải nghĩa tại sao có những người hồi hàn vi lao đao khổ sở, không có cục đất chọi chim, mà chỉ trong một thời gian ngắn trở nên giàu có, trở thành những thế gia vọng tộc, dòng họ nhiều đòi hưởng phú quý. Trái lại, có những người đang giàu có, hưởng phú quý vinh hoa, làm ăn phát dạt, phút chốc sụp đổ, trở thành trắng tay. Viết được loạt bài này tôi mắc nợ ơn nghĩa nhiều người. Trong số đó có nhà văn và bạn đồng hương cũ Hồ Trường An, giúp chúng tôi rất nhiều tài liệu để bài viết được sống động, phong phú. Tôi xin chân thành cám ơn nhà văn Hồ Trường An. Chúng tôi xin bắt đầu từ tỉnh Gò Công. Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 14/Mar/2009 lúc 3:23am |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Trong bộ Nam Kỳ lục tỉnh, chúng tôi có nhắc đến Gò Công là nơi phát
tích các dòng họ quý tộc. Bài này chỉ kể đến các nhà giàu xưa. So với
các tỉnh nằm trong lưu vực giữa hai sông Tiền và Hậu Giang, Gò Công là
tỉnh nhỏ, đất hẹp, nhiều phèn và nước mặn, mỗi năm chỉ làm ruộng có một
mùa. Tuy nhiên theo nhiều ông già bà cả kể lại đó là một cuộc đất quý,
một thế đất “Long đầu phượng y” (đầu rồng, đuôi phượng). Ở đây người ta
thường truyền tụng hai câu ca dao:
Đầu rộng đuôi phụng le the, Mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con. Đối với người bình dân, đó là hai câu “thai đố” (xuất quả) tức buồng cau. Thực vậy, ít có nơi nào trên đất nước có nhiều địa danh “long phụng” như vùng Gò Công, Mỹ Tho, Bến Tre. Nào là Côn Rồng (cù lao Rồng) trước chợ cũ Mỹ Tho, Côn Phụng (nơi hành hương của ông Đạo Dừa). Theo thuyết phong thuỷ đã cắt nghĩa vị trí địa lý đắc lợi của tỉnh Gò Công như sau: “Đất Gò Công sở dĩ sản sinh nhiều bậc công hầu khanh tướng (Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng, Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào, bà Từ Dụ Thái hậu, bà Đinh Thị Hạnh, thứ phi của vua Thiệu Trị...) thì phía Nam Gò Công là nơi tiếp giáp với Mỹ Tho, Bến Tre có Vàm Rồng ở làng Vĩnh Hựu, rạch Long Uông ở xã Tăng Hoà, rạch Long Trọng trên có cầu Ngang. Rạch này làm ranh giới giữa hai làng Thạnh Nhựt (Gò Công) và Hoà Bình (Chợ Gạo). Hồi trước có nạn xét giấy thuế thân, ông bà kề lại, hễ khi hương chức làng xét, dân nghèo trốn qua làng Hoà Bình, còn phía Mỹ Tho xét thì đàn ông trốn qua làng Thạnh Nhựt như trò chơi cút bắt. Chỗ rạch Long Tượng, nối từ Thạnh Nhựt ăn ra Tiền Giang, được gọi là “đầu Rồng”, theo kiểu “long đầu hí thuỷ.” Còn đuôi rồng nằm về phía Bắc. Vùng phía Bắc tỉnh lỵ Gò Công, có địa danh “vườn Phụng” do ông Thôn Cửu lập ra giữa thế kỷ 19, với Gò Lân ở làng Sơn Quy. Thế đất đó gồm đủ “Long Lân Quy Phụng” tức “tứ linh,” nên làng nào nằm trong cuộc đất “tứ linh”, sẽ vượng phát phú quý. Các làng Sơn Quy, Tân Niên Đông, Tân Niên Tây, Bình Thành... chính là nơi phát tích các thế gia vọng tộc của Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ này. Đây là quê hương của các ông Phủ hàm Khiêm (Huỳnh Đình Khiêm), Phủ Bảy Lê Quang Liêm, Phủ Hải cùng nhiều nhà giàu lớn khác. Hôi mấy mươi năm trước, ở vùng Gò Công có lưu truyền mấy câu hát: Bóng lân đã hiện Gò Đông, Rùa về quy tụ bên sông Tây Đài. Phụng trương cánh Bắc lố mày, Rồng thiêng uốn khúc Nam Nhai ẩn mình. Dưới con mắt của các nhà địa lý phong thuỷ, chính đây là thế đất có các huyệt Châu Trước, Thanh Long, Bạch Hổ... ai có hài cất tổ phụ được an táng vào những nơi đó, con cháu sẽ trở nên giàu sang phú quý. Thế đất “Gò Sơn Quy” nằm ven một con sông nhỏ, nối rạch Hàng chảy qua chợ Gò Công, là nơi có nước ngọt, phù sa tân bồi, là noi lập vườn, làm ruộng đều tươi tốt. Đất linh sinh người tài tuấn. Phụ nữ ở đây nhiều người xuất sắc, quê của thân phụ Nam Phương Hoàng hậu, hay những người dân giã như cô Nguyễn Thị Kiêm (Manh Manh nữ sĩ), bà Nguyễn Đức Nhuận (nhũ danh Cao Thị Khanh), chủ nhiệm tuần báo Phụ Nữ Tân Văn nổi tiếng ở Nam Kỳ (1928-1933), bà Phan Thị Bạch Vân, sáng lập “Nữ Lưu Thơ Quán” xuất bản nhiều sách kêu gọi lòng yêu nước, đến nỗi thực dân lo sợ, phải cấm và bắt bà đưa ra toà... Một thiếu nữ khác, học giỏi, yêu nước, thuộc hạng thượng lưu xã hội là bà bác sĩ Nguyễn Thị Sương. Bà Sương sinh năm 1910, được gia đình cho qua Pháp du học rất sớm lúc mới 17 tuổi. Tại đây, bà Sương học các trường Lyceé de Varsailles (Nice), rồi qua Aix En Provence, tốt nghiệp Tú tài Triết học. Sau đó bà lên đại học ban Lý Hoá và đỗ vào trường thuốc. Năm 1940, bà Nguyễn Thị Sương là người phụ nữ lục tỉnh đầu tiên đậu Y khoa bác sĩ. Bà là lãnh tụ Thanh nữ Tiền phong hoạt động mạnh ở Sài gòn năm 1945, nhưng sau bị Việt Minh giết vì uy tín của bà đối với quần chúng quá lớn. Chồng bà, bác sĩ Hồ Vĩnh Ký thuộc nhóm Trotskyist, cũng chịu chung số phận với bà. Thuộc hàng thế gia vọng lộc bậc nhứt tại Gò Công là gia đình họ Phạm Đăng. Xuất phát từ Quảng Ngãi, dòng họ Phạm Đăng theo đoàn người di dân trong đợt Lễ Thành Hâu Nguyễn Hữu Cảnh chiêu mộ, đã đến Gò Công, cất nhà ở tại giồng Sơn Quy. Phải đợi hai thế hệ sau họ Phạm Đăng có người ra làm quan cho tân triều tới chức Thượng Thư, một trong tứ trụ của triều đình. Phạm Đăng Hưng có con gái là Phạm Thị Hàng, gả cho vua Thiệu Trị tức Từ Dụ, mẹ ruột vua Tự Đức. Gò Sơn Quy cũng là quê hương của cô Đinh Thị Hạnh, thứ phi của Thiệu Trị. Đinh Thị Hạnh sinh con trai trước bà Từ Dụ, đặt tên Hồng Bảo, tước An Phong Công, nhưng không được nối ngôi, mặc dầu là con trưởng. Việc này đã lạo ra cuộc đảo chính vua Tự Đức bất thành. Hồng Bảo bị bức tử trong ngục. Các con của Hồng Bảo phải đổi theo họ Đinh của mẹ (Đinh Đạo). Ông Nguyễn Hữu Hào và vợ là bà Lê Thị Bính (con gái ông Huyện sĩ Lê Phát Đạt) đã sinh ra Nguyễn Thị Hữu Lan tức Nam Phương Hoàng hậu sau này. Nhà giàu xưa thuộc hàng dân giả có nhiều người có tiếng tăm như ông Phủ Huỳnh Đình Khiêm ở làng Đồng Sơn, ông Hội đồng Nguyễn Văn Hạc, ông Phủ Hải... Theo nhà văn Hồ Trường An cho biết: “Người giàu nhứt tỉnh Gò Công là “Bà Tư Nói”, tên trong khai sinh là Lâm Tố Liên. thuở hàn vi, cô Tố Liên bán trầu cau tại chợ Gò Công hồi Tây mới qua. Cô Thiên không chồng con. Cô góp nhóp tiền mua một mẫu ruộng. Sau đó, lần hồi cô mua may bán đắt, lại có huê lợi của mẫu ruộng, nên cô sắm thêm ruộng. Công cuộc làm ăn càng lúc càng thạnh vượng, cô bỏ nghề bán trầu cau, mở tiệm bán tơ lụa nho nhỏ. Vào tuổi ngũ tuần, Lâm Tố Liên có lợi tức 400 mẫu ruộng tốt, giàu bực nhì ở Gò Công, ăn đứt ông Phủ Huỳnh Đình Khiêm (Phủ hàm) ở Đồng Sơn, ông Cai tổng kiêm Hội đồng Nguyễn Văn Hạc, ông Huyện Quái, ông Phủ Hải, ông Hội đồng Đinh Nhựt Chu... Khi lớn tuổi, cô Lâm Tố Liên được dân Gò Công kêu bang “Bà Tư Nói”. Tiệm của bà bán đủ thứ lãnh: lãnh Bưởi ngoài Bắc, lãnh Nam Vang, lãnh Tân Châu, lãnh Thượng Hải (lãnh trơn, lãnh bông). Ngoài ra, bà còn bán những hàng lụa sản xuất trong nước như lụa Hà Đông ở ngoài Bắc, lụa Duy Xuyên ở Quảng Nam, the La Cai, the và xuyến đất Diên Khánh, hàng Cẩm ở Châu Đốc, lụa Tân Châu, cùng các loại cẩm nhung, cẩm vân, cẩm tự, cẩm trước, cẩm cuốn, cẩm quệt, cẩm kim... (cẩm là loại hàng lụa, còn gọi là “gấm”). Cẩm nhung có nhiều loại màu, đem ra ánh sáng mặt trời thì thấy có vạch sáng rờn rợn. Cẩm vân, màu trắng, màu vàng, là hàng dệt nền khô bông mướt hình cụm mây. Cẩm tự màu đen nền ướt bông khô, dệt hình chữ thọ, Cẩm trước màu đen hay trắng, nền ướt bông khô, dệt hình lá trúc. Cẩm cuốn dệt bông hình quyển sách cuốn tròn, có buộc nơ. Cẩm quyệt dệt bông hình trái quýt có đeo hai chiếc lá. Cẩm kim dệt hình mũi kim nhỏ, thuộc loại nền khô bông ướt. Lại còn cẩm sen loại nền khô bông ướt, dệt hình bông sen. Nếu kêu cho đúng nghĩa phải gọi cẩm quýt là “cẩm quất”, cẩm kim là “cẩm châm”,”cẩm sen” là “cẩm liên”, cẩm cuốn là “cẩm thư” để tránh tiếng Hán ghép vào tiếng Nôm. Hàng cẩm tự chỉ để dành may quần. Còn các loại hàng cẩm vân, cẩm cúc, cẩm kim, cẩm sen... để dành may áo. Ngoài ra còn dùng để may áo lẫn quần là cẩm nhung, cẩm cuốn, cẩm trước, cẩm quýt. Cẩm vân còn có thứ màu tím. Cẩm nhung ngoài màu trắng màu đen, còn có màu tím, màu hường, màu mắm ruốc, màu khói nhang. Về sau, có thứ cẩm phụng mình khô dệt chim phụng đang bay, thường có màu đen hay màu trắng. Người hay chữ thời trước gọi cẩm là “gấm”. Ở Tây Ninh, chỗ gần ngã rẽ vào chợ Long Hoa, có một địa danh gọi là Cẩm Giang (Sông Gấm). Cắt nghĩa hiện tượng này có người lớn tuổi hiểu biết chuyện xưa nói rằng: “Cách nay non một thế kỷ, chỗ này là con rạch đầy rau mát (còn gọi là lục bình, hay bèo Nhựt Bản?) trổ bông màu tím như gấm nên mới đặt tên là Cẩm Giang. Tại tỉnh Tứ xuyên (chỗ hợp lưu 4 con sông, gần ngay tỉnh lỵ) bên Trung Quốc, cũng là quê hương của các loại cẩm lụa. Tương truyền lụa sản xuất tại Tứ Xuyên, đem giặt dưới sông này thì trở nên trong sáng, đẹp hơn, nên họ đặt. tên sông ấy là “Cẩm Giang”. Về sau, bà Tư Nói nhờ một ông thầu khoán ở chợ Gò Công gọi là ông Tư Bảy, cất cho bà một cái nhà ba căn hai chái, nền cẩn đá da quy (giống như vảy rùa), nền cao tới ngực, mái lợp ngói lưu ly. Để có thứ ngói này, ông thầu khoán Tư Bảy phải đặt mua Lái Thiêu. Ngói lưu ly là ngói móc (có người gọi là ngói vảy cá, vì có cái móc để cày vào sườn nhà khi lợp giống như lớp vảy cá, hoặc vảy rồng được tráng men bóng lộn. Ông Tư Bảy mua ngói lưu ly tráng men vàng và ngói lưu ly tráng men lục để lợp nhà bà Tư Nói. Ngói vàng, dưới ánh mặt trời, thì có màu men chậu xứ Giang Tây. Vào mùa gặt lúa vào giữa tháng Chạp tới giữa tháng Giêng, mỗi ngày hàng chục chiếc xe bò chớ lúa tới lẫm (vựa lúa) của bà Tư Nói để đong lúa cho bà. Tuy có nhà đẹp, nhưng bà Tư Nói thích ở căn tiệm bán lãnh lụp xụp của mình, còn ngôi nhà nguy nga tráng lệ của bà, dành cho gia đình bà Bảy em (em gái ruột của bà. Khi bà qua đời, bà Bảy em (chớ không phải Em) làm cái nhà mồ cho bà. Ngôi nhà mồ nguy nga đồ sộ không thua phủ thờ (nơi thờ bà Từ Dụ Thái hậu, cách chợ Gò Công 4 cây số). Khi bà Từ Dụ mất, được an táng tại Vạn Niên Cơ (Khiêm Lăng) ở ngoài Huế, nhưng con cháu của Phạm Đăng Hưng ở Gò Công thuộc hàng quốc thích, xúm lại lập đền thờ bà, gọi là “Phủ thờ.” Hồi trào Tây lẫn trào Bảo Đại, các con cháu của dòng họ Phạm Đăng khỏi đóng thuế thân lẫn thuế điền cho nhà nước. Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 14/Mar/2009 lúc 3:17am |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Người giàu thứ hai là ông Tri phủ Huỳnh Đình Khiêm ở làng Đồng Sơn. Đất
Đồng Sơn thuộc vùng có mùa nước mặn lẫn mùa nước ngọt, nên có thể lập
vườn. Lập vườn có huê lợi bán quanh năm, còn làm ruộng chỉ được một mùa
lúa. Dân Gò Công ở vùng Tân Niên Đông, Tân Niên Tây, Kiểng Phước vì gần
biển, nên có nước ngọt khi có mưa già, nên khó lập vườn. Họ chỉ làm
ruộng được vào đầu mùa mưa. Ông Phủ Khiêm nhờ có ruộng lẫn vườn nên mau
giàu. Ông là ông ngoại của luật sư Nguyễn Hữu Châu, nguyên Bộ trưởng
dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông Châu là rể của luật sư Trần Văn
Chương, chồng trước của bà Trần Lệ Chi, là anh em cột chèo với ông Ngô
Đình Nhu.
Người thuộc hàng dân giã, giàu thứ nhì ở Gò Công là ông Hội đồng Nguyễn Văn Hạc (tên một loài chim). Ông có một người con gái đầu lòng, tên là cô Hai Én. Mấy người em trai của cô Hai Én, đều có tên thuộc loài chim ở miền đồng bang sông Cửu Long. Đó là cậu Ba Nhạn, cậu Tư Quắc, cậu Năm Sắt, cậu Sáu Sẻ, Bảy Trích và Tám Diệc. Cô Hai Én kết hôn với quan thầy thuốc, tức bác sĩ Nguyễn Như Ánh. Cô có mở một tiệm may thiệt lớn ngoài chợ Gò Công. Cậu Ba Nhạn mua chức hương hào, một chức nhỏ trong ban hương chức hội tề. Hồi tiền chiến, các dân cậu ở miệt vườn, tuy có tiền của, nhưng chẳng có chức phận chi, thường bỏ tiền ra mua chức hương hào hay hương thân. Nhờ hai chức đó mà mai sau, họ có thể leo tới chức hương trưởng, hương sư, hương cả. Vào năm 1945, gặp lúc phong trào Việt Minh nổi dậy, thầy hương hào bị ghép tội Việt gian, tội địa chủ bóc lột tá điền, nên Việt Minh xử bắn thầy. Năm Sắt ôm mối thù không đội trời chung với Việt Minh, nên tình nguyện điềm chỉ cho Tây những ổ kín của Việt Minh (khi Tây làm chủ được lục tỉnh), những cơ quan bí mật của Việt Minh trong lãnh thổ Gò Công để báo thù cho anh mình... Về sau, Năm Sắt lên Sài gòn, làm phóng viên nhiếp ảnh cho nhựt báo Thần Chung. Ông ta giỏi phong cầm, được quái kiệt Trần Văn Trạch mời trình diễn phong cầm (accordéon) trong các buổi phụ diễn tân nhạc cho hai rạp hát bóng Văn Cầm (Chợ Quán) và rạp Nam Việt (Chợ Cũ). Ông Đốc phủ Hải, ngoài ruộng đất ra, còn là người lập hãng nước đá đầu tiên ở Gò Công. Người con trai của ông là cậu Bé Sáu, được du học bên Tây, ăn học thành tài. Ông Huyện Quái có người con trai là ông huyện Hải. Về sau, ông Huyện Quái có nạp một người vợ goá của một anh tá điền để làm thiếp. Chị này đẻ một đứa con trai, đặt tên là Ba Huệ. Cậu Huệ được cha mẹ cưng, được anh trưởng chiều chuộng. Cậu đi học, có tài xế lái xe nhà đưa rước. Người thiếp của ông Huyện Quái có nhan sắc, được chồng sủng ái. Trong đám tôi tớ có đứa ghen tức, đặt điều là ông Huyện Hải thông dâm với dì ghẻ, cho nên Ba Huệ là con của ông Huyện Hải với người thiếp. Nói như vậy tức là bề ngoài Huyện Hải là anh Ba Huệ, nhưng thiệt ra là cha của Ba Huệ. Hư thực ra sao chỉ những kẻ trong cuộc mới biết. Ông Hội đồng Đinh Nhựt Chu có người con trai là hương quản Dương (Đinh Nhựt Dương) ở Tân Niên Tây. Ruộng đất của ông đều ở vùng nước mặn (ruộng biển). Nhưng lúa ở các ruộng biền (biển ở đây có nghĩa là bưng biền) như lúa tiêu, lúa nàng cơ, lúa nàng qướt... đều cao hơn lúa ở vùng khác, hột lại nặng hơn hột lúa thường. Thầy hương quản Dương giữ chức thấp trong 12 vị hương chức của ban hương chức hội tề, nhưng tía thày giữ chức hội đồng địa hạt, thầy quen biết các quan tai to mặt bự ở ngoài tỉnh. Vào thời thái bình thịnh trị, tuy giữ an ninh cho làng Tân Niên Tây, nhưng thầy vẫn ngồi xe máy đi đá gà, đi hột me. Thầy là người đầu tiên mua máy đèn, mua giàn hát máy Columbia, mua điã hát nhạc Tây... Sau đó, thầy cũng là người đầu tiên mua xe hơi, chiếc Renault Celt 4. Bởi thầy giàu, giao thiệp rộng, quen biết nhiều nên các ông hương chức hội tề từ hương cả xuống xã trưởng, không dám khinh lờn thầy. Còn các ông Phủ, ông Huyện, thầy Cai tổng, thầy Bang biện, không dám cậy oai hùng hiếp thầy. Thầy Thôn Thọ, trước làm thầy giáo. Vì thầy là nhà giàu, nên nghề gõ đầu trẻ chỉ là nghề để thầy giải muộn, chớ không phải việc mưu sanh chánh của thầy. Được ít năm, thầy nghỉ việc chỉ giữ việc công nho cho làng. Đó là chức “thôn”, công nho là tiếng xưa, có nghĩa là công quỹ hay ngân quỹ. Thầy Thôn Thọ có tiệm sửa xe đạp, bán đồ phụ tùng xe đạp. Ngoài ra, thầy còn bán đèn Ti to Landy của Tây đốt bằng xăng, sau đó bán đèn Ai da bằng dầu lửa, và đèn Pétromax của Đức hai loại này thuộc loại man chon. Về sau, thầy dẹp tiệm sửa xe, lập một cái đề bô (dépot) rượu, xéo xéo chợ Gò Công. Nhà giàu chót là ông Hội đồng Lợi nhờ làm ruộng và lập vườn mà giàu có, chớ không có nguồn lợi nào khác. Ngoài ra còn thầy Ba Vị, có nhà máy chà gạo ở Vĩnh Trị, cách chợ Gò Công 7 cây số, cách giồng ông Huê 3 cây số cũng là một nghiệp chủ đáng kể. Năm 1945, khi Việt Minh cướp chính quyền, thì ông Huyện Hải (con ông Huyện Quái), hương hào Nhạn, thầy Thôn Thọ, ông Hội đồng Lợi, thầy Ba Vị cùng hai đứa con trai mới 15, 16 tuổi của thầy đều bị xử bắn. Lúc đó trong đám Việt Minh ở chợ Gò Công, có chủ tịch Côn, là thợ hớt tóc ở tiệm Minh Hồng, làm chủ tịch Uỷ ban Nhân dân, giữ chức trưởng ban Quốc gia tự vệ cuộc (Công an). Thầy giáo Philippe (thủ lãnh Thanh niên Tiền phong), Trần Thanh Liêm bí thơ uỷ ban Nhân dân và tên chủ tiệm tạp hoá Vạn Lợi (không giữ chức vụ gì). Khi Tây tới chiếm tỉnh Gò Công, có khuyên dân chúng ai lỡ theo Việt Minh trong thời kỳ Việt Minh cướp chính quyền, hãy ra đầu thú, sẽ được ân xá để làm ăn như xưa. Chỉ trừ chủ tịch Côn, tên thợ hớt tóc tiệm Minh Hồng, thầy giáo Philippe, tên Trần Thanh Liêm, tên chủ tiệm Vạn Lợi, là 4 tên tội phạm đầu sỏ, cần phải bắt giết để trừ hậu hoạn. Về sau thầy giáo Philippe, ban đêm băng qua con lộ Giây thép, bị lính partisan đi tuần tiểu bắn chết. Tên thợ hớt tóc tiệm Minh Hồng, ban đêm lẻn về thăm vợ ở làng Vĩnh Trị cũng bị lính ở đồn Vĩnh Trị phục kích bắn chết tại trận. Họ cột thây hắn treo lên cây ở lộ Giây Thép để cho thân nhân của những kẻ chết đến nhòm mặt. Còn chủ tịch Côn thoát chết trong một trận ruồng bố, cảm thấy ăn năn tội cũ, nên cùng tên chủ tiệm Vạn Lợi trốn lén núi Thiên Giải ở Bà Rịa để tu hành. Từ năm 1946 trở về sau, cả hai không bao giờ chường mặt ở lãnh thổ đất Gò Công nữa. Trải qua bao cuộc biển dâu, không ai còn nhắc tới họ nữa”. Ngoài ra, trong tỉnh Gò Công cũng còn nhiều nhà giàu xưa, kẻ ở phía Bắc tỉnh lỵ, người ở phía Nam như ông Phủ Bảy Lê Quang Liêm, ông huyện Hiền, ông Hội đồng Nguyễn Minh Chiếu (có tên đường ở Phú Nhuận). Nhà giàu lớp trước nữa, thuộc thế kỷ 19, được người đời nhắc tới là ông Mai Tấn Huệ, một cự phú đã khai thác nhiều sở ruộng, lập vườn, xây đập để ngăn nước mặn tràn vào ruộng. Nghe đâu hồi trước ông làm quan võ dưới triều Nguyễn tới chức Chưởng cơ, nên dân chúng nhớ ơn gọi chỗ đó là “đập ông Chưởng”, nay vẫn còn. Gò Công còn là quê hương của một chàng công tử ăn chơi khét tiếng được dân chúng tôn là “dân cậu” hay “công tử” tiền phong của Nam Kỳ. Cuộc đời của công tử Hai Miếng, con lãnh binh Huỳnh Công Tấn, chúng tôi có viết lại trong bài Gò Công, nơi phát tích các dòng họ quý tộc. Làng Đồng Sơn, trù phú nhứt trong tỉnh, ruộng sâu, đất cát phì nhiêu, vườn tược nhiều cây trái tươi tốt. Đó là cuộc đất của nhiều bậc cự phú trong tỉnh. Đồng Sơn cũng là quê quán của người viết tiểu thuyết tiên phong ở Nam Kỳ là Lê Sum, tự Trường Mậu (Viết báo Nông Cổ Mạn Đàm). Chỗ này là trung lâm văn hoá của Gò Công hồi giữa thế kỷ 18. Từ miền ngoài, các vị khoa bảng lỡ vận, các ông đồ theo đoàn người di dân đến đây lập nghiệp. Lớp người có căn bản Nho học đầu tiên ấy, đã đào tạo các ông Nhiêu Phan, Nhiêu Chánh ở địa phương. Hứa Hoành (Những phú hộ lừng danh Nam Kỳ) Chỉnh sửa lại bởi Hoa Hạ - 14/Mar/2009 lúc 3:48am |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
Gò Công: Vùng đất 2 Hoàng Hậu
Miền Nam là nơi phát sinh 3 bà hoàng hậu triều Nguyễn: Bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng, được truy phong Thuận Đức Nhân Hoàng hậu, là người quê tại Thủ Đức. Bà Từ Dụ Phạm Thị Hoàng, vợ vua Thiệu Trị. Bà Nguyễn Thị Hữu Lan tức Nam Phương hoàng hậu (hương thơm từ phía Nam), vợ vua Bảo Đại. Đầu tiên là Đức Từ Dũ "Giồng Sơn Qui của Gò Công hình dáng con rùa được truyền tụng là huyệt linh thiêng. Sự thật như thế nào, không ai rõ ảnh hưởng của phong thủy, chỉ biết lúc sau này vì đất hẹp, dân đông nên về kinh tế người dân ở đây chẳng mấy ai khá giả. Giồng Sơn Qui là nơi phát tích của dòng họ Phạm Đăng Hưng, khi Nguyễn Ánh lên ngôi, lần hồi ông được thăng chức Lễ Bộ Thượng Thư, giỏi về chính trị và kinh tế. Khi mất, linh cữu đưa về Sơn Qui an táng. Con gái đầu lòng của ông là Phạm Thị Hằng, sinh ở Sơn Qui, được tuyển vào cung, là vợ của vua Thiệu Trị, bà sống đến 93 tuổi, chôn cất tại Huế. Ở Sài Gòn, có nhà hộ sinh đặt tên Từ Dũ, là tước vị của bà, khi là hoàng hậu. Bà được ngợi khen vì lòng hiếu thảo, lại biết dạy dỗ con là vua Tự Đức. Vua Tự Đức thích săn bắn, thường bị bà quở trách vì mỗi lần đi là quan lại và binh sĩ mất thời giờ theo phò trợ. Bà khuyên nhà vua bớt chuyện sát sinh. Con thú săn được nếu bị thương, chưa chết thì bà chăm sóc rồi “phóng sinh”. Trong cung, hôm ấy có ổ kiến bò lúc nhúc, bà nói với lũ kiến: “Mau tìm nơi khác mà ẩn thân, bằng không bọn nữ tỳ dội nước sôi giết sạch”. Lũ kiến như “biết nghe”, lập tức dời đi nơi khác. Bà đọc kinh sử, xem tích xưa dạy vua Tự Đức. Hôm ấy, vì ham mê săn bắn ở khu rừng gần Huế, gặp cơn mưa, vua và các quan trở về ướt át. Bà dạy đem đến cây roi mây; nhà vua như biết mẹ đang giận bèn nằm xuống chịu tội. Nhưng bà hất cây roi, nói với Tự Đức: - Lần này, ta tha tội cho. Chuyện vui chơi mà làm phiền nhiều người, nãy giờ mẹ cứ nóng lòng chờ đợi. Rủi nhuốm bệnh thì sao? Đừng ham vui như vậy nữa. Đặt tên bà cho nhà Hộ Sinh, ngụ ý nhắc đến phận sự của người mẹ khéo dạy con." (Nguồn: Nhà văn Sơn Nam) "Đêm nay, Từ Dũ Thái Hậu thấp thỏm lo âu, cũng chỉ vì bên ngoài trời tối mịt, có lẽ đã canh hai, mưa vẫn rả rích rơi đều… Suốt từ trưa đến giờ, tin tức về thuyền ngự vẫn bặt tin. Ngày mai, sáng sớm là làm lễ kỵ ở đền Phụng Thiên rồi, mà nhà vua vẫn chưa về. Vua đã trình trước với Thái Hậu là hôm nay tuần hành ở cửa biển Thuận An. Lúc đi, trời quang mây tạnh, không ngờ xế chiều trời nổi cơn giông, thuyền ngự chắc bị ngược gió nên không tiến được. Cũng đúng vào lúc Thái Hậu đang hồi hộp mong ngóng như vậy, thì ở ngoài cửa Thuận, trên chiếc thuyền ngự, Vua Tự Đức cũng đang đứng tì mình trong khoang thuyền, dán mắt nhìn ra ngoài trời mưa gió, những ngón tay dài run run, gõ dồn từng nhịp trên khung cửa mạn thuyền. Mỗi đợt sóng bập bềnh đập vào mạn thuyền, làm cho thuyền chòng chành, lại khiến ngài lo sợ. Cửa sổ khoang trong hé mở, viên quan chỉ huy thuyền ngự khẽ nói với viên hiệu úy đứng canh: - Xin tâu lại với Ngài Ngự, chỉ độ ba khắc nữa là thuyền cập bến, bão đã yên, nhưng sức nước vẫn còn chảy xiết, đã tăng thêm nhiều tay chèo, nên không còn lo gì nữa. Quả nhiên không mấy chốc, thuyền ngự đã cập bến. Nhà vua cùng tả hữu thở phào trút nỗi lo âu, vội kéo nhau đổ bộ về cung. Kiệu rồng đang chờ sẵn, nhà vua ra lệnh cho phu kiệu gia tăng tốc lực. Ngài đang sợ. Sợ vì nỗi lo âu của Thái Hậu trong hành cung. Kiệu rồng nhanh chóng dừng lại trước cửa; Mặc cho cơn mưa chưa ngớt, Tự Đức hấp tấp đội mưa, lao vội vào cung của Thái Hậu. Bà Từ Dũ vẫn nằm im trên sập, thoáng thấy bóng nhà vua, liền bỏ sách và kính xuống, xoay mình quay mặt vào trong tường. Tự Đức rón rén lại gần,quỳ xuống: - Kính tâu Thái Hậu, con đã về. Bà vẫn nằm im không đáp. Cả gian phòng hoàng cung im ắng, ánh bạch lạp tỏa sáng lạnh lùng. Tự Đức càng thêm kinh sợ. Nhà vua đưa mắt ra lệnh cho cung nữ hầu Thái Hậu. Hình như đã quen với nề nếp quy định, thỉnh thoảng vẫn diễn ra trong chốn thâm cung này, người cung nữ vội vàng bưng mâm son nhỏ, trên là cây roi mây ngắn, dâng lên vua Tự Đức. Nhà vua đỡ lấy mâm, cung kính đặt lên sập, ngay sau lưng Thái Hậu, Đoạn lùi lại nằm xấp xuống sàn nhà, úp mặt chờ đợi. Thái Hậu vẫn nằm quay lưng ra, không cử động. Mọi người im lặng gần như nín thở. Vài ba phút qua đi, Từ Dũ Thái hậu mới trở mình, ngồi dậy, thong thả phán: - Thôi! Con đứng dậy đi. Con đã làm ta bồn chồn suốt một buổi trời. Bao nhiêu quân quan vì con mà chịu giông tố khó nhọc. Liệu mà ân thưởng cho người ta. Rồi sắp đặt để mai hầu kỵ. Tự Đức lồm cồm ngồi dậy, lạy tạ mẹ rồi lui vể cung điện riêng của mình. Ngay đêm ấy, bữa ngự thiện không kéo dài. Ông ăn qua loa vài miếng rồi vội đến án thư, dùng bút son phê lên một tờ chỉ dụ, giao cho các quan lập tức trong ngày mai, ban thưởng cho quân sĩ và tùy tùng hộ tống thuyền vua trong chiều mưa hôm trước. Câu chuyện trên đây xảy ra đã đến gần 150 năm, nhưng ngày nay nhiều người trong hoàng tộc nhà Nguyễn ở Huế vẫn còn nhớ rõ. Sách báo chép lại khá nhiều (Các sách liệt truyện viết bằng chữ Hán, sách báo quốc ngữ thì có bài của ông Thân Trọng Huề, Trần trọng Kim, Trần Thanh Mại, Tạ Quang Phát v.v…) và đều ca ngợi Thái Hậu Từ Dũ, một bà mẹ xứng đáng ở nước ta vào cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX. Từ Dũ là tên hiệu tôn phong. Thật ra, tên bà là Phạm Thị Hằng, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1810, con gái ông Phạm Đăng Hưng ở Gò Công, huyện Tân Hòa, Gia Định. Cô gái vùng quê miền Nam đã được tuyển vào cung làm vợ Vua Thiệu Trị và sinh hạ hoàng nam là Nguyễn Hồng Nhậm. Vào cung từ khi còn ít tuổi, theo quy định của triều Nguyễn, không lấy Trạng Nguyên, không lập Tể Tướng, không tấn phong Hoàng Hậu, nên khi Vua Thiệu Trị băng hà, bà vẫn chỉ là Quý Phi. Nguyễn Hồng Nhậm lên ngôi lấy hiệu là Tự Đức, nhiều lần cùng quần thần, muốn tấn tôn cho bà là Hoàng Thái Hậu, song bà viện mọi cớ từ chối, bà nói với con: - Tăng thêm hư danh cho đẹp đẽ trong hoàn cảnh nhân dân mất mùa yếu kém, thì cũng làm tăng cái thất đức của ta mà thôi… Ta chỉ mong các công khanh và bề tôi hãy hết sức giúp vua ở chức vụ mình, làm cho ta ngày ngày thấy được sự thái bình của đất nước thì không còn cái vui nào hơn thế. Cho đến năm 1870, bà tròn sáu mươi tuổi mới được tổ chức lễ tấn phong Hoàng Thái Hậu. Từ Dũ còn buộc phải tiến hành thật đơn giản, ít tốn kém… Tiếng tốt của bà vì thế mà được lưu truyền. Nhắc tới Từ Dũ thái hậu, ai cũng phải thừa nhận rằng bà là một con người khiêm cung, kiệm ước. Uy tín của bà ngày càng lớn, bà càng nghiêm khắc với người trong họ mình. Thói thường một người làm quan cả họ được nhờ, huống chi bà là Hoàng Thái Hậu; Trong họ Phạm, có thân tộc bà, từ Gò Công ra Huế, cầu xin vua Tự Đức ban cho chức tước. Bà ân cần bảo nhà vua: - Người trong họ mẹ, không có công lao gì thì không được ban cho tước lộc. Hễ có ai làm điều gì trái phép nước thì cứ nghiêm trị như thường để làm gương công minh cho dân trong nước biết. Thái hậu Từ Dũ vốn là người thích sử sách. Bà khuyến khích Vua Tự Đức phải đọc sách nhiều ,và cùng con suy nghĩ, bàn luận không những kinh thư, Hán sử, để rút ra bài học trị nước, mà còn luôn luôn quan tâm đến hiện tình đất nước. Bà thường nhắc nhở con: - Nhân bất học bất tri đạo (Người không học thì không biết đạo lý); Làm vua thì phải cảnh giác với những tham quan ô lại; Từ xưa đến nay, quan lại, một chữ tham là chưa trừ được. Mọt nước hại dân chẳng qua là như vậy… Quan bổ ra tỉnh ngoài, khi về thì vị nào cũng giàu có. Của cải ấy không lấy của dân thì lấy ở đâu? Bà rất hài lòng khi trong triều có những vị quan mẫu mực, văn võ kiêm toàn như Nguyễn Tri Phương, công bình như Vũ trọng Bình. Đức Từ Dũ, không chỉ có những lời dặn dò chỉ bảo nhà vua trong những buổi tâm sự riêng tư hay bàn bạc về sách vở. Nhiều lần, bà đã trực tiếp uốn nắn những việc làm sai trái của nhà vua. Như việc ông Phạm Phú Thứ, dám dâng sớ chỉ trích nhà vua, lơi là việc quốc sự, lúc vua Tự Đức mới lên ngôi, còn trẻ chưa chú tâm vào việc triều chính lắm; nhà vua bực bội cách chức Phạm Phú Thứ, đuổi về làm lính ở bên bờ sông Lợi Nông. Câu chuyện đến tai Thái Hậu. Bà chờ dịp thuận tiện trò chuyện với nhà vua, Bà lựa lời hỏi Tự Đức: - Ông Phạm dâng sớ khuyên con, ông ta được cái gì? Vua Tự Đức trả lời: - Dạ, ông không được cái gì cả. Nhưng con thấy làm bề tôi mà trách vua như vậy là quá đáng. - Thế khi về làm lính, ông ta có oán hận gì không? - Con không nghe chuyện ấy. Bà Từ Dũ gật đầu tỏ vẻ hài lòng: Thế thì người này đáng trọng lắm. Dâng sớ trách vua là vì thương vua, yêu dân, giúp vua lại bị nạn mà không hề hờn giận. Theo mẹ đấy chính là người chính trực và trung thành. Con nên nghĩ lại nghe con. Được mẹ khuyên nhủ rõ ràng và thỏa đáng, Tự Đức liền ân xá cho Phạm Phú Thứ, mời ông về kinh, giao chức vụ mới. Quả thực sau này Phạm Phú Thứ đã giúp nhà vua rất nhiều, đề xuất những ý kiến mới xây dựng đất nước. * * * Đức Từ Dũ đã sống trong thời kỳ nước nhà gặp nhiều biến cố. Quân Pháp xâm lược nước ta, lấn chiếm hết nơi này đến nơi khác. Bà rất đau lòng trước những thất bại đắng cay. Khi tin miền Nam bị mất, bà đã khóc lóc thảm thương và nhịn ăn ba ngày; Rồi đêm 23 tháng 5 kinh thành Huế thất thủ, bà cũng theo Vua Hàm Nghi trốn ra ngoài để đi Quảng Trị. Do tuổi già sức yếu không thể chịu đựng gió sương, và không muốn cản trở bước đường của đội quân xuất bôn, bà cùng với tam cung lại trở về Huế, sống một cuộc sống âm thầm, lặng lẽ cho đến khi bà qua đời, thọ 93 tuổi. Tại Sài Gòn, từ lâu đã có một bệnh viện mang tên bà được đặt tại 284 đường Cống Quỳnh, Quận Ba. Đó là Bệnh Viện Từ Dũ" (Nguồn tin : Lê thị thanh Hoa) |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Hoa Hạ
Senior Member ![]() ![]() Tham gia ngày: 19/Jan/2009 Đến từ: Vietnam Thành viên: OffLine Số bài: 968 |
![]() ![]() ![]() |
...và Nam Phương Hoàng Hậu
" Nam Phương Hoàng hậu là con gái thứ của ông bà Nguyễn Hữu Hào, người quê quán tại Gò Công. Ông Hào sinh trong một gia đình đại điền chủ, có đạo Công giáo, từng du học bên Pháp, đậu Tú tài toàn phần. Sinh thời, ruộng đất của gia đình ông Hào rải rác khắp các tỉnh Nam Kỳ. Tại quận Long Mỹ (1928) thuộc tỉnh Rạch Giá, sau sáp nhập vào tỉnh Cần Thơ, có 1000 mẫu ruộng thuộc gia đình Nguyễn Hữu Hào, vì thế ông chọn địa danh “Long Mỹ” làm tước phong cho mình: Long Mỹ Quận công. Bà Nguyễn Hữu Hào tên thật là Lê Thị Bính, con gái thứ của ông Huyện Sĩ Lê Phát Đạt và bà Huỳnh Thị Tài, chào đời tại Tân An, khi ông Huyện Sĩ làm thông ngôn tại đây. Bà Lê Thị Bính cũng là một đại điền chủ cùng với các anh như Lê Phát Thanh, Lê Phát Vĩnh, Lê Phát Tân... làm chủ nhiều đất đai thuộc quận Đức Hoà, Đức Huệ, và một phần lớn đất ruộng nay thuộc Đồng Tháp Mười. Ông Huyện Sĩ cũng là Hội đồng quản hạt Nam Kỳ từ năm 1880. Theo dư luận của người địa phương, ngôi nhà lầu đồ sộ của ông Huyện Sĩ tại Tân An (nằm gần ngã ba sông Tân An và Bảo Định) cất trên thế đất hàm rồng, do đó gia đình ông Huyện Sĩ giàu có lớn và danh vọng nhiều đời. Trưởng nam ông Huyện Sĩ là ông Lê Phái An, có tên Tây là Denis Lê Phát An, là một đại quý tộc đúng nghĩa. Lê Phát An được Hoàng đế Bảo Đại phong lược An Định Vương, tước hiệu cao quý nhứt của triều đình và chỉ phong cho một người duy nhứt ở Nam Kỳ thuộc hàng dân giã. Lê Phát An là cậu ruột của Nam Phương Hoàng hậu. Năm 1934, nhân dịp gả cháu gái của mình về làm Hoàng hậu ở Huế, Lê Phái An có tặng cho cô Nguyễn Thị Hữu Lan một số tiền là một triệu đồng (tiền mặt) để làm của hồi môn. Gia đình Nguyễn Thị Hữu Lan giàu hơn cả Bảo Đại. Trong đời làm vua của Hoàng đế Bảo Đại, ông xài tiền của vợ nhiều hơn tiền của hoàng gia. Cô Mariette Jeannelte Nguyễn Thị Hữu Lan sinh ngày 4-12-1914 tại Cầu Kho, Sài gòn. Lúc nhỏ, cô Lan được gia đình gởi theo học trường nhà dòng dành riêng cho các gia đình Công giáo quý phái tại Sài gòn. Năm 17 tuổi (1926), cô Lan qua Pháp du học tại trường Couvent des Oiseaux. Năm 1932, cô Lan tốt nghiệp Tú tài toàn phần và có ý định trở về Việt nam nghỉ hè, trước khi trở qua học tiếp đại học Luật khoa. Trong dịp này, cô Lan gặp gỡ vị Hoàng đế trẻ tuổi, đẹp trai Bảo Đại. Ngày 6-2-1934, năm Bảo Đại thứ 9, lễ cưới cô Nguyễn Thị Hữu Lan diễn ra tại điện Kiến Trung ở Huế, và lễ tấn phong Hoàng hậu diễn ra tại điện Dưỡng Tâm. “Nam Phương” mỹ danh hoàng hậu có nghĩa là “hương thơm từ phía Nam” do Phạm Quỳnh đặt ra. Bà Nam Phương là một phụ nữ xinh đẹp, có gương mặt phúc hậu, mắt phượng, nhỏ, nhưng thuộc hạng quý phái, tính tình bình dân. Trước khi nhận làm vợ của Hoàng đế Bảo Đại, bà có một yêu cầu “Khi về nhà chồng bà sẽ giúp chồng cai trị việc nước như một người cố vấn thân cận”. Lần lượt Nam Phương Hoàng hậu đã hạ sinh: - Ngày 10-12-1936 bà hạ sinh hoàng tử Bảo Long. Triều đình bắn mấy phát súng đại bác để chào mừng. - Ngày 1-5-1937, công chúa Phương Mai chào đời. - Ngày 3-11-1938, công chúa Phương Dung chào đời. - Ngày 5-2-1942, công chúa Phương Liên chào đời. Năm 1934, bà Nam Phương cùng 3 con (chưa sinh Phương Liên) tháp tùng Hoàng đế Bảo Đại qua thăm nước Pháp. Nhân dịp này bà có ghé La Mã và được Đức Giáo Hoàng tiếp kiến (Lúc đó là Giáo Hoàng Le Pape). Hàng năm, triều đình đều có cử hành lễ sinh nhựt của bà Nam Phương gọi là “Lễ Trường Hỷ”. Hơn một thập niên sau ngày cưới, gia đình Hoàng đế Bảo Đại sống rất hạnh phúc. Bà Lê Thị Bính là một người đàn bà đẹp phúc hậu, giàu có nhờ ruộng đất. thuở nhỏ cô Bính theo học trường đạo tại Sài gòn. Sau khi thành hôn với ông Nguyễn Hữu Hào, hai vợ chồng thường sống tại biệt điện ở đường Nguyễn Du, sau này là toà Đại sứ của Đại Hàn. Thỉnh thoảng hai ông bà lên nghỉ mái ở Đà Lạt vì ông Hào có nhiều đồn điền ở Cầu Đất. Hai ông bà Nguyễn Hữu Hào chỉ hạ sinh có hai người con gái: - Trưởng nữ là cô Agnès Nguyễn Hữu Hào, kết hôn với Bá lược Didelol, Khâm mạng hoàng triều công thổ. Hồi năm 1995, tôi được nghe bà còn sống ở bên Pháp, nhưng già, điếc nên ít ai được tiếp xúc với bà. - Thứ nữ là cô Mariette Jeannette Nguyễn Hữu Hào tức Nguyễn Thị Hữu Lan, tức Nam Phương Hoàng hậu. Ông Hào là trong những đại điền chủ học thức, biết cách kinh doanh đồn điền. Sinh thời ông Hào có đồn điền cao su ở Biên Hoà, Bà Rịa, Đà Lạt, nhiều ruộng đất ở Gò Công, Tân An và Rạch Giá. Năm 1935, Hoàng đế Bảo Đại phong cho ông Nguyễn Hữu Hào “Long bội tinh” hạng nhứt, kèm lược “Long mỹ hầu” trong một buổi lễ tổ chức ở Đà Lại. Đồng thời nhà vua cũng phong cho nhạc mẫu Lê Thị Bính lược “Nhị phẩm phu nhân”. Ngày 28-6-1937, Hoàng đế Bảo Đại tặng mề đay “Kim khánh” hạng nhứt cùng mề đay “Kim tiền hạng nhứt” là huy hiệu cao nhứt của triều đình cho cha vợ là ông Nguyễn Hữu Hào. Bà Lê Thị Bính được phong “Nhứt phẩm phu nhân”. Ngày 30-8-1937, Hoàng đế Bảo Đại sắc phong cho ông Nguyễn Hữu Hào lược “Long Mỹ Quận công”. Long Mỹ Quận công Nguyễn Hữu Hào từ trần ngày 13-9-1937, được an táng theo nghi thức tước Quận công trong một ngôi nhà mồ tráng lệ, trên một ngọn đồi gần thác Cam Ly Đà Lạt. Lăng Nguyễn Hữu Hào là do chính gia đình bà Nguyễn Hữu Hào bỏ tiền ra xây cất. Lễ quy lăng được cử hành ngày 10-9-1941. Ngày đó là một biến cố lớn tại Đà Lạt khi Hoàng gia, gia quyến ông Nguyễn Hữu Hào, các quan lại cao cấp Pháp Việt, đều có mặt đông đủ trong một buổi lễ trang nghiêm tại nhà thờ Thánh Nicolas. Nhân dịp này, Nguyễn Tiến Lãng, bí thư của bà Nam Phương Hoàng hậu có viết một bài bằng tiếng Pháp đăng trên báo l”Indochine” số 58 với tựa đề: “Le Premier Monument Historique Annamité à Dalat” (Một đài kỷ niệm lịch sử đầu tiên của người Việt tại Đà Lạt). Buổi lễ quy lăng được tổ chức dưới sự hiện diên của: - Hoàng đế Bảo Đại và Nam Phương Hoàng hậu. - Bà Bá tước Didelot, chị ruột Hoàng hậu cùng chồng là Bá tước Didelot, Khâm mạng Hoàng triều cương thổ. Ông bà Lê Phát An, tức An Định Vương, cậu ruột Hoàng hậu. - Toàn quyền Decoux và vợ là Suzane. - Giám mục C***aigne, Drapier. - Khâm sứ Trung Kỳ Grandjean. - Một số đông quan khách Pháp Việt... Bà Suzane là bạn thân của Hoàng hậu Nam Phương. Thỉnh thoảng từ Sài gòn, bà Suzane lên Đà Lạt và ở chơi với bà Nam Phương vài ba ngày. Bà Suzane là người Công giáo, ngoan đạo, đóng góp nhiều tiền bạc cho giáo đường Thánh Nicolas. Trong một chuyến lên Đà Lạt thăm bà Nam Phương, bà Suzane bị tai nạn (xe lật trên đèo Preun) và tử nạn. Thi hài bà được chôn phía sau nhà thờ kể trên. "Nguồn tin : Hứa Hoành (NXB VH) __________________ |
|
Trời mưa không lớn lắm Nhưng đủ ướt đôi đầu Cuộc tình không lớn lắm Nhưng chiếm hết đời nhau. Hoa Hạ |
|
![]() |
|
Trang of 2 phần sau >> |
![]() ![]() |
||
Chuyển nhanh đến |
Bạn không được quyền gởi bài mới Bạn không được quyền gởi bài trả lời Bạn không được quyền xoá bài gởi Bạn không được quyền sửa lại bài Bạn không được quyền tạo điểm đề tài Bạn không được quyền cho điểm đề tài |